Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem bát tự luận lục thân

Trong đoán mệnh, thầy đoán mệnh ngoài việc xem cho bản thân người ấy ra, thường còn phải can cứ bát tự của người ấy, để đoán mệnh cho lục thân của họ.
Xem bát tự luận lục thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Về biện pháp xem bát tự luận lục thân, trong sách đoán mệnh có cách riêng của nó, theo lệ thường, cách xem là:

Ông tổ: xem ông tổ ở vị trí cung (trụ) năm, thường lấy thiên ấn là tổ phụ, thương quan là tổ mẫu

Bố mẹ:xem bố mẹ ở vị trí cung tháng, thông thường lấy thiên tài là bố, chính ấn là mẹ cả, thiên ấn là mẹ thứ. Nhưng cũng có người không phân chính, thiên.

Anh em:vị trí của anh em phụ vào cung tháng, lấy tỷ kiên là anh em. Còn về chị em, có sách không đề cập đến, có sách cho rằng xem như anh em.

Thê thiếp: xem vợ con ở vị trí chi ngày, sách nói lấy chính, thiên tài làm vợ.

Con cái:xem con cái ở vị trí cung giờ, lại lấy thiên quan (thất sát) là nam, chính quan là nữ.

Tại sao lại lấy thiên tài và Ấn là bố mẹ, tỷ kiên và kiếp tài là anh em, chính tài thiên tài là thê thiếp, thiên quan chính quan là con cái?

Ở đây bắt đầu từ vợ chồng, ví như nói đông phương Giáp Ất Mộc, giả thiết Giáp là dương Mộc, là anh, Ất là âm Mộc là em gái, bây giò Giáp Mộc đem Ất Mộc phối với Canh Kim là vợ, vĩ rằng người xưa cho rằng đàn bà cần phải nhu thuận mà nghe lời chồng, sống theo chồng, cho nên Canh Kim khắc Ất Mộc thì tự nhiên thành chồng của đàn bà. Cũng lý lẽ như vậy, Canh là dương Kim là khắc, Tân là âm Kim là em, Canh đem em Tân Kim phối với Bính Hoả khắc em làm vợ, Bính là dương Hoả là anh, Đinh là âm Hoả là em, Bính đem em Đinh Hoả gả cho Nhâm Thuỷ khắc với em làm vợ, Nhâm là dương thuỷ là anh Quý là âm thuỷ là em. Nhâm đem em Quý thuỷ gả cho Mậu Thổ khắc em làm vợ, Mậu là dương Thổ là anh, Kỷ là âm Thổ là em, Mậu đem em Kỷ Thổ gả cho Giáp Mộc khắc em làm vợ. Như vậy một dương can lấy một âm can bị khắc là vợ. Trong thuật ngữ mệnh lý học, bị khắc gọi là chính tài và thiên tài, cho nên chính tài, thiên tài trong bát tự trở thành một nhân tố quan trọng để thầy đoán mệnh xem về vợ. Nhưng dương can lấy âm can làm vợ trên thực tế không tuyệt đối như vậy, nếu như thiên can trụ ngày trong bát tự của một người lại hợp với âm can, thế thì đương nhiên người ấy có thể lấy dương can hoặc âm can làm vợ như Ất Mộc lấy Mậu, Kỷ Thổ làm thê thiếp là phải.

Lại nói tại sao lấy thiên tài và Ấn làm bố mẹ? Ở trường hợp thông thường, Canh Kim là do Kỷ Thổ sinh ra, trong đó Kỷ Thổ thuộc âm tính, cho nên là mẹ, sách đoán mệnh lấy sinh ra ta là chính ấn, thiên ấn, cho nên ấn trở thành mẹ. Ở đây, Kỷ Thổ sinh Canh Kim trong thiên can hợp với Giáp, vấn đề này đã đề cập ở chương trước rồi. Dương Mộc Giáp khắc âm Thổ Kỷ, tự nhiên Giáp sẽ thành chồng của Kỷ, nhưng với Canh mà nói, kẽ khắc ta là chính tài, thiên tài, bây giò Canh Kim khắc Giáp Mộc, dương với dương cực khắc, há chẳng phải là thiên tài sao? ở trên chúng tôi đã nói, chính tài, thiên tài ta khắc đều là thê thiếp, bây giờ bỗng nhiên lại đem thiên tài gọi là bố, chẳng phải hoang đường sao? Vì vậy, trong sách đoán mệnh lại có cách nói kết hợp cung năm để xem bố mẹ là để giải thoát trường hợp rắc rối này.

Thế thì thiên quan khắc ta là con trai, chính quan là con gái là theo căn cứ nào? Vốn là sau khi Ất Canh kết làm vợ chồng, Ất Mộc sinh ra Hoả Bính, Đinh, Bính Hoả khắc Canh Kim, dương khắc dương, cho nên Bính Hoả trở thành con trai của Canh Kim, Đinh Hoả khắc Canh Kim, âm khắc dương, cho nên Đinh Hoả trở thành con gái của Canh Kim

Lại nói về anh em, vì anh em là đồng loại, cho nên tỷ kiên Canh Kim của Canh Kim sẽ trở thành anh em, lý do dùng tên thuật ngữ những dụng thần nói trên để xem lục thân, ở Tư Bình trân xuyến đã khái quát như sau:

Chính ấn là mẹ, thân ra từ đấy, lấy cái sinh ta vậy, nếu thiên tài bị ta khắc chế, sao lại là bố? Thiên tài là chồng của mẹ, chính ấn là mẹ thì thiên tài là bố.

Chính tài là vợ, bị ta khắc chế, theo lẽ cương thường, vợ phải theo chồng, nêu quan sát thì khắc chế ta, sao lại là con cái? Quan sát do tài sinh ra, tài là thê thiếp thì quan sát là con cái vậy. Còn như tỷ kiên là anh em lý đương nhiên là vậy.

Cách xem lục thân nói ở trên không được Nhậm Thiết Tiều đời Thanh hoàn toàn tán đồng, lý do ông nêu lên là: Phép xem của Tử Bình lấy tài làm vợ. Tài là ta khắc người ta lấy tài để đối đãi ta, lý này không thuộc chính luận, lại lấy tài làm bố, đó là sự dối trá của người đời sau, nếu coi đây là lập luận đúng thì ông với vợ đồng tông, há không mất luân thường đạo lý sao? Tuy nói phận thiên, chính vẫn là miễn cưỡng, thiên, chính của tài, chẳng qua là phân biệt âm dương mà không thay đổi khí của nó, không phạm thượng, cần phân biệt mà tránh, nếu tài là bố, quan là con thì nhân luân bị diệt, không đặc biệt coi ông và vợ đồng tông thì hiển nhiên tổ đi sinh cháu, còn đạo lý nào nữa.

Cách xem lục thân nên định là: kẻ sinh ta là bố mẹ, là thiên, phản ấn thụ vậy, kẻ ta sinh là con, là thực thần, thiên quan vậy; kẻ ta khắc là thê thiếp, là thiên, chính tài vậy, kẻ khắc ta là quan quỹ là ông vậy, cùng với ta là anh em, là tỷ kiên kiếp tài vậy. Lẽ này danh chính ngôn thuận, là phép không thay đổi.

Bây giờ kết hợp với sách cổ tạo mệnh, phân tích như sau:

1. Ví dụ xuất thân từ quan gia

Năm Quan Quý Mão

Tháng Ấn Ất Sửu thương tài

Ngày Bính Tý quan quan

Giờ Thương Kỷ Sửu

Trụ ngày Bính Tý, năm tháng quan ấn thấu xuất mà đắc lộc, tài tinh tàng mà yên khố, cho nên xuất thân quan gia. Do thương quan không đủ, quan tinh thoái khí, nhật chủ suy nhược, toàn dựa vào Ất Mộc ấn thụ sinh Hoả vệ quan. Kết hợp hành vận, hơi vận ấn tuy phùng sinh, con người trôi nổi, Mậu thuỷ không thông căn, phá hoa khác thường, Dậu vận tài tinh hoại ấn, chịu phép mà chết.

2. Ví dụ về mẹ theo bố yểu

Năm Đinh Dậu thiên tài

Tháng Nhâm Tý

Ngày Đinh Mão

Giờ Ân thụ Giáp Thìn

Trụ ngày của mệnh: Đinh Mão sinh vào tháng đông, can tháng Nhâm Thuỷ là chính quan, chi tháng Quý Thuỷ là thất sát, quan sát khí vượng, bản thân suy nhược, cho nên lấy ấn thụ sinh ta Giáp Mộc là dụng thần. Bây giờ địa chi Mão đông phương hội Mộc, ấn vượng hữu khí, mà Tân Kim trong thiên tài Dậu ta khắc lại có một đôi, không gốc để leo, chính ấn là mẹ, thiên tài là bố cho nên mẹ trường thọ mà bố chết sớm.

3. Ví dụ lấy vợ hiền thục

Năm Thương, Quý Mão, Tài, Ấn

Tháng Tài, Ất Sửu Ấn, Kiếp, Thương

Ngày Canh Thân Ân, Kiếp, Thương

Giờ Quan, Đinh Sửu

Mệnh này hàn Kim toạ lộc, ấn thụ đương quyền đủ dùng Hoả chống hàn, kỵ can căn năm Quý Thuỷ khắc Đinh gây bệnh, toàn dựa vào can tháng Ất Mộc thông căn, tiết thuỷ sinh Hoả. Do hỉ thần là tài tinh, càng thích phùng hợp tài tinh, gọi là “tài đến cho ta”, cho nên vợ siêng năng mà tài can, sinh được 3 con, đều là người học khá.

4. Ví dụ lấy vợ đắc tài

Năm lang tỷ Đinh Mùi lang tỷ thực

Tháng lang Ất Tỵ kiếp thương thương

Ngày Đinh Dậu tài

Giờ sát Quý Mão lang

Đinh Hoả sinh vào đầu mùa hạ, trong tứ trụ lang sát đương quyền, nhất điểm Quý Thuỷ, chế túc vô lực, hay ở toạ Dậu Kim, xung Mão Mộc mà sinh Quý sát, cho nên tuy xuất thân bần hàn, nhưng nhất giao phát vận, thời đến vận chuyển, nhập học lại được vợ tài. Sau đó nhâm vận đăng khoa, năm Tân Sửu được bổ chức tri huyện, làm quan đến chức thái thú. Vì vậy, ngày sau không còn Dậu Kim xung Mão sinh Quý, không những vợ không còn tài mà danh cũng chẳng thành.

5. Ví dụ lấy vợghen tuông dữ tợn

Năm Ấn Ẩt Hợi Sát Ấn

Tháng Tài Canh Thìn Quan Ấn Thực

Ngày Bính Thân Thực Tài Sát

Giò sát Nhâm Thìn

Bính Hoả sinh vào cuối xuân, ấn thụ thông căn sinh vượng can giờ lại thấu Nhâm Thuỷ, cho nên lấy ấn thụ Ất Mộc làm dụng thần, nhưng xấu ở Canh tài hợp Ất hoá Kim, sinh sát phá ấn nên bói thấy vợ người ấy ghen tuông dữ tợn không hiền, không con mà tuyệt. Tất cả những điều ấy đều do tài tình hoại ấn mà gây nên nguy hại.

6. Ví dụ vợ gặp hình khắc

Năm thiên ấn, Quý Mão Ất Mộc tỷ kiên

Tháng tỷ kiên Ất Mão Ất Mộc tỷ kiên

Ngày Ất Mùi Đinh Hoả thực thần Ất Mộc tỷ kiên Kỷ Thổ thiên tài

Giờ Ấn thụ Nhâm Ngọ Đinh Hoả thực thần Kỷ Thổ thiên tài

Mệnh này, nhật chủ Ất Mộc, sinh vào tháng xuân, đắc lệnh thân vượng. Chi ngày thuỷ và chi giờ Ngọ hoà nhau, trong đó Kỷ Thổ là vợ là tài. Đáng tiếc trong tứ chi Ất Mộc trùng điệp, tỷ kiên thái quá, cho nên không cần vận hành tỷ kiếp, vợ cũng gặp khắc.

7. Ví dụ thực thương là con

Năm Ấn Đinh Dậu thương

Tháng Ấn Đinh Mùi quan kiếp Ân

Ngày Mậu Tuất Ân tỷ thương

Giờ Ấn Đinh Tỵ Ấn tỷ thực

Nhật nguyên Mậu Thổ, sinh vào cuối mùa hạ, tứ trụ ấn thụ trùng điệp, thuỷ khí không có, táo Thổ không thể tiết Hoả sinh Kim, lại lấy vận hội với chi giò chi năm Tỵ Dậu thành thực, thương Kim cục, nên được một con mà nuôi dưỡng nên người.

8. Ví dụ chuyển vận được con

Năm Tân Mão

Tháng Tân Mão

Ngày Giáp Thìn

Giờ Đinh Mão

Mệnh này, xuân Mộc hùng tráng, hỷ ở can giờ Đinh Hoả thấu lộ, thường vào can năm can tháng vô căn Tân Kim, nhưng đương vận hành Kỷ Sửu, thành ở tài, vì rằng Đinh Hoả tiết khí chức năng đắc dụng, cho nên không những không nuôi được con mà tài sản còn hao tổn. Sau đó một khi vận nhập Đinh Hợi, Bính thành, do nó thành mà đẩy Mộc thấu Hoả hoặc do Hoả thông căn mà phát huy, được liền 5 con, gia nghiệp đổi mới. Vì vậy, Nhậm Thiết Tiều tổng kết: phàm dụng thần của bát tự tức là tử tinh nếu dụng thần là Hoả, thì con hẳn ở vận Mộc Hoả mà có, hoặc Mộc Hoả đắc lưu niên mà có, nếu không phải Mộc Hoả ở niên vận mà có, hẳn con được mở ra, trong mệnh đa Mộc Hoả hoặc Mộc Hoả ở nhật chủ thì không đến hoặc không tiêu, thử nhiều lần đều nghiệm, Nhưng trong mệnh dụng thần không phải là thê tài tử lộc mà cùng thông thọ yểu, đều do một chữ dụng thần quyết định

9. Ví dụ về anh yêu em kính

Năm Đinh Hợi

Tháng Nhâm Dần

Ngày Bính Tý

Giờ Đinh Dậu

Bính Hoả sinh vào đầu màu xuân, gọi là “tướng Hoả có ngọn”, không coi là vượng. Lại xem tứ trụ ngũ hành, tuy nói can tháng Nhâm Thuỷ thông căn, Hợi Tý sát vượng không chế được nhưng tốt ở can chi năm tháng Đinh, Nhâm, Hợi, Dần đều có thể hợp mà hoá ấn, nếu nói chi giờ Dậu Kim tài tinh hoại ấn nhưng lại có can giờ trợ ích chế phục. Do Đinh kiếp là thần được hỷ được dụng trong cục, cho nên 7 người đồng bào, anh yêu em kính và đều là những nhà trí thức.

10. Ví dụ về anh em liên luỵ

Năm Quý Tỵ Tháng Mậu Ngọ

Ngày Bính Dần Giờ Canh Dần

Mệnh này không chỉ dương nhậm đương quyền, lại gặp sinh vượng và can năm can tháng, Mậu Quý hợp mà hoá Hoả, tài trong Canh Kim của trụ, kiếp đoạt mất hết, cho nên anh em 6 người, đều không thành người lao đao vất vả. Đối chiếu với mệnh này, Nhậm Thiết Tiều đã nói một cách cảm khái, ngày, năm, tháng của mệnh này đều náo động, đổi một giờ Nhâm Thìn, nhược sát không thể chế lẫn nhau, có 6 em, có người chết sớm, người khác không làm nên, đến nỗi lận đận phá gia”. Tiếp theo, ông tổng kết “Tóm lại, kiếp nhậm quá vượng, tài cung nguyên khí ngược lại ít với anh em, có mà như là không. Nhưng quan sát quá vượng cũng bị thương tổn. Phải làm cho thân tài cùng vượng, quan ấn thông căn, mối có tình yêu thương”.

Về xem bát tự luận lục thân, Nhan Chiêu Bác ở Đài Loan trong cuốn Tử Bình bát tự đại đột phá đã có những thành quả nghiên cứu như sau. Ông cho rằng yếu lĩnh xem cho ông tổ là: lấy Can Chi năm đối với Can ngày, nếu Can Chi năm là Hỷ thần của Can ngày thì ta bị nó ám, ngược lại thì không bị ám chịu đựng được. Ởcan là mình ám, ởchi là âm ám. Minh là ám của vật chất, âm là ám của phong thuỷ địa lý, lấy thiên ấn là tổ phụ, nếu thiên ấn là hỷ thần của can ngày thì tổ phụ có cảm tình tốt với ta, ngược lại tình cảm nhạt. Đồng thời nêu lên: lấy can năm đối với hai can khác và tứ chi, tra sức sinh tồn của can năm, nếu sức sinh tồn thấp thì thành tựu của tổ phụ thấp. Lấy chi năm đối với can năm, nếu chi năm là hỷ thần của can năm thì tổ phụ mẫu ân ái nhau.

Yếu lĩnh xem bố mẹ, trong cuốn Tử Bình bát tự đại đột phá cho rằng: lấy can chi tháng đối với can ngày, nếu can chi tháng là hỷ thần của can ngày thì ta bị nó ám; ngược lại không bị ám chịu đựng được. Lấy chính ấn là mẹ, thiên tài là bố, nếu là hỷ thần của can ngày thì tình cảm sâu nặng, ngược lại tình cảm nhạt. Lại xe, sức sinh tồn của chính ấn, thiên tài cao hay thấp. Lấy chi tháng đối với can tháng, nếu chi tháng là hỷ thần của can tháng thì bố mẹ ân ái nhau.

Còn về vợ chồng, sách Tử Bình bát tự đại đột phá phân tích: nói về mệnh của người, không thể tách rời vợ chồng, mà cách xem vợ chồng, sách nói tuy tạp, nhưng không sách nào có thể xa rời tổ tông của nó, liệt kê tứ trụ như sau: đầu tiên xem chi ngày là hỷ hay kỵ, thì vợ chồng giúp nhau nhiều ít đã biết được ba phần, sau đó xem đến tài, quan là thiện hay ác thì biết vợ chồng duyên sâu hay cạn, nếu chi ngày bị hình xung thì biết vợ chồng không ổn định, lại xem kiếp, thương có nặng quá không, có thể đoán lứa đôi có bi hình thương không, mà mệnh người có thương, nguyên, quan thì như ngựa vía sô lồng, có quan không thương, tuy có sắc dục nhưng tự kiềm chế được. Tuế vận dẫn sắc, trong nhà bị sóng gió, nội dung trong đó cần xem kỹ để đoán, nữ mệnh quan sát hôn tạp, hôn nhân dễ có người thứ 3 xen vào.

Còn xem có sinh con không, cách xem của Tử Bình bát tự đại đột phá là: lấy Can Chi giờ đối với Can ngày, nếu Can Chi giờ là Hỷ thần của Can ngày thì ta bị con ám, ngược lại thì không có ám. Lấy thực, thương làm con, nêu can ngày là hỷ thần thì tình cảm sâu nặng, ngược lại thì tình cảm nhạt nhẽo. Lại xem sức sinh tồn của ngày sinh cao thấp lấy can giờ đối với ba can khác, tứ chi, tra sức sinh tồn của can giờ, nếu sức sinh tồn cao thì con cái thành tựu cao, nếu sức sinh tồn thấp thì thành tựu của con cái thấp. Nếu ví dụ sau đây để chứng minh:

11. Xem ông tổ

Năm Giáp Dần Tháng Ất Hợi

Ngày Nhâm Tuất Giờ Bính Ngọ

Can năm Giáp, chi năm Dần không phải hỷ của ngày sinh Nhâm Thuỷ, minh ám, âm ám đều không có, thiên ấn, Canh Kim là hỷ của can ngày nhưng trong mệnh không thấy, có duyên nhạt với tổ phụ. Can năm Thân Mộc toạ ở Dần lộc, chi Nhâm Thuỷ tăng can thấu tương sinh, Bính Hoả thấu can, tổ phụ thành tựu cao, chi năm là lộc địa của can năm, tổ phụ mẫu ân ái nhau.

12. Xem bố mẹ

Năm Tân Mão Tháng Quý Tỵ

Ngày Ất Sửu Giờ Kỷ Mão

Can ngày Ất Mộc sinh tháng Tỵ, thương quan sinh tài nhược thân, Quý Thuỷ sinh Ất cùng điều hậu, Quý là hỷ thần của Ất, ngược lại Tỵ là kỵ nên có minh ám, không có âm ám. Thiên tài ngọn nhược, tình cảm nhạt với bố, chính ấn là hỷ nhưng trong mệnh khuyết nhược, sơ sơ xa xa. Quý Thuỷ sinh tháng Tỵ, dư khí ở Sửu, lại phùng Tân Kim Đinh sinh, duy chỉ Kỷ Thổ khắc chế, Tỵ Hoả bốc cao, sức sinh tồn của Quý Thuỷ không cao nên thành tựu của bố bình thường, chi tháng Tỵ không phải hỷ của Quý, tình cảm của bố không đẹp.

13. Xem bố mẹ

Năm Giáp Dần Tháng Ất Hợi

Ngày Nhâm Tuất Giờ Bính Ngọ

Can tháng Ất không phải là hỷ thần của can ngày Nhâm không bị nó ám, Hợi là lộc địa của Nhâm, duy Dần Hợi khắc Mộc, lúc đầu bị nó ám, về sau hư không. Chính ấn là hỷ, tàng ở khố, mẹ có tình cảm nhưng người yếu nhiều bệnh. Thiên tài là kỵ, cùng bố sống chung vô duyên. Can tháng Ất Mộc toạ trường sinh chi năm dương nhậm, Nhâm Thuỷ tương sinh, Bính Hoả điều hậu, bố có thành tựu cao, chi tháng Hợi là trường sinh của can tháng Ất, bố mẹ ái ân nhau.

14. Xem nhân duyên

Năm Đinh Mão Tháng Giáp Thìn

Ngày Bính Tuất Giờ Giáp Ngọ

Năm Ất Dậu và trụ ngày Bính Tuất thành một cấp thuận nhau về nhân duyên gọi là một cấp thuận nhau như trụ ngày Bính Tuất, theo thiên can Đinh vì sau Ất là Bính địa chi tương thuận sau Dậu là Tuất, coi là một cấp thuận nhau. Các can chi ngày khác cũng theo thế mà tính.

15. Xem nhân duyên(kết hôn)

Năm Giáp Tý Tháng Quý Dậu

Ngày Canh Tý Giờ Kỷ Mão

Ất Hợi đại vận, Ất Mùi ưu niên cùng chi giờ tam hợp tài địa, nhân duyên.

16. Xem nhân duyên (kết hôn)

Năm Canh Dần Tháng Đinh Hợi

Ngày Bính Tý Giờ Ất Mùi

Nguyên sát tinh của mệnh hợp với Dần, gặp lưu niên của Tỵ, Thân xung khai, nhân duyên tốt.

17. Xem kết hôn chậm

Năm Đinh Sửu Tháng Bính Ngọ

Ngày Tân Tỵ Giờ Nhâm Thìn

Bát tự chỉ có thiên tài tinh nhập khố, nên lấy vợ chậm

18. Xem kết hôn chậm

Năm Kỷ Sửu Tháng Quý Sửu

Ngày Mậu ngọ Giờ Quý Sửu

Tứ trụ không thấy quan sát, nên kết hôn chậm

19. Xem vợ chồng

Năm Ất Mùi Tháng Canh Thìn

Ngày Canh Tý Giờ Giáp Sửu

Chính tài, thiên tài đều lộ, trong hôn nhân dễ có người thứ ba chen vào

20. Xem vợ chồng

Năm Mậu Tuất Tháng Quý Sửu

Ngày Bính Ngọ Giờ Tân Mão

Phu tinh bị hợp, tình chồng không hướng về ta, chi ngày hỷ thần, có thể được chồng ám nhưng không đủ đẹp.

21. Xem vợ chồng

Năm Mậu Tý Tháng Mậu Ngọ

Ngày Nhâm Thân Giờ Nhâm Dần

Tý Ngọ xung, quan tinh bị tổn. Dần băng xung, phu quan xung ly, hôn nhân thất bại. Duy phu cung hỷ thần, có cách nói khác.

22. Xem con cái

Năm Giáp Dần Tháng Ất Hợi

Ngày Nhâm Tuất Giờ Bính Ngọ

Bính ngọ không phải hỷ thần của can ngày Nhâm Thuỷ, khó tiếp nhận tử ám, Thực thương là kỵ, con cái tuy đông, không ai được ưu đãi, tháng Hợi Bính Hoả, lệnh khí là tử, Nhâm Thuỷ tương khắc, Dần Ngọ Tuất tam hợp Hoả cục, ấn thụ tương sinh, Bính Hoả từ nhược chuyển vượng, sức sinh tồn cao thấp theo vận năm mà thay đổi, thành tựu của con cái cao thấp cũng theo đó mà lên xuống.

Về cách xem hoạ phúc cát hung, cùng thông thọ yểu cho lục thân, gần đây Lâm Huệ Tường trong cuối Nghiên cứu và phê phán về đoán mệnh đã khái quát như sau: “Với người thân thuộc, bản thân cường là tốt, gặp khắc họ thì gặp khắc tử, nếu như phùng sinh họ thì có hy vọng. Nếu phùng mà có thể khác được họ, cũng được cứu, người thiên tài vượng, bố trường thọ, người nhiều tỷ kiếp bố chết sớm, người chính ấn hữu lực mẹ thọ, tài nhiều phá ấn tức chủ khắc mẹ.

Ví dụ ngày sinh của bản thân là Giáp Mộc, tài (bố) là Mậu Kỷ, ấn (mẹ) là Nhâm Quý, Mậu Kỷ Thổ khắc Nhâm Quý Thuỷ, Thuỷ (mẹ) bị khắc chết. Người tỷ kiên tài nhiều thì anh em đông. Thấy tỷ kiên kiếp tài, bại tài đều sẽ khắc vợ và bố, nếu bản thân là Giáp Mộc, tỷ kiên, bại tài sẽ là Giáp Ất Mộc, thê thiếp là Chính tài, Thiên tài tức là Mậu Kỷ Thổ. Giáp Ất Mộc có thể khấc Mậu Kỷ Thổ, để thê thiếp bị khắc chết. Bố cũng là Thiên tài, cũng bị khắc. Tọa ở thê cung thì vợ tốt, thê tức là dụng thần nên được vợ hiền, thê tình nhiều chủ khắc thê, thê tinh lưỡng thấu, thiên chính tạp xuất thì có nhiều vợ. Địa chi mà can ngày toạ gặp hình xung sẽ khắc thê. Bản thân cường mà thê nhược, nên lấy người đàn bà có thể bố cứu thế nhược ấy, đó gọi là “lấy ép”. Quan sát nhiều tổn thương anh em chị em, ví dụ Canh Tân Kim của chính quan thiên quan quá nhiều thì tổn thương Giáp Ất Mộc của tỷ kiên, bại tài tức là tổn thương anh em chị em. Thương quan, thực thần nhiều sẽ tổn thương con cái, vì rằng Bính Đinh Hoả khắc Tân Canh Kim, tuyền ấn nhiều khắc tổ phụ mẫu (Nhâm Quý Thuỷ khắc Bính Đinh Hoả).

Phương pháp xem con cái, trước tiên phải tìm sao của con lại đối chiếu với địa chi của giờ, theo sinh vượng tử tuyệt mà đoán, cách đoán theo bài ca dưới đây:

Trường sinh tứ tử trung tuần bán

Mộc dục nhất song bảo cát tường

Quan đái lâm quan tam tử vị

Vượng trung ngủ tử tự thành hàng

Suy trung nhị tử bệnh trung nhất

Tử trung chí đa một Kỷ lang

Trừ phi thủ dưỡng tha nhân tử

Nhập mộ chi thời mệnh yểu vong

Thụ khí vỉ tuyệt nhất có tử

Thai trung đầu sản hữu cô nương

Dưỡng trung tam tử chỉ lưu nhất

Nam nữ cung trung tử tế trường

Ý trong bài ca nói, nếu như bản thân là Giáp, Tý thì sẽ là Canh (Canh là thiên quan của Giáp). Canh nếu gặp chi giờ Tỵ thì ở trạng thái trường sinh, có thể ở tuổi trung niên có 4 con, nếu gặp Ngọ thì ở trạng thái Mộc dục, có thể có 2 con, ở Quan đới, lam quan đều có 3 con, ở đế vượng có 5 con, ở suy có 2 con, ở bệnh có 1 con, ở trạng thái tử không có con, ở trạng thái gặp Mộc con sẽ chết sớm, ở tuyệt có 1 con, ở thai có con gái đầu, ở dưỡng sinh 3 con còn 1.

Tổng quát toàn bài, có thể hiểu như thế này, tức là trong tứ trụ nêu trụ năm là cát tường hoặc dụng thần, chứng tỏ gia cơ tổ tông mệnh chủ tương đối phong lưu; trụ tháng là hỷ thần hoặc dụng thần chứng tỏ mệnh chủ có ám tỷ bô mẹ, anh em hoà thuận, chứng tỏ vợ chồng hợp sức, tình yêu ngọt ngào, chi giờ là hỷ thần hoặc dụng thần chứng tỏ mệnh chủ con cái

làm nên. Ngược lại, nếu trụ năm là kỵ thần, chứng tỏ tổ tông mệnh chủ phá sản suy vi, trụ tháng là kỵ thân, chứng tỏ bố mẹ bị hình thường, anh em bất hoà; chi ngày là kỵ thần, chứng tỏ tình yêu vợ chồng không đẹp. Trụ giờ là kỵ thần, chứng tỏ con cái mệnh chủ khó nuôi hoặc không thành đạt, nhưng nếu kỵ thần ở năm, tháng, ngày, giờ bị khắc chế, lại có thể phùng hung hoá cát.

Nếu như từ dụng thần kết hợp với 12 cung để xem trong bát tự nếu lấy ấn thụ làm hỷ thần của bản thân, hoặc ấn thụ gặp đất của trường sinh chứng tỏ chủ nhân có phúc ấm rất dày và cả hai bố mẹ đều trường thọ, ấn thụ của chi tháng gặp đất tử tuyệt, hoặc ấn thụ lấy làm dụng thần bị phá, chứng tỏ bố mẹ không toàn hoặc khó được hưởng phúc ấm của bố mẹ; trong bát tự nếu tỷ kiên, kiếp tài là hỷ thần, dụng thần của bản thân, hoặc tỷ kiên toạ ở lộc địa, chứng tỏ anh em nên người, ngược lại, nếu tỷ kiên là kỵ thần, chứng tỏ anh em không phải không hoà mục thì cũng là tan tác. Trong bát tự nếu lấy tài là hỷ thần , dụng thần thì có sức sinh hoá, chứng tỏ vợ hiền mà giỏi giang, ngược lại nếu tài là kỵ thần hoặc xung hợp tranh phân, chứng tỏ vợ không phục tòng chồng, tình cảm vợ chồng không tốt, nữ mệnh lấy quan, sát là chồng, trong bát tự nếu quan tinh đắc dụng, chồng cao sang mà bản thân cũng cao sang, lấy thực, thương là con cái, trong bát tự nếu thực, thương là hỷ thần, dụng thần, chứng tỏ con cái hiều hiếu, có khả năng giữ phúc cho con, nếu thực, thương phung xung hoặc toạ ở cô thần quả tú, chứng tỏ con cái hiếm hoi, hoặc là trong mệnh khắc con.

Ngoài ra, khi xem bát tự luận lục thân, còn có thể kết hợp hành vận để xem. Trong đó bố mẹ kết hợp ấu vận, vợ chồng anh em kết hợp trung vận, con cái kết hợp hậu vận. Ví dụ trong mệnh lúc trẻ nhỏ có hồng vận, chứng tỏ cổ phúc ấm của bố mẹ; trung niên gặp hồng vận, chứng tỏ vợ chồng hiệp lực đồng tâm hoặc là anh em tài giỏi, cuối đời gặp hồng vận, chứng tỏ con cái nên người.

Cuối cùng xin nói mấy câu, đó là vấn đề lục thân tương khắc, nói về lục thân tương khắc, ở đây chúng ta phải làm rõ, nếu không sa vào mê tín sẽ gây nên vợ chồng, cha con, anh em bất hoà, có lúc còn gây nên hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ chị Tường Lâm trong chuyện của Lỗ Tấn, do chồng chị chết, con chết mà người ta đều nói chị mệnh cứng, khắc chồng khắc con, kết quả là do sức ép của dư luận xã hội và thói quen lâu đời mà chị Tường Lâm lúc ấy đang tràn đầy sức sống bị xã hội phong kiến ruồng bỏ, nghĩ đến đây chúng ta cảm thấy bất bình và phẫn nộ cho chị Tường Lâm. Thực ra người xưa nói là tương khắc, không có nghĩa là đem khắc an đến chết vì vậy Trần Tố Am đời Thanh đã nói rất đúng, ông nói: “thế tục tương truyền, mệnh bố hung thì có thể khắc con, mệnh con hung thì có thể khắc bố, mệnh chồng hung thì có thể khắc vợ, mệnh vợ hung thì có thể khắc chồng, dẫn đến người thân oán ghét nhau, lập luận này vô cùng sai lầm, nếu trong mệnh bố, sao con phá hoại, có thể đoán con không giỏi giang, không phải vì mệnh bố mà khắc con vậy. Trong mệnh chồng có sao của vợ phá hoại, có thể đoán là vợ không giỏi giang, không phải mệnh chồng mà khắc vợ vậy, trong mệnh vợ sao của chồng tử tuyệt, có thể đoán chồng không có lộc, không phải vì mệnh vợ mà khắc chồng vậy.

Đương nhiên, dụng tâm của Trần Tố Am tuy tốt, nhưng chỗ đứng của lập luận vẫn dựa vào thiên mệnh. Dù thế nào đi nữa, chúng ta không nên đứng trên lập trường ngày nay mà đòi hỏi người xưa.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bát tự luận lục thân

Xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953 - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953, Phong thủy phòng ngủ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953, tu vi Xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953, tu vi Phong thủy phòng ngủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953

Phong thủy phòng ngủ xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953. Gia chủ mang mệnh Thủy, Kim sinh Thủy, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Kim, là hướng Tây Bắc; Tây; Xem hướng phòng ngủ tuổi Quý Tỵ 1953

Xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953

 

 

Tuổi Quí Tỵ 1953

– Quẻ mệnh: Khôn Thổ

– Ngũ hành: Trường Lưu Thủy (Nước chảy mạnh)

– Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);
– Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);

Hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ:

Xem bói vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Thủy, theo phong thủy học Kim sinh Thủy, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Kim, là hướng Tây Bắc; Tây;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Trắng, Xám, đây là màu đại diện cho hành Kim, rất tốt cho người hành Thủy.

 

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953 - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Chọn màu hợp vận cho 12 con giáp

Những gợi ý về màu hợp, màu kỵ của 12 con giáp sau đây có thể giúp bạn đưa ra những lựa chọn tốt hơn cho màu sắc trang phục của mình trong năm Quý Tỵ.
Chọn màu hợp vận cho 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những gợi ý về màu hợp, màu kỵ của 12 con giáp sau đây có thể giúp bạn đưa ra những lựa chọn tốt hơn cho màu sắc trang phục của mình trong năm Quý Tỵ.

 

Tuổi Tý

Hợp: Màu xanh da trời

Kỵ: Màu vàng

Về cơ bản, vận thế của người tuổi Tý trong năm Quý Tỵ là khá tốt; tuy nhiên Tý là Dương Thủy, Tỵ là Âm Hỏa; Thủy Hỏa tương khắc, Âm Dương tương khắc, tựu chung là bất lợi; bạn không nên mặc quần áo quá sẫm màu.

Riêng màu xanh da trời có thể tạo thế bình hòa, tăng vận may, giảm xui xẻo. Tuy nhiên, màu vàng lại có những ảnh hưởng rất xấu đến vận thế của bạn trong năm nay.

Tuổi Sửu

Hợp: Màu vàng nhạt

Kỵ: Màu xanh lục

Sửu là Âm Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Âm Thổ; xét theo ngũ hành, Thổ màu vàng nhưng lại là Dương Thổ, vì vậy, người tuổi Sửu dùng màu vàng nhạt là tốt nhất.
Mộc khắc Thổ, Mộc màu xanh, vì vậy, những người tuổi này kỵ dùng màu xanh. Vận thể người tuổi Sửu trong năm Tỵ đạt mức trung bình, không quá vượng, do đó, màu sắc bạn dùng nên nhạt một chút.

Tuổi Dần

Hợp: Màu xám

Kỵ: Màu trắng

Dần là Dương Mộc, Tỵ là Âm Hỏa. Tuy Dương Mộc có khả năng sinh Âm Hỏa nhưng lại không tăng vượng cho tự thân người tuổi Dần, do vậy phải dụng Thủy để sinh Mộc. Màu đen là Thủy trong ngũ hành, tuy nhiên vì Âm Dương tương khắc nên bạn có thể dùng màu xám. Màu trắng là Kim, Kim khắc Mộc, do vậy, nên tránh màu này để không ảnh hưởng đến vận thế trong năm Quý Tỵ.

Tuổi Mão

Hợp: Màu đen

Kỵ: Màu trắng

Mão là Âm Mộc, Tỵ là Âm Hỏa. Cũng như tuổi Dần, Âm Mộc có thể sinh Âm Hỏa. Bạn nên chọn màu đen vì xét theo ngũ hành, cả hai đều là Âm, đẹp nhất với tuổi Mão là sắc đen tuyền. Tương tự, màu tối kỵ của tuổi Mão trong năm nay là màu trắng.

Tuổi Thìn

Hợp: Màu đỏ cam

Kỵ: Màu xám

Thìn là Dương Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Dương Thổ; Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Trong năm 2012, vận thế của người tuổi Thìn rất xấu, năm nay cũng không quá vượng. Bạn nên dùng màu đỏ cam cho hợp vận. Vốn dĩ Thổ khắc Thủy, nếu dùng màu xám, tuổi Thìn dễ gặp xui xẻo.

 
Màu sắc hợp tuổi 12 con giáp
 
Tuổi Tỵ

Hợp: Màu xanh lục

Kỵ: Màu đen

Tỵ đối Tỵ, đây chính là năm bản mệnh của người tuổi Tỵ, do vậy, xét tổng thể là xấu. Bạn có thể dùng màu xanh của Mộc trong ngũ hành để vận thể thêm vượng, nhưng tuyệt đối không dùng màu đen. Màu đen là Thủy, Thủy khắc Hỏa, nếu ưa chuộng màu này, vận thế của bạn sẽ sa sút nhiều phần.

Tuổi Ngọ

Hợp: Màu xanh

Kỵ: Màu xám

Ngọ là Dương Hỏa, Tỵ là Âm Hỏa, cùng là hành Hỏa nên hợp nhất với bạn là Mộc; màu xanh là Mộc; do vậy bạn có thể dùng màu này cho thêm phần may mắn. Nhưng vì Thủy, Hỏa tương khắc nên màu xanh lá cây sẽ tốt hơn. Màu xám không hợp với mệnh của tuổi Ngọ trong năm nay.

Màu sắc hợp tuổi 12 con giáp
 
Tuổi Mùi

Hợp: Màu đỏ

Kỵ: Màu xanh lục

Mùi là Âm Thổ, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa sinh Âm Thổ, do đó, vận mệnh của bạn năm nay khá tốt nhưng chưa phải là hoàn hảo. Để tăng cường vận thế, bạn nên sử dụng màu đỏ. Sắc màu rực rỡ này sẽ đem lại may mắn cho bạn, tăng phần vượng, giảm phần hung. Lại nói, Mộc khắc Thổ, Mộc là xanh lục, vì vậy, bạn nên tránh xa màu này.

Tuổi Thân

Hợp: Màu vàng cam

Kỵ: Màu đỏ

Thân là Dương Kim, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa khắc Dương Kim, do vậy, vận thế của tuổi Thân năm nay khá bất lợi. Nếu “làm bạn” với màu vàng cam, thần may mắn sẽ luôn ở bên bạn. Màu đỏ là Hỏa, Hỏa khắc Kim nên bạn cần tránh màu này, chẳng hạn không nên trang điểm bằng sắc son đỏ đậm.

Tuổi Dậu

Hợp: Màu vàng

Kỵ: Màu đỏ

Dậu là Âm Kim, Tỵ là Âm Hỏa. Âm Hỏa khắc Âm Kim, cùng là Âm nên khi lựa chọn màu sắc, bạn nên ưu tiên màu đậm. Đẹp nhất là màu vàng thuần túy, nhưng lại cực kỵ màu đỏ.

Màu sắc hợp tuổi 12 con giáp
 
Tuổi Tuất

Hợp: Màu đỏ cam

Kỵ: Màu đen

Tuất là Dương Thổ, tuy Âm Hỏa có thể sinh Dương Thổ nhưng vì Âm Dương tương khắc, bạn nên chọn màu đỏ cam để vận thế thêm vượng. Mặt khác, Thổ khắc Thủy, nên màu đen là màu đại kỵ của bạn trong năm Quý Tỵ.

Tuổi Hợi

Hợp: Màu trắng

Kỵ: Màu vàng

Hợi là Dương Thủy, Tỵ là Âm Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc, Âm Dương tương khắc, vì vậy, người tuổi Hợi có thể dùng Kim (sinh Thổ) để hóa giải. Màu trắng là Kim, do đó bạn dùng màu này là hợp nhất.

Thổ màu vàng, Thổ khắc Thủy, để tránh xui xẻo, bạn tuyệt đối không nên vận trang phục hoặc sử dụng những vật có màu sắc tươi sáng này.

 

(Theo Kienthuc.net.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu hợp vận cho 12 con giáp

Ánh sáng và phong thủy

Đèn không chỉ được dùng để lấy ánh sáng hoặc trang trí mà Đèn không chỉ được dùng để lấy ánh sáng hoặc trang trí mà còn được vận dụng vào việc khắc chế nguồn năng lượng xấu, kích hoạt nguồn năng lượng tốt cho trạch nhà, góp phần giúp cho trạch chủ và gia đình khỏe mạnh, gia tăng tài lộc may mắn.òn được vận dụng vào việc khắc chế nguồn năng lượng xấu, kích hoạt nguồn năng lượng tốt cho trạch nhà, góp phần giúp cho trạch chủ và gia đình khỏe mạnh, gia tăng tài lộc may mắn.
Ánh sáng và phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hãy đưa ánh sáng vào mục “chú ý” ngay từ khi bạn bắt đầu có ý tưởng thiết kế ngôi nhà của mình.   Trước sảnh nhà   Với nhà hợp hướng với trạch chủ thì việc treo đèn ở trước sảnh của tòa nhà sẽ kích hoạt khí tốt. Còn nếu hướng nhà không hợp với trạch chủ (như hướng nhà là hưỡng ngũ quỷ hay lục sát với trạch chủ…) thì không nên tăng cường nhiều ánh sáng ở phía sảnh đại môn vì khi đó sẽ kích hoạt luôn khí xấu vào nhà. Chỉ nên dùng đèn vừa đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của trạch chủ. Màu sắc của đèn nên tương sinh với mệnh của trạch chủ. Ví dụ chủ nhà Mậu Thân – Cung Khôn – Ngũ hành Đại dịch thổ thì nên dùng đèn ánh sáng màu đỏ hoặc vàng. Ngoài ra, căn cứ vào ngoại vi tứ diện để xem xét dùng đèn lồng để khắc chế những ảnh hưởng xấu, đồng thời kích hoạt tài lộc may mắn cho gia chủ. Về vấn đề này bạn nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia phong thủy để dùng đúng và đủ.   Trong phòng khách   Nên dùng ánh sáng vàng, ấm cúng để tăng cường sinh khí của trạch nhà và tăng sự hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình.   Giữa trung tâm của trạch nhà, nên treo đèn chum có cường độ ánh sáng phù hợp nhưng cần bố trí số lượng bóng, màu sắc bóng tương sinh với trạch chủ.   Trong phòng ngủ   Sử dụng cường độ ánh sáng vừa phải để thích nghi với sự điều tiết bình thường của mắt. Không nên đặt đèn ở đầu  giường, sẽ gây căng thẳng và ức chế thần kinh. Nếu có điều kiện, bạn có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên, kết hợp với đèn đá muối để vừa trung hòa khí xấu trong phòng vừa tạo ion có lợi cho sức khỏe. Nên tắt đèn trước khi đi ngủ, để giấc ngủ chìm trong bóng tối thực sự. Nếu trong gia đình có người già, người huyết áp cao, không ổn định, thiếu máu… thì không nên bố trí đèn Halogen vì dễ gây choáng, kích động huyết áp. Kết hợp một đèn sinh khí nhỏ đặt trong bộ tài khí đáo gia sẽ giúp giảm bớt căng thẳng, có lợi cho sức khỏe.    Trong phòng tắm-vệ sinh   Đây là nơi phát tán các uế khí, khí xấu, việc dùng đèn hợp mệnh kết hợp với đá phong thủy hướng thiên có thể giải trì, ngăn chặn phần lớn sự phát tán này. Trong phòng tắm nên để đèn ánh sáng màu vàng, trắng hoặc đỏ, không để màu xanh, tránh cảm giác cô quạnh, yếu ớt.   Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ánh sáng và phong thủy

Chú ý 4 chòm sao có vận trình sự nghiệp nguy hại sau tết Thanh Minh

Sau tết Thanh Minh áp lực công việc hiển hiện rõ ràng hơn mà 4 chòm sao kém may mắn dưới đây lại không được ông trời ưu ái lắm.
Chú ý 4 chòm sao có vận trình sự nghiệp nguy hại sau tết Thanh Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Thanh Minh là dịp cả gia đình quây quần, tưởng nhớ tới người thân đã khuất nhưng nó cũng đánh dấu sự qua đi của 3 tháng đầu năm. Lúc này, áp lực công việc hiển hiện rõ ràng hơn, mọi chuyện phải đi vào guồng quay vốn có mà 4 chòm sao kém may mắn dưới đây lại không được ông trời ưu ái nên có vẻ khá bất lợi.

Chu y 4 chom sao co van trinh su nghiep nguy hai sau tet Thanh Minh hinh anh 2
 

Hạng 4: Ma Kết

  Vận khí của chòm sao Ma Kết trong tết Thanh Minh không quá tốt, Thiên Minh hình khắc, mối quan hệ nghịch chiều khiến áp lực công việc của Ma Kết cực kì lớn. Hầu hết các việc bạn làm đều mất nhiều thời gian, công sức nhưng lại vô dụng. Để tâm, nỗ lực bao nhiêu nhưng kết quả thu về lại không như mong đợi khiến Kết Kết có phần thất vọng, chán nản.   Bị người khác đoạt mất danh tiếng, trả giá nhưng không được hồi đáp, khoảng thời gian này tiểu nhân vận của Ma Kết cực kì lớn. Nhiệm vụ chính của chòm sao kém may mắn này là đối phó với những người có ý đồ xấu, muốn tranh quyền đoạt lợi của bạn. Dù năng lực tốt nhưng phải được cấp trên ghi nhận mới xem là thành công đấy nhé, cố gắng mạnh mẽ và biết tranh đấu hơn nhé.  

Hạng 3: Sư Tử

  Chòm sao Sư Tử chú ý tình trạng của mình sau tết Thanh Minh đi vì vận may kém lắm, đặc biệt tiểu nhân vận cũng rất cường thịnh, ảnh hưởng nhiều tới sự nghiệp. Quan hệ với đồng nghiệp không hòa thuận, bạn tỏ thái độ kiêu căng khó gần nên bị cô lập trong tập thể, người khác không nhiệt tình muốn hợp tác cùng bạn, hiệu quả công việc không cao. Dù cho trước đó đã có một số thành tích đáng khen nhưng nếu cứ kéo dài tình trạng này thì sẽ bị tuột dốc ngay đó Sư Tử, bạn không thể chủ quan được.   Sư Tử là người có năng lực nhưng lại chưa biết cách giao tiếp đúng mực, nhận được sự tín nhiệm của lãnh đạo nhưng không được lòng đồng sự và cấp dưới. Đặc biệt, mối quan hệ với đồng nghiệp khác giới lại còn tệ hơn. Sư Tử cần phải loại bỏ tính cố chấp, bảo thủ của mình, tiếp thu ý kiến của người khác để tự thân tăng cường may mắn đi nhé.  

Hạng 2 Song Ngư

 

Song Ngư rơi vào trạng thái mờ mịt, dễ làm ra những chuyện sai lầm do áp lực công việc quá lớn. Bạn chọn thái độ trốn tránh và bất hợp tác nên nếu làm việc nhóm thì sẽ xảy ra xích mích với đồng nghiệp. Sự mẫn cảm của Song Ngư khiến bạn nhanh chóng phát hiện ra những vấn đề trong quan hệ xã giao nhưng do lười biếng nên không mấy để tâm.
Chu y 4 chom sao co van trinh su nghiep nguy hai sau tet Thanh Minh hinh anh 2
 
Điều này khiến cho người khác cảm thấy tức giận, hơn nữa ảnh hưởng tiêu cực tới chính vị trí mà bạn đang có, Lúc muốn cứu vãn tình thế thì cũng đã muộn rồi. Song Ngư cũng cần chú ý tới vấn đề tài chính, cẩn thận kẻo bị mất trộm đồ hoặc hao hụt tài sản. Những món đồ có giá trị, những khoản tiền lớn cần được bảo quản kĩ càng, tránh phô trương, kích động lòng tham của kẻ xấu.  

Hạng 1: Nhân Mã

  Sau tết Thanh Minh, chòm sao có vận trình tệ nhất là Nhân Mã, bạn dường như vẫn còn rất mơ hồ trong khi mọi người đều đã tất bật với công việc. Sau 3 tháng đầu tiên, không còn thời gian để rong chơi hay tìm định hướng, thử thách bản thân nữa đâu mà phải nhanh chóng bắt tay vào hành động kẻo đến cuối năm vẫn chẳng thu được gì, lúc đó hối hận tự trách cũng chỉ mất công thôi.   Nhân Mã dễ đắc tội với lãnh đạo, cấp trên do tính cách vô tổ chức. Bạn cần chấn chỉnh thái độ làm việc và xác định tư tưởng của mình một cách chín chắn hơn. Vấn đề tiền bạc cũng là mối lo lớn của chòm sao này khi mà bạn không có thu nhập tốt, nhiều khoản phải chi tiêu lại có điềm hao tài, mất của, tốn kém vì những việc bất ngờ.   Để khai vận, Nhân Mã nên tích cực xin ra ngoài làm việc, nếu có cơ hội đi công tác, học tập, làm nghiệp vụ bên ngoài thì hãy xung phong ngay. Bạn xuất hành sẽ phát huy được năng lực và xua bớt không khí u ám trong vận trình sự nghiệp.
Tết Thanh Minh và tết Hàn Thực mùng 3 tháng 3 - vẹn tròn một chữ hiếu Nên chọn hoa gì đi tảo mộ trong tiết Thanh minh? 9 điều kiêng kỵ chớ làm trong tiết Thanh Minh
Trình Trình

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chú ý 4 chòm sao có vận trình sự nghiệp nguy hại sau tết Thanh Minh

Quan niệm ngày tốt xấu –

Theo phong tục từ trước tới nay nhiều người thường kén ngày lành tháng tốt để xuất hành, động thổ, đổ bê tông mái, cất nóc, nhập trạch, khai trương, ăn hỏi, rước dâu, ký hợp đồng, hộ liệm, di quan, phá nấm, nhập phủ (hạ huyệt)v.v.Trước là trọn vẹn ni

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ềm tin về tâm linh, sau là yên tâm tư tưởng để tiến hành công việc

xem-ngay-tot-xau-xuat-hanh-khai-truong-ngay-27-11-2014_29259_595712_0

 1.Quan niệm về ngày xấu – tốt

Theo phong tục từ trước tới nay nhiều người thường kén ngày lành tháng tốt để xuất hành, động thổ, đổ bê tông mái, cất nóc, nhập trạch,  khai trương, ăn hỏi, rước dâu, ký hợp đồng, hộ liệm, di quan, phá nấm, nhập phủ (hạ huyệt)v.v.Trước là trọn vẹn niềm tin về tâm linh, sau là yên tâm tư tưởng để tiến hành công việc. Do nhu cầu nhiều như thế nên thông tin, sách vở, tài liệu từ xưa tới nay có quá nhiều ( tồn tại rất nhiều mâu thuẫn), Nếu không phải người tinh thông có chuyên môn thì khó tìm được ngày giờ vừa ý (đa thư loạn mục).

2.Ngày nguyệt kỵ mùng 5, 14, 23

Trong 1 tháng  luôn có 3 ngày cộng vào bằng 5

Ngày mùng 5

Ngày 14  gồm 1+4 = 5

Ngày 23 gồm  2+3 = 5

Các Cụ thường gọi là ngày “nửa đời, nửa đoạn”, xuất hành đi đâu cũng vất vả, khó được việc, “mùng 5, 14, 23 đi chơi còn lỗ nữa là đi buôn”

Phi tinh trong cửu cung bát quái : Nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử. Trong số cửu tinh thì  Sao Ngũ hoàng ( thuộc trung cung ) được cho là xấu nhất, vận sao Ngũ hoàng bay tới đâu mang hoạ tới đó. Cứ theo phi tinh 9 cung lại quay trở về Ngũ hoàng :

Ngũ hoàng 5

5 + 9 = 14

14 + 9 = 23

Đặc biệt nhất là ngày 5 tháng 5  (trùng lặp Ngũ hoàng thổ), người ta thường nói: “nen nét như rắn mùng 5”. Vào ngày mùng 5 /5 âm lịch rắn không ra khỏi Mà, tương truyền ai chặt được đầu rắn mùng 5 ra đường  sẽ gặp nhiều may mắn. Bởi vì thời gian đó phương lực ly tâm từ Trái Đất kết hợp với lực hấp dẫn từ Mặt Trăng,  hướng tâm từ Mặt Trời và Vũ trụ không bình thường gây cho Rắn run sợ, ù tai, hoa mắt không dám ra ngoài.

Còn có sách Cổ gọi là ngày Lý Nhan :

Niên niên nguyệt nguyệt tại nhân gian

Tùng cổ chí kim hữu văn tự

Khẩu khẩu tương truyền bất đẳng dấu

Vô sự vu tử chi xã tắc

Lý nhan nhập trạch táng 3 nam

Mùng 5 phạm ly tán gia trưởng

14 phùng chi thân tự chướng

23 hành thuyền lạc thuỷ lâm quan sự

Giai nhân Mộ khán nhị thập tam.

( Bất lợi kỵ cưới gả, đi xa )

3.Ngày Tam Nương sát

Thượng tuần sơ Tam dữ sơ Thất ( đầu tháng ngày 3, ngày 7 )

Trung tuần  Thập tam Thập bát dương ( giữa tháng ngày 13, ngày 18 )

Hạ tuần Chấp nhị dữ Chấp thất (cuối tháng ngày 22, 27 )

Tháng nào cũng vậy.

Theo quan niệm của nhiều người  thì  xuất hành hoặc khởi đầu làm việc gì đều  vất vả không được việc.

Thực ra theo phong tục tập quán của Việt Nam thì vào những ngày đó Ngọc Hoàng thượng Đế sai 3 cô gái xinh đẹp ( Tam nương ) xuống hạ giới ( giáng hạ ) để làm mê muội và thử lòng con Người (nếu ai gặp phải) làm cho bỏ bê công việc, đam mê tửu sắc, cờ bạc v.v.

Cũng là lời khuyên răn của Tiền Nhân cho con cháu nên làm chủ trong mọi hoàn cảnh, chịu khó học tập, cần cù làm việc.

 Trong khoa Chiêm Tinh thì ngày Tam nương, Nguyệt kỵ không được cho là quan trọng so với  các sao chính tinh và ngày kiêng kỵ  khác như : Sát chủ, Thụ tử, Trùng tang, Trùng phục, Không sàng, Không phòng, Thiên tai địa hoạ, Trời nghiêng đất lở, Hoang ốc, Thiên hình hắc đạo, Chu tước hắc đạo, Bạch hổ hắc đạo, Thiên lao hắc đạo, Huyền vũ hắc đạo, Câu trận hắc đạo, Dương công kỵ, Thập ác đại ma, Lục nhật phá quần. v.v..

4.Cách chọn ngày lành tháng tốt và hoá giải những điều kiêng kỵ ( nếu gặp phải ) :

Cùng  1  giờ  1 ngày như nhau kẻ thắng người bại, kẻ cười ngưòi khóc, Sinh, Tử Hiếu, Hỷ  song song . Người  nhậm chức, người thoái quan. Người Thi đỗ, người thi trượt. Người bán đắt (có lộc), người mua đắt (mất lộc).v.v.

Từ xưa tới nay chưa bao giờ có ngày giờ thật tốt ( ngày lành tháng tốt ) hoặc thật xấu cho mọi người, mọi việc. Vì nếu thật sự có ngày giờ tốt ấy thì không có người mất thì có ai được? không có người thua thì sao có người thắng ? thì ngày đó lại là ngày xấu.

Ngày giờ tốt xấu chỉ ảnh hưởng tới từng công việc, từng tuổi nào liên quan đến nó mà thôi.

Cho nên khi chọn ngày lành tháng tốt phải biết rõ tính chất từng công việc, tuổi Chủ nhân, 24 tiết khí, phong tục tập quán, thông thạo Lý số, Nhâm Cầm Độn Toán mới quyết định được.

 Có người cứ máy móc mua về mấy quyển sách giở ra tra, tốt chưa thấy đâu nhiều khi lại gặp điều tối kỵ như : Thượng lương, đổ bê tông mái nhà chiều tối ,hạ thuỷ tàu thuyền ngày nước ròng (chân triều), rước dâu nửa đêm tháng 7 mưa ngâu, bốc mộ  buổi trưa mùa hạ, lập đàn cúng tế ngày sát sư, bệnh nhân, sản phụ mổ cấp cứu còn chờ … sáng trăng (Thầy bấm).v.v. Là nên tránh.

