Mơ thấy tóc rụng: Phiền muộn tăng dần –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Sinh giờ Tý (23-1h): Gặp vận số tam hợp Thân - Tý - Thìn, nên sự nghiệp thuận lợi, mọi sự cát tường. Tuy đôi lúc bị tiểu nhân phá hoại nhưng vẫn có được thành công.
Sinh giờ Sửu (1-3h): Do sinh vào giờ có cát tinh chiếu rọi nên những người này có số cầu mưu đại cát. Tuy có tranh chấp nhưng mọi sự cũng qua đi.
Sinh giờ Dần (3-5h): Tuổi Thìn sinh vào giờ này bị sao Dịch Mã chiếu mệnh, số phải ly hương. Nên thận trọng trong mọi việc.
Sinh giờ Mão (5-7h): Mão mệnh Mộc khắc Thìn mệnh Thổ. Nếu sinh vào giờ này ốm đau vô phương cứu chữa, không có sức lực để theo đuổi công việc yêu thích.
Sinh giờ Thìn (7-9h): là người thông minh, sang trọng, nam tài, nữ đẹp. Có số may mắn, phúc lộc dồi dào, mọi sự đều thành, vợ chồng hòa hopự, bạn bè tình nghĩa.
![]() |
Sinh giờ Tỵ (9-11h): Tỵ mệnh Hỏa sinh Thìn mệnh Thổ. Do vậy người tuổi Thìn sinh vào giờ này tuy có gặp họa nhưng không lớn, nên thận trọng trong mọi việc. Số có gia đình hòa thuận.
Sinh giờ Ngọ (11-13h): Là người tính tình nóng nảy, thăng trầm bất định. Số phải phiêu bạt khắp nơi. Nên thận trọng trong mọi việc mới có được thành công.
Sinh giờ Mùi (13-15h): Sinh giờ này bị sao Thái Dương chiếu mệnh nên số gặp nhiều chuyện phiền toái, hao tốn tiền của. Phải tự thân vận động vượt qua gian khó mới có được thành công.
Sinh giờ Thân (15-17h): Thìn mệnh Thổ sinh Thân mệnh Kim. Nên tuổi Thìn sinh vào giờ này có số kinh doanh phát đạt, tiền tài dư dật, có lợi bốn phương. Tuy nhiên, do bị sao Chỉ Bối chiếu mệnh nên phải cẩn trọng trong việc kết giao bạn bè.
Sinh giờ Dậu (17-19h): Nhờ sao Đào Hoa chiếu mệnh, tuy có tài có lợi nhưng hay vướng vào chuyện tình cảm, dễ gặp rắc rối.
Sinh giờ Tuất (19-21h): Người sinh giờ này có sao Tử Vi chiếu mệnh nên mọi việc đều thuận. Nên nỗ lực mới có được thành công.
Sinh giờ Hợi (21-23h): Do bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên số không yên ổn. Cần thận trọng trong mọi việc mới có tài lộc song toàn.
(Theo Nhân duyên và tướng cách đàn bà)
![]() |
a. Cách chức, thôi việc:
Cung Quan vô chính diệu cần có Tuần, Triệt trấn thủ tại đó mới hay. Bằng không thì dễ sa sút. Nếu chính tinh xung chiếu mà sáng sử thì còn khá, ngược lại nếu mờ tối thì bất lợi.
Thiên Tướng gặp Tuần, Triệt thì dù được đắc địa, quan chức không những bị truất giáng mà còn dễ chết thảm khốc. Tướng Quân gặp Tuần, Triệt cũng lâm vào họa hại như thế.
Không, Kiếp: chỉ sự thăng trầm, lên voi xuống chó. Hãm địa thì càng nguy, chắc chắn phải ít ra một lần mất chức nhục nhã, bị đổi đi xa vì kỷ luật, chưa kể những hung họa dẫy đầy, dễ chết vì binh lửa, chiến nạn. Như vậy, sự gián đoạn chức vụ có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân bị chết hoặc bị cách chức. Còn những họa nhỏ khác như vất vả, đè nén, đố kỵ thì khỏi kể. Tai họa công vụ của Không Kiếp cũng còn do tật xấu của chính mình. Người có Không Kiếp có lá số xấu thường xử xự bằng thủ đoạn, bá đạo, ám muội, phi pháp, kiểu như tham lận, cướp của, hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, biển thủ đưa đến việc mất chức.
Thiên Hình, Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Hình hãm địa ở Quan có nghĩa gián đoạn công vụ vì bị ngục tụng, những tai bay vạ gió làm cho viên chức phải bị liên lụy trong quan trường, chẳng hạn như bị khiển trách, bị điều tra, bị ngưng chức, bị truy tố, bị sa thải. Nếu đi với sát tinh, dễ bị hình tù vì Thiên Hình chỉ hình phạt, bằng kỷ luật hay bằng tòa án. Cho dù Hình gặp Tuần hay Triệt, ngục tụng cũng khó tránh. Cũng đồng nghĩa đó nếu Hình đi với Thiên Tướng ở cung Quan. Nếu có thêm Thiên Khôi, sẽ có thể bị mất đầu. Những họa nói trên sẽ tránh được nếu đương sự bị đau phải mổ hay bị chết nhưng dù sao, Tướng Hình Khôi ở Quan bao giờ cũng đập nặng vào chức vụ: Thiên Hình ở Quan là hình thương đến công vụ. ý nghĩa này vẫn tồn tại nếu Hình đi chung với Liêm Trinh; với Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ; với Hóa Kỵ; với Cự Môn hãm địa ...
Hóa Quyền, Thiên Hình hay Tuần, Triệt: Hóa Quyền tượng trưng cho quan tước, gặp Hình hay Tuần, Triệt thì có gián đoạn công vụ, thông thường là bị bãi nhiệm, bị đổi chỗ hoặc phải thôi việc. Nếu có chức phận cũng không giữ được lâu bền, phải từ bỏ vì một nguyên nhân nào đó. Những sao đồng nghĩa với Hóa Quyền mà gặp một trong ba sao này cũng rơi vào tai họa tương tự. Đó là các bộ sao: Quốc ấn, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Phong Cáo, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Thái Dương hãm, Thiên Hình hay Tuần, Triệt. Thông thường, ý nghĩa mất việc chỉ rõ ràng nếu bộ sao này đóng đồng cung ở Quan, nếu chỉ hội chiếu thì việc mất chức không rõ ràng lắm, có thể là tự ý thôi việc. Một số quý tinh khác như Thai Phu, Đường Phù gặp Tuần, Triệt hay Hình không đến nỗi nặng lắm, có thể có nghĩa như hụt thăng trật, hụt huy chương ...
Tuế, Đà, Kỵ: hội ở cung Quan chỉ mọi sự xui xẻo liên tiếp do sự tố cáo, chỉ trích, vu khống, xuyên tạc, đố kỵ, cạnh tranh làm cản trở bước tiến quan lộc, từ đó có thể đưa đến sự thôi việc, sự thay đổi công việc. Vì có Đà La, bộ sao này cho thấy có sự tranh cãi, gây lộn, ăn thua, khiếu nại, có khi ẩu đả giữa đồng nghiệp, xô xát với cấp chỉ huy để rồi cuối cùng gián đoạn công vụ.
b. Đè nén, đố kỵ
Hóa Kỵ: chỉ đó kỵ, ganh ghét, cạnh tranh bằng thủ đoạn gièm pha, thêm bớt, thọc gậy. Hóa Kỵ là người bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị để ý. Đi chung với Phục Binh, sự đố kỵ có tính cách ám hại, tầm thù, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng hành động. Đi với Thiên Hình, Hóa Kỵ dễ sinh quan tụng, thưa gửi, khiếu nại, điều trần, cảnh cáo, khiển trách, ẩu đả lẫn nhau. Chỉ trừ khi đi với Thanh Long mới đẹp.
Thiên Không: chỉ phần tử lưu manh trong công/tư sở, chuyên môn phá hết kẻ này đến người khác, thọc gậy bánh xe, cản trở bước tiến của đồng nghiệp với ác tâm, có tà ý, âm mưu phá hoại. Bị Thiên Không, viên chức khó lòng ngóc đầu lên nổi, bị khép trong kỷ luật, khống chế, mình làm mà thiên hạ hưởng, bị cấp trên hay cấp ngang cướp công.
Đà La, Kình Dương: chỉ sự ngăn trở quan trọng vì ganh đua, cạnh tranh gay gắt. Tại vị trí hãm địa, đương số là nạn nhân của chia rẽ, phân hóa trong nghề nghiệp, làm việc nặng nhọc, gánh trách nhiệm mà bị tội vạ, hiểu lầm, khiển phạt. Những bạc bẽo của nghề thường do hai sao này quảng diễn.
Cự Môn hãm địa: đồng nghĩa với Hóa Kỵ nhưng nặng nề hơn. Con người Cự Môn cũng như Hóa Kỵ lúc nào cũng bất mãn, mưu tìm sự canh cải theo ý mình, không bảo thủ mà đấu tranh thay đổi thành phần bảo thủ. Nếu đắc địa thì việc đấu tranh có cơ hội thành công, trái lại, Cự Kỵ sẽ là nạn nhân của thái độ cấp tiến của mình, gánh lấy hậu quả của sự kìm chế, đè nén, cô lập. Đi chung với các sao ám khác như Thiên Không, Kình Dương, Đà La, Phục Binh, là những người hay kết bè kết đảng để đấu tranh. Nếu có sát tinh đi kèm thường có đổ máu, hình ngục, thanh toán, trả thù qua lại.
Tuế, Đà, Kỵ: tượng trưng cho những xui xẻo liên tiếp trong quan trường, trong nghề nghiệp, trong đó có sự đè nén, thị phi, gièm pha, đố kỵ.
Đại Hao, Tiểu Hao: đi chung với quyền, quý, dũng tinh, Nhị Hao thường chỉ sự sa sút hậu thuẫn, sự sút kém tín nhiệm, sự mất mát thế lực. Viên chức có Song Hao ở Quan, ngoài ý nghĩa hư danh, hư quyền, bị tổn thương uy tín, thất sủng, từ đó làm việc gì cũng không lâu bền, ở với ai cũng khó hòa hợp, có thể ngồi xơi chơi nước hay được giao những công việc chạy vặt, liên lạc, kém quan trọng. Về mặt tâm lý, Đại Tiểu Hao ở Quan còn chỉ những người đứng núi này trông núi nọ, bất mãn không khí đang sống, lúc nào cũng chực hờ, tìm chỗ tốt, chỗ bở, hay thay đổi chức vụ mà chũng chẳng hiển vinh gì bao nhiêu. Tính tình của Nhị Hao thường bất nhất, không bền chí, không kiên tâm tiến thủ trên cái gì đã có mà chỉ lo đổi chỗ để tìm lợi lộc, tìm thăng tiến. Nếu được đắc địa thì Nhị Hao có lợi hơn về mặt tài lộc, kinh nghiệm.
Thiên Khốc, Thiên Hư hay Tang Môn, Bạch Hổ: Trừ phi đắc địa ở Tý Ngọ, Khốc Hư ở Quan biểu tượng cho những ưu tư, lo buồn, hoang mang, sợ sệt khi hành nhiệm. Ngoài ra, còn có đặc tính bị khinh ghét, chê bai vì bất lực, bất hòa. Người có Khốc Hư ở Quan không thoải mái trong công việc, phải quan tâm lo lắng nhiều mối, vì nhiều lý do, có khi phải gánh chịu nhục nhã, xấu hổ bởi tai tiếng, bởi thị phi. Nếu đắc địa, các sao này chỉ uy tín và hoạt động chính trị cũng như năng tài hùng biện, giáo khoa, tâm lý chiến.
Thiên Mã, Tràng Sinh ở Hợi: Thiên Mã thông thường chỉ tài năng. Gặp thêm Tràng Sinh là có cơ may tiến đạt. Nhưng hiềm vì ở cung Hợi cho nên năng tài này bị chìm trong bóng tối. Đây là hạn người kém may, không có cơ hội thi thố được, hoặc chỉ có danh mà không có quyền, chỉ có hư vị hơn là thế lực, hoặc bị đặt vào chỗ tượng trưng để lợi dụng uy tín chứ không phải để hành sử quyền binh. Công lao của Mã Sinh ở Hợi thường chỉ ở trong bóng mờ, hay bị người khác lấn át. Nếu gặp Phục Binh, ngụ ý người có tài mà bị ruồng bỏ, bị gièm xiểm, bị đào thải ...
Thiên Mã, Tuần, Triệt: không chỉ tai nạn xe cộ mà chỉ sự bất dụng, sự thiếu may mắn trong nghề nghiệp, làm cái gì cũng thất bại, tai ương, xui xẻo khiến cho thượng cấp mất dần tín nhiệm, không dám giao phó đại sự. Cho nên, công danh của Mã, Tuần, Triệt tương đối nhỏ.
Lộc Tồn, Tuần, Triệt: Lộc Tồn cũng chỉ tài năng như Thiên Mã, đặc biệt là tài tổ chức, quyền biến, khai sơn phá thạch, có nhiều sáng kiến giải quyết mọi việc. Gặp Tuần Triệt, tài năng, cơ may bị tiêu tán. Đó là trường hợp những người bị thiểu dụng, bị uổng dụng, bị sai dụng.
Thiên Tài: đi chung với Nhật, Nguyệt sáng sủa sẽ làm mất đi sự tốt đẹp, làm giảm ánh sáng của Nhật, Nguyệt. Đó là trường hợp tài năng thiếu cơ hội.
Tại cung Quan vắng bóng những sao trợ quyền, những sao may mắn thì tài năng thường cô độc, thiếu người công lực, nâng đỡ, thiếu may mắn của thời cuộc. Đó là những sao Ân Quang, Thiên Quý, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long-Lưu Hà, Thanh Long-Hóa Kỵ, Thiên Mã-Tràng Sinh (trừ ở Hợi), Bạch Hổ-Phi Liêm, Tràng Sinh-Đế Vượng, Thiên Hỷ-Hỷ Thần, Tứ Linh, Tam Hóa ...
4. Họa cho tài sản: thường hay xuất hiện ở hai cung Điền và Tài, ở những cung chiếu Điền (Tử, Tật, Bào), chiếu Tài (Phúc, Quan, Mệnh), cung Thân và các cung Hạn.
a. Những đại họa tài sản:
Thiên Không: hậu quả của Thiên Không trên tài sản cũng gần tương đương như Địa Không, nhất là khi tọa thủ ở Tài, Điền và nhất là khi gặp thêm hạn xấu. Hội với Địa Không, Địa Kiếp, sức tác họa càng dữ thêm, có hại đến cả sinh mạng. Thông thường, Thiên Không rơi vào cung hạn thì tác họa mạnh mẽ hơn bình thường: các dự định đều thất bại, sự nghiệp sa sút, mua bán thua lỗ, mất của thường do lường gạt, lừa đảo, có khi vướng vào tù tội.
Tuần, Triệt đồng cung ở Điền, Tài: dù Điền hay Tài có chính tinh hay không, có cát tinh đi nữa thì cũng không quân bình được bất lợi của cả Tuần lẫn Triệt đồng cung. Hai sao này hợp nhất phối hợp phá hoại tài sản đến cùng. Gặp chúng, cá nhân không có di sản, dù có cũng bán hết hoặc không thể thụ hưởng, thường phải tự lực lập nghiệp nhưng có rồi lại dễ mất ngay vì họa, hoặc vì túng thiếu. Đây là bộ sao điển hình của vô sản.
Kình Dương, Đà La hãm địa: cũng báo hiệu họa tài sản, dưới hình thức phá tán tổ nghiệp, điền trạch cũng như tiền bạc. Đi với Không, Kiếp, Thiên Không, ý nghĩa họa càng chắc chắn hơn và họa nhất định nặng hơn. Đặc biệt vào cung hạn, nếu Kình Đà gặp Lưu Kình, Lưu Đà thì họa đến mau chóng và khủng khiếp. Nếu Kình Đà và hai sao Lưu lại tọa thủ hoặc xung chiếu vào Điền, Tài thì họa vào sản nghiệp hiện có thay vì di sản.
Hỏa Tinh, Linh Tinh: chỉ riêng mối họa lửa, dù Hỏa Linh đơn thủ hay hội họp với sát hao tinh khác. Hai sao này đi chung với một số sao khác cũng mang ý nghĩa tương tự như: Hỏa Kiếp Cơ, Hỏa Tang, Linh Hình Việt, Phi Hỏa, Cự Hỏa, Cơ Hỏa, Hỏa Linh Tướng Binh. Chỉ riêng bộ sao Hỏa Tướng Binh hay Linh Tướng Binh có nói ít nhiều đến nguyên nhân hỏa hoạn: đó là việc gian phi đốt nhà, đốt ruộng, đốt hoa màu, hàng hóa.
Lưu Hà: thủy họa đối với tài sản, đi chung với Địa Không, Địa Kiếp chỉ tại họa lớn: nước lụt đắm tàu, hoa màu úng thủy, hàng hóa bị ngập nước ...
Đại Hao, Tiểu Hao: Trừ phi đắc địa ở Mão, Dậu (có tiền của dồi dào), Nhị Hao bao giờ cũng phá tán của cải, hao hụt điền sản thường là do cái đà ăn xài quá lớn không kìm hãm được nữa. Song Hao ở Điền, Tài thường xuyên có chuyện tốn kém, lớn có nhỏ có và liên tiếp. Sự hao tán của bộ sao này gần như triền miên. ở Điền, Nhị Hao ngụ ý phải lo "một kiểng hai huê". ở Tài thì luôn luông có chuyện phải tiêu lớn, tiêu nhỏ. Nếu Thiên Không tối kỵ ở cung Quan thì Nhị Hao tối kỵ ở cung Tài và cung Điền. Ngoài ra, về bệnh tật, Nhị Hao phải tốn vì một bệnh trầm kha, tái đi tái lại nhiều lần, thường là bệnh về bộ máy tiêu hóa tương đối nặng.
Tướng, Binh, Kiếp hay Không: chỉ họa cướp của. Đóng ở Điền, Tài, đương số sẽ bị cướp đến khảo của, phá nhà, tống tiền, có thể bị thanh toán. Nếu có thêm Tả Hữu thì thường có nội gián, tòng phạm lâu la đông đảo. Bộ sao này cũng nói lên trường hợp bị cưỡng bách đóng thuế bằng cách hành hung, đe dọa sinh mạng hoặc bắt cóc đòi tiền chuộc. Trong trường hợp có bắt cóc tống tiền thì thường có Thiên Hình đi kèm.
b. Những tiểu họa tài sản:
Binh, Tả, Hữu: có tòng phạm giúp đõ, chỉ dẫn, dụ dỗ, đánh lừa để lấy đồ bằng mưu chước xảo quyệt. Có khi Tả Hữu còn chỉ tôi tớ trong nhà, làm nội ứng chỉ điểm cho gian phi, hoặc chính người giúp việc trộm cắp của chủ nhân. Bộ sao này cho thấy việc đánh cắp có tổ chức, có kế hoạch.
Thiên Không: đứng riêng rẽ, sao này chỉ tên lưu manh, gian hùng, xảo quyệt, có nghĩa tương tự như Phục Binh. Nếu cả hai cùng hội tụ thì đây là cách gian phi họp đang, tác họa nhiều hơn.
Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ, Hóa Kỵ: chỉ hao tài sản do sự lường gạt, phản bội, hoặc do kiện tụng mà hao hụt của cải, kiện tụng về tài sản cụ thể như bị xử ép, chia của không sòng phẳng, thanh toán không phân minh. ứng vào điền sản, những sao này cho thấy phải có tranh chấp về đất đai, ruộng vườn, phải tốn tiền vì điền thổ mới có của, phải kiện thưa mới đuổi được người cư ngụ bất hợp pháp mới cất được nhà. Cũng có thể nhà, đất của mình không có lai lịch phân minh, bị tố tụng, thưa kiện và có khi thất kiện phải mất đất, trả nhà.
Thiên Hình: ở Điền, Tài, sao này chỉ họa của người bị bắt giam vì tài sản, bị họa lụy vì tiền bạc hoặc nếu là điền sản thì có thể bị tịch thu, tịch biên. Đây là trường hợp những người bị bắt để đổi tiền chuộc mạng, của bọn khảo của, tống tiền, thu thuế bằng bạo hành, đe dọa. Nếu đương số làm nghề tài chính, thì Hình sẽ ứng vào các vụ biển thủ, quản lý sơ suất để mất tiền phải bị ra tòa, đền tiền. Nếu ở cung Điền, nhà đất dễ bị tịch thu, sai áp, niêm phong do một án tiết cá nhân, có liên quan đến của cải bất hợp pháp hoặc đến uy thế chính trị suy sụp. Nếu ứng vào cơ thể có nghĩa thương tích thì ứng vào điền trạch cũng có nghĩa bế tỏa như vậy. Bị Thiên Hình, cơ xưởng, làm ăn có thể bị sai áp, quốc hữu hóa, trưng dụng, trưng thu. Nếu có thêm sát tinh khác, đây có thể là đại họa.
Điếu Khách, Văn Xương, Văn Khúc: chỉ họa hao tài vì đánh bạc, thông thường có đi đôi với Song Hao, hoặc Khốc Hư, Tang Hổ, Xương Khúc thì thỉnh thoảng có đỏ đen, còn Điếu Khách thì máu cờ bạc quá nặng đến nỗi trở thành tập quán khó chừa, lấy đổ bát làm sinh kế và chắc chắn cũng vì đổ bát mà tán tài, tán điền.
Hỏa, Linh với Song Hao: họa tài sản bắt nguồn từ bệnh nghiện thường là nghiện á phiện, ma túy, rượu, rất nguy kịch cho của cải và sức khỏe. Không cần gì phải có cả Hỏa và Linh với Song Hao, chỉ cần Hỏa hay Linh cũng đủ.
Đào, Hồng với Song Hao: họa tài sản do gái/trai tạo ra. Đây là hoàn cảnh của các chàng hào hoa bị dại gái bị lừa gạt, phải chi khá nhiều để chu cấp cho gái hoặc phụ nữ mê trai cũng chu cấp cho các chàng thất nghiệp. Đào Hồng ở Tài, Điền thì phải tốn tiền ít nhiều cho tình nhân, nếu có Song Hao thì chi phí lớn theo tỷ lệ túi tiền của nạn nhân.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Mỗi một công việc của cửa hàng và phòng làm việc đều có liên quan đến phong thủy, tất cả mọi sự vật không sự vật nào là không mang tính chất phong thủy. Vấn đề là chúng ta liệu có đủ tinh tế để quan sát thấy điều đó hay không? Nơi chúng ta ở, cửa hàng hoặc phòng làm việc có một số đồ vật vì quá quen thuộc làm mất đi giá trị phong thủy của nó. Trên thực tế, nghiên cứu tỉ mỉ thì sẽ thấy không có gì không liên quan đến phong thủy chẳng qua là mức độ của từng yếu tố quan trọng nhiều hay ít mà thôi.
Đèn là một trong những loại đồ vật thường thấy, đèn có chức năng chiếu sáng. Ánh sáng của đèn xua tan đi bóng đêm. Đèn cũng chính là công cụ phong thủy mạnh và hiệu quả, lúc lắp đèn nhất định không thể không chú ý.
Ánh đèn có hai đặc điểm lớn, một là ánh sáng, hai là nhiệt năng. Ánh sáng và sức nóng đều là biểu hiện của năng lượng. Nó đủ để ảnh hưởng tới sự thay đổi về cát hung trong phong thủy. Thường thì trong phòng làm việc thường có lắp bóng đèn chùm, và thường lắp đèn theo một quy cách thống nhất. Điều này sẽ làm cho chúng tương đối hài hòa, nếu dùng quá nhiều thì cần phải cẩn thận cân nhắc đến cách treo hoặc vị trí đặt.
Người lãnh đạo công ty muốn tăng thêm vẻ sang trọng hoặc muốn lắp đặt một đèn trang trí đặc biệt cho phòng làm việc của mình thì cần phải cân nhắc. Đặc biệt là một số đèn treo thủy tinh, nhìn chúng thì có vẻ đẹp lung linh, huyền ảo, thế nhưng khi chọn vị trí đặt cần phải chú ý đến một nguyên tắc lớn đó là không được để quá gần đỉnh đầu của người quản lý, nếu không có thể làm ảnh hưởng đến tài vận.
Ánh sáng và nhiêt năng chính là năng lượng của tài khí phong thủy
Đèn treo sinh ra quang và nhiệt, đầu óc con người lại tương đối mẫn cảm với những điều đó. Đầu óc muốn phát huy được chức năng tốt nhất thì phải đặt trong không gian yên tĩnh và thoải mái. Ánh sáng và nhiệt đều. có thể kích thích đến đầu óc, có thể dẫn tới trở ngại cho suy nghĩ.
Đầu tiên, sức nóng có thể khiến đầu bị choáng, làm suy giảm năng lực tư duy, vì thế mà làm cho người ở môi trường đó trở nên khó chịu, tính khí ũng thất thường. Đây là điều cần tránh trong việc kinh doanh buôn bán.
Vì thế, đèn treo không được trực tiếp lắp vào nơi trên đỉnh đầu. Nếu như muốn lắp thêm đèn thì nên đặt ở nơi mà cách đầu tầm 3 thước... để cho ánh điện có khoảng cách chiêu sáng phù hợp. Điều này có thê giúp bạn tránh được những phiền nhiễu không đáng có, để khả năng của bộ não được phát huy một cách tốt nhất
Xem bói bàn tay: Con người trên thế gian, ai cũng có khát vọng nổi danh giữa biển người mênh mông, nổi danh trong một xã hội phức tạp. Nhưng chính lúc leo lên đỉnh vinh quang có người đăng quang đắc ý vạn phần, nhưng cũng có người thất bại ê trề. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích một số kiểu bàn tay xem có thể tìm ra nguyên nhân của những thất bại liên tiếp này hay không.
Trên bàn tay Đường Sinh mệnh, đường Trí tuệ, đường Tình cảm tán loạn không phải là một đường mà chia ra thành nhiều đường phân nhánh nhỏ, điều đó cho thấy tinh lực và thể lực của người này đều không đủ, sự nghiệp do đó cũng tiến triển không thuận lợi. Thái độ sống cơ bản là cực đoan, thay đổi những thói quen không tốt là điều vô cùng quan trọng.
Xem bói bàn tay mà trên Đường vận mệnh có vân đảo thì có thể cho thấy trong sự nghiệpcủa bạn đôi khi cũng gặp phải những sóng gió không thể lường trước được, có khi chính bản thân mình đã vô tình gieo hạt giống tai họa. Lời khuyên cho bạn là, khi khởi đầu sự nghiệp bạn luôn phải gặp khó khăn trắc trở nhưng bạn không được hoang mang, làm việc dựa vào lương tâm của mình thì thành công sẽ đến với bạn
Đây là tướng tay của người có sự nghiệp vô cùng phiền não, báo hiệu quan hệ giữa họ với mọi người trong công việc luôn có nhiều tranh chấp, hầu như dẫn đến gặp phiền phức không ngừng, dẫn đến lo lắng, tiều tụy. Hãy tiến hành thay đổi hoàn cảnh sống, hoặc có thể khai vận. Ngoài ra bố trí lại nhà ở hoặc tăng cường đi du lịch đều mang lại hiệu quả.
Xem bói bàn tay mà thấy trên bàn tay đường vân đảo hay hình chữ thập xuất hiện trên đường Công danh thì bạn là người thường xuyên gặp phải những tranh chấp về tiền bạc mà gây trở ngại cho công việc. Ngoài ra, còn có thề phát sinh sự việc tổn hại danh tiếng của bản thân trong xã hội. Cách nhìn tiền bạc tản mạn, thái độ với cuộc sống không tốt, bạn cần phải thay đổi nhiều về quan điểm tiền bạc.
![]() |
- Ngày, giờ nên tránh: Ất Sửu, Ất Mùi, Tân Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Tân Mùi
Tuổi Đinh Sửu (1937, 1997)
- Ngày, giờ nên tránh: Đinh Sửu, Đinh Mùi, Quý Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Quý Mùi
Tuổi Kỷ Sửu (1949, 2009)
- Ngày, giờ nên tránh: Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Ất Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Ất Mùi
Tuổi Tân Sửu (1961)
- Ngày, giờ nên tránh: Tân Sửu, Tân Mùi, Đinh Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Đinh Mùi
Tuổi Quý Sửu (1973)
- Ngày, giờ nên tránh: Quý Sửu, Quý Mùi, Kỷ Sửu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Kỷ Mùi.
Theo Đời người qua 12 con giáp
![]() |
– Khi lắp cửa chính, phải quan sát xem các vân gỗ nghịch hay thuận.
Thông thường, các vân phát triển từ dưới lên trên là vân thuận, ngược lại, những vân phát triển từ trên xuống dưới là vân nghịch. Một cánh cửa có vân gỗ thuận sẽ đem lại sự yên ổn và suôn sẻ cho cả gia đình. Trong khi đó, cánh cửa với vân gỗ nghịch sẽ khiến cho gia đình gặp nhiều biến cố và trắc trở.
– Tỉ lệ chiều cao của cửa phải phù hợp. Thông thường, tiêu chuẩn chung là khoảng 2,2m.
Cửa chính không nên quá cao. Chẳng hạn như cửa chính trong nhà giam, nếu nhỏ quá sẽ gây tắc nghẽn, mọi chuyện diễn ra không suôn sẻ thuận lợi, sự may mắn thịnh vượng cũng không tìm đến, đúng là điềm dữ. Cửa quá cao sẽ khiến cho con người làm việc thiếu lí trí và tham lam một cách mù quáng. Nếu cửa quá thấp, con người làm việc sẽ thiếu tự tin và gặp nhiều thất bại.
– Cố gắng không để các cửa phòng trong nhà đối diện nhau. Nếu không sẽ xảy ra cãi vã, xung đột.
– Màu cửa phải sáng và sạch, tránh màu tối
Trên một cánh cửa không thể cùng lúc có hai màu hoặc từ hai màu trở lên, nếu không sẽ tạo sự trùng lặp, tản mạn và gây phản cảm.
– Các cửa trong nhà không được thiết kế theo kiểu hình vòm cung tròn
Hình tròn tượng trưng cho sự chuyển động, trong khi đó, ngôi nhà hợp với trạng thái tĩnh. Vì thế phải tuyệt đối tránh làm cửa vòm.
Nếu làm cửa đó vì mục đích thẩm mỹ thì có thể thay thế bằng loại cửa vòm vuông.
– Cửa nên được mở theo hướng từ ngoài vào trong chứ không nên mở từ trong ra ngoài
Vì cửa là nơi dẫn khí, nếu cửa mở theo hướng từ trong ra ngoài thì đồng nghĩa với bao nhiêu khí may mắn tốt lành đều bị đưa hết ra ngoài, như thế vận mệnh sẽ rất xấu, của cải cũng vì thế mà tiêu tan.
– Cửa chính bên ngoài không thể hướng theo hướng chảy của dòng nước, nếu không sẽ mất của liên tục
Cấm kị dùng các cánh cửa chính bên ngoài màu xanh da trời đậm (kị nhất), màu đen hay màu hồng. Nên chọn màu sữa là thích hợp nhất.
– Cửa chính đối diện với “hổ đầu” sẽ không tốt
Cửa chính của một văn phòng hay một cửa hàng không được đổi diện thẳng với “hổ đầu” hay ống khói. “Hổ đầu” là tên gọi dùng để chỉ góc nhọn của một kiến trúc khác, hay một kiến trúc đặc biệt nào đó.
Nếu cửa chính hay cửa sổ chính đối diện với góc tường hay một kiến trúc nổi bật nào đó thì cũng giống như đối diện trước một con dao nhọn, điều này đương nhiên là một điềm xấu.
– Trước cửa chính tuyệt đối không được có rác
Không để bất kì một tạp vật hay rác rưởi nào ở phía trước và sau cửa chính. Nếu không mọi người trong nhà sẽ dễ mắc bệnh tật và làm việc gì cũng gặp bất lợi.
Một bài viết hay không liên quan gì tới Tử Vi, tuy nhiên cũng là một bài viết hay mà mình đăng lên đây để tham khảo
1. Hãy nhớ kỹ: Ngủ là yếu tố quan trọng nhất của dưỡng sinh. Thời gian ngủ nên từ 21h đến 3h sáng. Vì thời gian này là mùa đông trong ngày, mùa đông chủ yếu là ẩn náu, mùa đông mà không ẩn náu thì mùa xuân, hạ sẽ không thể sinh trưởng, sang ngày hôm sau sẽ không có tinh thần.
2. Hết thảy các vị thuốc dùng để trị bệnh cho dù là Trung y hay là Tây y đều chỉ là trị phần ngọn, không trị tận gốc. Tại vì hết thảy bệnh tật đều bắt nguồn từ những nguyên nhân sai lầm mà sản sinh ra hậu quả sai lầm. Nguyên nhân sai lầm mà không trừ dứt, thì hậu quả sẽ không thể bỏ tận gốc. Nguồn gốc căn bản của sức khỏe là tại tâm. Hết thảy pháp từ tâm sinh ra. Tâm tịnh thân sẽ tịnh. Vì thế khi bị bệnh rồi, không được hướng ngoại cầu, phải dựa vào hệ thống phục hồi của bản thân để chữa trị bệnh của chính mình. Kỳ thực con người và động vật là giống nhau, bệnh của động vật đều là tự dựa vào bản thân mà tự hồi phục, và con người cũng có khả năng đó.
3. Quan niệm đúng đắn có tác dụng giúp người bệnh tiêu trừ bệnh tật tốt hơn nhiều so với sử dụng biệt dược đắt đỏ và phẫu thuật. Có được quan niệm đúng đắn, bạn sẽ có quyết định đúng đắn, bạn sẽ có hành vi đúng đắn, và bạn sẽ có thể phòng ngừa rất nhiều bệnh tật phát sinh.
4. Con người vốn hội tụ hết thảy trí huệ, tuyệt đối không phải là học từ trong sách vở, mà là từ tâm chân thành, tâm thanh tịnh của bản thân, từ trong [thiền] định mà sinh ra.
5. Trong giới sinh vật con người là linh thể có cấu tạo hoàn mỹ nhất, khi con người được sinh ra là đã có một cơ thể khỏe mạnh; sự điều chỉnh trạng thái khỏe mạnh của con người là dựa vào chính hệ thống điều tiết phục hồi của bản thân để hoàn thành, chứ không phải dựa vào nhân tố bên ngoài, các nhân tố bên ngoài chỉ có tác dụng phụ trợ.
6. Đại đa số hiện tượng bệnh tật của con người là hiện tượng biểu hiện khi cơ thể đang điều tiết, thanh lọc những thứ không tốt trong thân thể, là trạng thái biểu hiện ra khi cơ thể tự động điều tiết trở lại trạng thái cân bằng, vì thế chúng ta nên coi đó là hiện tượng sinh lý bình thường, chứ không nên coi đó là căn bệnh để tiêu diệt. Vì vậy khi con người bị bệnh, nhất định không nên có tâm thái oán trách và giận giữ, tâm lý phải ổn định, tâm định thì khí sẽ thuận, khí thuận thì máu sẽ thông, khi thuận huyết thông thì trăm bệnh đều sẽ tiêu tán.
7. Sức khỏe của con người không thể xa rời hai nhân tố: 1) Khí huyết đầy đủ; 2) Kinh mạch thông suốt ( bao gồm huyết quản và đường thông bài tiết những thứ cặn bã).
8. Khí huyết đầy đủ dựa vào: sự đầy đủ về thức ăn + dịch mật + bắt buộc trong khoảng thời gian (sau khi trời tối đến 1h40 sáng) có thể ngủ ngon giấc (thời gian này đại não hoàn toàn không làm việc, đều do thần kinh thực vật làm chủ đạo) + có thói quen sinh hoạt lành mạnh.
9. Kinh mạch thông suốt cần: Tâm thanh tịnh. Hết thảy thất tình lục dục đều có thể phá hoại tâm thanh tịnh, từ đó phá hoại sự lưu thông bình thường của kinh mạch.
10. Duy trì một cơ thể khỏe mạnh khỏe mạnh không chỉ cần “tăng thu” (gia tăng khí huyết), mà còn cần “tiết chi” (giảm thiểu sự hao tổn khí huyết).
11. Ăn uống quá độ không những không thể gia tăng khí huyết, mà còn trở thành những thứ cặn bã mang gánh nặng cho cơ thể, hơn nữa còn bị tiêu hao khí huyết để thanh lọc chúng đi. Lục phủ ngũ tạng là một xưởng gia công khí huyết, thức ăn là nguyên vật liệu, năng lực gia công là hữu hạn, còn thức ăn là vô hạn, cho nên số lượng thức ăn nhất thiết phải được khống chế.
12. Vận động thích hợp có thể giúp cho khí huyết lưu thông, nhưng đồng thời cũng tiêu hao đi khí huyết. Sự tuần hoàn của cơ thể tại vi mô chủ yếu dựa vào trạng thái lỏng và tĩnh mà đạt được, đây cũng là điều không thể thiếu cho một cơ thể khỏe mạnh.
13. Chất cặn bã trong cơ thể càng nhiều sẽ cần càng nhiều khí huyết để thanh lọc chúng, nhưng khi chất cặn bã nhiều lên và làm tắc huyết mạch sẽ làm giảm thiểu khí huyết, cái đó sẽ dẫn đến sự tuần hoàn ác tính, cũng chính là cơ lý khiến con người già yếu đi. Vì vậy nếu con người muốn khỏe mạnh không già yếu thì phải: 1) Giảm thiểu chất cặn bã trong cơ thể; 2) Tăng cường sự thông suốt của các đường kinh mạch; 3) Tăng cường khí huyết trong cơ thể.
14. Tin tưởng vào thuốc, tin tưởng vào số liệu kiểm tra, không bằng tin tưởng vào cảm giác của bản thân, tin tưởng rằng chính mình có đầy đủ năng lực để điều tiết. Nhưng trước hết bạn cần phải là người đắc đạo (trí huệ đã khai mở), mới có thể phân biệt được hết thảy những điều này.
15. Sự khỏe mạnh, khởi đầu từ việc điều hòa tâm tính. Vì sức khỏe của bạn, bạn hãy tu Phật. Tu Phật đạt được sự vui vẻ đó là sự hưởng thụ tối cao của đời người.
16. Đối với người có bệnh cũ mà nói, chỉ khi có khí huyết đầy đủ (một là thông qua phương pháp bổ sung khí huyết như đã giới thiệu ở đây, hai là thông qua việc đi tản bộ để đánh thông khí cơ), bệnh tình mới có thể hiển hiện ra. Vì thế người luyện công sau khi công phu đã đạt đến một trình độ nhất định đều xuất hiện một vài hiện tượng “bệnh”. Đến lúc đó phải vững vàng kiên định, tâm thần phải tĩnh lại và luyện nhiều tĩnh công hơn để gia tăng khí huyết của bản thân, để mau chóng vượt qua giai đoạn này.
17. Con người làm trái với quy luật dưỡng sinh, mặc dù không nhất định sẽ bị bệnh ngay lập tức, nhưng một khi đã hình thành thói quen, liền gia tăng nguy cơ mắc bệnh. Điều này giống với luật lệ giao thông, bạn vi phạm luật lệ giao thông, không nhất định sẽ xảy ra sự cố, nhưng tình trạng nguy hiểm là có thể thấy rất rõ ràng.
18. Tại sao con người nhất thiết phải duy trì trạng thái đói khát nhất định thì mới có lợi cho dưỡng sinh? Kỳ thực đây chính là sự vận dụng tuyệt diệu của chữ “Hư”. Đạo gia giảng, hư thì linh. Chính cái đó cùng với sự khiêm tốn khiến cho con người tiến bộ, giống như tự mãn khiến con người lạc hậu, vì thế con người nhất thiết phải thường xuyên duy trì trạng thái “hư linh”, mới có thể luôn luôn duy trì sự thanh tỉnh, duy trì sự khỏe mạnh.
19. Con người muốn khỏe mạnh, thì nhất thiết phải làm cho bên trong cơ thể có đầy đủ “khí” để “khí hóa” những thức ăn đi vào. Chỉ có như thế, thì bên trong thân thể bạn mới không tích tụ chất cặn bã, sẽ không có thức ăn thừa bị phóng thích và phân tán “hư hỏa” gây tổn hại các cơ quan nội tạng trong cơ thể bạn. Cái “hư hỏa” còn làm tổn hại “khí” của bạn. Vì thế, từ trên ý nghĩa đó có thể thấy, con người hiện đại bị bệnh, đại đa số là do ăn uống không điều độ mà thành.
20. “Nằm lâu hại khí”, “Ngồi lâu hại thịt”, “Nhàn hạ ắt khí ứ đọng”, lại dưỡng tĩnh quá độ, sẽ khiến công năng tiêu hóa của tì vị bị hạ thấp, chức năng của tạng phủ ì trệ, khí huyết lưu chuyển ứ tắc không thông thuận, lực đề kháng giảm, khả năng miễn dịch bị tổn hại, lượng đường, mỡ, axit uric, huyết áp tăng cao, dần dần lâu ngày, con người sẽ sinh bệnh, hơn nữa đa phần đều là thân thể yếu nhiều bệnh, ví dụ như cảm mạo thường xuyên, không muốn ăn, thần trí mỏi mệt, sốt ruột căng thẳng v.v…
21, Tục ngữ có câu “Linh cơ nhất động, kế thượng tâm lai” (nhạy bén hễ động, nảy ra sáng kiến). Chữ “cơ” nếu như có thể thực sự hiểu được thấu, thế thì ngộ tính của bạn được tính là đã khai mở rồi. Thầy giáo dạy người, bác sỹ trị bệnh, kỳ thực chính là đang chỉ ra cái “cơ” này của bạn, khiến cái “cơ” này của bạn khai mở. cái “cơ” này có lúc cũng gọi là “then chốt”. Đương nhiên cái “cơ” này khởi tác dụng là có điều kiện, cũng giống như khinh khí chỉ khi đạt đến nồng độ nhất định, thì gặp lửa mới có thể bùng cháy. Hãy nhớ kỹ, tác dụng của người khác đều là nhân tố bên ngoài, bản thân bạn mới thực sự là nguyên nhân bên trong.
22. Kỳ thực, rất nhiều sự phát hiện và phát minh chân chính, điều cần thiết [để sáng tạo ra chúng] không phải là cái gọi là hệ thống kiến thức trên sách vở; mà hoàn toàn ngược lại, một người chưa từng thông qua bất kể sự giáo dục nào một cách hệ thống, nhưng ngộ tính rất cao, là người có tư duy cởi mở, họ thường thực sự ngộ ra được chân tướng.
23. Con người tối kỵ nhất là loạn chữ, loạn tâm, khi đối ngoại có thể làm hỏng việc, đối nội có thể ảnh hưởng đến khí huyết, làm mất đi sự hoạt động thông thường. Phàm là khi vui buồn, tức giận, hoài nghi, lo lắng, đều là loạn, là căn nguyên của bệnh tật và đoản thọ, không chỉ khi dưỡng bệnh mới không nên loạn, mà khi bình thường cũng rất kỵ tâm loạn.
24. Giận nhiều hại gan, dâm nhiều hại thận, ăn nhiều hại ruột, ưu tư hại lá lách, phẫn nộ hại gan, sầu muộn hại tinh thần.
25, Khi đổ bệnh, đều do tâm suy yếu, ngoại tà thừa cơ xâm nhập. Mà khi tâm yếu khí nhược, mỗi khi do tâm tình hỗn loạn, thân thể không sung mãn, xuất hiện đủ loại bất an, Tham ăn, tham thắng, tham đạt, tham vui an dật, đều đủ để dẫn đến bị bệnh. Khi tham mà không được, thì dễ dẫn đến giận dữ. Hay giận dữ khiến tâm khí hỗn loạn, gan mật rối loạn, sáu mạch chấn động, ngũ tạng sôi trào, ngoài tà cùng lúc đó mà thừa cơ xâm nhập, đó là nguyên nhân của bệnh tật.
26, Người thường mong cầu trường thọ, trước tiên phải trừ bệnh. Mong cầu trừ bệnh, phải biết dụng khí. Muốn biết dụng khí, trước hết phải dưỡng sinh. Phương pháp dưỡng sinh, trước hết phải điều tâm (điều hòa tâm thái).
27, Con người do khí trong ngũ hành mà sinh, nhục thân lấy khí làm chủ. Khí bị hao tổn ắt sinh bệnh, khí ứ động không thông cũng sinh bệnh. Muốn trị bệnh này, ắt phải trị khí trước tiên.
28. Khí để thông huyết, huyết để bổ khí, tuy hai mà như một vậy. Phàm là người nhìn nhiều (sử dụng mắt nhiều) ắt tổn thương huyết, nằm nhiều tổn thương khí, ngồi nhiều tổn thương thịt, đứng nhiều tổn thương xương, đi nhiều tổn thương gân, thất tình lục dục quá độ ắt tổn thương nguyên khí, hại tới tâm thận. Như ngọn lửa cháy mạnh mẽ, bị hao tổn dương khí.
29. Trị bệnh về ngũ tạng, đầu tiên cần bổ khí. Thận là cấp bách nhất. Bổ khí nghiêm cấm động tâm, động tâm ắt nóng gan, các mạch bị chấn động, chân thủy sẽ hao tổn. Tâm bị động, sẽ dẫn khởi phong. Phong động ắt hỏa vượng, hỏa vượng ắt thủy can, thủy can ắt địa tổn.
30. Tâm định thần nhất, người được chữa bệnh cần tín tâm kiên định chuyên nhất, lưỡng tâm tương hợp, có thể trị khỏi bách bệnh, không cần dùng thần dược.
31. Bệnh của con người có thể chia thành 2 loại: một là kinh lạc cơ bản thông suốt nhưng khí không đủ. Biểu hiện là thường xuyên đau chỗ này chỗ kia, đó là vì khí của anh ta không đủ để khí hóa thức ăn, từ đó sản sinh ra tương hỏa (cũng gọi là hư hỏa), thuận theo kinh lạc di chuyển hỗn loạn trong thân thể, chỗ nào thông thì chạy qua chỗ đó, gặp phải chỗ bị tắc nghẽn, chỗ đó ắt sẽ bị đau. Những người như vậy uống một chút thuốc liền lập tức thấy công hiệu. Hai là kinh lạc không thông, khí không có chỗ nào để lưu lại trong thân thể. Biểu hiện bề ngoài không có chút dấu hiệu nào của bệnh tật, nhưng một khi đã phát bệnh thì rất nặng, hơn nữa loại người này dù uống thuốc gì thì hiệu quả cũng rất chậm, hoặc căn bản không có tác dụng gì.
Chủ phát gọi là cơ. Mũi tên muốn bay ra từ cánh cung, bắt buộc phải có cái cơ này để phát động. Bất kỳ sự tình nào cũng đều như thế, đều có một cái cơ, chỉ khi nào kích động cái cơ này, thì sự tình mới phát sinh, nếu chẳng kích động được cái cơ này, các điều kiện khác dẫu có nhiều đến mấy, cũng không có cách nào dẫn khởi sự việc. Vậy rốt cuộc cơ nó là cái thứ gì, nó chính là nhân tố then chốt để phát sinh mọi sự việc. Nó là điểm, không phải là diện. Thế nhưng nếu kích động được điểm này, thì có thể kéo theo cả một diện. Cho nên bệnh cơ là nhân tố then chốt nhất trong sự phát sinh, phát triển và biến hóa của bệnh, (cũng có thể nói, bệnh cơ một khi khai mở, bệnh trạng của người đó sẽ hiển hiện ra, người đó sẽ tiến nhập vào trạng thái tuần hoàn ác tính của bệnh, đối lập với bệnh cơ là “sinh cơ”. Khi sinh cơ mở ra, người đó sẽ tiến nhập vào trạng thái thuần tốt đẹp của quá trình hồi phục. Thực tế bệnh cơ và sinh cơ là hai phương diện của cùng một thứ, là một cặp âm dương. Khi bệnh cơ mở ra, sinh cơ sẽ đóng lại; khi sinh cơ mở ra, bệnh cơ tự nhiên cũng sẽ đóng. Đây gọi là pháp biện chứng).
32. Cảnh giới cao nhất của Trung y là dưỡng sinh, cảnh giới cao nhất của dưỡng sinh là dưỡng tâm. Cho nên, đối với dưỡng sinh mà nói, hạ sỹ dưỡng thân, trung sỹ dưỡng khí, thượng sỹ dưỡng tâm. Nhìn một cá nhân cũng giống như thế, nhìn tướng không bằng nhìn khí, nhìn khí không bằng nhìn tâm.
33. Tâm thần bất an, tâm tình nóng vội, là căn nguyên dẫn đến bị bệnh và tử vong. Phương pháp giữ tâm bình an, là bí quyết số một trong việc bảo vệ sinh mệnh. Tâm có thể chủ động tất cả. Tâm định ắt khí hòa, khí hòa ắt huyết thuận, huyết thuận ắt tinh lực đủ mà thần vượng, người có tinh lực đủ thần vượng, lực đề kháng nội bộ sẽ khỏe, bệnh tật sẽ tự tiêu tan. Cho nên để trị bệnh đương nhiên cần lấy dưỡng tâm làm chủ [yếu].
34. Phong hàn âm dương mùa hạ nóng ẩm, đều có thể khiến cho con người mắc bệnh. Ngộ nhỡ lực đề kháng yếu, [bệnh tật] sẽ thừa cơ xâm nhập. Người có thân thể yếu nhược thường nhiều bệnh, chính là cái lý này. Người giàu có điều kiện bảo hộ tốt, như ăn-mặc-ở v.v… Người nghèo có lực đề kháng, nếu như khí đủ thần vượng, lỗ chân lông dày khít, không dễ bị [bệnh tật] xâm nhập v.v… Người giàu ăn nhiều đồ béo ngọt, hại dạ dày hại răng. Người nghèo hay phải chịu đói, thức ăn không phức tạp, nhờ đó mà không bị bệnh ở ruột. Người giàu thường nhàn hạ, vì thế mà nhiều phiền muộn. Người nghèo lao động nhiều, nhờ đó mà bệnh tật ít. Người giàu không tạo phúc mà chỉ hưởng phúc, chỉ toàn tiêu phúc, tiêu cạn ắt nghèo. Người nghèo có thể cần kiệm, đó chính là tạo phúc, khi quả chín sẽ giàu có. Phàm là điều kiện bảo hộ ăn-mặc-ở đầy đủ thì lực đề kháng về tinh khí thần sẽ yếu. Điều kiện bảo hộ kém, lực đề kháng ắt sẽ mạnh.
35. Mới khỏi bệnh nặng, cần tránh cắt tóc, rửa chân, tắm gội
36. Con người đều muốn cầu trường thọ vô bệnh, thân thể luôn khỏe mạnh. Muốn thân thể khỏe mạnh, đương nhiên cần điều tiết tinh khí thần. Muốn điều tiết tinh khí thần, đương nhiên cần cự tuyệt sự can nhiễu của những thứ tà. Muốn chặn đứng tà, đầu tiên cần phải dưỡng tâm. Muốn dưỡng tâm, cần phải hóa giải tam độc tham-sân-si. Muốn hóa giải tam độc này, bắt buộc phải học tâm giới. Nhưng muốn giữ được giới về ngôn từ lời nói, không nói không làm những việc vô ích, cần phải khai [trí] huệ, vứt bỏ đi những điều ngu muội, và bắt buộc phải đạt được định trước tiên. Muốn đạt được định, tất phải học tản bộ.
37. Có thể tĩnh ắt phải là người nhân [nghĩa], có nhân [nghĩa] ắt sẽ thọ, có thọ chính là hạnh phúc thực sự.
38. Tất cả những pháp môn tu thân tu tâm, chỉ có bí quyết gồm 2 từ: một là phóng hạ, hai là quay đầu. Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật; Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ. Chỉ cần phóng hạ, quay đầu, người bệnh lập tức khỏi, người mê lập tức giác ngộ. Đây mới thực sự là người có vô lượng thọ.
39. Người mà tâm quá lao lực, tâm trí mệt mỏi thì gan sẽ vượng, tâm quá lao lực chính là tâm quá đầy, không rỗng. Tâm đầy, ắt không thể dung nạp can (mộc) sinh chi hỏa, tâm không dung nạp can sinh chi hỏa, khí trong gan ắt sẽ tích tụ lại nhiều. Gan là mộc khắc thổ, nên tì vị sẽ mắc bệnh, tiêu hóa sẽ không tốt, dinh dưỡng không đủ, tối ngủ sẽ không yên. Mộc lại khắc thủy, từ đó mà thận thủy bị thiếu, thủy không đủ ắt hỏa càng vượng, tâm thận có liên hệ tương hỗ, nên tâm khí càng yếu, bệnh phổi sẽ hình thành. Nội bộ có mối liên quan tương hỗ, một thứ động sẽ kéo theo toàn bộ đều động, một chỗ bị bệnh sẽ khiến toàn cơ thể bị bệnh. Người có cái tâm nhiễu loạn, chính là do cái tâm ngông cuồng đầy tham vọng, cho nên muốn trị bệnh cần làm an cái tâm này lại, an cái tâm này lại chính là chấm dứt vọng tưởng, để chấm dứt vọng tưởng cần có tâm sáng, tâm sáng chính là tự giác ngộ, mà để đạt được khỏe mạnh thì công hiệu nhất lại là ở tản bộ.
40. Tản bộ là phương pháp điều hòa tâm, tâm điều hòa ắt thần an (tinh thần an lạc), thần an ắt khí đủ, khí đủ ắt huyết vượng, khí huyết lưu thông, nếu có bệnh có thể trừ bệnh, nếu không đủ có thể bồi bổ, đã đủ rồi có thể gia tăng. Bệnh hiện tại có thể trừ, bệnh tương lai có thể phòng tránh. Điều tâm còn khiến cho thần minh (tinh thần minh mẫn sáng suốt), thần minh ắt cơ linh, người có tâm thanh tĩnh thật tuyệt diệu biết bao, họ có cái nhìn biện chứng, tác phong bề ngoài linh hoạt, thấu hiểu các nguyên lý một cách chính xác, liệu sự nhìn xa trông rộng, gặp loạn bất kinh, thấy cảnh đẹp không bị mê hoặc, có thể thông đạt mọi thứ, bản thân không có những ý kiến chủ quan sai lệch, đại cơ đại dụng, chính là từ đó mà ra.
41. Con người khi bị bệnh kỵ nhất là khởi tâm oán giận. Lúc này nhất định phải giữ sự bình an hòa ái, khiến cho tâm an định. Sau đó dần dần điều chỉnh, sức khỏe sẽ rất nhanh hồi phục. Tâm an thì khí mới thuận, khí thuận mới có thể trừ bệnh. Nếu không ắt tâm sẽ gấp hỏa sẽ thăng, can khí sẽ phải chịu hao tổn, làm bệnh tình càng thêm nặng. Tâm thân yên nhất, khí huyết toàn thân ấy, sẽ tự phát huy tác dụng khôi phục sức khỏe.
42. Giờ Tý (từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng) mất ngủ, thủy thận tất thiếu, tâm thận có liên hệ tương hỗ, thủy thiếu ắt hỏa vượng, rất dễ tổn hại tới [tinh] thần.
43. Trong khi ngủ nếu có tư tưởng, tâm không thể an, không được vừa nằm vừa suy nghĩ trăn trở, rất dễ hao tổn [tinh] thần.
44. Giờ Ngọ (từ 11 giờ đến 13 giờ) thuộc về tâm, giờ này có thể tản bộ 15 phút, nhắm mắt dưỡng thần, tâm khí ắt khỏe mạnh.
45. Dậy sớm trong khoảng giờ Dần từ 3 giờ đến 5 giờ, giờ này kỵ nhất buồn giận, nếu không ắt hại phổi tổn thương gan, hy vọng mọi người hết sức chú ý.
46. Tất cả sự nghiệp trong cuộc đời, đều lấy tinh thần làm căn bản, sự suy vượng cường thịnh của tinh thần, đều dựa vào sự tĩnh định bất loạn của tâm và thần, một chữ loạn, cũng đủ để làm trở ngại tới công việc.
47. Nhân sinh lấy khí huyết lưu thông làm chủ, khí ứ đọng có thể ngăn trở huyết, máu huyết bị ngăn trở có thể tích độc thành nhọt thành bệnh, thành u thành ung thư, tất cả đều là do huyết khí không thông tạo thành. Khí lấy thuận làm chủ, huyết lấy thông làm suôn sẻ. Căn nguyên bách bệnh đầu tiên đều do khí tắc, khí bị tắc bên trong, gan sẽ bị thương tổn trước tiên. Cách cứu chữa, chính là ở bí quyết hóa giải. Mà bí quyết hóa giải lại gồm có 2 loại: Một là tìm căn nguyên của nó, căn nguyên này chính là ở tâm, tâm không ắt tất cả tự động được hóa giải. Hai là dùng thuốc và châm cứu, trợ giúp hóa giải thêm bằng mát xa, sẽ giúp cho khí huyết lưu thông.
48. Dưỡng bệnh trị bệnh không thể đòi hỏi nhanh. Bởi vì nóng vội sẽ trợ giúp hỏa, hỏa vượng sẽ tổn khí, gây tác dụng ngược lại. Ngoài ra không thể tham nhiều, tham lam ắt tâm không kiên định mà nóng vội, huống hồ bách bệnh đều do tham mà ra, nên không thể lại tham mà làm cho bệnh tình càng thêm nặng là vậy.
49. Tâm thuộc tính Hỏa, Thận thuộc tính Thủy, Tâm Thận liên hệ tương hỗ. Hỏa cần giáng hạ, Thủy cần thăng lên, Thủy Hỏa tương tề, ắt khí trong thân thể sẽ bộc phát. Các bộ phận cơ thể vận động, có thể được mạnh khỏe. Điều này qua việc quan sát lưỡi có thể biết được. Lưỡi không có nước ắt không linh hoạt, vì chữ hoạt (活) là do bộ Thủy và chữ lưỡi (舌) ghép thành. Lưỡi có thể báo cáo tình trạng nặng nhẹ của các loại bệnh bên trong thân thể, từ đó mà phán đoán việc sinh tử.
50. Phương pháp tự cứu khi lâm đại bệnh: Một là không được sợ chết, tin tưởng rằng bệnh của mình, không những có thể khỏi, mà thân thể có thể trở nên đặc biệt khỏe mạnh, sống lâu trường thọ. Bởi vì bản thân cơ thể bản chất đã có năng lực này, không phải chỉ là suy nghĩ để tự an ủi. Hai là tin tưởng không cần dùng thuốc hoặc dựa vào bất kỳ thực phẩm dưỡng sinh nào, nhất định bản thân tự có khả năng trừ bệnh kéo dài tuổi thọ. Ba là bắt đầu từ hôm nay, phải quyết định không được lại động tới thân bệnh của bản thân, không được nghĩ tới bệnh của bản thân là bệnh gì, tốt hay xấu đều không được suy tính về nó, chỉ làm một người vô tư. Bốn là trong khoảng thời gian chữa trị, không được nghĩ tới công việc, cũng không được hối hận về công việc và thời gian đã mất, chuyên tâm nhất trí, nếu không sẽ lại chậm trễ có khi hỏng việc.
51. Phương pháp dưỡng tĩnh: an tọa (nằm) trên giường, đặt thân tâm nhất tề hạ xuống, toàn thân như hòa tan, không được phép dùng một chút khí lực nào, như thể không có cái thân thể này vậy, hô hấp tùy theo tự nhiên, tâm cũng không được phép dùng lực, một niệm khởi lên cũng là đang dùng lực. Để tâm đặt xuống tận dưới bàn chân, như thế có thể dẫn hỏa đi xuống, dẫn thủy đi lên, tự nhiên toàn thân khí huyết sẽ thông thuận.
52. Yếu quyết tu luyện: tĩnh lặng theo dõi, tránh dùng lực
Yêu cầu cụ thể: Không cho phép bất cứ bộ phận nào dùng khí lực dù chỉ một chút, bao gồm ý niệm, hô hấp, tứ chi, cần làm được: mắt không nhìn, tai không nghe, mũi không ngửi, lưỡi không nếm, miệng không nạp (ăn), tâm không nghĩ. Đó là điều kiện duy nhất. Nếu có bất cứ hành vi tư tưởng, nghe, cảm giác nào đều là đang dùng khí lực, thậm chí cử động ngón tay cũng là dùng khí lực. Thở mạnh cũng lại là dùng khí lực. Không bao lâu hơi thở sẽ tự nhiên trở nên an hòa, như thể không phải ra vào từ lỗ mũi, mà như thể 8 vạn 4 ngàn lỗ chân lông trên toàn cơ thể đều có động tác, hoặc nở ra hoặc khép lại, lúc này sẽ là trạng thái vô ngã vô thân vô khí vô tâm, tự nhiên tâm sẽ quy hồi vị trí bản nguyên. Cái gọi là dẫn hỏa quy nguyên, hay còn gọi là thủy hỏa ký tế, chính là bí quyết chung để điều trị bách bệnh.
53. Trường hợp chăm chút dưỡng sinh nhưng lại chết sớm, chiếm đến ba phần mười, vậy rốt cuộc là thế nào? Đó là vì quá yêu quý thân thể của mình. Vì cái thân xác này, sợ phải chịu xấu hổ, sợ bị nuông chiều, sợ chịu thiệt, sợ bị mắc lừa, lo trước lo sau, nhìn ngang nhìn dọc, lo lắng hốt hoảng, tính toán thiệt hơn … như thế, trái tim đó của anh ta cả ngày giống như quả hạch đào bị chó gặm đi gặm lại, làm sao mà có thể không chết chứ. Càng sợ chết, càng chết nhanh. Nếu bạn muốn dưỡng sinh, thì phải không sợ chết. Chỉ có không sợ chết, mới có thể cách xa cái chết.
Người thực sự không sợ chết, đi đường sẽ không gặp phải hổ, nếu có gặp phải, hổ cũng không ăn thịt anh ta. Đánh nhau không gặp phải đao súng, nếu có gặp, đao súng cũng sẽ không làm anh ta bị thương. Tại sao? Bởi vì anh ta không coi cái chết là gì, không sợ chết, cái chết cũng không có cách nào. Dưỡng sinh, mặc dù không phải là mục đích của việc tu đạo, nhưng người tu đạo đã nhìn thấu được sinh tử, cho nên sẽ không sợ chết nữa, vì đã không sợ chết nữa, nên cái chết cũng không còn là vấn đề. Quan sinh tử đã qua rồi, còn gì mà không thể vượt qua nữa? Vì thế, người tu đạo có thể trường sinh. Không nghĩ đến trường sinh, trái lại lại có thể trường sinh. Tâm luôn nghĩ muốn trường sinh, trái lại càng nhanh chết. Trường sinh không phải là mục đích của tu đạo, nó chỉ là hiện tượng đi kèm của tu đạo.
54. Người có bệnh, lại không cho rằng mình có bệnh, đây chính là bệnh lớn nhất của con người. Người mà biết bản thân mình có bệnh liệu có được bao nhiêu?
55. Người mà ngày nào nửa đêm canh ba cũng vẫn còn ở trên mạng, bản thân đó chính là điều đại kỵ của dưỡng sinh. Bao gồm cả một số người gọi là danh y cũng thế. Ngoài ra, tâm của họ còn luôn tính toán so đo, thử hỏi người như vậy thì đến bản thân còn không giữ nổi, thì làm sao chữa bệnh cho người khác đây?
56. Đừng tham những cái lợi nhỏ nhặt, cái lợi lớn cũng đừng tham. Một từ tham nhưng bao hàm cả họa. Tham lam, suy tính thiệt hơn sẽ khiến cho người ta mắc các bệnh về tim. Tham lam, suy hơn tính thiệt là biểu hiện của việc không hiểu Đạo Pháp về cái lý tự nhiên.
57. Đừng có ngày nào cũng nghĩ xem ăn cái gì để bổ âm, ăn cái gì để tráng dương. Hãy nhớ kỹ, vận động là có thể sinh dương; tản bộ thì có thể sinh âm. Âm là mẹ của dương, dương là được vận dụng bởi âm.
58. Người ta khi khí không đầy đủ, không được mù quáng mà bổ khí, nếu không ắt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Nếu như vì huyết không đủ, thì cần phải bổ huyết trước, bởi vì huyết là mẹ của khí, nếu không ắt sẽ thành dụng cụ thiêu đốt, làm cho nội tạng bị đốt cháy; nếu là vì kinh lạc không thông, thì có thể gia tăng khí huyết, đồng thời bồi bổ khí huyết. Như vậy mới có thể đạt được tác dụng của bổ khí.
59. Hoàn cảnh đối với người dưỡng sinh có tính trọng yếu là điều vô cùng rõ ràng. Đây chính là đạo lý mà vì sao người ở những vùng không khí trong lành nơi rừng sâu núi thẳm, có thể dưỡng khỏi những bệnh tật khó chữa. Bởi vì những vật chất tinh vi nơi rừng sâu núi thẳm (ion điện âm) sẽ thông qua trạng thái thả lỏng của con người trong khi hít thở sâu mà hấp thụ vào trong nội bộ nhân thể, từ đó mà tưới đều lục phủ ngũ tạng, khiến cho người ta có được sức sống mới. Ngoài ra còn có một điểm mà người thường không hề biết, đó chính là con người không chỉ hô hấp thông qua lỗ mũi, mà mỗi một lỗ chân lông trên thân thể con người đều có thể hô hấp, hơn nữa những gì chúng hấp thụ chính là tinh hoa của trời đất.
60. Con người trong trạng thái thả lỏng và tĩnh, hít thở sâu và chậm có thể cảm nhận được sự giao hoán những tinh khí của con người với trời đất: Trong khi hấp thụ khí, thực tế ngoại trừ lúc phổi đang hít khí vào, toàn bộ thân thể đều đang bài trừ khí bên trong thân thể ra ngoài, và đem khí của người phóng thích ra ngoài trời đất; còn khi phổi đang thải khí ra, thực tế con người đang hấp thụ tinh khí của đất trời thông qua các lỗ chân lông. Điều này đại khái chính là điều mà Lão Tử đã nói “Thiên địa chi gian, kỳ do thác dược hồ”.
61. Khi vận động có hai điểm cấm kỵ: một là không được vận động khi khí huyết không đủ; hai là không được vận động trong môi trường bị ô nhiễm.
62. Vận động có hai tác dụng: một là gia tăng tốc độ vận hành của khí huyết, thúc tiến quá trình bài xuất chất cặn bã trong thân thể ra ngoài; hai là khai mở lỗ chân lông trên da, để hấp thụ tinh khí của trời đất.
63. Ngộ tính là gì? Trí huệ là gì? Ngộ tính và trí huệ chính là sử dụng những phương pháp đơn giản nhất để xử lý, xem xét tất cả các sự vật. Nhưng có một số người thường hay gây nhiễu loạn luôn nhìn những sự việc đơn gian thành phức tạp, làm thành phức tạp. Phức tạp và đơn giản kỳ thực là một thứ, là hai mặt của một thứ. Điều người thông minh nhìn thấy là mặt đơn giản, điều người ngu xuẩn nhìn thấy là mặt phức tạp.
64. Con người không trị được bệnh, thì cần phải nhờ Thần trị; Thần trị không khỏi bệnh thì phải nhờ Phật trị. Phật giảng điều gì? Điều Phật giảng là tâm.
65. Bệnh viện và tòa án ngày nay đều như nhau, có động tới hay không cũng đều đưa cho bệnh nhân giấy thông báo phán quyết tử hình. Mà trong nhiều tình huống, phán tử hình cho nhiều người đáng lẽ không bị tử hình. Tại sao lại nói như thế? Lấy “ung thư” làm ví dụ, trong tâm con người ngày nay ung thư đồng nghĩa với tử hình. Kỳ thực nếu như chúng ta không gọi nó là ung thư, thế thì đối với bệnh nhân mà nói, chính là mang cho bệnh nhân một tia hi vọng, bằng như lưu lại cho họ một cơ hội sống. Cho nên tôi mới nói, bệnh nhân ung thư ngày nay có đến hơn một nửa là bị dọa chết, là bị áp lực tinh thần dày vò đến chết. Đồng thời cũng chính là bị bệnh viện hành hạ đến chết.
Bởi vì một khi bạn bị chẩn đoán thành bệnh ung thư, họ sẽ có thể không kiêng nể gì cả mà tùy ý xử lý bạn, điều trị mà không chết coi như mệnh của bạn lớn, điều trị mà chết, thì là do bệnh của bạn là ung thư. Sự thực mà nói, không có bệnh gì là trị không khỏi, chỉ là xem cái tâm của bạn có thể buông xuống được không, tất cả bệnh tật đều từ tâm sinh, tất cả bệnh tật cũng đều từ tâm mà trị. Chỉ cần bạn vẫn còn sống, bạn vẫn còn cơ hội. Tìm thấy được cơ hội này, áp dụng nó đối với việc trị bệnh ung thư, bạn sẽ khỏe mạnh trở lại.
66. Hiện nay ngoài xã hội đều nói về cạnh tranh, việc này đã khiến cho mọi trật tự bị đảo loạn, khiến cho con người bị dẫn dụ vào ma đạo. Cạnh tranh là gì? Cạnh tranh chính là khiến người ta bị cuốn vào cảnh giới tham dục vô hạn. Một mặt bạn đề xướng cạnh tranh, một mặt bạn nói về những gì là xây dựng và ổn định xã hội, đây chẳng phải là điển hình của việc tự lừa mình dối người sao.
67. Căn cứ vào nguyên lý âm dương tương hỗ mà xét, thanh khiết và vẩn đục là hấp dẫn lẫn nhau. Cho nên con người ăn vào những thứ tươi mới tất sẽ có tác dụng tương hợp với những vật chất bẩn trong cơ thể, từ đó mà bài trừ những thứ ấy ra ngoài.
68. Những vật chất vẩn đục sinh ra là do ăn vào những thực phẩm không sạch, nhưng chủ yếu là do ăn quá nhiều, cơ thể không thể tiêu hóa được khiến đống thức ăn thừa đó biến thành cặn bã.
69. Tùy kỳ tự nhiên là cảnh giới cao nhất của dưỡng sinh. Một người khi sinh ra, vận mệnh của anh ta căn bản là đã có định số rồi. Anh ta nên làm gì, không nên làm gì, nên ăn gì, không nên ăn gì, nếu như có thể thuận theo vận số của bản thân mà làm, thì sẽ có thể được bình an vô sự. Người có ngộ tính sẽ phát hiện ra được, sẽ biết được vận mệnh của bản thân, biết được họ nên làm cái gì, không nên làm cái gì. Cho nên dưỡng sinh tuyệt đối không đơn giản là bắt trước, bảo sao làm vậy.
Không cần hâm mộ người khác, cần tìm ra ngộ tính của bản thân từ trong tâm của chính mình. Vậy con người làm thế nào mới có thể phát hiện bản thân đã đạt được tùy kỳ tự nhiên hay chưa? Kỳ thực điều này quá dễ, khi bạn có bệnh, bạn cảm thấy không thoải mái, bạn thấy không được tự tại, chứng tỏ bạn đã đi ngược lại tự nhiên rồi. Cần làm được thuận theo tự nhiên của đại tự nhiên bên ngoài, ngoài ra còn phải thuận theo lẽ tự nhiên của vận mệnh bên trong bản thân, hai điều này đều không thể thiếu được.
70. Rất nhiều người khi nghe thấy bác sỹ tuyên bố bản thân bị mắc trọng bệnh, thường đều sẽ biểu hiện ra dáng vẻ không vui, hi vọng có thể dùng phương pháp cắt, gọt, độc, giết v.v… để loại bỏ căn bệnh đó, tuy nhiên, bệnh tật thực sự không phải sản sinh từ đó? Trên thế gian tuyệt đối không có hiện tượng “đang khỏe mạnh đột nhiên sinh bệnh”. Lấy cảm mạo làm ví dụ, nếu thực sự yêu cầu bệnh nhân tự làm kiểm điểm, thông thường bệnh nhân sẽ cho biết, bản thân trước khi cảm mạo, đã trải qua vài lần thức thâu đêm; có người sẽ nói rằng bản thân bị trúng gió lạnh, bị dính mưa ướt; có một số người lại nói do áp lực công việc quá lớn, thường xuyên đau đầu, mất ngủ. Kỳ thực, những hiện tượng như thế, đều có thể là nhân tố dẫn tới cảm mạo, nói thêm nữa, nếu như độ mẫn cảm và tính cảnh giác của con người đầy đủ, tự nhiên sẽ có thể đạt được mục đích “đề phòng tai họa”.
71. Khoa học chân chính là gì? Chính là nhân duyên quả báo. Không tin nhân quả, thì không phải là khoa học chân chính.
72. Cái tâm không sợ chịu thiệt, không sợ bị người khác chiếm lấy lợi ích. Hay nói một cách khác là bạn có thể chịu thiệt, người khác muốn lấy mạng của bạn mà bạn vẫn có thể buông xả, bạn đều có thể cho họ hết, hơn nữa tự bản thân trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều không ham lợi ích, khi đó cái tâm của bạn có thể sẽ không định (tĩnh lặng) sao? Con người trên thế gian có ai làm được? Nhưng Phật là có thể làm được.
73. Sau khi con người nắm vững được phương pháp về sức khỏe, họ sẽ thực sự hưởng thụ được một trạng thái tự tin khi không còn lo sợ mắc bệnh. Cái loại cảm giác này thật tuyệt, hy vọng rằng bạn và chúng tôi đều có thể có được trạng thái tự tin đó.
74. Khi học vấn thâm sâu ý chí sẽ bình lặng, tâm định ắt khí sẽ yên. Cho nên đối với một người đắc Đạo mà nói, quan sát một người, không phải là một việc quá khó khăn, đây cũng là kết quả của tướng tùy tâm chuyển.
75. Danh là điều khó phá vỡ nhất trong ngũ dục, sắc đứng thứ hai, tiếp theo là tài, sau đó là ăn và ngủ. Tâm về danh không bỏ, thì không có cách nào nhập Đạo.
76. Khởi nguồn của bách bệnh, đều bắt nguồn từ việc bị gió độc thừa cơ xâm nhập. Nếu như thân thể khí suy nhược, khả năng phòng vệ kém, hoặc ưu tư sợ hãi, đắm chìm trong tửu sắc, làm việc quá lao lực, chân khí sẽ bị hao tổn từ đó tà ngoại thừa cơ tấn công.
77. Trị bệnh về ngũ tạng, đầu tiên cần phải bổ khí. Khi bổ khí cấm động tâm, tâm động ắt gan vượng, gây chấn động mạch, chân thủy sẽ hao tổn. Tâm là quạt, sẽ dẫn khởi gió. gió động ắt hỏa vượng, hoặc vượng ắt thủy can, thủy can ắt địa tổn.
78. Đối với bác sỹ mà nói, tâm định thần nhất, người được chữa bệnh có tín tâm kiên định, lưỡng tâm tương hợp, có thể trị được bách bệnh.
79. Qua trường hợp Hitler đi vòng qua phòng tuyến kiên cố Maginot của quân đội liên minh, tôi ngộ ra rằng: để đối phó với một số bệnh cứng đầu, không thể tấn công cứng nhắc từ chính diện, cần đột phá từ những phương diện khác có liên quan. Chẳng hạn như việc điều trị các bệnh cứng đầu như bệnh thận, bệnh gan, có thể đạt được hiệu quả thông qua việc điều chỉnh phổi và lá lách v.v…
80. Trung Dung, là nguyên tắc căn bản của dưỡng sinh. Khí huyết trong cơ thể người cũng là một cặp âm dương, huyết là âm là thể, khí là dương là dụng. huyết là mẹ của khí, khí là chủ tướng của huyết. Khí không đủ, dễ mắc các bệnh do ứ trệ tạo nên như mọc u, tắc động mạch; khí quá độ; dễ mắc các bệnh về xuất huyết não. Cho nên, chỉ khi khí huyết cân bằng, con người mới có thể khỏe mạnh.
81. Con người chỉ khi ngộ ra được cái gì là “tự nhiên”, mới được coi là đắc đạo. Biết được tự nhiên, sau đó mới có thể tùy kỳ tự nhiên. người này chính là Thần nhân. Hiểu được âm dương, hiểu được tùy kỳ tự nhiên, bạn nhất định sẽ trở thành lương y đại đức.
82. Cái gì là tự nhiên, tự nhiên chính là bất kỳ sự vật gì đều có hai mặt âm dương, bất kỳ sự vật nào đều cần trải qua quá trình Sinh (sinh sản), Trưởng (tăng trưởng), Thu (thu hoạch), Tàng (tàng trữ). Bạn thuận theo quá trình này, sử dụng nguyên lý tương sinh tương khắc của ngũ hành để điều tiết sự cân bằng của bệnh nhân, làm sao mà không trị được khỏi bệnh chứ.
83. Đơn giản và phức tạp là một cặp âm dương, sự tình càng phức tạp, thường thường sử dụng biện pháp đơn giản nhất lại có thể giải quyết. Cũng đồng dạng như thế, một vấn đề nhìn tưởng chừng đơn giản, để giải quyết nó bạn sẽ thấy thật không dễ dàng, bạn phải phó xuất nỗ lực rất lớn cũng không nhất định giải quyết được. Điều này giống cương nhu vậy, cực nhu có thể khắc chế cương, cực cương thì nhu cũng không thể chống. Cho nên, chúng ta khi giải quyết vấn đề cần có lối suy nghĩ rằng, gặp phải vấn đề phức tạp nên tìm biện pháp đơn giản để giải quyết, gặp phải vấn đề đơn giản đừng vội coi thường nó, cần phải chú trọng đủ mức tới nó.
84. Chúng ta hãy thử xem trong thế giới này có phải là có tồn tại đạo lý đó hay không. Liệu có được mấy người có thể tùy kỳ tự nhiên trong việc ăn ngủ, có được mấy người có thể tuân thủ tự nhiên. Bạn tuân thủ không được, vì sao? Bởi vì nó quá đơn giản, chính vì quá đơn giản, cho nên bạn không dễ mà có thể tuân thủ. Đây gọi là phép biện chứng.
85. Cái gì là cân bằng? Cân bằng chính là sự tồn tại dựa vào nhau và khắc chế nhau của âm dương, phương diện nào quá độ hoặc quá kém cũng sẽ khiến mất đi sự cân bằng. Tổn thương nguyên khí là gì, mất đi sự cân bằng chính là tổn thương nguyên khí. Thường xuyên ở trong trạng thái cân bằng, nguyên khí ắt sẽ được bảo trì tốt, con người sẽ lão hóa chậm.
86. Đạo về âm dương chính là sự tương hỗ dựa vào nhau và chuyển hóa lẫn nhau của hai phương diện mâu thuẫn đối lập. Bất kỳ một cặp mâu thuẫn nào, nếu một bên thoát ly khỏi bên kia, không còn chịu sự ức chế của đối phương nữa, thì thời điểm mà nó bị diệt vong cũng không còn xa. Bạn thử nhìn xem, xã hội ngày nay, các lãnh đạo đều không thích bị khống chế, thích được độc lập tự do, thích làm theo ý mình, tham ô hối lộ, thế thì kết quả là gì đều có thể tưởng tượng ra được. Âm và dương chính là như thế. Trong đại tự nhiên, khi một sự vật xuất hiện, đều có mang theo nhân tố do nó sinh ra, nhưng đồng thời cũng sẽ xuất hiện một nhân tố để khắc chế nó. Đó chính là đạo lý ngũ hành tương sinh tương khắc, cũng là đạo lý dựa vào nhau, ức chế lẫn nhau của âm dương. Cho nên đạo lý dưỡng sinh cũng vậy, khi bạn bị bệnh, luôn tồn tại một nhân tố khiến bạn sinh bệnh, đồng thời cũng sẽ có một nhân tố ức chế nó, có thể giúp bạn tiêu trừ nhân tố gây bệnh. Tương tự như thế trong thế giới tự nhiên, tại chỗ có tồn tại rắn độc, chắc chắn khu vực xung quanh sẽ có tồn tại loại thảo dược có thể giải độc.
87. Cái gì gọi là đắc ý vong hình (vì đắc ý mà quên đi dáng vẻ vốn có của mình)? Anh ta đã mất đi sự khống chế, mất đi sự ức chế của mặt âm, cho nên kết quả nhất định là …. cũng như thế con người không nên để tinh thần sa sút, vì như thế sẽ mất đi sự ức chế của mặt dương đối với họ.
88. Làm thế nào để có đại trí huệ? Nếu không có tấm lòng quảng đại, ở đâu mà có đại trí huệ chứ.
89. Tục ngữ có nói, sống đến già, học đến già. Học tập cũng cần phải hợp thời, đến tuổi nào thì học những điều mà ta nên học vào giai đoạn ấy, nếu không ắt sẽ không hợp thời, không tùy kỳ tự nhiên. Nhưng hãy xem sự giáo dục của chúng ta ngày nay, từ nhà trẻ đến đại học, có bao nhiêu điều là đáng để học. Lúc còn nhỏ nên học cái gì. nên học đạo đức, học hiếu đạo, tiếp theo là học nhận biết chữ, dấu chấm câu, tiếp theo là học cách làm việc. Đến tuổi thanh niên thì học cách làm sao để sống tốt giáo dục con cái tốt, làm cho gia đình hạnh phúc. Đến tuổi trung niên, học tập đạo dưỡng sinh. Đến những năm tuổi già, học cách buông bỏ tâm thái, an hưởng tuổi già. Ngành giáo dục cần học gì, chính là học những thứ này.
90. Tình chí (7 loại tình cảm của con người) đối với bệnh tật có mối tương quan mật thiết với nhau, có một số bệnh tật là do tình chí gây ra, bạn dùng thuốc trị liệu, trị mãi mà vẫn không khỏi, đối với loại bệnh tật này, muốn cởi chuông thì phải tìm người buộc chuông. Ngũ chí có thể gây bệnh, ngũ chí cũng có thể giải trừ bệnh.
91. Dưỡng sinh có một điều rất trọng yếu, đó là không được sợ chết. Người sợ chết dương khí không đủ, dương khí không đủ, tử thần sẽ tìm ra được bạn. Đây chính là điều mà đạo gia giảng, người tu luyện cần có một khí chất anh hùng. Nhân, trí, dũng không thể thiếu một trong ba.
92. Khi nào bạn lấy học vấn lý giải được nó là vô cùng đơn giản và bình dị, lúc này bạn mới là chân chính đạt được một trong tam muội. Nếu như bạn vẫn còn cảm thấy nó là bác đại tinh thâm, thâm sâu không thể đo lường, chứng tỏ bạn vẫn chưa nắm được tinh túy của nó, mới chỉ nhìn thấy phần tươi tốt của lá cây, mà vẫn chưa nhìn thấy được căn bản của nó, lúc này bạn mới chỉ ở giai đoạn “có”, vẫn chưa đặt được cảnh giới của “vô”. Tất cả đều không thoát được âm dương, vạn sự vạn vật đều không thoát khỏi được âm dương. Căn bản của điều này chính là âm dương. Biết được một điều này, mọi sự đều có thể hoàn thành.
93. Tập trung tinh thần định khí, quên đi cả bản thân và mọi sự vật. Đó là cốt lõi của dưỡng sinh
94. Chủ minh ắt hạ an, theo đó để dưỡng sinh ắt sẽ thọ, tình thế sống chết cũng không nguy hiểm, thiên hạ ắt sẽ hưng thịnh. Chủ bất minh ắt thập nhị quan gặp nguy, khiến cho đạo tắc nghẽn không thông, thực thể liền bị thương tổn, theo đó để dưỡng sinh ắt sẽ mang họa, người trong thiên hạ, và gia tộc này sẽ gặp đại nguy, nghiêm cấm nghiêm cấm!
95. Ứng dụng của ngũ hành tương sinh tương khắc: Phàm là do ngũ tạng hoạt động thái quá sẽ gây ra bệnh tật, đều có thể dùng phương pháp ngũ hành tương sinh tương khắc để trị. Giống như thế, phàm là vì ngũ hành không đủ dẫn khởi bệnh tật thì đều có thể dùng phương pháp ngũ hành tương sinh tương khắc để giải quyết. Đây là nguyên tắc căn bản của phép vận dụng ngũ hành.
96. Người hiện đại thường chú trọng vào phương diện truy cầu đề cao chất lượng cuộc sống, hậu quả của loại truy cầu này rất đáng sợ. Cần biết, dục vọng của con người đối với vật chất là không có giới hạn. Khi mà loại dục vọng này không được khống chế, cũng tương đương sự thống khổ không có giới hạn của chúng ta. Kỳ thực, vật chất có thể đem lại sự hưởng thụ, thì tinh thần cũng có thể; thuốc có thể trị bệnh, thì phương pháp trị liệu tâm lý cũng có thể làm được. Cho nên, chúng ta dùng cả cuộc đời để truy cầu tài phú, thì chi bằng hãy dùng quãng thời gian ấy để bồi dưỡng một loại tâm thái tốt, khiến cho tinh thần của chúng ta đạt tới một loại cảnh giới siêu phàm.
97. Sau khi con người nắm vững được phương pháp về sức khỏe, họ sẽ thực sự hưởng thụ được một trạng thái tự tin khi không còn lo sợ mắc bệnh. Cái loại cảm giác này thật tuyệt, hy vọng rằng bạn và chúng tôi đều có thể có được trạng thái tự tin đó.
98. Thân thể của chúng ta là một cơ thể có đầy đủ trí tuệ và chức năng, thân thể của chúng ta có rất nhiều “lính gác” như: răng, ruột thừa, a-mi-đan v.v… Khi thân thể chúng ta có hiện tượng dị thường (thông thường là “thăng hỏa”), những lính canh này sẽ lập tức phản ứng thông báo tới đại não. Người thông minh lúc này nên điều tiết lại tâm thái, kiểm điểm bản thân, để thân thể cân bằng hài hòa trở lại. Vậy mà hiện nay Tây y đều làm những việc gì? Bạn bị đau đúng không, tôi sẽ cắt bỏ bộ phận bị đau của bạn. Hiện nay thậm chí còn có người, phát minh ra một loại máy, bạn bị viêm mũi dị ứng sẽ phải hắt xì hơi đúng không? Vậy tôi sẽ đốt cháy khu vực thần kinh mẫn cảm trong mũi của bạn, như thế sau này mũi bạn có bị kích thích gì đi nữa cũng sẽ không bị hắt hơi. Hậu quả của những việc làm như thế của Tây y chính là sau này nếu chúng ta lại tiếp tục bị bệnh, thì bộ phận bị cắt bỏ chính là lục phủ ngũ tạng của chúng ta.
99. Hãy nhớ kỹ, khi chúng ta ngẫu nhiên bị đau bụng, hắt hơi, ho, phát sốt v.v… đều là hệ thống phục hồi thân thể của chúng ta đang hoạt động, đừng có quá lạm dụng thuốc khi vừa mới xuất hiện bệnh trạng, nếu không chính thuốc ấy sẽ phá hoại chức năng phục hồi thân thể của bạn, khi mà chức năng phục hồi của bạn bị suy yếu hoặc mất đi, thế thì bạn đã giao vận mệnh của mình cho thuốc rồi. Nên nhớ rằng, nếu bệnh trạng không nghiêm trọng, biện pháp tốt nhất là dưỡng tĩnh, an tâm tĩnh khí có thể khiến hệ thống sữa chữa của bản thân hoàn thành được công tác phục hồi. Cho nên, mỗi một người trong chúng ta cần thận trọng khi dùng thuốc, để cho hệ thống hồi phục chức năng của cơ thể được khôi phục, đây mới chính là đạo chân chính trong việc giữ gìn sức khỏe.
100. Rất nhiều trọng bệnh hoặc bệnh hiểm nghèo, đều chỉ bắt nguồn từ một lý do: Hận. Khi mà cái hận này biết mất, bệnh ắt cũng theo đó mà tiêu trừ. Trong thế gian này điều khó giải quyết nhất chính là hận thù kéo dài, chính vì không hóa giải được cái hận đó, mới có những bệnh không thể trị khỏi được.
Nguồn: NTDTV
Mấy hiện tượng của kim nam châm trong la bàn mà thầy phong thuỷ quy chúng thành “bát kỳ”:
Nhái đường: Cự dã, nổi mà không ổn định, không quay về hướng trung tuyến chứng tỏ dưới đất có khả năng có đồ cổ.
Nhị đoài: Đột dã, kim nằm ngang, không quay về tý ngọ chứng tỏ gần đấy có đồ kim loại.
Tam khỉ: Trá dã, kim chuyển động không ổn định.
Tứ thám: Kích đầu dã, nửa chìm nửa nổi.
Ngũ đầu: chứng tỏ dưới đất có đồ đồng.
Lục toại: Bất thuận dã, kim nổi và chỉ lung tung.
Thất trắc: Bất chính dã, chếch Đông hoặc chếch Tây.
Bút chính: Thu tạng trung tuyến.
Bảy hiện tượng đầu không bình thường, không thể đoán định vị trí chính xác cho nên không cát. Chỉ có hiện tượng cuối cùng là bình thường có thể đoán được chính xác vị trí nên là cát.
Ngoài ra, khi không dùng đến cũng phải đặt la bàn ở nơi bằng phẳng. Nếu kim nam châm bị lệch về một hướng như lệch chính Nam hoặc chính Bắc thì rất dễ khiến kim rơi vào trạng thái không ổn định, từ đó sẽ không có hiệu quả. Đồng thời phải chú ý gần nơi để la bàn không được để những vật có từ trường hoặc điện lưu, nếu không kim nam châm cũng sẽ mất tác dụng.
![]() |
![]() |
![]() |
► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo khoa học chuẩn xác |
BÀN TAY TẦM THƯỜNG
Bàn tay tầm thường là bàn tay của những người kém về văn hoá, sống một cuộc đời có thể nói là mộc mạc, thiếu thông minh, cũng như rất chậm hiểu.
Loại bàn tay này có kiểu dáng thô kệch, dày cộm. Ngón to và ngắn, so với lòng bàn tay dường như những ngón ấy không thể nảy nở được, hay nói một cách khác, nó có vẻ sần sượng, móng chè bè ra.
Đây là loại bàn tay của những người suốt đời làm lụng nặng nhọc. Người có bàn tay này không khi nào biết tự vấn, cũng không hề có một sáng gì. Gần như không thiết gì đến vẻ đẹp, vẻ đẹp không làm lay chuyển được họ.
Tuy nhiên họ rất giàu về tình cảm gia đình và lúc nào cũng đặt nặng vấn đề tin tưởng ở vùng thiêng liêng.
Đừng lầm tưởng họ là những người hung bạo, trái lại chính người của bàn tay này lại là những người nhân từ và bản tính rất tốt, không có tánh ganh tị, rất mau nguôi giận và ít chịu oán hờn.
BÀN TAY HÌNH NÓN
Bàn tay hình nón, hay bàn tay hình tam giác cũng thế, nó lớn ở dưới lòng bàn tay và thon thon ở các ngón, thông thường gọi là ngón tay mũi viết. Đầu ngón tay tròn trịa và nhỏ, cũng có khi nhọn, trông có vẻ mỏng mảnh.
Bàn tay mũi viết rất dễ cảm nhưng âm thầm. Nếu lòng bàn tay ướt và mềm mại, là người dồi dào thầm kín, chỉ tiết lộ với người thân thiết bằng lời mà không bao giờ bằng hành động.
Bàn tay mũi viết còn là bàn tay mau hiểu, sáng suốt và ưa tìm tòi, thường thường khám phà một việc gì rất mau. Sáng chói ở xã hội và thích sống chung với những người khác, ưa hoạt động xã hội, thích được nhiều người biết và ưa được hoan nghinh. Về tình ái là người nhẹ dạ non lòng, rất giàu nhân ái đến có thể dễ bị lừa.
Bàn tay mũi viết rất thích sang trọng và huy hoàng, dễ bị tâng bốc và luỵ vì sự tang tụng.
Bàn tay này cũng có thể gọi là bàn tay "mỹ thuật", đa số nhà làm mỹ thuật, thi sĩ, điêu khắc, hoạ sĩ, nhạc sĩ đều có bàn tay này.
Một trường hợp đặc biệt là bàn tay mũi viết có được những đặc điểm thiết thực nhứt của nó, nghĩa là người của bàn tay mũi viết không mộng mơ mà thực tế, khi bàn tay này có những chỉ sâu, đậm và sắc sảo, tuyệt nhiên không có màu sắc mượt ướt như những bàn tay mũi viết khác.
Trường hợp bàn tay mũi viết loại này là trường hợp lừng lẫy nhứt trong cuộc đời của người "mỹ thuật", trái hẳn với những sự mềm yếu của bàn tay mũi viết ướt át.
BÀN TAY VUÔNG
Bàn tay vuông là bàn tay thực tế, ngược lại của bàn tay mũi viết một cách rõ rệt, Từ lòng bàn tay, các ngón tay và những đầu ngón đều có một hình thức như nhau, nghĩa là vuông hay chữ nhật. Muốn phân tích rõ ràng hình dáng của bàn tay nên chận ngang cườm tay và dưới phần cuối các ngón tay, lòng bàn tay từ đó sẽ có một hình vuông hay hình chữ nhật không sai, các ngón tay hầu như bằng với chiều đứng của lòng bàn tay.
Bàn tay vuông là bàn tay của người thực tế, có ngăn nắp, lúc nào cũng sắp xếp cuộc đời thật cẩn thận. Nếu trong lòng tay hay ở các ngón mà không có một ấn tượng gì, hay một chỉ nào phản lại, thì bàn tay vuông là bàn tay thành công trong cuộc đời nhưng rất chậm và tuần tự, do chính sự mẫn cán mà không do bất ngờ. Về phương diện xã hội, bàn tay vuông là bàn tay hay cãi vã, chấp trách, ít rõ ràng, nhưng lương thiện quá mức, đối xử với kẻ tuỳ thuộc rất khoan dung, đối với người trên trước thật thẳng thắn. Bàn tay vuông là bàn tay của người thừa hành có hiệu quả, và người ban hành rất cương quyết.
Điểm kém nhất của bàn tay vuông là không bao giờ chịu thưởng thức mỹ thuật, hay ít ra món mỹ thuật ấy đem lại quyền lợi gì, người bàn tay vuông mới chịu nhìn nhận mỹ thuật. Bàn tay vuông lại ưa chống đối với tiến bộ xã hôi, chế nhạo những phát minh khoa học và cũng xem thường sự huyền bí nữa.
Tóm lại, bàn tay vuông lúc nào cũng tự tin ở mình, lương thiện và ngăn nắp, nhưng say mê lợi lộc, ngay cả tình yêu, bàn tay vuông cũng đặt trên phương diện thực tế: lợi trước, yêu sau. Có thể nói đó là bàn tay khó cám dỗ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Chùa Quang Lãng, tên thường gọi là chùa Giáng, ở huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ, là nơi trụ trì của Đệ Tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích Phổ Tuệ.
Thời điểm ra đời của chùa hiện không có thư tịch ghi lại, nhưng trước năm 1900, chùa được dựng ở ngoài bãi sông Hồng, cho tới năm 1900 thì có nguy cơ sạt lở, cho nên dân làng hai xã Quang Lãng và Mai Xá đã công đức và mời Pháp sư Thích Nguyên Uẩn tới trụ trì và dỡ chuyển chùa đến nơi hiện nay.
Khi đã xây dựng quy củ, Pháp sư tập hợp tăng ni trong Sơn Môn Pháp Phái để thành lập đạo tràng lấy tên là Viên Minh Pháp Hội giảng dạy tu học Phật pháp. Bởi thế, nơi đây còn được gọi là “Viên Minh tự”.
Năm Nhâm Dần 1902, Pháp sư Thích Nguyên Uẩn mở Đạo tràng Viên Minh Pháp Hội, quy tụ được hơn 100 tăng ni giảng dạy và tu học trong 12 năm (1903 – 1915). Đạo tràng đã biên soạn nhiều kinh sách, khắc ván in để quảng bá Phật pháp.
Khi còn tu học ở Tổ đình Bồ Đề, Ngài đã chép lại bộ kinh Hoa Nghiêm 81 quyển, vẽ tranh minh họa “Thất sứ cửu hội” quang cảnh Đạo tràng những nơi giảng đàn của Đức Phật Thích Ca, khắc ván kinh Pháp Hoa 2 tập 7 quyển, bộ Nhật tụng 2 tập, Luật Nghi phạm thụ giới 3 quyển, chép giúp chốn Tổ Tế Xuyên bộ Quy nguyên trực chỉ 3 tập, …
Hiện nay, tại chùa Giáng còn lưu giữ tạng ván kinh điển: Kinh 42 chương, kinh Phật Di giáo, Cảnh sách Quy Sơn giảng giải, kinh Vô lượng nghĩa, Khởi tín luận, Lục trúc song, Điệp văn Bồ đề, …..
Hiện nay Viên Minh tự được trùng tu mới phía trước, khang trang và tĩnh mịch.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: thôn Ái Mộ, phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ba nữ thần: Liễu Hạnh (con gái Ngọc Hoàng), La Bình (con gái thần núi Tản Viên), Lê Ngọc Hân (vợ vua Quang trung).
Nội dung: Hội đền Ghềnh năm nào cũng thu hút đông đảo du khách thập phương. Sáng mồng 6/8, vào chính hội. Hội làng tươi vui trong đám rước kiệu bát cống của trai tân và kiệu võng của các cô gái đồng trinh.
Không thể thiếu trong các nghi thức của hội đền Ghềnh là việc đi thuyền lớn ra giữa sông Hồng, hương khói cho mẹ con nàng Ngọc Hân và rước nước thánh về đền. Bao năm tháng đã qua kể từ ngày tro xương của mẹ con nàng Ngọc Hân rải xuống khúc sông này nhưng những người dự hội vẫn không nén được xúc động khi rải tro giấy vàng xuống sông cho người xưa.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Chúa Liễu, Nguyễn Công Trứ.
Nội dung: Hội đình có tế lễ dâng hương thờ thần phật.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: phường Đông Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo, bà Bùi Thị Tự Nhiên - người giữ kho lương cho quân đội Đại Việt và có công xây dựng làng Phú Xá.
Nội dung: Nhân đây chúng tôi xin trích đoạn về cách thức chơi tam cúc điếm và một số lời xướng của một ván chơi do Phạm Khương ghi lại theo lời kể của bà Đỗ Thị Sửu, 72 tuổi, thôn Thượng Đoạn, xã Đông Hải huyện An Hải – Hải Phòng.
1. Số người chơi tam cúc: Bốn người
2. Người xướng ( nhà cái) có giọng để xướng( như hát). Phải có vốn thuộc nhiều thơ để gieo vần. Nên có hai người để thay nhau xướng, đỡ mệt và trong khi một người xướng thì người kia chi bài và phát thẻ.
3. Dụng cụ chơi: Hai cỗ bài tam cúc, 4 trống con ( trống khẩu), dùi trống cho 4 người đánh, 36 que thẻ, trong đó 32 que cho 32 quân bài và 4 que của làng để kết. Cộng là 36 que.
4. Cách chơi: Nhà cái chia bài xong. Bắt cái: một trong 4 người chơi, bắt cái để xem ai được cái thì đánh trước.
Người xướng:
Xăm xăm mới bước chân vào
Bây giờ cái bắt đĩa nào làng ơi!
Cái bắt đĩa này. Sau đó, một trong bốn người chơi bắt cái.
Người xướng:
Cái bắt nhất pháo làng ơi
Bắt cái nhất pháo làng thời gọi cho.
Người được cái đánh trước. Nếu đánh một cây thì người đó đánh một tiếng trống để mọi người chơi ra quân bài. Rồi người đánh đưa bài cho người xướng để quân bài ai cao hơn thì ăn. Nguyenếu đánh 2 cây, 3 cây, 4 cây thì đánh 2,3,4 tiếng trống để mọi người chuẩn bị đánh.
Đầu tiên nhà cài gọi một cây, người xướng:
Xa xôi ướm hỏi dông dài
Cái bắt nhất pháo gọi thời một cây
Sa chân nhỡ bước vào đây
Cái lên nhất pháo một cây tướng bà
Nếu ai không có quân bài cao hơn thì phải chui. Và nhà cái lại gọi 3 cây, đánh 3 cây gõ 3 tiếng trống và đưa bài cho người xướng, người đó biết ngay đó là 3 cây xe, pháo, mã hồng, liền xướng cho làng nghe:
Trông lên đỉnh núi trăng tà
Trở về trống lại gọi thời 3 cây
Điều Thuyền, Lão Bá, Quan Công
Kíp truyền xe, pháo, mã hồng bộ ba.
Và cứ như thế,cuộc chơi cho đến hết bài. Khi đánh hết ván người xướng cất giọng:
Hết hội làng ơi
Làng thì tính thẻ để tôi thu bài
Thẻ dùng để tính mỗi người được bao nhiêu quân thì chia từng ẩy thẻ. Ai không có thẻ (thua) thì phải bỏ tiền ra trả cho người được. Ví dụ: người được 8 quân thì được 8 thẻ, người được 2 cây thì phải trả 6 thẻ…
Cách tính bài để chia thẻ. Ai thừa quân thì được, ai thiếu quân thì phải chia tiền.
Khi có những ván kết( kết thường được tính gấp đôi), nguyenếu kết tốt thì được tính gấp 4 lần. Trường hợp người định kết tốt đen bị người có tốt đỏ đè( bắt) thì phải phạt đền gấp 8 lần.
Cho nên những ván có kêt thì người xướng ( nhà cái) xin tiền:
Nghe tin cô kết cũng tài
Cô cho nhà cái giao bài một phu
Ván sau cô lại kết bù
Cô cho nhà cái một phu ăn trầu.
Có khi hết hội không xu nào, nhà cái phải đền, người xướng đọc:
Bạch định bắt được ông già
Còn một cái lọ cho nhà hồ xin
Những người xướng thuộc rất nhiều truyện Kiều. Chinh Phụ Ngân. Lục Vân Tiên, Tam Quốc, Tần Cung Oán, Bần Nữ Thán. Xin trích dẫn một số câu sau:
1. Kiều:
Đội trời đạp đất ỏ trời
Họ Từ, tên Hải vốn người tướng công
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Mang mình vào chốn can qua
Vào sinh ra tử gọi là tốt đen
Xót xa trong dạ bồi hồi
Nửa vầng trăng khuyết đôi người tốt son.
Ví thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người sĩ đen.
2. Tam Quốc:
Trương Phi, Lưu Bị, Quan Ngài
Đào Viên kết nghĩa ba người tướng, sĩ, tượng ông
3. Bần Nữ Thán:
Mai Kha ơi hỡi Mai Kha
Rời nhau một bước tướng bà một cây
Một đêm sương tuyết lạnh lùng
Còn chăng hay đã mặc lòng cùng ai.
Tóm lại, trò chơi tam cúc điếm ỏ đền Phú Xá là một trò chơi dân gian thú vị, khác hẳn lối chơi tam cúc thông thường. Người hát xướng tủy thuộc vào từng quân bài, ván bài cụ thể mà nhanh chóng đặt câu, gieo vần cho phù hợp văn cảnh,càng chơi nhiều người xướng càng phải trổ hết tài nghệ và vốn hiểu biết văn học của mình, để cuộc chơi thêm phần sôi nổi, lôi cuốn người nghe.
Phần vui chơi trong hội tại đền Phú Xá còn phải kể đến một trò vui hấp dẫn đông đảo thanh niên nam nữ trẻ tại địa phương – trò bơi lội bắt vịt được diển ra ngay tại mặt nước hồ hình bán nguyệt trong khu cảnh quan đền. Để chuẩn bị cho cuộc vui, người điều hành thả xuống mặt hồ môt chú vịt nhà, bơi lội tung tăng quanh hồ. Ai muốn tham gia phải đăng ký với ban tổ chức mới được chính thức dự chơi, trong trang phục gọn gàng, hợp với động tác bơi lội. Mặc dù đây là trò chơi dưới nước, phải vừa bơi giỏi, vừa nhanh tay nhanh mắt, xuất phát đúng thời cơ mới bắt được chú vịt, lĩnh giải, nhưng có nhiều người thi tài, thử vận may mong cả năm làm ăn phát đạt.
Cứ tiết “ Xuân – Thu nhị kỳ”, lễ hộI đền Phú Xá hàng năm vẫn diễn ra trong khung cảnh đất nước đổi mới mở cửa, góp phần bảo lưu và phát huy di sản văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: thôn Trần Thương, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo (đức thánh Cha) và song thân của người.
Nội dung: Lễ hội đền Trần Thương gồm hai phần. Phần lễ có các nghi thức như: lễ rước kiệu, lễ dâng hương, tế lễ… trong đó lễ “diễn xướng Thanh Đồng” và rước nước là những lễ nghi đặc trưng với ý nghĩa tôn vinh công lao, tài, đức của Đức Thánh Trần; đồng thời cầu cho “mưa thuận, gió hòa”, “phong đăng, hòa cốc”, “quốc thái, dân an”. Phần hội gồm nhiều trò chơi mang đậm màu sắc văn hóa dân gian truyền thống như đánh cờ tướng, bơi chải, đi cầu kiều, tổ tôm điếm, kéo co, bịt mắt đập niêu, bắt vịt dưới nước,... Trong đó, thi đấu cờ tướng là một hoạt động văn hóa rất có ý nghĩa nhằm tái hiện tài thao lược quân sự của Trần Hưng Đạo.
Ngoài lễ hội truyền thống, vào giờ Tý ngày 15 tháng Giêng hàng năm, Ban Quản lý đền Trần Thương còn tổ chức Lễ phát lương để ban lộc đầu xuân của Đức Thánh Trần cho nhân dân và du khách thập phương; đồng thời ôn lại truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, nhắc nhở thế hệ con cháu biết xây dựng những kho lương để đề phòng khi có binh biến.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: xã Khánh Cư, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo, phu nhân cùng các Quận Chúa của người.
Nội dung: Hội lễ ở Yên Cư ngoài tế lễ như các đền khác thờ Hưng Đạo Vương, còn có cuộc rước kiệu độc đáo qua sông đáy để đến làng Phú Hào, người ta gọi là rước trước khi rã đám. Để chuẩn bị cho cuộc rước, làng chọn trai đinh từ 18 tuổi trở lên làm đô tuỳ rước kiệu và các đô khác; và chọn các cô gái chưa chồng 18 tuổi trở lên để khiêng kiệu Trần Hưng Đạo, phu nhân và các quận chúa. Kiệu qua sông Đáy phải dùng thuyền, nhưng người đi hội và dân làng cho rằng kiệu do các cô gái khiêng nhờ phép màu của Hưng Đạo Đại Vương nên không đi thuyền, vậy mà không cô gái nào ướt quần áo. Đến Phú Hào sau lễ tế trọng thể lại rước về Yên Cư. Tương truyền, khúc sông Đáy phía đông bắc đền Yên Cư, cứ đến ngày 20.8 âm lịch cá quần về nhiều vô kể, không ai đánh bắt cá vào ngày hội; đó là cá ở tận sông Bạch Đằng tìm về mừng Đức Hưng Đạo khi Ngài giáng lâm ở Yên Cư. Sau đó cá tản đi đâu hết. Rất nhiều khách thập phương trẩy hội để xem cá quần ở Yên Cư. Thuộc huyện Yên Khánh cũ, nay là xã Khánh Cư, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
Chàng tuổi Hợi yêu
Nam giới tuổi Hợi có phần thiếu chủ động trong chuyện tình cảm. Họ giống các chàng tuổi Mão, tuy mong có được một tình yêu đẹp và chân thành nhưng lại không biết cách chinh phục người con gái mà mình đem lòng yêu mến. Tuy có khá nhiều ưu điểm nhưng nhược điểm chính của họ là không thể hiện thái độ rõ ràng trong tình yêu. Điều này thường khiến các cô gái cảm thấy mình không được tôn trọng.
![]() |
(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)
![]() |
![]() |
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
Hãy nếm thử lời nói của mình trước khi tuôn ra. Lời nói làm tổn thương và gây sẹo nhiều hơn bạn nghĩ, vì vậy hãy ” nghĩ ” trước khi nói. Và nên nhớ, những điều bạn nói về người khác cũng nói lên tất cả về chính bạn.
1- Một số quan hệ sẽ hạnh phúc – Một số khác sẽ trở thành bài học.
Dù thế nào thì bạn cũng đừng hối tiếc vì biết một người . Mỗi người bạn gặp đều dạy cho bạn một đều gì đó rất quan trọng.
2- Đến lúc khó khăn – Một số người sẽ rời bỏ bạn.
Sẽ có rất nhiều người ở xung quanh bạn lúc thuận lợi, nhưng lúc bạn khó khăn, ai ở lại với bạn, giúp đỡ bạn thì mới thật sự là người bạn tốt của bạn.
3- Một số người chỉ tử tế với bản thân họ
Đó là những người chỉ gọi điện khi họ cần gì đó hoặc chỉ tạt qua chơi khi có lợi cho họ.
4- Một số người nói thì rất hay nhưng hành động thì…còn phải xét lại!
Đặt niềm tin vào họ chỉ phí cuộc đời bạn!
5- Có những người mà bạn ít giao du với họ thì cuộc sống của bạn càng tốt lên.
Đừng trở thành ” giờ nghỉ “, ” thời gian rảnh “, hoặc ” đôi khi ” của ai đó.
6- Lời lẽ cay nghiệt làm người ta tổn thương hơn cả đau đớn thể xác.
Hãy nếm thử lời nói của mình trước khi tuôn ra. Lời nói làm tổn thương và gây sẹo nhiều hơn bạn nghĩ, vì vậy hãy ” nghĩ ” trước khi nói. Và nên nhớ, những điều bạn nói về người khác cũng nói lên tất cả về chính bạn.
7- Sai lầm là một tai nạn – Gian lận và dối trá không phải là sai lầm.
Vì đó là những lựa chọn cố tình. Hãy chấm dứt trốn sau từ ” sai lầm” và ” xin lỗi “. Và chấm dứt tha thứ cho những con người như thế.
8- Tự tạo hạnh phúc cho bản thân
Những mảnh vỡ bạn mang theo đó là những mảnh bạn phải tự vá lại cho mình. Hạnh phúc đơn thuần là chuyện xảy ra trong nội tâm con người bạn.
9- Khi mọi người khó chịu với bạn – thường thì tốt nhất là bỏ đi.
Khi có người coi bạn không ra gì, đừng để ý và đừng coi đó là chuyện cá nhân. Chuyện đó không nói lên điều gì về bạn và không ăn miếng trả miếng. Bạn chỉ cần biết mình tốt hơn thế và bỏ đi.
10- Mọi người sẽ đối xử với bạn theo cách bạn cho phép họ.
Bạn không thể kiểm soát họ, nhưng bạn có thể kiểm soát điều bạn có thể chịu đựng. Những điều tốt đẹp đến khi bạn tránh xa những người xấu. Làm như thế không có nghĩa là bạn ghét họ, đơn giản có nghĩa là bạn tôn trọng bản thân mình.
11- Lựa chọn cho mình một mối quan hệ
Một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất trong đời là gỡ bỏ một người ra khỏi trái tim mình.
Nhưng nên nhớ rằng, không có mối quan hệ nào là lãng phí thời gian cả. Các quan hệ sai lầm dạy bạn những bài học chuẩn bị cho bạn gặp được người phù hợp nhất với mình.
12- Sự thật về sự oán giận
Oán giận làm tổn thương bạn – không phải họ.
13- Im lặng và cười nhếch mép có thể che giấu rất nhiều nỗi đau với thế giới bên ngoài.
Hãy chú ý tới những người mà bạn quan tâm. Thỉnh thoảng khi một người bạn nói ” Mình ổn “, thì điều đó có nghĩa là họ cần bạn nhìn sâu vào mắt họ, cần bạn ôm họ thật chặt và trả lời ” Mình biết là không phải thế “.
14- Ngay cả mối quan hệ tốt đẹp nhất cũng không kéo dài mãi mãi.
Không ai sống suốt đời mà không mất người họ yêu, người họ cần, hay điều gì đó mà họ nghĩ vốn là của họ. Con người không sống mãi mãi. Hãy đánh giá cao cái bạn có, người yêu bạn, và người quan tâm đến bạn. Bạn sẽ không bao giờ biết họ có ý nghĩa với mình như thế nào cho đến ngày họ không còn ở bên bạn nữa. Và nên nhớ, không thể chỉ vì có những thứ không tồn tại mãi mãi thì có nghĩa là nó không đáng để bạn mất thời gian.
Miệng là cửa ngõ của lòng người. Cũng như mắt là cửa ngỏ của tâm hồn. Miệng có phước, có hoạ, có lợi có hại, có phải, có trái, có ngay, có gian.
Miệng vuông rộng có góc cạnh là uy vệ mà giàu sang, nhứt hô bá ứng. Miệng hình cánh cung là có quan tước lộc vị. Miệng rộng dày là người có phước hậu, mỏng mà ngắn là kiếm không đủ ăn. Miệng vuông là người giàu có. Miệng mỏng, nhỏ, méo, là người xảo trá nghèo hèn. Không nói chuyện mà miệng như rung động, môi như nhấp nháy là già bị chết đói chết rét. Miệng hở lòi răng ra ngoài là người vô trí vô mưu. Miệng có mục ruồi là hay thích ăn uống, nhưng bị trúng thực nguy mạng. Miệng như mấy ngón tay đùm lại là người bần hàn. Miệng như miệng lò là phá hết sản nghiệp. Miệng như 2 cánh cung úp lại là người tài kiêm văn võ xuất tướng nhập tướng, miệng môi đỏ mọng, suốt đời phong nhã hào hoa, gái được chồng yêu, trai được vợ kính, hay ưa văn hoá ca nhạc, lòng không ác đức bất nhơn, sanh con hiền hiếu. Mồm chưa thốt môi đã rung động là háo dâm vô độ. Miệng như vầng trăng ngửa lên là người danh sĩ hiền tài. Môi miệng dày lớn như môi trâu là lòng dạ nhân đức, có cơ trí mà không nham hiểm, suốt đời hưởng giàu sang. Miệng như miệng cọp là người không giàu cũng sang trọng. Miệng như chiếc ghe lập úp là phường hành khất, khốn khổ cả đời chết rét chết đói nơi đất khách. Miệng như heo là ưa nhiều điều dèm siểm kẻ khác, tánh lại háo sắc đa dâm tham thực. Miệng cá lòng tong là yểu. Miệng như hoa đào nở là lòng dạ tốt, không nghĩ điều ám muội, thông minh có vợ giàu đẹp. Miệng như miệng cá chép suốt kiếp bôn ba cùng khốn mà kiếm chẳng đủ ăn. Miệng dê là bất hạnh vô đức, kém tài ham ăn hốc uống, dâm dật nghèo hèn. Miệng túm như ống thổi lửa là cùng khổ bần hàn yểu mạng. Miệng rồng là phú quí sang trọng kẻ hầu người hạ, nhứt hô bá ứng.
Xem tướng miệng phụ nữ:
1. Khẩu dốc như cung, vị chí tam công (Góc miệng uốn cong lên như hai đầu cung, cực tốt) 2. Khẩu như hàm đan, bất thụ cơ hàn (Miệng đỏ như son một cách tự nhiên, phú quý) 3. Khẩu phương tứ tự, tín nghi chân (Miệng như chữ Tứ, góc cạnh đều đặn đẹp, trung nghĩa và giàu) 4. Khẩu như súc năng, như suy hoả, tiêm nhi, phản tiêm nhị bạc hữu văn lý nhập khẩu (Miệng lúc nào cũng chu ra như đang thổi hơi, miệng dẩu ra, nghiêng lệch, chủ bần tiện) 5. Tung lý nhập khẩu ngã tử (Nhiều văn nhập vào miệng, nghèo hèn, hai đường pháp lệnh chạy cong vào hai khoé miệng, đói khổ, chết vì đói) 6. Khẩu như suy hoả, cơ hàn độc toạ (Miệng như thổi lửa chủ cơ hàn và cô độc) 7. Khẩu ư lộ sĩ (Miệng ráng ngậm mà vẫn thấy răng, bần tiện) 8. Thượng thần cai hạ, thần pháp bần hàn (Trên dày, dưới mỏng chủ bần hàn); Hạ thần qua thượng, (Dưới dày trên mỏng, dối trá, gian) 9. Vi tiếu khẩu (Miệng lúc nào cũng như có vẻ cười, chủ ôn hậu) 10. Chấn tĩnh chi khẩu (Miệng lúc nào cũng như mím chặt) chủ cương quyết 11. Lãnh tiếu chi khẩu (Cười lạnh nhạt, nhếch mép, thâm độc, ác tâm.)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
* Lưu ý:
– Riêng tháng 11 và tháng 12 không có ngày “Trung nghi” (không phải kiêng).
– Tháng 10 là tiết Đại hàn, kiêng mọi việc lớn.
Điểm qua tình hình của đời sống xã hội hiện nay, ngoài những việc chúng ta làm được, cũng không ít những điều đáng đau buồn. Ta thấy nhan nhản những tệ nạn xã hội được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Từ việc phát ngôn vô văn hóa, đến những hành vi trộm cướp, những vụ tai tiếng… chung quy là băng hoại lối sống và đạo đức. Khảo cứu những hiện tượng mất đạo đức trong xã hội, dù gián tiếp hay trực tiếp, người ta thấy có mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội, xem chừng chúng có mầm mống từ gia đình mà ra. Do vậy, phải bắt đầu nghiên cứu từ gia đình.
Gia đình đóng vai trò là tế bào của xã hội, nhưng bản thân nó lại giống như một xã hội thu nhỏ. Do vậy, quan hệ đạo đức trong gia đình là cái khởi đầu cho quan hệ đạo đức trong xã hội. Trong kinh Thi Ca La Việt (Sìgalovàda sùttra), Phật dạy bổn phận làm chồng có 5 điều đối với vợ và làm vợ cũng có 5 điều đối với chồng; bổn phận làm cha mẹ có 5 điều với con cái và con cái cũng có 5 điều với cha mẹ. Chẳng hạn:
Đây là mối quan hệ hai chiều sòng phẳng, nó khác hẳn với tư tưởng quan hệ một phía: Quân, Thần, Phụ, Tử và coi khinh phụ nữ (không có Mẫu) của Nho giáo. Ngẫm ra, người ta chỉ cần thực hiện đúng những lời dạy của Phật, thì thiết nghĩ gia đình trong thiên hạ hạnh phúc hơn rất nhiều.
Trong gia đình, quan hệ vợ chồng là điểm xuất phát, làm cơ sở cho các mối quan hệ khác, vì thế nó rất quan trọng. Thực tế không ít trường hợp gia đình hạnh phúc, hoặc bất hạnh và điều đó để lại di chứng cho thế hệ sau cũng xuất phát từ mối quan hệ này. Nhân tiện cần nói thêm, ngay những đứa trẻ sinh ra trong một gia đình bất hạnh thì những thiệt thòi của chúng đã ghi vào tâm khảm – những thiệt thòi ấy, những mặc cảm ấy thường có khi cả đời chúng cũng không thể xóa được và cũng không có gì để bù đắp được! Tác giả đã từng đi tìm hiểu về số phận của những con người hư hỏng… thì thấy rằng, phần lớn đều xuất phát từ những gia đình bất hạnh. Mọi người cũng biết rằng, tình yêu là mơ mộng, nhưng hôn nhân là trách nhiệm và đây thực sự là việc chiến lược của một đời người… Với tầm quan trọng như vậy, nên Phật có dạy về 4 loại sống chung:
“Đê tiện nam sống chung với đê tiện nữ. Đê tiện nam sống chung với Thiên nữ. Thiên nam sống chung với đê tiện nữ. Thiên nam sống chung với Thiên nữ” (KinhTăng chi I)
Khi đưa ra 4 loại sống chung, Phật giảng cả một đoạn dài về vấn đề này, chủ yếu Ngài lấy Ngũ giới để làm tiêu chí cho chúng. Cuối cùng Ngài khẳng định một cuộc sống lý tưởng (Thiên nam sống chung với Thiên nữ) là cả hai người đều phải có đạo đức tốt và sống lương thiện.
Một điều đặt ra là, không phải ngay từ đầu người ta đã có phẩm chất của một Thiên nam hay Thiên nữ, mà cái này phải tu luyện, nhiều khi phải tu luyện gian khổ để trở thành lối sống và nếp sống. Như vậy, ngay trong một gia đình, tất cả mọi người chí ít cũng phải lấy Ngũ giới là tiêu chí để giữ mình. Chỉ đơn cử, không ít những trường hợp vì say rượu sinh ra những hậu quả không lường trước được như cha giết con, chồng hại vợ…, anh em chia lìa, kiện cáo lẫn nhau để rồi gia đình tan nát.
Phổ quát hơn, con người nói riêng (không phải là chúng sinh nói chung), phải biết chế ngự và đi đến từ bỏ tập khí sinh tử. Đó là tham, sân, si, nó bắt nguồn từ ái dục, cho nên ái dục là nguồn gốc của mọi đau khổ. Khái quát thì tất cả những hiện tượng gây rắc rối cho xã hội hiện nay, suy cho cùng nó từ cái tâm hữu ngã mà ra.
Từ quan hệ vợ chồng, chúng ta có thể mở rộng đến quan hệ ông bà và cháu chắt, đồng thời nếu giữ được các giới đó thì rõ ràng, ít ra cũng có thể gọi là một gia đình hạnh phúc. Tuy chưa có điều kiện thống kê, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, những gia đình có đạo (bất kể là đạo nào), thường có nếp sống đạo đức, văn hóa tốt hơn, đồng thời những vụ ly hôn, đổ vỡ… (nếu có) cũng ít hơn gấp nhiều lần so với những gia đình không có đạo. Đây là một điều cũng đáng để chúng ta suy ngẫm, phải chăng Trần Tế Xương đã hơn một lần nhận xét: “nhà kia lỗi đạo…”.
Một điều thực tế cho thấy, hiện nay các gia đình Phật tử, ít nhiều người ta đã thực hiện có hiệu quả và thiết thực những điều Phật dạy về hạnh phúc gia đình.
► Xem bói 2016 theo khoa học tử vi để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
![]() |
Làm thế nào làm đúng vượng “đào hoa”
Rất nhiều người hỏi vui bạn mình: “Dạo này có vận đào hoa không?”. Quả thực người mang mệnh đào hoa là chỉ những người hy vọng mình có vận đào hoa có thể ở đào hoa vị của mình đặt một bình hoa nhiều nước, trong bình hoa có cắm hoa tươi, tốt nhất là cắm vào đó cành hoa đào.
Làm thế nào xác định được đào hoa vị của bản thân mình? Các đào hoa vị thuộc con giáp: Thân, Tý, Thìn thì ở phía chính Tây, người trông rất xinh đẹp, có thiên phú trong phương diện văn học hoặc văn nghệ, nhưng sự đào hoa này là chỉ sự nghiêm chỉnh.
Người có vận đào hoa không vượng có thể bố trí lại đào hoa vị của mình, từ đó có thể tăng vượng cho duyên kỳ tính của mình, nhưng nếu xếp đặt không chính xác sẽ khiến cho vận đào hoa của mình cũng không còn nữa.
Các đào hoa vị thuộc con giáp: Dần, Ngọ, Tuất thì ở phía chính Đông.
Các đào hoa vị thuộc con giáp: Hợi, Mão, Mùi thì ở chính Bắc.
Các đào hoa vị thuộc con giáp: Tỵ, Dậu, Sửu thì ở phía chính Nam.
Có hiệu quả thúc đẩy tài vận
Vị trí tài lộc (tài vận) trong văn phòng đặt một số đồ để thôi tài có thể khiến cho tài vận của cả văn phòng chuyển vượng. Tài vị cần thầy phong thủy tiến hành đo đạc, thăm dò một cách chuyên nghiệp mới có thể định ra một cách chính xác hoành tài vị hoặc phiến tài vị, chính tài vị, có một số đồ vật thời tài (thúc đẩy tài lộc) không thể đặt một cách tùy tiện, ví dụ như bình uống nước, bể cá vàng, máy làm mát… Tuy nhiên, có một số vật cát tường thì dù không hiểu biết gì về phong thủy nhưng khi đọc cuốn sách này cũng có thể bài trí được.
Ví dụ: Phỉ thư (tượng) (hay còn gọi là tránh tà), kỳ lân, long quy, kim chán đều là những tượng vật phong thủy thôi tài nhanh chóng. Nhưng khi sắp đặt lại có sự khác biệt, ba vật trước, khi xếp đặt cần phải quay đầu ra cửa hoặc cửa sổ, còn kim chán lại ngược lại, đầu của nó phải quay đầu vào trong phòng, bởi vì phì thư, ký lân, long quy đều là thu nạp tài lộc về nhà, mà kim chắn thì lại nhả tiền, cho nên chúng có sự xếp đặt khác nhau. Ngoài ra, những vật thôi tài này nhất định phải được khai quang thì mới có hiệu quả.
Ngũ Quan rên khuôn mặt của mỗi người chính là Tai, Lông mày, Mắt, Mũi, Miệng trong đó :
Người xưa còn đưa ra những nhận xét chi tiết như: Lông mày căng ra ngay ngắn, mũi đoan chính, tai cao mà sáng, miệng rộng tựa hình dây cung đều là tướng cuối đời được hưởng phúc lộc.
Qua phân tích ngũ quan có thể phán đoán được vận thế, cát hung của một người. Lông mày nói lên việc người đó có sống thọ hay không. Con mắt nói lên năng lực ý chí và tâm địa lương thiện. Mũi nói lên sự giàu có và sức khỏe của một người. Miệng nói lên cuộc sống hạnh phúc và vận quý nhân của một người. Còn khi xem tướng tai, ta có thể biết được sức khỏe và địa vị của người đó.
Nội dung
Người có tướng lông mày dài, thanh tú thì thông minh, nhanh nhẹn, có phẩm chất cao quý, được hưởng cuộc sống giàu sang phú quý, tuổi thọ cao. Còn lông mày ngắn, rậm và thô, tính tình hung bạo, dễ nổi cơn thịnh nộ, cuộc sống nghèo hèn, lúc nào cũng trong tình trạng túng thiếu.
Hai lông mày giao nhau là dấu hiệu cho thấy vận khí không tốt. Trong lông mày có nốt ruồi đen chứng tỏ chủ nhân của nó thông minh, giỏi giang, dễ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp.
Đôi mắt người thông minh và giàu có thường có thần sắc, lòng đen lòng trắng rõ ràng, mắt dài mà lại sâu. Mắt nhỏ nhưng dài và sâu thường sống thọ, ngược lại mắt nhỏ nhưng lại lồi thì dễ nóng giận, tuổi thọ không cao.
Người mắt tam bạch (lòng trắng nhiều hơn lòng đen) lòng dạ đen tối, tính cách hung ác, cuộc sống nghèo khó, vất vả.
Mũi thẳng, hai cánh mũi đầy đặn, lỗ mũi không hếch không lộ, đầu mũi tròn trịa là đặc trưng thường thấy ở nét tướng mặt của người có số mệnh sung sướng, cuộc sống giàu sang, hiếm khi phải lo lắng về vật chất.
Ngoài ra, nếu sống mũi khuyết hãm, đứt đoạn, lỗ mũi lộ, hai cánh mũi không đều chứng tỏ chủ nhân của tướng mũi này có cuộc sống vất vả, cơ cực, khó tích lũy tiền tài.
Miệng vuông vắn, không khuyết hãm, đôi môi đầy đặn và có sắc khí hồng hào, cộng thêm hàm răng trắng, đều đặn, Nhân trung dài và sâu là những dấu hiệu cho thấy chủ nhân của tướng mặt này có cuộc sống bình yêu, không phải trải qua nhiều sóng gió cuộc đời. Đặc biệt, cách nói năng, ứng xử của họ hài hòa, hiếm khi vướng vào những rắc rối thị phi.
Trái lại, người có tướng miệng tuy mở ra rộng nhưng khép vào lại rất nhỏ dễ dính vào họa khẩu thiệt thị phi, hay bị người khác soi mói, đố kị. Theo đó cuộc sống cũng nhiều thăng trầm, nhưng nếu nỗ lực hết mình, suy nghĩ phóng khoáng và lạc quan, mọi việc sẽ chuyển biến theo hướng tích cực.
Tai có luân quách rõ ràng (vành tai), dái tai đầy đặn, tai áp sát đầu và cao quá lông mày, lỗ tai rộng là tướng phú quý. Chủ nhân của tướng tai này thông minh, hào phóng, cuộc sống sung túc và thường có tuổi thọ cao.
Nếu vành tai lật ngược, luân quách không rõ ràng, tai nhỏ mà vểnh là dấu hiệu cho thấy cuộc sống của người này vất vả, nay đây mai đó cầu tài mà không được như ý nguyện.
► Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
![]() |
Những lời khuyên phong thủy nên áp dụng:
- Nên ngồi ở góc xa nhất tính từ cửa ra vào để có một vị trí 'uy quyền'.
- Nên ngồi quay lưng vào góc hoặc tường để luôn có quý nhân phù trợ. Nó đóng một vai trò như 'người che lưng', là chỗ dựa cho bạn qua mọi cơn sóng gió.
- Bạn có thể ngồi quay lưng vào cửa sổ nếu ở phía xa đối diện nên là một tòa nhà lớn. Nó sẽ như một ngọn núi sừng sững chắn đỡ cho bạn mọi hiểm nguy.
- Nên để máy tính ở phía Bắc hoặc Tây của văn phòng để kích thích sự sáng tạo. Đặt máy vi tính trong góc Đông Nam nếu bạn muốn có thêm nhiều tiền.
- Đặt bể cá hoặc đài phun nước nhỏ ở phía Đông, Bắc, hoặc Đông Nam trong phòng hay trên bàn làm việc sẽ giúp công việc kinh doanh được thuận lợi.
- Đặt két sắt ở góc phía Tây hoặc Tây Bắc sẽ giúp doanh nghiệp vừa làm ăn phát đạt mà luôn bình an, không gặp nhiều sóng gió.
- Nên có sự cân bằng tốt giữa âm và dương trong văn phòng. Ánh sáng và cân bằng màu sắc sáng tối, bề mặt mềm và cứng, kết cấu mịn và thô trong nội thất, các cánh cửa và cả sàn, tường.
- Lưu trữ và sắp xếp tất cả các tài liệu cẩn thận. Chúng đại diện cho quá khứ, hiện tại và tương lai của công ty bạn.
Những kiêng kỵ phong thủy cần tránh:
- Không ngồi ở vị trí thẳng với các cánh cửa. Những luồng năng lượng tiêu cực sẽ 'xông' thẳng vào chỗ bạn ngồi.
- Không ngồi đối diện hoặc quay lưng vào cửa ra vào, đặc biệt là khi đang kinh doanh. Tiền bạc sẽ đến với bạn thông qua đường cửa ra vào, mà chẳng ai lại muốn quay lưng lại với tài vận cả.
- Không ngồi làm việc ở nơi nhìn thẳng ra hành lang hay nhìn thấy cầu thang, nhà kho, thang máy, thang cuốn hoặc nhà vệ sinh.
- Không đặt gương trong vặn phòng vì chúng có thể tích tụ năng lượng tiêu cực của bạn, của nhân viên, của các khách hàng.
Xem tướng học chia nốt ruồi ra làm hai loại, một loại nốt ruồi mà vị trí của nó mang lại phú quý, may mắn, thành công cho chủ nhân. Vẫn nốt ruồi ấy, kích thước ấy, nhưng lại xuất hiện ở 1 vị trí khác trên cơ thể lại có thể là điềm báo vận hạn, rủi ro cho thân chủ. Hãy cùng xem vị trí nốt ruồi trên cổ bạn mang điềm gì nhé
1. Nốt ruồi ở trước và chính giữa cổ
Nhân diện học coi đây là nốt ruồi phú quý, mang lại nhiều may mắn về tài lộc. Chủ nhân của nốt ruồi này không những dễ dàng gặt hái được thành công trong sự nghiệp vì có người giúp đỡ mà còn khá hạnh phúc trong tình yêu.
2. Nốt ruồi ở giữa yết hầu
Nếu có nốt ruồi xuất hiện ở giữa yết hầu hoặc nằm ở các vị trí lân cận và gần phía vai là điềm báo xui xẻo. Người có nốt ruồi này chi tiêu hoang phí, khó tụ tài lại dễ bị tiểu nhân hãm hại nên cuộc sống lận đận.
Phong thủy cho rằng, dù là con trai hay con gái, nếu có nốt ruồi này đều rất vượng vận đào hoa, nếu không cẩn trọng trong các mối quan hệ, rất có thể sẽ phạm đào hoa sát, vừa tổn thương mình lại làm hại người khác.
3. Nốt ruồi ở phía trái cổ
Chủ nhân của nốt ruồi này có đời sống tình cảm phong phú, nội tâm yếu mềm nên khá lận đận về đường tình duyên. Trong tình yêu, người này thường rơi vào thế bị động, dễ bị đối phương “dắt mũi” và làm tổn thương.
Tuy nhiên, mảng học hành, công việc của người này lại thuận lợi. Sau khi lập gia đình sẽ trở thành trụ cột kinh tế vững chắc, là chỗ dựa an toàn cho đối phương.
4. Nốt ruồi ở phía phải cổ
Sở hữu nốt ruồi này là người có cá tính mạnh, hiếu động, thích đi du lịch đó đây để khám phá những điều mới lạ.
Về phương diện học tập và sự nghiệp: Người này đạt được những thành quả nhất định. Tuy nhiên, thói quen tiêu xài hoang phí khiến họ khó tích lũy tiền bạc, cuộc sống chỉ ở mức no đủ chứ không dư giả đâu nhé.
Về tình yêu hôn nhân: Sau khi kết hôn, cuộc sống gia đình hòa hợp, hạnh phúc và rất đỗi yên bình.
5. Nốt ruồi phía sau cổ
Người có nốt ruồi này thì tính tình thẳng thắn, chân thành nhưng hơi lười nhác việc nhà và chuyện bài vở. Tuy nhiên cuộc sống của người này khá yên bình, không phải trải qua nhiều sóng gió.
6. Nốt ruồi chính giữa gáy
Đây là điềm báo cho thấy bạn sẽ gặp xui xẻo và nhiều trở ngại trong cuộc sống. Hơn thế, tính cách nhẹ dạ cả tin của bạn có ngày sẽ bị người khác lợi dụng để lừa gạt tình cảm và tiền bạc. Do đó, làm việc gì bạn cũng phải hết sức thận trọng đó nha.