Mơ thấy chị gái: Ảo tưởng tốt đẹp về hôn nhân –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Khương Tử Nha vốn là đệ tử tài giỏi của Nguyên Thuỷ thiên tôn trên núi Côn Lôn, nhận mệnh thầy xuống núi giúp đỡ Tây Bá hầu Cơ Xương tiêu diệt Trụ sáng lập triều Tây Chu. Nhưng do thấy thời cơ chưa chín muồi, nên ông tạm thời đến ẩn cư bên khe Phàn Khê thuộc Tây Kỳ, chờ đợi cơ hội. Ông ngày ngày đọc kinh "Hoàng Đình", ngộ đạo tu chân.
Lúc nhàn rỗi thường ra ngồi buông câu bên bờ sông Vị Thuỷ. Một hôm, ông thầm nghĩ: "Thầy mệnh cho ta xuống núi, tính đến nay đã gần tám năm rồi, thực đúng với lời của thầy: Hai bốn năm đầu vận bĩ cực; Tám năm sau mới gặp thời cơ", trong lòng cảm thấy buồn rầu.

Lúc đó, chợt có một người tiều phu tên là Vũ Cát đi đến, thấy Khương Tử Nha nhấc cần câu lên, đầu dây câu chỉ có một chiếc kim thẳng, lại không mắc mồi câu, thì cười mà nói với ông rằng: "Người có chí không kể tuổi tác, làm người mà không biết mưu tính, sống đến trăm tuổi cũng uổng phí. Ông câu cá mà không dùng lưỡi câu, cũng không mắc mồi có câu đến cả trăm năm cũng chẳng được nổi con cá nhép".
Khương Tử Nha bèn nói: "Già này tuy buông câu, nhưng chí không ở cá, chẳng qua là ngồi đây chờ lúc đường mây rộng mở, thoả chí bình sinh mà thôi!". Rồi ngâm rằng:
Ninh hướng trực trung thủ
Bất vi cẩm lân thiết
Bất hướng khúc trung cầu
Chỉ điếu vương dữ hầu
Nghĩa là
Thà rằng tìm bằng thẳng
Không phải là vì cá
Không muốn lấy bằng cong
Chỉ câu bặc hầu vương
Tây Bá hầu Cơ Xương sau khi từ Dữu Lý trở về Tây Kỳ, dốc lòng vào việc triều chính, khiến cho quốc thái dân an, nhân dân an cư lạc nghiệp, ngay cả dần từ thành Triều Ca tỵ nạn đến Tây Kỳ cũng được đối đãi tử tế, chăm lo chu đáo. Một hôm, Cơ Xương đang nghỉ ngơi dưới Linh Đài, qua canh ba, chợt mơ thấy một con hổ trắng có cánh, chồm lên người mình, bèn giật mình tỉnh dậy, sợ đến toát mồ hôi lạnh. Hôm sau, ông kể lại giấc mơ cho đại thần Tán Nghi Sinh (sao Tả Phụ) nghe, Tán Nghi Sinh bèn nói: "Chúc mừng hầu gia, đó chính là điềm tốt, mách bảo rằng hầu gia sắp gặp được nhân tài làm rường cột, để kiến lập triều Chu".
Cùng ngày hôm đó, Tán Nghi Sinh qua chợ, gặp được tiều phu Vũ Cát. Vũ Cát bèn thuật lại câu chuyện về ông già kỳ lạ bên sông Vị Thuỷ cho ông nghe. Tán Nghi Sinh suy ngẫm hồi lâu, ngờ rằng đây chính là nhân tài mà Tầy Bá hầu đang muốn tìm. Ngày hôm sau, Cơ Xương dẫn theo các quan tả hữu xuất du, nhân thể tìm kiếm người hiền, đi về hướng Phàn Khê. Dọc đường, họ gặp một người tiều phu đang quảy gánh củi, vừa đi vừa hát rằng:
Xuân thuỷ du du xuân thảo kỳ
Thế nhân bất thức cao hiền chí
Kim lân vị ngộ ẩn Phàn Khê
Chỉ tác khê biên lão điếu ky
Nghĩa là:
Nước xuân dìu dặt cỏ xuân lạ
Người đời không biết chí cả cao
Lân vàng chưa gặp ẩn Phàn Khê
Làm người câu cá ở bên khe
Cơ Xương nghe lời ca, đột nhiên tỉnh ngộ mà thốt rằng: "Cao nhân nhất định ở quanh đây". Thế nhưng tìm kiếm suốt ba ngày vẫn không thấy bóng dáng hiền sĩ. Đến ngày thứ tư Cơ Xương đem theo lễ vật, dẫn đầu bá quan, điều động đội binh mã mở đường, vua tôi rầm rộ tiến về Phàn Khê. Đến nơi, Cơ Xương một mình lặn lội vào trong rừng và bắt gặp Khương Tử Nha đang ngồi buông câu bên suối. Vốn dĩ Khương Tử Nha đã tiên đoán được rằng hôm nay Cơ Xương sẽ đến, nên làm như vô tình mà ca rằng:
Tây phong khởi hề bạch vân phi
Ngũ phượng minh hề chân chủ hiện
Tuế dĩ mộ hề tương yên vi
Thuỳ điếu ty hề ngã vi
Nghĩa là:
Gió tây nổi chừ mây trắng bay
Năm phượng hót chừ vua sáng hiện
Tuổi đã cao chừ làm chi đây?
Buông câu chừ hiểu ta ít thay!
Và vua sáng tôi hiền đã gặp nhau trong tình cảnh đó. Khương Tử Nha lúc này đã tám mươi tuổi, được phong làm Thừa tướng. Nhưng Chu Văn Vương qua đời khi sự nghiệp còn dang dở, trước lúc lâm chung, đã truyền ngôi lại cho Cơ Phát, và uỷ nhiệm Khương Tử Nha làm tướng phụ phò tá Chu Vũ Vương.
Tương truyền đài Phong Thần tại Tây Kỳ là do Khương Tử Nha vâng mệnh Nguyên Thuỷ thiên tôn kiến lập nên, mục đích chủ yếu là để phong thần cho những người xả thân vì nước hoặc tử chiến trong giai đoạn An Trụ sắp diệt vong và trong quá trình Vũ Vương phạt Trụ, nhằm an ủi người đã khuất, khiến vong hồn của họ có nơi nương tựa. Khi sự nghiệp diệt Trụ của Vũ Vương đã thành công, chính quyền mới đã được kiến lập, mọi người đều đã được thụ phong tại đài Phong Thần, chỉ còn Khương Tử Nha vẫn sống thọ, chưa đến lúc về trời. Để hoàn thành nhiệm vụ phong thần, ông đã tự phong mình là chủ nhân của sao Thiên Cơ.
Có thể coi Khương Tử Nha là một khai quốc công thần hàng đầu của triều Chu. Ông một đời coi việc hưng vong của quốc gia là trách nhiệm của mình, mà không màng đến chuyện sống chết của bản thân, dùng trí tuệ trác việt và mưu lược cao thâm của mình để hết lòng phò tá Vũ Vương hoàn thành đại nghiệp diệt Trụ. Ông còn sở hữu nhiều pháp thuật cao thâm (do là học trò của Nguyên Thuỷ thiên tôn) và sách lược cai trị, nên đã giúp ích rất nhiều cho chính quyền nhà Chu còn non trẻ.
Tài văn thao vũ lược cùng sự nghiêp huy hoàng của ông cho đến nay vẫn được truyền tụng rộng rãi. Bởi vậy không hề thái quá khi ông tự phong cho mình làm chủ quản sao Thien Cơ, chủ về "thiện lệnh" (gồm cả văn đức, vũ đức), trở thành nhân vật đại diện cho trí tuệ và "thiện thần" của cung huynh đệ trong Tử Vi.
Khương Tử Nha là một nhân vật truyền kỳ rất đỗi quen thuộc, là người thông minh xuất chúng, rất phù hợp với tính cách của sao Thiên Cơ cai quản "thiện lệnh" trong Tử Vi Đẩu số. Ông là người trù bị những mưu lược quan trọng, là thống soái quân sự tối cao trong sự nghiệp diệt Trụ của Chu Vũ Vương, là khai quốc công thần của triều Chu, đồng thời lầ ông tổ của nước Tề, người khai sáng nên văn hoá Tề. Khương Tử Nha còn là một nhà thao lược, nhà quân sự và chính trị gia kiệt xuất dể lại nhiều ảnh huởng sâu dậm trong lịch sử Trung Quốc cổ đại.
Khương Tử Nha vốn họ Lã, tên Vọng, tự Tử Nha, hiệu Phi Hùng, còn dược gọi là Lã Thượng. Thư tịch các đời đều xác nhận địa vị quan trọng của ông trong lịch sử. Các học phái Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Binh gia, Tung hoành gia đều truy nhận ông là nhân vật trong học phái của mình, nên ông được tôn là "Bách gia tông sư".
![]() |
| Ảnh minh họa |
Bài của ÂN QUANG
1- Lúng túng vì quan niệm sai lầm về “cách áp dụng” Tử-vi
Mệnh cư Ngọ, Phá Quân nhập miếu thủ Mệnh, Người tuổi Tân Mùi Âm Nam, thì Mệnh lại có Song Hao, Song Hỷ, Khôi Việt.
Dở sách Tử vi ra để đoán tướng người thì thấy:
- Phá Quân nhập miếu: Thân hình đẫy đà, lưng dày, mi thưa v..v….
- Song Hao hãm: thân hình nhỏ nhắn, bộ máy tiêu hóa không được lành mạnh v.v…
Vậy thì thế nào? Đẫy đà hay nhỏ nhắn? Bộ phận nào gia tăng, cơ quan nào giảm thiểu? Lấy cái đẫy đà cộng với nhỏ nhắn, chia hai ra trung bình hay sao?
Lại còn trường hợp Mệnh cư Tý, Thiên Đồng Thái Âm thủ Mệnh. Người tuổi Nhâm Tuất, Dương Nam, thì Mệnh lại có Kình Dương hãm địa.
Dở sách Tử-Vi ra để đoán tướng người này thì lại thấy:
- “Đồng Âm cư Tý, dung nhan mỹ ái”, nào là my thanh mục tú, nào là da trắng má nhuận v..v..
- Kình Dương hãm thì hình mạo phá tướng, dáng dấp lệch lạc,… nào là thân hình cao và thô, da xám, mặt choắt v.v….
Vậy thì thế nào? Thanh tú hay là lệch lạc? Da trắng hay da xám. Lấy cái đẹp và cái xấu cộng lại, chia hai, ra cái trung bình?
Một giáo sư Trung học Đệ Nhị Cấp, ở Nha Trang, nghiên cứu Tử-Vi vài năm năy, tìm tôi để hỏi về trường hợp hai lá số có các cách như trên. Có người luận là Tuổi Tân Mùi, mạng Thổ không ăn nhiều vào sao Phá Quân (thuộc Thủy) và tuổi Nhâm Tuất thuộc Thủy ăn vào sao Đồng-Âm nhiều hơn. Nhưng vị giáo sư ấy thấy rằng cũng không đúng lắm.
Vì một vài lý so riêng không tiện ghi rõ ngày giờ sinh, tôi xin chỉ ghi nét tiêu biểu để viết bài này giúp quí bạn mới nghiên cứu đỡ lúng túng khi áp dụng sách Tử-Vi.
Nếu không quan niệm rõ về công dụng của Tử-Vi, nếu chỉ dở sách Tử-Vi ra để áp dụng các “công thức” đoán tướng người một cách máy móc thì quí bạn sẽ hoang mang quay cuồng trước những độ số gia tăng, độ số giảm thiểu,sẽ có ngày hình dung được một quái thai hay một ác quỷ Dracula!
Có Đồng Âm thì “dung nhan mỹ ái”.
Có Tuế Kình thì ‘răng vẩu răng hô”.
Có Nhật Nguyệt gặp Kình Đà thì “mắt to mắt nhỏ” (Thái Âm cư Tý gặp Kình, Thái Dương cư Dần gặp Đà chiếu).
Có Hỏa Linh thì “nhăn nhó”
Có Đồng Âm “da trắng” lại có Kiếp Không, “da đen” v.v…
Tử Vi không phải là cái máy hay là cái khuôn đúc. Tạo hóa lại không có sự kỳ thị chủng tộc.
Một người da vàng, mắt đen, mũi thấp, dòng dõi nhỏ thó…. Một người da trắng, tóc hoe, mắt xanh, mũi cao, thuộc giống dân cao lớn…. và một người da đen, tóc xoăn, môi dầy…vẫn bình đẳng trước Tạo hóa, vẫn được quyền ra đời vào cùng một ngày giờ giống nhau, gặp hoàn cảnh vẫn có thể ra đời tại cùng một quốc gia.
Đem ngày giờ sinh ấy mà bịt mắt thầy Tử Vi nhờ đoán tướng người thì quả là làm một trò khôi hài chua chát!
Nhìn vào cung Thê (trong lá số người chồng) để đoán tướng người vợ, may mà găp trường hợp có nhiều truyền tinh, đoán đúng tướng dạng người vợ thì thật là “Phúc chủ Lộc Thầy” vui vẻ cả làng. Lỡ gặp người vợ không có lá số truyền tình, thì rất dễ gặp sự sai lầm ngớ ngẩn.
Tử Vi là Lý Học Tương Quan. Đặt sang một bên những trường hợp quá sai biệt vì lý do chủng tộc thông thường thì dùng Tử Vi để đoán tướng người là đoán tương đối:
- Cơ Nguyệt Đồng Lương thì dáng dấp có phần (xin lưu ý là có phần) hiền hậu, ôn hòa v..v…
- Tử Phủ Vũ Tướng thì có phần bệ vệ v..v…
Kiếp Không thì đen tái, mà đắc địa thì đen bóng…
Các sao khác cũng chỉ là luận tương đối mà thôi. Đó chỉ mới là làm một phần công việc chủ quan, phóng cái nhìn từ lá số trở ra. Gặp nhiều trường hợp đúng thì liền vội vã tin tưởng cực đoan, cho rằng Tử Vi là cái máy, cái khuôn đúc, không xét đến công dụng, giá trị thực của Tử Vi.
Tử Vi và Lý Học Tương Quan.
Sau khi làm một phần công việc chủ quan, tương đối, phải nhận định thêm một cách khách quan.
Đó là: “Phải xét hình tướng, rồi sẽ tìm sao trong cung Mệnh, xem nó liên hệ cùng sao nào mà ấn định” ( KHHB K1, trang 26 bài của cụ Đông Nam Á)
Xưa nay có rất nhiều người trùng ngày giờ sinh. Có hằng tá người tướng dạng, cuộc đời, vận hạn khác nhau. Dù tính theo Diễn Cẩm Tam Thế, dù áp dụng Khoa Bát Tự, dù tính theo Tử Vi, tăng số sao từ 108 vị lên đến 216 vị, thì quanh quẩn vẫn chỉ dựa vào mấy yếu tố hạn chế là: Nam, Nữ, Năm Tháng Ngày Giờ sinh, và chỉ lập được đến mức tối đa là trên năm trăm ngàn lá số như tôi đã từng chứng minh.
Tử Vi quyết không phải là cái máy. Mỗi lá số Tử Vi không phải là nhãn hiệu độc quyền của một người. Phương pháp Tử Vi không phải là chỉ luận chủ quan một chiều đi thẳng một đường từ cái Chủ Để là lá số, mà luôn luôn phải luận kèm với các yếu tố tương quan, để đạt đến đáp số là Tổng hợp đề.
Nhìn vào lá số để luận tương đối về tướng dạng. Và cũng phải xét hình tướng, rồi sẽ tìm (các vị) sao trong cung Mệnh xem nó ( đương số ) liên hệ cùng sao nào mà ấn định.
Việc làm này rất cần thiết vì khi luận về vận hạn, luôn luôn phải xét xem các bộ sao ở Mệnh Viên và ở cung Đại Hạn kết hợp với nhau ra sao thành những bộ cát hung nào.
Thầy Tử Vi kén rể, gặp anh chàng có ngày giờ sinh giống như Triệu Khuông Dẫn (vua Thái Tổ nhà Tống) thế mà rồi anh chàng ấy cũng chẳng ra quái gì. Chỉ vì tướng của hắn ta “ăn” vào sao Kình Dương hãm. Câu chuyện này cụ Đông Nam Á đã kể trong tuần báo Số Mạng. Tôi tiếc là không nhớ rõ chi tiết câu chuyện và báo số mấy.
Nếu có người cho rằng Cụ viết như vậy để đề cao ngành Tướng Số của Cụ, nếu chỉ vì Cụ viết nhiều về Tướng Số, viết ít về Tử-Vi, mà rồi những tài liệu đứng đắn của Cụ về “Cách Áp Dụng” Tử-Vi, chưa lôi cuốn được nhiều sự chú ý, thì đó quả là một điều đáng tiếc lớn lao.
Tôi không viết để quảng cáo cho Cụ Đông-Nam-Á. Từ lúc viết bài trong tuần báo S.M. Cho đến khi viết bài trong Giai Phẩm KHHB, tôi luôn luôn bận rộn với công việc ở Nha Trang, chưa có dịp về Sài gòn trao đổi ý kiến với Cụ. Tôi chỉ muốn góp nhặt tài liệu để làm sáng tỏ rằng Tử-Vi không phải là cái khuôn đúc, mà là Lý-Học Tương –Quan.
Vai trò của mỗi lá số Tử Vi không phải là một cái phù hiệu độc quyền, gắn chặt vào trái tim, vào bộ sương sống, hoặc là đứng ngay trong lòng một người nào. Vai trò của lá số Tử-Vi là một phép tính xác xuất, một bài toán Tương-Quan đứng bên ngoài, đứng khoảng giữa con người và vũ trụ vạn vật xung quanh. Luận về nghề nghiệp sinh hoạt, sự nghiệp… thì cũng phải xét đến các tương quan xã hội, có khi cũng cần xét đến tương quan gia tộc (cùng là lá số về thủ công nghệ con ông thợ may, con ông thợ thêu có thể tiếp tục nghề thêu…)
Có một vị xem Tử Vi chủ trương rằng mỗi lá số Tử Vi là một cái máy, một cái khuôn đúc, đóng khung chặt chẽ từng tiểu tiết nghề nghiệp. Trớ trêu thay, chính cuộc đời vị ấy đã trải qua không biết bao nhiêu nghề, có khi cùng một lúc làm hai nghề khác nhau, nghề phụ lại có lộc nhiều hơn nghề chính thức ghi trên giấy tờ.
Tôi có trình bày chi tiết hơn trong bài “Tử Vi đúng được bao nhiêu phần trăm”. Bài ấy có hơi dài, đăng trong giai phẩm KHHB thì bất tiện, vì vậy tôi đã gửi về để đăng trong Lịch Sách Tử Vi- Văn Nghệ Tiền Phong 1974 Giáp Dần.
Ở đây tôi chỉ xin tóm lược để quý bạn mới nhập môn Tử vi lưu ý không nên coi thường việc tìm hiểu giá trị thực và những “Cách Áp Dụng” đứng đắn của Khoa Tử vi, trước khi bắt tay vào việc nghiên cứu chi tiết. Nếu không bỏ ra chút ít thì giờ suy ngẫm về giá trị thực, về công dụng cũng như những “Cách Áp Dụng” đứng đắn của khoa Tư ci, nếu cứ hiểu lầm rằng Tử vi là cái máy, là cái khuôn đúc hoặc chỉ theo ý thích riêng, theo tin tưởng cực đoan, hoặc vội vã theo trào lưu, hấp tấp đi vào chi tiết thì sẽ vấp phải nhiều mâu thuẫn, nhiều lúng túng khi nghiên cứu một lá số.
2- Vô tình tạo thêm sự rắc rối vì không chú ý đến các vòng Sao
Trước một lá số chằng chịt những trên một trăm vị Sao, người mới nhập môn không khỏi thấy hoa mắt.
Để có một cái nhìn bình tĩnh mạch lạc trước khu rừng trên một trăm vị Sao, người nghiên cứu cần ghi nhận đặc tính của ba vòng “Sao”. Vòng Lộc Tồn- Vòng Tràng Sinh – Vòng Thái Tuế.
Mỗi vòng có 12 ngôi luân lưu theo một thứ tự không thay dổi. Do đó một ngôi chính, luôn luôn có một ngôi đối xứng và hai ngôi tam hợp không thay đổi.
Nhìn vào cung chính, thấy Lộc Tồn, nếu đã nhớ quen thứ tự vòng “ Sao” thì biết ngay là có Tướng Quân và Bệnh phù hợp chiếu, có Phi Liêm đối chiếu. Đó là một trật tự tất nhiên, không bao giờ thay đổi. Nếu luận rằng: “có Lộc Tồn lại được Tướng Quân hợp chiếu…” thì đó chỉ là luận thừa, tự mình rối mắt nhìn quanh, chẳng khác nào người chóng mặt nhìn thấy hai ba cái bóng của chính mình. Nếu luận rằng đã có “Lộc Tồn lại có Phi Liêm Bệnh Phù xung và hợp chiếu” thì chẳng khác nào luận rằng “ Đã có cái đầu lại có hai cái tay…” Lộc Tồn bao giờ chẳng có Phi Liêm Bệnh Phù chiếu? Nếu luận là đã có Lộc Tồn thì có Lộc, gặp Phi Liêm chiếu thì coi chừng khẩu thiệt, gặp Bệnh Phù thì coi chừng đau ốm, mà ngẫu nhiên có đúng thì cũng chỉ là chuyện gặp may, chứ chẳng phải là một cái nhìn mạch lạc, chẳng có giá trị Lý Học, Khoa Học nào trong đó cả.
Trong những trường hợp có thêm trợ tinh khác thì mới lưu ý thêm đến cung Tam hợp. Thí dụ: cung chính có Thiên Tướng, Lộc Tồn. Lộc Tồn đương nhiên có Tướng Quân chiếu. Nhưng ở đây Tướng Quân đã gặp Thiên Tướng để thành bộ lưỡng tướng, lúc ấy mới nên xét thêm đến ngôi Tướng Quân. Chẳng khác nào “ Đã có cái đầu, lại có hai tay” nhưng trong trường hợp sau này thì cái tay được võ trang, trang bị thêm, đây mới là trường hợp đáng cứu xét.
Cũng như cung chính đã có Phi Liêm, thì đương nhiên đối cung phải là Lộc Tồn, tam hợp phải là Thanh Long, Phục binh.
Nếu luận rằng đã có Phi Liêm lại gặp Phục Binh, thì chỉ là do cái nhìn rối mắt mà ra. Bao giờ nó chẳng gặp nhau. Nếu Phục Binh có gặp Đẩu quân thành bộ Phục Đẩu thì mới đáng để ý, còn không thì thôi.
Nhìn vào cung chính thấy có Phi Liêm thì coi chừng khẩu thiệt. Lại nói “may được Lộc Tồn cứu giải” thì là luận thừa. Phi Liêm bao giờ chẳng có Lộc Tồn đối chiếu. Nếu có gặp Hóa Lộc thành bộ Song Lộc thì mới đáng kể. (Song Lộc cũng cứu giải).
Khi có nhận định, ghi nhớ, thứ tự của 12 ngôi trong mỗi vòng thì mới tránh được trường hợp vì hoa mắt mà “thả mồi, bắt bóng”.
Thấy có Bệnh phù ở cung chính thì nhớ mang máng là chủ đau ốm, bệnh hoạn, v..v.. không xét đến “Ý nghĩa” Lý Học của ngôi Bệnh Phù trong vòng Lộc Tồn, hoặc là không ưa nghe cái tên Bệnh Phù mơ hồ xấu xí, hoặc là lại dối lòng, cho rằng đó là “ Sao Nhỏ” bỏ đi, gắn cái nhìn của mình vào Thanh Long ở đối cung chiếu vì cái tên Thanh Long nghe hấp dẫn hơn, dễ hiểu hơn.
Vòng Thái Tuế cũng vậy, cũng có những thứ tự cố định của các ngôi. Người nghiên cứu cần thuộc lòng thứ tự các ngôi của ba vòng Lộc Tồn- Tràng Sinh-Thái Tuế, để đỡ hoa mắt luận thừa, mệt trí mà không đem lại cái nhìn sáng suốt hơn. Thí dụ như thấy có Thái Tuế ở cung chính, liếc mắt thấy Tuế Phá ở đối cung liền giật mình, bảo là có Lưỡng Tuế thì hại lắm. Lại hoảng hốt thêm khi thấy có Quan Phủ, Bạch Hổ hợp chiếu. Đó chỉ là do rối mắt, hoa mắt mà ra. Thái Tuế bao giờ chẳng có Tuế Phá, Quan Phù, Bạch Hổ xung hợp chiếu. Đó là trật tự tất nhiên của 12 ngôi trong vòng Thái Tuế. Trừ phi ngôi Quan Phù hoặc Bạch Hổ có gặp thêm sao khác, hợp thành bộ khác ( như Diêu Hổ chẳng hạn) lúc ấy mới cần xét thêm sau….
Vòng Tràng Sinh cũng vậy. Cứ tìm hiểu ý nghĩa của ngôi Tràng Sinh tại Mệnh viên là đủ. Nói rằng Mệnh có Sinh Vượng chỉ là một cách phát biểu thiên lệch, đề cao cái tốt theo thiện cảm của mình, làm cho ý nghĩ bị lệch lạc. Thích người ta thì nói rằng “Mệnh có Sinh Vượng” Không thích người ta, thì sẽ nói rằng Mệnh có “ Sinh Bệnh” hay sao? Đến khi ghét người ta thì sẽ nói là Mệnh có “ Sinh Mộ”, rồi đến khi trù ẻo người ta, thì sẽ nói là Mệnh có “Sinh Mộ” và bị Tuyệt nhị hợp hay sao? Vì không nhớ rõ 12 ngôi trật tự trong một vòng, cho nên dễ bị hoa mắt, đến khi có ác cảm với một lá số thì lại nói là “Mệnh đã có Mộc Dục lại còn bị sao Tử Tuyệt chiếu”!.
Ghi nhớ trật tự tất nhiên của 12 ngôi trong mỗi vòng, người nghiên cứu sẽ đỡ hoa mắt, đỡ luận thừa
3- Góp ý kiến với ông Cao Trung về vòng Tràng Sinh
Kể đến giai phẩm KHHB – EI, thì loạt bài của ông Cao Trung và quan niệm của tôi về vòng Tràng Sinh không có gì trái ngược nhau, tuy nhiên, tôi cũng xin được góp thêm một vài điều nhận xét.
Cùng một Ông Tổ là Dịch lý mà cái học về Tử Vi và Bốc Dịch là cái học về Phần Động, về phần Tương Quan, còn cái học về Địa Lý là cái học về phần Tĩnh. Các thế đất đã cố định, không di động, không thể đem khu đất ở Sài gòn để ráp với khu đất ở Huế. Trong khi đó hai người cùng ngày giờ sinh vẫn có những người hôn phối khác tuổi nhau. Luận về một Quẻ Dịch cũng phải xét đến các yếu tố Tương Quan.
Tuy cùng một Ông Tổ là Dịch lý nhưng Tử Vi và Địa Lý đã đi vào hai “chi” khác nhau và phải có một số nguyên tắc khác nhau. Cũng như từ một thân mình mọc ra, mà chân thì để đi đứng, còn tay thì để làm việc. Tuy rằng chân và tay có một số trường hợp giúp ích cho nhau, nhưng nguyên tắc hoạt động của chân và của tay phải khác nhau.
Không thể đem Vòng Tràng Sinh của Địa Lý để gán ghép cho Tử Vi.
Trong cái học về Tĩnh, lấy Mộ hướng làm chuẩn để dịch các hướng khác, thì trong cái học về Động, về Tương Quan, lại lấy Sinh làm gốc để khởi các hướng khác.
Vì vậy trong Quẻ Dịch, dù Dụng Thần là Hào Âm hay Hào Dương cũng vẫn tính Tràng Sinh ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
Tử Vi và Bốc Dịch đã có liên hệ khăng khít như tay phải và tay trái.
Học giả Huỳnh Kim đã để lại một bài phú bồi đắp quan trọng cho Khoa Tử Vi.
Những câu:
- Khốc Hư Tý Ngọc, tiền bần hậu phú.
- Mã ngộ Tràng Sinh, thanh vân đắc lộ.
- Lương phùng Hao Sát tại Tỵ cung đao nghiệp hình thương v..v..v
Và còn rất nhiều câu khác, đặt thành vần, thành vế đối, đều là của Huỳnh Kim. Tiếc rằng, các nhà soạn sách Tử Vi sau này đã tách rời các câu trong bài phú ấy, để đặt thành hệ thống có vẻ Khoa Học Tây Phương, hoặc là vì thành kiến, đã dẹp cái tên Huỳnh Kinh đi, để suy tôn Trần Đoàn lên ngôi độc đáo mà vô tình các nhà nghiên cứu sau này, không mấy ai nhận ra được câu nào là của Trần Đoàn, câu phú nào là của Huỳnh Kim. Có khi đọc xong một câu phú Huỳnh Kim lại rung đùi ca tụng … Trần Đoàn! Chính vì thế mà trước những tài liệu Tử Vi bằng chữ Hán (hoặc chữ Nho viết tay) dù là từ Đài Loan, từ Hồng Kông, tại Việt nam, hay dù được giới thiệu rằng đó đó là tài liệu chân truyền, bí truyền từ nhiều đời trước tôi vẫn thận trọng tra cứu, so sánh và thấy có xen lẫn lắm cái “ngớ ngẩn” như tôi đã trình bày trong KHHB E1.
Một bài phú quan trọng cho Quẻ Dịch, và một bài phú bồi đắp lớn lao cho Tử Vi, đều cùng do một học giải để lại, thì chúng ta có thể tin rằng hai khoa này phải có liên hệ mật thiết về Lý Thuyết, không có cái gì mâu thuẫn giữa hai khoa này.
Tử Vi và Bốc Dịch đều cùng có lý thuyết “ Tuyệt xứ phùng sinh” mà dù là cách áp dụng có hơi khác nhau. Tôi đã theo lời dẫn của các cụ, đem câu “ Sinh Vượng..không rõ Mộ Tuyệt- Mộ Tuyệt … (chở) Sinh Vượng phá một tắc khai v.v…
“Áp dụng” vào Tử Vi thì thấy cũng đúng. Có lẽ vì người xưa phần nhiều học truyền khẩu, đinh ninh rằng người đi sau đều hiểu được quan điểm của người đi trước, cho nên đã không đặt thành vấn đề ghi chép tỷ mỉ vào trong sách vở Tử Vi.
Vòng Tràng Sinh trong Tử Vi là vòng Cục, vòng Nhập Cuộc, vòng Nhân Sự. Vòng này không phải là các “Sao Nhỏ” mà nên chiêm nghiệm toàn vòng, mỗi ngôi là một phương diện, một hướng của cái “vòng” Nhất Thế ấy”. Vòng này quan trọng đến nỗi, trong tất cả các lá số xưa mà tôi sưu tầm được (tôi lại vừa may mắn gặp được thêm một lá số lập thành cách đây 67 năm) cổ nhân đều viết riêng bằng chữ to, chứ không viết lẫn lộn với các sao khác.
Muốn chiêm nghiệm về các Ngôi trong vòng Cuộc, thì chiêm nghiệm theo cái “ý Nghĩa” của toàn vòng, chứ không nên tách rời thành từng “Ông Sao Nhỏ” như thấy sao Thai ngộ Đào Hoa, sao Mộc Dục gặp Hoa Cái, sao Dưỡng v.v… trong một số trường hợp ngẫu nhiên … rồi hoang mang không nhận định được ý nghĩa của vòng Cuộc.
Mệnh dù là danh nhân, lá số dù đứng vào thượng cách, mà lại ở vào phương Tuyệt của vòng cuộc (không nên tách ra coi riêng một ông Sao Tuyệt) thì về phương diện Nhân Sự, khi lao mình nhập cuộc sẽ có lắm điều trái lòng, thất vọng, thêm hung tinh trợ lực nữa thì có khi là tuyệt vọng, (ở trong phạm vi của danh nhân, của thượng cách).
Tuyệt đài sinh (chờ sinh). Chờ đến đại hạn ở Sinh hướng (Tràng Sinh) thì phần nhập cuộc có triển vọng thỏai mái hơn. Tôi xin nói là có triển vọng, vì vòng cuộc mới chỉ là một trong ba nhóm sao, biểu tượng của Thiên – Nhân – Địa và cũng còn thêm ảnh hưởng trợ lực của các “Sao tổng quát khác (không có sao nào là “Sao Nhỏ’ cả). Nếu nó nhỏ và ảnh hưởng không đáng kể thì cổ nhân đã mất công tìm tòi khám phá làm gì?
Trong Địa Lý thì căn cứ vào “Thủy Tả đảo Hữu, hoặc Thủy Hữu đảo Tả” mà định Âm, Dương cho cuộc đất. Đây là phần Tĩnh, lấy Mộ hướng làm chuẩn.
Trong Tư Vi và Bốc Dịch thì vòng Cục đã có một ý nghĩa khác, để xem về Tương Quan, về phần Động, về Nhân sự, Nhập Cuộc v..v…
Tuy cùng một ông Tổ là Dịch Lý nhưng Tử Vi và Địa Lý đã đi vào hai “chi” khác nhau. Ở gốc thì là một, nhưng ở ngọn thì là hai. Không thể vì quá thích thú, say mê Địa Lý mà đem cái Âm Cục, Dương Cục của Đại Lý vào trong Tử - Vi. Vả lại, khoa Địa Lý không phải là một khoa duy nhất đã phát sinh ra vòng Tràng Sinh “cho” Lý Học Đông Phương.
Như trên đã trình bày, cùng một học giả Huỳnh Kim đã xây dựng quan trọng cho Quẻ Dịch, đã bồi đắp lớn lao cho Tử Vi thì quan niệm về vòng Tràng Sinh của Tử - Vi và của Bốc Dịch phải gần nhau mật thiết hơn.
Vòng Tràng sinh trong Tử vi cũng rất quan trọng và người xưa đã viết riêng, viết bằng chữ to, chứ không để lẫn lộn với các sao khác. Muốn chiêm nghiệm vòng này thì nên chiêm nghiệm theo cái “Ý nghĩa” của toàn vòng, chứ không phải cắt ra từng “Ông Sao” nhỏ như Tử, Tuyệt, Mộc Dục, Thai v…v… Cái việc Thai ngộ Đào Hoa, Mộc phùng Hoa Cái v,v… chỉ là sự kết hợp phụ của vòng Cục với một vài sao khác. Đó không phải là ảnh hưởng chính yếu của vòng Cục, một trong ba vòng quan trọng của Tử vi.
Tôi xin mạo muội góp thêm một vài nhận xét với ông Cao Trung về vòng Tràng Sinh.
Bài này đã khá dài, tôi xin hẹn lại kỳ tới, sẽ bàn về Mệnh Chủ, Thân Chủ, Thiên Trù, Lưu Niên Văn Tinh.
Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Trong bát tự, đàn ông có những đặc điểm dưới đây không phù hợp để lấy làm chồng. Nếu quý cô nào gặp phải, xin hãy thận trọng, chỉ nên làm bạn thay vì “trao thân gửi phận” suốt đời.
1. Đàn ông bát tự có Thực Thương và Thứ Tài hưng vượng
Thực Thương đại diện cho háo sắc, trăng hoa, không thể kiểm soát được dục vọng của bản thân. Thứ Tài thể hiện mối tình ngoài luồng của đàn ông. Nếu bát tự của nam giới có đặc điểm này, chứng tỏ đây là người có nhiều mối quan hệ phức tạp, khó chung thủy trong tình yêu.
![]() |
Tháng sinh là nhân tố quan trọng trong bát tự, tháng sinh khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau đến mệnh lý. Sau đây là ba tháng sinh khiến chủ nhân không phải lo lắng về tiền bạc từ trung vận.
![]() |
Chọn cây theo phong thủy né trở ngại trong sự nghiệp![]() |
| => Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất |
Trong phong thủy xưa và nay, việc dùng linh vật trấn yểm để xua đuổi tà khí, thu hút sinh khí nhằm mang lại bình yên cho ngôi nhà hay các công trình xây dựng là điều phổ biến. Các linh vật chủ yếu được sử dụng là tứ linh gồm: Long, Ly, Quy, Phượng. Tuy nhiên bên cạnh đó con Nghê cũng được coi là một linh vật trấn yểm rất quan trọng.
Bất ngờ chuyện nhà tướng cướp... yểm Nghê
Thời gian vừa qua, nhiều người dân khi đào móng xây nhà thường phát hiện ra những con Nghê cổ được chôn dưới móng nhà cũ. Tháng 10 năm ngoái trong lúc đào móng xây nhà, gia đình anh Nguyễn Văn Ngọc ( xóm 7, xã Tam Cường, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) đã tình cờ đào được một con Nghê cổ bằng đá xanh. Con Nghê nặng khoảng 3 kg, dài 35cm, rộng 30cm với những hoa văn và đường nét chạm trổ hết sức độc đáo. Theo một số người am hiểu lĩnh vực này thì con Nghê có xuất xứ từ thời Lý. Vậy thì gia đình anh Ngọc (từ các đời trước) có chôn Nghê để trấn yểm hay không?
![]() |
| Sử dụng Sư tử hay Kì lân để trấn yểm hoàn toàn xa lạ với văn hóa Việt. |
Theo anh Ngọc thì anh không được nghe kể hay bất kỳ chuyện trấn yểm hay bùa ngải ở đất nhà mình. Vậy đây có phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi những con Nghê này bị vùi lấp khi trải qua những biến thiên của lịch sử?
Chuyện người dân khi đào móng nhà tìm thấy linh vật là Nghê cổ không còn quá xa lạ.
Mới đây nhất tại nhà anh H. (Bắc Ninh) trong quá trình đào móng nhà cũng phát hiện một con Nghê bằng đồng có hình dáng rất lạ. Tạo hình con Nghê này là cụt đuôi, mặt hướng về phía trước, thân vặn về phía sau như thể đang chuẩn bị chạy trốn. Anh H. cho biết: “Khi đào móng làm nhà, tôi đã phát hiện ra con Nghê đồng này. Tôi không được ông cha kể về việc trấn yểm nhà bằng Nghê nên thấy làm lạ khi phát hiện ra nó.
Nhiều người, kể cả người thân trong họ tộc, biết việc này đều bảo tôi phải mời thầy địa lý, thầy cúng về xem lại đất nhưng tôi vẫn rất phân vân chưa quyết định. Cha tôi cũng không nói gì về chuyện này. Ngay cả ông nội tôi lúc sinh thời cũng chưa hề nhắc đến chuyện trấn yểm nhà bằng Nghê đồng”.
Trong quá trình tìm hiểu, PV được biết, gia đình từ đời cụ kỵ của anh H. không được “thuận” lắm. Từ đời cụ cho đến đời bố anh H. đều có thành tích “bất hảo”. Nhiều người cao tuổi trong làng cho biết, cụ anh H. từng là một tướng cướp có tiếng thời Pháp thuộc.
Thế rồi đến đời bố anh H. cũng có nhiều sự kiện không hay xảy ra. Điểm trùng hợp lạ lùng là cả ông và bố anh H. đều có những người vợ sinh trưởng trong gia đình gia giáo, xinh đẹp nhưng chết trẻ khi chưa có con. Vì vậy nhiều người trong làng khi thấy Nghê cổ chôn dưới móng nhà thì cho rằng đó là vật trấn yểm của các cụ nhà anh H. ngày trước. Nhiều người khuyên anh nên đi mời thầy địa lý, thầy cúng về xem cho khỏi “động mạch”.
Từ những trường hợp như trên, nhiều ý kiến tranh luận quanh việc Nghê có được coi là một linh vật trấn yểm hay không? Dưới cái nhìn của các chuyên gia văn hóa, phong thủy, linh vật này có vai trò như thế nào trong việc xua đuổi tà khí và mang lại thịnh vượng cho gia chủ?
![]() |
| Con Nghê trong hình dáng giống chó đá. |
Dưới cái nhìn của một nhà nghiên cứu văn hóa, TS. Đinh Hồng Hải (viện Nghiên cứu Văn hóa, viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) phân tích: “Con Nghê là một linh vật rất phức tạp và không đơn giản như các linh vật khác. Đến nay chưa tìm thấy tài liệu lịch sử nào có thể xác định nguồn gốc ra đời và ý nghĩa cụ thể của nó. Chúng ta chỉ biết được gốc tích của nó thông qua những bức phù điêu còn sót lại. Không như các linh vật của Trung Quốc khi mà mỗi con đều có quy định về vai trò, vị trí rất rõ ràng, linh vật Nghê của Việt Nam hầu hết là sản phẩm của dân gian. Chính bởi vậy mọi yếu tố chỉ là tương đối mà thôi”.
Hóa giải được hung khí?
Nhằm làm rõ thực hư khả năng trấn yểm của linh vật mang tên Nghê, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với chuyên gia phong thủy Phạm Cương. Chuyên gia Phạm Cương cho biết: “Trấn và yểm theo tôi cần phân biệt nhằm tránh đồng nhất giữa hai khái niệm này. Theo quan niệm phong thủy thì “trấn” dùng để chỉ việc đặt các vật khí phong thủy hiện hữu trên mặt đất và nhìn thấy được, còn “yểm” là các vật đó được đem chôn dưới đất hoặc gói bọc ... nhằm đạt được mục đích làm phong thủy”.
Lý giải những hoài nghi quanh việc người dân thường xuyên đào được Nghê dưới móng và cho rằng đó là phương pháp yểm đất của người xưa, chuyên gia Phạm Cương không đồng tình với cách nhìn nhận như vậy. Theo chuyên gia này thì Nghê chủ yếu được sử dụng để trấn giữ cửa đình, chùa hoặc cửa ngôi nhà. Ngoài ra, nó còn được dùng như họa tiết trang trí trên mái các ngôi đình, chùa đó. Nghê ít sử dụng để yểm đất (tức chôn xuống). “Trải qua hàng ngàn năm với các tầng văn hóa nối tiếp nhau nên rất nhiều Nghê bị chôn vùi dưới đất. Vì vậy, ngày nay khi tiến hành xây dựng, chúng ta có thể gặp Nghê bên dưới lòng đất. Thông thường đó là những con Nghê cách đây vài chục, vài trăm năm hoặc hơn nữa, được bài trí trước nhà cửa để bảo hộ cho gia chủ bình an và theo năm tháng bị vùi lấp xuống dưới đất” – chuyên gia Phạm Cương nói.
Tuy nhiên, chuyên gia này cũng đánh giá cao cái gọi là tác dụng của Nghê trong việc trấn giữ cửa nhà nói riêng và vai trò trấn giữ tại các công trình kiến trúc mang tính tâm linh nói chung. Anh chia sẻ: “Trong phong thủy, Nghê thường được dùng trấn giữ cửa nhà, hóa giải hung khí chiếu tới khi đối diện với cửa nhà khác hay bị ngã ba ngã tư, đường vòng, hoặc góc nhọn chiếu vào cửa nhà. Nghê cũng dùng để hóa giải hung khí của các sao Sát khí như Ngũ Hoàng, Nhị Hắc ... chiếu mỗi năm”.
Tất nhiên việc dùng Nghê để trấn các ngôi nhà, các công trình kiến trúc tâm linh cần được xem xét cẩn thận. Nói theo cách của chuyên gia Phạm Cương thì việc sử dụng Nghê để trấn yểm chủ yếu dựa vào hướng nhà, phương vị nhà cùng với thuyết âm dương, ngũ hành và bài trí trên mặt đất chứ ít khi chôn xuống dưới.
Nghê hiện nay được làm từ nhiều chất liệu khác nhau như đồng, gốm sứ, gỗ. Tùy vào từng hướng nhà mà gia chủ có thể sử dụng cho phù hợp. Chẳng hạn khi chúng ta cần dùng hành Mộc có thể sử dụng Nghê gỗ, hành Thổ dùng Nghê bằng gốm sứ, hành Kim dùng nghê đồng. Nghĩa là mỗi chất liệu đều có tác dụng cụ thể khác nhau đối với mảnh đất và mạng số của gia chủ đó.
![]() |
| Hình tượng con Nghê đang dần biến mất. |
Riêng đối với những trường hợp đào được Nghê dưới móng nhà, người dân cũng không cần phải hoang mang hay có những nghi vấn mang tính chất hoang đường. Điều này vốn rất bình thường và không nên đẩy vấn đề đi quá xa. Chuyên gia Phạm Cương cảnh báo: “Khi xây nhà nếu người dân phát hiện Nghê thì cũng không nên quá lo lắng vì đó thực chất là những con Nghê vô tình bị vùi lấp từ các thời kỳ trước chứ không phải dùng để yểm long mạch của khu đất đó. Những con Nghê này thường mang ý nghĩa tích cực nhiều hơn là tiêu cực, cho nên khi gặp tình huống này không nên quá hoang mang. Trong trường hợp còn nghi ngờ, người dân nên gặp các chuyên gia uy tín để được giải thích không nhất thiết phải bày vẽ cúng bái gây tốn kém tiền bạc mà lại không giải quyết được vấn đề gì”.
Trong khi đó nhà nghiên cứu Trần Hậu Yên Thế (đại học Mỹ thuật Việt Nam) cho biết: “Con Nghê trong suy nghĩ của người Việt không có tác dụng trấn yểm mạnh như các linh vật khác của Trung Quốc. Hai trạng thái tình cảm lớn nhất của hình tượng này là trầm mặc và hoan hỉ. Rất ít hình tượng Nghê có biểu hiện dữ dằn trong tạo tác như Sư tử hay Kì lân. Chính bởi vậy con Nghê không có chức năng đe dọa, hung tợn và tất nhiên, nếu thế thì khả năng trấn giữ của nó không mạnh bằng các linh vật khác”.
| Vì sao Nghê được dùng để trấn giữ chốn thiêng? Hiện nay có nhiều thắc mắc về việc sử dụng Nghê để trấn giữ tại các cổng đền, chùa hay trên mái của các công trình tôn giáo. Câu hỏi là sao người ta lại chọn Nghê chứ không phải là các linh vật khác? Chuyên gia phong thủy Phạm Cương lý giải: “Tùy theo tính chất và quy mô của công trình mà chúng ta sử dụng các linh vật cho phù hợp chứ không quy định cụ thể khi nào dùng Nghê, khi nào dùng các linh vật khác”. |
![]() |
Đeo nhẫn chuẩn phong thủy hút tài lộc và vận đào hoa![]() |
![]() |
![]() |
| => Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
Nhìn tướng tay biết ngay khả năng kiếm tiền của bạn
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| ► Tham khảo thêm: Mệnh Thổ hợp màu gì, mệnh Mộc hợp màu gì |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
| Ảnh minh họa |
| ► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ tra cứu ngày sinh con năm 2016 đẹp nhất và hợp tuổi bố mẹ |
![]() |
![]() |
| ► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Tránh xa những tướng đàn ông phong lưu ngoại tình
Xét về nghĩa, phóng sinh chính là "giải phóng sinh mệnh về với tự nhiên", trong đó con người là chủ thể của tự nhiên, có thể sát sinh, nên cũng có thể phóng sinh. Nhưng phóng sinh phải có những cách làm tích cực, để cứu tính mệnh của những sinh vật đang bị bắt, đợi giết... Vậy thực tế cần làm gì?
![]() |
| Trong những ngày lễ Tết, người Việt thường có phong tục phóng sinh. Ảnh: Anh Tuấn. |
Thứ nhất, về động cơ, phóng sinh thường có tâm nguyện cầu mong những điều tốt đẹp. Theo quan điểm biện chứng âm dương có được có mất, nhưng không nên kỳ vọng bỏ ra bao nhiêu sẽ được báo đáp bấy nhiêu, càng không nên kỳ vọng bỏ ra cái gì để được báo đáp cái ấy. Phóng sinh mà có tâm lý muốn được báo đáp, khi nguyện vọng của mình không được thỏa mãn, tư tưởng và hành vi của mình sẽ mất tính tích cực, mất ý nghĩa ban đầu của phóng sinh.
Thứ hai, cần cố gắng đưa sinh vật về môi trường sinh tồn được. Trong đó cần để ý đến các vấn đề sau:
- Tìm hiểu môi trường sinh tồn của sinh vật. Ví dụ không thả cá nước mặn (biển) xuống môi trường nước ngọt (ao hồ).
- Không phóng sinh vào môi trường lắm động vật ăn thịt, khó sinh tồn, hay môi trường sát hại động vật khác. Ví như không thả rùa chuyên ăn cá vào ao cá, cũng như không thả cá vào ao hồ toàn rùa ăn cá. Hoặc không phóng sinh rùa tai đỏ, ốc bươu vàng.
- Cố gắng phóng sinh vào môi trường khó bị bắt lại, như không phóng sinh cá vào ao nuôi...
- Cố gắng phóng sinh vào môi trường không có hại cho con người hay xã hội, ví như không phóng sinh bọ cạp, rắn rết ra đường phố...
Thứ ba, nếu phát hiện sinh vật phóng sinh có bệnh, cần cho khám chữa, khỏi rồi mới thả.
Thứ tư, đảm bảo sinh vật phóng sinh sống được, có ý nghĩa lâu dài. Mua vài trăm con cá đựng chật chội trong một chiếc xô, đảm bảo sẽ chết đến phân nửa. Do đó không được tham về số lượng. Có thể chỉ cần phóng sinh một con cá, quan trọng là đảm bảo nó vẫn mạnh khỏe khi thả.
Ưu tiên phóng sinh rùa (tránh rùa tai đỏ), ba ba, vì (1) sức sống tốt; (2) tuổi thọ lâu dài; (3) có tính tâm linh (còn được gọi là linh quy); (4) khắc được chữ "phóng sinh" lên mai, nhắc nhỏ người bắt được tiếp tục phóng sinh. Như vậy việc thả chúng về môi trường tự nhiên sẽ hiệu quả, có ý nghĩa.
Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng Phòng Phong thủy Kiến trúc
Viện Quy hoạch & Kiến trúc Đô thị - ĐHXD
Thông qua việc xem tướng các ngón chân, bạn có thể biết được một chút về vận mệnh cũng như sự giàu nghèo của bản thân.
1. Ngón chân thứ hai dài hơn ngón chân cái

Bạn là một người quyết đoán và có khả năng lãnh đạo tốt. Từ thời Ai Cập cổ đại, các vị vua chúa, những người nắm giữ vị trí cai trị đều có ngón chân thứ hai trong bàn chân dài hơn những người bình thường. Người sở hữu bàn chân như vậy còn là người có tinh thần trách nhiệm cao kể cả trong công việc lẫn cuộc sống hàng ngày.
Không chỉ có vậy, bạn còn là người sôi nổi và tràn đầy năng lượng. Do đó, bạn luôn là trung tâm của các hoạt động vui chơi giải trí.
2. Ngón chân thứ hai và thứ ba cách xa nhau

Nếu đây là hình dáng bàn chân của bạn thì nó nói rằng: bạn đang sở hữu đôi chân của một “điệp viên”. Bạn có khả năng quan sát mọi thứ xung quanh một cách tinh tế, nắm bắt tình hình nhanh chóng và ngụy trang khá tốt cho những cảm xúc bản thân. Điều đó khiến những người xung quanh không thể nắm bắt được suy nghĩ và hành động của bạn.
Tuy vậy tính cách này của bạn đôi khi sẽ gây ra hiểu lầm không đáng có. Trong công việc, bạn luôn được giao nhiệm vụ quan trọng vì sự đáng tin cậy và tính chuyên nghiệp.
3. Ngón chân út cực nhỏ

Ngón chân út nhỏ nhắn biểu hiện cho sự ngây thơ trong sáng của bạn. Bàn chân này cũng chỉ ra rằng bạn là người hóm hỉnh và hài hước. Bạn luôn đem lại cho người đối diện cảm giác gần gũi thân thiện, mọi người thường tìm đến bạn để chia sẻ tâm tình.
Bên cạnh đó, trong những thử thách phải đối đầu, bạn khá can đảm, và một khi đã đưa ra quyết định thì không điều gì có thể khiến bạn thay đổi quyết định đó.
4. Ngón chân thứ hai ngả vào ngón chân cái

Bàn chân này cho thấy chủ nhân là một người ủy mị, hay nhớ về những kỷ niệm đã qua. Bạn giàu cảm xúc, nhưng đôi lúc lại quá yếu đuối. Sự yếu đuối ấy nhiều khi khiến mọi người cảm giác khó chịu và có cái nhìn khác đi về bạn.
Mặt khác, bạn lại là một người khá chín chắn. Trước khi quyết định làm một việc gì đó, bạn thường tìm hiểu và suy nghĩ rất kỹ, tính toán trước sau sao cho phù hợp nhất. Điều này sẽ giúp bạn lựa chọn được đúng hướng đi cho công việc cũng như cuộc sống của mình.
5. Ngón chân út cong lại

Lá số tử vi cụ Nguyễn Công Trứ
Sinh ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Tuất giờ Thìn

Tiểu sử
1803: Dâng Thái Bình Thập Sách cho vua Gia Long, được ban khen
1807: Thi hương lần đầu và trượt sau đó là trượ liên tục
1819: 42 tuổi thi đậu Giải Nguyên, khởi đầu hoạn lộ 28 năm.
1819: Quốc Sử Quán Hành Tẩu thăng Biên Tu
1823: Tri phủ Mỹ Hào
1824: Quốc Tử Giám Tư Nghiệp
1825: Tham Hiệp Trấn Thanh Hóa
1827: Thăng Hình Bộ Thị Lang, lập công đánh dẹp loạn Phan Bá Vành ở Nam Định
1828: Thăng Hình Bộ Tả Thị Lang lĩnh Nam Định Doanh Điền Sứ. Công nghiệp: Khai hoang mở đất, lập 2 huyện mới là Kim Sơn, Tiền Hải ở Ninh Bình, Nam Định.
1830: Thăng Binh Bộ Thự Tham Tri (Tương đương Thứ Trưởng Quốc Phòng)
1831: Bị giáng 8 cấp xuống làm Tri Huyện
1832: Được lên chức lại làm Bố Chính Sứ Hải Dương
1833: Thăng Thự Tổng Đốc Hải An
1834: Thăng Tham Tán Đại Thần, cầm quân đánh dẹp loạn Nùng Văn Vân, Cao Bá Quát
1836: Bị giáng 4 cấp vì để tù xổng
1838: Có công khai hoang lập 1 làng ven biển và tiểu trừ cướp biển nên được vời về Kinh thăng Hữu Tham Tri kiêm Phó Đô Ngự Sử (Cở Phó Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Tối Cao hàm Thứ Trưởng), sau lại được cử làm Chánh Chủ Khảo Trường Thi Hương Hà Nội
1840-1841: Thăng Tham Tán Quân Vụ Trấn Tây thành mang quân đi đánh dẹp Cao Miên, do lui binh về An Giang không tuân theo chỉ dụ triều đình nên bị kết án “Trảm Giam Hậu” (Án chém đầu nhưng còn treo đầu để đó). Sau đó lập công nên chỉ bị giáng 3 cấp làm Binh Bộ Thị Lang kiêm lĩnh Tuần Phủ An Giang
1843: Bị đàn hặc vì dung túng cho người nhà buôn lậu nên bị cách tuột hết chức vụ xuống làm Lính Thú ở Quảng Ngãi. (Đời lên voi xuống chó như vậy là cùng, từ Tỉnh Trưởng rớt 1 phát xuống làm lính biên phòng)
1846: Được thăng lên lại làm Chủ Sự, Hình Bộ Thự Viên Ngoại Lang (Tương đương chánh thư ký một vụ trong bộ Tư Pháp). Sau đó thăng lên Quyền Án Sát Quảng Ngãi (Phó Tỉnh Trưởng đặc trách tư pháp)
1847: Thăng Phủ Doãn Thừa Thiên (Tương đương Đô Trưởng Đặc Khu Thủ Đô)
1848: Trí sĩ hồi hưu
1858: Mệnh một, trước khi mất nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng, Nguyễn Công Trứ dù tuổi đã 80 nhưng cũng hăng hái xin tòng quân đánh giặc.
Công nghiệp:
Quân sự:
Dẹp loạn Lê Văn Lương, Phan Bá Vành, Nông Văn Vân, Cao Miên
Kinh Tế:
Khai hoang lấn biển, lập thêm 2 huyện Kim Sơn, Tiền Hải, được dân 2 huyện này lập đền thờ sống tôn làm “Uy Viễn Tướng Công”
Văn Hóa:
Với hàng ngàn bài thơ Nôm có giá trị, Nguyễn Công Trứ đã góp phần tạo nên một bước tiến lớn của văn học chữ Nôm thế kỷ 19.
Mệnh Mộc Cục Mộc sinh phùng tuyệt địa
Thế Âm Dương
Tử Vi: Thìn bị Tuần
Phá Quân: Tuất đồng cung Thái Tuế
Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi tại Nô nhưng Nguyệt hóa Quyền tự Khoa lại nằm trong chính vị của Tam Hóa Liên Châu
Triệt: Trường hợp này tác dụng yếu (TBCT06) (kiểm nghiệm)
Phân Kim:
Mệnh Liêm Trinh, Thân Tử Vi đới Thiên Tướng, nằm trong Tam Hợp Tử Vũ Liêm nên vị trí của Thái Dương đóng phần quyết định. Thái Dương trong thế tranh huy, nhưng Nguyệt hóa Quyền trong thế Tam Hóa Liên Châu, thành ra sự thành bại của cuộc đời lại nằm ở Nô Cung vậy.
Mệnh Cách trong lá số tử vi:
Liêm Trinh miếu địa, Mã Khốc Khách, Hợp Lộc Củng Lộc, Khoa Lộc, Tả Hữu, Long Phượng, Thai Tọa, Thiên Mã Tam Thai, Lộc Mã Giao Trì.
Quan Cách trong lá số tử vi:
Phủ Vũ sáng đẹp, Xương Khúc chiếu thêm Lưỡng Khúc Trùng Phùng
Thân Cách trong lá số tử vi:
Tử Tướng lạc Thiên La bị Đà La vây hãm tiếp, may có Tuần phá giải và làm Mộc cục không thực Suy để thân vượng lên.
Nếu xem mệnh Thân như trên thì ít ra cũng làm Thượng Thư, vì Liêm Trinh rất sáng và Thiên Mã đắc lực.
Người Lưỡng Khúc trùng phùng nên Nguyễn Tướng Công văn võ song toàn. Quan có Vũ Phủ thì tài kinh bang tế thế có thừa. Nhưng tiếc thay, Liêm Trinh không nên gặp Văn Khúc, dù là miếu địa thì khó tránh khỏi cái họa do tài hoa. Quả vậy, dù được triều đình trọng dụng bằng chứng là vì tài giỏi quá nên dù cách chức rồi nhưng cuối cùng khi cần vua cũng phải dùng đến, nhưng có bao giờ vua tin đâu, nên đâu có được vào nội các hay cơ mật viện. Tài của Nguyễn Công Trứ, thượng thư Trương Đăng Quế, Phạm Đăng Hưng làm sao sánh nổi. Vậy mà
Đây với Đó tuy đai tuy mão
Đó với Đây khác chức khác tài
Đây hãn mã công dày xã tắc
Đó ngồi trên Đây có tức không?
Thêm Mã Khốc Khách Song Lộc Tam Thai thì uy danh lừng lẫy dẹp Phan Bá Vành, phá Nông Văn Vân, bình Cao Miên, công hãn mã từng ấy nhưng tiếc thay tuy uy danh lừng lẫy nhưng phóng túng khinh mạn cũng mấy ai hơn khi Song Hao Dần Thân dẫu đắc nhưng cũng khiến Mã giãm bao phần uy nghi lẫm liệt.
Cái chất vừa tài hoa nặng nợ tang bồng nhưng không kém phần khinh mạn thể hiện rất rõ qua bộ “Liêm Khúc và Tuấn Mã gặp Hao”, khi khoa trường lận đận thì
“Có trung hiếu nên sống trong trời đất
Không công danh thà nát với cỏ cây”
Đến tóc pha sương mới đặng chút danh, đường hoạn lộ bao phen voi chó, sống sân rồng phải xét mặt rồng, nghe tiếng sấm vô thường quở phạt, chút danh tàn theo cánh vạc bay. Chi bằng tiêu thú qua ngày, thông rừng đâu sợ chút oai của trời.
“Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông”
Cách lận đận khoa trường hoạn lộ của Nguyễn Công Trứ thể hiện ở điểm Lưỡng Khúc phùng Kỵ. Vũ Khúc tại cung Quan tự Kỵ nên mới thành cách Văn Khúc phùng Kỵ “Văn nhân bất nại”. Chứ sinh phùng Tuyệt địa thì chỉ liên quan đến bổn mạng lận đận thôi, không phản ánh đầy đủ cái nét học giỏi mà thi rớt hoài, làm quan thì bị lắm người ghét, xuống chó lên voi. Thói thường làm quan thời nào cũng phải có phe cánh, ông bị Vũ tự Kỵ tại cung Quan nên trong quan trường bị ghét thì làm sao có phe mạnh để hậu thuẫn. Chứ nếu NCT có phe trong triều thì đâu có thể thăng trầm vô độ như vậy.
Điểm Vũ tự Kỵ này năm ở Cung Tý nên hơi khó xem trong cách sao Tự Hóa. Vì tính theo lịch kiến dần thì chỉ tới 10 cung thôi, còn 2 cung Tí Sửu thì không biết phải căn cứ vào con giáp trước hay sau. Nếu tính theo con giáp trước trong lá số NCT thì 2 cung này là Nhâm Tí, Quý Sữu rồi đến Giáp Dần. Nếu tính theo con Giáp sau thì 2 cung này là Giáp Tí và Ất Sữu.
Nhưng nhờ lá số này mà CT đặt giả thuyết là nên căn cứ vào con giáp trước tức là Nhâm Tí Quý Sữu vì vị trí của Triệt Không là Nhâm Quý và theo cách của Kỳ Môn thì 2 cung này nên là Nhâm Quý. Tạm thời như vậy trước đi, sau này từ từ nghiệm nhiều số rồi mới kết luận.
Và theo TBCT thì Triệt trong trường hợp này tác dụng rất yếu nên Hóa Kỵ mới có tác dụng dữ dội làm 1 anh học trò nghèo tài hoa dâng “Thái Bình Thập Sách” tức là 10 kế sách làm đất nước thái bình lại quá sức lận đận trong đường hoạn lộ như vậy.
May là Kỵ có Khoa đồng cung nên không đến nổi ôm hận quan trường như Trần Tế Xương.
Cung Nô: Quyết Định đường Công Danh
Tử Vi Tối Trọng Âm Dương
Cung Nô vừa là Lính của ta mà cũng là Vua của Ta. Cung Nô quá sức sáng đẹp, Nhật Nguyệt Đồng Lâm Tam Hóa Liên Châu, Giáp Tả Hữu, Phượng Long, Thai Tọa lại nằm trong tam hợp Lộc Tướng Ấn thì mạnh hơn Mệnh Thân rất nhiều. Một cung lẻ ra nên Không Vong mà sáng đẹp như vậy thì làm sao là lính ta được mà phải là xếp, là vua là người ban ơn mưa móc cho ta thôi.
Thêm vào cái thế Âm Dương này, mệnh thuộc dòng Tử Vi thuộc Dương mà Dương thì yếu hơn Âm, Âm đang ở thế bá chủ thì Dương phải tòng Âm, Thái Âm biểu trưng cho chính nghĩa của dòng Phá Quân, nay Thái Âm sáng rực như vậy mà Phá Quân lại nắm quyền Thái Tuế thì mệnh muốn suông sẽ phải Tòng theo cung Nô vậy.
Thân sinh của Nguyễn Công Trứ là cụ Nguyễn Công Tấn vốn làm quan dưới đời Lê Chiêu Thống, ơn vua lộc nước bao đời đã gởi nơi họ Lê, nay thời thế thay đổi nhưng cái tâm trạng Hoài Lê “Thăng Long Hoài Cổ” của kẻ sĩ Bắc Hà vẫn còn mang mác lòng người.
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nay thời thế thay đổi, Nguyễn triều kế truyền quốc tộ, kẻ sĩ Bắc Hà tuy thân nương cửa Phú Xuân, nhưng tránh sao cho khỏi lòng hoài niệm đất Thăng Long. Triều đình còn nghi kỵ Kẻ Sĩ Bắc Hà, nên nhiều người phải thể hiện mình “Thức thời giả vi tuấn kiệt”, Nguyễn Công Trứ nằm trong số kẻ sĩ thức thời đó.
Khi vào vận 43-52 tại cung Quan có Khoa, chịu nương nhờ ánh sáng của cung Nô là tâm điểm của Tam Hóa, thể hiện một sự thức thời rất rõ ràng, nên trong suốt 10 năm này đường công danh tuy mới khởi đầu nhưng rất suôn sẽ, chỉ có thăng mà không có giáng.
Khi vào vận 53-62 tại cung Nô, công danh thăng giáng thất thường nhưng những công nghiệp lớn lao thành tựu trong vận này khi Khốc Quyền Minh Danh Vụ Thế. Vì tuy là vận tốt nhưng không phải mình cầm vận mà phải nương theo dòng Phá Quân mà biểu trưng là Thái Âm. Tử Vi tối trọng âm dương chắc là ở những điểm này, sự thăng giáng của mình do mình làm chủ hay theo cái buồn, vui, yêu, ghét của người ta? Hơn nữa, Văn Khúc vào vận tuy gặp Thái Âm nhưng ở gặp Thiên Thương thì tránh sao cho khỏi sự bất đắc chí. Thân ôm Đà La thì tránh sao cho khỏi đôi lần phạm lỗi với Thái Âm
Vào vận 63-72: Gặp ngay Song Hao. “Song Hao tối hiềm Hóa Lộc”, ôm lấy Quan Phù nên có phen thất lộc bị án “Trảm Giam Hậu” nhưng dù sao toàn cảnh vẫn là một vận tốt vì tuy mắc nạn Thái Tuế nhưng vận có Long Trì chứng tỏ dù sao cũng là đài các chi nhân nên Tứ Linh ủng hộ không đến nổi nào. Khi cáo quan về ở ẩn dưới triều 2 triều Thiệu Trị, Tự Đức. Nguyễn Công phải xin cáo quan đến 3 lần mới được vua cho trí sĩ hồi hưu, quả là cáo quan ở cái vận có Thái Tuế Tứ Linh có khác người thường xin cáo quan là được duyệt cái rẹt cho đỡ tốn lương nhà nước.
Vận chết 73-82 thì rõ ràng rồi: Già mà vào vận Đế Vượng gặp Đào Hoa và một đống sát tinh, Cơ hóa Kỵ nữa. Có 1 điều cần lưu ý trong vận này là có Thiên Quan, Thiên Phúc nên chết rất vẻ vang, được người đời sau lập đền thờ, phong thần thánh là “Uy Viễn Tướng Công”. Năm 75 tuổi, cũng trong vận này. Nhân dân 2 huyện Kim Sơn, Tiền Hải nhờ ơn của ông mà có hạnh phúc ấm no nên họ lập sinh từ (Đền thờ, thờ ngay lúc còn sống) thờ ông và mời ông ra Bắc. Ông ra Bắc không bao lâu thì triều đình sợ ở lâu có loạn nên triệu về kinh ngay, như thế đủ biết cái uy danh của Uy Viễn Tướng Công lừng lẫy như thế nào.