 Thí dụ : Khi xem làm việc gì  tham khảo ngoài những sao xấu, ngày xấu chung đã kê ở trên thì phải chú ý điều tối kỵ cho từng việc như :

  Nếu Việc bốc Mộ, khâm liệm, di quan, hạ huyệt  kỵ nhất ngày giờ trùng tang (cải mả gặp trùng tang như trồng Lang gặp gió bấc ).

 Nếu Động thổ, hạ móng, đổ bê tông mái, cất nóc, tân gia, ăn hỏi, rước dâu,nhập phòng, kỵ nhất ngày Không sàng, không phòng, cô thần, quả tú, giá ốc …

 Hạ thuỷ tàu thuyền phải chọn ngày theo con nước sinh, đỉnh triều.

 Lập đàn lễ bái kỵ ngày sát sư, không vong. v.v.

 Là nên làm. Cứ như thế suy ra những việc khác.

 Sau đó chọn những ngày giờ tốt, tránh xấu như sau :

 Tránh những ngày  giờ xấu như ; Sát chủ, Thụ tử, Trùng tang, Trùng phục, Không sàng, Không phòng, Thiên tai địa hoạ, Trời nghiêng đất lở, Hoang ốc, Thiên hình hắc đạo, Chu tước hắc đạo, Bạch hổ hắc đạo, Thiên lao hắc đạo, Huyền vũ hắc đạo, Câu trận hắc đạoDương công kỵ, Thập ác đại ma, Lục nhật phá quần. v.v..

5.Ngày giờ hoàng đạo

Tính ngày Hoàng đạo thì xem tháng đó là tháng gì theo hàng chi.

Tính giờ Hoàng đạo thì xem ngày đó là ngày gì theo hàng chi.

Dần, thân gia tý; mão dậu dần (Dần Thân từ cung Tý, Mão Dậu từ cung Dần)

Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân (Thìn Tuất từ cung Thìn, Tý Ngọ từ cung Thân)

Tị, hợi thiên cung tầm ngọ vị (Tị Hợi từ cung Ngọ )

Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân (Sửu Mùi từ cung Tuất)

Thứ tự thuận chiều tính như sau :

Đạo 道 Viễn 遠,  Kỉ 紀 ,  Thời 時,  Thông 通 , Đạt 達, Lộ 路 , Diêu 遙, Hà 何 , Nhật 日 , Hoán 逭 , Trình  程.

  Nếu ai biết chữ nho thì thấy chữ nào có bộ quai sước 辶 là Hoàng đạo (tốt)

 Cụ thể có 6 chữ  có quai sước (màu đỏ) là Hoàng Đạo : Đạo (Thanh long hoàng đạo), Viễn (Minh đường hoàng đạo) , Thông (Kim quỹ hoàng đạo), Đạt (Thiên đức hoàng đạo, Diêu (Ngọc đường hoàng đạo), Hoàn (Tư mệnh hoàng đạo). tốt.

 Còn lại là :Thiên hình hắc đạo, Chu tước hắc đạo, Bạch hổ hắc đạo, Thiên lao hắc đạo, Huyền vũ hắc đạo, Câu trận hắc đạo (xấu) .

 Sao Hoàng đạo vừa đem tốt lành đến vừa hoá giải được những điều hung kỵ.

6. Ngày Bất tương

 Tức là không dùng ngày Âm tương, Dương tương và Âm dương cụ tương (tương là sát khắc lẫn nhau) vì:

Âm dương nữ tử (hại cho bên nữ)

            Dương tương nam vong (hại cho bên nam)

            Âm Dương câu tương nam nữ cụ thương (hại cho cả nam và nữ)

            Âm Dương bất tương nam nữ kiết xương (Âm Dương bất tương nam nữ đều tốt).

Bảng lập thành ngày Bất tương

Tháng 1

Bính, Nhâm: tý; Ất, Kỷ, Tân, Quý: mão.

Tháng 2

Bính, Canh, Mậu: tý, tuất; Ất, Đinh, Kỷ: sửu.

Tháng 3

Ất, Đinh, Kỷ: dậu, sửu.

Tháng 4

Giáp, Bính, Mậu: tý; Giáp, Bính: thân; Ất Đinh: dậu; Giáp, Mậu: tuất.

Tháng 5

Kỷ Mùi, Mậu Tuất; Ất, Quý: mùi, dậu; Giáp, Bính: thân, tuất.

Tháng 6

Giáp, Nhâm: ngọ, thân, tuất; Ất, Quý: mùi, dậu; Mậu tuất, Kỷ mùi.

Tháng 7

Ất, Kỷ, Quý: tỵ, mùi; Giáp, Nhâm, Mậu: ngọ; Ất, Quý: dậu; Giáp, Nhâm: thân.

Tháng 8

Giáp, Nhâm, Mậu: ngọ, thìn; Giáp Tuất; Tân, Kỷ, Quý: tỵ, mùi.

Tháng 9

Kỷ, Tân: tỵ, mùi;  Canh, Nhâm, Mậu: ngọ; Quý; Tân: mão; Quý mùi.

Tháng 10

Mậu tý; Mậu, Canh, Nhâm: dần, thìn; Kỷ, Tân, Quý: mão.

Tháng 11

Canh, Nhâm, Mậu: thìn; Đinh, Kỷ: mão; Đinh, Tân, Kỷ: tỵ, sửu.

Tháng 12

Đinh, Tân, Kỷ: sửu, mão; Bính, Canh, Mậu: dần, thìn.

 6.      Xem Nhị Thập bát tú

Đông phương Thanh long (青龍): Giác (角) Cang (亢) Đê (氐) Phòng (房) Tâm (心) Vĩ (尾) Cơ (箕) …

Tây phương Bạch hổ (白虎): Khuê (奎) Lâu (婁) Vị (胃) Mão (昴) Tất (畢) Chủy/Tuy (觜) Sâm (參) …

Nam phương Chu tước (朱雀): Tỉnh (井) Quỷ (鬼) Liễu (柳) Tinh (星) Trương (張) Dực (翼) Chẩn (軫) …

Bắc phương Huyền vũ (玄武): Đẩu (斗) Ngưu (牛) Nữ (女) Hư (虛) Nguy (危) Thất (室) Bích (壁) …

 Trong số 28 sao có 14 sao tốt, 14 sao xấu.

 7.      Có 12 trực, mỗi tháng một trực, mỗi ngày một trực theo thứ tự sau :

  Gồm có :1- Kiến. 2- Trừ. 3- Mãn 4- Bình. 5-  Định. 6- Chấp. 7-  Phá. 8-Nguy. 9- Thành. 10- Thu.  11- Khai. 12- Bế.

 Trực dùng để chỉ tên cho 12 tháng âm lịch, về sau chuyển hóa dùng để chỉ ngày tốt hay xấu. Vào Tiết lập xuân, vào lúc hoàng hôn chập tối, sao cán gáo còn gọi là Diêu quang tinh tức là sao đứng đầu trong hình cán gáo thuộc chùm sao Đại hùng tinh – Bắc Đẩu chỉ vào hướng Đông Bắc hợp với cung Dần, nên tháng Giêng lập xuân Kiến Dần gọi là trực Kiến vào ngày Dần. Tiết Kinh Trập tháng 2, sao cán gáo cũng đúng lúc hoàng hôn chỉ hướng Chính Đông hợp với cung Mão nên gọi tháng 2 Kiến mão Trực Kiến vào những ngày Mão. Tiết Thanh Minh tháng 3, sao cán gáo chỉ hướng Đông Nam hợp cung Thìn nên gọi tháng 3 Kiến Thìn, Trực Kiến vào những ngày Thìn, lần lượt quay vòng như vậy, sau 12 tháng trở lại tháng giêng Kiến Dần.

  Chu kỳ quay hàng chi là 12 ngày, ngày trực cũng 12 ngày, nhưng vì tháng giêng Kiến Dần, tháng 2 Kiến Mão, nên mỗi tháng có hiện tượng 2 ngày liên tiếp cùng một trực, gọi là ngày Trùng Kiến. Bắt đầu từ ngày tiết đầu tiên của tháng nào thì theo trực của tháng đó.

Không phải Trực xấu là xấu mà phải xem Sinh Khắc với Mệnh và công việc để luận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan niệm ngày tốt xấu –

Tầm quan trọng của bàn thờ thần linh –

Trong các cửa hàng và nơi ở thường đặt một thần vị, nên đặt ở phòng lớn. Thần vị lại có hai điểm cần chú ý là không được đối diện với cửa hoặc đường đi, để tránh xung đột với đại hung, Ví dụ như: Đối nghịch với tay long: dễ tạo ra sự suy thoái của gi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

a vận, vợ chồng nhân duyên dễ rạn nứt, người chủ gia đình hoặc nam giới trong nhà dễ mắc bệnh nặng hoặc hoạn nạn. Đối nghịch với tay hổ: trong nhà sẽ có nhiều sự tranh chấp, nữ quyến hoặc nam đinh thứ trong nhà dễ mắc bệnh, vận đồ của nam giới không thuận, nữ nói nhiều, tham quyền.

My beautiful picture

Trong nhà nếu như bài vị tổ tiên mà cao hơn bài vị thần linh cũng là xấu, trong nhà dễ người dưới phạm thượng, bề dưới coi thường bề trên, tớ coi thường chủ, thiên địa đảo điên, nữ mạnh nam yếu.

Ngày nay có rất nhiều gia đình thờ cúng tổ tiên hai bên, nhưng trên bàn thờ thần nên lấy tổ tiên chính chủ làm đầu, không thể đồng thời cúng tiên bài vị của cả hai họ. Nếu có sự sai lầm này, sẽ tạo gia loạn, bất hoà, vận thế không thông, nặng thì tử tôn bát tự, dễ gặp bệnh thần kinh. Thường con người ta rất hạn chế hiểu biết với thần bếp, bao gồm những thần chức trách. Mọi người cùng nên biết rằng, công quả tu được từ việc thờ cúng thần minh trong thời gian dài ở trong bếp, trong quá trình thờ thần trong bếp cần phải phân thành thiên địa an bát quái, phân vị lò báo, tầng tầng an vị. Những điều này đều là có quy tắc, không phải là đến Tết mới thay đổi lại hoặc tùy ý di chuyển, như vậy tương đương với việc thần vị phải sửa đổi lại, công quả cũng cần phải sửa lại.

Thần linh bếp ở nơi bán hàng, trong quá trình lựa chọn nên đặc biệt chú ý đến kích thước, vì những quy cách của bếp cần phải hợp với kích cỡ của thước văn công (thước Lỗ Ban). Vì sao lại nói như vậy: Khi thiết kế bếp và mua bếp, mọi người chỉ chú ý đến hình thức bên ngoài, không quan tâm đến kích thước phù hợp hay không. Khi đó,  cần tránh các cung chữ màu đen trên thước Lỗ Ban như: Thất thoát, quan quỷ, ly, kiếp tài… Những bếp được đưa ra có những vấn đề như trên, hầu hết đều không có cách nào tránh khỏi những trệ khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tầm quan trọng của bàn thờ thần linh –

Xem tướng ngón chân –

1. Ngón chân đều ngay ngắn, móng đều, bóng: Tâm hồn luôn thư thái, sống thiện tâm. + Nếu ngón gầy thì người có bản lĩnh. + Nếu ngón béo thì nhàn hạ. 2. Ngón vẹo vọ: Người luôn bận tâm, chịu khó làm lụng. Người nóng tính, hấp tấp. + Nếu ngón xòe tỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2014-03-19ngon_chan

1. Ngón chân đều ngay ngắn, móng đều, bóng: Tâm hồn luôn thư thái, sống thiện tâm.
+ Nếu ngón gầy thì người có bản lĩnh.
+ Nếu ngón béo thì nhàn hạ.

2. Ngón vẹo vọ: Người luôn bận tâm, chịu khó làm lụng. Người nóng tính, hấp tấp.
+ Nếu ngón xòe tỏe ra: Vất vả, lao tâm, nghèo.
+ Nếu ngón lại gãy, gót bè bẹt thì tính ti tiện, thiếu nhân cách.

3. Ngón chân cái ngắn dùi đục: Khổ ải.

4. Ngón thứ hai dài hơn ngón cái: Sô’ mồ côi mẹ. Thuở thiếu thời long đong thiếu thốn, cô đơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng ngón chân –

Kiến thức quan trọng về phong thủy nhà chung cư

Dân cư thành thị tăng nhiều, nhà ở mặt đất ngày càng hiếm, rất nhiều người phải chọn nhà ở chung cư để giải quyết vấn đề chỗ ở. Bất kể là nhà đất hay nhà
Kiến thức quan trọng về phong thủy nhà chung cư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chung cư thì cũng cần lựa chọn phong thủy kỹ càng để gia vận không bị đi xuống.

Kien thuc quan trong ve phong thuy nha chung cu hinh anh
Ảnh minh họa

 
## cung cấp 7 điều quan trọng cho phong thủy nhà chung cư:
 
1. Ban công không đối thẳng với cửa ra vào và cửa bếp
 
Ban công và cửa ra vào đều có tác dụng lưu thông không khí và ánh sáng nhưng nếu ban công đối viện với cửa ra vào hoặc phòng bếp thì theo phong thủy nhà ở sẽ hình thành hình thế “Xuyên tâm sát”, làm cho vận khí trong nàh không tốt, tài vận khó có thể tụ lại, vợ chồng không đoàn kết, mọi người không muốn về nhà…
 
Hiện tại, có nhiều nhà lại có hình thế như vậy và họ cho rằng như vậy thì rất là thông gió mà không hay đã phạm vào thế Xuyên tâm sát. Để hóa giải hình thế này thì có thể đặt cây xanh hoặc bình phong ngăn cách.

2. Giường ngủ, bàn học và sô-pha không thể đặt dưới xà ngang

Đặt giường, bàn học hoặc sô-pha ở dưới xà ngang thì người trong nhà sẽ gặp nhiều bất lợi, sống trong thời gian dài sẽ cảm thấy áp lực, thần kinh suy nhược, sức khỏe gặp nhiều bất lợi, bởi vậy, khi bố trí đồ đạc cần tránh đặt dưới xà nhà, nếu không thể tránh thì có thể dùng các phương pháp để che xà ngang đi.   3. Bếp nấu không đối diện với ban công, cửa phòng bếp hoặc cửa ra vào
 
Nếu phạm phải thì người trong nhà sẽ bị ảnh hưởng tới sức khỏe, biện pháp hóa giải vẫn là ngăn cách, có thể treo rèm hoặc bình phong.

Kien thuc quan trong ve phong thuy nha chung cu hinh anh
Ảnh minh họa
  4. Không tùy tiện treo gương   Gương mang lại cảm giác không gian được rộng mở nhưng gương không thể tùy tiện treo, nếu không sẽ phạm phải những quy tắc cấm kỵ trong phong thủy nhà chung cư. Trong nhà nếu treo 2 chiếc gương, thậm chị là 3 chiếc gương phản xạ sẽ làm con người bị ảo tưởng, ban đêm còn gây ra những cảm giác kinh hãi, ảnh hưởng tới hệ thần kinh. Nếu muốn treo một chiếc gương lớn thì có thể treo bên ngoài và dùng rèm để che khuất khi không dùng tới.   5. Quy tắc sử dụng phòng bếp   Phòng bếp nên sắp xếp gọn gàng, ngay ngắn. Không gian phòng bếp sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe của người sử dụng, vì vậy không nên để phòng bếp bừa bãi, bẩn thỉu.   6. Trên đầu giường không nên treo bức tranh lớn   Các cặp vợ chồng thường treo một bức ảnh cưới của mình trên đầu giường, trong phong thủy rất cấm kỵ điều này. Làm như vậy nếu không may bức ảnh rơi xuống thì hiểm họa rất lớn hoặc trong cuộc sống hàng ngày cũng tạo ra sự uy hiếp.   7. Chậu cây hoa cảnh có khả năng hóa giải khuyết góc
 
Nếu cửa nhà đối diện với góc nhọn hoặc những đồ vật lớn sắc nhọn hoặc bên trong phòng, giường ngủ hoặc bàn học đối diện với góc tường, như vậy sẽ tạo thành thế góc sát, ảnh hưởng tới sức khỏe cùng tài vận của gia chủ. Đối với hình thế như vậy thì việc đặt chậu hoa cây cảnh là cách hóa giải tốt nhất.
► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Phương Thùy

Cách hóa giải đơn giản và hiệu quả cho thế “cửa đối cửa” Kiến thức cơ bản phải nắm của phong thủy dương trạch 5 lỗi phong thủy nhà ở khiến cuộc sống gia chủ khốn đốn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức quan trọng về phong thủy nhà chung cư

Tiết Lập Đông tiễn thu đón đông, vạn vật ủ ấm

Tạm biệt nóng bức, đón chào giá lạnh, sau thu nghênh đông. Tiết Lập Đông – một trong 24 tiết khí hàng năm đã đến.
Tiết Lập Đông tiễn thu đón đông, vạn vật ủ ấm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  


► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com

Tiet Lap Dong tien thu don dong, van vat u am hinh anh
 
Tiết Lập Đông là tiết khí bắt đầu mùa đông, kéo dài từ ngày 7 hoặc 8 tháng 11 đến 22 hoặc 23 tháng 11 dương lịch. Lúc này, Mặt Trời ở xích kinh 225°. Đây cũng là thời điểm kết thúc một năm mùa màng, tạm gác chuyện mùa màng, thu hoạch cấy hái, thu về tiền của cả năm. Nông dân lo tu sửa, bồi đắp đê điều, thủy lợi và cơ sở vật chất để chuẩn bị cho năm sau.   Trong dân gian, tiết Lập Đông được coi là tiết khí chủ động báo đông về, vạn  vật thu gom, thu hoặc phơi sấy xong xuôi, nhập kho, động vật cũng chuẩn bị ngủ đông. Như vậy, không chỉ là tiết khí đại diện cho đông đến mà Lập Đông còn là lúc vạn vật náu mình tránh rét.   Lập Đông cũng như Lập Thu, có thể dựa vào đó mà dự đoán thời tiết của mùa đông. Ví như Lập Đông trời quang đãng không mưa thì mùa đông lạnh; Lập Đông mưa dầm thì mùa đông ấm áp, ít lạnh hơn.    Về thời tiết, Lập Đông thì Bắc bán cầu thu được ánh sáng Mặt trời ngày càng ít nhưng nhiệt lượng từ nửa năm trước vẫn chưa tan hẳn nên chưa quá lạnh. Thời gian này sắc trời sáng sủa, ấm ấp không chỉ rất hợp lòng người mà còn rất có lợi với thu hoạch và sinh trưởng của các loại cây mùa đông. 
 
Tiet Lap Dong tien thu don dong, van vat u am hinh anh
 
Nhưng ở phía Bắc thì khí lạnh đã mạnh, không khí lạnh lẽo, hình thành gió to, nhiệt độ hạ xuống, xuất hiện mưa. Không khí lạnh không ngừng tràn xuống ảnh hưởng tới phía Nam. Từ đây, càng ngày thời tiết càng lạnh và khô, mặt trời ít lo, chủ yếu là khí trời hơi âm u.   Trong tiết Lập Đông, quan trọng nhất là giữ ấm cổ và ngực, không ra ngoài quá sớm, không về nhà quá khuya vì phổi dễ bị tổn thương. Khí khô, lạnh cần nhất là bổ sung bình, ấm cho cơ thể để trơn phổi, ích tỳ, kiện thận. nên uống rượu hoa cúc, ăn thịt thỏ, thịt vịt, gạo nếp, tập thể dục hàng ngày, ngâm chân nước muối gừng ấm mỗi tối.
Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 1) Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 2) Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 3)
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Lập Đông tiễn thu đón đông, vạn vật ủ ấm

Phong thủy tốt xấu không bằng làm 5 điều tốt đẹp này

Phong thủy tốt xấu là yếu tố tác động từ phía bên ngoài môi trường sống, bài trí phong thủy tốt nhằm thu hút nguồn năng lượng tích cực, thúc vượng vận khí...
Phong thủy tốt xấu không bằng làm 5 điều tốt đẹp này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy là những yếu tố tác động từ phía bên ngoài môi trường sống, bài trí phong thủy tốt nhằm thu hút nguồn năng lượng tích cực, thúc đẩy vận khí con người. Tuy nhiên, điều cốt lõi tận sâu thẳm trong mỗi người mới có quyền năng mạnh mẽ trong việc điều hướng cuộc đời tốt xấu.     Phong thủy tốt xấu phụ thuộc vào chính phúc phận của con người. Người có phúc phận, nếu sống ở nơi có phong thủy xấu nhưng rồi cũng sẽ chuyển biến tốt đẹp. Trái lại, nếu sống nơi phong thủy tốt đẹp nhưng bản thân lại không hướng về điều đó, thế rồi phong thủy tốt cũng sẽ tự bị phá vỡ.    Nói như vậy để thấy rằng, không phải cứ ở nơi có phong thủy tốt, cuộc sống của chúng ta khắc sẽ thuận lợi viên mãn. Thế mới nói phong thủy tốt hay xấu phụ thuộc vào phúc phận của con người. Và để có phúc phận, con người cần phải tu thân, dưỡng đức.   Theo quan niệm nhà Phật, vạn vật trên đời đều có linh tính, vậy nên con người cần phải tôn kính Trời đất, ngày tháng, núi sông, cỏ cây, vạn vật… Chúng ta tôn kính chúng, chúng sẽ giúp ta thành công, dù ở bất cứ nơi nào.   Dưới đây là 5 điều thực sự cần thiết mà mỗi người cần có, cần làm trong đời để có được cuộc sống nhàn hạ về tinh thần, đầy đủ về vật chất.

 

Phong thuy tot xau khong bang lam 5 dieu tot dep nay hinh anh
 

Điều thứ nhất: Không sát sinh
 

Phong thủy tốt xấu phụ thuộc vào đức độ của mỗi người. Mảnh đất có thế phong thủy tốt là mảnh đất mà ở đó, sinh khí vượng nhất. Sát sinh sẽ khiến các sinh linh sợ hãi, tìm cách tránh xa, đồng thời nhớ kỹ những trường hợp không nên sát sinh để không phạm phải. Bạn hãy thử nghĩ xem nơi nào không có sinh linh? Đó chính là sa mạc.
 
Trên sa mạc khô cằn, hầu như chẳng có thứ gì có thể sinh sống, vậy làm sao nó có thể mang đến vinh hoa phú quý, niềm vui, an khang cho chúng ta?
 

Điều thứ hai: Không nói xấu người khác
 

Ngay cả người thân trong nhà, chúng ta cũng không nên nói xấu. Bởi lẽ một khi vạn vật đều có sinh linh, nghĩa là chúng có thể nghe chúng ta nói. Khi ta nói xấu ai đó, không phải là một hay hai người có thể nghe mà vạn vật đều sẽ biết và chúng không phục ta.
 
Giống như một vị tướng, nếu không được quân sĩ phục tùng, vị tướng đó hẳn sẽ không trấn áp được quân, lòng quân ắt sẽ loạn. Khi họ theo bạn lâu, họ sẽ học bạn những điều đó và trở nên giống bạn. Đây chính là lý do vì sao tục ngữ vẫn nói: "Vạn vật đều mang hình tượng của người chủ".
 
Vì điều này mà nhiều thầy tướng chỉ cần nhìn qua đồ của người khác là biết ngay đó là người thế nào. Những đồ vật này tự nó đã nói lên tính cách, con người của chủ nhân.

Phong thuy tot xau khong bang lam 5 dieu tot dep nay hinh anh
 

Thứ thứ ba: Hiếu thuận với cha mẹ
 

Tôn trọng người lớn tuổi, yêu thương trẻ nhỏ, đó là truyền thống của người Á Đông. Hiếu thuận với cha mẹ là cách cải thiện số mệnh tốt nhất, không hỗn hào với bậc sinh thành cũng là một nguyên tắc cơ bản có thể thay đổi hoàn toàn vận mệnh một con người.
 
Hiếu thuận với người sinh thành là nguyên tắc cơ bản để thay đổi vận mệnh đời người theo hướng tốt đẹp.
 

Điều thứ tư: Tự đặt mình ở vị trí thấp nhất
 

Biển cả vì ở nơi thấp nhất mà trở thành nơi quy tụ của trăm sông. Vì thế mỗi chúng ta nếu tự đặt bản thân ở vị trí thấp nhất, trí tuệ, phúc đức của vạn vật sẽ đổ về hội tụ.
 
Thông qua cách nói chuyện, làm việc của một con người là đã có thể thấy được phúc phận của người đó. Những người ăn nói hòa nhã, biết nghĩ cho người khác, thường xuyên giúp đỡ người khác, vận khí trong người sẽ tự nhiên mà hanh thông.
 
Hãy bao dung với khuyết điểm của người khác, để bản thân có thể nâng đỡ vạn vật. Làm được việc đó, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng, cuộc sống vì thế mà trở nên thanh thản, phú quý tự tại.
 
Hãy khiêm nhường, đặt bản thân ở vị trí thấp nhất, nghĩ cho người khác, chúng ta sẽ hội tụ được phúc đức và trí tuệ cho bản thân.

Phong thuy tot xau khong bang lam 5 dieu tot dep nay hinh anh
 

Điều thứ năm: Đức hạnh không đủ, tất có tai ương
 

Chúng sinh phúc mỏng, cũng bởi sự tôn trọng, cung kính dành cho nhau ngày một ít. Bạn kính trọng ai, tôn trọng cái gì, người đó, vật đó sẽ sẵn lòng bao bọc lấy bạn, giúp đỡ bạn.
 
Người xưa có thể bắt mạch để phán đoán phúc lộc của một con người. Điều này là có cơ sở và là một thực tế không thể phủ nhận. 
 
Sở dĩ người xưa làm được như vậy là bởi tất cả những sự vật bên cạnh một con người chính là tâm tướng của người đó được phóng đại ra bên ngoài. Quan sát tỉ mỉ và cẩn thận những thứ này, có thể nhìn ra được con người của người đó. Có đức mặc sức mà ăn, thường xuyên tích đức tạo nghiệp lành không chỉ tốt cho bản thân mà còn lưu cho đời con cháu.
 
Của cải, tài sản chỉ có thể dùng đức dày mà duy trì, nếu ngược lại, có khi của cải sẽ trở thành tai họa. Lấy một ví dụ dễ hiểu, có người sở hữu tài sản vài trăm tỷ đồng cũng không sợ hãi, có người sở hữu vài tỷ đồng đã lo lắng sợ hãi, sợ rằng sẽ bị người khác trộm, cướp mất…
 
Nếu là người không có đức, vài tỷ đồng rồi cũng sẽ bị phung phí hết vào những thói chơi bời trác táng, cuối cùng lại tự hại bản thân, tâm hồn, sức khỏe đều trở nên tàn tạ. Đây chính là đạo lý không dùng đức dày mà duy trì sự giàu có thì sẽ gặp phải tai ương.   T.H  
Lời Phật dạy: Đẹp từ Tâm là cái đẹp vẹn toàn Lời Phật dạy: 5 món của cải vô giá nhất định cha mẹ phải truyền lại cho con cái Lời Phật dạy: Đời người là mộng ảo

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tốt xấu không bằng làm 5 điều tốt đẹp này

Câu chuyện về ứng dụng ngũ hành trong kinh doanh

Một câu chuyện có thật về thuật phong thủy trong kinh doanh được một thành viên chia sẻ với các chuyên gia của chúng tôi.
Câu chuyện về ứng dụng ngũ hành trong kinh doanh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Tôi có người anh họ ở Nam Định, lên Hà Nội mở quán Hải Sản, một lần tôi rủ mấy người bạn đến đó nhậu, ngạc nhiên thấy nét mặt ông chủ quán - Anh họ tôi rất ỉu xìu". Quán nhậu này từ lúc mở tại đây đã hơn 1 năm đều đông khách và thu về rất nhiều. Cách đây chừng 3 tháng, có một quán Hải Sản khác chuyển đến đúng căn nhà đối diện bên kia quán và cướp kết khách của anh" - Anh tôi tâm sự. Ngoài ra anh còn nói rằng không thể tin nổi vì sao lại bị mất khách vì giá thành của 2 bên gần như nhau trong khi đồ ăn thức uống bên đó có phần kém mình. Mấy tháng nay quán vắng như chùa bà đanh, có chăng cũng chỉ vài người khách quen. Anh đứng ra ngoài chỉ trỏ, "đấy, em nhìn bên kia, khách nó lườm lượp đúng như quán anh mấy tháng trước thôi", rồi thở dài buồn rười rượi muốn chuyển quán ăn đến khu vực khác. Khi nhìn sang quán đó, tôi nhận ra 1 điều, đây là 2 quán hải sản duy nhất của Khu phố mà vị trí đối diện nhau chan chát, con phố thì hẹp, 2 quán ăn có chiều rộng gần bằng nhau và đều là 2 tầng. Trên quán đối diện treo một tấm biển to và bên dưới đỡ bằng 1 hàng thép khoảng D16 neo chặt vào tường, cái đặc biệt ở chỗ là hàng thép gồm nhiều thanh thép xếp song song, một đầu được cán nhọn hoắt như đầu mũi kim nhọn hướng thẳng về phía đối diện.

Tôi chợt hiểu ra đây giống cách thức dùng lưỡi cày mà chôn trước cửa nhà người ta để mong hại cả nhà người ta đây mà. Kéo anh vào trong nhà trong, tôi thủ thỉ bày anh cách hóa giải cái hại này. Anh tôi là thành phần vô thần, ko mê tín dị đoan chỉ biết làm ăn chân chất, có lẽ nghe tôi nói một hồi không hiểu lắm, anh bèn bắt tôi ghi cụ thể ra giấy để làm theo, vì sợ nghe mà chưa hiểu hết chưa nhớ được sẽ làm sai. Tôi nói sao viết vậy cho anh như sau: "Đây là một trò của bọn làm ăn, dùng phong thủy để cạnh tranh với người đối diện. Nó dùng mũi sắt để phá quán nhà anh. Bây giờ anh phải thay biển cửa hàng, nó dùng kim khí phá mình thì mình phải dùng hỏa khắc lại, biển cửa hàng anh phải làm bằng kích thước biển nhà nó, đặt thấp hơn, 3/4 diện tích phía trên biển sơn màu đỏ đậm đối diện với mũi sắt chĩa sang, chính giữa phần này ghi tên quán ăn, 1/4 diện tích phía dưới sơn màu đen tuyền, phần này ghi địa chỉ quán ăn. Vì màu đỏ hành hỏa, hỏa khắc kim, làm chảy kim, khi mũi sắt hướng sang bị kim khắc sẽ biến thành thủy, thủy chảy xuống dưới nên để 1/4 diện tích dưới là màu đen tuyền (đen là thủy), phần này ghi địa chỉ chính là làm vượng cho quán ăn. Đồng thời biển cửa hàng nhà anh phải dùng vật liệu sáng bóng, phản chiếu để phản chiếu toàn bộ mũi nhọn ngược trở lại. Như thế, biến cái khắc của nó thành cái vượng của mình đồng thời đem cái khắc của nó cho nó hưởng một ít".

Thực ra tôi bày cho anh cũng chỉ là cảm hứng nhất thời và không nghĩ anh sẽ làm theo, khoảng 5 tháng sau, anh gọi cho tôi cảm ơn và mời tôi đến quán nhậu 1 bữa. Tôi rất ngạc nhiên khi đến nơi mọi thứ đã thay đổi hẳn, anh treo biển rất cẩn thận theo đúng như lời khuyên. Anh kể rằng, từ khi thay biển mới khoảng chừng 1 tháng, khách hàng lại đông dần lên và quán làm ăn được trở lại. Bên kia thì khách hàng đã thưa dần tuy nhiên vẫn không đến mức hiếm hoi như quán anh trước đây. Anh nói nhờ tôi mà anh không phải chuyển cửa hàng. Tôi cũng mừng thầm và nghĩ rằng có lẽ cái thâm thúy của Ngũ hành thực ra đơn giản vậy".

Bởi vậy, khi bắt tay vào kinh doanh bạn phải làm dày thêm vốn hiểu biết về phong thủy, như chọn ngày, chọn đối tác, xem hướng, hiểu ngũ hành... như vậy mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ hơn rất nhiều.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện về ứng dụng ngũ hành trong kinh doanh

SAO QUAN ĐỚI

quan đớI (Kim) *** 1. Ý nghĩa của quan đới: a. Về vật dụng: Quan Đới là cái đai, biểu tượng cho chức vị,...
SAO QUAN ĐỚI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

quan đớI (Kim) 



***

1. Ý nghĩa của quan đới:
a.  Về vật dụng: Quan Đới là cái đai, biểu tượng cho chức vị, quyền hành
b. Về công danh: chỉ sự háo danh, háo quyền từ đó có nghĩa phụ là có chức vị, quyền thế. Về điểm này, Quan Đới giống như Thai Phụ, Phong Cáo, Hóa Quyền.
c. Về phúc thọ, tai họa: Quan Đới báo hiệu cho cái chết bất đắc kỳ tử và mau chóng Quan Đới, Tang, Hổ: chết bất ngờ vì đứt gân máu Quan Đới, Không, Hỏa: chết vì súng đạn, lửa, bom Tọa thủ ở bất cứ cung nào chỉ người, cách chết bất đắc này sẽ xảy ra cho người đó.

2. Ý nghĩa của quan đới và một số sao khác:
Quan Đới:             - gặp nhiều sao mờ ám xấu xa thì gây rắc rối, phiền nhiễu, ngăn trở mọi công việc.             - gặp nhiều sát bại tinh, Quan Đới ví như sợi dây thắt cổ, trói buộc, tự ải.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO QUAN ĐỚI

Cẩn thận đặt máy tính sai phong thủy rước họa thị phi

Đặt máy tính ở nơi có mặt trời chiếu trực tiếp sẽ khiến Hỏa khí vượng, người sử dụng dễ nóng vội và phát sinh mâu thuẫn với đồng nghiệp.
Cẩn thận đặt máy tính sai phong thủy rước họa thị phi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy văn phòng, máy tính cũng là một trong những yếu tố làm tăng năng suất công việc. Do đó, cần hết sức lưu ý khi bài trí máy tính theo phong thủy.

 

1. Đặt máy tính phía bên phải bàn làm việc
 
Theo quan điểm phong thủy văn phòng, phía bên phải có chòm sao Bạch Hổ áng ngữ, còn bên trái là chòm sao Thanh Long. Nếu máy tính đặt phía bên phải bàn làm việc tức ở hướng Bạch Hổ sẽ bất lợi, vì “Long sợ xú uế, Hổ sợ động”, mà máy tính luôn trong trạng thái làm việc không ngừng.

Do đó, nếu đặt máy tính phía bên phải bàn làm việc sẽ khiến hàng loạt những bất lợi xảy ra, thậm chí bạn có thể vướng vào những rắc rối thị phi nơi công sở.
  2. Đặt máy tính ở nơi có ánh mặt trời chiếu mạnh
 
Máy tính ở phòng làm việc không nên đặt ở những nơi có ánh sáng mặt trời chiếu mạnh trực tiếp. Bởi theo phong thủy, ánh mặt trời thuộc hành Hỏa, máy cũng tính thuộc hành Hỏa. Khi hai Hỏa gặp nhau tạo thì Hỏa khí quá vượng.

Nếu tình trạng này kéo dài, lâu dần sẽ khiến người sử dụng máy tính nóng vội, tính cách hung bạo, đồng thời sẽ phát sinh mâu thuẫn và tranh chấp với đồng nghiệp, không tránh khỏi họa khẩu thiệt thị phi.

Can than dat may tinh sai phong thuy ruoc hoa thi phi hinh anh
Ảnh minh họa
  3. Đặt máy tính ở nơi ẩm thấp, u ám
 
Theo quan điểm phong thủy, không nên đặt máy tính ở những nơi gần bể nước, bể cá, tiểu cảnh sông suối, nhà vệ sinh…Bởi lâu ngày sẽ khiến tuổi thọ máy tính giảm do nhiễm ẩm, hiệu quả công việc theo đó cũng giảm.    Điều này phạm quy tắc tương khắc trong ngũ hành “Thủy Hỏa tương khắc”. Nếu sử dụng lâu sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tinh thần người dùng máy, từ đó tác động nhiều đến lối tư duy trong công việc, sự nghiệp sẽ không thăng tiến.    4. Đặt máy tính ở nơi có nhiều tạp vận lộn xộn
 
Các tạp vật lộn xộn không chỉ ảnh hưởng đến khả năng tập trung làm việc, chúng còn có nguy cơ khiến máy tính hỏng hóc nếu vô ý va chạm phải.

Dưới góc độ phong thủy, khi làm việc mà trước mắt toàn thứ lộn xộn sẽ khiến tinh thần sao nhãng, khó tập trung hoàn thành tốt công việc. Cần phải giữ gọn gàng nơi để máy tính, như vậy tinh thần mới thoải mái để nâng cao hiệu suất làm việc.
  5. Đặt máy tính ở nơi không khí lưu thông kém

Nếu không khí lưu thông kém, các bức xạ máy tính sẽ ảnh hưởng trực tiếp và nhiều hơn đến người sử dụng. Điều này khiến bạn kém nhạy bén trong công việc, đầu óc kém minh mẫn để xử lí các tình huống bất ngờ. Đặt máy tính phong thủy đúng là phải ở nơi có nguồn khí lưu thông tốt, thoáng đãng, vừa tốt cho sức khỏe lại hút được nhiều vượng khí.
Việt Hoàng (Theo ZY)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cẩn thận đặt máy tính sai phong thủy rước họa thị phi

Mơ thấy bím tóc: Quan hệ giao tiếp xấu, có người muốn kiện cáo bạn –

Đầu tiên người ta sẽ dùng lược phân rẽ tóc, sau đó kết chúng thành những hình dáng khác nhau, đó gọi là bím tóc. Mơ thấy bím tóc người khác, cho thấy bạn có đôi chút căng thẳng với người xung quanh. Mơ thấy bím tóc của mình, bạn cẩn thận, sẽ có ngườ
Mơ thấy bím tóc: Quan hệ giao tiếp xấu, có người muốn kiện cáo bạn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bím tóc: Quan hệ giao tiếp xấu, có người muốn kiện cáo bạn –

Những con giáp nữ ít khi nhúng tay làm việc nhà

Với các cô nàng tuổi Ngọ, Thân và Dậu, việc nhà như một án phạt nặng nề mà họ chẳng bao giờ muốn chấp nhân.
Những con giáp nữ ít khi nhúng tay làm việc nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1: Cô nàng tuổi Ngọ

Những cô nàng tuổi ngựa sẽ giỏi việc nước, nhưng không thể đảm việc nhà. Họ nhanh nhẹn, năng động và dễ thích nghi với cái mới. Ngoài ra, con giáp này còn là kho tàng sáng tạo với hàng tá ý tưởng đột phá. Trong học tập, công việc, họ luôn được vinh danh và khiến nhiều người phải ngưỡng mộ.

Ngo-9797-1441610959.jpg

Mặt khác, khi thường xuyên được sống trong cảm giác chiến thắng, con giáp này cho rằng việc mình làm là to lớn, không phù hợp với việc nhà lặt vặt. Vậy nên, nếu bị ép buộc phải làm, người tuổi Ngọ sẽ chỉ đối phó. Hoặc nếu được chiều chuộng, sống trong nhung lụa, cô nàng cầm tinh con ngựa càng không muốn động chân tay vào việc dọn dẹp.

No.2: Cô nàng tuổi Thân

Không thể phủ nhận những cô gái cầm tinh con khỉ ham chơi. Họ sẵn sàng từ bỏ công việc, tương lai để thỏa mãn thú vui của bản thân. Trong đầu họ lúc nào cũng buồn chán khi rảnh và phải nghĩ ngay tới việc vui chơi để khỏa lấp chỗ trống. Với họ, việc học hành không quá quan trọng, nói gì đến vài ba chuyện nấu nướng, dọn dẹp.

than-5852-1441610959.jpg

Hơn nữa, người tuổi Thân còn thiếu tính kiên nhẫn. Phải làm những việc lặp đi lặp lại ở nhà càng khiến họ thấy chán nản. Trừ khi cô nàng tuổi Thân ghép đôi với một người đầy lòng nhiệt huyết, chăm chỉ, họ mới ngộ ra được bất kỳ công việc gì cũng cao quý và đáng trân trọng.

No.3: Cô nàng tuổi Dậu

Mẹo để trở nên nhà hạ của những cô nàng tuổi Dậu là “mồm miệng đỡ chân tay”. Họ khéo léo, giỏi đối đáp và ứng xử nhanh nhẹn, nên người ngoài ít biết bản chất chán ghét việc nhà của họ. Thậm chí, với nhiều người dễ tính, cô nàng tuổi Dậu còn được đánh giá là đảm đang. Trên thực tế, họ chỉ thích chỉ tay năm ngón, điều hành người khác làm việc.

dau-7110-1441610960.jpg

Bản thân con giáp này có phần tự tin thái quá vào năng lực của mình nên cho rằng mình sẽ thành công trên thương trường, những việc vặt sẽ để nửa kia hoặc người giúp việc lo toan. 

U5593P54DT20150513135258-14412-2062-5013 Con gái tuổi nào khó 'cưa' đổ nhất

Mr.Bull (theo DZYX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp nữ ít khi nhúng tay làm việc nhà

Bài trí nội thất theo phong thủy cho phòng ngủ vợ chồng trẻ

Không chỉ là nơi ngủ nghỉ sau một ngày làm việc căng thẳng và mệt mỏi, phòng ngủ còn là không gian giúp ươm mầm và làm bùng lên ngọn lửa ấm áp của hạnh phúc gia đình. Do đó khi bố trí phòng ngủ, bạn nên chú ý đến tất cả các yếu tố từ vị trí căn phòng, ánh sáng giường ngủ... đến cách trang trí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Vị trí giường ngủ tốt nhất là nhìn theo hướng Nam Bắc thuận theo sức hấp dẫn của từ trường. Đầu nhìn theo hướng Nam hay hướng Bắc khi ngủ sẽ rất có ích cho sức khỏe

Theo quan niệm phong thủy, phòng ngủ đặt ở phía Tây ngôi nhà có lợi đối với việc cải thiện và bồi đắp tình cảm trong đời sống vợ chồng.

- Cửa phòng ngủ không nên đối diện với cửa nhà bếp để tránh sự ô nhiễm của khói bếp.

- Đầu giường ngủ phải được kê sát tường, có như vậy vận khí của gia chủ mới có nền tảng để phát triển, không bị rơi vào thế cô lập hoặc mất chỗ nương tựa.

Bất kể giường đặt chỗ nào cũng phải để cho ánh sáng mặt trời chiếu được đến mặt giường qua cửa sổ phòng ngủ hoặc cửa phòng ngủ. Điều này rất tốt cho việc hấp thu năng lượng của thiên nhiên và có lợi cho sức khỏe con người.

- Không nên có xà nhà ở phía trên giường ngủ để tránh cho người nằm trên giường không bị cảm giác đè ép, làm tổn hại đến tinh thần. Máy điều hòa không khí, đèn chùm cũng tránh không treo ngay phía trên giường ngủ.
    

- Giường ngủ không nên đối diện với cửa phòng ngủ. Khi đứng tại cửa phòng ngủ nhìn vào trong, nếu thấy giường bất kể là đầu giường, đuôi giường hay giữa giường cũng đều rơi vào trường hợp cửa xung chiếu trực tiếp (đối diện) với giường.

- Không nên để các vật dụng linh tinh dưới giường ngủ, càng không nên để quần áo cũ bẩn vì sẽ làm bất lợi cho người mẹ và thai nhi.

- Không nên đặt gương đối diện với giường ngủ, nếu nửa đêm giật mình thức giấc, người ngồi dậy sẽ dễ bị hoảng hốt vì thấy bóng mình trong gương, lâu ngày sẽ gây ra chứng tự kỷ ám thị. Tốt nhất là gắn gương ở mặt trong của tủ quần áo trong phòng ngủ.
 

  

- Một điều cần lưu ý, bạn không nên dùng màu đỏ tươi để sơn tường của phòng ngủ. Màu đỏ rực rỡ chỉ khiến cho tinh thần con người thêm hưng phấn vì bị kích thích cao độ. Con người trong tình trạng kích động như thế về lâu dài sẽ dễ bị suy sụp tinh thần, gây ra tâm lý bực dọc, nóng nảy.

Song song với việc lựa chọn màu sắc, ánh sáng cũng là một yếu tổ rất quan trọng trong không gian phòng ngủ. Do là không gian yên tĩnh nghỉ ngơi nên phòng ngủ không phù hợp với ánh đèn có độ sáng mạnh, gây tâm lý căng thẳng, bất an. Do đó, tốt nhất phòng ngủ nên chọn loại đèn có ánh sáng dịu nhẹ, các loại đèn hắt có tác dụng thư giãn tinh thần sau một ngày làm việc mệt mỏi.

- Không trưng bày đao kiếm, hung khí, tượng thần hay bàn thờ… trong phòng ngủ làm ảnh hưởng đến trường khí ổn định, bình an của phòng ngủ.

Hạn chế trang trí phòng ngủ bằng những vật dụng bằng kim loại bởi những vật dụng kim loại này mang tính lạnh nên không thích hợp với không gian ấm cúng, yên tĩnh cần có của phòng ngủ.

(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí nội thất theo phong thủy cho phòng ngủ vợ chồng trẻ

Cách bày mâm cỗ ngày tết của người Việt

Tết thường bắt đầu từ 30 tháng Chạp (ít nhất đến mùng 4, mùng 5) ở một số nơi, người ta ăn Tết vui chơi, hội hè đình đám… kéo dài đến hết tháng Giêng
Cách bày mâm cỗ ngày tết của người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thế nhưng, việc chuẩn bị có khi bắt đầu từ những ngày đầu tháng Chạp và phải hoàn tất trước buổi trưa ngày 30. Đây cũng là cách con cháu thể hiện sự tưởng nhớ, lòng biết ơn đối với ông bà, tổ tiên của mình.

Tùy vào điều kiện mỗi gia đình mà sắp xếp chuẩn bị mâm cỗ lớn cúng đón rước ông bà vào buổi trưa hoặc buổi chiều 30, và mâm cỗ vào ngày mồng 3 hoặc mồng 4 Tết để tiễn ông bà đi gọi là cúng đưa.

Do điều kiện địa lý, thói quen trong ăn uống, phong tục của từng miền. Nên mỗi miền có mâm cỗ Tết khác nhau. Ở miền Bắc gọi là mâm cỗ, miền Trung gọi là mâm cộ, miền Nam gọi là mâm cơm cúng ông bà.

1. Mâm cỗ miền Bắc:

Mâm cỗ Tết miền Bắc theo đúng bài bản, thường thì 4 bát, 4 dĩa. Cỗ lớn thì 6 bát, 6 dĩa hoặc 8 bát, 8 dĩa…có khi mâm cỗ lớn phải xếp cao đến 2, 3 tầng. Trước khi dâng cúng tổ tiên thì dùng giấy trang kim đậy các bát, đĩa thức ăn lại cho vệ sinh, tinh khiết và đẹp mắt.

Bốn bát, bốn dĩa gồm: bát giò heo hầm măng lưỡi lợn, bát bóng thả, bát miến, bát mọc. Bốn dĩa gồm: dĩa thịt gà, dĩa thịt heo, dĩa giò lụa, dĩa chả quế.

Rồi có thể thêm những dĩa như: dĩa thịt đông, dĩa giò thủ, dĩa xào hạnh nhân, dĩa lạp xưởng khô, dĩa trứng muối, dĩa cá kho riềng, dĩa nộm sứa hoặc nộm rau quả….

Bánh Tết ở miền Bắc phổ biến nhất là bánh chưng ăn kèm dưa hành.

Món tráng miệng đặc trưng thì có mứt sen, mứt quất, mứt gừng, hồng khô, ô mai mơ gừng….Đặc biệt món chè kho có tính giải độc và giả rượu.

Mâm cơm cúng ông bà ngày 30 Tết ở miền Nam, luôn luôn có thịt heo kho nước dừa với trứng hoặc cá lóc kèm dưa giá, canh khổ qua nhồi thịt (khổ qua là mướp đắng, nhưng người Nam bộ muốn chơi chữ đồng âm theo nghĩa Tiếng Việt).

Theo dân gian thì khổ qua là món ăn mong muốn sự khổ cực trong năm cũ qua đi, để tiếp đón điều tốt đẹp trong năm mới.

Các món nguội như gỏi ngó sen, tai heo ngâm dấm, tôm khô-củ kiệu, giò heo nhồi, lạp xưởng tươi,phá lấu,nem, chả.


2. Mâm cỗ miền Nam: Miền Nam phổ biến nhất là bánh tét ăn kèm cà rốt, củ cải ngâm nước mắm.

Món tráng miệng: có các loại mứt trái cây như: mứt dừa, mứt me, mứt khoai, mứt ổi, mứt mảng cầu, mứt củ năng,bánh ít ngọt, kẹo thèo lèo và kẹo chuối,…

Ngoài ra còn có món tráng miệng rất đặc sắc là cơm rượu.

Mâm cộ Tết miền Trung thì có các món nước như: gà tiềm hạt sen, canh hoa Kim Châm với tôm thịt, giò heo hầm. Các món mặn như: tôm rim, thịt kho tàu, cuốn ram, thịt heo, gà rán, thịt phay, nem, chả, tré,thịt ngâm nước mắm…Rồi có thêm các món đồ mộc như: măng khô xào thịt, mít trộn, giá xào nham…

Món tráng miệng rất phong phú, có mứt cam quật, mứt sen, mứt gừng như miền Bắc,có mứt me, mứt dừa…như miền Nam. Ngoài ra có thêm mứt củ bình tinh, mứt củ khoai mài, mứt củ sen, mứt chanh, mứt khế. Bánh thì có bánh sen tán, bánh măng, bánh mận, bánh bó mứt, bánh thuẩn, bánh phục linh, bánh nổ, bánh tổ….

3. Mâm cỗ miền Trung:

Mâm cỗ miền Trung trong dân gian thì có cả bánh chưng và bánh tét. Nhưng mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình thì chỉ dâng cúng bánh chưng chứ bánh tét thì không dùng làm vật phẩm để dâng cúng tổ tiên.

Khác với mâm sinh soạn để cúng tế trời đất, thần thánh, vua chúa...Như vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu…Vật phẩm là bộ tam sinh (trâu, heo,dê) để nguyên con chưa qua chế biến, lễ vật này còn gọi là cỗ thái lao. Hoặc ngoài dân gian khi cúng Đất thì bộ tam sinh là miếng thịt heo, con cua, cái trứng chỉ luộc chín chứ không chế biến.

Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến, gồm đủ các thành phần : Thượng cầm: các loại gia cầm biết bay như chim, gà, vịt,…Hạ thú: các gia súc trên mặt đất như: heo, bò, gà..Rồi các loài thủy tộc dưới nước như: tôm, cua, cá… trong dân gian mâm cơm như vậy được gọi là hào soạn

Trong cung đình mâm cỗ để tiến cúng ở miếu điện gọi là ngọc soạn, gồm các món ăn được chế biến từ các thành phần sơn hào hải vị quý hiếm trong cả nước, được chế biến công phu và trình bày kiểu cách tỉ mỉ.

Các món ăn như là: chim sâm cầm nhồi yến, hải sâm nấu độn, vi cá nấu rối, món nấu bong bóng cá đường, món nấu cửu khổng, gân nai, nem công, chả phượng,…

Món tráng miệng có các loại mứt như mứt nhân sâm, mứt bát bửu làm từ các loại mứt quý và thịt heo quay.Mứt cam sành còn nguyên trái, mứt các loại củ quả như bí đao, đu đủ, gừng,…gọt tỉa thành hình bát bửu hoặc các con vật trong tứ linh như long, lân, qui, phụng…rim khô.

Bánh ngọt thường là loại bánh khô, làm từ bột ngũ cốc đóng trong khuôn chữ nhật có in hình hoa mai, hoa đào, hoặc chữ phước, lộc , thọ…gói trong giấy ngũ sắc-như mang lời chúc tốt lành đầu năm.

Ngoài ra có loại bánh bắt hình các nhánh lộc, hoa mai, hoa đào, các loại trái cây như trái phật thủ, trái lựu, trái đào, nhân sâm…đem sấy khô được xếp thành hình tháp trên quả bồng sơn son thếp vàng, hoặc bằng sứ men lam để dâng cúng tổ tiên.

Bên cạnh những mâm hào soạn ở ngoài dân gian và ngọc soạn trong chốn cung đình, thì ở miền Trung vào những ngày đầu năm những gia đình theo Phật giáo có mâm cơm chay ngày mồng một gọi là mâm trai soạn để cúng tổ tiên.

Mâm cỗ miền Trung trong dân gian thì có cả bánh chưng và bánh tét. Nhưng mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình thì chỉ dâng cúng bánh chưng chứ bánh tét thì không dùng làm vật phẩm để dâng cúng tổ tiên.

Khác với mâm sinh soạn để cúng tế trời đất, thần thánh, vua chúa...Như vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu…Vật phẩm là bộ tam sinh (trâu, heo,dê) để nguyên con chưa qua chế biến, lễ vật này còn gọi là cỗ thái lao. Hoặc ngoài dân gian khi cúng Đất thì bộ tam sinh là miếng thịt heo, con cua, cái trứng chỉ luộc chín chứ không chế biến.

Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến, gồm đủ các thành phần : Thượng cầm: các loại gia cầm biết bay như chim, gà, vịt,…Hạ thú: các gia súc trên mặt đất như: heo, bò, gà..Rồi các loài thủy tộc dưới nước như: tôm, cua, cá… trong dân gian mâm cơm như vậy được gọi là hào soạn

Trong cung đình mâm cỗ để tiến cúng ở miếu điện gọi là ngọc soạn, gồm các món ăn được chế biến từ các thành phần sơn hào hải vị quý hiếm trong cả nước, được chế biến công phu và trình bày kiểu cách tỉ mỉ.

Các món ăn như là: chim sâm cầm nhồi yến, hải sâm nấu độn, vi cá nấu rối, món nấu bong bóng cá đường, món nấu cửu khổng, gân nai, nem công, chả phượng,…

Món tráng miệng có các loại mứt như mứt nhân sâm, mứt bát bửu làm từ các loại mứt quý và thịt heo quay.Mứt cam sành còn nguyên trái, mứt các loại củ quả như bí đao, đu đủ, gừng,…gọt tỉa thành hình bát bửu hoặc các con vật trong tứ linh như long, lân, qui, phụng…rim khô.

Bánh ngọt thường là loại bánh khô, làm từ bột ngũ cốc đóng trong khuôn chữ nhật có in hình hoa mai, hoa đào, hoặc chữ phước, lộc , thọ…gói trong giấy ngũ sắc-như mang lời chúc tốt lành đầu năm.

Ngoài ra có loại bánh bắt hình các nhánh lộc, hoa mai, hoa đào, các loại trái cây như trái phật thủ, trái lựu, trái đào, nhân sâm…đem sấy khô được xếp thành hình tháp trên quả bồng sơn son thếp vàng, hoặc bằng sứ men lam để dâng cúng tổ tiên.

Bên cạnh những mâm hào soạn ở ngoài dân gian và ngọc soạn trong chốn cung đình, thì ở miền Trung vào những ngày đầu năm những gia đình theo Phật giáo có mâm cơm chay ngày mồng một gọi là mâm trai soạn để cúng tổ tiên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bày mâm cỗ ngày tết của người Việt

Giác quan thứ 6 và những chứng nhân lịch sử

Lịch sử ghi nhận nhiều minh chứng, con người có chức năng cảm giác đặc biệt. Giác quan thứ 6 đã ứng trên nhiều người nổi tiếng, như lời tuyên bố về sự tồn tại
Giác quan thứ 6 và những chứng nhân lịch sử

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

và phát triển vững bền của nó.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Giac quan thu 6 va nhung chung nhan lich su hinh anh
 
Nhà bác học Nga, Mendeleev (1834 - 1907), người phát minh ra định luật tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đã nhìn thấy rõ toàn bộ bảng tuần hoàn hiện ra trước mắt trong giấc mơ và ông chỉ việc ngồi dậy ghi chép lại. Tất nhiên, ông cũng phải nghiên cứu về định luật này hàng chục năm trước khi có giấc mơ đó. 
 
Nhà thơ người Nga Lermontov (1814 - 1841) cũng từng kể lại câu chuyện khó lý giải về giác quan thứ 6 khi ông còn là sĩ quan biên phòng ở Kavkaz. Hôm đó, ông đang ngồi đánh bài với lính của mình thì nhìn thấy một người có vẻ mặt khác lạ so với ngày thường, ông bèn nói với người ấy: "Anh phải đề phòng, có lẽ anh sắp bị chết bất đắc kỳ tử. Đêm nay, anh nên ngủ lại ở đồn biên phòng và sáng mai hãy về". Người lính ấy không tin, ra về và dọc đường đã bị một người say rượu đâm chết. 
 
Hay như Napoleon (1769 - 1821) khi đánh vào nước Nga năm 1812 đã linh cảm là sẽ thất bại nhưng ông vẫn cứ tiến hành và kết quả đúng như điều ông linh cảm.
 
Không những các nhà khoa học, các nhà quân sự mà cả những nhà chính trị cũng có khả năng linh cảm đặc biệt. Cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill (1874 - 1965) đã một lần thoát chết trong trận oanh tạc của không quân phát xít Đức, do linh tính mách bảo.
 
Năm 1944, ông Churchill vừa chuẩn bị rời trận địa tên lửa thì máy bay oanh tạc của Đức ập đến. Người tài xế vội vàng nổ máy cho xe đi. Không hiểu sao, Churchill không chịu vào xe mà vòng chạy ra phía sau. Đúng lúc ấy, một quả bom nổ ngay cạnh cửa xe, làm thành một hố bom lớn, ngay chỗ Churchill vừa đứng. Trong tập hồi ký của ông, Churchill viết: "Dường như có một sức mạnh nội tâm đã mách bảo tôi phải rời ngay chỗ đứng".
 
Linh tính, chức năng cảm giác kỳ lạ của người – giác quan thứ 6 tương đối phức tạp và đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, từ những câu chuyện có thực kể trên có thể khẳng định, khả năng cảm giác kỳ lạ là loại vật chất có nguồn gốc mà không nhận biết được bằng mắt, tai, lưỡi, cơ thể nhưng con người có thể tiếp thụ tin tức của loại vật chất đó do cơ cấu cơ thể, hệ thần kinh nội tạng truyền liên hệ thần kinh đại não mà nhận biết.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giác quan thứ 6 và những chứng nhân lịch sử

Ngưỡng mội 3 con giáp mát tay mai mối

Nói tới vai trò mai mối, có lẽ chẳng ai “mát tay” như 3 con giáp dưới đây. Một khi họ đã ra tay là y như rằng mọi mối tình đều cầm chắc cơ hội thành công mĩ
Ngưỡng mội 3 con giáp mát tay mai mối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– mãn.

 
Những cô nàng khiến phái mạnh “hồn xiêu phách lạc” trong 12 con giáp Ngả mũ kính phục những con giáp đắc ý cả tình trường và thương trường Cẩm nang chọn số điện thoại vượng vận cho 12 con giáp
No1. Người tuổi Ngọ   Có điều lạ là, dù không hề có kinh nghiệm tình trường phong phú, nhưng dường như người tuổi Ngọ cái gì cũng tỏ. Lý do đơn giản thôi, vì họ bay nhảy nhiều, mắt thấy tai nghe nhiều thứ, ắt hiểu biết thôi.   Khi đã “động tới chỗ ngứa”, chuyện tình yêu tình báo, con giáp này chém gió thôi rồi, như kiểu ta đây từng trải ghê gớm lắm. Công nhận nền tảng kiến thức xã hội của họ rất vững, lại cộng thêm sự nhiệt tình vô đối, nên ai có khúc mắc tình cảm gì, gặp tuổi Ngọ sẽ được giải quyết liền. Họ chính là chuyên gia gỡ rối tơ lòng nhanh chóng, là con giáp mát tay mai mối.  
Nguong moi 3 con giap mat tay mai moi hinh anh 2
 
No2. Người tuổi Mão   Bề ngoài những người cầm tinh con Mèo trông có vẻ yếu đuối và dịu dàng thế thôi, nhưng đi sâu tìm hiểu, bạn mới thấy họ có trái tim cũng sắt đá như ai. Vì thế, hiếm khi thấy tuổi Mão bi lụy vì tình, đau đầu vì yêu.    Trong suy nghĩ thường trực của mình, tuổi Mão luôn cho rằng, một mối tình chấm dứt cũng là lúc bản thân được tận hưởng khoảng trời riêng, hoàn toàn mới mẻ, tội gì mà cứ phải muộn phiền, đăm chiêu làm gì cho mệt thân.   Vì thế họ không đau buồn hay gặm nhấm nỗi đau trong quá khứ, thay vào đó tích lũy kinh nghiệm bản thân, từ đó giúp mọi người gỡ rối chuyện yêu đương khá hiệu quả và được mệnh danh là con giáp mát tay mai mối.  
Nguong moi 3 con giap mat tay mai moi hinh anh 2
 
No3. Người tuổi Tỵ   Trong khi tuổi Ngọ “hữu danh vô thực” về khoản tình trường, thì người tuổi Tỵ lại nổi danh là có thực lực, am hiểu và từng trải rất nhiều.    Như vậy không có nghĩa là tuổi Tỵ phong lưu, đa tình hay trăng hoa đâu nhé. Con giáp này vốn tính tỉ mỉ, nhớ dai, thậm chí còn có thể viết sách, làm thơ về cuộc tình của mình ấy chứ. Họ tích lũy kinh nghiệm tình trường từ đó. Cứ từ từ, tỉ mỉ, tích tiểu ắt thành đại thôi.   Nếu có bạn thân là con giáp mát tay mai mối này, bạn có thể hoàn toàn yên tâm dốc bầu tâm sự chuyện yêu đương bởi họ là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực tư vấn tâm lý này. Thậm chí, nếu "bí lương duyên", họ sẵn sàng đóng vai ông Tơ, bà Nguyệt để tác thành cho bạn.  
► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem

Ngân Hà
Những chàng trai ngọt ngào, ấm áp nhất trong 12 con giáp
Sở hữu trái tim ấm áp, cử chỉ ân cần, ngọt ngào, những chàng giáp dưới đây luôn là niềm khao khát phái đẹp.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngưỡng mội 3 con giáp mát tay mai mối

Những cặp đôi con giáp xui xẻo trong làm ăn cuối năm

Cặp đôi con giáp xui xẻo: Đối tác làm ăn ảnh hưởng rất lớn tới công việc của bạn. Có người mang lại may mắn, nhưng cũng có nguồi chỉ đem tới điều xui xẻo.
Những cặp đôi con giáp xui xẻo trong làm ăn cuối năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối tác làm ăn ảnh hưởng rất lớn tới công việc của bạn. Có người mang lại may mắn, nhưng cũng có nguồi chỉ đem tới điều xui xẻo.


1. Người tuổi Tý và người tuổi Dần

 
Tính cách nóng vội của người tuổi Dần sẽ là rào cản khiến người tuổi Tý khó đạt được thành công như ý. Thậm chí, điều đó còn mang lại nhiều điều phiền phức cản trở mối quan hệ hợp tác của cặp đôi con giáp xui xẻo này.

2. Người tuổi Sửu và người tuổi Sửu
 
Trong những tháng cuối năm, nếu người tuổi Sửu hợp tác với người cùng bản mệnh sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp, thành công đã khó lại càng khó thêm.
 
3. Người tuổi Dần và người tuổi Thân
 
Nếu hai tuổi này hợp tác vào những tháng cuối năm, nhiều khả năng sẽ xảy ra những tranh chấp liên quan đến tiền bạc. Theo đó, sự nghiệp của cả hai đều bị bỏ dở giữa chừng.

Nhung cap doi con giap xui xeo trong lam an cuoi nam hinh anh
Ảnh minh họa
 
4. Người tuổi Mão và người tuổi Ngọ
 
Sự kết hợp của một con giáp điềm tính, làm việc tỉ mỉ thận trọng và con giáp nóng tính, làm việc có đầu mà không có cuối là điều tối kị.
 
Phong cách làm việc của cặp đôi con giáp xui xẻo này quá khác nhau sẽ khiến đối phương cảm thấy không thuận mắt nên khó đồng tâm hiệp lực để đi tới đích cuối cùng.
 
5. Người tuổi Thìn và người tuổi Mùi
 
Vào nửa cuối năm, những việc mà người tuổi Mùi làm sẽ cản trở và mang đến nhiều điều phiền phức cho người tuổi Thìn. Do đó, tốt nhất hai con giáp này không nên hợp tác làm ăn.
 
6. Người tuổi Tỵ và người tuổi Tý
 
Nếu làm việc cùng nhau, sự ích kỉ và đố kị là rào cản khiến cả hai khó có thể chinh phục được mục tiêu chung.

7. Người tuổi Ngọ và người tuổi Thìn
 
Khi hợp tác, người tuổi Thìn sẽ làm mất tài liệu quan trọng hoặc làm tổn thất nhiều tiền bạc nên hai con giáp này khó mà hợp tác thành công.

8. Người tuổi Mùi và người tuổi Hợi
 
Những tháng cuối năm này, người tuổi Mùi dễ bị dụ dỗ bởi lời đường mật của kẻ tiểu nhân. Cộng thêm phán đoán sai lầm của người tuổi Hợi nên cả hai làm ăn sẽ thất thoát và dễ bị lừa gạt.

9. Người tuổi Thân và người tuổi Tỵ
 
Sự hợp tác của hai người này sẽ gây rủi ro mất thực quyền hoặc tổn hao tài sản. Tốt nhất, hai bạn chỉ nên dừng lại ở tình bạn thông thường, tránh hợp tác làm ăn.

10. Người tuổi Dậu và người tuổi Mão
 
Nếu cặp đôi con giáp xui xẻo này chưa quen nhau lâu (ít nhất là 1 năm) thì tốt nhất không nên tính chuyện hợp tác làm ăn. Bởi độ tin cậy không cao sẽ khiến cả hai nảy sinh những tranh chấp về lợi ích.
 
11. Người tuổi Tuất và người tuổi Dậu
 
Nếu hợp tác, người tuổi Tuất phải có phương án dự phòng hợp lí, tránh trường hợp người tuổi Dậu làm hỏng chuyện. 
 
12. Người tuổi Hợi và người tuổi Tuất

Nếu người tuổi Tuất đạt được lợi ích lớn sẽ dễ đưa ra quyết định đầy tham vọng là phản bội đối tác. Người tuổi Hợi phải hết sức thận trọng nếu vẫn phải hợp tác với người tuổi Tuất.
 
► Xem bói năm 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

ST
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cặp đôi con giáp xui xẻo trong làm ăn cuối năm

Những phong tục ngày tết cổ truyền ở Việt Nam

Những phong tục ngày tết nguyên đán ở Việt Nam có gì đặc biệt, vào ngày tết người ta thường hay kiêng kỵ những vấn đề gì, để cả năm được vui vẻ, hạnh phúc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những phong tục ngày tết nguyên đán ở Việt Nam có gì đặc biệt, vào ngày tết người ta thường hay kiêng kỵ những vấn đề gì, để cả năm được vui vẻ, hạnh phúc.

1. Tục chơi hoa ngày Tết:

Mỗi dịp Tết đến xuân về. Chúng là lại hân hoan chào đón một măt mới âm lịch. Nhưng ai cũng không quên phong tục ngày tết cổ truyền của Việt Nam không thiếu tục lệ chơi hoa. Đối với người niềm Nam thì chơi hoa mai, người miền Bắc thì chuộng hoa đào ( đào nhật tân, đào bích, đào trắng, đào phai,...)

Nếu như người Nhật từ hào về bonsai thì người Việt Nam lại tự hào về thú chơi hoa. Những loài hoa quý như hoa thủy tiên, hoa quỳnh, ... là những loài hoa được giới thượng lưu xếp vào các loại hoa Tết cao cấp. Ngày nay, thú chơi hoa cũng không thay đổi nhiều, thêm vào đó còn du nhập thêm vào nhiều loại hoa khác nữa là hoa lan, hoa cúc, hoa tulip,...

2. Tục tiễn ông Công ông Táo lên chầu trời.

Tương truyền từ ngày xưa đến nay, mỗi gia đình đều có một ông Công, ông Táo (xem thêm: Truyền thuyết về ông Công ông Táo). Trong phong tục ngày tết nguyên đán, ông Công được xem là thần đất giữ nhà và biểu tượng của ông là cây nêu ngày Tết. Ông Táo còn được dân gian gọi là ông Bếp, là vị thần trông coi việc bếp núc, giữ lửa, hơi ấm cho gia đình. Mỗi cỗ bếp có 3 ông vua bếp, được nắn bằng đất sét, uốn cong chụm đầu vào nhau tạo thành thế kiềng 3 chân.

Việc tiễn đưa ông Công, ông Táo về trời là một phong tục tâm linh đẹp và ý nghĩa. Bao giờ trong ngày lễ ông Táo cũng đều có tục thả cá chép làm phương tiện cho ông. Đây cũng là một mặt trong đời sống tâm linh của người dân vùng sông nước.

Cứ vào ngày 23 tháng Chạp ( tức là ngày 23 tháng 12 âm lịch) thì các gia đình sẽ tiễn ông Táo về chầu trời, để bẩm báo tình hình  một năm qua dưới hạ giới. Và sau đó, vào ngày 7 tháng Giêng ( ngày 7 tháng 1 âm lịch) các gia đình lại làm lễ rước ông Táo về lại với căn bếp của nhà mình.

Những phong tục ngày tết cổ truyền ở Việt Nam

3. Tục đi chợ Tết, xin chữ về thờ.

Đi chợ Tết của ngày xưa là thường, mua lá dong, mua thịt, bánh kẹo hoa quả, về làm bánh chưng, và các món ăn phục vụ trong ngày Tết. Ngoài ra, người ta còn không quên xin chữ của những thầy đồ về để thờ. Nguyên nhân là do, ngày xưa người biết chữ không nhiều, nên mới có phong tục xin chữ về thờ để con cháu đời sau được học hành, làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức. Các thầy đồ cho chữ là những người có chức tức, học vị trong làng. Những chữ Nho thường được nhiều người xin như chữ Tâm, Phúc, Đức, Thọ,... Ngoài ra, người ta còn xem bói vào ngày đầu năm mới để biết những vận hạn, sao chiếu mệnh trong năm tới. Hoặc xem tử vi năm mới để biết những diễn biến về công danh, sự nghiệp, tình yêu, gia đình,...

Ngày nay, phong tục cho chữ đang được phục hồi bằng việc viết chữ thư pháp, đây là một nét đẹp mà văn hóa dân tộc cần gìn giữ và phát huy. Đây là phong tục Tết Việt Nam cần được lưu giữ và phát huy nhất là đối với giới trẻ.

4. Tục gói bánh chưng bánh giầy (bánh tét)

Bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho trời. Bánh tét hình tròn, tượng trưng cho đất. Để gói được bánh chưng, bánh tét, phải là những người có bàn tay khéo léo mới gói được, nếu không bánh sẽ bị nứt, không vuông vắn đều đặn khi luộc. Đến những ngày cuối năm, việc cả gia đình quây quần bên nồi bánh chưng rực lửa là một khoảnh khắc đẹp đẽ và ấm cúng mà ai ai cũng muốn lưu giữ.

Đối với người Việt Nam, không ai là không biết về truyền thuyết bánh chưng bánh giầy, phong tục ngày tết nguyên đán còn được lưu trữ từ thời vua thứ 18. Bánh chưng bánh giầy được gói cùng với nhận thị mỡ, đậu xanh,.. Những đặc trưng về những phong tục  ngày Tết cổ truyền Việt Nam được gói gọn trong câu thơ sau:

 “ Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, chòm pháo bánh chưng xanh”

Những phong tục ngày tết cổ truyền ở Việt Nam

5. Lau dọn nhà cửa vào dịp cuối năm

Vào cuối năm, các gia đình đều dọn rửa, sửa sang lại nhà cửa và trưng bình những đồ vật. Công việc này có ý nghĩa để chuẩn bị “tống cựu nghênh tân” . Với phong tục ngày tết của người Việt Nam thì việc này có ý nghĩa là tiễn đưa những cái cũ và đón những cái mới. Vào dịp cuối nào, mọi người đều xem ai nợ nần cái gì thì phải trả, không để nợ 2 năm mà trở thành “cả đời nợ nần”.

6. Đón giao thừa

Chứng kiến thời khắc trời đất chuyển giao, từ năm cũ sang năm mới, từ mua đông lạnh lẽo sang mùa xuân ấm áp. Đón giao thừa và cúng giao thừa là việc cúng ngoài trời, có thể cũng cỗ mặn hoặc cúng hoa quả. Mân hoa quả thờ cúng vào ngày Tết gồm những loại sau: chuối, bưởi, cam quýt, sung. Người miền Nam thờ trái theo ngôn ngữ nên thường chọn những loại quả : mãng cầu (cầu), dừa ( vừa), đu đủ (đủ), xoài (xài), sung (sung túc) hoặc dứa ( thơm) có ý nghĩa rằng: cầu – vừa – đủ - xài – sung hoặc cầu – vừa – đủ - xài – thơm.

7. Xông đất ngày mồng 1

Xông đất hay nhiều nơi còn gọi là xông nhà, đập đất, đạp đất là một phong tục ngày Tết ở Việt Nam . Xông đất là người đầu tiên đến nhà mình vào ngày mồng một năm mới. Có nhiều gia chủ chọn tuổi xông đất vào ngày đầu năm, hoặc có thể là một người ngẫu nhiên đến nhà mình vào ngày đầu năm mới.  Thông thường, khi chọn người xông đất đầu năm thì gia chủ nên chọn những người vui vẻ, hợp tuổi, hợp mệnh với gia chủ, tính tình phóng khoáng,.. để xông đất đầu năm.

Trên đây là những phong tục ngày tết cổ truyền Việt Nam đặc trưng nhất, được lưu giữ vào trong tâm khảm mỗi người Việt Nam. Tết là thời gian đoàn tụ, đoàn viên cùng gia đình sau một năm vất vả vì cuộc sống, công việc, cũng là thời gian nghỉ ngơi, thư giãn thăm người quen, anh em bạn bè cũng như là dịp mọi người thể hiện lễ nghi của mình với người trên.

: Những câu chúc mừng năm mới Những lời chúc mừng năm mới hay Tết 2017
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những phong tục ngày tết cổ truyền ở Việt Nam

Tướng mặt người kiên cường không lùi bước

Tướng người kiên cường, không chịu lùi bước như thế nào? Có người tướng hiền hòa, thân thiện thì tướng mặt ra sao? Lại có người nhu mì, dễ bị mắc lừa xem qua đâu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những người dường nhu không bao giờ biết mệt mỏi, tràn đầy sinh lực, không bao giờ chịu lùi bước. Nhưng cũng có những người chi cần một cơn gió thổi qua cũng đã chao đảo ngã gục không guợng dậy nổi. Những nhân viên "gặp khó khăn vẫn tiến bước, giương cao ý chi chiến đãu" là đối tượng để mọi công ty mong tìm duợc. Vậy có thể xem qua tướng mặt để nhận diện được những người này không?

1. Khuôn mặt chữ vương: tướng người không thỏa mãn với hiện tại

Mặt hơi dài, từ phần xương gò má tới cằm giống như hình thang cân ngược (khuôn mặt có cơ xương hỗn hợp như vậy gọi là mặt chữ vương)

Người có tướng mặt này thường có sức lực dồi dào, hay nói, cũng có cách nghĩ riêng mình. Việc gì cũng muốn thử làm, mà họ đã nói làm là làm. Họ là những người hiếu chiến, hiếu thắng, quyết bảo vệ quan điểm sai lầm của mình, chứ không chịu nhạn thua trước người khác. Họ không hài lòng với hiện tại, thường mong muốn có được một cuộc sống tốt đẹp hơn, trong công việc một khi cảm thấy mình làm tiếp thì họ sẽ yêu cầu cấp trên có mức đãi ngộ xứng đáng.

tướng người không bỏ cuộc

Tướng người kiên trì không bỏ cuộc giữa chừng

2. Đường nét môi miệng rõ ràng: có tham vọng lớn

Đường nét môi miệng rõ ràng là chỉ cằm đầy đặn, nhân trung vừa dài vừa sâu vành môi rõ nét. Kiểu người này có hoài bão lớn lao đối với sự nghiệp, họ khá coi trọng hình tượng, đề cao lễ nghi, ăn mặc chỉn chu, thường tạo cho người khác cảm giác rất uy nghiêm.

3. Tướng Mắt ba tròng trắng: nỗ lực không biết mệt mỏi

Tướng mắt ba tròng trắng tức phía dưới tròng đen cũng có tròng trắng, thuộc loại trắng dã.

Kiểu người này rất tích cực phấn đấu, họ nỗ lực không biết mệt mỏi. Một khi đã xác định được mục tiêu rõ ràng thì họ lập tức hành động ngay, hơn nữa dốc toàn sức lực để hoàn thành. Đuôi mắt có nhiều "vết chân chim" cho thấy, họ rất cố gắng phấn đấu, tuy nhiên vất vả mà lại không đạt được thành tựu lớn. Nếu phần lớn "vết chân chim" chúc xuống thì người có tướng mặt này gặp số phận vất vả điển hình. Ngược lại, nếu "vết chân chim" hướng lên thì theo thuật xem bói đây là kiểu người sẽ gặt hái được thành tựu.

4. Tướng lông mày nằm ngang: trung thành, kiên cường

Tướng lông mày nằm ngang chính là lông mày lưỡi mác, kiểu người này có tính cáck kiên cường bất khuất, không dễ lòng đổi dạ, không chịu khuất phục trước áp lực bên ngoài, ngược lại đối mặt với áp lực càng hưng phấn thấy rõ. Họ tích cực phấn đấu hết mình cho đến khi giành thắng lợi, là hình tượng "trung thần", "hảo hán" điển hình khuyết điểm của người này là quá cứng rắn, không thể nhẹ nhàng, mềm mỏng được cho nên dễ hỏng việc giữa chừng.

5. Hai cánh mũi nở nang: Đầu đội trời, chân đạp đất

Hai cánh mũi nở nang là chỉ ống mũi phát triển đầy đặn, có thế, cánh mũi hơi hếch lên, chóp mũi hướng lên trên. 

Người có tướng mũi như thế này rất có cá tính, làm việc âm thầm, không khoe khoang phô trương, họ chỉ chú ý tới hiệu quả thực tế, gặp khó khăn không nản lòng mà bình tĩnh phân tích nguyên nhân, tích cực tìm kiếm phương pháp để có thể chuyển bại thành thắng, hơn nữa làm việc rất có khí thế, biết chú ý tới đại cục, có khả năng "bạt núi lấp biển", có thể gọi là nhân vật "đầu đội trời, chân đạp đất". 

Xem tướng người hiền hòa thân thiện

Người thân thiện, hiền hoà đi tới đâu cũng được mọi người tươi cười chào đón. Đối với công ty, họ chính là loại "chất bôi trơn" ôn hoà gắn kết mọi người lại với nhau, từ đó khiến mọi người cùng đồng tâm hiệp lực vì sự phát triển chung của công ty. Còn đối với cá nhân, ai cũng thích được kết bạn với những người thân thiện. Người thân thiện thường có gương mặt tươi vui. Xem bói người hiền hòa thân thiện qua những thống kê của Nhân tướng học như sau:

6. Tướng mặt dĩ hòa vi quý

  • Lông mày hình vòng cung
  • Dái tai rủ xuống vai 
  • Da trắng người tròn: không câu nệ tiểu tiết
  • Da trắng, khuôn mặt tròn, thân hình cũng tròn trịa, cảm giác có da có thịt, người như vậy có tính cách hoạt bát cởi mở, hiền hoà, vui vẻ, không xoi mói, không câu nệ tiểu tiết, là người dễ hoà đồng. Tuy nhiên, họ có nhược điểm là hơi cẩu thả, làm việ tùy hứng, có khi không theo nguyên tắc.

7. Tướng lông mày hình vòng cung: có khiếu thẩm mỹ

Lông mày hình vòng cung, cũng giống như lông mày lá liễu, kiểu lông mày này mềm mại, thanh tú, đặc biệt là khi cười, lông mày có hình uốn cong rất có sức hấp dẫn, nếu nói năng lại nhẹ nhàng, đầy chất văn thơ thì cho thấy người này rất có khiếu thẩm mỹ, là người có tấm lòng lương thiện, coi trọng tình cảm.

8. Dái tai to: nhu mì, yếu đuối

Dái tai to chiếm hơn một nửa tai, hơn nữa nửa dưới tai dài vượt quá khoé miệng thì gọi là tai rủ xuống vai.

Người có tướng tai như thế này nhu mì, yếu đuối, họ sẵn lòng giúp đỡ người khác, họ thường chỉ nhớ tới ưu điểm, chứ không nhớ tới khuyết điểm của người khái nếu tai áp sát đầu cho thấy họ là những người trầm tính, bảo thủ. Nếu tai lại hướng ra ngoài thì họ khá nhiệt tình với những hoạt động công ích. Nếu xem bói dái tai có nốt ruồi là thông minh lanh lợi, tôn trọng bề trên, hiếu thuận với cha mẹ, có tài năng.

9. Địa các đầy đặn: mọi việc đều dĩ hoà vi quý

Chúng ta thường thấy vĩ nhân có tướng mặt “thiên hình đầy đặn, địa các vuông tròn”. Ý nghĩa của câu nói này chỉ người làm nên việc lớn. Đây là quy luật mà người xưa đã đúc kết và để lại cho chúng ta.

Nói một cách cụ thể, địa các và hàm dưới đầy đặn thì rất nồng hậu, trọng tình cảm, khi có ý kiến trái ngược với mọi người thì người có tướng mặt này sẽ giải quyết với thái độ lý tính, chứ không tranh chấp hoặc so bì tính toán, họ rất hiểu đạo lý dĩ hoà vi quý. Họ biết quan tâm chăm sóc người nhà và bề trên. Người có địa các đầy đặn và hình dạng đẹp thì sẽ được hưởng vận may mắn khi về già. 

Tướng người nhu mì, dễ bị người khác hiếp đáp

Tục ngữ có câu: “Người lành bị bắt nạt, ngựa hiền bị người cưỡi”. Lương thiện tất nhiên là phẩm chất tốt đẹp, đáng qúy, song cũng nên có mức độ, đừng nên để hiền lành tới mức bị người khác chèn ép. 

10. Ánh mắt đờ đẫn: tướng người thiếu chủ kiến

Tục ngữ có câu: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy : phần tính cách của một người thông qua đôi mắt của anh ta hai mắt đờ đẫn là người là tướng mặt của người không có chủ kiến điển hình, kiểu người này bẩm sinh đã suy nghĩ thái quá, tức là những việc rất đơn giản nhưng vào tay họ cũng trở nên phức tạp. 

11. Lông mày chữ bát: không biết chọn bạn

Người có lông mày chữ bát rộng rãi, thoải mái, nhiệt tình giúp đỡ người khác mà không biết từ chối đòi hỏi vô lý của người khác. Họ thiếu suy nghĩ khi lựa chọn bè bạn cho nên thường bị bạn bè phản lại. Họ quá bận tâm tới những chuyện nhỏ của người khác mà ảnh hưởng tới công việc của bản thân, nghiêm trọng hơn có bị liên luỵ bởi bạn bè hoặc lâm vào tình cảnh khốn đốn vì tiền bạc. 

Tướng người thẳng thắn, cả tin

Nếu lông mày đen và rậm thì cho thấy họ suy nghĩ rất giỏi, lắm mưu nhiêu kế thích giúp người khác đưa ra ý kiến của mình, họ được phong là vị "lãnh tụ ý kiến trong đám bạn bè". Ngược lại, nếu lông mày mềm mại thì cho thấy họ không thể nắm được vận mệnh của mình, luôn theo bị cuốn theo suy nghĩ và ý kiến của người ngoài cuộc mà không thể đưa ra chủ ý của bản thân.

12. Cằm nhỏ nhọn: thẳng như ruột ngựa

Người có cằm vừa nhỏ vừa nhọn sẽ hơi tự ti, không tự tin trong mọi việc, tâm lý tiêu cực nầy sẽ ảnh hưởng tới khả năng làm việc của họ, khiến cho việc vốn có thể thành công lại rơi vào tình cảnh thất bại. Ngoài ra, họ còn rất nhạy cảm, có phần dễ bị kích động.

Nếu nhìn nghiêng không thấy cằm nhỏ nhọn thì cho thấy họ không có ý chí nói năng và làm việc đều không suy nghĩ, có thể nói là “thẳng ruột ngựa”, nghĩ gì nói nấy; khi xảy ra vấn đề, họ không giữ được bình tĩnh, dễ nổi nóng, họ không suy xét kỹ càng mọi mặt đã vội đưa ra kết luận ngay, điều này đương nhiên sẽ làm hỏng việc lớn, thậm chí gây tổn thất không thể cứu vãn nổi. Người này thích hợp với những việc nghiên cứu, sáng tác nghệ thuật.

13. Môi dưới quá dày: dễ bị mắc lừa

 Môi dưới dày được chia thành ba kiểu: Môi trên dày hơn môi dưới, môi dưới dày hơn môi trên và môi dưới quá dày, lại nhão.

- Người có môi trên dày hơn môi dưới: thích coi mình là trung tâm, không muốn cho đi, chỉ muốn được người khác quan tâm bảo vệ.

- Người có môi dưới dày hơn môi trên: thích chìm đắm trong sự yêu thương của người khác, họ sẽ không phân biệt được đâu là sự quan tâm thực sự, đâu là sự qua tâm giả dối, hơn nữa họ cũng không thể thoát khỏi cám dỗ dù đã biết mười mươi lừa dối. Kiểu người này còn rất ngoan cố, thích hành động một mình, chưa gặp phải sự cản trở thì vẫn chưa dừng bước.

- Người có môi dưới quá dày và nhão: càng thẳng thắn và cả tin hơn, họ dễ dàng bị những người xấu xa lừa dối mà không nhận thức được. Họ dễ bị lợi dụng và cũng dễ rơi vào tình thế nguy hiểm nếu gặp những người có tâm địa nham hiểm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt người kiên cường không lùi bước

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Bí mật đời người được bật mí qua tướng mũi thường gặp

Đàn ông có tướng mũi củ tỏi có cuộc sống khá giả, biết cách kiếm tiền nhưng nếu có nốt ruồi trên sống mũi thì sẽ bạc vận, dễ nhiễm thói hư tật xấu như cờ bạc,
Bí mật đời người được bật mí qua tướng mũi thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đàn ông có mũi củ tỏi có cuộc sống khá giả, biết cách kiếm tiền nhưng nếu có nốt ruồi trên sống mũi thì sẽ bạc vận, dễ nhiễm thói hư tật xấu như cờ bạc, cá độ.
 

► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Mũi Tú phong   Đây là tướng mũi thường gặp ở nữ giới. Đặc điểm dễ nhận biết của kiểu mũi này là lỗ mũi tròn, thanh nhỏ và có sắc hồng hào. Đa phần phụ nữ có dáng mũi này đều sở hữu dung nhan xinh đẹp, được nhiều đàn ông theo đuổi.    Tuy nhiên, nếu dáng mũi này ở đàn ông lại là điều không tốt. Một vài quan điểm cho rằng, nếu nam giới có tướng mạo này sẽ có giới tính thứ ba hoặc gặp trục trặc về vấn đề sinh lí.
2. Mũi củ tỏi   Mũi củ tỏi là tướng mũi to tròn, có thịt rủ xuống khiến hai lỗ mũi gần như bị che khuất và không nhìn thấy. Hai bên cánh mũi dày, đầy đặn, phát triển rộng ra. Chỉnh thế chiếc mũi nhìn như củ tỏi.

Bi mat doi nguoi duoc bat mi qua tuong mui thuong gap hinh anh
Mũi củ tỏi
  Đàn ông có mũi củ tỏi có cuộc sống khá giả, biết cách kiếm tiền nhưng nếu có nốt ruồi trên sống mũi thì sẽ bạc vận, dễ nhiễm thói hư tật xấu như cờ bạc, cá độ... Phụ nữ có tướng mũi củ tỏi thường bị coi là xấu, cuộc sống gia đình không hạnh phúc.    3. Mũi khoằm   Mũi khoằm hay còn gọi là mũi chim ưng. Mũi này có đặc điểm sống mũi hẹp, hơi nhô cao lên và trơ xương, chóp mũi dài và nhọn cong quặp xuống như mỏ chim ưng. Dù là nam hay nữ, nếu có tướng mũi khoằm đều có lòng dạ hiểm độc, tư tưởng giáo điều, tự coi mình là nhất. Do đó, cuộc đời người này thường cô độc, ít bạn bè thân thiết.   4. Lỗ mũi lộ ra ngoài   Trong Nhân tướng học, đây là tướng mũi tán tài. Người này ít gặp may mắn trong cuộc sống, dù có kiếm được nhiều tiền bạc không biết tích lũy, cuối đời thường trắng tay.
5.  Mũi gãy đoạn   Mũi gãy đoạn tức dáng mũi xiêu vẹo, đoạn vẹo sang trái, đoạn vẹo qua phải. Người có tướng mũi này thường gặp nhiều sóng gió trong cuộc đời, hôn nhân không hạnh phúc, tài vận kém, sức khỏe không tốt, thường bệnh tật đau yếu.

Ngoài ra, người này làm việc thiếu quyết đoán, không tự tin vào bản thân nên khó thành công trong sự nghiệp.
  Ngân Hà (Theo DYXZ)    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí mật đời người được bật mí qua tướng mũi thường gặp

Các lễ hội ngày 7 tháng 3 Âm Lịch -Hội Đình Phú Diễn

Vào ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch có tổ chức các lễ hội: Hội Đình Phú Diễn được tổ chức tại Hà Nội và Hội Đền Lê Hoàn tổ chức tại Thanh Hóa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 7 tháng 3 Âm Lịch -Hội Đình Phú Diễn

Các lễ hội ngày 7 tháng 3 Âm Lịch -Hội Đình Phú Diễn

Các lễ hội diễn ra trong ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch:

1. Hội Đình Phú Diễn

Thời gian: diễn ra từ ngày mùng 7 tới ngày mùng 9 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Phú Diểm, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn các vị Lê Đại Hành,Trần Thông.

Nội dung: Mở đầu hội là phần tế lễ cúng các vị thành hoàng, tiếp đó là múa rối nước trên sông, múa rồng, hát ca trù, múa sênh tiền. Riêng phần hội có: Đấu roi, thi leo cây, bịt mắt bắt dê, bơi trải.

2. Hội đền Lê Hoàn

Thời gian: tổ chức từ ngày 7 tới ngày 9 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: tôn Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Đối tượng suy tôn: tưởng nhớ tới vua Lê Đại Hành (người đã lãnh đạo nhân dân đánh tan quân xâm lược nhà Tống năm 981).

Nội Dung: Trong ngày khai hội, Dân làng tổ chức khiêng kiệu Thân mẫu và bố nuôi của vua Lê Đại Hành về đền thờ Lê Hoàn. Trong ngày chính kỵ thì trong đền làm lễ đại tế, bên ngoài tổ chức các trò chơi dân gian như: đấu vật, bắn nỏ, đua thuyền... Ngày cuối của lễ hội có lễ tạ, rước kiệu từ đền Lê Hoàng về làng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 7 tháng 3 Âm Lịch -Hội Đình Phú Diễn

Quy tắc bất di bất dịch khi trưng bày tượng Phật trong nhà

Vị trí đặt tượng Phật trong nhà hợp phong thủy. Mỗi tượng Phật khác nhau nên đặt ở những vị trí khác nhau để phát huy tác dụng thờ cúng riêng.
Quy tắc bất di bất dịch khi trưng bày tượng Phật trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không ít người tín Phật đã dành ra một vị trí đặc biệt trong ngôi nhà hoặc khu vườn để lập bàn thờ cầu nguyện, trong đó không thể thiếu những bức tượng Phật. Ngoài ra, nhiều người cũng kết hợp tượng Phật vào trang trí nội hoặc ngoại thất. 
 

Trong phong thủy, bài trí một bức tượng Phật trong nhà có thể thu hút năng lượng tích cực. Tuy nhiên, khi bày tượng trong nhà sẽ có một vài quy tắc bất di bất dịch cần tuân theo để tránh xúc phạm đến Thần Phật. Trước hết, cần hiểu được ý nghĩa và biểu tượng của mỗi bức tượng trong mối quan hệ với khu vực bạn muốn đặt nó. Nếu tuân thủ những nguyên tắc dưới đây, gia đình luôn bình an, đón lành tránh dữ.
 
Vị trí đặt tượng Phật

- Không được đặt trực tiếp Phật trên mặt đất hoặc trong phòng tắm vì hai vị trí này được coi thiếu tôn trọng.
 
- Không nên đặt trong phòng ngủ của bạn trừ khi tượng được giữ trong tủ có cửa đóng kín.
 
- Luôn đặt tượng quay mặt vào trong phòng. Nếu tượng Phật đặt ở lối vào của ngôi nhà thì có thể ngoại lệ, đối mặt với những người bước vào trong nhà.
 
- Nếu đặt tượng Phật ở trong vườn cần quay mặt vào nhà để mang lại bình an cho gia đình.
 
Những loại tượng có thể trưng bày trong nhà để mang tới sự bình an
 
Tượng Đức Phật Thích Ca ngồi thiền
 
Trên bàn thờ Phật trong nhà có thể bày những bức tượng Đức Phật trong tư thế ngồi thiền. Tượng Phật Thích Ca nên đặt quay mặt về hướng Đông vì Đức Phật ngồi thiền luôn hướng về phía mặt trời mọc để giác ngộ.

It nguoi biet nen trung bay tuong Phat nao trong nha hinh anh
Phật Di Lặc

Tượng Phật Di Lặc

 
Phật Di Lặc khá được ưa chuộng để bài trí trong nhà. Ông Phật cười mang lại may mắn, thịnh vượng. Chiếc bụng lớn của ông chứa đầy của cải, tài lộc. Mọi người thường hay lấy tay xoa bụng Phật Di Lặc để mong muốn được ban tặng nhiều may mắn. Tượng ông Phật cười có thể bày trên két sắt, tủ đựng tiền hoặc góc Đông Nam của ngôi nhà.
 
Tượng Phúc  Lộc Thọ

Theo phong thủy tài lộc, tượng Phúc Lộc Thọ đem lại cuộc sống may mắn và trường thọ, tài vận cho gia đình. Những tượng này có thể làm từ rất nhiều chất liệu như gốm sứ, mạ vàng, ngọc thạch, nhưng tượng làm từ đồng nguyên chất được coi là linh nghiệm nhất. Thứ tự bày tượng phù hợp nhất: tượng ông Phúc đặt ở giữa, ông Lộc đặt bên trái và ông Thọ nằm ở bên phải.

It nguoi biet nen trung bay tuong Phat nao trong nha hinh anh 2
Tượng Phật Phúc Lộc Thọ

Tượng ba ông Phúc Lộc Thọ nên bày ở một trong hai vị trí bên cạnh cửa chính để mang Tam Tinh vào nhà. Khi đặt tượng, mặt tượng không được hướng ra ngoài, chỉ có thể hướng vào trong phòng. Nếu như mặt hướng vào trong tức là rước tiền tài đến cho người trong nhà, nếu như hướng ra ngoài tức là tiễn tiền tài ra ngoài.

Tượng Phật bà Quan Âm
 
Nhiều gia chủ lựa chọn tượng Phật bà Quan Thế Âm Bồ Tát nhằm cầu mong sự bình yên, cứu rỗi khi gặp khó khăn và mang đến cho gia đình nhiều điều may mắn. Tượng hoặc tranh ảnh Phật bà nên được dặt ở vị trí trang nghiêm, tốt nhất nên ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách.
 
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Theo
Khám phá
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quy tắc bất di bất dịch khi trưng bày tượng Phật trong nhà

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd