Tướng phụ nữ trán cao –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
Từ xưa đến nay, đi lễ chùa – một hoạt động gắn liền với đạo Phật đã trở thành một tập tục đẹp luôn được duy trì trong mỗi người con, mỗi gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai đến chùa cũng có những mục đích giống nhau và không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa nên bên cạnh những người đến chùa với đúng nghĩa lễ Phật. Sự thiếu hiểu biết về đạo Phật đang làm méo mó, biến dạng các lễ hội gắn với chùa chiền. Do vậy, để hoạt động tín ngưỡng diễn ra đúng với bản chất, góp phần tiết kiệm thời gian, tiền bạc, bài trừ mê tín dị đoan thì cần có cái nhìn đúng đắn về chùa chiền và giáo lý đạo Phật.
** Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐI CHÙA LỄ PHẬT **
Chùa chiền là cơ sở tu học và truyền bá giáo pháp. Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói chùa là một ngôi trường dạy về đạo Phật, là nơi gìn giữ và truyền bá tư tưởng của Đức Phật thông qua hoạt động truyền pháp.
Vậy đến chùa để làm gì?
Thứ nhất, đối với những người có hiểu biết về Phật giáo, tự nguyện phát tâm hướng Phật, thì đến chùa trước hết là lễ Phật. Lễ Phật không vì van xin tha tội, không vì cầu mong ban ân, mà chỉ vì quý kính công đức, trí tuệ của Phật. Khi lễ Phật, người làm lễ cúi lạy Phật để thấy mình còn thấp kém, còn nhiều dục vọng, tham lam… mà sửa đổi. Sau lễ Phật là tham gia tụng niệm, học hỏi Chánh pháp, tập tu đức hạnh. Phật giáo với tám vạn bốn nghìn pháp môn nên không thể một một sớm một chiều mà lĩnh hội được. Do vậy phải thường xuyên tới lui cửa thiền để học tập. Trong trường hợp này, hễ có thời gian thì người ta đi chùa, không cứ phải ngày lễ, ngày Tết.
Thứ hai, phần lớn người dân Việt Nam đi lễ chùa, họ đi đến chùa để cầu xin từ chuyện cầu bình an, sức khỏe đến việc mong “trời Phật phù hộ” cho kết quả học tập của con cái, hay chuyện làm ăn, buôn bán, tình duyên sẽ thuận lợi và ngày càng tốt hơn. Thông thường, mọi người sẽ đi chùa vào các ngày Rằm và mồng Một hàng tháng hoặc khi có các sự kiện Phật giáo.
Thứ ba, những người không vì cầu xin bình an, sức khỏe hay hỏi đạo mà vẫn đi chùa. Đây là trường hợp vì mưu sinh, đua chen trong cuộc sống thần kinh bị căng thẳng, hoặc là nhiều người cũng đến chùa vì gặp khúc mắc trong cuộc sống, như khi thi trượt, đau khổ vì chia tay người yêu, thất nghiệp,…và khi không thể giải quyết được những vấn đề khó khăn, rơi vào trạng thái khủng hoảng, bế tắc nên tìm đến thiền môn. Với họ, đến chùa không những giúp bình tâm trở lại mà đôi khi việc đi chùa còn giúp họ tìm thấy được con đường hay nói cách khác là cách giải quyết những trăn trở của mình.
** ĐI CHÙA NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG **
Phần lớn người dân Việt Nam đi lễ chùa theo truyền thống gia đình. Tuy nhiên, việc sửa soạn đi lễ chùa, hoặc sắm lễ vật để đi lễ chùa, người đi lễ cần phải biết những quy định căn bản của nhà chùa mà người hành lễ phải tuân thủ
1./ Trang phục khi đi lễ chùa
Chọn màu sắc nhã nhặn:
Nếu có thể, bạn hãy chọn những trang phục có cùng tông màu với loại áo tràng các Phật tử thường mặc đi lễ chùa là màu nâu và lam
Chọn nhưng trang phục màu sắc nhã nhặn, cùng tông màu áo các Phật tử thường mặc
Khi đi lễ chùa bạn nên chọn trang phục nhã nhặn, sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, không mặc váy ngắn, quần cộc, áo xuyên thấu, khêu gợi…Bởi theo ngôn ngữ Phật giáo, ăn mặc gợi cảm quá mức vừa phạm giới uế tạp Phật đường, vừa phạm giới bất kính, dù người đó có mất công thờ cúng cũng không có ích gì.
Ngoài ra, Những loại trang phục rườm rà rất dễ gây vướng víu ở những nơi đông đúc như các đền chùa ngày đầu năm, quần áo có thể dễ dàng vướng vào hương hoặc bị tàn hương rơi làm rách, cháy vải. Có nhiều nơi quy định phải tháo bỏ giày dép trước khi vào sắp lễ nên hãy chọn những đôi giày đơn giản, dễ tháo, dễ đi. Đối với Phật tử thì phải mặc áo lễ khi đến điện thờ Phật trong chùa.
Không nên mặc những quần áo hở hang, không đúng thuần phong mỹ tục khi đi lễ chùa
2./ Nguyên tắc khi ra vào chùa
Khi bước vào nhà chính của đền, chùa, bạn không được đi vào từ cửa giữa. Khi đi qua cổng Tam quan vào chùa nên đi vào cửa Giả quan (bên phải) và đi ra bằng cửa Không quan (bên trái). Cửa Trung quan (chính giữa) chỉ dành cho Thiên tử, bậc cao tăng, bậc khoa bảng đi vào chùa và đi ra cũng theo cửa này.
Ngoài ra, bạn cũng không được dẫm lên bậu cửa nhà chùa.
3./ Về xưng hô
Nói chuyện với các nhà sư thì xưng là A di đà Phật, bạch Thầy… và xưng là Con. Xưng hô như vậy tức là nhìn thấy tăng mà tưởng nhớ thầy Thích Ca Mâu Ni, nghĩa là xưng hô với Đức Thích Ca. Nếu nhà sư đó là Thầy hướng dẫn bạn tu tập, thì xưng hô là Thầy ngoài ý nghĩa trên còn mang nghĩa là Thầy dạy học đạo. Khi thưa gửi với nhà sư thì đều chắp tay hình búp sen.
4./ Về đồ lễ khi đi chùa
Đến dâng hương tại các chùa chỉ được sắm các lễ chay: hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè… không được sắm sửa lễ mặn chư cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả. Không đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện tức là chính điện, tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh.
Lễ dâng hương tại chùa là các đồ chay như hoa quả, bánh kẹo...
Việc sắm sửa lễ mặn chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Thánh, Mẫu và chỉ dâng ở đó mà thôi. Tuyệt đối không được dâng đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện (chính diện), tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh.
Lễ mặn (nhưng thường chỉ đơn giản: gà, giò, chả, rượu, trầu cau…) cũng thường được đặt tại ban thờ hay điện thờ (nếu xây riêng) của Đức Ông - Vị thần cai quản toàn bộ công việc của một ngôi chùa.
Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì thí chỉ đặt ở bàn thờ Thần Linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông. Tiền giấy âm phủ hay hàng mã kiêng đặt ở ban thờ Phật, Bồ Tát. Tất cả tiền thật đều nên đặt vào hòm công đức chính. Không nên đi "rải" tiền trên tất cả ban thờ, đặt vào tay tượng. Nếu cẩn thận hơn, hòm công đức nào nằm lệch, không chính giữa ban thờ thì bạn hãy đặt tiền công đức vào hòm này. Thực tế đo đạc bằng máy móc cho thấy hòm công đức đặt chính giữa, ngay trước ban thờ sẽ tạo ra trường khí xấu gây nhiễu loạn tại ban thờ. Đặt tiền vào đây vô tình làm trường khí xấu càng bị xáo động, bất lợi cho mọi người.
Rượu, bia, thuốc lá không đặt được trên ban thờ Phật nhưng có thể đặt trên ban thờ Thánh. Hoa tươi lễ Phật là hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu… không dùng các loại hoa tạp, hoa dại…
Tại chùa, cứ đến rằm tháng Bảy thì mọi người sắm sửa lễ vật đến cầu siêu cho ông bà, cha mẹ hay những người đã khuất, thậm chí cho cả cô hồn. Vào tiết này, sắm thêm lễ vật đặc trưng: đồ hàng mã chế tác theo hình vật cúng chúng sinh: cháo lá đa, ngôi, bánh đa, khoai… Tất cả dâng đặt ở ban thờ Đức Thánh chứ không đặt ở bàn thờ khác hay ban chính điện.
Riêng với các trường hợp “bán khoán” hay làm lễ “cầu siêu” thì cần phải sắm sửa lễ vật theo chỉ dẫn cụ thể của vị tăng trụ trì tại chùa.
5./ Khi thắp hương
Không để hương bị tắt trong khi đang sử dụng.
Nếu là hương que: Chú ý phải cắm thẳng, không để nghiêng lệch. Nếu thấy đã có hương, không cần thắp tiếp. Chỉ dùng một nén hương là được, không cắm hay thắp cả thẻ/gói hương.
Với hương tháp: Phải đặt vào giữa đĩa hương hoặc lư hương. Hương vòng: Chú ý đặt thuận theo chiều kim đồng hồ.
Không phải chỗ nào cũng cắm hương được. Chỉ cắm vào bát hương, nếu bát hương có hương rồi không cần cắm tiếp. Không cắm hương tùy tiện vào tay tượng, gốc cây, hay đồ lễ...
6./ Cách hành lễ khi đi chùa
Bước 1 – Đặt lễ vật: thắp hương và làm lễ ở ban thờ Đức Ông trước tiên.
Bước 2 – Sau khi đặt lễ ở ban Đức Ông xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang rồi làm lễ chư Phật, Bồ Tát.
Bước 3 – Sau khi đặt lễ chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà bái đường. Khi thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện.
Bước 4 – Cuối cùng thì lễ ở nhà thờ Tổ (nhà Hậu).
Bước 5 – Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tùy tâm công đức.
Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ. Nếu muốn cầu xin may mắn trong sự nghiệp, tình cảm…thì bạn nên vào đình, đền.
Không được tùy ý làm ồn hoặc nói những lời bất kính đối với Phật, Thánh, cũng không được có thái độ thiếu cung kính như tùy tiện dùng tay chỉ trỏ vào tượng Phật.
Khi bước đi không nên cắt ngang qua mặt những người đang quỳ lạy. Muốn làm lễ thì không nên quỳ phía sau những người đang đứng thắp hương. Tùy vào từng môn phái, có thể đứng/quỳ khi làm lễ nhưng cần phải lên trước.
7./ Lấy lộc để bàn thờ tại nhà
Không nên mang các đồ ở đình chùa về đặt lên bàn thờ nhà mình.
Chỉ cần đặt tiền vào hòm công đức, không cần lấy giấy công đức. Nếu có lấy cũng không nên mang đặt lên ban thờ nhà mình để báo công. Không lấy cành lộc mang về đặt lên bàn thờ nhà mình. Có thể lấy lộc là bánh kẹo, bao diêm, bật lửa nhưng không được đặt lên ban thờ.
Bùa, phù, chú... đa phần có trường khí âm, không nên mang về nhà, càng không nên đặt lên ban thờ hay nhét vào ví. Đặt bùa chú vào ví, cũng như luôn mang một trường khí âm, hỗn loạn theo người, chỉ gây thêm bất lợi cho bản thân.
** NHỮNG VIỆC KHÔNG NÊN LÀM KHI LỄ CHÙA **
1. Không chạy qua chạy lại, nói chuyện, bình phẩm, ngồi hoặc nằm trong Phật đường. Không tùy tiện hắt hơi, sổ mũi, khạc nhổ,… quanh khu vực Phật điện, tam bảo.
2. Không được tùy ý làm ồn hoặc nói những lời bất kính đối với Phật, Thánh, cũng không được có thái độ thiếu cung kính như tùy tiện dùng tay chỉ trỏ vào tượng Phật
3. Vào Phật đường, tam bảo không nên đi giày dép, nhai trầu, hút thuốc. Tam bảo là nơi tôn nghiêm, có giới hương, định hương, chân hương, đòi hỏi phải trì giới để di dưỡng thanh tịnh, tuyệt đối không gây ồn ào, hỗn tạp.
4. Không nên mang theo mũ áo, khăn, túi xách, gậy gộc, bao tay… vào tam bảo bái Phật. Lỡ đặt những đồ đạc như vậy trên bàn, trên chiếu hoặc trong góc tam bảo để bái Phật thì mọi công quả tu dưỡng bấy lâu đều tiêu tán. Đi lễ chùa, tốt nhất không mang theo những đồ tùy thân khi vào tam bảo.
5. Trước tượng Phật nên cung kính nghiêm trang, không nhìn ngang ngó dọc, khệnh khạng trước tam bảo. Nếu muốn chiêm ngưỡng tượng Phật, nên đứng từ ngoài để quan sát.
6. Không nên chụp ảnh, quay phim tùy tiện trong chùa.
7. Tuyệt đối không được tự ý lấy sử dụng hoặc mang bất kỳ đồ đạc gì của nhà chùa về làm của riêng. Và cũng không nên mang các đồ ở đình chùa về đặt lên ban thờ nhà mình. Đồ đã cúng rồi không thể cúng lại; hơn nữa nhiều đồ có chứa trường khí âm, ảnh hưởng xấu đến ban thờ
** NHỮNG BÀI VĂN KHẤN TRUYỀN THỐNG TẠI CHÙA **
1. Văn khấn Đức Ông - Đức Chúa Ông (Tôn giả Tu-đạt)
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Kính lạy Đức Ông Tu Đạt Tôn Giả, Thập Bát Long Thần, Già Lam Chân Tể.
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................................................................
Ngụ tại ............................................................................................................
Cùng cả gia đình thân tới cửa chùa ................................... trước điện Đức Ông, thành tâm kính lễ, (nếu có đang lễ vật thì khấn thêm “hiến dâng phẩm vật, kim ngân tịnh tài”), chúng con tâu lên Ngài Tu Đạt Tôn Giả từ cảnh trời cao soi xét.
Chúng con kính tâu lên Ngài Già Lam Chân Tể cai quản trong nội tự cùng các Thánh Chúng trong cảnh chùa đây.
Thiết nghĩ chúng con sinh nơi trần tục, nhiều sự lỗi lầm, hôm nay tỏ lòng thành kính, cúi xin Đức Ông thể đức hiếu sinh, rủ lòng tế độ che chở cho chúng con, ba tháng hè chín tháng đông, tiêu trừ bệnh tật tai ương, vui hưởng lộc tài may mắn, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A-di-đà Phật (3 lần, 3 lạy)
2. Văn khấn Đức Thánh Hiền (Đức A-nan-đà Tôn Giả)
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Con cúi lạy Đức Thánh Hiền, Đại Thánh Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................................................................
Ngụ tại ............................................................................................................
Chúng con thành tâm tiến dâng lễ bạc, oản quả, hương hoa.
Cầu mong Tam Bảo chứng minh, Đức Thánh Hiền chứng giám, rủ lòng thương xót phù hộ cho con được mọi sự tốt lành, sức khỏe dồi dào, an ninh khang thái, gia đạo hưng long, thịnh vượng.
Cúi mong Ngài soi xét tâm thành, phù hộ cho gia đình chúng con được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Nam mô A-di-đà Phật (3 lần, 3 lạy)
3. Văn khấn cầu tài, cầu lộc, cầu bình an ở ban Tam Bảo (Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo)
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Đệ tử con thành tâm kính lạy Mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, Hộ pháp Thiện thần, Thiên Long Bát Bộ.
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................................................................
Ngụ tại ............................................................................................................
Thành tâm dâng lễ bạc cùng sớ trạng (nếu viết sớ đặt trên mâm lễ vật) lên cửa Mười phương Thường trụ Tam Bảo.
Chúng con xin dốc lòng kính lễ:
- Đức Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc Tây phương.
- Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Sa Bà.
- Đức Phật Dược Sư Lưu Ly giáo chủ cõi Đông phương.
- Đức Thiên thủ, Thiên nhãn, Ngũ bách danh tầm thanh cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Kính lạy Đức Hộ Pháp thiện thần Chư Thiên Bồ Tát.
Kính xin chư vị rủ lòng từ bi, phù hộ độ trì cho con, nguyện được .................................... (công danh, tài lộc, giải hạn, bình an…).
Nguyện xin chư vị, chấp kỳ lễ bạc, tâm thành (sớ trạng) chứng minh, chứng giám cho con được tai quan nạn khỏi, điều lành đem đến, điều dữ tiêu tan, phát lộc phát tài, gia trung mạnh khoẻ, trên dưới thuận hoà an khang thịnh vượng.
Chúng con người phàm trần tục lầm lỗi còn nhiều. Cúi mong Phật, Thánh từ bi đại xá cho con (và gia đình) được tai qua nạn khỏi, mọi sự tốt lành, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
4. Văn khấn Bồ-tát Quán Thế Âm
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Nam mô Đại từ Đại bi Linh cảm Quán Thế Bồ Tát.
Kính lạy Đức Viên Thông giáo chủ thuỳ từ chứng giám.
Chúng con có nghe Đức Phật dạy trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Phổ Môn rằng
"Dù chỉ nghe tên Quán Thế Âm
Hay dù chỉ thấy bức chân dung,
Nhất tâm trì niệm hồng danh ấy,
Thoát mọi hung tai, được cát tường".
Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....
Tín chủ con là .................................................................................................
Ngụ tại ............................................................................................................
Thành tâm đến trước Phật đài, nơi điện Đại bi, kính dâng phẩm vật, hương hoa kim ngân tịnh tài, ngũ thể đầu thành, nhất tâm kính lễ dưới toà sen hồng.
Cúi xin Đức Đại Sỹ không rời bản nguyện chở che cứu vớt chúng con như mẹ hiền phù trì con đỏ. Nhờ nước dương chi, lòng trần cầu ân thanh tịnh, thiện nguyện nêu cao. Được ánh từ quang soi tỏ, khiến cho nghiệp trần nhẹ bớt, tâm đạo khai hoa, độ cho đệ tử cùng gia đình bốn mùa được chữ bình an, tám tiết khang ninh thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, gia đạo hưng long, mầm tai ương tiêu sạch làu làu, đường chính đạo thênh thang tiến bước. Cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Tín chủ chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát! (3 lần, 3 lạy)
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
Vũ không được Phủ cùng cung thì uy lực kém hơn. Đồng cách Kiếp Kình, thêm nhiều sao tốt hội họp cũng ác độc nhưng khó thành công, thêm nhiều sao xấu hội họp tất vì tiền bạc mà mang họa vào thân.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Vào một buổi sáng lạnh mùa đông năm 2007, tại một ga metro ở Washington DC, một thanh niên với chiếc đàn vĩ cầm, đứng chơi những bài nhạc nổi tiếng của Bach, Schubert, Massenet… trong vòng 45 phút.
Trong khoảng thời gian ấy có khoảng chừng 2 ngàn người đi ngang qua, đa số đang trên đường đến sở làm của họ. Dường như không một ai có vẽ chú ý đến sự có mặt của anh.
Sau khoảng 3 phút, một người đàn ông đứng tuổi đi qua và nhận thấy có một nhạc sĩ đang đứng đó chơi vĩ cầm. Ông đi chầm chậm, dừng lại chừng vài giây, và rồi lại vội vã đi tiếp cho kịp giờ của mình.
4 phút sau: Người nhạc sĩ vĩ cầm ấy nhận được đồng đô la đầu tiên: một người đàn bà ném tiền vào thùng đàn của anh và không hề dừng lại, tiếp tục bước đi.
6 phút: Một người thanh niên trẻ đứng dựa vào tường lắng nghe anh, nhìn đồng hồ đeo tay của mình và rồi lại tiếp tục bước đi.
10 phút: Một đứa bé dừng lại nghe, nhưng mẹ của em vội vàng lôi em đi tiếp. Ðứa bé tiếp tục dừng lại nhìn anh nhạc sĩ vĩ cầm, nhưng mẹ của em đẩy mạnh, và em lại phải tiếp tục bước đi, nhưng em vẫn cứ ngoái đầu quay nhìn lại. Và điều này đã cũng xảy ra với nhiều những đứa bé khác. Và cha mẹ nào cũng đều lôi kéo các em, bắt các em phải đi nhanh lên.
45 phút: Người nhạc sĩ vĩ cầm ấy vẫn tiếp tục chơi nhạc không ngừng. Chỉ có 6 người dừng lại và lắng nghe trong vài ba phút rồi bỏ đi. Khoảng chừng 20 người cho anh tiền, trong khi vẫn tiếp tục bước đi bình thường, và không hề dừng lại. Chàng nhạc sĩ ấy thâu được tổng cộng là 32 đô la.
1 giờ sau: Anh ta ngừng chơi, không gian im lặng trở lại. Không ai chú ý đến anh. Không một tiếng vỗ tay, và cũng không một lời tán thưởng.
Ðây là kết quả của một cuộc thử nghiệm do báo The Washington Post tổ chức. Trong cuộc thử nghiệm này, Joshua Bell phải ăn mặc thật bình thường, quần jean, áo thun, mũ kết, và chơi đàn trong giờ cao điểm, 7:45am. Họ chọn nơi biểu diễn là trạm ga L’Enfant Plaza, vì nơi đây những người khách metro đi ngang qua đa số là thuộc tầng lớp trung lưu, chuyên nghiệp, trí thức, phần lớn làm việc với chính phủ liên bang.
Trước khi tổ chức, các nhà thử nghiệm nghĩ rằng tại Washington DC, một trong những đô thị phát triển nhất nước Mỹ về classical music, nhạc giao hưởng, Joshua Bell có thể sẽ thu hút một số lượng lớn khán thính giả dừng lại nghe, và họ có lẽ sẽ phải nhờ cảnh sát đến để giữ trật tự.
Nhưng chỉ có một người duy nhất nhận ra Joshua Bell, vì trước đó ba tuần cô ta có đi xem anh trình diễn ở Library of Congress, nên nhận ra anh ngay. Cô ta đã bỏ vào hộp đàn của Joshua Bell 20 đô la và tự giới thiệu mình khi anh ngưng chơi đàn.
Tờ Washington Post viết, mục đích của cuộc thử nghiệm này để xem rằng: chúng ta có thể nhận diện, ý thức được những gì hay và đẹp đang có mặt giữa cuộc sống bận rộn của mình, và trong những hoàn cảnh bình thường hằng ngày không?
Và nếu như trong cuộc sống chúng ta không thể dừng lại trong giây lát để lắng nghe một nhạc sĩ lừng danh nhất trên thế giới, chơi những giai điệu hay nhất từng được sáng tác, với một nhạc cụ tốt đẹp nhất, và nếu như cuộc sống quá bận rộn đến nỗi chúng ta không còn có thời gian để dừng lại, khiến ta trở nên lãng quên trước những điều hay và đẹp, thì trên con đường ta đi mình còn vô tình bỏ qua và đánh mất bao nhiêu những điều đáng quý nào khác nữa chăng?
Trong thời đại ngày nay, dường như đa số chúng ta có khá đầy đủ, nhưng duy có một điều mà chắc chắn trong chúng ta ai cũng đều rất thiếu thốn là thời giờ của mình, phải thế không bạn?
Trên con đường chúng ta đi, có lẽ ta cũng sẽ có dịp nghe được tiếng đàn vĩ cầm của Joshua Bell, và bao nhiêu những điều hay đẹp khác chung quanh ta, nâng cao tâm hồn mình, giữa những bận rộn và ngay trong hoàn cảnh bình thường nhất, nếu chúng ta biết tập bước chậm lại một chút…
Bày bể cá phong thủy ở huyền quan có tác dụng phong thủy rất tốt. Nhưng bày thế nào cho đúng chuẩn, tránh những sai lầm đáng tiếc? Hãy lưu ý vài điểm dưới đây nhé.
![]() |
![]() |
Trong nhân tướng học, nốt ruồi xuất hiện ở mỗi vị trí khác nhau trên mặt sẽ đại diện cho tính cách, thái độ sống khác nhau. Cùng khám phá những nốt ruồi thể hiện vận số đào hoa của giới nữ.
Người có nốt ruồi trên má thể hiện vận đào hoa của người phụ nữ tăng dần the tuổi thác.
Nốt ruồi lớn trên trán
Người có nốt ruồi tại vị trí này thường có vẻ ngoài khá hiền dịu, nữ tính. Tuy nhiên, ẩn sau đó là một trái tim nóng bỏng yêu đương. Đặc biệt, đời sống tình dục của cô ấy rất thăng hoa bởi trong chuyện chăn gối, cô ấy thực sự là người phụ nữ đầy ấn tượng.
Nốt ruồi phía cuối chân mày
Phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí cuối chân mày thường là mẫu người tương đối đa tình. Người phụ nữ ấy thích trải nghiệm những cảm giác mới mẻ trong tình yêu và chuyện chăn gối. Với họ, tình yêu không gắn liền với hôn nhân và khi đã lập gia đình, nhiều khả năng họ vẫn sẽ… vượt rào.
Nốt ruồi bên dưới đuôi mắt
Cũng giống như tính cách của người có nốt ruồi ở phía cuối chân mày, người có nốt ruồi bên dưới đuôi mắt thường rất đa tình và ham mê nhục dục.
Nốt ruồi phía dưới khóe mắt trái
Đây sẽ là người phụ nữ đa sầu đa cảm, tôn thờ những mối tình lãng mạn giống như trên phim ảnh và thích những cuộc tình tay ba… Nàng không có quan niệm thật sự đúng đắn về tình yêu và do đó thường gặp nhiều rắc rối trong đời sống tình cảm.
Nốt ruồi phía trên khóe miệng
Sở hữu nốt ruồi “phong lưu” này cho thấy nàng vốn là người rất đào hoa, có sức hấp dẫn đặc biệt với người xung quanh. Nàng có khả năng thành công nếu đi theo con đường điện ảnh, kịch trường.
Nốt ruồi trên môi
Nàng có thể là người háo sắc và… ham ăn. Vận số đào hoa xem boi ngay sinh của nàng cũng rất vượng. Trong cuộc sống, nàng dễ vướng vào chuyện phiêu lưu tình ái với người khác giới, thậm chí cả người đồng giới. Cần hết sức chú ý giữ gìn sức khỏe, tránh bệnh tật và những điều rắc rối khác.
Nốt ruồi trong mắt
Trường hợp nốt ruồi xuất hiện ở vị trí tròng trắng vốn ít gặp. Đây là cô nàng rất thông minh, tài giỏi và có uy lực. Vận đào hoa của nàng cũng rất vượng. Lý do là bởi nàng thường dễ dàng chấp nhận tình cảm của đối phương.
Nốt ruồi tại vị trí giữa hai đầu lông mày
Những cô nàng có nốt ruồi tại vị trí giữa hai đầu lông mày (còn gọi là ấn đường) thường có tính cách khá cởi mở, phóng khoáng. Mọi người dễ nhận thấy ở nàng sự thân thiện và nhiều điểm tương đồng. Phái mày râu cũng bị lôi cuốn bởi tính cách đáng yêu của nàng.
Nốt ruồi tại sống mũi
Nốt ruồi tại sống mũi (còn gọi là Tỵ Lương) cũng là dạng tiêu biểu của vận đào hoa. Cô gái có nốt ruồi này dễ mắc vào những rắc rối, thậm chí là đau khổ trong chuyện tình cảm lứa đôi. Vì vậy đây còn gọi là vận đào hoa xấu.
Nốt ruồi tại nhân trung
Nốt ruồi tại nhân trung (phần lõm sâu phía trên của môi trên) còn gọi là nốt ruồi vượt rào. Nữ giới có nốt ruồi này thường ít chú tâm tới gia đình, thiếu đoan chính, có khả năng quan hệ bất chính rất cao.
Nốt ruồi trên má
Nốt ruồi ở má, tại vị trí Pháp Lệnh, chính là nốt ruồi đào hoa. Nó thể hiện vận đào hoa của chủ nhân tăng lên theo tuổi tác. Người này có nhiều khả năng giữ được vẻ đẹp dài lâu hoặc khi càng nhiều tuổi càng trở nên mặn mà hơn.
Vì thế, có những khi cầm 1 lá số trông thật tệ nhưng chủ nhân của nó lại không phải như vậy, cho nên, các nhà bói toán buộc lòng phải thực hiện công thức Lá số + Tâm lý mà luận giải theo thực tế.
Tử Vi có Khái niệm về Độ Số, nhưng với những ai đã từng tìm hiểu Tử Vi đều có thể nhận thấy rằng Độ Số ấy mang nhiều cảm tính hơn là lập luận. Vì sao như vậy ? Do Tử Vi không có lý luận cơ sở , và những gì Tử Vi có sử dụng đến Ngũ Hành & Âm Dương để lý giải Độ Số hãy còn sơ khai và giản đơn. Chính vì vậy, Tử Vi là một môn học dự đoán không có cơ sở lý thuyết.
Tôi đã trình bày cơ sở lý luận của Chu Dịch Dự Đoán Học. Để tạo lập phương pháp dự đoán Tứ Trụ, tôi đã lấy cơ sở lập luận và lý thuyết bên Đông Y. Vì thế, Tứ Trụ & Chu Dịch Dự Đoán Học là hai môn học dự đoán có cơ sở lý thuyết.
Thực tế dự đoán, tôi thường phối hợp Chu Dịch Dự Đoán với Tứ Trụ do chúng có những điểm bổ sung cho nhau. Tương tự Chu Dịch Dự Đoán Học, khả năng ứng dụng của Tứ Trụ không dừng lại ở dự đoán số phận. Ở phần tiếp theo, tôi sẽ nói thêm về một biến thể của Tứ Trụ _ Môn học Bấm Độn.
Dương Kiện Toàn I – Thiên địa nhân
Các Can và Chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương của ngũ hành của trời và đất.
Thiên tức là thiên can chủ về trời, là Thiên nguyên (tức là các nguyên nhân này do ông trời quyết định – tức bởi 10 vật thể lớn nhất trong hệ mặt trời gây ra). Chúng chính là các can đã lộ ra trong tứ trụ của từng người.
Địa tức là địa chi chủ về xã hội mà con người đang sống trên mặt đất, là Địa nguyên.
Nhân tức là con người được tạo ra trong trời và đất, do vậy trong mỗi địa chi của tứ trụ có chứa từ 1 đến 3 can, đó chính là các thần đặc trưng cho khả năng chủ quan của người có tứ trụ, là Nhân nguyên.
Sự dự đoán tổng hợp của tam nguyên (Thiên Địa Nhân) là một thể thống nhất trong mệnh lý học, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì nó có thể chỉ ra toàn bộ tiền đồ, cát, hung, họa, phúc ....của cả một đời người. Nếu kết hợp tứ trụ với tướng tay và tướng mặt để dự đoán thì điều dự đoán có thể đạt đến sự chính xác, chi tiết đến kỳ diệu.
II – Thiên nguyên
Thiên nguyên trong tứ trụ chính là các can của trụ năm, tháng và giờ, đó là ba thần. Đối với tứ trụ có một tổ hợp trong sáng và đẹp thì ba thần này thường sẽ là : Thực hay Thương sinh Tài, Tài sinh Quan hoặc Sát, Quan hay Sát sinh Ấn, Thực thần chế Sát, Thương quan hợp Sát, Thương quan hoặc Thực thần mang Ấn, Tài Quan Ấn đều có... Những tổ hợp này thường là các yếu tố báo hiệu những mệnh phú quý.
1 – Ngũ hợp của thiên can
Vì các thiên can là khí của ngũ hành nên chúng có hai tính chất tương sinh và tương khắc với nhau (như đã nói ở trên) ngoài ra chúng còn có các tính chất hợp và biến đổi để tạo ra các hóa cục.
Thiên can chỉ có thể hợp với nhau khi chúng ở gần nhau. Gần ở đây có nghĩa là can trụ năm với can trụ tháng, can trụ tháng với can trụ ngày, can trụ ngày với can trụ giờ, các can trong tứ trụ với can đại vận và lưu niên, can đại vận và can lưu niên với can tiểu vận.
2 – Tính chất của ngũ hợp
Giáp hợp với Kỷ, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp trung chính.
Ất hợp với Canh, tức là hợp với người hay sự việc là hợp nhân nghĩa.
Bính hợp với Tân, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp có uy lực để chế ngự.
Đinh hợp với Nhâm, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp dâm loạn.
Mậu hợp với Quý, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp vô tình.
5 tổ hợp này được gọi là ngũ hợp.
3 - Thiên can hợp với nhau có thể hóa cục
Giáp hợp với Kỷ có thể hóa được thành Thổ.
Ất hợp với Canh có thể hóa được thành Kim.
Bính hợp với Tân có thể hóa được thành Thủy.
Đinh hợp với Nhâm có thể hóa được thành Mộc.
Mậu hợp với Quý có thể hóa được thành Hỏa.
Các hóa cục này có khả năng sinh, phù hay khắc chế Thân.
4 – Quy tắc hợp và hóa của các thiên can trong tứ trụ
Các thiên can trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi chúng ở gần nhau. Cần phân biệt hai trường hợp, các can hợp với nhau hóa được hay chỉ hợp mà không hóa.
a – Can ngày chỉ hợp được với can tháng và can giờ. Nếu can ngày chỉ hợp với can tháng hay can giờ thì chúng không thể hóa được cục nếu trong tứ trụ xuất hiện hành quan-sát của hóa cục này (nghĩa là hành khắc hành của hóa cục này, kể cả hành quan-sát này chỉ có các can tàng phụ (?)) mặc dù có hành của chi tháng hay hành của hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa, còn nếu 2 can hợp với 1 can thì ngũ hợp này không bao giờ có thể hóa được cục.
b – Ngũ hợp của can trụ năm với can trụ tháng có thể hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay hành hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa hay còn được gọi là thần dẫn (nó giống như chất xúc tác trong các phản ứng hóa học).
Ví dụ : Mậu ở trụ năm hợp với Quý ở trụ tháng hóa thành Hỏa cục chỉ khi chi tháng (chi của trụ tháng) là Tị, Ngọ (vì hành của Tị và Ngọ là Hỏa) hay chi tháng đã hóa thành Hỏa cục, vì vậy các chi Tị, Ngọ hay Hỏa cục ở chi của trụ tháng được gọi là các thần dẫn cho các hóa cục của các thiên can.
5 – Quy tắc hợp và hóa của các can giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận
a – Ngũ hợp chỉ có 2 can
1 - Ngũ hợp của các can trong tứ trụ (kể cả can ngày bởi vì khi nó hợp với tuế vận, nó được xem như các can khác và nó không làm cho hành của Thân thay đổi khi nó hóa thành các hành khác nếu hành của Thân chỉ có can ngày) với can đại vận hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay chi đại vận (mặc dù các chi này đã hóa cục có hành khác với hành của các chi này) cũng như hành của hóa cục của chi tháng hay chi đại vận (nếu chúng hóa cục) có khả năng dẫn hóa cho ngũ hợp này (nghĩa là hành của thần dẫn giống với hành của ngũ hợp này).
2 - Ngũ hợp của can trong tứ trụ với can lưu niên hóa cục...nó tương tự như câu trên khi thay đại vận thành lưu niên, chỉ có khác là hành của chi lưu niên cũng có khả năng dẫn hóa nếu chi lưu niên là động (khi nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác).
3 – Ngũ hợp của can đại vận với can tiểu vận hóa cục.... nó tương tự như can trong tứ trụ hợp với can đại vận nhưng có thêm chi tiểu vận (nghĩa là hành của chi tiểu vận) cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là động (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác).
4 - Can lưu niên hợp với can tiểu vận hóa cục tương tự như can trong tứ trụ hợp với can lưu niên hóa cục nhưng có thêm chi tiểu vận cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là đông (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác.
5 – Can đại vận hợp với can lưu niên hóa cục chỉ khi hành của các chi trụ tháng, đại vận hay lưu niên (riêng chi lưu niên phải động) cũng như hóa cục của các chi này (nếu chúng hóa cục) là thần dẫn.
b – Ngũ hợp có từ 3 can trở lên
Các ngũ hợp này được gọi là tranh hợp nên chúng không có khả năng hóa cục. Do vậy các can của chúng luôn luôn khắc nhau nếu là tranh hợp giả và không khắc được nhau nếu là tranh hợp thật.
1 - Tranh hợp thật của thiên can chỉ xẩy ra khi có 2 can giống nhau có hành là chủ khắc ở tuế vận hợp với can tiểu vận hay hợp với 1 hay nhiều can giống nhau trong tứ trụ hoặc hợp với can tiểu vận và các can giống với can tiểu vận ở trong Tứ Trụ.
2 - 2 can là chủ khắc giống nhau ở trong tứ trụ hợp với 1 can của tuế vận hay 2 can của tuế vận nếu chúng giống nhau.
Giải thích về tranh hợp thật của thiên can giống như tranh hợp thật của địa chi (xem phía dưới).
Khi các thiên can hợp với nhau hóa cục có hành mới thì ta phải lấy hành mới này để luận, như vậy thì hành cũ của các can trong hóa cục này đã hoàn toàn mất đi tác dụng của chúng, còn nếu chúng hợp với nhau mà không hóa thì chỉ có các can trong tổ hợp mới có khả năng tác dụng được với nhau nhưng chúng không có khả năng tác dụng với các can khác ngoài tổ hợp này (trừ các chi cùng trụ với chúng sẽ nói sau).
III - Địa nguyên
Các địa chi trong tứ trụ là địa nguyên. Địa nguyên đại diện cho xã hội của con người nên rất phức tạp. Đủ thứ phát sinh trong cái xã hội này, như đâm, chém, giết nhau... người ta gọi là xung, khắc. Tụ tập thành từng nhóm, từng hội thành các đảng phái, tôn giáo... khác nhau người ta gọi là hội, hợp. Người này lừa đảo, hãm hại người kia người ta gọi là hình, hại. Tự mình làm khổ mình người ta gọi là tự hình,…..Sự hình, xung, khắc, hại, hội và hợp của các địa chi có ảnh hưởng rất lớn đối với Thân.
Giữa các địa chi với nhau các sách cổ chỉ nói đến hình, xung, khắc, hóa, hội, hợp và hại mà không nói đến sự tương sinh (phải chăng địa chi không có khả năng sinh cho nhau (?)).
Tôi đã chứng minh được thiên can và địa chi trong cùng trụ có thể sinh cho nhau và một ví dụ có thể chứng minh được các thiên can cũng có thể sinh được cho nhau (?) (xem ví dụ số 148).
1 - Lục hợp của địa chi
Tý....hợp với Sửu có thể hóa thành Thổ cục.
Ngọ...........Mùi..................Thổ cục.
Dần...........Hợi..................Mộc cục.
Mão...........Tuất.................Hỏa cục.
Thìn..........Dậu..................Kim cục.
Tị............Thân.................Thủy cục.
Sáu tổ hợp trên được gọi là lục hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau (gần của địa chi tương tự như gần của thiên can). Lục hợp chủ yếu đại diện cho quan hệ vợ chồng hay giữa nam với nữ.
2 – Tam hợp của địa chi
Thân Tý Thìn hợp với nhau có thể hóa thành Thủy cục.
Hợi..Mão Mùi ..........................................Mộc cục.
Dần..Ngọ Tuất..........................................Hỏa cục.
Tị..Dậu Sửu............................................Kim cục.
Tam hợp không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức, đoàn thể, đảng phái chính trị....
3 - Các bán hợp của địa chi
Thân bán hợp với Tý hay Tý bán hợp với Thìn có thể hóa thành Thủy cục.
Hợi......................Mão hay Mão............Mùi.......................Mộc cục.
Dần......................Ngọ hay Ngọ............Tuất......................Hỏa cục.
Tị.........................Dậu hay Dậu............Sửu.......................Kim cục.
Bán hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau. Bán hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức nhỏ phi chính trị.
Trong tứ trụ có lục hợp, tam hợp hay bán hợp là chủ về người đó có dung nhan đẹp, tính cách thanh lịch, thần khí ổn định, yêu cuộc sống, lòng dạ thẳng thắn, linh lợi, thông minh hoạt bát (xét về hợp). Nếu các tổ hợp này hóa thành (cục) hỷ dụng thần là tốt (trừ chúng gây ra Đại Chiến), còn hóa thành kỵ thần là xấu (xét về hành của hóa cục).
4 – Tam hội của địa chi
Tam hội của Dần Mão Thìn..về phương Đông có thể hóa thành Mộc cục.
Tam.............Tị Ngọ Mùi....về phương nam..có thể hóa thành Hỏa cục.
Tam.............Thân Dậu Tuất.về phương Tây..có thể hóa thành Kim cục.
Tam.............Hợi Tý Sửu....về phương Bắc..có thể hóa thành Thủy cục.
Tam hội không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hội chủ yếu đại diện cho các tổ chức tôn giáo.
Vì khí của tam hội cục sẽ hội tụ về một phương (tôn thờ một vị thánh), cho nên khí âm dương ngũ hành của nó là vượng nhất, sau đó mới đến tam hợp, bán hợp rồi mới đến lục hợp. Các sách cổ thường nói trong tứ trụ có từ 3 tổ hợp trở lên thường là người có tài đối với nam, còn là dâm loạn đối với nữ (thời nay câu này là sai với nữ).
5 - Lục xung của địa chi
Tý....với..Ngọ...là tương xung
Mão........Dậu................
Dần........Thân...............
Tị...........Hợi................
Thìn.......Tuất...............
Sửu.........Mùi................
Trong đó:
Tý với Ngọ, Tị với Hợi là sự xung-khắc của Thủy với Hỏa.
Dần với Thân, Mão với Dậu là sự xung-khắc của Kim với Mộc.
Duy chỉ có thìn với Tuất và Sửu với Mùi là giống nhau về hành, vì vậy chỉ nói đến xung không nói đến khắc.
Trong đó:
Các lực xung-khắc của Tý với Ngọ và Dậu với Mão là các lực xung-khắc mạnh nhất, vì chúng đại diện cho các lực xung-khắc chính phương là Đông (Mão) với Tây (Dậu) và Nam (Ngọ) với Bắc (Tý). Sau đó mới đến lực xung-khắc của Dần với Thân và Tị với Hợi vì phương xung-khắc của nó không đúng chính phương, cuối cùng mới là lực xung của Thìn với Tuất và Sửu với Mùi.
6 – Tương hại của địa chi
a - Tý.....và...Mùi...hại với nhau, tức là Tý....hại...Mùi, .Mùi...hại...Tý
b - Sửu...............Ngọ........................Sửu.........Ngọ, .Ngọ.........Sửu
c - Dần.................Tị...........................Dần...........Tị,.....Tị..........Dần
d - Mão................Thìn.......................Mão.........Thìn, Thìn........Mão
e - Thân...............Hợi........................Thân........Hợi,..Hợi.........Thân
f - Dậu.................Tuất.......................Dậu ........Tuất,.Tuất........Dậu
Lục hại trên được sinh ra từ lục hợp :
Ví dụ 1: Lục hợp (gia đình) của Ngọ với Sửu bị phá tan khi có Tý đến xung Ngọ, vì vậy Tý đã hại Mùi (làm cho gia đình của Ngọ với Mùi bị tan vỡ).
Ví dụ 2 : Lục hợp của Tý với Sửu có thể bị phá tan khi có Mùi đến xung Sửu, vì vậy Mùi đã hại Tý (làm cho gia đình của Tý với Sửu có thể bị tan vỡ).....
Người gặp các hại trên, sợ nhất ở trụ ngày và trụ giờ. Thường đối với người như vậy thì về già hay bị tàn tật hoặc không có nơi nương tựa. Nếu còn gặp Kình dương thì không chúng phải mũi tên, hòn đạn cũng dễ gặp phải hổ (?). Hình, tự hình và hại nói chung là xấu nhưng nếu bị hợp hóa cục, hoặc bị khắc có thể giải được, còn bị xung (kể cả thổ) thì chỉ giảm đi một phần.
7 – Tương hình của địa chi
Tý hình Mão, Mão hình Tý là hình phạt do vô lễ mà dẫn đến.
Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần là hình phạt do đặc quuyền đặc lợi dẫn đến.
Sửu hình Mùi, Mùi hình Tuất, Tuất hình Sửu là hình phạt do cậy quyền cậy thế gây lên .
Tương hình chủ yếu được gây ra từ tam hợp, nó nghĩa là những người trong cùng hay khác các đoàn thể, đảng phái chính trị lừa đảo, hãm hại nhau.
8 - Tự hình của địa chi
Thìn tự hình Thìn, Dậu tự hình Dậu, Ngọ tự hình Ngọ, Hợi tự hình Hợi là do tự mình gây lên. Các sách cổ có viết: “Tự hình sợ nhất là năm và tháng lại có thêm sát thì nhất định bị tổn thương, hoặc không bị giam cầm thì cũng bị chết cháy, hay gặp nạn binh đao mất đầu “.
9 - Tứ hình của địa chi
Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi được gọi là tứ hình. Trong tứ trụ phải có ít nhất 3 chi khác nhau của tứ hình và đến năm có thái tuế là chi thứ 4 thiếu thì tứ hình này mới được coi là xấu, còn ngoài ra cho dù tứ trụ với tuế vận có đủ tứ hình cũng không có tác dụng gì cả.
10 - Tứ trự hình của địa chi
Tứ Tự Hình là phải có ít nhất 4 chi giống nhau của Tự Hình là Thìn, Dậu, Ngọ hay Hợi.
(Cách giải cứu cho tất cả các loại hình, tự hình và hại này là giống nhau.)
11 – Quy tắc hợp và hóa của các địa chi trong tứ trụ
Ta gọi các tổ hợp của các can chi trong tứ trụ chưa có tuế vận vẫn hóa được cục là hóa cục có từ khi mới sinh.
a - Các bán hợp hay lục hợp của các địa chi trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi 2 chi này phải ở gần nhau trong tứ trụ, trừ tam hợp và tam hội. Các bán hợp, lục hợp, tam hợp hay tam hội hóa thành cục chỉ khi trong tứ trụ hay ở tuế vận có thần dẫn.
Các thần dẫn cho các tổ hợp của các địa chi hóa cục chính là các can lộ trong tứ trụ hay ở tuế vận cũng như các hóa cục của thiên can có hành giống với hành của hóa cục mà các tổ hợp của các địa chi đó sẽ hóa thành (chú ý can tiểu vận chỉ dẫn hóa được cho tổ hợp của chi tiểu vận).
Ví dụ: Trong tứ trụ có Tý trụ năm và Sửu trụ tháng ở gần nhau, vì vậy chúng có thể hợp được với nhau và tổ hợp này được gọi là lục hợp, nhưng lục hợp này hóa được Thổ cục chỉ khi có thần dẫn là các can lộ xuất hiện trong tứ trụ hay ở tuế vận như Mậu, Kỷ hoặc các Thổ cục của các can (nếu gặp Tý hay Sửu ở tuế vận thì Thổ cục này được xem là mạnh hơn).
b - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau mà 2 chi bên ngoài giống nhau hợp với chi ở giữa thì được coi là tranh hợp nên không thể hóa cục được (trừ khi 1 liên kết của chúng bị phá).
c - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau trong đó 2 có chi liền nhau là giống nhau thì chỉ có chi ở gần chi thứ 3 mới có thể hợp với nó và hóa cục.
12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận
a - Tất cả các tổ hợp của các địa chi giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có thể hợp được với nhau và hóa cục nếu có thần dẫn.
b – Các chi trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế (được xem như hợp gần) nhưng chúng không thể hợp trực tiếp được với chi tiểu vận.
c – Chi tiểu vận chỉ hợp được với chi đại vận và thái tuế (cũng được xem là hợp gần) hay nó cùng với các chi giống nó ở trong tứ trụ hợp với các chi tuế vận thì can tiểu vận cũng có thể làm thần dẫn cho tổ hợp này hóa cục, nhưng chi tiểu vận không thể hợp trực tiếp được với các chi trong tứ trụ.
f – Địa chi tranh hợp thật :
1 - Nếu chỉ có 2 chi giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế hoặc hợp với cả chi đại vận và thái tuế (nếu chúng giống nhau) thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật nên chúng không thể hóa được cục.
2 – Nếu chi đại vận và thái tuế giống nhau có hành là chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một hay với nhiều chi giống nhau trong Tứ Trụ cũng như hợp với chi tiểu vận và các chi trong Tứ Trụ giống với chi tiểu vận thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên nó cũng không thể hóa được cục.
Giải thích :
Nếu trong tứ trụ có 2 Thìn hợp với Tý ở đại vận hay thái tuế thì 2 Thìn là Thổ khắc được Tý là Thủy nên 2 Thìn mang hành chủ khắc, còn chi Tý mang hành bị khắc. Hiểu đơn giản như 2 ông làm sao lấy chung một bà bao giờ đâu. Nhưng 2 Tý trong tứ trụ hợp với Thìn ở đại vận hay Thìn thái tuế vẫn có thể hóa Thủy được (nếu có thần dẫn), vì thực tế có nhiều bà vẫn lấy chung 1 ông.
Vì sao 2 chi chủ khắc này phải cùng ở tuế vận hay cùng ở trong Tứ Trụ ? Bởi vì chỉ có như vậy thì thế lực của chúng mới tương đương với nhau để cho cuộc chiến mới không phân thắng bại, chính vì vậy mà chúng mới không có thì giờ rảnh để hợp với cô gái kia hòng tạo ra được sản phẩm (hóa cục).
3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155).
4 - Nếu có từ 3 chi giống nhau trở lên (trừ câu 2) là chủ khắc hợp với 1 hay nhiều chi giống nhau thì không phải là tranh hợp thật nên vẫn có thể hóa cục (?) (xem ví dụ 165).
Giải thích :
Bởi vì khi 2 thằng đàn ông đánh nhau thì thằng thứ 3 được tự do có thể “hợp” với cô gái đó..., vì vậy cả 3 thằng này đều có cơ hội để “hợp” được với cô gái đó tạo ra… (điều này khác với thiên can, vì người trần mắt thịt khác với các vị thần ở trên trời chăng ?)
13 - Thiên Khắc Địa Xung
A - Thiên khắc địa xung
Có 3 loại thiên khắc địa xung (TKĐX):
1 – TKĐK và TKĐX có chi không phải là Thổ.
2 – TKĐX có chi là Thổ.
3 – TKĐK* và TKĐX* có chi là Thìn và Tý chỉ khi các chi của chúng ở gần nhau.
TKĐK là trong 1 trụ có cả can và chi đều là chủ khắc, còn TKĐX thì trong 1 trụ chỉ có can chủ khắc còn chi chỉ là chủ xung.
B – Các can và chi là chủ xung hay chủ khắc
1 - Các can chủ khắc, nó nghĩa là can đó phải khắc được can khác như :
Giáp....khắc...Mậu..............Ất......khắc....Kỷ
Bính...............Canh.............Đinh............Tân
Mậu................Nhâm.............Kỷ..............Quý
Canh ..............Giáp.............Tân..............Ất
Nhâm...............Bính.............Quý.............Đinh.
2 - Các chi chủ khắc, nó nghĩa là chi đó phải khắc được chi khác như:
Tý.....khắc....Ngọ
Dậu..............Mão
Hợi...............Tị
Thân..............Dần
Thìn..............Tý
3 - Các chi chủ xung, nó nghĩa là chi đó chỉ xung được chi khác như :
Ngọ....xung....Tý................Thìn....xung.....Tuất
Mão...............Dậu...............Tuất.............Thìn
Tị...................Hợi...............Sửu..............Mùi
Dần...............Thân..............Mùi..............Sửu
Tý...................Thìn.
Ta thấy số trường hợp TKĐX nhiều hơn TKĐK, do vậy ở đây chúng ta gọi chung hai loại này là TKĐX và ở đây quy ước nói trụ nào trước cũng được vì lực của TKÐX được tính cả 2 chiều.
Ví dụ :
1 - Trụ Giáp Tý TKĐK với trụ Mậu Ngọ bởi vì trụ Giáp Tý có Giáp khắc Mậu và Tý khắc Ngọ.
2 - Trụ Giáp Ngọ TKĐX với trụ Mậu Tý bởi vì trụ Giáp Ngọ chỉ có Giáp khắc Mậu còn Ngọ chỉ xung Tý.
3 - Trụ Giáp Thìn TKĐX với Mậu Tuất bởi vì trụ Giáp Thìn chỉ có Giáp khắc Mậu còn Thìn chỉ xung Tuất.
14 – Thời gian của các trụ trong tứ trụ mang vận hạn
Trụ năm mang vận hạn từ khi mới sinh đến tròn 15 tuổi.
Trụ tháng mang vận hạn từ 15 tuổi đến tròn 30 tuổi.
Trụ ngày mang vận hạn từ 30 tuổi đến tròn 45 tuổi.
Trụ giờ mang vận hạn từ 45 tuổi tới tròn 65 tuổi.
Từ 65 tuổi trở đi trụ năm mang vận hạn (hay là ở cả 4 trụ ?).
Nếu lưu niên và trụ đang mang vận hạn TKĐX với nhau thì điểm hạn của tất cả các lực xung hay khắc vào trụ này đều phải tăng gấp đôi, trừ can chủ khắc của nó ở lưu niên nhược ở tuế vận.
Xem các giả thiết từ số 166/ tới 168/ ở chương 14.
IV - Nhân nguyên
Địa chi tàng chứa từ 1 đến 3 can, các can tàng này được gọi là Nhân nguyên (các nguyên nhân của người). Các can tàng này chính là 10 thần, là các thần nắm sự việc,.... chúng đại diện cho các yếu tố chủ quan của người có tứ trụ. Do vậy chúng ta rất khó dự đoán được các yếu tố này khi nào sẽ phát sinh và biểu hiện ra bên ngoài. Thiên can đã lộ ra trong tứ trụ (can năm, can tháng và can giờ) cũng có các đặc tính như vậy nhưng vì nó đã lộ ra ngoài nên dễ nhận biết được để dự đoán.
1 – Các can tàng trong địa chi
Quý....................tàng trong Tý...........Kỷ, Tân và Quý.....tàng trong Sửu
Giáp, Bính và Mậu ..............Dần..........Ất....................................Mão
Mậu, Quý và Ất..................Thìn.........Bính, Canh và Mậu................Tị
Đinh và Kỷ.........................Ngọ..........Kỷ, Ất và Đinh.....................Mùi
Canh, Nhâm và Mậu...........Thân.........Tân...................................Dậu
Mậu, Đinh và Tân................Tuất.........Nhâm và Giáp........................Hợi
Chú ý : Can tàng có cùng hành với hành của địa chi mà nó tàng được gọi là can tàng bản khí hay chính khí (bởi vì nó có lực mạnh hơn các lực của các can tàng khác trong địa chi đó) còn các can tàng khác trong địa chi này (nếu có) được gọi là can tàng phụ.
Ví dụ 1 : Tị tàng chứa các can Bính, Mậu và Canh trong đó Bính là can tàng mang bản khí hay khí chính (tức là hành Hỏa là hành chính của Tị), vì vậy Bính có lực mạnh hơn lực của Mậu và Canh chỉ mang hành là tạp khí hay khí phụ là Thổ và Kim. Mậu và Canh được gọi là can tàng phụ.
Ví dụ 2 : Dậu chỉ có chứa 1 can tàng Tân là bản khí, không có tạp khí.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Hoa Cái là biểu tượng của cái lọng, thuộc hành Kim và không thấy sách vở đề cập dến những vị trí đắc hãm của phụ tinh này. Hoa Cái còn được gọi với tên rất đẹp là Đài Các Tinh. Chỉ hai chữ Đài Các cũng đã nói lên bản chất của những người Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái cư Thiên Di và có thể gọi chung là mẫu người Đài Các.
Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự chưng diện, sự sang trọng quý phái. Cho nên, về hình dáng, người có Hoa Cái thủ Mệnh, dù là đàn ông hay đàn bà đều có nét mặt thanh tú, vóc dáng thanh nhã, nói năng và cư xử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây là mẫu người rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn mặc. Họ không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho mái tóc, chọn lựa một cái cà vạt cho hợp với màu áo, một hiệu son phấn nào đó cho phù hợp với màu da.v.v..Sự chưng diện đối với họ là một nghệ thuật, cũng là một nhu cầu cần thiết như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa để khoe sắc cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ.
Bởi vậy trong lĩnh vực sinh hoạt, người có Hoa Cái thủ Mệnh nếu gặp thêm những sao Xương Khúc, Thái Âm, Đào Hồng Hỷ…là những người của ngành quảng cáo hay trình diễn thời trang, diễn viên kịch nghệ, điện ảnh, cải lương v.v…Nếu là những người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn thì nét vẽ nhẹ nhàng, dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang nặng khuynh hướng lãng mạn.
Dưới thời đại phong kiến của Trung Hoa, cái quan niệm vương quyền được biểu tượng bằng những hình ảnh như Long chầu, Hổ phục, phượng múa lọng che, và Hoa Cái là một trong 4 biểu tượng đó, gọi tắt là Tứ Linh (Long Trì, Phượng Các, Hoa Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy quyền, hiễn đạt hay công danh sự nghiệp.
Trường hợp nếu Hoa Cái không thủ Mệnh nhưng phía trước của Mệnh, Thân, Thiên Di, Quan Lộc có Hoa Cái, phía sau có Thiên Mã tọa thủ thì đây là cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là lọng đi trước, ngựa theo sau, là cảnh tiền hô hậu ủng mà chúng ta thường gọi là cảnh vinh quy bái tổ, chỉ sự hiễn đạt về công danh và sự nghiệp.
Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà tọa thủ ở cung Thiên Di, bản tính cũng giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một điểm đặc biệt là khi họ ra khỏi nhà là được người trên kẻ dưới thương mến. Có thể vì tính tình của họ vui vẻ, thân thiện, cởi mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc, lời lẽ, cử chỉ của họ nhẹ nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ có cảm tình với mọi người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa Cái cư Thiên Di rất thích hợp với những công việc như chào hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại, ngoại giao v.v…
Tuy nhiên những đặc tính của Hoa Cái có thể thay đổi tùy theo ảnh hưởng của một số sao khác. Chẳng hạn, người có Hoa Cái thủ Mệnh sẵn có khuynh hướng lãng mạn, nếu gặp thêm Đào Hoa, Mộc Dục, Riêu…thì sự lãng mạn sẽ đi qúa trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt tình cảm và tình dục. Vì Hoa Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài các…Cho nên những người có khuynh hướng sa đọa này cũng thuộc loại giai cấp thượng lưu, của những kẻ có tiền, có quyền lực.
Riêng với phái Nam có Hoa Cái thủ Mệnh cũng thích sửa soạn, chưng diện, nước bông, nước hoa…Hoa Cái ở đây cũng nói lên phần nào sự biến thái về tâm sinh lý của đương số. Mức độ nặng hay nhẹ thì còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
No1: Tuổi Tỵ
Với mong muốn tìm được ý chung nhân đích thực như trong những câu chuyện cổ tích lãng mạn, người tuổi Tỵ sẵn sàng hy sinh thể diện để níu giữ trái tim nửa kia. Vì quá si tình, đặt quá nhiều niềm tin vào đối phương, nên khi tình yêu bị rạn nứt, người tuổi Tỵ không thể tin vào sự thật phũ phàng.
![]() |
Họ tự nhủ với bản thân rằng mọi chuyện sẽ trở về như cũ. Tuy nhiên mọi nỗ lực níu giữ tình cảm đối phương đều vô nghĩa, khi chính họ cũng mơ hồ về tình cảm của mình. Nếu không suy nghĩ lạc quan hơn về chuyện tình yêu đã vụt qua, con giáp này khó có thể tập trung vào công việc, học tập trong quãng thời gian dài.
No2: Tuổi Sửu
Với người tuổi Sửu, việc bị người yêu bỏ là nỗi hổ thẹn không thể chấp nhận được. Đặc biệt, nếu là nữ, "sự cố" ấy trong tình yêu còn tồi tệ hơn gấp trăm nghìn lần. Kết quả là họ sẽ bất chấp tất cả để níu kéo tình yêu, cho dù lòng đã nguội lạnh. Sau này, khi hai người có quay lại với nhau, chuyện “chóng tàn” sẽ lại sớm xảy ra.
![]() |
Mặt khác, con giáp này cảm thấy mình bị tổn thương quá nghiêm trọng khi đã dành hết tình cảm chân thành cho người ấy, mà bị cự tuyệt. Thậm chí, họ còn thoáng qua ý nghĩ việc quay lại sẽ là cơ hội tốt để "đáp trả". Hãy cho đi những gì xuất phát từ trái tim, và bạn sẽ nhận được trái ngọt. Người tuổi Sửu nên làm như vậy để giảm bớt tính hiếu thắng của mình.
No3: Tuổi Mùi
Hôn nhân, tình yêu không phải là 100% kết quả của tình cảm. Người tuổi Mùi đôi khi còn vướng bận một số toan tính cho cuộc tình của mình. Do đó, việc bị "đá" chẳng khác nào cú đòn đốn gục bao công sức vun đắp hạnh phúc bấy lâu.
![]() |
Từ luồng suy nghĩ ấy, con giáp này sẽ không ngừng nghỉ để níu giữ tình yêu. Có thể trải qua thử thách chia xa đó, người tuổi Mùi sẽ hiểu ai mới là một nửa đích thực và họ không thể sống nếu thiếu người đó.
Mr.Bull (theo DXYZ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Hóa giải hướng xấu và một số phạm kị trong nội thất phong thủy
Cùng chúng tôi tham khảo những điều cấm kỵ trong phong thủy và thủ pháp hóa giải. Đây chưa hẳn là tất cả những gì mà khoa phong thủy đúc kết được. Nhưng chắc chắn nó cũng sẽ giúp bạn phần nào trong việc cân bằng cuộc sống của mình.
Bếp thuộc Hoả nên không thể dung hoà với Thủy. Vì vậy không được để bếp cạnh chậu rửa bát vì Thủy khắc Hoả làm giảm sinh khí của bếp. Nên thiết kế bếp ở xa bồn rửa và tủ lạnh cũng như các đồ dùng chứa nước
Tác giả: Hà Uyên
Đặc trưng của Dịch học Kinh Phòng là chiêm nghiệm, Kinh thị Dịch học mở đầu cho phái tượng số, là gốc của tượng số, gốc của thuật số. Bốn cống hiến lớn của Kinh Phòng là: Bát cung quái thuyết; Nạp Giáp thuyết; Quái khí thuyết; Âm dương ngũ hành thuyết. Do làm rõ được về tai dị nên được nhà Vua ban thưởng. Với đặc điểm học thuật chiêm nghiệm khí số cho xã hội thông qua tai dị trong thiên nhiên trên nền tảng “thiên nhân cảm ứng”.
Bát cung quái thuyết lấy cơ sở về thứ tự các quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn-Khôn-Tốn-Ly-Đoài của “Thuyết quái”. Trong đó 4 quẻ Càn-Chấn-Khảm-Cấn là 4 cung Dương, còn 4 quẻ Khôn-Tốn-Ly-Đoài là 4 cung Âm.
Căn cứ vào sự phân vạch của quẻ, 8 quẻ thuần là quẻ “thống suất” gọi là quẻ mẹ, các hào của quẻ “thống suất” đều cố định không biến, 7 quẻ bị “thống suất” đều gọi là “kiến quái”, gọi là quẻ con, vì những hào của chúng đều có biến đổi. Kinh Phòng căn cứ vào Dịch nói: “tinh khí vi vật, du hồn vi biến”. Quy luật biến đổi là hào Dương biến đổi thành hào Âm, hào Âm biến đổi thành hào Dương.
Quẻ Đời 1 lấy hào 6 là hào bất biến.
Gọi là quẻ Đời 2, là từ 8 quẻ mẹ mà Dịch gọi là “Bát thuần”, do hào đầu tiên biến đổi mà thành.
Quẻ đời 3 là do sự niến đổi của 2 hào đầu của quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 1 biến đổi hào 2 mà thành.
Quẻ Đời 4 là do sự biến đổi của hào 1-2-3 của quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 2 biến đổi hào 3 mà thành.
Quẻ Đời 5 là do sự biến đổi của hào 1-2-3-4 từ quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 3 biến đổi hào 4 mà thành.
Quẻ Đời 6 là do sự biến đổi của các hào 1-2-3-4-5 từ quẻ mẹ mà thành, hoặc là do từ quẻ Đời 4 biến đổi hào 5 mà thành.
Quẻ Đời 7 được gọi là quẻ Du hồn, căn cứ từ quẻ Đời 6 mà biến đổi hào 4
Quẻ Đời 8 được gọi là quẻ Quy hồn, căn cứ từ quẻ Đời 7, biến đổi cả 3 hào hạ quái quẻ Du hồn mà thành.
Kinh Phòng căn cứ vào cấu tạo ngôi vị của quẻ 6 hào, lấy hào Sơ (hào 1) làm Khởi đầu (chung), lấy hào Trên (hào 6) làm Kết thúc (thủy), với nền tảng Càn Khôn làm đầu cuối của Âm Dương, nên hào 6 của quẻ “Bát thuần” không biến đổi.
Chữ “đời” ở đây là gọi là Thế là do hào biến đổi làm chủ của quẻ biến, gọi là hào “cư Thế”. Quẻ Đời 1-2 gọi là Địa dịch, quẻ Đời 3-4 gọi là Nhân dịch, quẻ Đời 5-6 gọi là Thiên dịch. Quẻ Du hồn và Quy hồn gọi là Quỷ dịch. Quẻ Đời 1 ở đây lấy hào bất biến làm chủ, tức là hào 6 của quẻ “bát thuần”.
Về phương diện ngôi vị hào, hào đầu gọi là Nguyên sĩ, hào 2 gọi là Đại phu, hào 3 gọi là Tam công, hào 4 gọi là Chư hầu, hào 5 gọi là Thiên tử, hào 6 gọi là Tông miếu, gọi như vậy với mục đích để phân rõ đẳng cấp tôn ti.
Gọi là Thế - Ứng, tức là chỉ sự tương ứng của 3 hào dưới với 3 hào trên trong mỗi cung, tức là hào đầu tương ứng với hào 4, hào 2 tương ứng với hào 5, hào 3 tương ứng với hào trên. Trong đó, hào làm chủ là hào “cư thế”, thì khi chiêm nghiệm, hào Ứng phải theo hào làm chủ, đó là hào Thế, hào Ứng (để phán đoán) là hào có quan hệ mật thiết với đối tượng chiêm nghiệm, ví như giữa vợ chồng, giữa anh em, vì giữa họ có tình cảm tương ứng với nhau. Định cát hung thì lấy hào cư Thế làm chủ.
THUYẾT NẠP GIÁP
Càn Khôn là gốc của Âm Dương, là đầu cuối của Âm Dương 64 quẻ cho nên lần lượt nạp Giáp Ất Nhâm Quý. Khi nạp Thiên can vào quẻ thì căn cứ theo số thứ tự Tiên thiên bát quái của quẻ phối với thứ tự của 10 Thiên can như sau: Càn 1 đứng đầu nạp Giáp mộc đứng đầu của Thiên can, Càn thuộc dương nạp Giáp cũng thuộc dương. Tiếp đến Đoài 2 phối với cặp Thiên can Bính-Đinh thuộc Hỏa, Đoài thuộc Âm nên phối với Đinh cũng thuộc Âm. Tiếp đến Ly 3 phối với cặp Thiên can Mậu-Kỷ thuộc Thổ, quẻ Ly thuộc Âm nên phối với can Kỷ thuộc âm. Tiếp đến Chấn 4 phối với cặp Thiên can Canh-Tân thuộc Kim, quẻ Chấn thuộc Dương nên phối với can Canh thuộc Dương. Càn Khôn đối ứng, trời đất định vị, Giáp dương nạp Càn dương, nên Ất âm nạp vào Khôn âm. Cấn Đoài đối ứng, núi đầm thông khí, Đoài âm nạp can Đinh âm, nên Cấn dương nạp can Bính dương. Khảm Ly đối ứng, Thủy Hỏa tương tề, Ly âm nạp Kỷ âm nên Khảm dương nạp Mậu dương. Chấn Tốn đối ứng, sấm gió cùng nhau, Chấn dương nạp can Canh dương, nên Tốn âm nạp can Tân âm. Còn lại cặp Nhâm Quý thuộc Thủy, nạp vào 2 quái phụ mẫu Càn Khôn, Nhâm dương nạp theo Càn dương, Quý âm nạp theo Khôn âm. Kinh Phòng căn cứ theo thứ tự Ngũ hành Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy phối ứng với số Tiên thiên Ngũ hành 3-2-5-4-1, cặp số 3-2 thuộc Xuân-Hạ mà Dương trước Âm sau, cặp 4-1 thuộc Thu-Đông mà Dương sau Âm trước.
THUYẾT NẠP ĐỊA CHI
“Định cát hung chỉ lấy tượng của một hào”.
Kinh Phòng lần lượt cho 6 hào của 64 quẻ đối ứng với 12 địa chi, với quy luật phân theo Chi âm và Chi dương tương ứng với số chẵn lẻ rồi cho đối ứng với 384 hào. Chi dương đi thuận chiều vì dương chủ tiến, Chi âm đi ngược chiều vì Âm chủ lùi, vì 8 quẻ thì có 4 quẻ thuộc dương, 4 quẻ thuộc âm, mà 12 Chi lại có những 6 chi dương và 6 chi âm. Âm theo Ngọ, Dương theo Tý, Tý-Ngọ phân đường đi, Tý đi phía trái, Ngọ đi phía phải. Tháng 11 tháng 5 là tháng Tý Ngọ lần lượt phối hợp với hào Sơ và hào 4 quẻ Càn. Tháng 12 và tháng 6 là tháng Sửu Mùi lần lượt phối hợp với hào Sơ và hào 4 của quẻ Khôn, vì căn cứ theo “thuyết quái” nói Càn Khôn là quẻ Cha Mẹ. Thể của quẻ Dịch phải đủ 6 vạch mới thành, 6 vạch lại phân chia ngôi âm ngôi dương mới thành quẻ, mới phản ánh cụ thể mối quan hệ sinh khắc giữa Bố Mẹ và Con của 8 cung quái với vị trí 6 hào. Như quẻ Càn thuộc Kim là quẻ Bố Mẹ, hào Sơ thuộc Thủy, Kim sinh Thủy, mẹ sinh con, cho nên là cát, hào 4 thuộc Hỏa, Hỏa khắc Kim, con khắc mẹ là hung. Như vậy có nghĩa là tương sinh là thuận, tương khắc là hung, mẹ sinh con là đại cát, con khắc mẹ là đại hung. Kinh Phòng nói: Quỷ bát quái là hào “học”, tài là hào “chế”, trời đất là hào “nghĩa”, phúc đức là hào “bảo”, đồng khí là hào “chuyển”.
THUYẾT QUÁI KHÍ
Kinh Phòng lấy 64 quẻ 384 hào ứng với 1 năm, nói “ hào đầu trên, hào hai giữa, hào ba dưới, số của tháng 3 thành ra tháng 1. Hào đầu 3 ngày, hào hai 3 ngày, hào ba 3 ngày, tất cả là 9 ngày, còn dư ra một ngày gọi là ngày nhuận. Mười ngày của hào đầu là Thượng tuần, mười ngày của hào hai là Trung tuần, mười ngày của hào ba là Hạ tuần, 3 tuần là 30 tích tuần”.
“Thành tháng, tích tháng thành năm, 8 lần 8 là 64 quẻ, chia ra 64 quẻ phối với 384 hào thành 32 x 360 = 11520 thẻ. Khí dịch 24 tiết khí phối hợp với Ngũ hành, thì mọi việc từ đạo Trời, đến vận mệnh con người, đến Trăng, Sao, ta đều có thể thấy được mọi chuyện cát hung rõ ràng”.
Âm sinh dương tiêu, dương sing âm diệt, hai khí giao nhau, thì vạn vật mới sinh ra. Dương nhập vào âm, âm nhập vào dương, hai khí giao hỗ không ngừng, cho nên gọi thế là “sinh”. Dương trong âm, âm trong dương, hai khí âm dương hòa vào nhau mà thành “tượng”. Kinh Phòng căn cứ vào âm dương khí hóa, âm dương thăng giáng và âm dương tiêu trưởng chuyển hóa đưa ra nguyên lý quẻ ẩn - hiện, trong đó quẻ “hiện” là quẻ hướng ngoại, lộ mặt, còn quẻ “ẩn” thì hướng nội, tiềm ẩn. Nói chung, tượng quẻ dương phần nhiều là quẻ “hiện”, tượng quẻ âm phần nhiều là quẻ “ẩn”. Ví như quẻ Càn có tượng thuộc dương, phối Thiên thuộc Kim, nó với quẻ Khôn là một cặp đối ứng “ẩn - hiện”. Quẻ Khôn có tượng thuộc âm, phối hợp với Địa thuộc Thổ, khi phối với quẻ Càn là một cặp đối ứng “ẩn - hiện”. Nguyên lý “ẩn - hiện” trong tượng hào của quẻ vốn “ngụ hàm” với nhau, như hào Sáu đầu của quẻ Khôn nói “ lý sương kiên băng chí” thích là “ rồng đánh nhau ở cánh đồng, máu chúng chảy ra đen vàng”. Rồng tính dương là đặc tính của Càn dương, nói nên mối quan hệ “ẩn - hiện” của hai quẻ Càn – Khôn, cấu thành cặp quẻ đối ứng với nhau. Không những hai quẻ Càn Khôn đối ứng với nhau, mà giữa 64 quẻ cũng cấu thành từng cặp “ẩn - hiện” với nhau. Khi chiêm nghiệm theo “ẩn - hiện”, ta có thể từ hai mặt chính - phản, tăng lượng thông tin về chiêm nghiệm được nhiều hơn, đó là mối quan hệ giữa hai mặt chính - phản của âm – dương. Theo Kinh Phòng, sự biến hóa âm dương là nguyên nhân khiến cho các thiên thể trong vũ trụ vận động, âm dương thăng giáng là quy luật vận động của Vũ trụ, sự chuyển hóa âm dương tiêu trưởng phản ánh mối liên hệ nội bộ âm dương.
Kinh Phòng nhấn mạnh rất nhiều vào sự chiêm nghiệm, ông cho rằng mục đích của sự nghiên cứu Dịch quái là ở chỗ “định cát hung, rõ được mất”, do đó ông sáng tạo ra quẻ 8 cung, phát huy mối quan hệ ngang dọc, là cốt để “định dự cát hung”. Ông nói “ Nghĩa về cát hung, bắt đầu ở Ngũ hành, kết thúc ở Bát quái. Nghĩa lý về âm dương là sự phân định về Năm, Tháng. Một khi Năm, Tháng đã phân định thì sẽ đoán định được cát hung”. Phần lớn vật chất dương là “hư”, vật chất âm là “thực”, “hư” là bề ngoài của dương, “thực” là bên trong của âm, “hư” là bề gnoài của “thực”, “thực” là phần bên trong của “hư”.
Thuyết Quái khí là sự đối ứng giữa 64 quẻ và 34 tiết khí, bao gồm Tứ thời và 24 khí, thuyết này bắt nguồn thuyết quái khí của Mạnh Hỷ, bao gồm ba nội dung sau:
- Thuyết quái khí Tứ chính quái: lấy bốn quẻ Khảm - Chấn – Ly – Đoài làm tượng ứng với 24 tiết khí, mỗi quẻ có 6 hào ứng với 6 tiết khí. Trong đó, quẻ Khảm ứng với 6 tiết khí từ tiết Đồng chí đến tiết Kinh trập. Quẻ Chấn ứng với 6 tiết khí từ tiết Xuân phân đến tiết Mang chủng. Quẻ Ly ứng với 6 tiết khí từ tiết Hạ chí đến tiết Bạch lộ. Quẻ Đoài ứng với 6 tiết khí từ tiết Thu phân đến tiết Đại tuyết. Trong bốn quẻ này, 6 hào của mỗi quẻ, từ hào Đầu đến hào Trên, lại phân ra làm chủ 6 tiết, như hào Đầu quẻ Khảm, làm chủ việc của tiết Đông chí, hào 2 tiêt Tiểu hàn, hào 3 tiết Đại hàn, hào 4 tiết Lập xuân, hào 5 tiết Vũ thủy, hào Trên tiết Kinh trập.
- Thuyết Thập nhị bích quái (nguyệt quái): là thuyết 12 quẻ ứng với 12 tháng. Mỗi một quẻ ứng với 2 tiết khí, 12 quẻ ứng với 24 tiết khí.
Nếu bạn đã biết những điều nên làm khi đặt bếp thì bạn càng nên nắm rõ những cấm kỵ của nó, bởi vì nếu đặt bếp ở vị trí cấm kỵ, sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tài lộc của bạn.
Vị trí đặt bếp trong phong thủy ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tài lộc của gia chủ.
– Bếp không nên đối diện thẳng cửa ra vào hoặc ngoài đường.
– Bếp không nên nằm ngày phía dưới xa nhà, nếu không cả nhà sẽ bất an ( hay bị sốt nóng ở đầu).
– Bếp không đối diện với tủ lạnh, bởi vì sinh nóng lạnh không đều, dễ bị sảy thai hoặc đẻ non.
– Bếp không đối diện với cửa phòng vệ sinh, bởi sẽ gây bệnh tật, thuốc thang liên miên.
– Mặt sau của bếp không đối diện với góc tường của một nhà khác, bởi sẽ gây chảy máu cam liên tục, dễ mắc bệnh tim.
– Hai bên bếp không đối diện với cửa, phía dưới bếp không có chất bẩn.
– Bếp không để trên ban công.
– Không đặt bệ bếp gần bồn nước. Bếp không thể tiếp xúc trực tiếp với nước. Bếp dùng để nhóm lửa, nấu ăn, còn bồn nước dùng để chứa nước và rửa. Hai thứ này không thích hợp ở cạnh nhau, ở giữa nên có bệ bếp để phân tách, như thế nước và lửa mới không xung khắc nhau.
– Bệ bếp không thể đặt trên bể phân hóa học, trên rãnh nước, hoặc trên đường ống nước ở phòng vệ sinh.
– Bệ bếp cũng không được dựa vào phòng vệ sinh, vì người nấu sẽ phải quay mặt vào phòng vệ sinh.
– Bệ bếp không được đối diện với bồn cầu trong nhà vệ sinh.
– Bệ bếp không được đối diện với cửa các phòng, đặc biệt là phòng người già.
– Bệ bếp không được đối diện với vị trí của thần ( mà bạn thờ trong nhà).
– Bệ bếp nên đặt ở chỗ kín gió và nhiều khí.
– Không để bệ bếp ở vị trí trung tâm bếp.
– Nếu bếp đã hỏng hoặc không sử dụng được nữa, nên vứt đi, như thế gia đình sẽ bình an, thuận hòa.
– Sau bệ bếp không được để trống, vì chỗ trống sẽ có nhiều gió, làm ngọn lửa bếp chập chờn, không ổn đỉnh. Từ đó, ảnh hưởng đến tài vận. Đặc biệt kiêng kị sau bếp có cửa sổ.
– Ngoài ra, nếu cửa sổ trong phòng bếp hướng về phía Tây thì khi mặt trời lặn, sẽ có hiện tượng ánh mặt trời ngả về phía Tây. Nếu ánh nắng này đi vào phòng bếp qua cửa sổ và chiếu thẳng vào bếp thì phải lập tức đóng cửa sổ lại, đợi đến khi mặt trời tắt hẳn mới mở ra.
tính cách cởi mở, tâm tình vui vẻ, thấu hiểu và biết sẻ chia, cho thấy người nằm mơ khát khao một gia đình hạnh phúc, vợ chồng thuận hòa.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Dân số thế giới ngày nay hiện lên đến hơn ba tỷ rưỡi. Nếu lấy số Tử-Vi, lẽ ra mỗi người phải có một lá số, vị chi có hơn ba tỷ rưỡi lá số. Nhưng thực tế không phải như vậy. Vì cách lấy số Tử-Vi theo phương pháp của Trần Đoàn có phần đặc thù, cho nên không phải ai ai cũng có lá số riêng. Trái lại, có rất nhiều người có chung nhau một lá số.
1. Tổng số tối đa lá số Tử-Vi
Chương này có dành một phụ lục để dẫn giải bài toán tính tổng số tối đa lá số Tử-Vi. Độc giả có thể tham chiếu phụ lục để thử nghiệm cách tính.
Theo cách lá số Tử-Vi của Trần Đoàn thì tối đa chỉ có 512.640 lá số mà thôi. 512.640 lá số này được dùng chung cho hơn ba tỷ rưỡi người trên thế giới. Con số này đủ để nói lên phạm vi hạn hẹp của việc áp dụng khoa Tử-Vi.
2. Phạm vi áp dụng khoa Tử-Vi
Đứng về mặt lý luận toán học mà xét thì khoa Tử-Vi không áp dụng riêng cho từng người một. Trái lại, khoa này chỉ dùng cho nhiều lắm là 512.640 trường hợp, thay vì ba tỷ rưỡi trường hợp. Như vậy, tầm thực dụng bị thu hẹp hết sức nhiều.
Điều này cho thấy Tử-Vi không phải là một toàn khoa, tức là một khoa dùng cho tất cả nhân loại, mà chỉ là một chuyên khoa đặc thù. Khoa Tử-Vi tự nó không giải quyết nổi hết ẩn số của ba tỷ rưỡi nhân mạng. Nó phải được bổ túc bởi nhiều bộ môn khác. Con số 512.640 chỉ nên xem như con số vận mạng khung, hay nói một cách khác đây chỉ là 512.640 loại vận mạng. Khoa Tử-Vi vô tình chỉ xếp loại được vận mạng con người vào bấy nhiêu trường hợp mà thôi.
Để có ý niệm cụ thể về sự tương đối này, ta thử xét tỷ lệ các người đồng số ở Việt Nam, ở Trung Hoa và trên thế giới.
a)Trường hợp Việt Nam
Dân số hai miền Việt Nam hiện nay lên đến 37.500.000 người. Giả thiết rằng sinh xuất và tử xuất hàng năm không thay đổi, chúng ta có con số sau đây:
37.500.000
_______________=73.15#73
512.640
Điều này có nghĩa là cứ 73 người Việt Nam là có một lá số giống nhau.
b) Trường hợp Trung Hoa
Dân số Trung Hoa, nơi phát xuất khoa Tử-Vi hiện nay vào khoảng 750.000.000 dân. Cũng giả thiết rằng dân số đó cố định và sinh xuất, tử suất giữ nguyên, chúng ta có con số:
37.000.000
______________=1.463,#1.463
512.640
Điều này có nghĩa là có trùng số đối với 1.463 người Trung Hoa.
c)Trường hợp thế giới
Với dân số hiện vào khoảng 3.500.000.000, được gỉa thiết như cố định, thì số người trùng số trên thế giới là 6.827.
Luận theo toán học, bắt buộc phải nói như vậy. Trên bình diện toán học, các con số 73,1.463 và 6.827 cho thấy tính cách tương đối rất cao của khoa Tử-Vi. Sự trùng số còn chứng tỏ khoa Tử-Vi không cá biệt hóa được mỗi cá nhân, không phân biệt nổi từng vận mệnh. Đứng trên mặt lý luận toán học, khoa Tử-Vi đã đồng hoá 73 vận mệnh của 73 người Việt Nam làm một, đồng hóa 1.463 vận mệnh của 1.463 người Trung Hoa làm một và đồng hóa 6.827 vận mệnh cá nhân nói chung làm một.
Trên thực tế, việc 73 người Việt Nam trùng một lá số không có nghĩa là 73 người đó trùng vận mệnh. Kiếp số của mỗi người đều khác nhau. Thành thử, lối lý luận bằng toán học thỏa mãn được thực tế. Phải bổ túc lý luận này bằng một hệ thống lý luận khác lúc giải đoán.
Tử-Vi học là một khoa nhân văn, nghiên cứu con người và đời người. Phương trình con người (équation humaine) quá ư phức tạp vì phản ứng mỗi người một khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, văn hóa, huyết thống và nhất là phúc đức khác nhau. Chính vì những khác biệt sâu xa đó nên kiếp sống con người không thể đồng hóa nhau được. Vì thế, có lẽ chúng ta chỉ nên xem con số 512.640 như con số phương trình khung này, con người hoạt động riêng, tuỳ theo cá tính, hoàn cảnh, văn hóa, huyết thống và phúc đức tích lũy. Có thể có nhiều người cùng có chung một loại vận mệnh, nhưng vẫn có vận mệnh riêng cho mỗi người. Cái chung không xáo bỏ cái riêng, cái riêng không hoàn toàn đồng hóa với cái chung. Phải chăng đây là tính lý của ngạn ngữ “hòa nhi bất đồng” của cổ nhân ?
Dù sao, với 512.640 phương trình khung đó khoa Tử-Vi không thể là một toàn khoa (science complète) để giải đáp hết các ẩn số của mọi người. Nó phải được bổ túc bởi nhiều khoa bói toán khác, như tướng học, dịch học, chỉ tay v.v…
Đây là điển cố thứ Mười lăm trong quẻ Quan Âm, mang tên Tô Tần Đắc Chí (còn gọi là Tô Tần Thỏa Chí). Quẻ Quan Âm Tô Tần Đắc Chí có bắt nguồn như sau:
Sau khi Tô Tần theo Quỷ Cốc Tử học hành thành tựu, rất muốn gặp thiên tử nhà Chu, nhưng không có đường tiến cử. Trong lúc nóng giận, ông đã bán hết gia sản, đến các nước chư hầu tìm đường tiến thân. Nhưng Tô Tần đi khắp đông tây ròng rã mấy năm, cũng không được trọng dụng. Tiền bạc đã hết, quần áo rách nát, đành phải trở về nhà.Vợ của Tô Tần ngồi trước khung cửi, không thèm nhìn đến Tô Tần. Tô Tần xin chị dâu làm cơm cho mình, chị dâu cũng làm như không nghe, quay người bỏ đi.
Tô Tần phải chịu sự đả kích nặng nề, càng quyết tâm dùi mài sách vở, ngày ngày nghiền ngẫm sách “Âm phù” cho đến đêm khuya. Có khi đọc sách đến nửa đêm, vừa mệt vừa buồn ngủ, bèn lấy dùi tự đâm vào đùi, để thấy đau mà tỉnh táo trở lại. Khổ công như thế trong suốt hơn một năm trời, kiến thức của Tô Tần đã càng thêm sâu sắc.
Tô Tần lại tiếp tục lên đường, đầu tiên ông đến nước Tần, nhưng vẫn không được trọng dụng. Vừa đúng lúc Yên Chiêu Vương chiêu mộ hiền tài trong thiên hạ, nên Tô Tần đến nước Yên, nhanh chóng được Yên Chiêu Vương tín nhiệm. Tô Tần cho rằng, nước Yên muốn báo mối thù với nước Tề lớn mạnh, thì trước tiên phải thể hiện sự khuất phục đối với nước Tề, để che đậy ý muốn báo thù, nhằm có đủ thời gian cần thiết chấn hưng nước Yên. Sau đó, phải khích lệ nước Tề không ngừng tiến công các nước khác, nhằm đề phòng Tề tấn công Yên, đồng thời làm tiêu hao lực lượng của nước Tề. Vì thế, Tô Tần khuyên nước Tề đánh nước Tống, hợp tung để đánh Tần.
Năm 285 trước Công nguyên, Tô Tần đến nước Tề, công kích mối quan hệ giữa hai nước Tề và Triệu, được Tề Man Vương tín nhiệm, phong làm tướng nước Tề. Nhưng ông vẫn ngầm bàn mưu kế với nước Yên. Tề Man Vương không biết chân tướng sự việc, vẫn lệnh cho Tồ Tần chỉ huy binh sĩ chống lại quân đội nước Yên. Khi quân đội hai nước Tề, Yên giao chiến, Tô Tần cố ý làm cho quân nước Tề thất bại, tốn thất đến năm vạn người. Do đó, quần thần nước Tề bất hòa, dân chúng hoang mang, tạo điều kiện cho liên quân năm nước của Nhạc Nghị công phá nước Tề.
Sau đó, Tô Tần lại thuyết phục được nước Triệu liến kết với các nước Hàn, Ngụy, Tề, sở, Yên tấn công nước Tần. Vua nước Triệu rất vui mừng, ban thưởng cho Tô Tần rất nhiều báu vật. Được sự giúp đỡ của nước Triệu, Tô Tần lại đến nước Hàn, thuyết phục Hàn Tuyên Vương; đến nước Ngụy, thuyết phục Ngụy Tương Vương; đến nước Tề, thuyết phục Tề Tuyên Vương; rồi lại đến nước sở, thuyết phục sở Uy Vương. Các nước chư hầu đều tán đồng mưu sách của Tô Tần, vì thế sáu nước thực hiện hiệp ước hợp tung. Tô Tần làm Tung ước trưởng, được phong tướng sáu nước. Sau khi về đến nước Triệu, Triệu Vương phong cho Tô Tần làm Vũ An Quân. Nước Tần nhận được tin này, vô cùng lo sợ. Trong suốt mười lăm năm sau đó, quân đội nước Tần không dám đưa quân tấn công đến cửa Hàm Cốc.
Khi Tô Tần đã thanh danh hiển hách, vàng bạc muôn nghìn, tùy tùng ngựa xe đông đảo, các nước chư hầu ở phía đông Hoa Sơn đều theo nhau khuất phục. Tô Tần vổn chẳng qua chỉ là một kẻ sĩ cơ hàn xuất thân từ nơi nghèo khổ, nhưng cuối cùng đã được lên xe xuống ngựa, tung hoành thiên hạ, vào triều du thuyết vua chư hầu, uy thể lấn lướt các quan đại thần tả hữu, thiên hạ không ai có thể sánh được với ông.
Sở dĩ Tô Tần có được thành quả như vậy, là do ông đã không nản lòng trước thất bại, kiên định ý chí không chịu khuất phục, cuối cùng đã đạt được đến đỉnh cao danh vọng.
Tham lang chỉ ưa đồng cung với Hỏa tinh hoặc Linh tinh, chủ về phát tài bất ngờ. Trong lá số tử vi Tham lang không ưa đồng cung với Đà la, chủ về:
- Vì sắc tình mà phá tài.
- Đời sống tình dục quá độ.
- Tính mạng gặp nguy khó.
Đặc biệt kỵ tại chỗ Dần có Tham lang và Đà la đồng cung, chủ về vì sắc tình mà gặp họa.
Tham lang tại chỗ Tý tọa Mệnh:
- Cả đời bôn ba vì tiền bạc.
- Nếu đồng cung vối Hỏa tinh, Linh tinh gọi là cách cục Hỏa Tham (nhưng cách cục Hỏa Tham chính thống chỉ Tham lang tại Thìn, Tuất đồng cung vối Hỏa, Linh, chủ cát lợi, có thể kinh doanh bất động sản).
- Không nên kinh doanh ngành chăn nuôi, nuôi trồng.
- Người sinh năm Mậu, Tham lang hóa lộc, là người thông minh, nhân duyên tốt, đặc biệt có sức hút với ngưòi khác giới. Giỏi việc giao tiếp, xã giao nhưng sẽ vì rượu mà lỡ chuyện. Nên kiêng rượu hoặc không lái xe, gây sự sau khi uống rượu.
- Người sinh năm Nhâm có Dương nhẫn đồng cung là cách cục Phiếm thủy đào hoa, vì sắc mà tranh chấp, gây họa. Mệnh nữ đề phòng gặp kẻ cường bạo hoặc lưu lạc phong trần, dễ bị thận hư do đời sống tình dục quá độ. Nếu có Thiên hình đồng cung đề phòng gặp họa hình ngục.
Dương nhẫn tại Tý, xung chiếu Tử vi ở cung đối diện chủ về người này muôn sự không toại ý.
Người sinh năm Nhâm có Vũ khúc ở cung Phúc đức hóa kỵ chủ về cả đời tâm tình u uất không vui hoặc thường phiền não vì tiền bạc. Duy chỉ có người sinh năm . Nhâm có Thiên lương hóa lộc, tại chỗ Mão đồng cung vối Thái dương tọa cung Quan lộc chủ về sự nghiệp phát nhanh.
Đại, tiểu hạn gặp Tham lang, Văn xương chủ về:
- Ngồi máy bay gặp sự cố dẫn đến tử vong.
- Từ cây cao ngã xuống mà qua đời.
- Khó có được kết cục bình yên.
![]() |
Tiền sảnh công ty bao giờ cũng được xem là nơi quan trọng nhất của doanh nghiệp về mặt ngoại giao, với vai trò là trung tâm, là cánh cửa đầu tiên để tiếp xúc khách hàng, khách quý đến với thế giới riêng của công ty của bạn.
Tiền sảnh không chỉ là nơi đón tiếp mà còn là khoảng ngăn cản hữu hiệu các xung sát từ bên ngoài tác động vào, cũng như làm một điểm nhấn riêng biệt của mỗi ngôi nhà.
Phong cách, tính chất hoạt động, thậm chí uy tín của cả một điểm kinh doanh phụ thuộc nhiều ở khu vực lễ tân, sảnh đón tiếp. Các nguyên tắc của phong thủy hiện đại xác lập ấn tượng cần có của một lối vào, sảnh đón phải làm sao cho khách hàng đặt niềm tin vào doanh nghiệp đó, đồng thời giảm thiểu tác động xấu từ môi trường bên ngoài.
Phong thủy quy định tiền sảnh công ty phải tương ứng với quy mô của nhà, tương tự với cửa là chỗ nạp khí. Nhà lớn mà lối vào nhỏ hoặc không có tiền sảnh thì dễ bị tán khí. Nhà nhỏ mà tiền sảnh rộng quá thì lãng phí diện tích. Khi nhà cao, bề thế, tiền sảnh có thể dùng thêm mái phụ, hạ thấp xuống để giới hạn phạm vi vùng đệm, tạo sự gần gũi hơn (khác với tiền sảnh nơi công cộng thường cao rộng để đón nhiều người).
Nếu khu tiền sảnh tăm tối, bố trí bừa bộn sẽ chỉ ra cho thấy sự thiếu quan tâm đến hình ảnh của doanh nghiệp, làm giảm hưng phấn làm việc của nhân viên, gây suy thoái nguồn khí mở đầu cho mỗi cơ sở kinh doanh.
Có thể đi theo thứ tự hệ thống cửa – quầy lễ tân – nơi ngồi đợi và giao tiếp để kiểm tra và bố trí phong thủy hợp lý cho một không gian sảnh đón. Nếu là nhà phố thì trước khi vào đến bộ cửa chính cần có khoảng lùi vừa đủ để giảm xung sát từ ngoài vào. Tỷ lệ của bộ cửa chính cần có sự tương xứng với mặt tiền nhà và không gian sảnh bên trong, phù hợp với số lượng người giao dịch, chiều cao và rộng của mặt tiền văn phòng và chất liệu cửa thể hiện nội dung kinh doanh bên trong.
Nếu dùng cửa hai cánh hoặc nhiều hơn, thì phải mở được hết các cánh để đảm bảo sự thông suốt và chào đón, tránh tình trạng “mắt nhắm mắt mở” sẽ ngăn cản dòng khí lưu chuyển, tạo cảm giác lệch lạc khi ra vào sử dụng. Chú ý cửa chính dẫn đến tiền sảnh công tý chứ không phải dẫn vào ngay phòng làm việc hay… đi luôn ra phía sau, cho nên nếu văn phòng có cửa đi và cửa sổ ở phía đối diện cửa chính thì cần bố trí bình phong, cây xanh, bàn ghế thư giãn… sao cho ngăn luồng di chuyển, luồng khí xông thẳng trôi qua, giúp nội thất được tàng phong tụ khí tốt hơn.
Khoảng cách từ quầy tiếp tân đến cửa cũng là vấn đề nên quan tâm sao cho khách vào không phải băng qua không gian quá rộng hoặc sâu, nhưng cũng không phải vừa vào thì “sà ngay” đến quầy tiếp tân. Các chuyên gia phong thủy khuyên nên có khoảng cách trong vòng từ 5 đến 9 bước chân của khách (từ 3m đến 5,5m) là hợp với nhịp sinh học và các quái số tốt của phong thủy. Tốt nhất là quầy lễ tân cần có khoảng tường (hậu chẩm) làm chỗ dựa phía sau, kết hợp trên đó treo logo, tên hoặc slogan của công ty, còn phía trước có khoảng trống nội minh đường quang đãng.
Lối đi ra phía sau nên nằm về một bên và đủ rộng để không phải vòng qua quầy mới đi ra vào được. Nếu có nhiều lối đi tỏa từ quầy lễ tân ra thì phải phân loại đâu là lối nhân viên, đâu là lối của khách để tránh tình trạng rối loạn, va chạm trong giao thông nội bộ.
Về hình sáng và màu sắc, tiền sảnh có thể bố trí theo nguyên tắc Ngũ hành tương sinh để thêm sinh khí, theo quan niệm phong thủy.
Ví dụ nhà có dáng vuông vức (thuộc hành Thổ) thì mái vào tiền sảnh nên dùng mái làm hình nhọn (hành Hỏa) để Hỏa sinh Thổ.
Hoặc nhà sơn màu xanh dương (thuộc hành Thủy) thì tiền sảnh – mái đón có thể sơn màu trắng (hành Kim) để Kim sinh Thủy.
Gặp trường hợp lối vào nhà bị góc nhọn, vát xéo (hành Hỏa) thì có thể đặt non bộ, gương soi (Thủy) để khắc bớt Hỏa.
Khi tiền sảnh thuộc dạng dài (hành Mộc), có thể dùng các mảng gạch trang trí thô, điểm nhấn vuông (hành Thổ) để tạo hành tương khắc, giảm bớt cảm giác hun hút.
Nếu muốn chiêu tài, bạn nên đeo nhẫn ở ngón áp út. Đây là vị trí giúp tụ tài tốt nhất và mang lại nhiều may mắn về tiền bạc.
![]() |
Đeo nhẫn chuẩn phong thủy hút tài lộc và vận đào hoa |
Những câu nói hài hước của bố và bé. Bọn nhóc đôi khi có những câu “bất hủ” khiến người lớn phải bật cười. Nhưng hóa ra, các bậc phụ huynh, đặc biệt là bố, nhiều lúc cũng “hài” không kém. Dưới đây là lượm lặt những tình huống hài hước khi nhà có trẻ con.
– “Sáng nay ông nhóc 14 tuổi cười mình vì mình phải đi làm trong khi nó được nghỉ học do trời dưới 7 độ, thế là mình đổi pass wifi”.
—-
– “Đang giúp con trai tìm miếng socola của nó mình đã ăn mất tối qua”.
—-
– Bố: Chúc các con ngủ ngon
Các con: Chúc bố ngủ ngon
Bố (nói với theo): Chúc ngủ ngon nhé Quái vật chuyên ăn thịt trẻ con hư!
—-
– Bố: Hôm nay ở trường con học gì?
Bé 5 tuổi: Phải có sữa chua con mới nhớ ra được ạ.
—-
– “Đừng bao giờ, đừng bao giờ nhìn vào mắt một tên nhóc khi hắn đang trên đà ngà ngà ngủ. Hắn sẽ hào hứng trở lại và không ngủ nữa đâu”.
—-
– “Vừa dạy con bài học về thuế bằng cách ăn mất của nó 38% cái kem”.
– Bố: Chúng ta có 3 cô gái trong nhà rồi. Con nghĩ em bé tiếp theo sẽ là gì?
Bé 2 tuổi: Mèo ạ.
– “Là bố của một thằng con trai 5 tuổi, tôi có thể gọi tên tất cả các thể loại khủng long, và chả nhớ tên đồng nghiệp nào của mình cả”.
– “Con trai tôi thức dậy buồn bã vì không tìm thấy kính của nó. Nhưng nó thậm chí còn buồn hơn khi tôi nói nó có bao giờ đeo kính đâu”.
– Thông báo dễ thương của một ông bố hài hước: “Thế rồi một hôm chúng tôi quyết định rằng mình đã quá mệt với việc ngủ nướng, làm bất cứ điều gì mình muốn vào bất cứ khi nào mình muốn trong một ngôi nhà sạch sẽ, và thế là chúng tôi có con”.
– Mình bảo con nhóc: “Bố làm sườn lợn đấy”. Con nhóc (3 tuổi): “Con không thích sườn”. Mình lại bảo: “Đậy làt hịt gà đấy”. Con bé: “Yê! Con thích loại thịt gà này”.
– Thú vui mới trong việc xem phim cùng con của mình là xem 1 phim khoảng 17 lần một ngày trong suốt 3 tháng.
– Phòng khi bạn quan tâm, âm thanh to khủng khiếp nhất trên thế giới là giọng con tôi hét lên “Bố đang ị đấy à?” ở toilet công cộng.
– Làm cha mẹ là nói với con chúng không được ăn bánh sô cô la cho bữa sáng rồi bạn lại ăn bánh sô cô la cho bữa sáng khi chúng đã đến trường.
– “Bọn trẻ hay lôi mọi thứ ra nhưng chẳng bao giờ để lại chỗ cũ. Đăc biệt là tiền trong ví của mình”.
– Bạn chẳng biết thế nào là sợ hãi cho đến khi nghe tiếng đứa con 2 tuổi của bạn giật nước trong toilet và nói “tạm biệt”.
– “Tống bọn nhóc về phòng ngủ, nói với chúng “hẹn gặp các con vào sáng mai” nhưng trước khi mặt trời lên, mình phải gặp lại chúng tổng cộng 16 lần”.
Khi hoa Mẫu Đơn nở, hương thơm cái thế, sắc huyệt thiên hạ, đích thực là loài hoa phú quý. Âu Dương Tu tán dương rằng: ”Chân hoa trong thiên hạ chỉ có mình mẫu đơn”. Hoa Mẫu Đơn trở thành tượng trưng cho phú quý và vinh dự.
Thời xưa, trong các nhà quyền quý, trong phòng khách thường treo một bức tranh hoặc tượng hoa mẫu đơn cát tường.
Nếu đem hoa mẫu đơn phối hợp với các hình tượng có vật tương đồng khác như hoa cỏ, vật tượng, văn tự, có thể tạo thành biểu tượng phong thủy cát tường mang ham nghĩa vô cùng phong phú.
Ý nghĩa hoa Mẫu Đơn khi kết hợp với các biểu tượng khác như sau:
Mẫu Đơn thường còn kết hợp với hoa sen, hoa cúc, hoa mai, để tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
Tranh hoặc tượng hoa Mẫu Đơn nên treo hoặc đặt ở phương vị cát lợi trong nhà, hoặc trên phương vị tam hợp, lục hợp của chủ nhà.
Tranh hoặc tượng trang trí lấy mẫu đơn làm chủ thể, Ngũ hành thuộc Hỏa. Mẫu Đơn Ngũ hành thuộc Hỏa, tranh mẫu đơn nên treo trên các phương vị tương sinh tương trợ như Nam, Tây Nam, Đông Bắc.
Không nên trên phương vị tương xung, tiết hao như Đông, Đông Nam, Tây Bắc; các phương vị khác bình thường.
Tranh hoặc tượng hoa Mẫu Đơn, nếu treo trên phương vị Đào hoa, có thể thúc đẩy vận đào hoa.
Người đã kết hôn không nên treo tranh hoặc tượng hoa mẫu đơn tại phương vị Đào hoa, vì có thể phát sinh mối quan hệ bất chính.
Hoa mẫu đơn có nguồn gốc từ Trung Hoa và Tây Tạng, là một trong những loài hoa được con người biết đến từ rất sớm, cách đây đã gần 4000 năm.
Tên tiếng Việt : Hoa mẫu đơn
Tên Trung Hoa : Sho-Yo (hay Shao-Yao)
Tên tiếng Anh : Peony
Tên tiếng Pháp : Pivoine officinale
Tên Latin : Paeonia officinalis
Tên khoa học : Paeonia lactiflora
Họ : Paeoniaceae
Mẫu đơn là loài hoa vương giả, sang trọng ở Trung Hoa biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng, sắc đẹp. Ở Nhật Bản, mẫu đơn tượng trưng cho cuộc hôn nhân hạnh phúc với nhiều con cháu. Còn trong ngôn ngữ loài hoa phương Tây, nhờ những đặc tính y học tuyệt vời, mẫu đơn còn được xem như một loại dược thảo quý để chữa bệnh và mang ý nghĩa “sự e lệ”.
Khi những nhà truyền giáo đạo Phật của Trung Hoa đến Nhật Bản, họ đã đem theo kiến thức về những bông hoa mẫu đơn này. Người Nhật được biết đến là một dân tộc yêu hoa, nên loài hoa mẫu đơn mới đến đã nhanh chóng trở thành một phần trong văn hóa của họ. Mẫu đơn là bông hoa của tháng sáu ở Nhật Bản. Từ Trung Hoa và Nhật Bản, nó chu du sang tận đỉnh núi Olympus, tìm cho mình một cái tên.
Từ xa xưa, loài hoa vương giả này chỉ thuộc sở hữu của giới quý tộc giàu có ở Trung Hoa. Loài hoa quốc sắc thiên hương này từng rất được ưu ái qua nhiều triều đại, với mệnh danh “Chúa của muôn loài hoa”. Nhất là giai đoạn từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 13 sau công nguyên. Mẫu đơn được ca tụng trong văn thơ, nhạc và tranh vẽ lúc bấy giờ.
Thành phố Lạc Dương (tiếng La Tinh là Luoyang, 1 trong 4 thành phố cổ kính nhất của Trung Hoa), nổi tiếng về nhiều chủng loại hoa mẫu đơn, với sắc màu rực rỡ khác nhau nhờ thời tiết ôn hòa và đất đai thích hợp. Ngày 21/9/1982, người dân Lạc Dương chính thức chọn mẫu đơn là biểu tượng hoa của thành phố mình. Tháng 4 là tháng của hoa mẫu đơn, thật sự đây là mùa vui cho những người yêu hoa ở xứ sở này. Hoa mẫu đơn nở đẹp lộng lẫy, hương thơm, sắc màu hoa hiện diện khắp nơi trong thành phố. Và lễ hội Mẫu đơn Lạc Dương – Luoyang Peony Festival – được tổ chức hàng năm từ 15/4 – 25/4 là một lễ hội văn hóa lớn, niềm tự hào của người dân thành phố Lạc Dương. Đây là thời gian thu hút lượng du khách trên khắp thế giới rất đông và gây một ấn tượng sâu sắc đối với họ, bời vì trong suốt mùa lễ hội, tưng bừng những đèn lồng sặc sỡ, các hoạt động kinh tế cũng khá nhộn nhịp, không khí thật vui tươi. Ở Lạc Dương có nhiều loài mẫu đơn quý hiếm, màu sắc thay đổi kỳ lạ, hay cả những bông hoa lớn đến hàng trăm cánh, sống đã hàng trăm năm tuổi.
Hoa mẫu đơn – Peony còn là biểu tượng hoa lần thứ tư của tiểu bang Indiana – Hoa Kỳ từ ngày 13/3/1957. Thật vậy, quốc hoa đầu tiên được chọn là Cẩm Chướng (15/3/1913), rồi đến Tulip – Uất kim hương (1/3/1923), Cúc Zinnia (chưa đầy 10 năm sau đó) và sự đổi ngôi cuối cùng mới dành cho Mẫu đơn – Peony.
Ngày xưa, ở một làng miền núi có một bà mẹ sinh được 10 người con trai. Làng của bà bị giặc chiếm đóng. Người cha của 10 anh con trai bị giặc giết ngay từ những ngày đầu giặc vào làng. Mười người con trai đã tham gia vào đội quân chống giặc ở trong núi, riêng người mẹ cùng những người già trong làng không theo đội quân. Người con trai cả là chủ tướng của đội quân. Đội quân này đã nhiều lần đánh bọn giặc chạy toán loạn khi chúng tấn công lên núi.
Sau nhiều lần cho quân lên núi càn quét mà không thành, tên tướng giặc bèn sai quân bắt bà mẹ để làm con tin. Hắn uy hiếp bắt bà phải khuyên các con ra đầu hàng, nếu không hắn sẽ giết bà. Tuy nhiên, người mẹ đã quyết tâm không làm theo yêu cầu của bọn chúng, bà không phản bội quê hương và bà cũng không thể để các con làm điều đó.
Sau khi dùng mọi biện pháp nhưng không thành, bọn giặc trói người mẹ trên một ngọn đồi rồi cho quân mai phục hòng bắt được những người con của bà đến cứu. Để các con không mắc mưu của chúng, không phản bội lại quê nhà, bà đã hô to: “Hỡi các con của mẹ! Hỡi những người con của quê hương. Ta nhân danh người mẹ, ra lệnh cho các con không được vì ta mà phản bội quê hương”.
Mệnh lệnh của người mẹ là mệnh lệnh trái tim, mệnh lệnh của tình yêu vĩ đại. Mệnh lệnh đó lan khắp núi rừng. Những người con của mẹ đã thêm sức mạnh để chiến đấu. Trước sự kiên cường của bà, bọn giặc bịt miệng bà lại, đổ nhựa thông và nhựa trám lên đầu bà và châm lửa đốt. Ngọn lửa cháy sáng cả một vùng.
Khi bọn giặc đi rồi, dân làng lên đồi tìm đến chỗ người mẹ bị đốt và thấy trái tim của người mẹ vẫn nguyên vẹn, nóng bỏng. Dân làng chôn mẹ ngay trên đỉnh đồi. Hàng đêm, từ ngôi mộ trái tim mẹ vẫn phát sáng cả một vùng trời.
Khi mùa xuân đến, từ ngôi mộ của người mẹ ấy mọc lên một cây trổ ra bông hoa màu đỏ thẫm giống hình ngọn lửa bốc lên từ trái tim người mẹ. Và cũng từ ngày ấy có một loài hoa mang tên Mẫu Đơn. Loài hoa này tượng trưng cho người mẹ đã chiến đấu bằng cả trái tim …
Hành: HỏaLoại: Sát TinhĐặc Tính: Nóng nảy, táo bạo, liều lĩnhTên gọi tắt thường gặp: Hỏa
Phụ Tinh. Thuộc bộ sao đôi Hỏa Tinh và Linh Tinh. Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa). Phân loại theo tính chất là Đoản Thọ Tinh.
Nếu sao Hỏa Tinh tọa thủ trong cung Vô Chính Diệu (như trường hợp Cung Mệnh Vô Chính Diệu và Cung Phụ Mẫu Vô Chính Diệu của lá số mẫu) được gọi là cách Hung Tinh độc thủ.
Vị Trí Ở Các Cung
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
![]() |
Người mũi hếch thường được coi là "phá gia chi tử" |
1. “Được rồi! Được rồi! Con biết rồi! Thật là dài dòng!”
Bạn biết không, với cha mẹ sự “dài dòng” đó lại là môt kiểu hạnh phúc. Họ chỉ muốn đảm bảo rằng mọi thứ đều ổn và bạn không phải bận tâm về điều gì.
2. “Có việc gì không ạ? Không có việc gì à? Vậy thì con cúp máy nhé!”
Cha mẹ gọi điện thoại đôi khi chỉ giản đơn vì muốn nghe giọng nói của ta, chúng ta nên hiểu tâm ý của cha mẹ và đừng vội vàng cúp máy! Hãy ngồi lại kể cho họ nghe đôi điều về cuộc sống của mình, rằng bạn vẫn đang sống tốt và bạn vẫn nhớ đến họ ra sao.
3. “Đã nói rồi mà mẹ vẫn không hiểu, mẹ đừng hỏi nữa!”
Cha mẹ chỉ muốn nói chuyện với chúng ta, và chắc chắn rồi, họ đâu còn trẻ để hiểu hết những điều mới mẻ mà con cái mình nói.
4. “Đã nói mẹ bao nhiêu lần rồi là đừng có làm, đã làm không được rồi mà còn cứ làm.”
Một số cha mẹ đã không còn đủ sức lực để làm việc gì đó, chúng ta vì lo lắng cho cha mẹ mà ngăn lại, nhưng đừng khiến cho cha mẹ cảm thấy họ trở nên vô dụng!
5. “Cha mẹ đã lỗi thời rồi!”
Ý kiến của cha mẹ có thể không còn tác dụng với chúng ta, nhưng việc đối đáp như thế này là cả một sự bất kính. Thay vì chê bai, tại sao bạn không thử tìm cách an ủi và giúp đỡ họ thay đổi những điều mà bạn cho là “lỗi thời”?
6. “Bảo mẹ đừng thu dọn phòng của con, mẹ xem, bây giờ đồ đạc nào tìm cũng không thấy!”
Chúng ta nên tự thu dọn phòng mình, nếu không thu dọn cũng tránh làm phật ý cha mẹ. Có bậc cha mẹ nào không muốn tốt cho con cái mình đâu…
7. “Con muốn ăn cái gì con tự biết rồi, mẹ đừng gắp nữa!”
Cha mẹ vẫn hàng ngày ngóng trông chúng ta trở về nhà, đều mong muốn chúng ta có bữa ăn no và ngon miệng, chúng ta nên hiểu và vui vẻ tiếp nhận.
8. “Con đã bảo mẹ đừng ăn những thức ăn thừa này rồi, sao mẹ không nghe à?”
Cả đời cha mẹ đều có thói quen tiết kiệm, chẳng qua cũng là để dành phúc cho con cái về sau. Điều này để sửa đổi không dễ dàng gì, bạn có thể chọn cách góp ý khéo léo để cha mẹ mỗi lần nấu ăn hãy làm ít một chút là được.
9. “Con tự biết cân nhắc rồi, mẹ đừng nói nữa, thật là phiền phức.”
Trong suy nghĩ của mẹ cha, chúng ta mãi chỉ là những đứa con chưa bao giờ lớn. Mỗi bước ta đi, mỗi quyết định ta chọn, mỗi việc ta làm dù ít hay nhiều đều có bóng dáng cha mẹ đằng sau yêu thương, giúp đỡ, khuyên bảo. Hãy trân trọng tình cảm ấy, đó hoàn toàn không phải điều gì phiền phức đâu.
10. “Những đồ vật này con đã nói là không cần dùng rồi, mẹ chất đống ở đây để làm gì?”
Cha mẹ thường hay lo xa và có thói quen cất trữ đồ đạc. Hãy hiểu điều này và bắt tay vào giúp cha mẹ mình dọn dẹp, bởi có thể một ngày không xa bạn sẽ chẳng còn cơ hội làm những việc như thế cùng cha mẹ mình đâu.
Lời kết:
Ca dao vẫn có câu: “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể / Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày”. Công ơn sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha dù bạn có đánh đổi cả cuộc sống mình cũng không thể nào đền đáp xứng đáng. Hiểu được điều này, sao ta còn ngần ngại nói lời yêu thương, sao còn do dự chăm sóc, phụng dưỡng bậc sinh thành. Bởi cuộc đời ngắn ngủi, thời gian bạn ở bên cha mẹ liệu tính bằng năm hay bằng ngày, thật ra chẳng thể nào đoán trước.
Theo Bài Học Cuộc Sống