Tám vị trí hướng ngồi bàn làm việc của văn phòng tại gia đều có lợi hoặc có hại.

– Ngồi Tây hướng Đông
Lợi cho việc tiến cử, hơn nữa càng thêm tỉ mỉ, tự tin, lạc quan. Chỗ hại là dễ dẫn đến dã tâm, muốn đứng trên cao ảo vọng.
– Ngồi đông hướng Tây
Lợi cho việc tích luỹ tài phú, cuộc sống thỏa mãn hơn nữa, tăng thêm sự lãng mạn.
Chỗ hại là dễ mạnh chân mạnh tay, tỳ tính tăng lên, hơn nữa dễ đào hoa.
– Ngồi Bắc hướng Nam
Lợi cho tứ ích kích tình, khiến người chú ý. giao tiếp linh hoạt.
Chớ hại là áp lực tăng lên. tình cám sóng gió. thị phi miệng lưôi nhiều.
– Ngồi Nam hướng Bắc
Lợi nhân thành thục ổn định, tạo ra tiềm năng, độc lập tự chủ.
Chỗ hại là dễ cô độc, để tâm điêu đàn, sự nghiệp có xu thế bình thường.
– Ngồi Tây Bắc hướng Đông Nam
Lợi cho tăng cường lãnh đạo, mở rộng tài năng và có trách nhiệm, cũng tăng cường tôn quý và uy tín.
Chỗ hại là dễ cương phục tự dụng, mệt mỏi quá độ.
– Ngồi Đông Nam hướng Tây Bắc
Lợi cho việc tăng cường năng lực lãnh đạo, đạt được tín nhiệm và tôn kính.
Chỗ hại là tôi làm tôi có, kiêu ngạo hư vi, can thiệp người khác.
– Ngồi Tây Nam hướng Đông Bắc
Lợi cho tự mình thẳng tiến, mục tiêu rõ ràng, phấn đấu công việc.
Chỗ hại là tham lam, tự tư, có phần căng thẳng, làm việc dã man.
– Ngồi đông Bắc hướng Tây Nam
Lợi cho gia đình hòa thuận, tiết kiệm, quý nhân tương trợ.
Chỗ hại là nghe theo người khác, đầu chuột hai đuôi, quá nhỏ nhen.
Dù là về phương diện tiền bạc hay tình yêu, những con giáp dưới đây đều cảm thấy mãn nguyện vì mọi thứ đều như ý trong tháng 4.
1. Người tuổi Dần

Tháng 4 là một trong những thời điểm mà vận khí của người tuổi Dần đạt ở mức đỉnh điểm. Tổng quan vận thế tăng mạnh. Người độc thân vượng vận đào hoa, dễ dàng tìm được đối tượng ưng ý, tình cảm tăng dần theo cấp số nhân.
Bên cạnh đó, tài vận của con giáp này cũng thuộc hàng cao ngất ngưởng, thích hợp ra ngoài cầu tài, dù là đi công tác hay du lịch, bạn đều có cơ hội thu hoạch bất ngờ.
2. Người tuổi Tý

Trong danh sách con giáp có cả tình và tiền trong tháng 4 này nhất định có tên người tuổi Tý. Tháng mới sẽ mang tới cho những ai cầm tinh con Chuột nhiều cơ hội phát tài phát lộc, thăng tiến trong sự nghiệp. Cũng từ đây, bạn cảm nhận được thành tựu mình đạt được, thổi bay mọi vất vả, lo toan trong quãng thời gian trước đó.
Hơn thế, vận trình tình cảm của người tuổi Tý cũng có sự thăng cấp bất ngờ. Đặc biệt, người độc thân vượng vận đào hoa, không những tìm cho mình đối tượng phù hợp mà nhiều khả năng mối quan hệ đó có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc.
3. Người tuổi Sửu

Bước vào tháng 4, người tuổi Sửu được quý nhân phù trợ, phúc tinh cao chiếu, nên làm việc gì cũng hanh thông, thuận lợi, gặp hung hóa cát, biến nguy thành an, cuộc sống an nhiên, tự tại.
Đường tình duyên cũng nở rộ từ đây. Vận đào hoa tăng mạnh, kéo theo nhiều cơ hội tìm kiếm ý trung nhân, thậm chí người tuổi Sửu có thể rơi vào tình yêu sét đánh, bất ngờ tìm thấy nửa kia đích thực mà bản thân đã chờ đợi bấy lâu.
Về tài lộc, cả chính tài và thứ tài của con giáp này đều vượng, thích hợp hùn vốn đầu tư hoặc mở rộng ngành nghề, quy mô sản xuất, kinh doanh. Tất cả đều được tiến hành thuận lợi, mang về cho bạn doanh thu đáng để người khác phải ngưỡng mộ.
![]() |
Lướt nhìn bàn tay, đoán trúng mùa vượng tài lộc nhất trong năm![]() |
![]() |
| ► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
![]() |
| Mu bàn tay xương |
| Mu bàn tay phẳng |
Mộc Trà (theo Buzz)
![]() |
| ► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Trong xã hội hiện đại với nhiều sức ép đến từ mọi phía, nếu căn nhà của bạn được chú ý đến những yếu tố phong thủy để đảm bảo duy trì nguồn năng lượng tự nhiên ổn định, cuộc sống của bạn và cả gia đình sẽ trở nên dễ chịu và thỏai mái hơn rất nhiều.
Theo quan niệm trang trí của người Trung Quốc xưa thì bạn hoàn toàn có thể điều chỉnh không gian xung quanh bằng việc sắp đặt và tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong ngôi nhà để thu hút điềm lành, vượng khí và sự hòa thuận đồng thời xua đi điềm xấu cũng như những căng thẳng trong cuộc sống.
Về cơ bản các nhà phong thủy học chia ngôi nhà thành các khu vực năng lượng khác nhau để những nguồn năng lượng đó có thể dễ dàng luân chuyển và giữ được trạng thái cân bằng.
Ngoại trừ phòng tắm, đối với tất cả các phòng ở trong nhà, bạn nên đặt các đồ vật lớn nhất ở vị trí trung tâm. Những đồ vật nặng thì phải được đặt trên sàn nhà, không nên nhét đồ vào góc phòng hay kê sát những bức tường, kê cao đồ một chút để không khí lưu thông được dễ dàng hơn. Hãy tin vào những cảm xúc của chính mình, sau khi đã tạm thời sắp đặt xong mọi thứ, bạn có thể đi quanh nhà xem thật sự mình cảm thấy như thế nào và điều chỉnh lại một lần nữa.
Sự lộn xộn sẽ phá hỏng tất cả những nỗ lực của bạn để có một không gian sống yên tĩnh, thư thái và lãng mạn. Phòng khách, phòng ăn, phòng tắm, phòng ngủ và cả phòng bếp cần phải được sắp xếp gọn gàng, để có được điều đó bạn cần phải sắp đặt mọi thứ vào những vị trí cố định tránh làm xáo trộn chúng.
Sử dụng thiết bị chiếu sáng bổ xung cho những nơi không nhận được đủ ánh sáng trực tiếp. Ánh sáng thường có tác dụng kích thích thị giác và hệ thần kinh, một ngôi nhà u tối sẽ chẳng thể mang lại cảm giác thư giãn cho gia chủ. Ánh sáng mặt trời đương nhiên là loại ánh sáng tốt nhất nhưng nếu không thể cung cấp đủ ánh sáng tự nhiên cho căn nhà bạn có thể sử dụng những tấm gương, hoặc phụ kiện bằng pha lê để phản xạ ánh sáng.
Loại bỏ những góc cạnh sắc nhọn trong phòng. Thay vì sử dụng những đồ đạc hình vuông, hình chữ nhật hoặc tam giác với những góc nhọn, cạnh sắc bạn hay sử dụng đồ dụng có cạnh tù, có dạng tròn hoặc ô van…
Sử dụng kết hợp các yếu tố kim, mộc, thủy, hỏa, thổ để tạo ra sự cân bằng, khắc chế lẫn nhau. Nếu không gian sống nhà bạn quá cứng nhắc, hay thêm chút nữ tính, mềm mại bằng việc sử dụng rèm cửa, những loại cây trồng trong nhà. Còn trong trường hợp bạn cần tăng thêm nét cứng cỏi thì đồ vật làm từ chất liệu kim loại sẽ giúp bạn giải quyết được vấn đề một cách hiệu quả.
Dù muốn hay không thì trong nhà sẽ có một vài nơi bạn có cảm giác không thích bước chân vào, đó là những nơi có chứa nguồn năng lượng không phù hợp với bạn. Điều đó có thể dễ dàng khắc phục bằng cách lấy thật nhiều ánh sáng trời, làm căn phòng trở nên sáng bừng cùng với những loại cây trồng nhỏ, một chiếc ghế sofa thật êm ái, một thác nước nhân tạo róc rách chảy, đồ đạc được kê ngăn nắp gọn gàng… tất cả những thứ trên có thể thay đổi hòan tòan cảm giác của bạn về căn phòng “thiếu cảm tình” này.
Trang trí nhà theo thuật phong thủy là một bộ môn khoa học lâu đời, những mẹo nhỏ nói trên chỉ nhằm giúp bạn phần nào giải tỏa được stress trong cuộc sống và công việc hàng ngày bằng những cách đơn giản nhất. Một không gian sống dễ chịu, thỏai mái sẽ khiến bạn ngày càng thêm yêu ngôi nhà nhỏ của mình.