Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Màu vàng cho hướng Đông sẽ mang lại may mắn –

Hướng tốt nhất cho màu vàng là hướng Đông hoặc Đông Nam. Khi đó, màu vàng sẽ góp phần mang lại những điều tốt đẹp cho các mối quan hệ trong gia đình,… Màu vàng trong phong thủy là 1 trong những giải pháp màu sắc tốt nhất mang lại sinh khí và cảm giác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng tốt nhất cho màu vàng là hướng Đông hoặc Đông Nam. Khi đó, màu vàng sẽ góp phần mang lại những điều tốt đẹp cho các mối quan hệ trong gia đình,…

Màu vàng trong phong thủy là 1 trong những giải pháp màu sắc tốt nhất mang lại sinh khí và cảm giác an tâm cho gia chủ.

image_42853_PTH62_ND

Như ánh nắng mặt trời, màu vàng đem lại nguồn năng lượng tốt đẹp, thắp sáng những nơi u tối, tạo cảm giác ấm áp và không khí tươi vui tràn đầy sức sống.

image_42854_PTH63_ND

Hướng tốt nhất cho màu vàng là hướng Đông hoặc Đông Nam. Khi đó, màu vàng sẽ góp phần mang lại những điều tốt đẹp cho các mối quan hệ trong gia đình, đặc biệt là giữa bố mẹ và con cái. Chính vì thế, trong phong thủy, người ta hay sử dụng màu vàng để trang trí phòng của trẻ hay phòng khách, phòng ăn hoặc những nơi sum họp gia đình.

image_42855_PTH65_ND

Theo nguyên lý ngũ hành, màu vàng đại diện cho mệnh Kim, bạn hãy sử dụng màu này cho hiệu quả. Những gia chủ mệnh Kim nên sử dụng màu vàng hoặc thiên về màu vàng. Có thể kết hợp thêm những màu khác như màu hồng, màu tía… trong trang trí nội thất.

image_42856_PTH66_ND

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý trong việc sử dụng màu vàng. Cũng như màu đỏ, màu vàng dễ tạo cảm giác “nóng” và chói mắt, nếu sử dụng quá nhiều sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tâm tính mọi người trong gia đình. Vì thế, nên điều tiết và chỉ dùng màu vàng như điểm nhấn hòa hợp với màu sắc khác trong căn phòng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu vàng cho hướng Đông sẽ mang lại may mắn –

Thú chơi hoa Tết của người Việt

Tết có ý nghĩa rất thiêng liêng đối với người Việt. Bên cạnh việc ăn Tết, nghỉ Tết bao giờ cũng gắn liền với thưởng Tết, chơi hoa Tết.
Thú chơi hoa Tết của người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người Việt Nam luôn hướng về ngày Tết với ý nghĩa thiêng liêng, trang trọng. Bên cạnh việc ăn Tết, nghỉ Tết bao giờ cũng gắn liền với thưởng Tết. Trong đó, thú chơi hoa, cây cảnh ngày Tết đã trở thành một nghệ thuật, một nét đẹp gắn với bản sắc văn hóa dân tộc.


Mỗi dịp Tết đến, Xuân về, mọi người lại đi tìm những khóm hoa, chậu cây cảnh đẹp để trang trí trong nhà với hy vọng một năm mới với nhiều may mắn và tốt lành. Miền Bắc có hoa đào, miền Nam có hoa mai. Đây là 2 loại hoa tượng trưng cho phước lộc đầu Xuân của mọi gia đình người Việt.

Thu choi hoa Tet cua nguoi Viet hinh anh
Miền Bắc có hoa đào
 
Cành đào, cành mai nở rộ đúng vào đêm giao thừa hứa hẹn cho gia đình có một năm mới vui vẻ, hạnh phúc. Màu đỏ của hoa đào, vàng của hoa mai còn tượng trưng cho khí dương ấm áp. Hoa đào thường nở rộ vào tiết Đông - Xuân, trời se lạnh và có mưa bụi nên thích hợp với khí hậu miền Bắc. Hoa mai lại nở rộ vào tiết trời nắng hanh vàng nên thích hợp với khí hậu miền Nam.

Chơi mai vào ngày Tết không những vì mai nở rộ, mà còn vì người miền Nam đọc mai thành “may” trong may mắn. Mai đại diện cho mùa xuân trong tranh tứ quý (mai, lan, cúc, tùng), còn tượng trưng cho người có tài đức và nhân cách cao thượng trong tứ quân tử (mai, lan, cúc, trúc). Một cành mai đẹp phải có: cành Văn (nhánh ngang), cành Vũ (nhánh đứng), cành Phụ (cành lớn), cành Tử (cành nhỏ), cành Quân (cành dài), cành Thần (cành ngắn).

Ngoài ra, ngày Tết người Việt còn chơi thêm cây quất chín đầy quả vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng của sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc. Trên bàn thờ gia tiên cắm những bông vạn thọ, những cành phát lộc… với ý nghĩa thể hiện ước vọng của mọi người là năm mới khỏe mạnh, trường thọ, phát tài phát lộc hơn năm cũ.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thú chơi hoa Tết của người Việt

Ý nghĩa số 80, 81, 82, 83, 834, 85, 86, 87, 88, 89 là gì?

Đã bao giờ bạn tìm hiểu về ý nghĩa số 80, 81, 82, 83, 834, 85, 86, 87, 88, 89 là gì? Giải mã ý nghĩa các con số từ 80 đến 89, là như thế nào? Cùng Phong thủy số tìm hiểu về ý nghĩa số 83 cũng như ý nghĩa của các con số khác tại đây:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đã bao giờ bạn tìm hiểu về ý nghĩa số 80, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 87, 88, 89 là gì? Giải mã ý nghĩa các con số từ 80 đến 89, là như thế nào? Cùng Phong thủy số tìm hiểu về ý nghĩa số 83 cũng như ý nghĩa của các con số khác tại đây:

Ý nghĩa số 80, 81, 82, 83, 834, 85, 86, 87, 88, 89 là gì?

Ý nghĩa số 80:

Số 80 có ý nghĩa gì? Số 80 mang ý nghĩa là về tình cảm luôn nồng nàn, mọi việc đều hành thông thuận lợi, luôn có sự hậu thuận từ những người có quyền lực.

Ý nghĩa số 81.

Số 81 có ý nghĩa là sự phát triển, sự tiến lên. Hay theo quy luật âm dương tương xứng thì số 81 là con số cân bằng được âm dương, mang ý nghĩa là sinh sôi, nảy nở và phát triển.

Xem thêm: Các nhà tâm linh lý giải hiện tượng nháy mắt trái, giật mát phải, hắt xì hơi

Ý nghĩa số 82:

Số 82 có ý nghĩa gì? Ý nghĩa số 82 có nghĩa là phát mãi, luôn phát tài, phát lộc. Ý nghĩa số 82 tượng trưng cho sự phát triển, thành quả lao động phát triển mãi mãi theo thời gian.

Ý nghĩa số 83:

Số 83 là sự kết hợp giữa số 8 và số 3, ý nghĩa số 83 được dịch và phát tài. Đây là con số ý nghĩa được nhiều người sử dụng với mong muốn có được nhiều cơ hội, lợi ích về tiền tài và tài lộc, công danh.

Ý nghĩa số 84:

Số 84 mang ý nghĩa là sự làm ăn phát đạt, mọi việc đều hanh thông, tình cảm sức khỏe đều tốt đẹp, luôn gặp may mắn.Ý nghĩa số 84 là đại diện cho cả năm được may mắn, luôn phát đạt, mọi việc đều thuận lợi.

Ý nghĩa số 85:

Ý nghĩa số 85 là gì? Số 85 mang lại những điều gì tốt đẹp cho người sở hữu nó. Số 85 mang ý nghĩa là sự phát đạt, thành công trong làm ăn, sự nghiệp, và hưng thịnh về tình cảm.

Ý nghĩa số 86:

Số 86 là sự kết hợp giữa ý nghĩa số 8 “lộc” và ý nghĩa số 6 là  “phát”. Số 86 được hiểu với nghĩa là phát lộc. Theo quan niệm dân gian thì ý nghĩa số 86 là mang lại những may mắn, bình yên và tốt lành cho những ai sở hữu.

Ý nghĩa số 87:

Số 87 có ý nghĩa là tượng trưng cho sao Quan Phù. Sao này chủ về làm ăn thì bị cản trở, hao tổn tiền bạc, nên cẩn thận với việc cửa quan, cẩn thận trong lời ăn tiếng nói.

Ý nghĩa số 88:

Theo cách cắt nghĩa thì số 88 là đạt phát, là sự lặp lại hai lần chứ “phát”, biểu tượng cho sự phát đạt, thành công trong cuộc sống.

Ý nghĩa số 89:

Số 89 được đánh giá là sự kết hợp hoàn hảo nhất về mặt ý nghĩa lẫn con số. Số 89 có ý nghĩa là sự phát triển, sự giàu sang. Bới ý nghĩa của số 8 là phát tài, phát lộc, số 9 lại tượng trưng cho quyền lực, đây là cặp số cao nhất trong dãy số cũng như mang ý nghĩa tốt đẹp nhất mà nhiều người rất muốn sở hữu.

Thông tin bạn vừa tham khảo là Bài viết Ý nghĩa số 80, 81, 82, 83, 834, 85, 86, 87, 88, 89 là gì? Để tìm hiểu thêm những thông tin khác hay có bổ sung ý kiến gì? Mời bạn truy cập vào website http://phongthuyso.vn/​ để đóng góp ý kiến nhé.

: Ý nghĩa của các con số từ 0 đến 100
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa số 80, 81, 82, 83, 834, 85, 86, 87, 88, 89 là gì?

Mơ thấy ổ khóa: Cuộc sống giàu có và sự nghiệp thành công –

Ổ khóa có tác dụng giúp con người bảo vệ tài sản của mình. ổ khóa trong mơ đồng nghĩa với sự giàu có. Mơ thấy mình mua ổ khóa, chắc hẳn sẽ giàu to. Mơ thấy chế tạo ổ khóa, công việc kinh doanh sẽ có lãi. Mơ thấy cạy khóa, có nghĩa là sinh mệnh và tà
Mơ thấy ổ khóa: Cuộc sống giàu có và sự nghiệp thành công –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ổ khóa: Cuộc sống giàu có và sự nghiệp thành công –

Yêu người tuổi Mùi, gặp toàn chuyện vui

Yêu người tuổi Mùi ra sao? Cô gái tuổi Mùi lãng mạn, tốt bụng và chân thành, khi đã yêu họ sẽ nâng niu, trân trọng tình yêu, làm mọi cách để có được tình yêu
Yêu người tuổi Mùi, gặp toàn chuyện vui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Yêu người tuổi Mùi vì sao lại luôn vui vẻ? Cô gái tuổi Mùi lãng mạn, tốt bụng và chân thành, khi đã yêu họ sẽ nâng niu, trân trọng tình yêu, làm mọi cách để có được tình yêu trọn vẹn.


► Xem bói tình duyên theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Yeu nguoi tuoi Mui, gap toan chuyen vui hinh anh 2
Ảnh minh họa

Thận trọng khi yêu

  Trong cuộc sống, dê vốn là một loài vật hiền lành, ôn hòa, dễ chịu. Do đó, người ta tin rằng những người sinh ra ở tuổi này cũng thường mang những đặc trưng như vậy.Khi yêu, cô nàng tuổi mùi thường không vội vã khi yêu để tránh những sai lầm và làm tổn thương đối phương. Yêu cô nàng tuổi Mùi, những cảm xúc của bạn sẽ được nâng niu trân trọng và được bảo vệ.   Yêu người tuổi Mùi, những cảm xúc của bạn sẽ được nâng niu trân trọng và được bảo vệ.  

Coi trọng gia đình

  Yêu cô nàng tuổi Mùi bạn sẽ không lo việc cô ấy không hòa hợp được với gia đình. Bởi cô gái tuổi Mùi coi gia đình là điều thiêng liêng và luôn đặt gia đình lên trên hết. Vì vậy cô ấy sẽ luôn cố gắng và không bao giờ tự tách mình ra khỏi gia đình chồng.   Nhìn chung, những cô gái tuổi Mùi hòa nhã, thiên về cuộc sống gia đình và sống nội tâm, tình cảm. Khi yêu một cô nàng tuổi Mùi, các chàng trai đừng đặt nặng vấn đề vật chất mà hãy quan tâm, yêu thương cô ấy thật chân thành. Đôi khi nếu cô ấy quá nhút nhát, đừng ngần ngại, hãy bày tỏ thẳng thắn tình yêu của bạn với cô ấy, chắc chắn cô ấy sẽ không khiến bạn phải thất vọng.  

Bản năng làm mẹ

  Những cô gái tuổi mùi có lối sống thiên về gia đình vì vậy bản năng làm mẹ của họ rất cao. Họ yêu gia đình, thương con cái và luôn muốn gia đình nhỏ bé của mình tràn đầy tình yêu.   Cô ấy thường “mơ về ngôi nhà và những đứa trẻ”. Với cô nàng tuổi Mùi con cái là giá trị lớn nhất mà người phụ nữ có được. Một người vợ yêu gia đình, thương con như vậy chắc chắn sẽ là điều tuyệt vời mà mọi ông chồng đều mong muốn.
Yeu nguoi tuoi Mui, gap toan chuyen vui hinh anh 2
Ảnh minh họa

Không ngại nhận lỗi

  Cô nàng tuổi Mùi sống khá trầm lặng và ít bộc lộ cảm xúc, nhưng đôi khi họ cũng có những phát ngôn khiến người khác tổn thương. Nhưng điều hay ở họ đó là họ không ngại nói lời xin lỗi, đây không phải là điều mà ai cũng làm được.   Trong một mối quan hệ lâu dài, hành động “dũng cảm” này cũng là cách để bảo vệ tình yêu vượt qua nhiều giai đoạn, biến cố. Khi ấy, tình yêu sẽ bền vững hơn vì có người dám thừa nhận những điều chưa tốt, chưa đúng ở mình thay vì việc khăng khăng bảo vệ quan điểm cá nhân.  

Lãng mạn và chân thành

  Cô gái tuổi Mùi bên cạnh những đức tính trên cũng không kém phần lãng mạn, tốt bụng và chân thành đâu nhé. Một khi đã yêu họ sẽ bằng mọi cách để tình yêu có thể trọn vẹn. Cô gái tuổi Mùi thường rất ngọt ngào và tạo ra cảm giác bình yên cho bạn trai mỗi khi ở bên.   Yêu người tuổi Mùi con trai sẽ không bao giờ phải lo lắng. Cô gái tuổi Mùi xác định yêu nghiêm túc, chân thành, duy trì một mối quan hệ ổn định, vững vàng. Không chỉ vậy, cô gái tuổi Mùi thường rất ngọt ngào và tạo ra cảm giác bình yên cho bạn trai mỗi khi ở bên. Đó cũng chính là cảm giác dễ chịu nhất mà các chàng trai tìm được ở một cô nàng đứng tuổi con Dê.
ST.
3 con giáp đau đầu vì chuyện tình cảm trong tháng 11 Chọn vợ phải chọn con gái tuổi Thân mới chuẩn Bát tự nữ vượng - cô gái khó cầm cương
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Yêu người tuổi Mùi, gặp toàn chuyện vui

Tìm may mắn cho người tuổi Tân Dậu

Tuổi Tân Dậu (mệnh Mộc, sinh năm 1981) phải tự lập từ sớm, vất vả về gia đình và sự nghiệp, nhờ phúc của cha mẹ nên vật chất tạm ổn. Tuổi này cuộc đời ít biến
Tìm may mắn cho người tuổi Tân Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: đổi, hay được quý nhân giúp đỡ, về già hưng vượng, sung sướng.

 
Nam tuổi Tân Dậu số may mắn, an nhàn hơn. Những tuổi đại kỵ trong cuộc đời người Tân Dậu là: Ất Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi, Đinh Sửu, Kỷ Mùi, Mậu Ngọ.

Những tuổi khó khăn nhất trong cuộc đời nam giới tuổi Tân Dậu, cần đề phòng tai họa, bệnh tật là: 23, 27, 33; ở nữ là: 24, 30, 40.

Tính cách: Là người hào hoa, phong nhã, nói năng khôn khéo rất được lòng người. Tân Dậu trời phú thông minh, lanh lợi, tự lập nên dễ làm nên việc lớn.

Nữ Tân Dậu tính tình ngay thẳng, cứng rắn, trung tín, cẩn thận, siêng năng nên được bạn bè tin tưởng. Tuy nhiên, cũng có đôi khi sốc nổi làm hỏng việc.

Tình duyên: Tuổi này tình duyên không thuận lợi, khó tránh khỏi chuyện đổ vỡ, buồn phiền. Phải từ 40 tuổi trở đi gia đình mới yên ổn, hạnh phúc.

Tuổi Tân Dậu không nên kết hôn với các tuổi: Nhâm Tuất, Mậu Thìn, Giáp Tuất sẽ không phải chịu cảnh xa vắng triền miên, bất hạnh.

Nữ Tân Dậu đường tình duyên thuận lợi, gia đình yên ổn.

Công danh sự nghiệp: Tuổi này đường công danh may mắn, tốt đẹp.

Nữ Tân Dậu gặp nhiều khó khăn trong sự nghiệp, phải đến năm 38 tuổi mới có triển vọng.

Tuổi này nên kết hợp với các tuổi Tân Dậu, Quý Hợi, Giáp Tý, Đinh Mão sẽ thu được nhiều thành công trong việc làm ăn.

Tiền bạc: Tuổi Tân Dậu tiền bạc trung bình, nếu kết hợp với người hợp tuổi và sinh giờ, ngày, tháng thuận lợi sẽ giàu có, sung túc.

(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Tân Dậu

Đón năm mới kiểu kỳ quặc để mong được may mắn

Ra nghĩa trang hoặc đốt hình nộm, mặc nội y rực rỡ… đều là những phong tục đón năm mới lạ lùng trên thế giới.
Đón năm mới kiểu kỳ quặc để mong được may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ra nghĩa trang hoặc đốt hình nộm, mặc nội y rực rỡ… đều là những phong tục đón năm mới lạ lùng trên thế giới, thế nhưng tất cả cùng có chung một mục đích là mong muốn một năm mới tràn đầy may mắn và hạnh phúc.


► Tra cứu Lịch vạn niên 2017 đã có tại Lichngaytot.com

1. Không được phơi đồ lót
 
Tục lệ đón năm mới của người dân Cộng Hòa Séc vô cùng cấm kỵ việc phơi đồ lót vào những ngày đầu năm. Nếu phạm phải điều này thì trong năm gia đình đó sẽ có tang, một thành viên trong gia đình sẽ qua đời. Ngoài ra, người dân nơi đây cũng kiêng việc quét và đổ rác vào thời điểm linh thiêng này.   2. Ném lựu vào tướng

Người dân Hy Lạp có tục lệ ném lựu vào tường để chào đón năm mới. Vào thời khắc giao thừa, người mẹ trong gia đình sẽ cầm lựu và ném vào tường, nếu quả lựu vỡ ra, hạt lựu bắn tung tóe khắp nơi thì năm đó gia đình sẽ gặp nhiều may mắn. Người Hy Lạp còn cho rằng việc ôm đá đặt trước cửa nhà cũng là một hành động rước lộc vào nhà.

6 điềm lành báo hiệu năm mới may mắn, tốt lành
Người Việt có câu: “Có thờ có thiêng có kiêng có lành”. Vì thế, trong những ngày Tết, người Việt đặc biệt cẩn trọng trong mọi việc. Nếu năm mới gặp những điều
  3. Ăn nho xanh và mặc nội y đỏ

Ăn nho xanh và mặc nội y đỏ là cách mà người dân Venezuela hay Tây Ban Nha chào đón năm mới. Vào đên giao thừa, người ta sẽ ăn 12 quả nho tượng trưng cho 12 điều ước và mặc nội y đỏ để mong muốn một năm mới tràn ngập may mắn.

4. Tắm sông

Theo quan niệm của người Argentina thì nước là thứ tinh khiết nhất. Bởi vậy vào ngày Tết, họ rắc đầy cánh hoa hồng lên mặt nước sông và rủ nhau cùng xuống sông tắm. Họ dùng cánh hoa tươi để chà lên da với mong muốn loại bỏ hết xui xẻo của năm cũ và mong một năm mới tốt lành.

Don nam moi kieu ky quac de mong duoc may man hinh anh
Đốt hình nộm để rũ bỏ muộn phiền năm cũ

5. Đốt hình nộm

Người dân Colombia và Ecuador vào thời khắc giao thừa sẽ mang hình nộm ra đốt, với mong muốn đốt bỏ hết những xui xẻo của năm cũ.    Riêng hình nộm của người Colombia thì có tên là “Mr Old Year” – Ngài Năm Cũ, bên trong hình nộm có chứa những đồ cũ, đồ bỏ đi hoặc những đồ gợi nhớ về kỷ niệm buồn của năm cũ . Việc này có ý nghĩa rằng rũ bỏ mọi muộn phiền của năm đã qua.   6. Ăn 12 bữa vào đêm giao thừa

Đất nước Estonia có tục lệ ăn 12 bữa vào đêm giao thừa để chào đón năm mới. Họ tin rằng việc ăn 7, 9 hay 12 bữa sẽ tiếp thêm cho họ sức mạnh, nếu họ không ăn hết thì linh hồn của người đã khuất sẽ thưởng thức nốt phần còn lại.

8 món không nên ăn ngày đầu tháng để tránh vận đen đủi
Đôi khi, gặp phải vận hạn quá xấu, người ta thường đổ lỗi cho việc tháng ăn mình ăn món xyz nên bị đen. Vậy để tránh gặp vận xui thì vào những ngày đầu năm mới

7. Mặc nội y sắc màu

Các quốc gia khu vực Nam Mỹ như Mexico hay Brasil lại có phong tục đón Tết khá lạ lùng, đó là mặc nội y thật rực rỡ. Màu vàng và đỏ là 2 màu được ưa chuộng nhất vì nó mang lại nhiều may mắn. Còn với những người còn FA thì sẽ tìm được một nửa của mình trong năm mới.   8. Ra nghĩa trang để đón Giao thừa

Nghĩa trang tại khắp nơi trên đất nước Chile sẽ sáng rực vào đêm Giao thừa, do người dân sẽ tới đây và cùng người thân đã mất của mình cùng đón khoảnh khắc thiêng liêng này, việc này còn sưởi ấm những ngôi mộ lạnh lẽo.    Người dân sẽ mang nến thơm, hoa, mở nhạc nhẹ… và cùng nhau ngồi ôn lại kỷ niệm về người đã khuất cũng như là kỷ niệm về một năm cũ đã qua.

Don nam moi kieu ky quac de mong duoc may man hinh anh 2
Càng vỡ nhiều bát đĩa thì càng may mắn

9. Bát đĩa vỡ càng nhiều càng tốt

Với người Việt cũng như một số dân tộc khác thì việc bát đĩa vỡ là vô cùng xui xẻo, lại càng kiêng kỵ việc vỡ bát đĩa vào ngày mùng 1 hàng tháng hay ngày đầu năm mới. Thế nhưng, với người dân Đan Mạch thì bát đĩa vỡ càng nhiều thì lại càng may mắn.    Người Đan Mạch sẽ giữ lại những bát đĩa cũ trong năm và chờ tới đêm Giao thừa thì … ném sang nhà người khác. Trước cửa nhà nào có nhiều bát thì chứng tỏ nhà đó có nhiều bạn bè và năm mới sẽ gặp nhiều may mắn.
 
10. Mặc quần áo chấm bi Chấm bi vẫn là “mốt” thời trang được chị em phụ nữ ưa chuộng, và người dân Philippin đặc biệt ưa chuộng “mốt” này vào ngày đầu năm mới. Người dân Philippin quan niệm rằng hình tròn tượng trưng cho sự may mắn và thịnh vượng, chính vì vậy, vào ngày Tết, người dân sẽ mặc đồ có hình tròn để mong một năm được viên mãn, đường phố cũng tràn ngập các biểu tượng, hoa văn hình tròn.   P.T (Tổng hợp)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đón năm mới kiểu kỳ quặc để mong được may mắn

Gia phả hoàn chỉnh có những mục gì ?

Gia phả được coi là hoàn chỉnh trước hết phải là một gia phả được ghi chép rõ ràng, chữ nghĩa chân phương có ghi rõ tên người sao lục, biên soạn thuộc đời thứ mấy, năm nào, triều vua nào, căn cứ vào bản nào, tên người tục biên qua các đời cũng có cước chú rõ ràng. Đầu gia phả có lời tựa ghi được nguồn gốc xuất xứ của thủy tổ có cứ liệu thành văn hay truyền ngôn.
Gia phả hoàn chỉnh có những mục gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mở đầu là thuỷ tổ, lần lượt đến tiên tổ các đời, nối dòng đến lớp con cháu mới sinh.

Đối với tiền nhân có các mục sau đây:

  • Tên: Gồm tên huý, tên tự, biệt hiệu, thụy hiệu và tên gọi thông thường theo tập quán địa phương? Thuộc đời thứ mấy?
  • Con trai thứ mấy của ông nào? Bà nào?
  • Ngày tháng năm sinh (có người còn ghi được cả giờ sinh).
  • Ngày, tháng, năm mất? Thọ bao nhiêu tuổi?
  • Mộ táng tại đâu? (có người ghi được cả nguyên táng, cải táng, di táng tại đâu? Vào tháng, năm nào?).
  • Học hành, thi cử, đậu đạt, chức vụ, địa vị lúc sinh thời và truy phong sau khi mất: Thi đậu học vị gì? Khoa nào? Triều vua nào? Nhận chức vị gì? năm nào? Được ban khen và hưởng tước lộc gì? Sau khi mất được truy phong chức gì? Tước gì? (Đối với những vị hiển đạt thì mục này rất dài. Ví dụ trong Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả, chỉ riêng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, mục này đã trên mười trang)
  • Vợ: Chánh thất, kế thất, thứ thất...
  • Họ tên, con gái thứ mấy của ông nào, bà nào? Quê ở đâu? Các mục ngày, tháng, năm sinh, ngày, tháng, năm mất, tuổi thọ, mộ, đều ghi từng người như trên.
  • Nếu có thi đậu hoặc có chức tước, địa vị, được ban thưởng riêng thì ghi thêm.
  • Con: Ghi theo thứ tự năm sinh, nếu nhiều vợ thì ghi rõ con bà nào? Con gái thì cước chú kỹ: Con gái thứ mấy, đã lấy chồng thì ghi tên họ chồng, năm sinh, con ông bà nào, quê quán, đậu đạt, chức tước? Sinh con mấy trai mấy gái, tên gì? (Con gái có cước chú còn con trai không cần vì có mục riêng từng người thuộc đời sau).
  • Những gương sáng, những tính cách, hành trạng đặc biệt, hoặc những công đức đối với làng xã, họ hàng, xóm giềng...

Ngoài những mục ghi trên, gia phả nhiều họ còn lưu lại nhiều sự tích đặc biệt của các vị tiên tổ, những đôi câu đối, những áng văn hay, những bài thuốc gia truyền...đó là những tài sản quý giá mà chúng ta để thất truyền, chưa biết khai thác.

Những nội dung ghi trên chỉ có tính chất gợi ý với các bậc huynh trưởng các họ, đang chăm lo công việc phổ biến và tục biên gia phả dành cho con cháu đời sau. Còn phần trên gia phả hoàn chỉnh hay sơ sài, các cụ còn giành lại cho ta được bao nhiêu biết bấy nhiêu, ai dám sáng tác thêm? Tuy nhiên, nếu tìm được quốc sử, hoặc trong gia phả, thần phả khác những tư liệu liên quan thì có thể cước chú kỹ, giúp đời sau thêm sáng tỏ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gia phả hoàn chỉnh có những mục gì ?

Nằm mơ thấy chồng ngoại tình –

Bình thường, giấc mơ sẽ phản ánh đúng có những hiện thực mà chúng ta đang gặp phải cũng như đang thực hiện. Chính vì vậy, hiện thực và giấc mơ thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Một trong những khía cạnh cũng như hình ảnh mà chúng ta bắt gặp th
Nằm mơ thấy chồng ngoại tình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy chồng ngoại tình –

Tướng mạo giúp Hồ Ngọc Hà thành danh nhưng tình duyên lận đận?

Nếu kể tên 5 nhân vật của showbiz Việt dính nhiều thị phi nhất, có lẽ không thể thiếu Hồ Ngọc Hà. Những thị phi mà giọng ca này dính đến, không chỉ làm náo
Tướng mạo giúp Hồ Ngọc Hà thành danh nhưng tình duyên lận đận?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

loạn giới showbiz mà còn khiến dư luận “đứng ngồi không yên”. Một số chuyên gia đã lý giải những thị phi của cô dưới góc độ... nhân tướng học và tử vi.

Tuong mao giup Ho Ngoc Ha thanh danh nhung tinh duyen lan dan hinh anh
 
Có thể thấy, trong suốt chiều dài sự nghiệp của Hồ Ngọc Hà, từ lúc còn là người mẫu cho đến khi đã ở đỉnh cao của làng giải trí, giai đoạn nào cô cũng dính đến những scandal đình đám. Trong đó, hầu hết đều liên quan đến những hai chữ “tình” và “tiền”.   Đầu tiên phải kể đến tin đồn lấy chồng và có bầu năm 16 tuổi với một đại gia phố cổ Hà Nội. Rồi đến chuyện Hồ Ngọc Hà bị xem là người thứ ba chen chân vào cuộc hôn nhân của Huy MC và Thu Phương khi cô mới chân ướt chân ráo bước vào showbiz. Tiếp đến là hàng loạt những câu chuyện tình “âm ỉ nhưng dai dẳng” với các quý ông danh tiếng của làng nhạc Việt như: Đức Trí, Tuấn Hưng...   Đình đám hơn cả là scandal liên quan đến Cường Đôla vào cuối tháng 3/2010. Chuyện tình “người đẹp – thiếu gia” này đã khiến báo chí tốn không ít giấy mực, dư luận trên nhiều diễn đàn “nóng như chảo lửa” trong một thời gian dài. Kể cả khi Hồ Ngọc Hà đã có con và về chung sống Cường Đôla, những câu chuyện về họ vẫn không ngớt khiến dư luận dậy sóng. Mới đây, trong khi chuyện li hôn giữa người đẹp này với Cường Đôla chưa rõ thực hư thì những bức ảnh “khóa môi”, nắm tay nhau tung tăng được cho là của cô với một đại gia trong ngành kim cương lại tiếp tục dậy sóng.   Theo một số nhà nghiên cứu tử vi, dựa vào đặc điểm hình dáng của Hồ Ngọc Hà có thể thấy, cô có vầng trán cao, mày dựng, mũi miệng cân phân, dáng cao, giọng khàn... thuộc tuýp người thông minh, có cá tính mạnh, có phần thẳng thắn, có ý chí vươn lên, tiền bạc dư thừa, dễ thành công, có danh vọng. Nếu xét trên tiêu chí bạn bè thì cô là người rất đáng để kết bạn vì chơi với bạn rất “fair play” (quân tử).   Nhưng trong đường tình duyên, Hồ Ngọc Hà sẽ luôn long đong, lận đận. Sở dĩ như vậy là bởi hình thể cô có nhiều nét dương tính, không được đầy đặn, âm không dưỡng được dương.  
Tuong mao giup Ho Ngoc Ha thanh danh nhung tinh duyen lan dan hinh anh 2
 
Bị nhiều sao chiếu
  Theo một số người chuyên nghiên cứu về tử vi và lý số, nếu chiếu theo ngày sinh của Hồ Ngọc Hà là 25/11/1984 (dương lịch) và nếu đúng cô sinh vào giờ Hợi thì dù giọng cô có khàn và vai hơi thô nhưng vẫn trở thành ca sĩ “hot” của làng nhạc Việt vì cô được sao Phá quân miếu địa và Tử Vi Thiên Phủ Thái âm miếu đứng đầu. Những sao này cũng đều có trong lá số của ca sỹ Thanh Lam, Đàm Vĩnh Hưng.   Ngoài ra, nếu xét bàn về lá số tứ trụ, mệnh của Hồ Ngọc Hà có sao Thủy quá vượng, rất tốt cho nghệ thuật nhưng lại xấu cho tình duyên vì chủ sự đa tình, nhiều ham muốn. Thêm vào đó có sao Thương thực Tỷ Kiếp quá vượng và thường những người có sao kết hợp như thế này là những người vợ khắc chồng. Tên gọi của cô nhấn vào hành Thủy đã giúp ích rất lớn cho sự nghiệp của cô.   Một điều đáng lưu ý là trong lá số tử vi của Hồ Ngọc Hà có rất nhiều sao chiếu về “khẩu” đứng chủ, do đó các mối quan hệ tình cảm của Hồ Ngọc Hà thường bị dính thị phi. Thị phi này của cô thường “nặng” hơn so với người khác vì nếu kết hợp với nhân tướng, cộng với sao chiếu hạn trong năm của cô đẩy các thị phi này đi xa, nằm ngoài tầm kiểm soát của bản thân. Đặc biệt, từ 29 tuổi trở đi, Hồ Ngọc Hà thường xuyên dính vào những rắc rối liên quan đến đường tình. Với những “vận hạn” này, nếu cố chấp sẽ dẫn đến tai họa khôn lường. Nếu biết kiểm soát “khẩu” của mình thì mọi việc sẽ dừng lại trong giới hạn.   “Dị nhân” Nguyễn Tuấn Anh cũng cho rằng, nữ sinh năm Giáp Tý có can Giáp là mạng Mộc phối với chi Tý là mạng Thủy, tuổi này thuộc mệnh Hải Trung Kim. Trong năm Ất Mùi, nữ tuổi Giáp Tý cuộc sống có nhiều điều rối rắm, tình cảm cũng không mấy vui vẻ, gia đình nhiều bối rối... Năm Ất Mùi cũng sẽ nảy sinh những bất hòa giữa vợ chồng vì có những bất đồng trong quan điểm. Vào mùa hạ, khoảng tháng 4- 5 mưu sự khó thành, bị dính nhiều đến thị phi, tai tiếng. Mối quan hệ tình cảm cũng sẽ gặp nhiều bất lợi.  
► Xem bói ngày tháng năm sinh để biết vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn

Hà Tùng Long  / Nguồn Internet

Thầy phong thủy đoán vận mệnh năm Bính Thân cho ông Obama và Tập Cận Bình
Thầy phong thủy nổi tiếng cho rằng năm 2016 Obama và Tập Cận Bình sẽ gặp nhiều may mắn, trong khi ứng viên tổng thống Mỹ Donald Trump có thể gặp khó khăn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mạo giúp Hồ Ngọc Hà thành danh nhưng tình duyên lận đận?

Vì sao thứ 6 ngày 13 bị cả thế giới xa lánh?

Tại sao thứ 6 ngày 13 lại trở thành ngày bị cả thế giới xa lánh, hắt hủi và sợ hãi? Phải chăng nó thực sự là ngày của quỷ.
Vì sao thứ 6 ngày 13 bị cả thế giới xa lánh?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


►Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất

Vi sao thu 6 ngay 13 bi ca the gioi xa lanh hinh anh
 
Theo quan niệm của người phương Tây thì thứ 6 là ngày xấu nhất trong tuần và ngày 13 là ngày xấu nhất trong tháng, vì vậy nên khi hai điều đó kết hợp với nhau, thứ 6 ngày 13 đã tạo nên một nỗi sợ hãi lớn.
 
Người ta thậm chí còn đặt hẳn cho hội chứng sợ thứ 6 ngày 13 một cái tên, đó là “paraskevidekatriaphobia”, trong đó “paraskevi” là thứ 6, “dekatria” là số 13 và “phobia” là nỗi sợ hãi (theo tiếng Hy Lạp).
 
Bằng toán học, người ta đã chứng minh được rằng một năm bất kì có ít nhất một thứ 6 ngày 13 và nhiều nhất là ba ngày. Một năm có ba thứ 6 ngày 13 khi ngày đầu năm là thứ 5 đối với năm không nhuận, hoặc Chủ nhật đối với năm nhuận.
 
Từ thời cổ đại, trong nhiều nền văn hóa, người ta đã coi con số 13 là một con số đem đến xui xẻo và chết chóc. Việc người ta “kì thị” con số này thể hiện ở rất nhiều việc như những tòa cao ốc không có tầng 13, các bệnh viện không có phòng số 13, các sân bay không có cổng đón khách số 13, trên các máy bay không có ghế ngồi số 13, ca bin số 13 cũng không xuất hiện trên tàu thủy.
 
Một lý do được đưa ra để lý giải cho điều này là việc số 13 đứng ngay sau số 12, một con số được coi là đẹp và hoàn hảo. Vì vậy mà chúng ta có 12 tháng trong năm, 12 cung Hoàng Đạo, 12 con Giáp, 12 vị thần của Olympus, 12 sứ mệnh của Hercules, 12 tông đồ của Jesus…
 
Ngày thứ 6 cũng “chịu tiếng xấu” khi xuất hiện trong rất nhiều truyền thuyết. Adam và Eve bị đuổi khỏi vườn địa đàng vào ngày thứ 6, sau khi nếm thử Trái Cấm. Trận Đại hồng thủy Chúa dùng để trừng phạt loài người xảy ra vào thứ 6, ngôi đền của Solomon bị hủy diệt vào ngày thứ 6, và không thể không kể đến, ngày Chúa Jesus bị đóng đinh vào cây thánh giá cũng chính là thứ 6 ngày 13.
 
Vì những sự kiện mang tính chất lịch sử như vậy mà thứ 6 ngày 13 bị “dính mác” ngày của quỷ, chỉ mang lại những điều xui rủi, xấu xa.

Theo Thiên Việt 

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao thứ 6 ngày 13 bị cả thế giới xa lánh?

Ý nghĩa của cây cầu trong giấc mơ

Giấc mơ rơi từ trên cầu muốn nhắc nhở bạn trong cuộc sống thực nên cẩn thận khi làm việc, tránh hành động cẩu thả, sơ sài.
Ý nghĩa của cây cầu trong giấc mơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Giải mã giấc mơ thấy cây cầu: Không chỉ ngụ ý rằng các mối quan hệ của bạn đang gặp rắc rối mà giấc mơ rơi từ trên cầu còn muốn nhắc nhở bạn trong cuộc sống thực nên cẩn thận khi làm việc, tránh hành động cẩu thả, sơ sài.

Cho nen mao hiem neu nam mo thay cau P1 hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy cầu nối liền hai bờ ám chỉ người đang mơ trải qua nhiều nỗ lực, cố gắng cuối cùng cũng được đền đáp, đạt thành công như mong muốn.
 Mơ thấy rơi từ cầu xuống là ngụ ý nếu có một mắt xích xuất hiện vấn đề sẽ khiến toàn bộ quá trình thất bại, vì vậy nó nhắc nhở bạn ngoài đời thực nên cẩn thận, làm mọi việc không được sơ sài, cẩu thả. Điều này cũng ám chỉ mối quan hệ xã hội của bạn trong quá trình giao tiếp gặp chút vấn đề.

 
Mơ thấy mình đứng ở giữa cầu mà không biết phải đi về hướng nào là ngụ ý gần đây bạn có nhiều vấn đề phải lựa chọn nhưng bản thân còn đang suy nghĩ, khiến nội tâm phát sinh mâu thuẫn.

 
Nam giới đang yêu mơ thấy cầu là ngụ ý mối quan hệ trở nên tốt đẹp.

 
Người đang đàm phán mơ thấy cầu là ngụ ý bạn hòa giải được với đối thủ cạnh tranh, khiến họ suy nghĩ tới việc hợp tác và cuối cùng tiến tới cục diện đôi bên được lợi.

 
Mơ thấy mình đứng trên cầu là ám chỉ tâm lý chuẩn bị biến đổi.

 
Mơ thấy mình gặp người khác trên cầu là ám chỉ trong hiện thực bạn có quý nhân giúp đỡ, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của bản thân.

 
Mơ thấy mình đứng trên cầu gọi người khác là ngụ ý bạn sắp có được thắng lợi, nếu trong giấc mơ có người đáp lời bạn thì càng tốt đẹp, bạn sẽ đạt được thành tích cao hơn.

 
Mơ thấy mình đứng trên cầu xem nước chảy róc rách là nhắc nhở lý tưởng của bạn có thể sẽ là trở ngại cho khát vọng, đối với việc gì bạn cũng nên cẩn thận xem xét, không nên có những hành động mạo hiểm.

 
Mơ thấy nước dưới cầu rất trong xanh là ngụ ý bạn nỗ lực làm việc của bạn được đề đáp bằng tài lộc, nếu là người có sở trường về tài chính thì sau này rất giàu có. Hiện tại dù thu nhập không được lý tưởng nhưng người xưa đã có câu “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, sau này bạn sẽ được đền đáp thôi.


Cho nen mao hiem neu nam mo thay cau P1 hinh anh 2
 
Thiếu nữ mơ thấy mình đứng trên cầu nhìn ra phía xa bờ nước là ngụ ý quan hệ bạn bè không còn được như trước, cũng có nghĩa bạn sẽ gặp một số việc không như ý muốn với bạn bè thân thiết rồi tự mình cảm thấy buồn phiền.

 
Mơ thấy một cây cầu dài, phía cuối cầu đầu một màu tối u ám mà thần bí biểu thị bạn sẽ mất đi một đồ vật rất quý trọng đối với mình khiến bản thâm cảm thấy vô cùng bi thương. Nếu là nam nữ thanh niên mơ giấc mơ này thì ngụ ý những suy nghĩ hoang đường của bạn cuối cùng cũng được thực hiện, tự mình nên dũng cảm đối diện với nó.

 
Mơ thấy một cây cầu cong hoặc mình đang đi bộ trên một cây cầu cong là biểu thị sắp được đi du lịch và đó sẽ là một chuyến đi vô cùng lãng mạn.

 
Mơ thấy cầu sắp gãy là ngụ ý giao tiếp, các mối quan hệ xuất hiện chút vấn đề bản thân bạn cần chú ý.
Ngoài ra, giấc mơ này còn ngụ ý mọi liên lạc giữa hai bờ đã bị chia cắt, thực ra giấc mơ ám chỉ những cảm xúc thất vọng, khấp khểnh có thể thuộc về sự nghiệp hoặc cũng có thể thuộc về mối quan hệ xã giao giữa người với người. 

 
Thương nhân mơ thấy cầu bị gãy là ngụ ý chuyện làm ăn gặp khó khăn.

 
Mơ thấy cầu gãy và bản thân đi qua nó xong rồi nó mới được sửa lại là ngụ ý thái độ của bạn khi đối diện với một vấn đề khó khăn, bạn sẽ không chờ đợi mà sẽ giải quyết luôn, đồng thời bạn sẽ chọn cách tích cực nhất để hoàn thành.

 
Mơ thấy nước giữa cầu chảy đứt đoạn là ngụ ý gặp nhiều chuyện xấu xảy ra đột ngột, có thể là cãi cọ với người khác sẽ có nhiều chuyện rắc rối phát sinh.

 
Mơ thấy cầu bị đổ là ngụ ý hiện thực sẽ gặp nhiều trở ngại lớn hoặc áp lực cao, những việc bạn đang làm sẽ tiến triển không thuận lợi nên kiên trì tới cùng với mọi công việc của mình.

 
(còn nữa)

Lichngaytot.com
Hình ảnh hành lang hay hàng rào trong giấc mơ có ý nghĩa gì?
Trong giấc mơ của bạn thấy xuất hiện hình ảnh hàng rào, báo trước một trở ngại hoặc vật cản nào đó sẽ xuất hiện trên con đường bạn đi. Bạn cảm thấy bị giới

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của cây cầu trong giấc mơ

Mơ thấy bơi lội: Nguyện vọng được tự thân trải nghiệm –

Bơi lội thường diễn ra với hình thức gần như lõa thể, hay đi kèm với những động tác xoay chuyển thân người, chứng tỏ người nằm mơ có dục vọng mãnh liệt về tình ái.   Nếu bạn mơ thấy mình ra sức vận động tay chân, nhưng vẫn không thể bơi lên trướ
Mơ thấy bơi lội: Nguyện vọng được tự thân trải nghiệm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bơi lội: Nguyện vọng được tự thân trải nghiệm –

Phủ Tây Hồ - Hà Nội

Phủ Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn giữa Hồ Tây, trước là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía đông của Hồ Tây - Hà Nội.
Phủ Tây Hồ - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phủ Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn giữa Hồ Tây, trước là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía đông của Hồ Tây – Hà Nội. Phủ Tây Hồ được coi là một trong những ngôi đền linh thiêng để cầu tài lộc mỗi dịp đầu xuân năm mới.

Lịch Sử: Phủ thờ Bà chúa Liễu Hạnh – một trong những đại diện đạo Mẫu ở Việt Nam là một trong tứ bất tử của Việt (Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh). Tục truyền rằng: bà là Quỳnh Hoa – con gái thứ hai của Ngọc Hoàng, bị đày xuống trần gian vì tội làm vỡ cái ly ngọc quý. Xuống hạ giới, nàng chu du, khám phá khắp mọi miền, qua đảo Tây Hồ dừng lại, phát hiện ra đây là nơi địa linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương giữa thiên nhiên huyền diệu.

Người tiên nữ ấy đã ngang dọc một trời giúp dân an cư lập nghiệp, diệt trừ ma quái, trừng phạt tham quan. Đến triều Nguyễn bà được nhà vua phong “mẫu nghi thiên hạ”, là một trong bốn vị thần “Tứ bất tử” của Việt Nam.

Cũng theo truyền thuyết, Phủ Tây Hồ là nơi hội ngộ lần thứ hai của công chúa Liễu Hạnh và trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Trong lần đi thuyền dạo chơi trên hồ, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, thấy cảnh đẹp, bèn ghé vào quán Tiên chúa. Tâm đầu ý hợp, họ cùng vịnh bài thơ “Tây Hồ ngự quán” mà nay vẫn còn lưu truyền mãi. Tiên chúa ở đây trong bao lâu không ai biết, chỉ biết khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm thì không còn. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, ông cho lập đền thờ người tri âm. Cái xuất xứ ly kỳ của phủ Tây Hồ là thế.

Kiến Trúc: Phủ Tây Hồ bao gồm cổng làm kiểu tam quan, kiến trúc chính 3 nếp (Tam tòa thánh mẫu); phương đình, tiền tế, hậu cung; Điện Sơn Trang, khu nhà khách, lầu Cô, lầu Cậu. Di tích Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX, XX như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối… Đặc sắc nhất là bức đại tự ghi: “Thiên tiên trắc giáng” (Tiên trời xuất hiện) và bức hoành phi ở cửa cung đề: “Mẫu nghi thiên hạ” (làm mẹ của cả thiên hạ).

Độc đáo nhất ở Phủ thờ là ba pho tượng nữ thần đặt song hành: Mẫu Thượng Ngàn là vị mặc áo xanh lá cây tượng trưng cho rừng, nơi con người xưa sinh sống bằng các loại củ; Mẫu Thoải (thủy) là vị mặc áo trắng, tượng trưng cho nước; Mẫu Địa là vị mặc áo vàng, tượng trưng cho đất. Ba vị mẫu này hợp thành Tam phủ, giải thích quá trình tiến hóa của cư dân Việt, từ rừng núi, sông suối xuống đồng bằng định cư trồng lúa nước. Cũng theo quan niệm Tam phủ thì, cai quản thiên phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người, cai quản địa phủ có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người, cai quản thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng ngại, khó khăn cho con người. Với sức mạnh huyền bí ban phúc, xá tội và giải ách, tín ngưỡng Tam phủ rất hấp dẫn mọi người.

phủ tây hồ
Tượng thờ

Phủ Tây Hồ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp bằng di tích Lịch sử-Văn hóa ngày 13 tháng 2 năm1996. Ngoài ra, tại sân phủ có một cây si cổ thụ cũng đã được công nhận là “cây di sản Việt Nam”, và ở kề bên phủ còn có đền Kim Ngưu thờ Trâu Vàng theo truyền thuyết.

Vào dịp tết đến xuân về, du khách thường đổ về đây rất đông, vì cùng với việc lễ cầu may, họ còn thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ, nhớ về “áo mây xe gió” của bà chúa Liễu Hạnh. Được coi là nơi linh thiêng nên phủ Tây Hồ được nhiều người đến cúng lễ và cầu phúc, cầu lộc, nhất là vào ngày 3 tháng ba và ngày 13 tháng tám âm lịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phủ Tây Hồ - Hà Nội

Kết duyên cho người tuổi Hợi với người tuổi Mão, tuổi Mùi

Nếu như người tuổi Hợi ồn ào và khá hung hăng thì Mão lại lặng lẽ và kiên gan. Hợi tận dụng sức mạnh và khả năng chịu đựng của mình,
Kết duyên cho người tuổi Hợi với người tuổi Mão, tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sức hấp dẫn trong tình yêu giữa người tuổi Hợi và tuổi Mão

Nếu như Hợi ồn ào và khá hung hăng thì Mão lại lặng lẽ và kiên gan. Hợi tận dụng sức mạnh và khả năng chịu đựng của mình, trong khi Mão sử dụng trí thông minh bẩm sinh để suy nghĩ cẩn thận và xuyên suốt vấn đề.

(Hình minh họa)

Cả 2 đều có cùng suy nghĩ và mục tiêu, tuy nhiên cách thức để đạt mục tiêu ở họ thì khác biệt. Chính những đặc điểm này khiến ngay từ đầu cả 2 đã có thiện cảm với nhau. Khi được kết hợp, họ biết bổ sung cho nhau, trân trọng tài năng và sống hòa thuận cùng nhau. Đây là sự phối hợp rất ăn ý, vì khi Mão đứng đằng sau điều khiển mọi việc, thì Hợi vẫn sẵn lòng với vai trò của mình.

Hợi thuộc hành Thủy, Mão thuộc hành Mộc. Thủy sinh Mộc. Trong trường hợp này, Hợi được xem là niềm may mắn lớn và là tài lộc của Mão. Điều này mang đến nhiều lợi ích cho mối quan hệ.

Sức hấp dẫn trong tình yêu giữa người tuổi Hợi và tuổi Mùi

Mùi và Hợi được cho là một trong những cặp tương xứng nhất trong tử vi. Như một lẽ tự nhiên, khi kết hợp, người tuổi Hợi và tuổi Mùi luôn dành cho nhau sự quan tâm chân thành và lòng nhẫn nại. Bản tính nhạy cảm của Mùi tìm được sự an ủi ở Hợi – người rất giàu tình cảm và biết sẻ chia. Cả 2 đều biết tận hưởng những niềm vui giản dị trong cuộc sống. Họ không bị lôi cuốn bởi những cám dỗ bên ngoài, do đó chung thủy trở thành điểm nổi bật trong mối quan hệ này.

Không chỉ hòa hợp trong đời sống tình cảm, họ còn phối hợp rất ăn ý trong công việc và biết hoạch định cho cuộc sống tương lai. Hợi thán phục tính dịu dàng và tài sắp đặt xuất sắc của Mùi. Cả 2 đều có những khát khao lành mạnh và giàu lòng quảng đại.

Mùi thuộc hành Thổ, Hợi thuộc hành Thủy. Thổ kiểm soát Thủy. Vì vậy, ở đây Mùi sẽ chiếm ưu thế hơn Hợi. Sự hòa hợp tự nhiên của họ khiến mối quan hệ trở nên lắng dịu. Hợi hung hăng sẽ nhượng bộ dễ dàng trước Mùi tế nhị và khôn khéo.

(Theo Phong thủy trong tình yêu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kết duyên cho người tuổi Hợi với người tuổi Mão, tuổi Mùi

Có mấy loại con nuôi ?

Có ba loại con nuôi: Con nuôi chính thức, con nuôi danh nghĩa và con nuôi giả vờ. Con nuôi chính thức: Có hai loại :
Có mấy loại con nuôi ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Con lập tự : Gia đình không có con trai, nuôi con anh em ruột hoặc con anh em chú bác ruột. Có thể nuôi từ bé, hoặc lớn rồi mới nuôi, thậm chí có người đã thành gia thất, có con rồi mới nhận làm con nuôi. Người con nuôi lập tự đó chịu trách nhiệm săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ nuôi lúc tuổi già và hương khói tang tế sau khi mất, nên khi được hưởng quyền thừa kế gia tài hơn cả những người con gái do chính cha mẹ sinh ra, vì con gái là "con người ta", sau khi gả chồng lo cơ nghiệp nhà chồng.

Con nuôi lập tự được hưởng ruộng hương hoả nếu cha nuôi là tộc trưởng, được họ hàng chấp nhận là cùng huyết thống nội thân. Nếu người con nuôi lập tự là con thứ của ông em thì con người con trưởng của ông em vẫn phải gọi người con nuôi lập tự đó bằng bác (đáng lẽ gọi là chú) . Khi cha mẹ nuôi chết, tang chế của vợ chồng người lập tự cũng ba năm như cha mẹ đẻ. Trường hợp cha mẹ chết trước, phải xin phép cha mẹ nuôi mới được về chịu tang, nhưng không được phép mặc áo khâu gấu, khăn ngang không được để hai giải bằng nhau. Khi cha mẹ nuôi đã sinh con trai thì thôi quyền lập tự nhưng vẫn là con nuôi được hưởng quyền thừa kế như các người con khác.

- Con nuôi hạ phóng tử: Có mấy trường hợp:


    + Con hoang thai nuôi từ lúc mới sinh. Có nhà hiếm hoi dặn từ trước, khi sinh nở thì đón về, sản phụ được bồi dướng một ít tiền và sau đó không được quyền nhận hay thăm con. 


    + Con mồ côi hay con nhà nghèo khó, đem về nuôi là phúc, mặc dầu không hiếm hoi. Nếu nuôi thực sự từ lúc còn nhỏ cũng được hưởng mọi quyền lợi trong gia đình. Cha mẹ nuôi cũng có trách nhiệm dựng vợ gả chồng, sống nuôi chết chôn, cũng được cha mẹ nuôi chia cho một phần gia tài khi ra ở riêng. Trường hợp cha mẹ nuôi không có con trai cũng có thể lập người con này làm thừa tự, song không được can dự vào phần hương hoả, tự điền cũng như việc họ, bởi lẽ khác dòng máu, không được họ chấp nhận. Tang chế đối với cha mẹ nuôi cũng ba năm như cha mẹ đẻ, đối với anh em nuôi cũng một năm như anh em ruột, nhưng đối với họ hàng bên bố mẹ nuôi thì không tang.

Trừ một trường hợp con nuôi đã mang họ của bố nuôi, không biết bố đẻ (hoang thai) và đã được họ hàng chấp nhận thì mọi lễ nghi hiếu hỷ, tang chế đều như người trong họ, song vẫn không được hưởng hương hoả, tự điền. Nếu bố nuôi là tộc trưởng vẫn không được kế thế tộc trưởng mà vai trò tộc trưởng thuộc con trai trưởng của chú em.


    Theo phong tục một số địa phương "vô nam dụng nữ" thì người con rể cũng có quyền lợi và nghĩa vụ như con nuôi hạ phóng tử nói trên, nhưng chỉ để tang bố mẹ vợ một năm, anh em ruột của vợ chín tháng, ngoài ra không để tang cho ai bên nhà vợ. Lập tự chỉ lập tự cho cháu ngoại, không lập tự cho con rể. Cháu ngoại cũng không được làm tộc trưởng (như trên).

Con nuôi danh nghĩa:
Có mấy trường hợp:


        - Nhà hiếm con qua mâý lần tảo sa, tảo lạc, hữu sinh, vô dưỡng, hoặc theo số tử vi lỗi giờ sinh, xung khắc với cha mẹ nên phải bán làm con nuôi  cho dễ nuôi. Khi sinh nở xong bố đẻ sẵn một chai rượu, cơi trầu đến nhà bố nuôi, làm lễ gia tiên bên bố nuôi xin cho ghé cửa nương nhờ, sau đó mời bố mẹ nuôi đến nhà xem mặt đứa trẻ và nhường quyền cho bố nuôi đặt tên cho đứa bé. Sau này khi lớn lên thì mồng 5 (đoang ngọ) ngày Tết dắt đứa bé đến tết nhà bố mẹ nuôi. Đứa bé cũng xếp theo vị trí anh em ruột một nhà theo quan hệ lứa tuổi. Sau này lớn lên, trong huyết thống ba đời anh em cháu cháu không được quyền lấy nhau. Nếu vi phạm cũng coi như mắc tội loại luân. Chọn Bố mẹ nuôi thì chọn gia đình phúc hậu, lắm con nhiều cháu, làm ăn thịnh vượng.


    - Do cảm ân đức, nghĩa tình nhận làm con nuôi.
    - Anh em kết nghĩa với nhau thân tình, nhận bố mẹ của anh em cũng như bố mẹ của mình và ngược lại bố mẹ cũng nhận người anh em kết nghĩa với con mình như con cái trong nhà.
    Trong những trường hợp đó, người Việt thì gọi chung là con nuôi, bố mẹ nuôi nhưng âm Hán gọi là "nghĩa phụ nghia tử" khác với "nghĩa phụ tử", tang chế không quy định cho trường hợp "dưỡng phụ dưỡng tử", nếu có gả con cho nhau thì càng tốt đẹp "thân thượng gia thân".

Con nuôi giả vờ:
Vì con khó nuôi, sợ ma ta quấy nhiễu người mẹ đem con bỏ đường bỏ chợ, nhưng dặn trước người trực sẵn đưa về nuôi, sau vài giờ hoặc vài ngày đến chuộc nhận làm con nuôi. Đây là cách đánh tráo con đẻ thành con nuôi, con nuôi là con đẻ để lừa ma. Trường hợp này đành rằng phải thông cảm y ước trước, nhưng cũng phải chọn người mắn đẻ, con không sài đẹn, nuôi súc vật mát tay...


    Ngoài ba loại con nuôi dương trần nói trên, còn có tục "bán khoán" con cho thần linh như bán con cho Đức Thánh Trần, Đức thánh Mẫu... Đã là con thần thánh, có tấu, có sớ, có bùa, có dấu ấn hẳn hỏi thì mà quỷ không dám bén mảng đến đã đành mà bố mẹ nuôi con cũng phải đặc biệt chú ý: Không cho con ăn uống những thứ uế tạp, phải mặc đồ sạch sẽ, không được vá chằng vá đụp, không để con bò lê la, không được chửi rủa xỉ vả con, sợ ngài gọi về trời. Con chỉ được gọi cha đẻ bằng thầy, bằng cậu... Gọi mẹ bằng mợ, bằng chị, bằng u, bằng đẻ. Hai từ "Cha, mẹ" chỉ được tôn xưng với thần thánh. Bán cho Đức Thánh Trần chỉ được xưng họ Trần khi khấn vái, bán cho phật phải xưng Mầu, nhưng bán cho đức thánh mẫu là Liễu Hạnh không phải đổi họ. Sở dĩ gọi là "bán khoán" vì chỉ bán thời gian còn nhỏ để dễ nuôi. Đến tuổi 13 tuổi tức hết tuổi đồng ấu, đến tuổi vào sổ làng xã thì làm lễ xin chuộc về.


    Chính thể mới hiện nay công nhận con nuôi cũng có quyền lợi và nghĩa vụ ngang con đẻ, đó là con nuôi thực sự được chính quyền địa phương công nhận trên cơ sở thoả thuận giữa người nuôi và người đẻ hoặc giữa người nuôi và thân nhân đỡ đầu trong trường hợp bố mẹ đẻ không còn.
    Đứa bé đếm tuổi thiếu niên cũng được quyền tự nguyện xin làm con nuôi, chọn bố mẹ nuôi. Bố mẹ nuôi có thể nuôi nhiều con tuỳ theo khả năng, nhưng không thể nhận làm con nuôi của nhiều gia đình. Tuổi bố mẹ nuôi phải cao hơn tuổi con nuôi ít nhất 20 tuổi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có mấy loại con nuôi ?

Tử Vi với thế cuộc nhân sinh

Bài viết của cụ Thiên Lương trình bày: "tử vi với thế cuộc nhân sinh" rất hữu ích. Một bài viết rất dễ hiểu.
Tử Vi với thế cuộc nhân sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Bài viết của cụ Thiên lương)

Có những cách nào trong Tử vi mới đáng mặt là công bộc cao cấp trong lập pháp, hành pháp và tư pháp?

Tử vi thường tình được xem là thuật coi số mạng theo các vì sao mà thánh nhân đã ấn định theo cách thức tốt xấu, hên xui tùy theo bốn yếu tố năm tháng ngày giờ sinh cho mỗi cá nhân.

Ngày nay đã được phổ cập đến quảng đại quần chúng.

Riêng đối với bậc thức giả không còn là khoa bói toán. Nó là một môn học có lý lẽ đương nhiên sẽ diễn biến lớp lang theo luật bù trừ. Có thể nói nếu tin ở thuyết nhân quả, nó là triết lý của một tôn giáo. Bốn yếu tố như trên vừa kể không thể dẫn dắt người đời đến một kết quả tuyệt đối, may ra chỉ phúc chủ lộc thầy (muốn sanh ra ở vào quảng thời gian nào cũng chỉ là một lá số trong 518.400 cách trình bày đã quy định, không thể ra ngoài con số 518.400 được xếp đặt).

Sự tốt xấu hên xui phải có, đến mức độ nào phải tùy thuộc vào nhân quả. Tính theo nhân số miền nam VN có 20 triệu dân. Đối với 518.400 lá số, có thể có trung bình 38 đến 40 người có chung một lá số giống in hệt nhau. Giờ nào sanh nhiều có thể đến số tối đa 100, và tối thiểu là 10. Vậy không thể có đến 10 ông Quốc trưởng và cũng không thể có 100 người ngày giờ đó trúng số độc đắc 5 triệu đồng. Trong số 100 hay 10 người nào đó có thể lấy Đại vận 10 năm một, sự hên xui rất trùng có lớp lang xếp đặt theo chu kỳ tính theo sinh khắc chế hóa của âm dương Ngũ hành.

Một người khi đắc thời tưởng cao sanh cũng chiều người, muốn tung hoành ngang dọc rất dễ theo ý muốn, nhưng mấy ai đã nghĩ đến trèo cao thì ngã đau. Cái phần của mình chỉ trong giới hạn nào mà thôi.

Tử vi đã đặt người ta vào trong một cái vòng Tràng sinh Lộc tồn, Thái tuế rất phân minh rõ rệt. Tại sao lại đặt Thái dương ở cuối vòng Tràng sinh? Lý lẽ theo sự biết của thế nhân là mỗi cá nhân do bào thai đúc kết, nuôi dưỡng lên rồi khôn lớn tranh đua với đời, lần hồi đến chỗ suy tàn bệnh tật, rốt cuộc chỉ còn nấm mồ theo thời gian cũng là hết tuyệt. Thánh nhân đặt Thai, Dưỡng ở cuối vòng để nối tiếp Tràng sinh có ý nghĩa luân hồi trong cái vòng khép kín nối nhau, cứ kiếp này sang kiếp khác luân chuyển.

Lộc tồn là cái mồi phú quý chỉ dành cho cá nhân nào đắc cách, có nghĩa là đã ở một cái kiếp nào với nhân quả của nó. Một khi đã Suy Bệnh Tử thì đừng hòng ngang bằng với Quan đới, Lâm quan, Đế vượng. Phúc đức cho ai ráng mà tu tỉnh với trạng thái, Thai, Dưỡng, Sinh. Còn trái nghịch lẽ âm dương hay không duyên kiếp, Lộc tồn chỉ là một béo như cá, đánh lừa đàn chuột lắt đánh hơi thấy ngon thơm, nhào đầu vào lưỡi câu, lồng bẫy đưa thân thể đến chỗ nằm trên thớt bị dao phanh thây bầm nát.

Vòng Thái tuế, Lộc tồn là hai thế âm dương phân tách tóm hợp của Tràng sinh, Kiếp người một khi nhập thế cuộc cùng với thời gian quy định (năm tháng ngày giờ) vị trí Mệnh, Thân sẽ quyết phần số phận.

Người Thiếu âm là phần số người chân thật, tưởng ai cũng như mình, không phải là cứ chịu thiệt thòi mãi mài, cũng có lúc nở mặt nở mày, nhưng phải biết tự an ủi để cho kiếp sống được an vui như một triết nhân không tham sân ai, có cố cho lắm cũng chẳng lấn là bao. Đành rằng định mệnh là một việc, cái Ta cũng phải có số phận hẩm hiu cái Ta, chịu khó một chút tất nhiên không phải luân phiên đói rách.

May mắn được sáng suốt (Thiếu dương) tinh khôn hơn người, nhưng không qua mắt được lý công bằng thiên nhiên. Vậy khôn phải ngoan, biết lẽ phải quấy lợi cho mình đừng hại đến ai, không phải chỉ có một mình mình mới đáng sống.

Người thất vọng (Tuế phá) gặp nhiều việc không vừa lòng, không phải mình quật khởi trái với lương tâm mà thành công như ý muốn được, mà cũng không phải cứ ngồi than thân trách phận, phân trần đem lại tốt đẹp cho mình.

Với ba hạng người trên vẫn có lúc đắc thiên thời gặp bước vinh hoa (Đại vận gặp Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ). Nhưng biết mình biết người là tri thiên mệnh, không đưa thân thế đến chỗ quá thất vọng để rồi làm những việc ngàn năm lưu giữ như ai bán nước cầu vinh chẳng hạn, trái với người được tượng đồng bia đá, thì vạn niên bia miệng khó quên con người phản bội.

Người Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ

Trên nấc thang danh dự người Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ không phải sinh ra đời là đắc ý ngay từ lúc nằm nôi cho đến khi nhập quan xuống đất, vẫn phải trải qua một thời gian tối đa là 30 năm (3 đại vận) không thì cũng 2 đại vận để đào luyện nên con người hữu dụng cho xã hội, cho đất nước.

Người Mệnh, Thân Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ vẫn là người đáng trọng, nhưng buồn phiền hco ai Mệnh Thân đồng cung tam hợp tuổi bị Không Kiếp cản mũi, nhất là thêm Tả Hữu, thật lòng tiếc cho ai cho đất nước, tấm thân đa tài mà bất hữu dụng thật lòng thương khóc cho ai, mặc dầu không ai thuê mướn mình, bị Phá quân Thìn Tuất thủ Mệnh đứng trong tam hợp Thái tuế. Nỗi oan ức nào mấy ai hiều thấu ra tay minh oan bào chữa.

Tưởng đó là bổn phận của những Bao công huyền bí.

Biết rằng trong một xã hội, một quốc gia, nếu đa số dân là Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ, hẳn rằng cái xã hội ấy, cái đất nước ấy không thể không tiến bộ, không phải là không sản xuất những vỹ nhân, khôg có những bản anh hùng ca trên một phương diện nào. Một thể chế đúng mức dân chủ chẳng hạn, từ vị Nguyên thủ quốc gia được phổ thông đầu phiếu bầu lên, rồi đến các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, người dân cầm lá phiếu đi bầu, nếu đa số trúng cử là người đứng trong tam hợp Thái tuế thì cái giai đoạn đó không thể không thịnh trị.

Một cái tốt đẹp hơn nữa, nếu những ông dân biểu, nghị sĩ (lập pháp), quan tòa (tư pháp) Tổng bộ trưởng (hành pháp) lại đang ở trong giai đoạn thiên thời đúng mức (Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ) nghĩa là người tam hợp Thái tuế lại gặp đại vận tam hợp Thái tuế.

Tử vi ngày nay đã được đại đa số quần chúng theo dõi, có quyền rộng rãi cầm phiếu bầu tùy ý. Ta hãy phân tách ai đâu là người xứng đáng có mặt trong giới nào: lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Công bộc xứng đáng

Thái tuế là cái gì cao trọng nhất là người trong giới lập pháp mới xứng đáng địa vị bất khả xâm phạm. Quan phù là ngôi vị các ngài Thẩm phán cầm cán cân công lý, tính toán cân nhắc công tội xác đáng mới tuyên án. Các ông Tổng, Bộ trưởng là địa vị dành cho những ai là người quyết tâm lao đầu làm việc chánh nghĩa trượng phu của Bạch hổ.

Hẳn là chỉ có các ông Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ là dường cột của quốc gia, ta cũng không thể quên 9 vị trí kia khi vận hội đến, nhưng phải có điều kiện như Tuế phá, Điếu khách, Tang môn nên hiểu thân phận mình sẽ là các ông lập pháp đối lập rất hay để kiềm chế bớt cái phóng tay của mấy ông hành pháp quá trớn. Các ông Thiếu âm, Long đức, Trực phù gặp thiên thời tự biết an ủi cũng sẽ là những vị hành pháp nêu cao danh nghĩa liêm chính với đời. Còn các cung Thiếu dương, Phúc đức, Tử phù, đừng quá hóm hỉnh, như số đã quy định Tử đức là điểm chính yếu để mấy ông giữ thăng bằng của nền tư pháp.

Đã biết tam hợp Thái tuế gặp nhầm Không Kiếp chỉ là người hữu tâm mà không đắc dụng, trái lại 9 vị trí kia nếu có Không Kiếp, thật tình không biết mời mấy ông ngồi vào ngôi vị nào với đầu óc vị tha thương mại của mấy ông, nếu lại thêm đầy đủ cả Tả hữu.

KHHB 75-3-b-Diễm Chi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi với thế cuộc nhân sinh

Các biệt tướng và thông tin –

Tóc gáy dựng ngược hay xoáy ngược cũng vậy là biệt tướng của kẻ làm phản. Người này trước sau rồi cũng làm phản những người, ý tưởng mà họ đã theo đuổi, là kẻ “lừa thầy phản bạn”. 1. Mức độ lừa phản tùy thuộc mức độ mép tóc gáy dựng ngược làn tóc xuô
Các biệt tướng và thông tin –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các biệt tướng và thông tin –

Đoán tuổi thọ qua đường ngấn hằn ở cổ tay

Hãy nhìn vào cổ tay và đếm xem bạn có bao nhiêu đường ngấn tay? Càng nhiều ngấn tay sức khỏe của bạn càng tốt, càng sống lâu đấy nhé!
Đoán tuổi thọ qua đường ngấn hằn ở cổ tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

doan-tuoi-tho-qua-duong-ngan-han-o-co-tay

Thông thường cổ tay sẽ có từ 2-4 ngấn. Sở hữu càng nhiều ngấn tay, bạn càng sống thọ và ngược lại. Cụ thể, đường ngấn đầu tiên đậm, rõ ràng, bạn sẽ sống được khoảng 30 năm; đường tiếp theo tương ứng với 50 năm, 70 năm và trên 80 năm. Phần lớn mọi người đều có 2,3 ngấn. Số người có 4 ngấn không nhiều.

Bên cạnh đó, sự đậm nét hay mờ nhạt của mỗi ngấn tay còn nói lên tình trạng sức khỏe, cuộc sống tương lai của người ấy.

Đường ngấn đầu tiên

Đường ngấn đầu tiên đậm, rõ ràng: Bạn khỏe mạnh, tinh thần tốt. Ngược lại, nếu đường ngấn mờ nhạt, đứt đoạn, bạn thường bị đau ốm bệnh tật, sức khỏe không như mong muốn.

Đường ngấn thứ hai

Những người có đường ngấn thứ hai rõ ràng, thẳng tắp thường có cuộc sống giàu có, khá giả, hôn nhân hạnh phúc, không có gì phải lo lắng.

Đường ngấn thứ ba

Đường ngấn mờ nhạt chỉ đơn thuần nói lên tuổi thọ của bạn. Đường ngấn thứ ba mà đậm nét chứng tỏ bạn là người nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng nhất định, được nhiều người biết đến.

Đường ngấn thứ tư

Cũng giống đường ngấn thứ ba, nhưng mức độ nổi tiếng của người có 4 đường ngấn rõ ràng hơn, tầm ảnh hưởng cũng sâu rộng hơn.

Maruko (theo d1xz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tuổi thọ qua đường ngấn hằn ở cổ tay

Tử vi là gì - Tử vi là tên một loài hoa màu tím

Tử vi, hay Tử Vi Đẩu Số, là một hình thức bói toán vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, Can Chi…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi là gì - Tử vi là tên một loài hoa màu tím

Tử vi là gì - Tử vi là tên một loài hoa màu tím

Tử vi, hay Tử Vi Đẩu Số, là một hình thức bói toán vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, Can Chi… bằng cách lập lá số tử vi với Thiên bàn, địa bàn và các cung sao; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người.

 

Tử vi là tên một loài hoa màu tím. Từ ngàn xưa Khoa Chiêm tinh Tướng mệnh Đông phương thường dùng loại hoa màu tím này để chiêm bốc. Ngoài ra Tử là Tím, còn Vi là Huyền Diệu. Cũng có người cho rằng tên gọi được lấy từ sao Tử Vi, một ngôi sao quan trọng nhất trong môn bói toán này.

 

Vào thời nhà Tống, văn hóa Trung Hoa thời đó rất thịnh đạt về nhân học. Cũng nhiều triết gia, tâm học, đạo học chuyên nghiên cứu con người để tìm giải đáp cho cuộc sống, tìm quy tắc cho việc xử thế nhằm mưu cầu hạnh phúc cho cá nhân và tập thể. Nền triết học thời Tống thời đó đã xuất hiện nhiều trường phái như Nông Gia, Pháp Gia, Âm Dương bên cạnh các học thuyết lớn như Nho Học, Đạo Học. Hầu hết các môn nhân vận chuyên khảo cứu con người và xã hội, cần thiết cho việc tu tâm, trị nước, xử thế . . .

Đứng về mặt bói toán mà xét, khoa Tử Vi xuất hiện tương đối chậm, vì đi sau khoa bói dịch, khoa nhân tướng, khoa độn giáp, khoa thiên văn . . . Nhưng Tử Vi đã khai mào cho một học thuật riêng, hệ thống hóa được ngành bói toán bằng lý số theo một khảo hướng đặc thù. Mặc dù vay mượn nơi sở học của người thời đại nền tảng triết lý Âm Dương Ngũ Hành, nhưng khoa Tử Vi vẫn giữ được nét đọc đáo nhờ ở một đường lối khảo sát khác lạ, có thể xem một cuộc cách mạng hoặc ít ra như một phát minh biệt lập trong phái học Tướng Số của thời đó, Thủy Tổ của Tử Vi học là một đạo sĩ biệt hiệu là Hi Di, tên thật là Trần Đoàn, sống vào thời nhà Tống (Trung Hoa) .

Đạo sĩ Trần Đoàn đã cố gắng bày ra cách xếp vận mệnh con người vào một lá số, ghi trên một mảnh giấy vỏn vẹn chỉ có một trang, nhưng tổng kê hết cá tính và đời người vào 12 cung và hơn 100 vì sao, được gán cho nhiều ý nghĩa và ngũ hành khác nhau, ngõ hầu giúp con người suy diễn những chi tiết về kiếp số của mình. Tóm tắt cuộc đời phức tạp của con người vào một mảnh giấy một cách hệ thống hóa, đồ biểu hóa một cách khúc chiết. Mặc dù công trình này không tránh được vài sơ khoáng cố hữu nhưng nó vẫn không mất đi giá trị khai sáng cho một bộ môn bói toán hãy còn được tôn sùng ngay trong thế kỷ khoa học không gian này.

Nguồn gốc khoa Tử Vi:

Khoa Tử vi bắt nguồn từ thời nào? Cho đến nay sách sử không ghi lại ai là người khai sáng ra nó. Các Tử vi gia thường chỉ chú ý đến việc giải đoán tử vi hơn là đi tìm hiểu lịch sử. Bởi vậy cho đến nay, lịch sử khoa này vẫn còn lờ mờ. Thậm chí có người còn lầm lẫn khoa Tử vi với những chuyện truyền kỳ hoang đường.

Đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử vi Đẩu số Toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn.

Bài tựa viết như sau: “Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.

Tôi vì muốn biết nên đă tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh”.

Các sách về Tử vi sau này cũng đều thống nhất rằng người đầu tiên tổng hợp, hệ thống lại thành môn bói này là Trần Đoàn tức Hi Di Lão Tổ, sống vào đời Bắc Tống, Trung Quốc.

Trần Đoàn, tự Hi Di, người đất Hoa Sơn ngày nay về phía Nam huyện Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây. Tương truyền rằng khi ra đời, ông bị sinh thiếu tháng, nên mãi hơn hai năm mới biết đi, thủa nhỏ thường đau yếu liên miên. Trần Đoàn học văn không thông, học võ không đủ sức, thường suốt ngày theo phụ thân ngao du khắp non cùng thủy tận.

Thân phụ Trần Đoàn là một nhà thiên văn, lịch số đại tài đương thời. Về năm sinh của tiên sinh không một thư tịch nào chép. Nhưng căn cứ vào bộ Triệu thị Minh thuyết Tử Vi kinh, khi Trần Đoàn yết kiến Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn vào niên hiệu Càn Đức nguyên niên (năm 963 Dương lịch) có nói: "Ngô kim nhật thất thập hữu dư" nghĩa là “tôi năm nay trên bảy mươi tuổI”. Vậy có thể Trần Đoàn ra đời vào khoảng 888-893 tức niên hiệu Vạn Đức nguyên niên đời Đường Hy Tông đến niên hiệu Cảnh Phúc nguyên niên đời Đường Chiêu Tông. Trần Đoàn bắt đầu học thiên văn năm 8 tuổi.

Bộ Triệu thị Minh thuyết Tử Vi kinh thuật rằng:

"Tiên sinh 8 tuổi mà tính còn thơ dại. Lúc nào cũng ngồi trong lòng thân phụ. Một hôm thân phụ tiên sinh phải tính ngày giờ mưa bão trong tháng, bị tiên sinh quấy rầy, mới dắt tiên sinh ra sân, chỉ lên bầu trời đầy sao mà bảo:

- Con có thấy sao Tử Vi kia không?

Đáp:

- Thấy.

Lại chỉ lên sao Thiên Phủ mà hỏi:

- Con có thấy sao Thiên Phủ kia không?

Đáp:

- Thấy

- Vậy con hãy đếm xem những sao đi theo sao Tử Vi và Thiên Phủ là bao nhiêu?

Thân phụ tiên sinh tưởng rằng tiên sinh có đếm xong cũng trên nữa giờ. Không ngờ ông vừa vào nhà, tiên sinh đã chạy vào thưa:

- Con đếm hết rồi. Đi sau sao Tử Vi là 5 sao, như vậy chòm sao Tử Vi có 6 sao. Đi sau sao Thiên Phủ là 7 sao, như vậy chòm Thiên phủ có 8 sao.

Từ đấy tiên sinh được thân phụ hết sức truyền khoa thiên văn và lịch số."

Du nhập vào Việt Nam

Tuy xuất phát từ Trung Quốc, Tử Vi không được nổi bật lắm trong các môn bói toán khác. Nhưng khi du nhập vào Việt Nam, nó trở thành môn học được ưa chuộng nhất. Có rất nhiều học giả Việt nam đã cống hiến thêm cho môn nầy, trong đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Quý Đôn. Dần dần, Tử Vi Việt Nam có thêm những dị biệt so với Tử Vi nguyên thủy của Trung Quốc.

Những dị biệt giữa Tử Vi Việt Nam và Trung Quốc bao gồm:

Cách an mệnh của Tử Vi Việt nam bắt đầu từ cung Dần, trong khi Trung quốc bắt đầu từ cung Sửu

Cách tính tuế hạn của Tử Vi Việt Nam tùy thuộc vào chi của tuổi người xem. Trong khi tuế hạn của Trung quốc cố định.

(Trích Cốt tủy Khoa Tử Vi của Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại-Sỹ - Đại Nam ấn hành 1994)

Đối tượng xem bói trong tử vi là số mệnh con người.

Số mệnh con người được xét trong tử vi là số phận con người gắn liền với gia đình, dòng họ (ông bà, bố mẹ, anh em, con cái) và những mối quan hệ xã hội.

Các sao trong Tử Vi

Bộ Tử Vi Chính Nghĩa được coi như là chính thư không thấy nói về số sao. Song xét trong mục dạy an sao thì có 93 sao. Nhưng những lá số phụ lục thì chỉ chép có 89 sao. Không thấy an sao Thiên thương, Thiên sứ, Thiên la, Địa võng. Điều này dễ hiểu bởi 4 sao trên đều ở vị trí cố định, không cần thiết an vào.

Có môn phái Tử vi an tới 118 sao. Mỗi ngôi sao có một ý nghĩa. Sao này khi tương tác với sao khác lại có ý nghĩa khác.

Theo Hi Di tiên sinh thì các sao đó là:

14 chính tinh 

Vòng Tử Vi có 6 sao: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương và Thiên cơ.

Vòng Thiên Phủ có 8 sao: Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát và Phá quân.

Các phụ tinh

Các sao này mang bản sắc riêng biệt được an định trong 12 Cung trên một Thiên Bàn:

Vòng Thái tuế - 5 sao là Thái tuế, Tang môn, Bạch hổ, Điếu khách, Quan phù. Các phái khác thêm vào 7 sao nữa là: Thiếu dương, Thiếu âm, Trực phù, Tuế phá, Long đức, Phúc đức, Tử phù.

Vòng Lộc tồn - 17 sao là Lộc tồn, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù, Bác sĩ, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ.

Vòng Trường sinh - 12 sao là Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Các sao an theo tháng - 7 sao là Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa, Thiên hình, Thiên riêu, Đẩu quân.

Các sao an theo giờ - 8 sao Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên quý, Thai phụ, Phong cáo, Thiên không, Địa kiếp. Vị trí chính của sao Thiên Không được các phái khác thay bằng sao Địa Không, còn sao Thiên Không thì được an liền sau sao Thái Tuế và đồng cung với Thiếu dương.

Tứ trợ tinh - 4 sao là Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Hóa kỵ.

Các sao an theo Chi - 17 sao là Long trì, Phượng các, Thiên đức, Nguyệt đức, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên mã, Hoa cái, Đào hoa, Phá toái, Kiếp sát, Cô thần, Quả tú, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên khốc, Thiên hư. Hai sao Hỏa tinh và Linh tinh được các phái khác an theo giờ sinh.

Các sao an theo Can - 5 sao là Lưu hà, Thiên khôi, Thiên việt, Tuần không, Triệt không.

Các sao cố định - 4 sao là Thiên thương, Thiên sứ, Thiên la, Địa võng.

Lá số tử vi

Lá số tử vi được trình bày trên Thiên bàn, địa bàn. Thiên Bàn ở giữa, chung quanh là Địa Bàn với 12 cung.

Tại Thiên bàn, ghi năm, tháng, ngày giờ sinh, giới tính, mạng và cục.

Địa Bàn gồm 12 cung cố định, được đặt tên theo mười hai địa chi, mỗi cung phản ảnh một lĩnh vực, một mặt của đời sống một con người qua những liên hệ công danh, tiền bạc, bạn bè, vợ con, phúc đức, cha mẹ… Các cung trên địa bàn lần lượt mang các tên là: Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Tật ách, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ.

Những phương thức để xác định vị trí của khoảng 110 sao lên trên địa bàn được gọi là "an sao".

12 cung của Tử Vi như sau:

Cung Mệnh và Thân 

Cung Phụ Mẫu

Cung Phúc Đức

Cung Điền Trạch

Cung Quan Lộc

Cung Nô Bộc

Cung Thiên Di

Cung Tật Ách

Cung Tài Bạch

Cung Tử Tức

Cung Phu Thê

Cung Huynh Đệ (hay cung Bào)          

Cách lập lá số tử vi

Lá số tử vi của mỗi người được thành lập dựa vào các yếu tố vào giờ, ngày, tháng, năm sinh (âm lịch) và giới tính.

Trước hết vẽ bản đồ, giữa Thiên Bàn, chung quanh là Địa Bàn với các cung. Bản đồ phải đủ lớn để viết trên 100 Sao.

Ghi năm, tháng, ngày giờ sinh, giới tính, an mạng và tính cục, ghi vào Thiên bàn.

Sau đó xác định các đai vận và ghi trên Địa bàn.

Tiếp đến, tiến hành an sao. Đầu tiên là an sao Tử vi. Sau đó là an các bộ sao Tử vi, Thiên phủ, Thái tuế, Thiên không, Lộc tồn, Tràng sinh, Hung sát tinh, Trung tinh.

Sau cùng ghi tiểu vận.

Cách đoán giải

Muốn lập thành một lá số Tử vi cần phải hội đủ 4 yếu tố là giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. Cách lập thành lá số Tử vi nói chung có nguyên tắc, trình tự được chỉ dẩn khá rỏ ràng, nhưng về phương cách giải đoán thì còn phải tùy theo trình độ, cơ duyên và kinh nghiệm... của người giải đoán mà sẽ có những lời giải đoán khác nhau.

Khi luận đoán một lá số tử vi, nói chung cần phải theo đúng những tiến trình luận đoán số, nắm được những đặc tính của các sao, nắm được những cung cần phải xem và những vận hạn trong cuộc đời phải biết.

Giới hạn

Có tất cả 518.400 (60 can chi, 12 tháng, 30 ngày, 12 giờ, và 2 giới tính) lá số khác nhau trong Tử Vi. Có người dùng con số nầy để đi đến kết luận rằng Tử Vi không thể dùng để lý giải sự khác nhau của những người sinh cùng thời điểm. Tuy nhiên, muốn giải đoán chính xác một lá số của một người thì cũng nên khảo sát thêm những lá số của những người thân của người đó, mới có thể biết được khá chính xác lá số của người đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi là gì - Tử vi là tên một loài hoa màu tím

Nhà ở có bao nhiêu phòng là vừa? –

Phong thủy học truyền thông cho rằng, số phòng trong một căn hộ khép kín có ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe và vận khí của chủ nhà. Khi thiết kế các gian phòng, bạn cần lưu ý tới những không gian sau đây: - Không gian để nghỉ ngơi: bao gồm phòng ng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1260498356-282170

Phong thủy học truyền thông cho rằng, số phòng trong một căn hộ khép kín có ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe và vận khí của chủ nhà. Khi thiết kế các gian phòng, bạn cần lưu ý tới những không gian sau đây:

–   Không gian để nghỉ ngơi: bao gồm phòng ngủ, phòng cho người già và trẻ em

–   Không sinh hoạt chung: bao gồm phòng khách, gian bếp và phòng ăn.

–   Không gian chuyên dụng khác: bao gồm phòng làm việc, phòng dành riêng cho khách ngủ qua đêm, ban công, phòng chứa đồ, gara ô tô…

–   Phòng vệ sinh:

Với diện tích chật hẹp, không thể bố trí được nhiều phòng, thì có thể khắc phục bằng cách gộp một sô” không gian trên vào một như: phòng ngủ gộp với phòng làm việc, trẻ em có thể ngủ chung trong phòng của bô” mẹ hoặc ông bà nhưng điều kiện cho phép thì nên bô” trí phòng ngủ riêng cho người già và trẻ em, bố trí chỗ nghỉ qua đêm cho khách bằng việc trải một tấm đệm ở phòng khách, gộp phòng ăn, gian bếp, nhà vệ sinh vào một khu…

Bạn cần sắp xếp sao cho hợp lý để đem lại cho mình cuộc sông thoải mái trong một không gian nhỏ. Đặc biệt, việc bố trí kê đặt, bày biện tại nơi giữa ngôi nhà phải hết sức thận trọng. Phong thủy học truyền thông cho rằng khoảng giữa (trung tâm) nhà ở là ngôi hoàng cực, là điểm ngưng kết sinh khí của căn nhà và cũng là vùng đất cốt lõi của vượng khí nhà ở. Khi trang trí nội thất cũng như thiết kế gian phòng, bạn cần tránh:

–    Đặt giữa nhà một bể cá vàng, vì trung tâm của ngôi nhà là nơi dương khí vượng nhất, mà nước thuộc âm tính, nên sẽ làm suy yếu vượng khí của ngôi nhà, làm mất cân bằng âm dương.

–    Bố trí cầu thang ngay giữa nhà. Việc lên xuống cầu thang cũng gây ồn ào làm xáo trộn không gian yên tĩnh nên việc này cũng không nên làm

Vĩ vậy, khu vực giữa nhà nên bố trí phòng khách hoặc phòng ăn, nơi để mọi người sum họp, chuyện trò, vui chơi giải trí và nghỉ ngơi thư giãn. Trong kiến trúc của một ngôi nhà hiện đại, bố trí phòng sinh hoạt thường nhật ngay tại vùng giữa ngôi nhà là nguyên tắc quy hoạch tiện lợi nhất, thích hợp nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà ở có bao nhiêu phòng là vừa? –

Luận giải về tên hiệu –

“Tên hiệu” thường được gọi tắt là Hiệu, người ta thường viết trước cả Họ và Tên. Ví dụ: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc hay Tử An Trần Lê Nhân... Đây là cách dùng của những nhà nho học xưa ở Việt Nam. Ngày nay ít còn hoài cổ. Hiệu cũng được người theo đạo Phậ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Tên hiệu” thường được gọi tắt là Hiệu, người ta thường viết trước cả Họ và Tên. Ví dụ: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc hay Tử An Trần Lê Nhân… Đây là cách dùng của những nhà nho học xưa ở Việt Nam. Ngày nay ít còn hoài cổ.

804-dat-ten

Hiệu cũng được người theo đạo Phật thường dùng, Hiệu được các bề trên đặt cho ngay từ khi dấn thân vào theo Phật đạo. Phật tử nào cũng được đặt một Hiệu. Ví dụ: Diệu Hương, Diệu Bảo v.v… dùng làm “hộ chiếu” của nhà Phật cấp cho để “vào” cửa Phật có giá trị cả khi về bên kia thế giới. Riêng những “chính tôn Phật tử” (các sư, thầy…) thì chỉ những Hiệu thay Tên chính, Họ chính. Tất cả tên cha mẹ, ông bà đặt cho cả tên Họ xuất thân của mình cũng không còn dùng mà đã có tên Họ Phật – “Thích” kèm theo pháp danh. Bởi những chính tôn Phật tử đã từ bỏ trần tục, rũ bỏ mọi thứ của người đời mà trở thành con cháu nhà Phật.

Loại Họ Tên Hiệu này ta cũng không dùng phương pháp số hóa để tìm thông tin. Vì nó không có đủ Tiên, Hậu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải về tên hiệu –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

4 nét tướng gặp đại nạn không chết - Nhân tướng - Xem Tử Vi

4 nét tướng gặp đại nạn không chết, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi 4 nét tướng gặp đại nạn không chết, tu vi 4 nét tướng gặp đại nạn không chết, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

4 nét tướng gặp đại nạn không chết

Luôn được quý nhân phù trợ, gặp giữ hóa lành, dù gặp đại nạn cũng không chết là những đặc điểm của người có nét tướng sau.

1. Tai Lớn Dày:

Người có vành tai lớn và dày đại biểu có quý nhân nâng đỡ, trời sinh có Phúc Khí khá lớn, khi gặp phải kiếp nạn đều được quý nhân giúp đỡ chuyển nguy thành an.

2. Ấn Đường Khai Mở Bằng Phẳng:

Chỗ giữa hai mắt và đầu mày gọi là Ấn Đường; Ấn Đường rộng mở (độ rộng bằng 2 ngón tay trỏ và giữa sát lại) là người có lòng dạ mở rộng trong

3. Rốn Vừa Sâu Vừa Rộng:

Rốn là chỗ hấp thu các thức ăn, rốn sâu và lớn là người có ruột già ruột non, dạ dày tốt hấp thu các dưỡng chất tốt, thân thể tinh thần tự nhiên khỏe mạnh, thể chất tiên thiên cũng tốt, khi gặp cảnh khó thì có thể có trí năng thể lực để khắc phục. 

4. Mở Miệng Không Thấy Răng:

Tức là khi mở miệng nói không bị lộ răng lợi nhiều, đó là người làm việc rất cẩn thận, giữ thân phận, phàm mọi việc đều tham chiếu theo quy củ mà làm, lại rất có mưu lược, gặp sự tình có thể bình tĩnh đối phó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 nét tướng gặp đại nạn không chết - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Những khuyết điểm ít ai ngờ của Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa

Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc có bốn người con gái được mệnh danh là "tứ đại mỹ nhân" có sắc đẹp làm khuynh đảo cả một đất nước, thay đổi cả lịch sử dân tộc. Nhan sắc của họ lần lượt được ca ngợi là "trầm ngư" (cá chìm sâu dưới nước), "lạc nhạn" (chim nhạn sa xuống đất), "bế nguyệt" (Mặt Trăng phải giấu mình) và "tu hoa" (khiến hoa phải xấu hổ). Người dân Trung Quốc từ lâu đã coi Tứ đại mỹ nhân là biểu tượng của sắc đẹp và rất tôn thờ họ.
Những khuyết điểm ít ai ngờ của Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Chẳng thế mà có rất nhiều bộ phim truyền hình nổi tiếng được chuyển thế từ những giai thoại của 4 người con gái xinh đẹp tuyệt trần này. Tuy nhiên ít ai ngờ rằng, dù rất đẹp nhưng các mỹ nhân này đều không tránh khỏi những khiếm khuyết trên cơ thể và họ luôn muốn che giấu đi điều đó.

1. Vương Chiêu Quân 


Đại mỹ nhân đầu tiên có vẻ đẹp được ca ngợi "lạc nhạn" (chim nhạn sa xuống đất) chính là Vương Chiêu Quân, thời nhà Tây Hán, khoảng thế kỷ 1 TCN.

Theo sử sách nhận định thì Vương Chiêu Quân là người con gái đoan trang và trí tuệ nhất trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa. Nàng tên là Vương Tường, quê ở Tuy Quỹ, đời nhà Hán. Ban đầu Vương Chiêu Quân không được hoàng đế đương triều là vua Hán Nguyên đế để ý tới vì tên Mao Diên Thọ đã cho chấm thêm một chấm đen dưới mắt nàng và tâu với vua rằng đó là chính là nốt ruồi sát phu. Vì thế hoàng đế đã để cho nàng đi mặc dù sắc đẹp của nàng là không phải bàn cãi.

Tuy nhiên sau này Hán Nguyên đế mới biết mình bị Mao Diên Thọ qua mặt và sự thật là Vương Chiêu Quân không hề có nốt ruồi sát phu. Mao Diên Thọ sợ bị hoàng đế trị tột liền trốn qua nương nhờ chúa Hung Nô và cho đem theo cả chân dung của Vương Chiêu Quân. Vua Hung nô xem tranh, mê đắm trước sắp đẹp của nàng, liền đòi vua Hán phải giao nộp nàng nếu không muốn quân Hung nô tiến đánh. Biết mình không thể địch lại vua Hung nô, Hán Nguyên đế đành phải đưa nàng đi giao nộp cho chúa Hung. Một người con gái mà đổi lấy sự yên bình, tránh việc binh đao cho một đất nước đủ để nói lên sắc đẹp của Vương Chiêu Quân đẹp đến nhường nào.

Tuy nhiên theo lịch sử ghi chép Chiêu Quân tuy rất đẹp nhưng vẫn có một khiếm khuyết trên cơ thể đó là hai vai nàng hơi lệch nhau. Và để che giấu nhược điểm này, nàng phải lấy những miếng độn vai để áo không bị tụt và người khác sẽ không phát hiện ra điều này.

2. Tây Thi


Đại mỹ nhân được ca ngợi với vẻ đẹp "trầm ngư" (cá chìm sâu dưới nước) là Tây Thi, thời Xuân Thu, khoảng thế kỷ 7-thế kỷ 6 TCN.

Nàng vốn là một thôn nữ dệt vải ở Trữ La Sơn, thời Chiến Quốc. Một hôm nàng ra sông giặt lụa, nước sông trong vắt, in bóng hình đẹp như tiên giáng trần của nàng xuống lòng sông khiến cho đàn cá xiêu lòng quên cả bơi lội, cứ từ từ lặn xuống đáy sông. Vì thế, người đời đã tôn Tây Thi là người có vẻ đẹp "trầm ngư" (cá chìm sâu dưới nước).

Nàng đẹp đến thế nhưng ít ai biết được Tây Thi lại có đôi chân quá to nên khi nàng bước chân xuống suối giặt lụa, đàn cá thấy chân nàng to quá nên hoảng hốt bỏ chạy.

Để che giấu đi khiếm khuyết này, Tây Thi đã tự may cho mình một chiếc váy dài đặc biệt để che hết hình hài của đôi chân có phần thô kệch. Do đó người đời không ai nhìn thấy đôi chân của nàng nên tuyệt nhiên đều ca ngợi nàng là con người con gái hoàn mỹ. Chỉ có sử sách sau này ghi chép lại mới có nhắc đến chi tiết đáng lưu ý này.

3. Dương Quý Phi

Đại mỹ nhân được ca tụng với vẻ đẹp "tu hoa" (khiến hoa phải xấu hổ) là Dương Quý Phi, thời nhà Đường, 719-756.

Tên của nàng là Dương Ngọc Hoàn. Năm 17 tuổi nàng được gả cho hoàng tử thứ 18 của Đường Minh Hoàng là Thọ vương Lý Mạo. Vì khi đó Thọ vương còn nhỏ nên suốt 3 năm sau khi thành thân, giữa phu thê với nhau chưa từng có quan hệ chăn gối.

Còn Đường Minh Hoàng vì cái chết của Vũ Huệ phi người mà ông rất sủng ái nên tâm trạng vô cùng sầu não, không thiết tha gì đến chính sự thì bỗng dưng nhìn thấy cô con dâu tuyệt sắc giai nhân Dương Ngọc Hoàn. Vì quá say đắm trước vẻ đẹp của nàng, vị hoàng đế này đã nghĩ ra cách để phù phép người con dâu của mình trở thành quý phi một cách tài tình.

Ông sai hạ thần đưa người đẹp đi xuất gia làm sãi để trông coi việc thờ cúng Huệ phi, lấy đạo hiệu là Thái Chân. Đã xuất gia thì các mối quan hệ thế tục chấm dứt và khi đó Dương Quý Phi không còn là vợ của Lý Mạo hay con dâu của Đường Minh Hoàng nữa. Vì lẽ đó, hoàng đế đã ngay lập tức đưa nàng về cung và phong nàng làm Quý phi. Lịch sử Trung Hoa lại gặp biến cố lớn từ đây.

Được coi là tuyệt thế giai nhân của triều đại đương thời tuy nhiên nàng có một nhược điểm khá nghiêm trọng là cơ thể có mùi khó chịu, điều này đã được nhắc đến trong cuốn sách “Kỷ Liên Hải khâm phục Tứ đại mỹ nhân” của nhà văn Kỷ Liên Hải. Mặc dù vậy Dương Quý Phi rất biết cách để khắc phục nhược điểm này. Nàng sai cho người hầu hái những bông hoa thơm nhất trong vườn rồi chiết thành nước thơm xức lên người.

Ngoài ra, Dương Quý phi cũng tắm thường xuyên bằng các loại nước chứa hương liệu và hoa tươi (điều này chúng ta có thể thấy rất rõ trong các bộ phim nổi tiếng thời xưa của Trung Quốc). Vì thế, mùi khó chịu trên cơ thể nàng đã bị che lấp, chỉ còn lại nhan sắc rực rỡ khiến hoàng đế mê đắm. Chắc hẳn nếu mùi cơ thể không bị giấu đi thì chưa chắc Đường Minh Hoàng đã say đắm nàng đến vậy.

Theo tương truyền thì Dương Quý Phi còn mắc thêm chứng bệnh tiểu đường do ăn quá nhiều chất béo, đường (nàng rất thích ăn vải, một loại quả có hàm lượng đường rất lớn) và ít vận động. Ngoài ra nàng còn bị cho là vô sinh, điều này rất hợp lí vì cho đến khi bị bức tử ở tuổi 38, nàng chưa một lần sinh nở.

4. Điêu Thuyền

Đại mỹ nhân được ca tụng với vẻ đẹp "bế nguyệt" (Mặt Trăng phải giấu mình) là Điêu Thuyền, thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3.

Trong bộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung - một trong tứ đại kỳ thư của Trung Quốc có ghi chép rằng, Điêu Thuyền vốn có gia cảnh tan nát vì loạn Đổng Trác, được quan Tư đồ Vương Doãn đón về nhận làm con nuôi. Sắc đẹp của nàng khiến cho cả Đổng Trác và Lữ Bố đều ngất ngây. Biết được đây là cơ hội có một không hai để kết liễu tên giặc ác nhân xấu xa Đổng Trác, quan Tư đồ Vương Doãn đã quỳ lạy cô con gái nuôi của mình là Điêu Thuyền với mong muốn nàng sẽ dùng sắc đẹp của mình để mê hoặc cả Đổng Trác và Lữ Bố, qua đó tiêu diệt Đổng Trác để cứu lấy triều Hán đang lâm nguy.

Vương Doãn hứa với Lã Bố sẽ gả Điêu Thuyền cho hắn rồi bất chợt đưa nàng dâng cho Đổng Trác. Lữ Bố do quá say đắm Điêu Thuyền nên hận Đổng Trác đến tận xương tủy bèn làm phản giết chết Đổng Trác.

Người đời sau có viết về Điêu Thuyền như sau: “Mười tám lộ chư hầu không giết nổi Đổng Trác mà một thiếu nữ đào tơ, liễu yếu như Điêu Thuyền lại giết nổi Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lữ Bố mà chỉ một nàng Điêu Thuyền lại thắng nổi. Lấy chăn chiếu làm chiến trường, lấy son phấn làm khôi giáp, lấy sóng mắt nụ cười làm gươm sắc giáo nhọn, lấy mày ngài làm cung nỏ, lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn, lấy lời ngọt ngào tình tứ làm chiến lược mưu cơ. Xem như thế thì cái bản lãnh của Điêu Thuyền quả là tuyệt thế cao cường, đáng sợ lắm thay!”.

Tương truyền rằng Điêu Thuyền đẹp đến mức cả mặt trăng cũng phải xấu hổ mỗi khi thấy nàng và phải lặn đi mỗi khi nàng xuất hiện. Do đó Điêu Thuyền được ca tụng là mỹ nhân bế nguyệt. Tuy nhiên theo sử sách ghi chép lại thì nàng lại có một khiếm khuyết nhỏ, đó là đôi tai rất bé trong khi theo quan niệm của người xưa, tai to mới là quý tướng. Để che giấu đi điều đó, Điêu Thuyền đã tự chế cho mình khuyên tai và kẹp tóc trang trí rất đẹp mắt để che đi sự khiếm khuyết này.

LỜI KẾT

Dù những nhược điểm trên đây của Tứ đại mỹ nhân đều chỉ là do tương truyền hay lịch sử ghi chép lại, một phần nữa các nàng lại sống quá cách biệt trong chốn hậu cung khiến cho dân gian ít ai được tận mắt chứng kiến dung nhan của các nàng nên không thể kiểm chứng độ xác thực của những thông tin này là chính xác đến đâu. Vẫn biết là không có ai là hoàn hảo cả tuy nhiên vẻ đẹp khiến cho các bậc hoàng đế, anh hùng thiên hạ phải đảo điên, có thể thay đổi lịch sử của một đất nước thì không thể phủ nhận được các nàng đều là tuyệt thế giai nhân, trăm năm khó gặp trong lịch sử Trung Hoa và đến nay vẫn được người đời ca tụng như là những người con gái đẹp nhất.

Theo Ohay
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những khuyết điểm ít ai ngờ của Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa

4 chòm sao lười biếng nhất quả đất

Cuộc sống hiện đại, mọi việc đều được tự động hóa nên 4 chòm sao lười biếng dưới đây càng có cơ hội không động tay động chân vào việc gì, cả ngày ì ạch.
4 chòm sao lười biếng nhất quả đất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống hiện đại, mọi việc đều được tự động hóa nên 4 chòm sao lười biếng dưới đây càng có cơ hội không động tay động chân vào việc gì, cả ngày ì ạch, đến việc cá nhân còn ngại làm.


4 chom sao luoi bieng nhat qua dat hinh anh 2
 

Thủy Bình (Bảo Bình)

  Thủy Bình là chòm sao lười biếng vì họ còn bận mải mê với những suy nghĩ trên mây trên gió. Phương châm sống của Bình nhi là “có thể ngồi thì không đứng, có thể nằm thì không ngồi”. Chòm sao này hạn chế tối đa những chuyện không nhất thiết phải làm, không quá quan trọng thì lười được bao nhiêu là lười bấy nhiêu. Người ngơ ngơ ngác ngác thế này, muốn họ chăm chỉ cũng khó. 

Có thể Bình nhi quan tâm: Bắt đâu hoàn hảo dành riêng cho Thủy Bình 

Nhân Mã

  Nhân Mã chính xác là chòm sao vô tâm, không để ý tới chuyện gì khác, lười để ý đến mọi sự vụ. Siêu cấp lười biếng, siêu cấp vô tâm, nếu không phải chuyện trực tiếp liên quan tới họ thì đừng mong Mã Mã để vào đầu. Hơn nữa, chòm sao này còn hoàn toàn miễn dịch với mọi lời nhắc nhở hay ý kiến từ bên ngoài, họ không quan tâm đâu. Sự thú vị ở một nàng Nhân Mã liệu bạn có tìm thấy?
4 chom sao luoi bieng nhat qua dat hinh anh 2
 

Sư Tử

Trời sinh Sư Tử đã là chòm sao đại lười, nhân sinh quan rất biếng nhác, không bao giờ đển bản thân phải vất vả. Có thể ngủ là ngủ, có thể ăn là ăn, có thể đi chơi liền đi ngay, không do dự. Làm việc thì chú trọng sự đơn giản, ít phiền toái, đến cả chuyện tình cảm cũng như vậy, một chút suy nghĩ cũng lười. 
 
Mách nước cho Sư Tử phát triển sự nghiệp

Song Tử

  Thích nhàn hạ là đặc điểm nổi trội nhất trong tính cách của Song Tử, ham hưởng lạc, không thích chuyện bao đồng, cũng không bôn ba vì cái này cái kia bao giờ. Họ lúc nào cũng như hoa hoa công tử, phong lưu, phóng khoáng, lượn lờ khắp nơi tìm thú vui chứ ít khi muốn đầu tắt mặt tối.

Nữ Bảo Bình nam Song Tử - ai bảo không thể có bạn thân khác giới
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao lười biếng nhất quả đất

Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình

Qua câu chuyện, ta thấy con người trong đời đã tích đức hành thiện, nên mới có được cuộc sống hạnh phúc và ra đi một cách bình yên, thanh thản như vậy.
Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhờ cả một đời hành thiện, cứu giúp người khốn khó mà ba mẹ tôi, gia đình tôi đã tích được đại đức, sống cuộc sống hạnh phúc, bình an …

Tháng 11/2014, tôi trở về quê nhà, nghe chị gái kể chuyện về “con trâu trắng chuyển sinh” mà bản thân chị đích thân trải nghiệm.

Những năm đầu thập niên 50, nhà tôi ngụ ở một vùng núi ở đông bắc, ba mẹ tôi là những người thuần phác, thiện lương, sống bằng nghề làm rẫy. Quanh năm suốt tháng chẳng kiếm được bao nhiêu tiền, cuộc sống mỗi hộ thời bấy giờ đều rất túng quẫn. Nói một cách tương đối thì nhà tôi cũng có cuộc sống khá tốt. Những năm đó, mọi người trong thành thị đều đến nông thôn cày đất trồng trọt, mong sao có được một bữa cơm no, bụng không bị đói là tốt lắm rồi. Lúc này có một người đàn ông họ Bạch đến làng, dựng một căn nhà đơn giản ở ngay hốc núi, mỗi ngày đều khai hoang, trồng trọt. Về sau, căn nhà đã đổ sập xuống, không thể ở tiếp được nữa, ông liền đến ở nhờ nhà của con gái nuôi trong làng, chẳng được bao lâu, người con gái nuôi đó cũng đuổi ông ra khỏi nhà.

Ông cụ lúc này đã 73 tuổi rồi, không làm việc được nữa, lại không có tiền. Đến giữa trưa những người qua đường không quen biết đều bảo ông đến nhà ăn cơm rồi hãy đi tiếp, buổi tối có những người qua đường cũng bảo ông đến nhà ở tạm một đêm, hôm sau hãy đi tiếp. Mọi người trong làng đều biết ba mẹ tôi tốt bụng, luôn đối xử tốt vơi mọi người. Ông cụ liền đến nhà tôi cầu xin ba mẹ, muốn được ở nhà chúng tôi qua hết mùa đông này, sang năm sẽ nghĩ cách khác. Ba mẹ thấy ông cụ thật sự rất đáng thương, liền đồng ý với lời thỉnh cầu của ông.

Tuy ông cụ không phải họ hàng thân thích gì với nhà chúng tôi, nhưng chúng tôi sống chung với nhau cảm thấy rất vui vẻ, một nhà bảy người đều một tay ba mẹ chăm lo. Nhưng những ngày tháng tươi đẹp không được bao lâu. Ông cụ đổ bệnh, không còn đứng dậy được nữa. Ba mẹ tận sức chăm lo cho cuộc sống hàng ngày của ông. Ông vô cùng cảm động, nói rằng mình đã gặp được người tốt, còn nói nếu như bệnh khỏi rồi, sang năm sẽ hồi báo mọi người, nếu như chết đi, kiếp sau nhất định sẽ trả.

Ông cụ nhờ ba tôi viết một lá thư cho em trai của ông. Ba vẫn khuyên ông cụ đừng nên suy nghĩ nhiều quá, nhất định sẽ sớm khỏi lại thôi, hết năm rồi sẽ tránh được cái rủi của tuổi 73 thôi. Từng ngày từng ngày trôi qua như vậy, không ngờ rằng vào một buổi của mùa đông năm ấy, ông cụ không còn tỉnh lại nữa, không sống qua được mùa đông này.

Một thời gian sau khi ông cụ mất, em trai của ông đã đến nhà chúng tôi để đón ông đi, nhưng không ngờ đã đến quá muộn rồi, ông ấy nói: “Anh đi sớm quá, cảm ơn gia đình các vị đã chăm sóc cho người anh của tôi, kiếp sau anh tôi sẽ chuyền sinh thành một con trâu trắng để báo đáp đại ân đại đức của mọi người, cô bé này có thể gặp được (ám chỉ chị gái tôi, chị tôi lúc đó vào khoảng 8, 9 tuổi)”. Ba mẹ tôi nghe vậy, nhưng cũng không để trong tâm.

Những năm đó chỉ có trâu đen, trâu nước, trâu vàng, chứ chẳng có ai từng nghe là có trâu trắng bao giờ. Mấy năm sau, nhà chị gái tôi có nuôi mấy con trâu, một con trâu mẹ trong đó quả thật đã đẻ ra một con trâu trắng, con trâu trắng vừa mới sinh ra, lông trên người còn chưa khô hẳn, đi đường vẫn còn chưa vững, vậy mà nó đã đứng dậy đi lên đường núi nhắm thẳng hướng con mương mà đi, dọc đường đã băng qua bảy, tám ngôi mộ đều không dừng lại, cho đến khi đứng trước ngôi mộ của ông Bạch. Khi ấy, nó không hề nhúc nhích mà đứng ở đó một hồi rất lâu. Dọc đường chị kể lại rằng chị cũng không hề ngăn nó lại, trâu mẹ cuối cùng cũng đến nơi đó. Trâu con vẫn không muốn rời đi, chị không có cách nào, đợi đến khi thằng cháu làm việc từ ngoài đồng về mới đi lên đỉnh ngôi mộ ôm chú trâu con này về nhà.

trâu con
Đám trâu lớn, trâu con này người nào nhìn thấy cũng đều thích cả

Dần dần, con trâu trắng này cũng đã lớn lên thành một con trâu mẹ, trong tất cả bầy trâu, nó là xuất sắc nhất, vừa lớn, vừa khỏe, lại đẻ được tốt, mỗi năm đều đẻ được một chú trâu con, mà năm nào cũng đều có thể bán được giá rất cao. Đám trâu lớn, trâu con này người nào nhìn thấy cũng đều thích cả.

Ba mẹ tôi lần lượt qua đời trong khoảng năm năm trở lại đây, khi mất đều là hưởng thọ 91 tuổi. Mọi người đều nói ba mẹ trong đời đã tích đức hành thiện, nên mới có được cuộc sống hạnh phúc và ra đi một cách bình yên, thanh thản như vậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd