Mơ thấy đồng hồ đeo tay và đồng hồ báo thức: Sắp xếp thời gian không hợp lý –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
![]() |
Tránh làm lưới bảo vệ cửa sổ quá dày
Hiện nay nhiều gia đình dùng lưói bảo vệ bên ngoài cửa sổ. Khi lưới bảo vệ quá dày sẽ gây nhiều bất lọi cho ngôi nhà cả về mặt thẩm mỹ, ảnh hưỏng đến tầm nhìn và ảnh hưởng xấu về mặt phong thủy. Trong phong thủy, trường họp này gọi là “bế quan tỏa cảng”, khiến không khí trong nhà luôn tù túng, ngột ngạt và sẽ làm cho ngôi nhà bị vận khí xấu.
Tránh đặt cửa sổ ở nơi tài vị
Hướng quan trọng nhất trong phong thủy của phòng khách gọi là tài vị, nó liên quan đến sự hưng suy về tài vận, sự nghiệp, danh tiếng của cả gia đình, do đó bố cục và bài trí của tài vị không được bỏ qua. Vị trí đẹp nhất của tài vị là góc chéo của cửa vào phòng khách, điều này bao hàm 3 tình huống dưới đây:
Khi cửa nhà mở sang phía trái, tài vị sẽ ở đầu trên góc chéo bên phải; khi cửa nhà mở ở giữa, thì tài vị sẽ ở khoảng phía trên góc chéo.
Vị trí tài vị được xem là nơi để tích tụ tài vận trong nhà, nếu cửa sổ đặt ngay phía trên tài vị sẽ làm cho những vận khí tốt trong nhà cũng nhanh chóng bị cuốn đi.
Tránh mở cửa sổ vào trong
Trường hợp mở cửa sổ vào trong thường do cửa sổ sử dụng cánh cửa mở vào trong hoặc các loại cửa hướng vào bên trong nhà. Theo phong thủy, nếu sử dụng loại cửa này sẽ gây nhiều bất lợi cho đường công danh và sự nghiệp của mọi người trong nhà.
Tránh làm cửa cản sáng
Bạn không nên treo rèm quá dày, hoặc không nên đóng cửa sổ kín mít khiến không khí và ánh sáng không lọt vào phòng. Điều này cũng dễ khiến người sống trong nhà bị ốm đau, bệnh tật. Tuy nhiên, khi thiết kế cửa sổ, bạn cũng nên đảm bảo thiết kế cửa khi đóng được kín gió, đặc biệt là cửa phòng ngủ tránh cho người sử dụng phòng bị cảm lạnh.
Tránh làm quá nhiều cửa sổ
Không nên làm quá nhiều cửa sổ trong một căn phòng, nhất là phòng ngủ. Theo phong thủy, căn phòng làm nhiều cửa thì tài lộc trong nhà dễ tán. Nên làm cửa sổ có kích thuớc và số lượng hợp lý để mọi người luôn cảm thấy thoải mái và dễ chịu khi sinh hoạt trong nhà. Cửa sổ, tương tự cửa chính, cũng có chức năng thu hút ánh sáng và không khí tự nhiên vào nhà, là thông đạo giao lưu giữa cuộc sống riêng tư của mọi thành viên trong gia đình với thế giới bên ngoài. Số lượng cửa sổ trong nhà nên vừa phải, không thừa cũng không thiếu để điều hòa tốt nhất không khí trong và ngoài nhà. Khi thiết kế cửa sổ cho bất kỳ không gian kiến trúc nào, kiến trúc sư cũng lấy sự đối lưu không khí làm trọng tâm.
Tránh bố cục các cửa sổ ngôi nhà tạo thành góc vuông
Nếu toàn thể bức tường bao quanh ngôi nhà có kết cấu lõm vào bên trong, đồng thời trên cả 2 mặt tường lõm vào ấy đều có cửa sổ thì bất luận 2 cửa sổ ấy thuộc cùng một căn phòng hay thuộc 2 căn phòng khác nhau đều là xấu. Nó khiến người ta có cảm giác rằng có thể đi từ phòng này sang phòng khác hoặc từ phòng này nhìn thấy tất cả những gì diễn ra trong căn phòng kia.
Mặc dù cửa sổ thường được xem là không mấy ảnh hưởng đến phong thủy ngôi nhà nhưng vì kiểu kiến trúc cửa sổ này cấu thành “ám độ trần thương” (lén lút vượt rào) nên bị coi là xấu. Nó ám chỉ việc dễ xuất hiện tình trạng ngoại tình của nam/nữ chủ nhân hoặc cả 2 người.
Cần lưu ý rằng, tình trạng khí trường xấu này chỉ xuất hiện khi cả 2 cửa sổ tạo thành góc vuông ấy đều thuộc cùng một ngôi nhà ở độc lập hoặc thuộc cùng một căn hộ trong chung cư. Ngược lại, nếu như 2 cửa sổ ấy thuộc 2 ngôi nhà khác chủ thì khí trường xấu ấy lại không xuất hiện.
Vẻ mặt khoa học có thể thấy, hình thức kết cấu cửa sổ tạo thành góc vuông là dạng kết cấu vừa mang tính ưu điểm, vừa mang tính
nhược điểm, thậm chí có phần nguy hiểm. Nó tạo điều kiện và kích thích trí tưởng tượng của 1 trong 2 người vượt quá giới hạn của lòng chung thủy và kích động sự mạo hiểm trong họ. Đặc biệt, nó càng có ảnh hưởng lớn đối với những ai vốn có tư tưởng tự do, không muốn bị ràng buộc bởi khuôn phép, quy ước xã hội. Đối với họ, các điều kiện này kích thích họ nảy sinh ý đồ “muốn thử những điều mới lạ”.
Cách hóa giải cơ bản nhất là bịt kín 1 trong 2 cửa sổ tạo thành góc vuông ấy bằng vật liệu xây dựng như xi măng hoặc gỗ.
Nhưng nếu việc bịt cánh cửa ấy khiến cho ánh sáng của toàn bộ không gian trong nhà bị ảnh hưởng lớn, hoặc trong thời gian trước mắt việc động thổ sửa chữa chưa được thuận lợi lắm, thì nên treo một bức hình Càn Khôn Thái Cực đồ để hóa giải.
Chùa Tường Vân nằm về phía tây thành phố Huế toạ lạc trên vùng đồi núi làng Dương Xuân Hạ (nay thuộc Phường Thủy Xuân, Thành phố Huế). Theo đường Điện Biên Phủ, quá chùa Từ Đàm, rẽ về phía tay phải theo đường Trần Thái Tông, khoảng 4 – 5 trăm mét thì đến chùa.
Chùa nguyên là một thảo am do Thiền sư Huệ Cảnh dựng vào năm 1850 (trước chùa Từ Hiếu). Năm 1881, Đại sư Linh Cơ đã dời thảo am về hợp nhất với chùa Từ Quang ở vị trí chùa hiện nay.
Qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa phạm vi chùa cũng đã được nới rộng ra thêm nhiều. Chùa được Đại sư Linh Cơ trùng tu năm 1891, Đại sư Phước Chỉ trùng tu năm 1904. Hòa thượng Tăng thống Thích Tịnh Khiết đại trùng tu năm 1972 và Hòa thượng Thích Minh Châu trùng tu năm 1992. Hiện nay Hoà Thượng Thích Chơn Thiện làm trụ trì ngôi chùa này.
Hiện nay, chùa có một tiền đường và một đại điện kiến trúc theo kiểu trùng thiềm nhưng có cải cách. Đi qua một cổng chùa đồ sộ, người ta đến một khoảng sân, lên mấy bậc tầng cấp thì lại đến một khoảng sân cao hơn. Chiếc cổng này mới được xây dựng trong lần trùng tu gần nhất.
Khoảng sân rộng với hồ nước hình bán nguyệt và hòn non bộ. Giữa sân là một cái giếng nhỏ sâu hun hút luôn được đóng kín, nước ít nhưng trong vắt. Tiền đường được xây dựng trên nền cao. Bảy bậc tầng cấp lên tiền đường kéo dài suốt ba gian, hai đầu có hai con nghê chầu, có những vế đối bằng chữ Hán rực rỡ. Mặt tường hai chái đắp hình nổi diễn tả tích Ngài Đường Huyền Trang đi thỉnh kinh, sát góc ngoài có dựng hai tấm bia ngày xưa nói về những lần trùng tu chùa.
Giữa hai tầng mái, vách trùng thiềm chia làm ba khung, mỗi khung có bốn chữ Hán. Các góc mái cong lên, có cù giao đẹp, tua vân kiên chạy dài theo giọt mái ngói. Nóc tiền đường và nóc đại điện kiến trúc rất đẹp. Hai bên có hai con rồng uốn lượn châu mặt vào hình Pháp luân ở giữa.
Trong chánh điện, cách thờ tự cũng giản dị. Sau khi qua khỏi minh đường, thì thấy bàn thờ chính, trên đó đức Thích Ca Mâu Ni ở giữa, hai bên là đức Phật A Di Đà và đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. Hình ảnh này cũng thường trong đa số những ngôi chùa miền Trung.
Đi sâu vào thì thấy có tượng của Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát, đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát. Những bảo vật và những Pháp bảo cũng được thờ cúng ở chánh điện chùa nầy. Sau chánh điện là nơi thờ Tổ khai sáng ra ngôi chùa Tường Vân; án giữa thờ ngài Thích Huệ Cảnh và ngài Thích Hải Toàn; án bên trái thờ ngài Thích Tịnh Nhẫn, Thích Viên Quang và Thích Chánh Pháp; án bên phải thờ ngài Thích Thanh Thái; đi sâu vào nữa, phía giữa thờ ngài Thích Tịnh Khiết và Thích Tịnh Hạnh.
Toàn bộ hệ thống kiến trúc chùa theo hình chữ khẩu, kiểu kiến trúc của chùa Huế truyền thống gồm chùa, hậu tổ, tăng đường và trai đường khép kín tạo thành một khoảng sân nhỏ ở giữa đặt chậu hoa cây kiểng vừa trông rất thiên nhiên vừa tạo được sinh khí trong chùa.
Lùi về phía sau là hậu đường của chùa, nơi thờ cúng Thập phương bổn đạo đến ký linh trải qua nhiều đời. Bên phải (từ hậu đường nhìn lên hậu tổ) là Tăng xá, gian chính giữa có thiết hương án chạm trổ mỹ thuật nghiêm trang đẻ thờ Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết. Bức chân dung của ngài thờ trên hương án thật uy nghiêm và đạo hạnh. Đối qua trái là nhà khách. Phần sân vuông ở giữa có bể nước, cây cảnh thiết trí như một vườn hoa tươi. ở Tăng xá đi lên, nhà chùa có thiết lập một nhà lưu niệm gồm có gường nằm, sách vở, kinh Phật; đồ dùng lúc tại thế của Đức Tăng Thống.
Mặc dù chùa Tường Vân không phải là ngôi chùa cổ nhất trong vùng đế kinh nhưng về lĩnh vực xây dựng và truyền bá Phật pháp, thì Tổ đình nầy đã đóng một vai trò quan trọng. Hiện nay, chùa Tường Vân là một ngôi chùa rất trang nghiêm bề thế và là một trong những ngôi Tổ Đình lớn của Giáo Hội Phật Giáo Thừa Thiên – Huế.
Vầng trán vuông là người rất kiên trì, có ý chí phấn đấu không mệt mỏi…nhưng không hợp với phụ nữ
Theo nhân diện học, trán là bộ phận quan trọng trong việc xem xét năng lực cũng như vận may của cá nhân. Xét riêng về mặt trí tuệ, sự khác nhau ở mỗi người sẽ tùy đặc điểm độ cao, chiều rộng, màu da, tính cân đối, độ bằng phẳng… của trán.
Vầng trán vuông là đặc điểm thường gặp ở nam giới. Chủ nhân của dạng trán này thường sống rất thực tế, thận trọng trong công việc. Họ là người rất kiên trì, có ý chí phấn đấu không mệt mỏi.
Nam giới có tướng trán này thường ít thành công ở giai đoạn đầu đời. Họ cần phấn đấu nhiều để có thể xây dựng sự nghiệp vững chắc. Đa số người trán vuông có khuynh hướng trở thành thương nhân. Cũng có một số người dễ đạt được thành công trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhờ vào năng lực và sự kiên trì của bản thân.
Trán vuông không phải là tướng lý tốt đối với nữ giới. Nếu như vầng trán của họ lại bị biến dạng bởi các vết sẹo hay các tỳ vết khác thì độ xấu càng tăng. Họ thường gặp nhiều rắc rối, thậm chí là bất hạnh trong đời sống hôn nhân. Tuy nhiên, nếu biết trang điểm và tạo kiểu tóc phù hợp thì ảnh hưởng bất lợi của tướng trán vuông đối với phụ nữ có thể được giảm bớt.
Phong thủy của công ty, nhà máy hoặc thương nghiệp phải chú ý xem xét đến những vấn để sau:
Mảnh đất có tốt hay không: Công trình kiến trúc tốt, các công trình kiến trúc trái phải gần đó có phù hợp, hài hòa hay không? Hơn nửa mảnh đất đó phải tốt, giao thông phải thuận tiện.
Không khí bên ngoài công trình kiến trúc: Ví dụ như phía trước cửa công ty, nhà máy tự nhiên, thoải mái, màu sắc gạch tráng men trên các bức tường bên ngoài thích hợp, kính sáng đẹp, công trình kiên trúc có được phong cách sang trọng, khoáng đạt.
Tinh thần bích: Lấy tên cho các tòa nhà lớn nên tao nhã phú quý, tiêu chí hoặc danh hiệu của các tòa nhà lớn phải duy trì được sự tươi mới, đẹp đẽ. Bước vào cửa của các đại sảnh và tòa nhà lớn phải làm sao vừa nhìn vào hình khối là có được tinh thần phấn chấn, muốn tiến thủ.
Bố cục bên trong: Các gian phòng ngăn cách nhau to nhỏ phải hợp lý, đường qua lại phải thông thoáng, ánh sáng nên đầy đủ, ngoài ánh đèn chiếu sáng hàng ngày ra, các góc nên dùng thêm bóng đèn điện để bổ trợ cho không khi lưu thông toàn phòng.
Tầng hầm: Thông thường tầng hầm thích hợp cho việc để xe, công xưởng, nhà ăn, không thích hợp để làm phòng chủ tịch hội đồng quản trị, phòng tổng giám đốc và công ty cổ phiếu…
Vật cát tường, vật chế sát: Vật cát tường có các vật như: nguyên bảo, thần tài, thạch cát, hình hoa, thần tài bình an. Vật chế sát như: Thái cực đồ, bát quái đồ, sư tử đá… Vật cát tường chính là những vật mà bản thân khi nhìn thấy những vật này đã cảm thấy phúc khí, vô cùng gần gũi, phòng hình vuông thì có thể bày nhiều vật cát tường, còn vật chế sát thì chỉ nên dùng một đến hai cái là được.
Cây cối trong phòng: Cây cối, thực vật tuy thuộc âm nhưng ở ngoài phòng chúng có thể khai hoa kết quả, như vậy là trong âm có dương. Mang thực vật vào trong phòng, sẽ rất tốt đối với sinh lý, tâm lý con người.
Cái khác: Như bố cục của tài vị…
![]() |
![]() |
![]() |
► Cùng đọc châm ngôn cuộc sống và suy ngẫm |
Thời gian: tổ chức vào ngày 13 tới ngày 15 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật, thiền Sư Không Lộ - là người rất giỏi Phật Pháp, giỏi cả pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý.
Nội dung: Ngày 13, mở đầu là cuộc rước kiệu kỷ niệm 100 ngày tịch của thiền sư Không Lộ. Chiều có các cuộc đua trải. Tối có cuộc thi kèn và trống. Sáng 14, kỷ niệm ngày sinh của sư Không Lộ. Sau lễ dâng hương đến đám rước gồm có đôi ngựa hồng, ngựa bạch có đủ yên cương và 4 bánh do người kéo. Tiếp đến là 8 lá cờ thần, 42 người vác bát bửu lỗ bộ... Chiều 14, tại toà Giá Roi diễn ra nghi lễ chầu thánh mang tính nghệ thuật , đó là điệu múa cổ còn gọi là "múa ếch vồ".
Ngày 15, mọi nghi lễ diễn ra như ngày 14 nhưng có thêm một số trò diễn sau khi rước kiệu hoàn cung.
Hội chùa Keo diễn ra đông vui tấp nập suốt 3 ngày, 3 đêm bằng nghi lễ tôn giáo và một số tập tục cổ truyền để tưởng nhớ vị thiền sư đã có công với nước và qua hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian đã phản ánh được lối sống của vùng dân cư ven sông mang màu sắc văn hoá nông nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ.
Thời gian: tổ chức từ ngày 13 tới ngày 16 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, Tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Thiền Sư, pháp sư Nguyễn Minh Không, tổ sư nghề đúc đồng.
Nội dung: hằng năm từ ngày 13-16/09 (âm lịch) lễ hội chùa Cổ Lễ được khai hội, thu hút hàng vạn du khách thập phương tới lễ và tham gia hội tại đây, trong phần lễ có rất nhiều nghi thức văn hóa cổ truyền như rước Phật, múa rối chầu Thánh tổ… , phần hội có nhiều trò chơi dân gian như đánh cờ tướng, tổ tôm điếm,cờ người, leo cầu ngô, bơi,thi đấu các môn thể thao. Điều đặc biệt là cuộc thi bơi chải truyền thống làng Cổ Lễ của 5 cửa họ : Dương Nhất, Dương Nhì, Lê, Phan, Nguyễn. 5 cửa họ này có 4 chải, trong mỗi ngày, mỗi cửa họ sẽ bốc thăm chọn 1 chải và bắt đầu thi đấu trên dòng sông chạy dọc địa phận cổ lễ, và quay vòng 4 lượt với tổng chiều dài xấp xỉ 8km. Sau 4 ngày tranh tài sẽ chọn ra cửa họ về nhất hội. Trong các ngày thi đấu bơi chải dọc hai bên bờ sông kéo dài gần 2km tập chung rất đông các Phật tử cũng như người dân tham gia. Có thể nói đây cũng là phần hội thu hút được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia nhất và tạo nên nét đặc trưng của phần hội hằng năm của chùa Cổ Lễ.
Thời gian: tổ chức từ ngày 13 tới ngày 15 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân trường, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật và thiền sư Không Lộ - là người giỏi chữa bệnh và giỏi thơ văn, ông tổ nghề đúc đồng, nhà kiến trúc tài giỏi có công phò tá vua giúp nước.
Nội dung: Hàng năm, tại chùa có hai lần mở hội. Đó là Hội xuân vào dịp tết Nguyên Đán và hội tháng 9 mở vào ngày 13,14,15 để kỷ niệm ngày sinh của thánh tổ Không Lộ.
Hội xuân gồm các trò chơi bắt vịt, thi ném pháo, thi nấu cơm và các hình thức văn nghệ dân gian khác. Hội tháng chín được tổ chức trọng thể, ngoài những nghi thức lễ tiết mang tính tôn giáo, hội tháng chín còn là nơi hội tụ của những sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân nông nghiệp. Chính vì vậy, vào ngày hội nhân dân không những trong vùng mà cả trong Nam ngoài Bắc đều nô nức kéo nhau về tụ hội: Dù cho cha đánh mẹ treo Em không bỏ hội chùa keo hôm rằm. Đặt biệt là ở đây thường tổ chức từ ngày 10 tháng 9 đến hết hội.
Hình ảnh các chàng trai đóng khố, mặc áo nẹp ngắn, không tay, đầu chít khăn đồng màu khoẻ mạnh, trên hàng chục chiếc chải lao vun vút, giữa dòng sông trong tiếng dồn dập, tiếng reo hò cổ vũ của hàng vạn người, đã ghi in trong tâm hồn những người dự hội Keo.
Ngoài việc thờ Phật, chùa còn thờ Dương Không Lộ, một nhà thơ thời Lý - Trần, một nhà thơ có học vấn sâu sắc về Phật học, là biểu tượng của con người sáng tạo văn hoá. Sau những lễ nghi trang trọng, tiết mục chèo tải được mọi người đón nhận nồng nhiệt nhất.
Độc đáo nhất trong lễ hội là môn đua thuyền trải: có 15 xóm trong làng tham gia đua thuyền hay gọi là bơi trải, có tất cả 10 người trên thuyền trong đó có 1 người lái thuyền. Bơi trải ở Chùa Keo Hành Thiện Nam Định khác với các nơi khác, họ không ngồi bơi mà 10 người đểu đứng để chèo. Bắt đầu xuất ở trong sông con là sông làng khoảng 5-6km rồi bắt đầu ra đến sông Ninh Cơ nhánh của sông Hồng, bơi 3.5 Vòng sông rồi quay về bắt Têu trong sông con nếu đội nào về đầu thì sẽ dành giải nhất. Trung bình mỗi cuộc thi bơi trải diễn ra từ 3.5 - 4 h đồng hồ). Đây là môn thi đấu cổ truyền rất tuyệt vời đáng được ghi nhớ cũng như lưu trong sử sách của Dân tộc ta.
ra một thay đổi nhỏ là rất cần thiết, Ví dụ, ba quả táo đỏ tươi để trên bệ bếp trong phòng bếp có gam màu trắng trờ thành tiêu điểm của căn phòng, mang lại sự ẩm áp và sinh lực cho không gian lạnh lùng, vô cảm.
Có thể thay đổi không gian phòng bếp tối, chật hẹp bằng sơn màu trắng ấm áp hay màu vầng nhạt, đồ đạc nhẹ sáng màu và đồ trang trí vui mắt với màu đỏ hay vàng. Phòng bếp có nhiều đồ đạc màu đen và màu crom sẽ được lợi từ màu xanh lá cây, màu tía và màu đò nhằm hỗ trợ sức khỏe và sự thịnh vượng.
Đây là điển cố thứ Bốn mươi trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Võ Tắc Thiên Đăng Vị (còn gọi là Võ Tắc Thiên Lên Ngôi). Quẻ Quan Thế Âm Võ Tắc Thiên Đăng Vị có bắt nguồn như sau:
Võ Tắc Thiên (sinh năm 624 – mất năm 705) là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc, cũng là vị hoàng đế có độ tuổi khi kế vị lớn nhất (sáu mươi bảy tuổi lên ngôi). Bà là con gái thứ của Võ Sĩ Hoạch, một vị khai quốc công thần đời Đường, quê quán ở huyện Văn Thủy, tỉnh Sơn Tây. Bà trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở Lợi Châu, Tứ Xuyên, không rõ tên thực là gì, năm mười bốn tuối vào hậu cung làm Tài nhân, Đường Thái Tông ban cho tên là Mị, mọi người gọi là Võ Mị Nương.
Võ Tắc Thiên giỏi lập mưu tính kế, lòng dạ thâm hiểm, hành động quả quyết. Năm hai mươi bảy tuổi, bà sinh hạ người con gái trưởng, theo “Tư trị thông giám” ghi chép, khi con gái cả được một tháng, bà liền đem con gái cho đi. Do Vương hoàng hậu đã gặp đứa bé gái này trước đó, nên Mị Nương vu tội cho Vương Hoàng hậu, khiến Đường Cao Tông rất tức giận, phế truất Vương Hoàng hậu làm dân thường.
Năm Vĩnh Huy thứ sáu (năm 655), Đường Cao Tông lập Võ Tắc Thiên làm Hoàng hậu. Năm Thượng Nguyên thứ nhất (năm 674), bà và Cao Tông cùng xưng là “nhị thánh”. Năm Hoằng Đạo thứ nhất (năm 683), Cao Tông qua đời, Trung Tông là Lý Hiển lên ngôi, Võ Tắc Thiên trở thành Hoàng thái hậu, lên triều chấp chính.
Năm Tự Thánh thứ nhất (năm 684), Võ Tắc Thiên phế truất Trung Tông làm Lư Lăng Vương, lập Duệ Tông Lý Đán làm vua, bản thân tiếp tục lên triều chấp chính. Năm Tải Sơ thứ nhất (năm 689), Vố Tắc Thiên phế truất Duệ Tông, tự xưng là “Thánh Thần hoàng đế”, đối tên nước là “Chu”, đặt Đông Đô Lạc Dương là Thần Đô, sử sách gọi là nhà Võ Chu.
Trong thời gian nắm quyền, Võ Tắc Thiên bãi chức các lão thần, chọn dùng những quan lại tàn ác. Các trọng thần từ đầu đời Đường, như Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương, Vu Chí Ninh, Bùi Viêm, số ít thì bị bãi chức, còn phần lớn bị giết hại. Bà tố chức kỳ thi điện, lập ra các chế độ khoa cử như võ cử (thi võ), tự cử (tự mình tiến cử), thí quan; trên lĩnh vực kinh tế đã áp dụng các chủ trương như “giảm thuế, chấm dứt chiến tranh, bớt lao dịch”, vì thế trong một nửa thế kỷ bà cầm quyền, tình hình kinh tế xã hội trở nên vững mạnh, uy lực quốc gia được chấn hưng.
Tháng giêng năm Thần Long thứ nhất (năm 705), Trương Giản Chi, Hoàn Ngạn Phạm, Thôi Huyền, Kính Huy nhân cơ hội Võ Tắc Thiên tuối cao bị bệnh, đã liên kết với Hữu Vũ Lâm Đại tướng quân Lý Đa Tộ phát động cuộc đảo chính, ép Võ Tắc Thiên thoái vị, đón vua Trung Tông trở lại ngôi vị. Tháng mười một năm ấy, Võ Tắc Thiên qua đời, hưởng thọ tám mươi hai tuối. Để lại di chiếu “bỏ đế hiệu, xưng là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng hậu”. Người đời sau thường gọi bà là “Võ Tắc Thiên”.
Từ nhà Tần, Hán đến nay, các vị hoàng đế không aỉ không mong muốn sau khi chết được lập bia truyền thế, nhưng trong lịch sử Trung Quốc có duy nhất một vị nữ hoàng đế lại để lại một tấm “vô tự bi’ (bia không chữ), trên tấm bla không khắc một chữ nào. Nguyên nhân của sự việc này có nhiều thuyết khác nhau: Thuyết thứ nhất cho rằng, Võ Tắc Thiên lập “vô tự bi” là để tự khoe mình, thể hiện công cao đức lớn, không có chữ nghĩa nào có thể thể hiện được; thuyết thứ hai cho rằng, Võ Tắc Thiên tự biết tội mình rất lớn, cảm thấy không viết văn bia sẽ tốt hơn; thuyết thứ ba cho rằng, Võ Tắc Thiên là người sáng suốt tự biết mình, là công hay tội, đúng hay sai, hãy để cho người đời sau phán xét, đây là biện pháp tốt nhất; còn có một thuyết khác cho rằng, con trai của Võ Tắc Thiên rất hận mẹ mình, nên bà vốn dĩ đã viết sẵn cho mình một bài văn bia, nhưng lại bị con trai giấu chôn vào trong mộ, để lại một tấm bia không có chữ.
Quẻ Quan Thế Âm Võ Tắc Thiên Đăng Vị là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 40 !
Quẻ này là tượng âm tăng dương giảm.
Những việc mong cầu trước khó sau dễ.
![]() |
Các mũi gai nhọn của xương rồng chĩa thẳng vào người gây ốm đau, bệnh tật |
► Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất |
![]() |
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
Trong phong thủy, trái cây được sử dụng như biểu tượng của sự phong phú, thịnh vượng và may mắn. Tuy nhiên, để ứng dụng tốt phong thủy trái cây vào cuộc sống, trước hết cần phải hiểu ý nghĩa phong thủy của từng loại. Năng lượng phong thủy của trái cây là năng lượng của sự đơm hoa kết trái. Trong các ứng dụng phong thủy truyền thống, biểu tượng của trái cây thường được phân loại từ các văn bản cổ đại dựa vào các đặc trưng như tuổi thọ, giàu có, thịnh vượng, khả năng sinh sản ... Khi lựa chọn biểu tượng của trái cây như là một phương pháp chữa bệnh phong thủy, bạn cần có sự hiểu biết về năng lượng của trái cây, cũng như các tính chất dược liệu của nó. Để có được phong thủy tốt, bạn cần chú ý đến màu sắc, con số và biểu tượng của các loại trái cây cụ thể. Bởi vì trong nhà bạn không phải lúc nào cũng có trái cây tươi nên bạn có thể đặt những bức tranh nghệ thuật về trái cây hay vật phẩm phong thủy để trang trí. Dưới đây là ý nghĩa biểu tượng trái cây trong phong thủy:
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Đền Trần Thương nằm tại thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Đền Trần Thương là di tích tiêu biểu của tỉnh Hà Nam và cả nước, hội tụ nhiều giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật, tâm linh, lâu nay được nhiều người biết tiếng.
Trần Thương là mảnh đất địa linh, trù phú như câu ca truyền đời “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc ghi trên bức châm tại đền:
Trần Thương dư phúc địa, trà thảo tứ thời xuân
(Đất Trần Thương lắm phúc, hoa quả bốn mùa xuân).
Trước đây, Trần Thương là trung tâm “Lục khê đầu” (sáu khe nước). Từ đây có thể ngược sông Hồng đi Thăng Long rồi ra biển, qua sông Hồng về phía Đông khoảng 3km là khu Tam Đường (Hưng Hà, Thái Bình), nơi đặt lăng mộ của nhà Trần, về phía Nam khoảng 20 km là đền Trần – chùa Tháp (Nam Định).
Đền Trần Thương còn được biết đến với tên gọi khác là đền Trần. Đây là một trong 3 ngôi đền lớn của cả nước, nơi thờ chính Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tương truyền trên đường đi đánh quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo thấy địa thế nơi đây hiểm yếu, bèn đặt 6 kho lương để phục vụ cuộc kháng chiến. Địa điểm ngôi đền hiện nay là kho lương chính. Sau khi chiến thắng trở về, ngài đã cắm sinh phần, lấy đây làm dân “tạo lệ” và từ đó xuất hiện thôn Trần Thương và các thôn khác như: Đội Xuyên, Hoàng Xá, Khu Mật… những tên cổ gắn với việc đồn trú của quân đội nhà Trần.
Đền Trần Thương là có quy mô kiến trúc lớn. Ngôi đền thâm nghiêm, cổ kính tọa lạc trên đất thiêng “Hình nhân bái tướng” “Ngũ mã thất tinh”, được xây kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể kiến trúc cảnh quan ngôi đền gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành 3 cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và hai giải vũ, 5 giếng…Kiến trúc độc đáo và cảnh quan tự nhiên của đền Trần Thương như nhập đời vào đạo, nhập con người với vũ trụ trong một không gian văn hóa linh thiêng.
Giá trị đền Trần Thương còn được thể hiện ở phần trang trí kiến trúc với các đề tài, họa tiết được chạm khắc công phu như: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước, mây trời…Tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa sống động, vừa cổ kính trang nghiêm hàm chứa triết lý dân gian.
Đồ thờ, cổ thư của ngôi đền cũng rất phong phú, quý hiếm. Đặc biệt là pho tượng Đức Thánh Trần trong ban thờ hậu cung với vẻ mặt uy nghiêm của một vị “Thánh” nhân, nhưng vẫn nở nụ cười bao dung, đôn hậu. Tổng thể kiến trúc, cảnh quan đền Trần Thương đã gợi lên bóng dáng phủ đệ của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Đền Trần Thương hàng năm mở hội từ 18 đến 20 tháng 8 (âm lịch), một lễ hội vùng tiêu biểu của tỉnh Hà Nam, thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Trong lễ hội diễn ra nhiều hoạt động văn hóa dân gian, tục thi đặc sắc, độc đáo nhất là lễ rước nước và thi bơi chải trên sông. Các nghi thức trên vừa mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, “Phong đăng, hòa cốc”, “Quốc thái dân an”, nhắc nhở đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đồng thời gợi nhớ nguồn gốc của dòng tộc nhà Trần vốn quen nghề sông nước.
Năm 2009, đền Trần Thương đã được Nhà nước quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo lớn toàn bộ kiến trúc chính: Cung Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam, hai giải vũ, giếng, đường vào đền và nghi môn Tương lai không xa, trên mảnh đất này sẽ có cây cầu lớn bắc qua sông Hồng nối liền Hà Nam với các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng… Đây sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi để khu di tích Lịch sử – Văn hóa tâm linh đền Trần Thương phát huy tốt các giá trị, trở thành điểm du lịch tâm linh, tín ngưỡng quan trọng của tỉnh Hà Nam, là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.
Với những giá trị về lịch sử, văn hóa đặc sắc, năm 1989 đền Trần Thương đã được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia. Đền Trần Thương là điểm quy tụ để nhân dân, khách thập phương xa gần, hành hương tưởng nhớ về nguồn cội, chiêm ngưỡng di tích lịch sử văn hóa và cầu nguyện may mắn trong cuộc sống.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
– Người xảo quyệt : thường có cử chỉ và sắc mặt thay đổi nhanh chóng như một diễn viên. Ăn nói chậm chạp như muốn nuốt từng câu nói, vì họ đang cần lời nói khéo léo, tìm cách ứng xử thích hợp với môi trường chung quanh.
Họ thuộc người gian manh, lừa đảo, có nhiều âm mưu, và lúc nào cũng giả nhân giả nghĩa, thích nịnh hót mọi người.
– Kẻ tiểu nhân : có dáng đi rón rén, thường chậm chạp theo cung cách tiến thóai lưỡng nan. Khi nói chuyện môi dính không thấy hở răng, giọng nói nhẹ và rụt rè nhưng không rõ ràng. Khi nhìn đối tượng, không dám nhìn trự diện.
– Kẻ lừa đảo : tiếng nói rổn rảng, đầy tự tin, nhằm áp đảo đối tượng; nhưng tròng mắt lúc đó dường như muốn lồi ra, đôi tay nắm chặt lại, vì họ dùng nhiều nghị lực, sự can đảm để làm tốt vai diễn, nhưng nếu gặp người có nhân điện mạnh đưa mắt bắt gặp, tức khắc họ hạ giọng nói và cáo lui.
– Khi nói chuyện với người khác, ngón tay cái đút vào các ngón khác, là người có tính keo kiệt, bủn xỉn.
– Vừa nói vừa hoa tay : bộc trực, ít suy nghĩ.
Hướng kê giườngTuổi 1975 Ất Mão
Quẻ mệnh: Đoài Kim
– Ngũ hành: Đại Khe Thủy (Nước khe lớn)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Tây Bắc, thuộc Tây Tứ Trạch
Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông Bắc (Diên Niên); Tây Nam (Thiên Y); Tây (Phục Vị);
Hướng xấu: Bắc (Hoạ Hại); Đông (Tuyệt Mệnh); Đông Nam (Lục Sát); Nam (Ngũ Quỷ);
Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Thủy, Kim sinh Thủy, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Kim, là hướng Tây Bắc; Tây;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Trắng, Xám, đây là màu đại diện cho hành Kim, rất tốt cho người hành Thủy.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
Ca dao Việt Nam ca ngợi tình cảm gia đình. Tình cảm gia đình là một trong những chủ đề tiêu biểu của ca dao, dân ca. Những câu thuộc chủ đề tình cảm gia đình thường là lời ru của mẹ, lời của cha mẹ, ông bà nói với con cháu, lời của con cháu nói về cha mẹ, ông bà để bày tỏ tâm tình, nhắc nhở về công ơn sinh thành, về tình mẫu tử và tình anh em ruột thịt.
Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
——-
Ai về tôi gửi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
———
Anh em cốt nhục đồng bào
Kẻ sau người trước phải hầu cho vui.
Lo là ăn thịt ăn xôi
Quý hồ ở nết tới lui bằng lòng.
——–
Anh em ăn ở thuận hòa
Chớ điều chếch lệch người ta chê cười.
———
Anh em hiền thậm là hiền
Đừng một đồng tiền mà đấm đá nhau.
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận , hai thân vui vầy
Anh em trai ở với nhau mãn đại
Chị em gái ở với nhau một thời
Dù ai nói ngược nói xuôi
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Ân cha lành cao như núi Thái,
Đức mẹ hiền sâu tựa biển khơi,
Dù cho dâng trọn một đời,
Cũng không trả hết ân người sinh ta.
Anh đi vắng cửa vắng nhà
Giường loan gối quế mẹ già ai nuôi?
Cá rô anh chặt bỏ đuôi
Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc,dở hay đỡ đần.
Ân cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
Áo vá vai, vợ ai không biết
Áo vá quàng, chỉ quyết vợ anh.
Ba đồng một khía cá buôi
Cũng mua cho được để nuôi mẹ già.
Bao giờ cá lý hóa long
Đền ơn cha mẹ bỏ công sinh thành.
Bồng bồng con nín con ơi
Dưới sông cá lội, trên trời chim bay.
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, tay này bắn chim.
Một tay tuốt chỉ luồn kim
Một tay làm ruộng, một tìm hái rau.
Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một cầu cúng ma.
Một tay khung cửi, guồng xa
Một tay lo bếp, lo nhà nắng mưa.
Một tay đi củi, muối dưa
Còn tay van lạy, bẩm thưa, đỡ đòn.
Bướm vàng đậu đọt mù u
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
Cầm cần câu cá ngược cá xuôi
Nấu canh rau bợ mà nuôi mẹ già
Cây khô chưa dễ mọc chồi
Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta
Non xanh bao tuổi mà già,
Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Cha mẹ bú mớm nâng niu
Tội trời đành chịu, không yêu bằng chồng
Ai kêu ai hú bên sông,
Mẹ gọi con dạ có chồng phải theo.
Chiều chiều ngó ngược ngó xuôi
Ngó không thấy mẹ ngùi ngùi nhớ thương.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt, nhớ ông bà bấy nhiêu.
Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mộ mẹ ruột đau như dần.
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày.
Cò bay xuống vũng trâu đằm,
Lấy rơm làm tổ cho con cò nằm.
Có vàng vàng chẳng hay phô
Có con con nói trầm trồ mẹ nghe
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đàn đứt dây
Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha mất gót con đen sì.
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi.
Công cha nghĩa mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Con người có tổ, có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Chiều chiều ra đứng ngõ trông
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người.
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.
Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng anh giận gì
Chồng giận thì vợ làm lành
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
Đắng cay cũng thể ruột rà,
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng.
Đi đâu mà bỏ mẹ già
Gối nghiêng ai sửa,chén trà ai dâng ?
Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm được vì sao
Đố ai đếm được công lao mẹ già.
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm cho mẹ mẹ già yếu răng.
Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa
Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha.
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín lòng cha
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con.
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
Dẫu rằng da trắng tóc mây
Đẹp thì đẹp vậy, dạ này không ưa
Vợ ta dù có quê mùa
Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng
Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.
Đói no một vợ một chồng
Một miếng cơm tấm, giàu lòng ăn chơi.
Đôi ta là nghĩa tào khang
Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau.
Đốn cây ai nỡ dứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.
Em ơi nhớ về một đời người như nhớ về cả rẵng cây
Dì ruột thương cháu như con
Rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chày mẹ thức đủ năm canh.
Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc
Nhớ cha mẹ già ruột thắt gan teo.
Ngó lên nước xoáy ngùi ngùi
Nhớ ông Cao Tổ vua tôi một lòng.
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy
Lên chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.
Lời kinh vang dậy ngân nga
Chạnh lòng nhớ nghĩ mẹ cha sinh thành.
Lênh đênh chiếc bách giữa dòng
Thương thân goá bụa, phòng không lỡ thì
Gió đưa cây trúc ngã quỳ
Ba năm trực tiết còn gì là xuân
Mẹ già đầu tóc bạc phơ
Lưng đau con đỡ,mắt mờ con nuôi
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp mật, như đường mía lau.
Đường mía lau càng lâu càng ngát,
Cơm nếp mật ngào ngạt hương say.
Ba hương lây lất tháng ngày,
Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi.
Một mẹ nuôi được mười con
Nhưng mười con không nuôi được một mẹ.
Mẹ ơi! Đừng đánh con hoài,
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.
Mẹ ơi! đừng đánh con hoài,
Để con bắt cá, hái xoài mẹ ăn.
Mẹ ơi! Đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết nhà mẹ đâu.
Chim đa đa đậu nhánh đa
Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa.
Một mai cha yếu mẹ già,
Chén cơm ai xới, kỷ trà ai dâng
Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
Mỗi đêm con thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ ở đời với con
Mẹ già ở tấm lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Một ngày ba bữa cơm đèn
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng?
Mười làm chi, một làm chi
Sinh ra có nghĩa có nghì thời hơn
Sinh con ai nỡ sinh lòng
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con.
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy chi đền đáp khó khăn,
Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.
Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Những khi trái nắng trở trời,
Con đau là mẹ đứng ngồi không yên.
Trọn đời vất vả triền miên,
Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.
Nuôi con mới biết sự tình
Thầm thương cha mẹ nuôi mình khi xưa.
Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi xương mòn gối cong.
Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, công thầy
Nghĩ sao cho bỏ những ngày ước ao.
Ơn cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu.
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Râu tôm nấu với ruột bù
Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon.
Rương xe, chìa khóa em cầm
Giang sơn em gánh, nợ nần em lo.
Sống thì con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi.
Thà ăn bắp hột chà vô
Còn hơn giàu có mồ côi mẹ già.
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già,
Thương con tần tảo sớm hôm,
Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn.
Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ,
Nghĩ đến chừng nào, lụy hạ tuôn rơi
Thuyền không bánh lái thuyền quầy
Con không cha mẹ ai bày con nên.
Tay nâng khăn gói sang sông
Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo.
Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Thương chồng phải lụy cùng chồng
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu.
Từ ngày em về làm dâu
Thì anh dặn trước bảo sau mọi lời
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn, bớt ngủ mà nuôi mẹ già
Nhịn cho nên cửa nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thì em coi sóc lấy trong cửa nhà.
Tưởng rằng chị ngã em nâng
Ai ngờ chị ngã, em bưng miệng cười.
Trai mà chi, gái mà chi
Sinh con có nghĩa có nghì là hơn.
Trăm năm giữ vẹn chữ tòng
Sông sao thác vậy một chồng mà thôi.
Vẳng nghe con chim vịt kêu quạc quạc
Bâng khuâng nhớ mẹ ruột đau chín chiều
Thương thay cù lao chín chữ
Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Ví dầu con phụng bay qua
Mẹ nói con gà con cũng nói theo
Vì chồng nên phải gắng công
Nào ai da sắt xương đồng chi đây.
Ví dầu cầu ván đóng đanh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Ví dầu mẹ chẳng có chi
Chỉ con với mẹ chẳng khi nào rời.
Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi nhớ nghĩ những lời thiệt hơn.
Xin người hiếu tử lắng khuyên
Kịp thì nuôi nấng cho toàn đạo con
Kẻo khi sông cạn, đá mòn
Phú nga phú ủy có còn ra chi.
Xấu xa cũng thể chồng ta
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.
tướng quân (Mộc)
***
1. Ý nghĩa của tướng quân:
2. Ý nghĩa của tướng quân và một số sao khác:
- Tướng Quân và Thiên Tướng: uy quyền hiển hách, nếu đồng cung thì càng mạnh hơn và nặng ý nghĩa quân sự. Nếu là nữ mệnh thì đây là người đàn bà đảm lược, tài ba, hoạt đông như nam giới, dám xông pha trận mạc. Còn ở trong gia đình thì rất có uy quyền, thường lấn át quyền uy của chồng.
- Tướng Quân gặp Tuần, Triệt án ngữ: tổn hại đến tính mạng, công danh, quyền thế. Chủ sự truất giáng, bãi cách, tai nạn xe cộ, phi cơ, gươm đao, súng đạn khủng khiếp.
- Tướng Quân, Phục Binh, Không Kiếp: cũng nguy hiểm đến tính mạng vì có người mưu sát.
- Tướng ấn Binh Hình: bộ sao uy dũng chỉ quyền tước, võ nghiệp, cầm quân, cầm quyền.
- Tướng Quân, Đào, Hồng: đàn bà tơ duyên rắc rối, bị thất tiết, ngoại dâm; đàn ông thì hoang dâm.
- Tướng Phá Binh Đào Hồng: dâm dục quá đáng, tư thông, ngoại dâm, loạn luân.
3. Ý nghĩa của tướng quân ở các cung:
a. ở Bào:
b. ở Tử, Phu Thê:
c. ở Phúc, Phụ, Bào:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Những bí quyết phong thủy trong bài viết dưới đây sẽ phần nào giúp bạn kiếm được một công việc tốt.
Điểm quan trọng nhất để quay trở lại vạch xuất phát chính là phải có đủ lòng tin, bởi vậy, mỗi sáng thức dậy, việc đầu tiên cần làm là kéo rèm cửa sổ, để ánh sáng ban mai tràn vào phòng, khiến tinh thần phấn chấn, sảng khoái, sẵn sàng đương đầu với thách thức mới. Ánh nắng có tác dụng diệt khuẩn, làm cho không khí trong sạch hơn.
Ngoài ra, buổi sớm là lúc ánh nắng tốt nhất, lại có màu vàng, do đó không chỉ có thể xua đuổi uế khí trong phòng, mà còn tượng trưng cho việc tiếp đón tài khí tới, mang lại vận may cho gia chủ.
Có câu nói: “Chỉ có nỗ lực mới có thể thành công”. Tuy nhiên, để có được thành công, cần dựa vào một chút vận khí. Khi gặp chuyện không hay mà gặp được quý nhân trợ giúp như mang lại may mắn cho bạn. Cách làm dưới đây có thể giúp bạn sớm gặp được quý nhân trợ giúp cho công việc và cuộc sống của mình:
Nắm Chính ấn, tượng trưng cho nắm quyền, có lợi cho việc giữ vị trí ổn định, hơn nữa còn có thể thăng quan tiến chức. Đặc biệt, đối với những người có nguy cơ thất nghiệp thì có thể giúp họ có cơ hội tốt và vận khí tốt. Vậy nên có thể khắc cho bản thân con dấu khai vận và luôn đeo con dấu này bên mình. Con dấu có thể làm bằng chất liệu đá quý có màu sắc thanh nhã. Ngoài tượng trưng cho quyền lực Chính ấn, con dấu bằng đá quý thiên nhiên còn có thể giúp bản thân tích lũy của cải bốn phương.
Dưới đây là 1 số cách khai vận, khiến tài vận hanh thông:
– Bày đồ vật bằng pha lê ở phía bên trái, có thể là bên trái lối ra vào, bên trái ghế salon trong phòng khách, bên trái đầu giường, bên trái tủ. Lắp bóng đèn nhỏ chiếu sáng vào đồ vật bằng pha lê này, nếu đặt ở trên tủ đầu giường thì khi ngủ nên tắt đèn. Từ trường của pha lê có thể mời gọi quý nhân tới, còn ánh sáng đèn chính là tài vận. Đồ vật bằng pha lê, cộng thêm bóng đèn sáng suốt ngày chính là tượng trưng cho quý nhân luôn ở bên cạnh, tài vận và phúc khí luôn tới với mình.
– Bài trí chậu trúc phú quý ở vị trí dễ thấy trong nhà. Nên trang trí cho cây trúc những sợi dây lụa màu đỏ, bởi cây thuộc âm, sợi dây lụa đỏ quấn trên cây trúc có thể mang dương khí. Như vậy, có thể khiến cho sự nghiệp bản thân tiến triển tốt đẹp, sẽ có quý nhân tới giúp đỡ.
Trong luật phong thủy, cơ bản gồm có 2 phần chính :
+ Cát hung của hoàn cảnh bên ngoài nhà ở.
+ Cát hung của hoàn cảnh bên trong nhà ở
1. Đường đi lấy thông thương làm chính.
Đướng sá ở bốn phía quanh nhà thế nào, khoa địa lý đều có nghiên cứu, điều quan trọng nhất là: tuyệt đối không nên có đường đâm thẳng vào trước cửa, vì như thế là chủ về trong nhà bất hòa, con đường kia sẽ mang bệnh tật từ bên ngoài vào nhà và đem cát khí từ trong nhà ra đi.
2. Nhà nằm trên đường hình chữ Đinh, chủ về phá bại.
Luận về cát hung, vượng suy của trạch vận, thì có hai loại đường hình chữ Đinh. Một là đường chữ Đinh hướng ngoại, hai là đường hình chữ Đinh hướng nội. Theo kinh nghiệm, loại đường hình chữ Đinh hướng nội là không tốt, sẽ có tai họa nặng, bởi vì phòng ốc không nên bị trực xung (đâm thẳng vào).
3. Chái nhà giống như chân tay của người.
Nếu khuyết (thiếu) một bên, coi như tàn phế, không đi lại được. Theo lý luận phong thủy Trung Quốc, nhà mà bên phải không có chái thì nữ nhân chết, bên trái không có chái thì nam nhân vong.
4. Dương trạch(phần từ nền nhà trở lên) có liên hệ mật thiết với họa phúc, cát hung của đời người. Vì trời có thiên vận, đất có địa vận, người có mạng vận, nhà có trạch vận. Nền nhà đằng trước cao, đằng sau thấp là không tốt, vì khí bị tù hãm.
5. Dương trạch tốt nghĩa là các phương diện được điều hòa cân bằng, vừa đề phòng tai họa, vừa đảm bảo vệ sinh ở xung quanh, ánh sáng đầu đủ, lại thông thoáng, yên tĩnh.
6. Khi thiết kế và thi công, phải bảo đảm cho nhà đủ ánh sáng, thích hợp để lòng người thoải mái, sinh hoạt mỹ mãn.
7. Luận về ngoại hình nhà ở, phàm mé bên tả có lưu thủy (sông, dòng chảy), thuật phong thủy gọi là có Thanh Long, mé hữu có đường dài, gọi la có Bạch Hổ, phía trước có ao hồ gọi là Chu Tước, đằng sau có gò cao gọi là Huyền Vũ, thì là đất cực quý.
8. Trước cửa, nhìn thẳng có một ngôi nhà trống, thì nam nữ thường than khóc, nghĩa là hay phát sinh những chuyện bất hạnh.
9. Nhà trước thấp, sau cao, chủ phú quý. Còn trước cao, sau thấp, thì rất bất lợi, lớn bé trong nhà không có tôn ti trật tự.
10. Tối kỵ nơi cư trú ở nơi xung yếu, ở đền chùa, miếu mạo, ở gần nơi thờ cúng có qui mô lớn, ở nơi giao thông bất tiện, cỏ cây cằn cỗi xác xơ, ở ngay nơi dòng chảy xộc thẳng tới, ở ngay nơi sống núi chọc thẳng đến, ở đối diện với cổng nhà lao, ở ngay cửa bể.
11. Phía động nhà có đại lộ (đường lớn) thì nghèo, phía bắc có đại lộ thì hung, phía nam có đại lộ thì phú quý.
12.Cây cối xung quanh chĩa vào nhà là cát, quay lưng vào nhà là hung.
13. Địa hình của gia trạch Mão Dậu, Tý Ngọ, Tý Sửu là bất túc, ở đó thì hung.
14.Nhà dài theo hướng nam bắc, hẹp theo hướng đông tây là cát. Hướng nam bắc mà hẹp, hướng đông tây dài là hung.
15. Nhà ở dưới gầm cầu, sát bên cầu cống, chủ bất lợi cho con cháu.
16.Phía trước nhà không nên đào ao mới, chủ tuyệt tự, xa hơn về phía trước có tềh đào ao hình bán nguyệt.
17. Trước nhà không nên thấy có phiến đá màu hồng, đỏ, trắng, rộng vài ba thước, chủ hung.
18. Nhà trước sau vuông vức, đại cát. Nếu phía sau thót vào hoặc nhọn hoắt, sẽ tuyệt nhân đinh.
19. Phía trước nhà nghe tiếng nước như tiếng rên rỉ bi ai, chủ tán tài.
20.Trước nhà kỵ có hai cái ao, gọi là chữ khốc (khóc). Đầu phía tây có ao, là Bạch Hổ há miệng, đều kỵ.
21. Phàm trước cửa, sau nhà thấy thủy lưu, chủ đau mắt.
22. Trước nhà có đồi, núi bằng, tròn trịa, chủ cát.
23. Phía trước nhà và sau nhà, rãnh nước không nên phân thành hình chữ bát, nước chảy cả ra đằng trước đằng sau, chủ tuyệt tự, tán tái.
24. Phàm giếng nước không được chắn cổng, chủ kiện tụng.
25. Khi xây nhà, kỵ xây tường bao và cổng trước, chủ khó hoàn thành.
26. Phàm hai cánh cổng phải có độ lớn bằng nhau, nếu cánh bên tả lớn hơn, chủ thay vợ, nếu cánh bên hữu lớn hơn, chủ cô quả.
27. Cây lớn chắn ngang trước cửa, chủ tiền tài ít, thân thể yếu.
28.Đầu tường chĩa thẳng vào cửa, chủ bị người đàm tiếu. Đường đan chéo kẹp nhà như gọng kìm, nhân khẩu bất tồn.
29. Trên cùng một mảnh đất, dựng ba ngôi nhà liền nhau, nhà ở giữa không gặp cát lợi.
30.Đền chùa, nhà thờ ở ngay trước cửa nhà, người nhà thường mắc bệnh thần kinh suy nhược.
31. Nhà vệ sinh ở ngay trước cửa thường bị khí độc.
32.Nhà có ba cửa thông luôn, tất chủ nhà thua kém dần.
33. Cột điện lấn vào giữa cửa, chủ không an ninh.
34. Luận về Ngũ Hành bốn mùa, trong vòng 18 ngày trước các tiết Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông kỵ động thổ, phá thổ.
35. Phòng ngủ của nhà ở, phải chọn phương sinh vượng. Trong phòng phải sáng sủa, kỵ tối mờ, trước cửa sổ kỵ mái nhà khác đâm thẳng vào hoặc kỵ máng xối.
36. Trước sau nhà ở kỵ bếp, phía sau phòng kỵ có giếng.
37. Nhà ở kỵ ngay sau đền chùa, kỵ đối diện với gian bếp nhà khác.
38.Nhà cửa kỵ nhiều cửa sổ, phòng kỵ cửa kiểu hình cánh bướm.
39. Cầu thang kỵ xộc thẳng cửa phòng.
40. Đặt giường tối kỵ phương tiết (thoát) khí, ắt chủ về tuyệt tự, ví dụ Khảm Trạch thì kỵ phương vị đông bắc và chính tây.
41.Đặt giường tốt nhất chọn cát phương. Giường đặt ngay dưới xà chính, trước giường kỵ có cột, sau giường kỵ có khoảng trống. Hia đầu không nên sát tường, kỵ mở cửa ngay bên đầu giường.
42.Kỵ kê giường bên dười cầu thang, kỵ đầu giường có bếp lò, sau giướng có giếng.
43. Phía dưới phòng ngủ trên lầu, không nên đặt bàn thờ, chủ không bình an.
44.Phàm xây nhà lầu không thểà phân rõ chủ khách, hướng ngồi. Ví dụ, ngồi hướng bắc nhìn về hướng nam thì cổng tất phải ở phía nam hoặc phía đông, hoặc phía tây, sau lưng nhà hoặc hai bên có thể làm cửa ngách, để hình dáng nhà có chủ có khách.
45. Xây lầu chớ nên xây quá cao so với xung quanh, cao quá tất nguy hiểm, dễ bị người nhòm ngó, công kích.
46.Nhà láng giềng bốn phía đều cao, nhà mình không nên làm quá thấp. Nếu thấp so với mé bên tả, chủ về xuất hiện cô phụ (chồng chết), nếu thấp co với bên hữu chủ khắc thê. Nếu hai góc tả hữu có giếng, chủ tự sát, nếu phía sau có giếng, chủ trộm cắp.
47. Luận về quan hệ với người, cần coi phòng ốc là tối quan trọng, lại coi phòng ngủ làm trọng.
48. Gian kho, chứa các vật dụng lặt vặt, có thể bố trí ở phương vị bất lợi, nhưng nếu là tiệm buôn, thì hàng hóa phải để ở nơi có phương vị tốt nhất
49. Luận quan hệ giữa phòng với cửa, thì người mạng Đông tứ trạch theo các phương Khảm, Ly, Chấn, Tốn là cát. Người mạng Tây tứ trạch theo các phương Càn, Khôn, Cấn, Đoài là cát.
50. Theo trú trạch phong thủy, kỵ nhà có chỗ lồi lên ở hướng đông và đông bắc.
Nguồn: Phongthuy
Trần Đoàn lão tổ là người kiến văn rất quảng bác, hiệu là Phù dao tử, thích tư tưởng của Đạo gia, ngài từng tổng kết Nội đan Đạo pháp, là Tác giả của ”Dịch kinh đồ, Tiên thiên đồ, Vô cực đồ”, là một trong vài khuôn mặt chủ lưu của lãnh tụ Đạo gia hậu Tống, có ảnh hưởng lớn lao đến người đương thời và mãi đến hiện nay Đường minh tông từng tứ hiệu cho ngài là ”Thanh hư ngoại sĩ”, cũng như Đường thế tông tứ hiệu ”Bạch vân tiên sinh”, Tống thái tông Triệu quang Nghĩa tặng hiệu ”Hi Di tiên sinh”, sau này Đạo sĩ và Hoa sơn đạo giáo tôn xưng ngài là Tổ sư, Hoa sơn Ngọc tuyền viện tôn xưng ngài là Giáo chủ.
Hoa sơn tại tỉnh Thiểm Tây, vị trí tại phía Nam Huyện Hoa Âm, là Tây nhạc trong hệ thống Ngũ Nhạc, là Động thiên đứng hàng thứ 4 trong 36 động thiên của Đạo giáo, Hoa sơn có Chủ phong (núi cao nhất) có Hải bạc là 1997 mét, trong Ngũ nhạc chỉ thua có Bắc nhạc Hằng sơn, nhưng Hoa sơn có sơn thế hùng vĩ hiểm ác không đâu sánh bằng, nên được gọi là ” Kỳ hiểm thiên hạ đệ nhất sơn”, từ xa xưa, Hoa sơn đã là nơi linh địa của Đạo giáo, hiện còn một số tự viện liên quan như Tây nhạc miếu và Ngọc tuyền viện ở dưới chân núi, trên núi thì có Đông đạo viện, Trấn nhạc cung, Ngọc nữ từ, Túy vân cung, trong đó Ngọc tuyền viện, Đông đạo viện và Trấn nhạc cung được xem là 3 trọng điểm của các Cung Quan Trung quốc.
Cứ theo truyền thuyết thì Lão tử cũng từng lưu chân tại Hoa sơn, tại núi Nam phong của Hoa sơn nay vẫn còn lưu giữ một lò luyện đan của Lão tử. Tại sơn môn của Ngọc tuyền viện, bước lên thạch cấp đi xuyên qua Chính môn và tiếp tục duyên theo thạch lộ mà đi thì sẽ gặp Hi Di động.
Động này được phân làm Tiền và Hậu điện, phía tả tiền điện có tấm bia Hoa sơn thạch đồ, mé trái có một thạch bia do một thư pháp danh gia thời Tống tạc mấy chữ Đệ nhất sơn, hậu điện là tượng ngồi của Lão tổ, ngoài ra còn một số di tích khác liên quan đến lão tổ như Hi Di Trũng, Hi Di Động, Son Tôn Đình, Nạp Kinh Đình, Vô Ưu Đình, Quần Tiên Điện Và Tam Cung Điện, Sơn Tôn Đình được xây trên một tảng đá khổng lồ, kiến trúc kỳ dị, tương truyền đây là nơi Tổ sư thường đúng ngắm cảnh. Cạnh đình có một cây cổ thụ tuy quá cổ lão nhưng vẫn xanh um gọi là Vô ưu thụ, đồn rằng cây này do đích thân Trần Đoàn trông nên, Hi Di động thì nằm ở gần cạnh đình, là nơi để Tổ sư tĩnh dưỡng (ngài ngủ rất lâu), bên trong có một bức tượng ngài đang ngủ! Toàn cảnh Ngọc tuyền viện đình miếu ngổn ngang, suối reo róc rách, cây cối thâm u, tạo cho du khách cái cảm giác thoát trần, tại đây còn lưu một bài của Khang hữu Vi:
Cốc Khẩu Tuyền Thanh Dẫn Khúc Lưu
Trường Lan Hồi Hợp Thụ Vô Ưu
Tuyền Thanh Sơn Sắc Khả Vong Thế
Nhượng Dữ Hi Di Thùy Vạn Thu…
Giới Tử Vi Đẩu Số xưa kia có thể được chia làm 3:
Tử Vân trước kia làm việc cho một nhà xuất bản, theo như chuyện kể trong quyển ”Đẩu số luận nhân sinh”, trước kia Tử Vân không tin vào Mệnh lý, về sau nhân có lần đi với Vu thái thái gặp Hà lão sư, Hà lão sư căn cứ trên Mệnh bàn nói ra những tình huống gì sắp xảy ra trong năm sau cho Vu thái thái, chẳng hạn sau khi sinh thì bị viêm gan và phải tiếp huyết.v.v
Một năm sau, tất cả xảy ra như đã kể, Tử Vân bèn bái Hà lão sư làm sư phụ và khai thủy học Tử Vi Đẩu Số cùng với hai vị sư đệ. Về sau, Tử vân chu du khắp Đài loan nam bắc, tứ xứ tìm cao thủ Tử Vi Đẩu Số để nghiên cứu thêm, trong thời gian này còn học thêm Tâm lý học và Trung y.Danh tiếng của Tử vân ngày càng vang dội, nhưng nhiều khi người được coi bói không biết rằng Him là Tử Vân tiên sinh. Khoảng 70, 80 niên đại Tử vân bắt đầu ra sách Tử Vi Đẩu Số, trong đó đã tiết lộ rất nhiều ” Khẩu quyết ” mà ông đã khai ngộ được những sáng kiến quan trọng của ông ta gồm:Tam đại luận, Thái tuế Bát quái, Thái tuế Cung vị
Tử Vân tiên sinh là lão sư của Liễu vô cư sĩ. Tử vân vừa viết sách vừa khai quán (xem bói) vừa dạy Tử Vi Đẩu Số không lấy tiền, ông có những đầu sách như:
”Tử Vi trí thức Đài Loan ” không phải là một phái Tử Vi ở Đài Loan, chỉ là một cách phân loại chủ quan của người viết những dòng này thôi. Nhóm này ở rải rác Đài Loan từ bắc xuống nam, đa số đều có bằng đại học trở lên, và đều cho rằng Tử Vi có tính khoa học cao đáng cho họ nghiên cứu. Điểm đáng nói là họ đại diện mấy chủ trương khác nhau, có khi đối nghịch nhau, nhưng tôn trọng nhau và đối xử với nhau rất lịch sự.
Vài nhân vật quan trọng theo thứ tự tuổi tác:
Hãy nói một chút về ông Tuệ Canh. Theo lời nhà xuất bản Hòa Mã văn hóa thì ông Tuệ Canh tốt nghiệp luật sư, nhưng sau khi hành nghề luật sự mấy năm thấy nghề này không hợp bản tính bèn bỏ luôn, ” bế quan luyện công ” (theo đúng nghĩa đen) mấy năm nữa rồi mới tái xuất giang hồ, lần này làm thầy bói. Thời khóa biểu làm việc là sáng nghiên cứu, chiều đoán mệnh cho khách.
Theo lời nhà xuất bản Thời Báo của Đài Loan thì Tuệ Canh là một trong hai đệ tử cao cấp của ông Tử Vân (đệ tử kia là Liễu Vô cư sĩ). Nhưng theo sự truy cứu, khi học Tử Vi với Tử Vân hai ông Liễu Vô cư sĩ và Huệ Canh đã đạt trình độ Tử Vi cao cấp rồi, học đây là vì thấy ông Tử Vân có chỗ độc đáo vô tiền khoáng hậu nên họ vì tinh thần cầu tiến mà học lại theo kiểu ” master class ” (lớp bổ túc cho bậc thầy) mà thôi.
Tác phẩm quan trọng nhất của ông Tuệ Canh có lẽ là bộ ” Đẩu Số khai vận toàn tập ”, đến giữa thập niên 90′s đã được 6 quyển không rõ sau này viết thêm bao nhiêu quyển. Bộ này phân tích các vấn đề cơ sở của Tử Vi, đầu tiên do Nhà xuất bản Thiên Tướng ấn hành, sau Nhà xuất bản Hòa Mã tái bản.
Tuệ Canh thỉnh thoảng cũng viết bài đặc biệt cho tập trường thiên ” Hiện đại Tử Vi ” của ông Liễu Vô cư sĩ. Chính trong Hiện đại Tử Vi ông đã có bài luận văn gây sôi động là ” mệnh cung bất khả vô đại hạn ”.
Bài “mệnh cung bất khả vô đại hạn” có tiếng vang, nhưng theo chính lời kể của ông Tuệ Canh lại bị một người thân trong giới Tử Vi chê là chỉ có đả phá, thiếu tính xây dựng (đả phá chủ trương khởi mệnh ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai, nhưng lại chẳng trình bày là phải khởi đại hạn thế nào mới hợp lý). Bởi thế ông Tuệ Canh quyết định đăng lại bài này với một bài khác có tựa “Mệnh cung đương nhiên khởi đại hạn” để biện hộ chủ trương khởi đại hạn ở mệnh (sách “Đẩu số biện chứng” nhà xuất bản Long Ngâm, Đài Loan, 1993).
Phái này chưa có chức Chưởng môn, mà cũng không biết đã thành Môn phái hay chưa, người đại diện là LIỄU VÔ CƯ SĨ, người đã từng phản đối việc tử/bình hợp tham (Dùng Tử bình để tham ngộ thêm Tử vi, thời gian này phong trào Tử, Bình hợp tham đang phát triển tại Đài.)
Ông chủ xướng ” Tử bình quy Tử bình, Đẩu số quy đẩu số, và cự tuyệt việc sử dụng các Thần sát, hay Quan Sát, dị hình dị loại xâm nhập vào lãnh vực Tử vi mà không có…giấy phép! Liễu vô cư sĩ sáng tác rất hăng, thường dùng thực chứng để lý giải, có bộ Hiện đại Tử vi (khoảng 11, 12 tập), Tử vi chi lộ, uyên ương truyền kỳ. Tử vi chi lộ, yên hoa truyền kỳ.v.v.v Phạm vi đề cập của ông rất rộng rãi, được Ngô hoài Vân tán xưng là Vệ sĩ của Mệnh học giới, hay là Tư mã Nam của Mệnh lý học. Sách của ông ta đọc được và có tính Hiện thực, nhưng lại không có ý nghĩa thực tế (có nghĩa là những lời bàn Mao tôn Cương của ông về các lá số chẳng áp dụng được, chẳng giúp ích gì cả, điều này thì ai cũng thấy ra, nhưng ông được cái khá thành thực, chỗ nào không biết thì nói là không biết hoặc chờ hỏi Thầy.
Ở Đài Loan có nhiều người cho rằng có thể áp dụng một số nguyên tắc của Tử Bình vào Tử Vi để giúp khoa này chính xác hơn. Chẳng hạn ông Sở Hoàng (sách ” Tử Vi hỉ kị thần đại đột phá ”, Sitak publishing, 1985) chủ trương dùng tiết khí để định tháng Tử Vi. Lại nữa, ông Sở Hoàng (sách đã dẫn) và ông Phương Vô Kị (sách ” Tinh tình thám nguyên ”, 1987) chủ trương dùng phép Hỉ Kị của Tử Bình để luận sao Tử Vi (Như sinh tháng 3 có Thiên Đồng hành thủy thì Đồng này không phải chỉ là hành thủy mà là hành thủy của tháng 3, phải dúng phép Hỉ Kị của Tử Bình tính xem tốt xấu thế nào).
Ông Liễu Vô Cư Sĩ chống lại các quan điểm đại loại như vậy.
Nhưng tôi cho là ông Liễu Vô cư sĩ quá cực đoan vì ông và những người theo ông hiện chỉ an các sao:
Tổng cộng 28 sao. Tất cả mọi sao khác ông Liễu Vô cư sĩ đều lược bỏ (với lý do rằng chúng là ngũ hành thần sát thuần túy, không dính líu đến Tử Vi).
Phái này do Thiên Cơ Thượng nhân HOÀNG XUÂN LÂM truyền dương, vào năm 1992 bộ sách Tử Vi Thiên Cơ được phát hành, trong đó lần đầu tiên tiết lộ những ” Tuyệt kỷ ” của Thiên cơ phái (đã thất truyền từ lâu) như Mật tông Lạp số, Đẩu số hỉ, kỵ thần cùng lý luận về cung khí (tử bình cũng có dùng Lạp số trong cách tính về Tiết khí của 12 Tháng).
Lạp số trong Tử vi thấy cũng có xuất hiện vào thời nhà Trần, dùng để xét lực lượng giữa hai nhóm Tinh đẩu là Cát diệu và Ác diệu để xem lực lượng hai bên tương quan như thế nào, nói thẳng ra là bên nào sẽ thắng, hoặc có thể cứu giải được hay không khi thấy đa Hung tinh xuất hiện.Bên Tàu thì thấy Trác phái và một vài Môn phái nhỏ cũng có xài Lạp số, nhưng giấu kỹ không cho ai biết…)
Đồng thời, Thiên cơ phái cũng tiết lộ bí quyết về: Song tinh khán pháp bí cấp Tử Vi Đẩu Số Phong thủy Huyền không nhị thứ Tứ Hóa Tử Kiếp.
Đây là một Môn phái khá đặc biệt và có ảnh hưởng lớn nhất và bao trùm tại Đài loan, tên Chính danh của Môn phái này là: ” Khâm Thiên Tứ Hóa Tử Vi Đẩu Số Đẩu Số Phi tinh bí nghĩa ”, cận đại truyền nhân là TỐ TÂM LÃO NHÂN, sau này còn có Sài Minh Hoằng, Lý tử Dương…
Vào năm 1985, một môn sinh trong Phái đã công khai đăng báo phát mãi (auction) một Bản Bí cấp của Môn phái (dường như là bản viết tay), trị giá khởi đầu đã lên đến trên 30 vạn Đài tệ (10000$), vụ này đã làm chấn động cả giới Đẩu số đương thời… Nghe rằng phái Bí nghĩa đời đời chỉ đơn truyền (truyền lại cho một môn sinh độc nhất), bí cấp là một bản viết tay, nội dung gồm:
Phương pháp suy đoán thì chuyên dùng tứ hóa, lấy Tứ hóa làm trọng tâm liên hệ với các cung vị (rất phức tạp) để đoán sự việc, đối với Tinh diệu thì thường…đụng đến thì ngừng! (không chú trọng đến Tinh diệu cho mấy), nói chung thì Phái này có ảnh hưởng rất lớn tại Đài, các đại danh sư Phương ngoại nhân như Pháp Đường chủ nhân, Phương vô Kỵ đều bị ảnh hưởng của Phái này…
Tứ Phượng, Tam Kỳ, nhị Nghi, Phiêu Phiêu là chỗ độc đáo của Phái này, là cơ sở của Thập Can đạp thiên pháp.
Tứ Phượng:
Tứ Phượng nếu tại Cung vị thì đại biểu Tứ Chính Cung vị, như Mệnh Tử, Tử Thiên…loại mà nói thì Tứ Phượng tại Tinh Thìn đại biểu CƠ CỰ ĐỒNG LƯƠNG. Trong ứng dụng, Tứ Phượng đại biểu Cách tứ vị Lộc, Kỵ, là một trong vài diện điểm để căn cứ mà phán xét Tài, Quan và sự việc Cát, Hung ra sao..
Tam Kỳ:
Tam Kỳ tại Cung vị thì đại biểu Đồng Âm đồng Dương Cách Nhị Cung vị, chẳng hạn như Mệnh Phu, Phu Tài loại… Tam Kỳ Tại Tinh thìn đại biểu Sát – Tham – Phá. Tam Kỳ tại ứng dụng đại biểu Lộc, Kỵ của Lân Cung, Tam Kỳ là một trong các điểm dùng để định sự Cát Hung của Nội Lục Thân.
Nhị Nghi:
Nhị Nghi tại Cung vị đại biểu Âm Dương tương cách Cung vị của Lân vị, như Mệnh Huynh, Huynh Phu loại. Nhị Nghi tại Tinh thần đại biểu Thái Âm, Thái Dương, tại Ứng dụng đại biểu Lộc, Kỵ của Lân Cung, là một trong những Điểm để định sự Cát Hung của Nội Lục thân.
Phiêu Phiêu (Tứ Hóa):
Chẳng hạn như những nhân quả Cát Hung trong hình thức Kỵ truy Kỵ, Lộc truy Kỵ…
Tại Trung Quốc đã có đến hai phái Hà Lạc:
8.1.1 Hà Lạc Nam Phái
Sau khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia ra làm hai phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi là phái Hà Lạc. Họ thêm vào một số sao mới mà trong Tử Vi Chính Nghĩa Kinh không có. Cách an sao của họ cũng khác với Hi Di tiên sinh.
Những sao họ thêm vào, với tính cách quái dị, vô lý của khoa bói dịch như: Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Y, Thiên Trù, Quán Sách, Thiên Xá….Vòng thái tuế có 5 sao, họ thêm vào 7 sao mà thành 12 sao.
Đa số người của phái này dùng khoa tử vi làm kế sinh sống, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi mà cũng giữ lại một số bí thuật. Đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa. Vì vậy phái bị mất hẳn gốc. Kinh nghiệm của họ thực nhiều, nhưng họ không truyền cho nhau thì đâu còn giá trị gì nữa. Các thầy tử vi Tàu sang Việt Nam dạy lại cho người Việt Nam, họ vốn dĩ đã bị học lại không đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai và dạy thiếu nữa, thì hỏi tại sao khoa tử vi không có chỗ bế tắc khó giải thích. Công trình của phái này còn chép trong bộ tử vi Âm Dương Chính Nghĩa Nam Tông.
8.1.2 Âm Dương Hà Lạc Phái
Học trò của Hi Di tiên sinh đi về phương Bắc đã bị ảnh hưởng của Âm Dương sinh khắc ngũ hành. Phái này có khuyết điểm là quá chú ý vào Âm Dương sinh khắc mà quên mất tinh yếu của khoa tử vi là Thiên văn. Đầu đời Minh, một nhân vật quan trọng của phái này làm quân sư cho Minh Thái Tổ. Đó là Lưu Bá Ôn. Trọn đời Minh (1368-1643) phái này rất được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái này rất nhiều, nhưng tiếc rằng đi quá xa với chính tinh nên không thành đạt cho lắm. Công phu của phái này còn lưu truyền bộ tử vi Âm Dương Chính Nghĩa Bắc Tông.
Niên hiệu Sùng Chinh thứ 16 nhà Minh (1643), Lý Tự Thành đem quân đốt phá Bắc kinh thì bộ sách trên thất truyền. Sau Vĩnh Vương bị Ngô Tam Quế thắt cổ ở Vân Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô Tam Quế bị diệt, bộ này lọt vào tay các văn thần nhà Thanh.
8.1.3 Bộ Tử Vi Đại Toàn
Niên hiệu Càn long thứ 38 nhà Thanh, nhà vua thấy danh sĩ thiên hạ xúm vào bài bác mình, chê bai Thanh triều là dòng dõi mọi rợ phương Bắc… mới tập trung những nhà học giả lại phong cho mỗi người một tước đặt dưới quyền Kỷ Duân, làm việc trong viện Tứ khố toàn thơ. Công việc của viện là tập trung tất cả sách vở, học thuật trong thiên hạ lại chú giải, ấn hành cho dân gian học. Bộ này được gọi là Tứ bộ bị yếu, gồm có 4 bộ môn: Kinh, Sử, Tử, Tập. Quả nhiên sau biện pháp này, dân chúng không còn lý do chông đối nhà vua nữa. Bộ này rất vĩ đại, phải chở mấy xe mới hết.
Hồi đệ nhất Cộng hòa, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc có tặng cho thư viện Đại học Văn Khoa một bộ, in bằng giấy Tàu bạch. Sau Kỷ Duân thấy rằng còn một lực lượng chống đối không kém quan trọng là mấy ông thầy tử vi, bói toán. Ông ta tâu lên vua Càn Long cho mời 75 nhà nghiên cứu tử vi danh tiếng về kinh phong tước rồi tập trung tất cả sách tử vi trong thiên hạ lại chú giải thành bộ Tử Vi Đại Toàn gồm 9 cuốn như sau:
Đặc biệt cuốn thứ nhì có nói đến khoa tử vi tại Việt Nam là công trình nghiên cứu của nhà Trần. Cuốn thứ tám chép lại nguyên văn của sách “Đông A Di Sự” đời Trần.
Phái mới xuất hiện ở Đài Loan là ” Tân Đài Hà Lạc Phái “
Phái này Tổ sư sáng lập môn phái là Tăng quốc Hùng địa bàn tại Đài loan. Phái này chuyên dùng Hà lạc số, Quái vị, Tứ Hóa (nhất là Hóa Kỵ)và Tính lý của Tinh đẩu để luận một lá số. Như Đoán pháp tổng luận của Phái này có sơ lược cho ta biết:
Phái này nghe đồn đoán rất linh nghiệm. Theo học phái này thì cũng chẳng khó, có điều là hơi…cô đơn, cũng như thời xưa khi tui học Tử bình xong rồi thì ông Thiệu vĩ Hoa cũng chưa viết sách, trên 10 năm trời chẳng biết bàn chuyện Tử bình với ai, riết rồi chán bỏ vào một xó,,,
Trung châu phái tái xuất giang hồ trên hai mươi năm là ít. Bằng cớ hiển nhiên là Trung Châu Phái Tử Vi Đẩu Số Giảng Nghĩa do ông Vương Đình Chi bổ chú đã được nhà xuất bản Thời Báo ở Đài Loan phát hành năm 1987, gồm hai tập, tập một đề tháng 3, 1987, tập 2 tháng 4, 1987.
Năm 2001 nhà xuất bản Vũ Lăng ra một bản bình chú khác của Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, lần này người bình chú là ông Lục Tại Điền, không rõ có cùng dòng với ông Lục Bân Triệu hay không.
Và cần thêm nữa, sự tái xuất hiện của Trung Châu phái chẳng rầm rộ gì, chỉ là một trong nhiều trường phái Tử Vi trong giai đoạn bùng vỡ trăm hoa đua nở của kéo dài hơn hai thập niên (chủ yếu là thập niên 80’s và 90’s).
Ở Đài Loan Trung Châu phái bị nhiều phái khác, chẳng hạn các phái của Tử Vân, của Liễu Vô Cư Sĩ, của Chính Huyền Sơn Nhân đè bẹp. Tóm lại Trung Châu phái không phải là mới xuất hiện, từ lâu chẳng thấy “nóng hổi” gì, và cũng chẳng có ai “xếp de” trước phái này.
Tháng 6 năm 2007, một vị mang bút danh là Tam Thai xuất hiện trên một mạng của Trung châu Phái có vẻ như tự nhận mình là Truyền nhân chính thức của môn phái này (Môn phái này mỗi đời chỉ có một Truyền nhân, nhưng đến đời của Tam Thai thì phá lệ, hiện nay có đến 40 môn đồ và khoảng 2000 người theo thụ giáo). Ông này cho rằng Lục bân Diêu không phải là đệ tử đích truyền mà chỉ là một dạng như Tục gia đệ tử và chỉ học về sơ cấp chứ chưa đi sâu vào học trình cao cấp của Trung Châu phái. Tam Thai cũng có nói quyển ” Tử Vi Lý Số Giảng Nghĩa ” có nguồn từ một tài liệu gọi là ” Thế truyền Khâm thiên giám bí cấp ”.
Tam Thai có kể: sư tổ phụ của ông ta nguyên họ Du, trước kia có làm một chức quan nhỏ trong cơ quan khâm thiên giám nhà thanh, sau khi nhà thanh bị lật đổ, sư phụ của ông nhất thời bị thất nghiệp, lại không thích treo bảng làm nghề thày bói, trong cơn bối rối (tam thai không nói rõ như vậy) thì được gia nhân nhà họ lục mời về dạy bói toán cho lục bân diêu, dạy được mấy năm thì thày trò chia tay, bởi lúc đó chiến tranh loạn lạc đã khởi sự, họ du chạy về lạc dương, hình như để tìm thêm tài liệu thất lạc của môn phái, tình cờ thì gặp và cơ duyên làm sao mà thu nhận sư phụ của tam thai làm đệ tử…
Cứ theo Tam thai nói, thì sư phụ của ông cho biết họ Lục chỉ mới học qua về Tính chất các Sao và những câu Phú liên hệ mà chưa học đến ” Tử vi Tinh quyết ”, tức những yếu quyết (đa số là dưới dạng công thức) để suy đoán một lá số,, Họ Lục cũng có truyền nhân riêng của họ, đến nay cũng được 4 đời, đệ tử của Lục bân Diêu hiện nay chỉ theo một ít kiến giải của Thầy (vì không biết các chiêu Tinh quyết), nên đa số chỉ làm việc Nghiệm lý, xét lại vấn đề sau khi nó đã xảy ra..) một lá số mà ít khi dám tiên đoán! Tam Thai cho rằng làm như vậy thì sao mà phát huy được tinh hoa của một môn phái.
Tam thai nói: chẳng hạn Vương đình Chi có viết trong Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa: ” Phu thê cung hội THAM -KỴ, có nghĩa là đoạt ái (đoạt vợ chồng người khác), nhưng ông Vương không đề là vợ/chồng bị kẻ khác đoạt hay là đi đoạt tình nhân/vợ chồng người khác, bởi lẽ là ông ta chưa học Tinh quyết nên không phân biệt được… Họ Tam nói: ngay như THAM LANG -HÓA LỘC, hay THAM -QUYỀN (mà gặp sao này sao kia) có khi vô nhà lao ngồi chơi mấy mùa, đó là do sự biến hóa của Tinh hệ mà hình thành, nếu không biết mà luận lung tung tùy hứng thì còn gì là tinh hoa của Trung châu phái.
Chẳng hạn như cái sao THIÊN TƯỚNG, có người thì nói Thiên tướng là sao chính nghĩa cảm, thích vì người mà phục vụ, ưa xen chuyện bất bình, tại Mệnh cung thủ tọa thì không sợ Ác sát xâm lấn!! thậm chí đi khắp 12 cung ở đâu cũng là cát tường (không có Hãm địa).v.v, nhưng thực tế khi tham đoán một lá số đâu có giản đơn như thể dạo phố như vậy. Theo Tam Thai, thì Thiên Tướng chỉ là một Anh Ba phải, khi hội với cát tinh thì có khuynh hương tốt, khi đi với Ác diệu thì biến thành kè Ác ngay liền tù tì… Cổ nhân có cho rằng ” Phùng Tướng khán Phủ và Phùng Phủ khán Tướng ” (Mệnh/Hạn có Thiên Tướng thì phải xét đến Thiên Phủ và nghịch lại), vì hai sao này là chủ chốt của cách cục và lúc nào cũng ở thế Tam hợp..
Chẳng hạn Thiên Tướng tọa Mùi, Mão cung Tài có Thiên Phủ, đối cung là cặp Tử -Phá, tại Mão cung Thiên Phủ tọa thủ gặp phải vài tên Ác sát như nhóm Hỏa -Linh -Kình -Đà/hay Hình -Kỵ… như từ Dậu cung xạ chiếu chẳng hạn, những Ác tinh này tuy không chiếu xạ Thiên Tướng, chỉ chiếu tướng Thiên Phủ mà thôi, nhưng vì Phủ -Tướng là một cặp bất khả phân ly, nên chơi anh Thiên phủ cũng có nghĩa là ném chuột mà không nghía chủ nhà. Khi Thiên Phủ bị Hung đồ chiếu thì sẽ biến thành bại hại ngay, và lôi kéo theo anh chàng Thiên tướng (biến thành kẻ thiếu mất chủ kiến tham lận thô bỉ, không biết lẽ tấn thoái, hoặc giả chỉ biết tiến và tiến cho đến lúc hữu sự thì thoái thân vô lộ). Nếu không hiểu rõ cơ đồ, nhìn lá số Mệnh cung thấy Thiên tướng sáng láng, chẳng thấy Hung tinh chiếu xạ, vội cho rằng là người trung tín, chính nghĩa.v.v thì có phải là hại chết cái môn Tử Vi hay không…
Đây chỉ là một ví dụ cụ thể, một hạt đậu ” bí quyết ” nhỏ nhoi của Trung châu phái, xưa nay vẫn cất kỹ, đến như ” MÂN PHÁI Tử Vi ” tuy rằng có biết, nhưng lại dựa vào sự Đắc Hãm của Thiên tướng tại các Cung để phán đoán, e rằng vẫn chưa đúng với tinh thần của câu ” Phùng Tướng khán Phủ… ”, anh chàng Vương đình Chi trong Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng vậy…
Gần Tử Vi Việt nhất theo tôi thấy là phái Trung Châu kiểu ông Lục Bân Triệu (không phải chi phái ông Vương Đình Chi, vì ông này Tứ Hóa ra khác hẳn).
Còn muốn thấy thật gần Tử Vi Việt thì tìm quyển Đẩu Số Đàn Vi (trọn bộ hai tập in chung một quyển, không dày lắm). Quyển này xuất hiện 1928, 1935 ở hoa Lục, và là một trong vài sách gối đầu giường của làng Tử Vi Đài Loan giữa thập niên 70. Giờ coi như bị lãng quên vì phái tứ Hóa nổi lên mạnh quá. Nhà xuất bản Vũ Lăng (Woolin, Đài Bắc) đã in lại.
Nam phái Tử Vi Đẩu Số là 1 môn phái chuyên dùng Tính chất của chư Tinh để luận Mệnh, vì phương pháp dùng Tinh luận Mệnh là truyền thống nguyên thủy của Tử Vi, cho nên ai nghiên cứu Tử vi cũng phải học tập các Kinh điển loại này.
Cho đến hiện nay (không kể Việt Nam), phái này chỉ còn di lưu lại 2 Bản cổ tịch, đó là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư và Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập. Hai bản này được (giới Tử Vi Đẩu Số Trung/Đài/Cảng..) xem là Chính tông, tối nguyên thủy, là chứng cứ tối sơ có thể tìm thấy được về Tử vi Luận Mệnh Pháp.
Tại Việt Nam môn Tử vi tuy không có giai đoạn bột phát mạnh mẽ như tại Đài/Cảng nhưng vẫn tiềm tàng phát triển trong dân gian 1 thời gian khá lâu trước thập niên 70, còn Trung, Đài, Cảng thì lưu mạch của Tử Vi Đẩu Số dường như hoàn toàn bị đứt đoạn, mãi đến các năm 70 mới được phục hồi. Đây là nhánh tử vi chính của Việt Nam.
Sở dĩ những người thực sự thấu hiểu cơ cấu môn Tử Vi Đẩu Số thì không có là bao, để tiện cho các vị sơ học, xin đưa ra các trọng điểm của Môn phái này như sau:
NGƯỜI Sáng lập Tiên tông phái là CHÍNH HUYỀN SƠN NHÂN, pháp hiệu là HUYỀN CHÂN TỬ, là người Miêu lật, tự xưng là có Linh tu (linh Thần dựa vào mà dạy) mà học được Tử Vi Đẩu Số! Ông còn học với LƯ SƠN TIÊN TÔNG ĐẠO TRƯỞNG. Các sách của ông gồm có:
Trong đó quyển ” Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số Phi tinh Kỳ phổ bí truyền ” được coi là ” tinh hoa ” của môn phái, quyển này nói rằng đã đưa ra rất nhiều những kiến giải chưa từng được ai đề xuất!!! Cách hành văn trong những bộ sách này chứa đầy những thuật ngữ và luận điệu của Đạo giáo, Chính huyền sơn nhân còn có phương pháp Bài Bàn theo Nhuận nguyệt, dùng Thiên số của Tháng trước Tháng Nhuận và xuất sinh Nhật số cùng với Tử vi định vị Công thức mà tính ra được lá số chính xác, ông chủ trương Tinh – Bình hội tham, nói rằng như vậy mức dự đoán có thể chính xác đến 75%, ông tuyên bố mình thuộc giới Địa Tiên, và ở Đài loan thì chiếm địa vị Thứ Nhất trong giới Thuật số!!!
Về những Kiến giải trong bộ ” Tử Vi Đẩu Số Phi tinh Kỳ phổ bí truyền ” gồm có:
Tác phẩm
Nhân vật sáng lập ra môn phái này là THẨM BÌNH SƠN, phái này có 1 mô thức luận Mệnh khác lạ so với các Môn phái truyền thống, nên trong lãnh vực Tử vi cũng chiếm được 1 vị trí độc đặc riêng của mình. Phái này có vài quyển trứ tác như:
Ngoài ra ông Thẩm Bình Sơn có ra một quyển khổ to ” Tử Vi Đẩu Số đương đại Trung Quốc danh nhân phổ ”, gọi là ” Trung quốc danh nhân ” thực ra là ” Đài Loan danh nhân ”.
Về cách xem của ông Thẩm, tôi chỉ dám nói là ” lạ lùng ” vì có quá nhiều bí quyết không ăn nhậu gì đến các phép luận truyền thống của Tử Vi cũng như Tử Bình. ” Tử Vi mệnh phổ ” có mấy lá số rõ ràng sai, có số sai cả năm khiến ta phải hồ nghi độ khả tín của những lá số còn lại trong sách này.
” Tử Vi Đẩu Số lưu niên tại họa tổng luận ” thu thập nhiều lá số người thật việc thật và dùng các tổ hợp sao để nghiệm lý tại sao tai họa xảy ra và tại sao xảy ra như thế. Vấn đề là chẳng ai biết những lá số trong sách này có chính xác hay không. Cách đoán lại quá ” lạ lùng ”, chẳng phải là đại đồng tiểu dị mà phải nói là tiểu đồng đại dị so với kiến thức Tử Vi mà tôi đã biết.
Trong đó ông đã tiên đoán thời gian mất của Tưởng Thống Chế, Mao Xếnh Xáng, Tưởng Kinh Quốc, Đặng Lệ Quân, Tưởng Hiếu Vũ, chuẩn xác đến nỗi làm chấn kinh cả thế giới Mệnh lý và ngay cả những phần tử cao cấp trong Chính quyền cũng phải chú ý. Thẩm đại sư đồng thời phát kiến ra Tử Vi Đẩu Số Tinh hóa, Trung Hạn, nghịch cung, Phi tinh, Trực giác Chiêm pháp.v.v làm hoanh động nhất thời, tứ phương Hiền sĩ, Đạt nhân phân phân đăng môn cầu vấn, cao đồ mãn tọa, tạo thành 1 phong trào đưa Mệnh lý Trung quốc nâng cao lên 1 bước nhảy vọt!
Về sau, lại xuất bản ” Đương đại Danh nhân phổ ”, trong có có dự ngôn (tiên đoán) về Thị trường Cổ phiếu Đài loan, Đại gia Lạc phong hảng về việc Tinh vân pháp sư nghênh đón Phật nha, Tạ trường Đình phát sinh phong ba và việc Đặng tiểu Bình sẽ chết, Trần thủy Biển có thể đắc cử Tổng thống, nhưng trong Vận sẽ gặp Hung nguy… Những tiên đoán như trên thật là Thần bút linh kỳ, làm cho người ta phải tán thán.
Theo bài viết của Môn sinh của Thẩm bình Sơn, thì khoảng năm 1975, họ Thẩm đầu tiên xuất hiện giang hồ, trương bảng truyền thụ ” Phòng trung thuật ” (nghệ thuật tình dục), sau đấy vì nổi đình đám quá nên nhà nước nhảy vô can thiệp, dẹp bảng… Thế là Họ Thẩm thất nghiệp quay sang ” tiềm nghiên ” môn Kỳ môn độn Giáp và khám phá về thế giới kỳ ảo của Thiên văn.
Ban ngày thì ông chơi với Lục giáp thần tướng, họ chuyên hộ vệ ông cũng như rỉ tai báo cho biết trước những gì sắp xẩy ra, ban đêm thì ông chơi với.. Lục Đinh. Lục Đinh là 6 Cô Ngọc nữ chân dài và đẹp bá chấy, nhưng không nói ông học cái gì ở họ… thỉnh thoảng ông thấy như bản thân mình nhập vào..Thái hư, có vô số tia bức xạ chạy xuyên qua xương sống cũng như não môn, về sau hình như có 1 vị nhập vào người ông để..xem bói. Mỗi khi xem bói cho ai thì não bộ lại xuất hiện hình ảnh của người đấy.
Thẩm bình Sơn tướng Sư xem bói có khi không cần lá số, có khả năng vạn lý tri nhân Mệnh, lại có thể đoán được ngày giờ năm sinh của 1 người lạ hoắc, từng đưa ra ngày giờ sinh chân chính của Trần thủy Biển, Vương Kim Bình, Lý Đăng Huy, thậm chí thọ kỳ (năm chết) của Hoàng tín Giới, Lư tu Nhất, Chương hiếu Từ,,, cũng không thoát khỏi Diêm vương khẩu lệnh của Tổ sư gia.
Tổ sư đã sáng biện ra rất nhiều Tử vi Huyền Cơ cũng như chú thích vô số những chỗ tinh vi áo nghĩa trong các môn Kham dư, Tính danh, Khí tượng, và Quốc gia đại sự, có khả năng dự trắc sự lên xuống của Cổ phiếu mỗi ngày, dự đoán chính xác thời gian và địa điểm phát xuất của Toàn phong bão lốc cũng như những cơn địa chấn, ngoài ra còn biết nhập Thần, chữa Bệnh nhờ dị năng, Phòng trung thuật, Ảo giác vũ thuật.v.v
Thẩm Tôn sư đã khai sáng ra lãnh vực Thần học làm người người phải khâm phục, thật là 1 Dị sĩ Kỳ nhân nghìn năm có một tại Trung quốc vậy…
Các Kỹ Thuật Chính
Thẩm bình Sơn thường che giấu cách thức luận Mệnh ” đặc biệt ” của mình. Phương thức luận của ông gồm 2 phần:
Họ Thẩm không dùng Tứ Hóa Phi tinh mà dùng TINH HÓA gia thêm TAM HẠN PHÁP hoặc PHI TINH PHÁP làm chính.
PHI TINH PHÁP
Cách phi tinh của thẩm thức khác với tứ hóa pháp, phương pháp này tương tự như cách thức ” tinh tinh hổ đạp ” của Vương Đình Chi, chẳng hạn mệnh cung có vũ khúc, hành hạn nhập thê cung thất sát, thì dùng vũ – sát phối hợp mà luận, 12 cung đều ” hổ đạp ” như vậy.
TINH HÓA PHÁP
Tức lấy các tinh chính và phụ hóa làm chứng tượng trong phép đoán, chẳng hạn đang luận tật bệnh thì lấy thất sát hóa thành ngón tay, mật. đang luận về hung nạn thì thất sát sẽ hóa thành khai đao (giải phẩu),
TAM HẠN PHÁP:
Người Nhật cũng đang nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số như chúng ta, sau đây là một đề số sách:
Phong trào Tử Vi của Nhật tương đối mới, trước chỉ có bát tự. Họ còn coi trọng phép coi nhóm máu (huyết hình). Đài Loan bị Nhật chiếm đóng 50 năm (1895-1945) nên cũng chịu ảnh hưởng cách xem huyết hình.
Về Tử Vi thì Đài Loan có ảnh hưởng ngược lại Nhật Bản. Ngay Phan Tử Ngư viết rất lộn xộn mà đã có sách được dịch sang tiếng Nhật.
Vương đình Chi nói về một trong những Tiền thân của Tử Vi Đẩu Số, đó là thập bát phi tinh.
Thập bát phi tinh tuyệt đối không phải là Tử Vi Đẩu Số, và trên mặt lịch sử mà nói thì không hề có môn thuật số nào gọi là ” Thập bát phi tinh Tử Vi Đẩu Số ”, sở dĩ tại Minh Phúc kiến ấn bản còn truyền lại thấy đề là ” Hợp tính 18 phi tinh Tử Vi Đẩu Số ” hoặc ” HỢP TÍNH 18 PHI TINH SÁCH THIÊN Tử Vi Đẩu Số ”, có nghĩa là tập hợp 18 phi tinh cùng với Tử Vi Đẩu Số trong cùng một ấn bản.
Hiện tại, giới nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số tại Đài loan (dường như) thấy thích thú trong việc xảo lập danh mục, sở dĩ đã tự tiện bỏ đi hai chữ ” Hợp tính ” nên biến thành cái gọi là ” 18 phi tinh Tử Vi Đẩu Số ” Điều này làm cho lịch sử Tử vi bị hỗn loạn, ngay cả nguồn gốc của môn Đẩu số cũng bị đứt đoạn.
Môn 18 phi tinh hiển nhiên thoát thai từ ” NGŨ TINH ”, và được đơn giản hóa mà hình thành, chẳng hạn như tên các Tinh diệu: Thiên Quý, Thiên Ấn, Thiên Thọ, Thiên Lộc.. là những danh từ chuyên dùng của giới Ngũ tinh, nhưng 18 phi tinh lại có thêm vào một số Tạp tinh như Mao đầu, Thiên Nhận..
Theo suy tưởng của Vương Đính Chi (thích xưng tên như vậy), thì vào khoảng thời kỳ nhà Tống, sự suy đoán dựa trên Ngũ tinh đã không còn chuẩn xác, giới tôn sùng Bắc đẩu là các Đạo sĩ bèn nghĩ đến việc giản hóa môn Ngũ tinh thành ra một môn giản lậu thuật toán là 18 phi tinh, chỗ tuơng đồng duy nhất giữa hai môn đó là Mệnh bàn được phân làm 12 cung.
Tại sao gọi là 18 Phi tinh?
18 Phi tinh lấy Tử vi làm chủ tinh, sau đó đến Thiên Hư, Thiên Quý, Thiên Ấn, Thiên Thọ, Thiên Không, Hồng loan, Thiên Khố, Văn Xương, Thiên Phúc, Thiên Lộc tất cả gồm 11 Chính diệu, theo Tử vi mà phân bố khắp 12 Cung, mỗi cung một Chính diệu, không như Tử Vi Đẩu Số là có Cung có hai Chính diệu và có Cung vô Chính diệu, và để tránh né sự phân phối ngây ngô này, họ lại gia thêm Thiên Trượng, Thiên Dị, Mao Đầu, Thiên Nhận, Thiên Hình, Thiên Riêu, Thiên Khốc tổng cộng 7 Phúc tinh, cứ theo khởi lệ mà phân phối một Chính một Phó dùng làm tiền đề cho việc suy đoán nhân sinh mạng vận.
Ngoại trừ Tử vi ra, bỡi có 11 Chính diệu và 7 Phó diệu, do đó hợp xưng là ” 18 Phi tinh ”, về sau lại thêm vào Tam Thai, Bát Tọa, Long Trì, Phượng Các tứ diệu, đại khái là dùng để bổ khuyết chỗ bất túc của 18 Phi tinh!
Phương thức suy luận đoán Mệnh kiểu này có vẻ cứng ngắt, nhân bởi chỉ suy toán từng cung một, không có sự liên kết giữa các cung và giữa các Tinh hệ như Tử Vi Đẩu Số, thực tế mà dùng thì cũng như các loại tạp nhạp ” Tam thế thư ”, hay ” Lưỡng đầu kiếm ” mà thôi, vì chẳng có căn cứ lý luận và kinh qua việc thống kê hay tu đính mà phát triển, chung quy chỉ làmột loại toán thuật thô thiển trên giang hồ, không thể đâng đại nhã chi đường, cũng chẳng thể cùng sánh vai với môn Tử bình.. “
Vương Đình Chi cho rằng: Tử Vi Đẩu Số là do Thập bát Phi tinh phát triển mà hình thành, do đó từ tính chất của Tinh diệu hai Môn, chúng ta có thể tìm thấy mạch lộ của sự phát triển.
Sao TỬ VI (của 18 Phi Tinh): còn gọi là Cận thị quý nhân. Tinh này cư bên trong Đế viên, chí tôn chí quý, tại Hợi Thiên môn gọi là củng Bắc thần, độc lâm bộ vị gọi là Xuất thần, cách chủ đại quý, nếu Mệnh/Thân chiếu lại hội cát tinh, gọi là Thanh quang cách. Tỵ Dậu nhập miếu, Thân Hợi Lạc, Tý vượng gọi là Giao cung cách, Thân Mệnh có sao này chủ về đa tài chức, y tử yêu kim (phú quý), người người tôn trọng, tiểu nhân khó bề thân cận, tính từ thiện, thích học đạo thuật lại có duyên tu theo giới Thần tiên. Nếu không nhập Miếu vượng gọi là Cô thần, thích tăng đạo, thủ trai giới, nếu hội Ám diệu thì tính hiếu sắc, cương quả vô thân, nếu là phụ nhân thì phòng Phu tổn tử. Nếu Thất địa thì Suy, nếu lâm nguy thì được cứu!, là cửu lưu chi nhân (giới Thuật sỉ), đến Vận hạn thì được diện kiến Nhân quân (vua).
Theo kiểu thuyết pháp bên trên thì thấy tương đồng với (tính chất)của Sao Tử vi trong môn Tử Vi Đẩu Số…
Ngoài ra, Thiên Ấn phát triển thành sao Thiên Tướng.
Thiên Thọ = Thiên Lương
Thiên Khố = Thiên Phủ
Thiên Quý = Vũ Khúc
Thiên Lộc = Lộc tồn
Thiên Dỉ = Hỏa Linh
Mao Đầu = Phá Quân
Thiên Nhận = Thất Sát
PHAN TỬ NGƯ nhận là truyền nhân của Môn này, sinh năm 1930 tại Phúc châu, lúc nhỏ nhận NHẤT TRẦN HÒA THƯỢNG tại Cổ sơn Dõng tuyền làm sư phụ và học môn Nhất diệp tri thu, loại Tử Vi Đẩu Số này có chỗ bất tương quan với tông phái của Trần Đoàn lão tổ vì thừa nhận vị Tôn sư của họ là Tôn tư Mạo (chứ không là Trần Đoàn). Phan tử Ngư viết rất nhiều, gồm:
Sáng lập Tạp chí Tử vi Thiên địa, Phan tử Ngư có cách thức luận Mệnh đa tạp và phiền phức, ý mới không có nhiều, thường chú tâm hạ thủ ở những chỗ nhỏ nhặt, đối với những kẻ sơ học thì có ích, còn đối với những kẻ đã có căn bản thì vô dụng, bỡi vì tính ứng nghiệm suất không cao…
Trong hai người bị ông Tam Thai đả kích thì một người đã chết một người còn sống. Người còn sống là ông Vương Đình Chi, được coi là một cột trụ của làng mệnh lý Hồng Kông. Thiết tưởng ta cũng nên biết một chút về nhân vật khá quan trọng này. Sau đây là lời giới thiệu của nhà xuất bản Bác Ích Hồng Kông, dịch nghĩa từ một quyển sách phát hành năm 1995: “Vương Đình Chi húy là Đàm Tích Vĩnh, quê Nam Hải, Quảng Đông. Tuy học hóa học, nhưng xuất thân nho học, từ nhỏ luyện cầm thi thư họa và các khoa y bốc tinh tướng; (ngoài ra) tử bình, dịch học đều có nghiên cứu. Tuy làm việc tài chính nhưng thích văn sử triết học, tín ngưỡng phật giáo. Sau theo ông Lưu Huệ Thương của phái trung châu học Tử Vi, được chân truyền và rồi phát huy phái này quang đại ở Hồng Kông, thâu 40 môn đồ, thành lập hội Tử Vi tùng sự nghiên cứu. ” (Nhưng) cái sở học bình sinh của ông là phật học. Từ thời đại học đã bỏ nhiều công nghiên cứu (phật học), năm 28 tuổi nhờ một cơ duyên theo mật tông Tây Tạng, ẩn cư Di đảo (?) 6 năm, phối hợp kinh luận tu tập. Những năm gần đây biên soạn “Phật giáo kinh luận đạo luận tùng thư”, được đánh giá cao.
Đăng Hạ Thuật đề cập đến những đề mục tạp nhạp mà các môn khác không thấy nói đến, như:
Theo chính ông Phan viết trong sách thì một phần của Đăng Hạ Thuật có cái tên là “Nhất diệp tri thu”! “Nhất diệp tri thu” nghĩa đại khái là chỉ thấy một chiếc lá từ cây rơi xuống mà biết là mùa thu đã đến! Từ tên đã có thể mài mại đoán được, với phép này từ một dữ kiện nhỏ ta có thể đoán được rất nhiều chuyện.
Có thể thấy rằng phép “nhất diệp tri thu” (NDTT) toàn là bí quyết. Nên nếu phân biệt khí tông kiếm tông thì NDTT đúng là chiêu số của kiếm tông. Và vì phép xem Tử Vi của ông Phan Tử Ngư hoàn toàn dựa trên bí quyết, ông là một nhân vật thuộc phe kiếm tông. Rõ ràng hơn và ngắn gọn hơn, ông Phan Tử Ngư là một trưởng lão kiếm tông cao cấp của Đài Loan đảo.
Nguồn: WhiteBear
No.1: Con gái tuổi Dần
Tính như “hổ vồ” của các cô nàng tuổi Dần khiến các chàng sợ chạy mất dép nếu chưa quen thân. Người cầm tinh con hổ thường mạnh mẽ, kiên cường và thêm chút bất cần. Họ là hình mẫu lý tưởng để hội “đầu keo” học hỏi và ngưỡng mộ trong công việc, học hành.
![]() |
Ngược lại, với chuyện tình cảm cần sự mềm mỏng, con gái tuổi Dần lại không làm tốt. Thậm chí, họ chủ động được mọi chuyện khiến cánh con trai cho rằng mình là đồ thừa, không làm bờ vai vững chãi cho nàng. Nếu dịu dàng hơn đôi chút, biết cách thể hiện tình cảm theo kiểu lãng mạn, thì người tuổi Dần chắc chắn không thể đếm hết “vệ tinh” vây quanh mình.
No.2: Con gái tuổi Tuất
Khác với các cô gái tuổi Dần mạnh mẽ, người tuổi Tuất lại thể hiện phần nữ tính quá đà. Cụ thể là họ luôn phàn nàn bất kỳ vấn đề nhỏ nhặt nào. Hơn nữa, họ đều thuộc nhóm những người siêu sạch sẽ, thích sự hoàn hảo nên ít chàng nào đạt điểm 10 trong mắt họ. Vậy nên lòng thủy chung son sắt của con gái tuổi Tuất cũng không thể cứu vẫn được tình thế.
![]() |
Hội con trai sợ nhất đối tượng nói nhiều, nói dai. Không chỉ là cảm giác khó chịu, họ dễ suy luận bạn thiếu tôn trọng họ hay tự hạ thấp danh dự bản thân. Thay vì lặp đi lặp lại một chủ đề, người tuổi Tuất nên thể hiện bằng hành động để cho “gấu” thấy sự khác biệt giữa hai cách làm.
No.3: Con gái tuổi Ngọ
Không thể phủ nhận con gái tuổi Ngọ sống phóng khoảng, luôn tỏa sức lôi cuốn mạnh mẽ với người khác giới. Tỷ lệ cánh con trai trúng tiếng sét ái tình với bạn là rất cao. Tuy nhiên, thế mạnh đó cũng lại là điểm yếu của con giáp này.
![]() |
Hội đầu keo sẽ ngán ngẩm khi nghĩ tới việc phải giữ khư khư bạn gái vì lo các chàng khác tán tỉnh. Mặc dù có niềm tin tuyệt đối dành cho nàng, nhưng họ không thể tránh bị xao động khi chứng kiến cảnh nhiều “cây si” tình nguyện trồng trước cửa nhà nàng.
Mr.Bull (theo DZYX)
Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đóan về cung Mạng của lá số tử vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sang giá nhất của cụ Thiên Lương.
1.Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :
- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :
- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
2.Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :
1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :
a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
3. Sao Thiên Mã
Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :
a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.
b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
4. Vòng Tràng Sinh
Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :
a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.
b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)
c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời)
5. Vòng Lộc Tồn
Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :
a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.
Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )
6. Vòng Thái Tuế
Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :
- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.
Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :
- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;
- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
7. Luật của sao TUẦN & TRIỆT
Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
8. Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :
a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.
b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.
9. Vòng Mệnh và Vòng Thân
Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.
Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)
10. Nhóm hung tinh chiến lược
Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "
11. Bộ sao phò trợ
Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
12. Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật
Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái " áo bí " của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu.
trích KHHB
Khoảng rằm tháng 7, một mùa lễ Phật giáo được tổ chức khắp Đông Nam Á. Ở Nhật gọi là lễ Obon. Chữ Bon này tức là Urabon, do Nhật phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana; Trung Quốc phiên âm từ Phạn ra Hán là Vu Lan Bồn hoặc Ô Lam Bà Na; Việt Nam gọi tắt là Vu Lan.
Vu Lan chính là cái chậu (hoặc bồn để đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng chư tăng nhằm cầu siêu cho những vong hồn thoát khỏi nơi địa ngục). Tích xưa kể lại rằng, khi Đức Phật còn ở Dương thế, trong những người theo hầu có ngài Mục Kiền Liên, ông là một vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông. Một lần, Mục Kiền Liên dùng đôi mắt thần nhìn xuống địa ngục thấy mẹ đang bị Diêm Vương đày làm quỷ đói. Thương mẹ quá, Mục Kiền Liên dùng phép thuật xuống địa ngục để mang cơm dâng mẹ, nhưng mỗi khi mẹ Mục Kiền Liên đưa tay ra để nhận cơm của con thì cơm bỗng biến thành lửa không sao ăn được, Mục Kiền Liên đau xót vô cùng.
Ngài bèn cầu xin Đức Phật giúp mình. Đức Phật nghe thấy dạy rằng: cứ vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư tăng mãn hạn thì sửa một cái lễ đặt vào trong chiếc chậu để dâng cúng chư tăng, cầu xin uy đức của Người mới có thể cứu rỗi vong nhan khỏi địa ngục tăm tối. Mục Kiền Liên thành tâm làm theo và cứu được mẹ thoát khỏi âm cung. Từ đó về sau, các phật tử theo lời Đức Phật cử hành lễ Vu Lan cầu phá địa ngục cho những vong hồn.
Trong đời sống tinh thần của người Việt, sự tích hay nguồn gốc của Rằm tháng bảy dường như không quan trọng, điều linh thiêng là vào ngày đó, một cái cầu vô hình dường như được bắc giữa hai bờ của thế giới Dương (người sống) và thế giới Âm (người chết). Ngay từ đầu Công nguyên, đạo Phật được ghi nhận là đã có mặt trên đất nước Việt Nam chúng ta. Giáo lý Phật-đà đã sớm được tiếp nhận và từ đó hội nhập vào đời sống văn hóa của người Việt một cách ôn hòa, sâu sắc.
Gần 20 thế kỷ qua, đạo Phật như luôn hòa quyện vào vận mệnh dân tộc và không ngừng khởi sắc tạo cho nền văn hóa Việt Nam một đặc trưng riêng biệt đậm nét dân tộc và Phật giáo. Một trong những ngày lễ lớn của Phật giáo đã sớm chuyển mình thành ngày lễ có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam, đó là ngày lễ Vu Lan.
Lễ Vu Lan mang một ý nghĩ lớn là báo ân cha me, đồng thời còn bao hàm ý nghĩa tìm về cội nguồn, là biết ơn và báo ơn. Tư tưởng ấy hoàn toàn phù hợp với tư duy hiền hậu chất phác của người Việt Nam: "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Nếu người Tây Phương tự hào về ngày "Mother"s Day", "Father"s Day"" truyền thống của họ thì người Việt Nam nói chung, cũng có niềm tự hào không kém về ngày lễ Vu Lan của mình.
Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá con người này nhé.
Tính cách người tuổi Thìn nhóm máu A: Cương nghị chính trực, hay giúp đỡ người Tính cách người tuổi Thìn nhóm máu O: Thông minh, vui vẻ
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Tướng đi
Trước hết là tướng "đi" mà trong văn học Việt Nam qua một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Nhược Pháp ta thấy cô gái đi chùa Hương không dám đi mau vì "ngại chàng chê hấp tấp - số gian nan không giàu". Còn dưới mắt các nhà nghiên cứu nhân tướng học, cách đi vội vã, vội vàng là biểu lộ của người có tính tình khá "nóng", dễ "nổi giận" và hay "gây sự".
Nếu "đi như chạy" càng khổ nữa, vì dễ làm "đổ tiền, đổ gạo" rơi vãi trên đường. Tới đây lưu ý bạn đọc cũng đừng có cái nhìn quá "một chiều" về những điều không tốt của tướng đi đó. Vì nếu người đàn ông có tướng đi nhanh như vậy, thậm chí lúc nào cũng như muốn "vượt lên" phía trước - đành rằng cũng khó mà "giàu lên" nhưng lại là người biết "nhìn xuống", có lòng thương kẻ nghèo hơn mình và biết ứng xử nhanh nhẹn, ứng cơ, hợp lý đấy!
Người có "dáng đi đỏng đảnh" như các chú vịt là người rất thích quyến rũ kẻ khác giới. Người có "dáng đi uốn éo" như rắn với cái đầu động đậy nhẹ theo từng bước chân, là người có "trái tim lạnh", thường mưu lợi riêng cho mình dù phải gây thiệt thòi cho kẻ khác.
Đi như con hạc chân cất cao khỏi mặt đất là người thích giấu mình trong đời sống nội tâm, kín đáo và khó chinh phục.
Đang đi mà đầu thường cúi xuống, lại hơi nghiêng về phía trước là người trầm mặc, mộng mơ và hay thay đổi bạn tình.
Đi mà từ bụng tới mông đều nhích động nhẹ nhàng là người vui vẻ, nhẫn nhịn và biết chiều chuộng bạn đời.
Đi với bước chân kéo lê trên mặt đất một cách chậm rãi là người đa cảm, dễ hờn, dễ giận, nhưng cũng dễ dỗ dành và rất chóng nguôi ngoai.
Đi mà lưng thẳng với những bước chân đều đặn hướng tới trước, thân người tới sau, là người có biệt tài nào đó, có tính cương nghị, nhiều thành công và là chỗ dựa đáng tin cậy cho người bạn trăm năm của mình.
Tướng đứng
Đi là vậy, mà "đứng" cũng có tướng riêng. Nếu không đứng hiên ngang "quân tử" như dáng cây trúc thì cũng đừng cong lưng mềm quá như cây liễu. Còn ở khoảng "trung đạo" với dáng đứng như cây thông của Nguyễn Công Trứ cũng là khó lắm: "làm cây thông đứng giữa trời mà reo"!.
Tướng ngồi
Tướng "ngồi" không yên với cái đầu chốc chốc lắc qua lắc lại là người làm ăn khó nên nổi, tiền bạc hao hụt, nên làm lành tu phước để hóa giải.
Người ngồi nghiêng qua một bên, khi bên trái, lúc nghiêng bên mặt (dầu không bị tật) đó là tướng của người không được may mắn, thường gặp đổ vỡ trong hôn nhân và bất lợi trong công việc kinh doanh mua bán.
Người ngồi vững như bức vách, như trái núi, đứng lên có dáng thẳng người, điềm tĩnh, đi nhẹ nhàng thoải mái, là người có phong thái sang cả, tướng quý.