Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách hóa giải bùa ngải theo Phật giáo hữu hiệu nhất

Theo Phật giáo, ở hiền thì gặp lành, gieo gió thì gặt bão, mọi sự tuân theo luật nhân quả cứ không có bấ kỳ bùa ngải phù phép nào.
Cách hóa giải bùa ngải theo Phật giáo hữu hiệu nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo Phật giáo, ở hiền thì gặp lành, gieo gió thì gặt bão, mọi sự tuân theo luật nhân quả cứ không có bất kỳ bùa ngải phù phép nào. 


Xưa kia bùa ngải chủ yếu được dùng để thể hiện khát khao đạt được những điều tốt lành: bùa cầu bình an, ngải chữa bệnh…nhưng giờ đây cứ nhắc tới bùa ngải, thứ hiện lên trong đầu mọi người chỉ là những gì rất kinh khủng, rất đáng sợ như những cơn đau dữ dội, điên khùng, mất trí…

Cach hoa giai bua ngai theo Phat giao huu hieu nhat hinh anh
Ảnh minh họa
Trong Phật giáo không có bùa ngải, người Phật tử không tin bùa ngải, bùa ngải không xâm hại làm tổn thương đến người tin Phật. Nói đến bùa ngải, người Phật tử cần tìm hiểu bùa ngải là gì, bùa ngải được sử dụng như thế nào, tác dụng của bùa ngải ra sao, rồi mới nói đến việc bùa ngải có tác dụng làm cho người sở cầu như ý, hay một người muốn dùng bùa ngải làm hại người khác, hoặc bùa ngải làm tổn hại đến con người, tại sao không làm tổn hại chúng sanh khác và đối với những người không tin bùa ngải thì ra sao…?   “Bùa ngải” là phép thuật thần thông, gọi tắt là huyền thuật có lịch sử ít nhất đã 8.000 năm, bất cứ tôn giáo nào, dân tộc nào cũng có huyền thuật. Ở nước ta, có rất nhiều loại huyền thuật tự sinh hoặc du nhập. Cơ bản nhất vẫn có thể kể đến các dòng Nam Tông (Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar, Campuchia…), dòng Tiên Đạo (Trung Quốc, Tây Tạng…) hay huyền thuật của các dân tộc (như người Mường)… Mỗi dòng đều có thế mạnh thế yếu nhưng trước đây dùng để chữa bệnh, trừ ma diệt quỷ chứ không dùng hại nhau như bây giờ. Huyền thuật không phân biệt chánh tà, chỉ có người sử dụng huyền thuật vào mục đích tốt hay xấu mà thôi.
 

Tác dụng của bùa ngải là gì?

  Trong thế giới thời xa xưa, với chúng ta, thường hay tồn tại những bí mật lạ, bùa ngải là mộ trong số kỳ lạ đó. Ngày nay khoa học đã từng làm phai mờ những bí mật kỳ lạ đó rồi, và con người tiến bộ cho rằng những bí mật kỳ lạ đó là những điều hoang tưởng. Tuy nhiên dù hoang tưởng nhưng thích suy nghĩ đến, dù bí mật nhưng thích thấy, dù sợ nhưng thích nghe kể…đó là những đặc taính làm cho con người luôn suy nghĩ thế giới này có bùa ngải…!   Người thầy thuốc Trung Hoa, Ấn Độ hay Triều Tiên, các nước khu vực Đông Nam Á trị bệnh nan y cho một người, thường là hay đi vào rừng sâu tìm thuốc, những lọai thuốc hiếm đem về cứu bệnh nan y cho bệnh nhân, hết bệnh, cải tạo được số mệnh từ sắp chết trở thành lành bệnh… đó là người thầy thuốc có lương tâm. Ngược lại, đối với thầy thuốc không lương tâm gọi đó là “vào rừng luyện ngải” và họ tin rằng ngải giúp con người chế ngự bởi sức mạnh huyền bí. Người “thầy thuốc lương tâm” trở thành “thầy pháp mê tín” luyện bùa ngải trị bệnh thiên hạ.   Ngoài ra còn có những pháp sư cao thủ dành cả cuộc đời mình để luyện “công lực”, họ có thể biểu diễn những kỹ năng kinh dị như nhúng tay vào vạc dầu sôi, hay dùng đinh đâm xuyên qua người…Sau khi đã luyện thành cao thủ, họ sẽ tìm và chăm sóc một số loài thực vật mà theo họ có khả năng đặc biệt để truyền các “công lực” sang, gọi là “ngải”. Các thầy pháp thuộc diện cao thủ bao giờ cũng là những tay chuyên luyện bùa ngải hay độc trùng. Thông qua việc nuôi ngải, luyện độc trùng, các pháp sư khẳng định quyền năng của họ. Huyền thoại về ngải xưa nay có rất nhiều. Ai không hiểu quy tắc siêu hình nghe những chuyện đó thì thấy nó ly kỳ rùng rợn, hãi hùng và lầm tưởng ngải là cái gì ghê gớm lắm.

 

Bùa chú là gì?

 

Bùa chú chẳng qua chỉ là một lọai chữ “linh” – một lọai chữ linh hiển linh diệu, do người sử dụng chú tâm vào một chữ, hay một vật thể làm cho người khác nghe theo. Tin tưởng “bùa chú” không phải là tín ngưỡng tôn giáo. Ở một số địa phương như ở Tây Tạng, Sikkim, Butans, Mông cổ, Trung quốc, ở vùng chân núi Hy Mã Lạp Sơn… thuộc về tôn giáo thần bí. “Bùa chú” thể hiện sức sáng tạo của con người trong lúc tâm linh vô thức thăng hoa, nó là một nội lực do tu luyện nhiều năm dùng để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh.   Tín ngưỡng bùa chú là tín ngưỡng tâm linh, nên bản thân bùa chú không phải là những điều mê tín, mà chỉ có những người không muốn hiểu biết về nó đã khoác lên “bùa chú” chiếc áo đầy “sắc màu mê tín “…Bùa có đọc phép, tụng niệm chú vào đó gọi là “bùa chú”, hướng về một sự việc mà người ta tin tưởng sẽ hết bệnh thân hay tâm.  

Lợi ích của việc dùng bùa ngải

  Đối với người tu Phật theo Mật tông, khi đọc thần chú là ra lệnh cho những lực lượng vô hình, làm những việc theo ý muốn của người đọc, “bùa chú” đây thuộc về tín ngưỡng tôn giáo. Trường hợp người này giúp cho người kia thoát qua họan nạn, chữa lành thân bệnh và tâm bệnh, bảo vệ thân mạng, tài sản, giúp đỡ người hiền lương, răn dạy và trừng phạt kẻ tà tâm gian ác… thì người đó là vị pháp sư tu Mật tông, chú niệm thông qua các vật thể để được sự linh ứng như: dầu, nước, lửa, giấy, chỉ, cát, đất, đá, sành sứ, gỗ, lá cây, gốc lúa, củ ngải, kim loại, xác động vật và vị thể ao hồ, núi, sông,…cứu bệnh cho người đời góp phần giúp ích sự an sinh xã hội sức khỏe, bình an và hạnh phúc. Ngược lại là những “thầy pháp bất đắc dĩ” hướng dẫn mọi người đi vào nẽo tà kiến.   Như trên đã nói, bùa ngải có công năng giúp trị thân bệnh và tâm bệnh đối với những người liêm chánh, những pháp sư tu Mật tông, những người có mật ý muốn cứu người, cứu chúng sanh, thệ nguyện không làm tổn hại chúng sanh, muốn làm việc giúp người cứu người trong cơn bức ngặt. Trường hợp các pháp sư ấy lợi dụng thần thông phù phép cao viễn, lợi dụng mọi người không hiểu biết, sanh tâm tà kiến, cướp tiền bạc người, dụ dỗ người khác làm theo những tư kiến của mình để lừa đão. Người ấy không còn là pháp sư nữa, mà là “manh sư” một “thầy pháp tối dốt” hại người, hại đời.  

Bùa ngải làm tổn hại

  Bùa ngải có là gì đâu mà “giải cứu”, chẳng qua là một câu chú lực chú vào một chữ (bùa), một ít lá cây, cây thuốc lạ, một vật sành sứ hay một chất dầu, nước, lửa, giấy, đem chú niệm vào đó, tạo thành một vật lạ, mà người đời cho là linh thiêng rồi tin vào đó, chạy theo vật đó, chỉ có thế thôi. Nếu là Phật tử thì không phải sợ sệt, những người không tin thì không phải bị vướng mắc vào “bùa ngải”. Tại sao người kia bị vướng “bùa ngải”? Vì người đó tin, nên mở cữa tâm hồn cho thần “bùa ngải” bám vào.   Có người tin “bùa ngải” đến mức phó thác cuộc sống mình vào nó thì chỉ là tự huyễn hoặc mình mà thôi! “Bùa ngải” dùng để chống vợ giận, chống chồng theo vợ bé, bùa học giỏi, bùa cầu tài, mong tai qua nạn khỏi… Cách đây 50 năm, những người làm quan bị dân ghét, dân không thích, các vị quan ấy đi chuộc “bùa ngải” để trong túi áo đến cơ quan làm việc và tin đến mức độ dân sẽ thương, nhưng thật ra dân vẫn ghét, không ưa, lại bảo “bùa ngải” đó không linh thiêng, đi tìm Thầy khác, cứ như thế sống trong thế giới “bùa ngải” cả đời thành người nghèo “xơ xác, vì tiền bạc có bao nhiêu cho “Thầy bùa ngải” hết rồi!  

Lời kết của Phật Tử

 

Theo Phật giáo thì tin vào “luật nhân quả”, làm thiện thì gặp thiện, làm ác thì gặp ác, không có phù phép “bùa ngải” nào qua “luật nhân quả”.   Nhắc đến “luật nhân quả”, để muốn trừ khử những “bùa ngải” hại đời, hại người, không phải dùng “tỏi” để trừ “ngải”, quan niệm đó là sai lầm lớn. Bạn có thể trao cho người gọi là bị mắc ngải, chạy theo ngải bằng một vật lạ mắt khác, như một món quà sinh nhật, một cây bút máy đẹp, một thức ăn thơm, ngon, một vật lạ như búp bê, sẽ khử được “bùa ngải”. Phép cao hơn nữa là một ảnh Phật, một bài thần chú Đại Bi, chú Chuẩn Đề, phẩm kinh Phổ Môn, Kinh Pháp Hoa, giải bày những thuyết giải thoát hướng về tâm trí đại thừa, chắc chắn vị đó không còn bị vướng “bùa ngải” nữa! Vì tâm linh người kia hướng về vật thể mới lạ, không còn hướng đến “bùa ngải”, nên gọi là trị khử được “bùa ngải”.   Chơn thật tu hành nghiệp mới qua Mãi theo bùa ngải có chi mà Mê tín muôn đời là mê tín Nên tin Phật pháp vượt ái hà. Hãy đọc ngay bài viết này: Phải làm gì khi trúng bùa ngải để có cách phòng thân hiệu quả nhất bạn nhé! 


ST.

Bùa ngải và bản chất của huyền thuậtGiải mã câu chuyện bùa ngải nơi núi rừng Tây NguyênRùng rợn bùa ngải từ xác người

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải bùa ngải theo Phật giáo hữu hiệu nhất

Ý nghĩa những con số trong phong thủy

Người Trung Quốc có câu “3 với 3 là mãi mãi” (bất tận). Phong thủy cũng thường dùng con số 3 trong việc bài trí các đồ vật.
Ý nghĩa những con số trong phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, 9 con số cơ bản đều có thể dùng trong việc bài trí. Nhưng bạn biết gì về những con số đó?  

Con số 9 mang lại an lành, hạnh phúc

Số 1

Đây là con số của các vị thần thánh. Số 1 tượng trưng đỉnh núi cao, độc nhất vô nhị. Con người không thể nắm giữ vị trí này lâu dài vì nó có thể đơn độc. Chỉ có thần thánh mới có thể nắm giữ vị trí này mãi mãi.

Số 2

Đây là con số hạnh phúc (song hỷ) tượng trưng là một cặp, một đôi. Số 2 tượng trưng cho sự cân bằng âm dương, sự kết hợp để sinh ra vạn vật.

Số 3

Được xem là con số vững chắc như "kiềng 3 chân". Người Trung Quốc có câu “3 với 3 là mãi mãi” (bất tận). Phong thủy cũng thường dùng con số 3 trong việc bài trí các đồ vật.

Số 4

Là sự hình thành của 2 đôi. Nhưng trong cách phát âm tiếng Trung Quốc, nó giống như chữ “tử” (chết), do vậy sự kết hợp này không được tốt đẹp. Vì thế, thuật phong thủy luôn tìm cách tránh con số này.

Số 5

Tượng trưng cho danh dự và quyền lực. Nó còn có nghĩa là 5 hướng (Bắc, Nam, Đông, Tây và trung tâm); là 5 ngọn núi (Ngũ Hành sơn) thiêng liêng của Trung Quốc. Con số này tượng trưng cho trường thọ và bất diệt. Nó là con số được sử dụng nhiều trong phong thủy bài trí.

Số 6

Đây là bội số của số 3. Chính vì thế, nó được coi là điềm lành. Mặt khác, tổng của hai con số này bằng 9 cũng là con số đẹp. 3 con số đó tạo thành nhóm con số may mắn.

Số 7

Là con số có sức mạnh kỳ diệu. Con số này xuất hiện trong nghi lễ đạo Lão với 7 sao và 7 cây gươm. Nó tượng trưng cho sức mạnh đẩy lùi ma quỷ trong phong thủy. Sự bài trí 7 món đồ vật còn mang ý nghĩa của sức mạnh kỳ bí và sự bất khả xâm phạm.

Số 8

Con số này có liên quan đến tôn giáo là "8 điều bất tử" trong đạo Lão và "bát chính đạo" trong Phật giáo. Một cửa sổ hình bát giác, bình cắm hoa 8 mặt và bát quái (thường được treo trước ngưỡng cửa) sẽ rất tốt cho chủ nhà. Nó có thể ngăn những ảnh hưởng xấu đến ngôi nhà của bạn.

Số 9

Con số 9 được coi là con số hạnh phúc, an lành, thuận lợi. Theo cách đọc của tiếng Trung Quốc, số 9 đồng âm với từ "cửu", ý chỉ sự trường tồn và may mắn.

Ý nghĩa các con số trong phong thủy

Đối với khoa học tử vi phương tây, 9 con số này cũng được dùng trong việc bói tên, xem bói ngày sinh..nó được gọi là môn thần số học


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa những con số trong phong thủy

Đền Hoàng Bà - Hưng Yên

Đền Hoàng Bà - Hưng Yên được tạo dựng từ đầu thế kỷ XVII, thờ bà Trần Mã Châu, một vị nữ tướng tài ba đã cùng Hai Bà Trưng đánh tan quân Tô Định,
Đền Hoàng Bà - Hưng Yên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xuất phát từ trung tâm thành phố Hưng Yên, xuôi theo đê sông Hồng về phía đông khoảng 3km, ta sẽ thấy một ngôi đền toạ lạc trên gò đất cao, quay về hướng đông nam. Bên phải là dòng sông Hồng cuộn chảy, bên trái là con đê bao quanh như một bức tường thành. Phía trước là cánh đồng, phía sau là xóm làng, thấp thoáng nhà mái ngói, mái bằng trong những vườn nhãn xum xuê xanh mướt. Đó là Đền Hoàng Bà, xã Quảng Châu, thành phố Hưng Yên.

Lịch sử đền Hoàng Bà

Đền Hoàng Bà được tạo dựng từ đầu thế kỷ XVII, thờ bà Trần Mã Châu, một vị nữ tướng tài ba đã có công lao to lớn, cùng Hai Bà Trưng đánh tan quân Tô Định, giành lại độc lập cho đất nước.

Tương truyền, sau Trưng Vương lên ngôi được 3 năm thì quân Nam Hán lại sang xâm lược nước ta. Trần Mã Châu được lệnh ra quân quyết chiến với giặc. Quân giặc bao vây tứ phía. Trên mình ngựa, tay cầm song kiếm, bà tả xung hữu đột, thấy giặc ngổn ngang. Được nửa ngày, gió thổi làm lộ thân hình, tướng giặc biết đó là nữ liền hô to: “Sĩ tốt khoả thân mà đánh” khiến bà lúng túng, bị thương, quay ngựa chạy về đến Bảo Châu thì hoá. Đó là ngày 3/3 năm Ất Mùi (năm 43 sau CN)

. Dân làng nơi đây đã lập đền thờ, tế lễ để ghi công đức của Hoàng Bà. Cảm phục và thương xót bậc lương thần đã quên mình vì nước, Trưng Vương truy phong cho Bà là “Thượng đẳng Phúc thần” và chuẩn phê cho làng Bảo Châu là nơi đền chính, phụng sự tế tự.

Tương truyền đền Hoàng Bà rất linh thiêng. Các triều đại nối tiếp về sau đứng lên dẹp giặc, gây dựng cơ đồ đều được Châu Nương linh thiêng hiển ứng, âm phù giúp nước, nên lại được phong: “Thượng đẳng tối linh anh linh hiển ứng” . Đến nay đền còn giữ được 7 sắc phong qua các triều đại. Triều Lê Thái Tổ phong cho Bà là: “Phương Dung trinh thục mĩ nga nhân Uyển Huệ Hoà công chúa.” Gần đây nhất là triều Khải Định năm thứ 4 (tháng 7 năm 1919), sắc phong cho Bà là: “Trinh tĩnh Trung đẳng thần”.

Kiến trúc đền Hoàng Bà

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đền Hoàng Bà đã nhiều lần phải trùng tu tôn tạo, song vẫn luôn giữ được nét xưa; uy nghi, giản dị, thanh tao. Hiện đền còn giữ được khá nhiều hiện vật quý giá, như: kiệu bát cống, kiệu võng, kiệu Bà, đại tự, hoành phi, câu đối, ca ngợi công đức Hoàng Bà với nhiều nội dung sâu sắc. Đặc biệt, đền còn giữ được bức tượng Hoàng Bà bằng gỗ quý rất đẹp từ thời Bà còn sống.

Hàng năm, đền mở hội từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Con em quê hương ở khắp mọi nơi cùng khách thập phương nô nức về dự hội, tưởng nhớ người nữ tướng anh hùng của dân tộc và ôn lại truyền thống chống ngoại xâm của ông cha ta.

Năm 1997, Đền Hoàng Bà đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Đây mãi sẽ là nơi tôn vinh, tri ân công đức của Hoàng Bà – vị nữ anh hùng dân tộc trong buổi đầu dựng nước, nơi bồi đắp lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc cho muôn đời con cháu mai sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Hoàng Bà - Hưng Yên

Tất tật những điều cần biết để bố trí phòng ngủ chuẩn phong thủy

Những phòng ngủ chuẩn phong thủy không chỉ có vị trí giường phù hợp mà bạn còn phải luôn lưu ý dọn dẹp để căn phòng luôn được sạch sẽ, thông thoáng.
Tất tật những điều cần biết để bố trí phòng ngủ chuẩn phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Để sắp xếp phòng ngủ chuẩn trong phong thủy phải đảm bảo hỗ trợ cho 3 chức năng chính của phòng ngủ đó là: ngủ, thư giãn và đảm bảo đời sống tình dục. Nguyên tắc phong thủy trong phong ngủ đảm bảo các yếu tố trên và vị trí của đồ nội thất phải giúp tăng cường sức khỏe và hạnh phúc cho gia chủ. Những nguyên tắc đó cũng phải đảm bảo tính liên tục dòng chảy năng lượng những vẫn cân bằng được năng lượng âm - dương.  

1. Bố trí phòng ngủ chuẩn phong thủy

 

1.1. Tránh luộm thuộm

  Để tạo sự cân bằng năng lượng tốt, trước tiên phòng ngủ phải sạch sẽ và dọn dẹp các thiết bị không liên quan. Bụi bẩn và và các đồ vật trong phòng là tác nhân của năng lượng trì trệ ,có thể là nguyên nhân dẫn đến bệnh tật, bất hòa, hao hụt tiền của các thành viên trong gia đình.    Các chuyên gia phong thủy nhận định: "Một trong những nguyên nhân chính gây căng thẳng trong gia đình là do sự lộn xộn, luộm thuộm trong phòng ngủ".  

1. 2. Vị trí giường ngủ 

  Các quy tắc phong thủy cho vị trí nội thất phòng ngủ rất quan trọng và cần được tuân thủ. Nếu kích thước hay cấu trúc của căn phòng, đặc biệt là vị trí cửa sổ không hợp phong thủy thì phải áp dụng các cách hóa giải để khắc phục.    Là đồ nội thất lớn nhất trong phòng và là nơi bạn nghỉ ngơi nên chiếc giường đặc biệt quan trọng khi xem xét về vấn đề phong thủy. Nếu đặt sai vị trí có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của bạn.   Vị trí lý tưởng cho giường là khi giường và cửa chính tạo thành đường chéo. Vị trí này mang đến cho bạn sự riêng tư và bạn có thể quan sát được ai ra vào phòng ngủ.
 
Không bao giờ đặt giường đối diện với cửa ra vào vì khi đó chân bạn ngủ hướng ra cửa, đây được xem là vị trí quan tài mang đến sự xui xẻo và sự bất hạnh trong cuộc sống của bạn.
 
Ngoài ra, nên tránh đặt giường phía trước hoặc bên dưới cửa sổ vì đây là vị trí năng lượng đi vào và đi ra khỏi phòng. Nếu giường của đặt vị trí này năng lượng sẽ chảy qua người bạn gây cảm giác bồn chồn, mất ngủ cho ai nằm trên giường. Ngoài ra, không đặt nệm trực tiếp trên sàn nhà, không bao giờ đặt giường tựa vào bức tường chung với phòng tắm.

Bạn có thể xem thêm: 3 mẫu phòng ngủ phạm phong thủy tuyệt đối phải tránh
 
 
Tat tat nhung dieu can biet de bo tri phong ngu chuan phong thuy  hinh anh
 

1.3. Nội thất phòng ngủ

  Khi nói đến đồ nội thất phòng ngủ mọi người thường nghĩ chỉ cần tuân theo các quy tắc phong thủy như những phòng còn lại trong nhà. Theo các chuyên gia về phong thủy, phòng ngủ là nơi nhiều năng lượng âm nhất trong nhà. Hãy xem như đó là nơi kín đáo nhưng thoải mái: Tối, ấm cúng, nhỏ. Có 3 nguyên tắc chính cho phòng ngủ cần tránh:   - Vị trí chặn đường tự nhiên của năng lượng lưu thông qua cửa ra vào.
 
- Vị trí mà có mũi tên độc hướng về phía giường. Mũi tên độc được tạo ra bất cứ khi nào bạn đặt tủ hoặc tủ quần áo tạo thành cạnh sắc nhọn hướng vào giường.

- Quá nhiều đồ nội thất trong phòng

 
Nếu không thể tránh đặt đồ nội thất không tạo ra mũi tên độc, bạn có thể khắc phục bằng cách treo một quả cầu pha lê nhiều mặt trên trần nhà với vị trí nằm giữa mũi tên độc và giường. Một giải pháp khác là sử dụng vật ốp để che giấu hoặc làm mềm các góc cạnh. Bạn có thể đặt 2 tủ đầu giường ở hai bên giường nhưng đảm bảo rằng chúng không cao hơn đệm vì chúng sẽ tạo thành mũi tên độc.   Nếu cửa tủ của bạn gương nên đặt tủ ở nơi không có hình ảnh phản chiếu của giường. Nếu không còn cách nào, bạn phải che gương khi ngủ.

Bạn có thể tham khảo thêm: Lưu ý phong thủy cho từng loại phòng ngủ để hạnh phúc viên mãn

Tat tat nhung dieu can biet de bo tri phong ngu chuan phong thuy  hinh anh 2
 
 

1.4. Gương

  Gương có thể được sử dụng trong phòng ngủ nhưng bạn phải thận trọng. Có những vị trí bạn cần tránh như đặt gương phản chiếu hình ảnh giường ngủ vì đây là nguyên nhân của sự không chung thủy, là cơ hội cho người thứ 3 xuất hiện trong cuộc hôn nhân của bạn.    Nếu bạn phải đặt giường ở vị trí không nhìn thấy cánh cửa chính phòng ngủ, bạn có thể đặt gương để bạn có thể nhìn thấy cánh cửa phòng và chỉ cần đảm bảo không phản chiếu hình ảnh người năm trên giường là được.  

1.5. Bàn và đồ điện tử
 

Lời khuyên tốt nhất cho bạn là nên tránh đặt bàn và gương trong phòng ngủ.
 
Phòng ngủ không nên là nơi làm việc, vì vậy đừng đặt bàn trong phòng ngủ của mình. Đây là một ý tưởng tồi ảnh hưởng phong thủy phòng ngủ khi nhà nhỏ và muốn tối diện tích trong phòng. Để khỏe mạnh và tĩnh dưỡng, nên tách biệt phòng ngủ và nơi làm việc. Điều này cũng tương tự với đồ điện tử, bạn cũng không nên cho vào phòng vì dòng điện phát ra từ đồ vật này ảnh hưởng tới giấc ngủ của bạn.    Hầu hết các chuyên gia phong thủy tin rằng tất cả thiết bị điện tử tuyệt đối không nên cho vào phòng ngủ. Đặc biệt là tivi, khi bật tivi lên nghĩa là bạn đang mời người lạ vào phòng ngủ của mình, mang thế giới ngoài kia vào chốn riêng tư, đó là nguyên nhân vợ chồng không dành được sự quan tâm đặc biệt cho nhau vì quá nhiều sự sao nhãng.    Trong thực tế, mọi người thường để tivi và máy tính xách tay vào phòng ngủ vì họ không thể thoát khỏi công nghệ hiện đại. Vì thế, có thể xem xét giải pháp là đặt tivi vào trong chiếc tủ để có thể đóng tủ lại sau khi xem xong, còn máy tính xách tay cũng phải được tắt, cất đi khỏi tầm mắt khi không dùng. Bằng cách đó ít nhất là không làm ảnh hưởng nhiều tới không gian nghỉ ngơi trong gia đình bạn.
 
 
Tat tat nhung dieu can biet de bo tri phong ngu chuan phong thuy  hinh anh 3
 

1.6. Tường

  Bạn có thể trang trí các bức tường phòng ngủ bởi màu sắc, kết cấu, hoa văn và tác phẩm nghệ thuật. Bạn có thể sử dụng hướng la bàn để hỗ trợ bạn trong việc lựa chọn màu sắc. Ưu tiên chọn màu sắc tĩnh, nhẹ nhàng như kem, đào, và màu hồng nhạt, vàng nhạt.   Khi bạn chọn những hình ảnh nghệ thuật để trang trí tường, nên chọn hình ảnh chủ đạng mang ý nghĩa hạnh phúc và yên tĩnh. Hình ảnh thiên nhiên và chủ đề có đôi có cặp, chẳng hạn như hai chú vịt, thiên nga quất quýt, hoặc hoa đào, thúc đẩy sự lãng mạn và tạo không khí thư giãn.  

1.7. Vị trí phòng ngủ 

  Vị trí lý tưởng của phòng ngủ là phải thỏa mãn điều kiện tránh xa từ bất kỳ cửa nhà  mở ra thế giới bên ngoài.

Tránh ngủ dưới  mái nhà dốc. Nếu bạn phải ngủ dưới một mái nhà dốc, có thể sử dụng một chiếc giường có màn để làm suy yếu ảnh hưởng xấu. 
 

2. Mẹo áp dụng phong thủy phòng ngủ 

  - Nếu phòng ngủ của bạn cũng được tận dụng làm nơi làm việc, nên chọn đồ nội thất có thể gấp gọn sau khi sử dụng để chúng khỏi tầm nhìn khi không được sử dụng.
 
- Nếu tủ của bạn có gương phải phủ kín gương trước khi ngủ.   - Đầu giường vững chắc sẽ đảm bảo bạn có một giấc ngủ ổn định vì nó đóng vai trò như một bức tường ngăn cách bạn khỏi thế giới bên ngoài.
 
- Bạn có thể kích hoạt khu vực bằng cách đặt các yếu tố phong thủy trong phòng ngủ của bạn. Ví dụ, nếu muốn kích hoạt vị trí giàu có thuộc khu vực Đông Nam của phòng ngủ có thể đặt ba đồng tiền kim loại có gắn dải ruy băng đỏ vào vị trí này. Cải thiện hoặc tăng cường hạnh phúc gia đình hoặc các mối quan hệ tình cảm bằng một cặp vịt hồng trên đầu giường.
 
- Đừng tốn diện tích phòng ngủ của bạn với các đồ vật không liên quan.
- Giữ quần áo gọn gàng trong ngăn kéo và tủ quần áo.

- Thường xuyên dọn sạch tủ quần áo và giường.

- Không lưu trữ đồ bên dưới tủ hoặc giường.
 
- Không sử dụng phòng ngủ của bạn như một khu vực lưu trữ đồ vật.
- Không bao giờ đặt đồ vật mang hành Thủy hoặc bức tranh cảnh nước trong phòng ngủ. Điều này mang lại quá nhiều năng lượng dương và khiến bạn bị bồn chồn khi ngủ.

- Không nên trồng cây trong phòng ngủ của bạn vì chúng hút quá nhiều năng lượng dương.

- Sử dụng ánh sáng nhẹ nhàng, tránh sử dụng ánh sáng quá mạnh.

- Tránh đặt giường dưới vị trí xà ngang vì như thế ảnh hưởng tới giấc ngủ và thậm chí mang đến cả bệnh tật. 

- Khắc phục bất kỳ mũi tên độc được tạo ra bởi các góc nhọn của đồ nội thất hoặc sắp xếp lại vị trí đồ nội thất trong phòng.
 

3. Trang trí phòng ngủ

  Tất cả những gì bạn đặt trong phòng ngủ đều có ảnh hưởng không ít thì nhiều tới dòng chảy của năng lượng. Khi trang trí phòng ngủ, bạn phải đảm bảo dòng chảy năng lượng trơn tru giữa các cửa phòng ngủ và cửa sổ.

Cách giữ cho dòng chảy năng lượng không bị ngắt quãng đó là không nên để đồ lộn xộn và tránh đồ nội thất quá lớn vì chúng ngăn chặn, gây đình trệ năng lượng tốt trong phòng ngủ của bạn.

Không ai có thể đảm bảo 100% mọi thứ đúng phong thủy nhưng bạn cũng nên lưu ý những yếu tố cơ bản để đảm bảo cho phòng ngủ bố trí hài hòa để có được cuộc sống hạnh phúc, an yên.

Tham khảo thêm bài viết sau: Lỗi phong thủy phòng ngủ “tử hình” hôn nhân

Phin Phien

Những lỗi phong thủy phòng ngủ khiến vợ chồng không hòa hợp Phong thủy phòng ngủ: Có nên lắp đặt điều hòa ở đầu giường? Áp dụng những mẹo phong thủy phòng ngủ để đếm tiền mỏi tay

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tất tật những điều cần biết để bố trí phòng ngủ chuẩn phong thủy

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Lễ Hội Đền Bà Chúa được tổ chức vào ngày 30 tháng 7 âm lịch tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Hội Đền Bà Chúa

Thời gian: tổ chức vào ngày 30 tháng 7 tới ngày 2 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn công chúa Túc Trinh - người con thứ 4 của vua Trần Thánh Tông (là người có công khai hoang phục hóa, tạo dựng nên xóm làng).

Nội dung: Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày và có sự tham gia của nhân dân hai làng An Hội và Cổ Nhuế.

Ngày 30/7:

Sáng quân kiệu nam bao sái kiệu và chuyển giá văn ở đình về đền, sau đó đội tế lễ mang lễ lên mộ chúa để làm lễ tế cáo Chúa tại đền. Chiều ban tế và đội dâng hương An Hội cúng tế chúa,  đến đêm các cụ trong đội tế làm lễ mở cửa đền.

Ngày 01/08:

Rạng sáng được bắt đầu với lễ mộc dục và cúng thức. Lễ mộc dục được một bô lão trong làng đảm nhiệm trong trang phục lễ hội truyền thống, đầu đội khăn xếp, quần trùng, áo dài, chân đi hài vân sảo, tất cả đều màu đỏ. Nước làm lễ mộc dục phải là nước mưa tinh khiết nấu với ngũ vị hương. Trước khi làm lễ, vị bô lão rửa tay gọi là quán tẩy, vẩy nước hoa vào người, xoa lên mặt, đầu và hai tay, gọi là tẩy uế. Sau khi làm lễ mộc dục cho Chúa Bà, các đồ mã cũ đem đốt, dâng đồ mới.

Lễ mộc dục xong là đến lễ cúng thức, ông chủ tế đọc chúc văn, nội dung ca ngợi công đức của công chúa Túc Trinh đối với dân làng Cổ Nhuế từ xưa tới nay, cầu xin hồng ân của trời đất, phật, thánh, Chúa Bà ban phúc lành cho quốc thái, dân an.

Khoảng 8h sáng sau khóa lễ cúng phật tại chùa Anh Linh đội tế về đền Chúa làm lễ tế khai quang, yên vị xin Chúa cúng giỗ. Ngày giỗ Chúa gọi là cúng đối kỵ, có dâng lục cúng: hương, hoa, trà, quả, đăng, thực. Lễ cúng thực gồm có: Cơm tẻ nấu bằng gạo lật, muối vừng, trám đen muối, giá luộc, tương, canh đậu xanh; sau nghi lễ cúng thực dâng chè kho, chè lam và kẹo lạc. Cỗ làm trong lễ hội là cỗ chay với những sản vật trong từng nhà sản xuất được đem dâng lễ tại đền như: mít, dừa, lựu, chuối, na, cam, mía, khoai luộc... Sau lễ khai quang là các đoàn của các làng xã lân cận và dân chúng thập phương vào dâng hương lễ Chúa đến tận xế chiều. (Ngày 02/08).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Phong thủy cầu thang –

Không đặt cầu thang ở trung tâm ngôi nhà, tránh xây nhà vệ sinh ở gầm cầu thang hay không xây bậc lên xuống hở. 1. Không xây bậc lên xuống hở Cầu thang phải luôn được xây hoàn chỉnh và không hở ở các bậc. Khi đó, các nguồn vượng khí sẽ không bị phân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không đặt cầu thang ở trung tâm ngôi nhà, tránh xây nhà vệ sinh ở gầm cầu thang hay không xây bậc lên xuống hở.

1. Không xây bậc lên xuống hở

Cầu thang phải luôn được xây hoàn chỉnh và không hở ở các bậc. Khi đó, các nguồn vượng khí sẽ không bị phân tán, chạy theo dòng xuyên suốt lên các phòng tầng trên. Hơn nữa, cầu thang kín còn đảm bảo an toàn cho trẻ nhỏ trong nhà hơn cầu thang hở.

a1a-8335-1397267108

 

2. Vị trí chân cầu thang

Chân cầu thang không nên xây đặt ngay tại cửa, như cửa ra vào hoặc cửa phòng ngủ. Nếu như vậy, nó sẽ tạo ra luồng khí độc gây hại cho gia đình như tiêu tán gia sản, mất lộc, gặp các vấn đề sức khỏe ở đầu và cổ. Nếu chân cầu thang kết thúc ngay trước cửa phòng ngủ, những người thường xuyên nghỉ tại phòng này sẽ gặp các vấn đề về tài chính (tiêu hao tài sản, mất mát) và sức khỏe (trầm cảm, suy tuyến giáp).

Nếu chân cầu thang kết thúc đối diện ngay trước cửa chính của ngôi nhà thì bạn có thể phong tỏa nguồn khí độc bằng cách giữ cho phần hành lang và cầu thang luôn sáng sủa, thoáng khí. Ngoài ra, hãy lắp cửa nhà bằng kính để ngăn không cho vượng khí thoát ra ngoài. Bạn cũng có thể treo một quả cầu pha lê giữa cầu thang và cửa trước; cũng như lắp một tấm gương nhỏ ở mặt sau cánh cửa, đối diện với cầu thang để giúp cho vượng khí lên tới tầng trên.

3. Hình dáng cầu thang

Cầu thang cong theo kiểu mềm mại được cho là tốt nhất vì khi đó nguồn khí tốt trong nhà sẽ được lưu chuyển đều đặn lên các tầng trên. Trong khi đó, cầu thang xoắn ốc, đặc biệt là khi được xây đối diện với cửa trước hoặc ở giữa nhà sẽ khiến cho gia chủ hao tán tài sản và gặp các vấn đề về sức khỏe.

4. Không xây cầu thang cắt góc

Cầu thang xây hình dáng cong là thiết kế tốt nhất cho mọi ngôi nhà. Tuy nhiên, nhiều gia đình vì không biết hay tiết kiệm không gian đã xây cầu thang cắt góc. Điều này khiến cho gia chủ cùng các thành viên không có nhiều thành công trong cuộc sống, thậm chí gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ lớn. Việc này càng hại hơn khi cầu thang cắt góc nằm đối diện với cửa ra vào chính. Để khắc phục điểm này, bạn có thể đặt một chậu cây cảnh nơi cắt góc cầu thang để hạn chế góc cạnh và tạo đường cong cho cầu thang.

5. Coi trọng vị trí cầu thang

Cầu thang nên nằm ở vị trí phía bên phải hoặc bên trái nhà. Không xây cầu thang ở trung tâm ngôi nhà vì điều này có thể khiến gia đình bị rạn nứt hoặc ly tán, tài sản bị tiêu hao, gây mất mát những cơ hội lớn và lỡ những mối quan hệ quan trọng trong cuộc đời. Thêm nữa, cầu thang đặt ở giữa nhà và còn nằm đối diện với cửa ra vào sẽ khiến gia chủ gặp vấn đề về sức khỏe.

Ngoài 5 nguyên tắc trên, bạn cần lưu ý một số điều sau đây để có được cầu thang tạo ra các nguồn năng lượng ngũ hành tốt:

Thảm cầu thang: Không nên dùng thảm màu đỏ vì nó gây cảm giác không an toàn. Thay vào đó, bạn có thể sử dụng các loại thảm màu gỗ, hoặc sử dụng gạch hoa.

Gầm cầu thang: Không để các công trình nước tại đây, ví dụ đài phun nước, bình thủy sinh, bể cá… vì điều này có tác dụng xấu đến trẻ con trong nhà. Thay vào đó, bạn có thể biến nơi đây thành một không gian chứa đồ tuyệt vời như kệ sách hay nơi chứa đồ du lịch.

Phòng vệ sinh dưới cầu thang: Xây dựng nhà vệ sinh ở gầm cầu thang, đặc biệt là cầu thang ở trung tâm ngôi nhà sẽ tạo nên những nguồn khí có hại cho toàn thể thành viên trong nhà, đặc biệt là trẻ con.

Cửa sổ ở cầu thang: Nếu cầu thang nhà bạn hướng lên hoặc kết thúc ở nơi có cửa sổ thì ngôi nhà có thể bị mất hết năng lượng tốt. Hãy khắc phục điểm này bằng cách cố định cửa sổ bằng tấm gỗ hoặc tấm kính màu để các nguồn khí khi lên cầu thang không bị hút ra ngoài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cầu thang –

Cách lựa chọn tầng chung cư theo phong thủy –

Mỗi một nguyên tố ngũ hành không tồn tại độc lập mà dựa vào nhau, chi phối lẫn nhau. Đây chính là quy luật tương sinh tương khác. Lựa chọn tầng nhà nên dựa vào tính tương sinh, tương trợ của ngũ hành. Ngày nay khi các chung cư mọc lên như nấm, việc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi một nguyên tố ngũ hành không tồn tại độc lập mà dựa vào nhau, chi phối lẫn nhau. Đây chính là quy luật tương sinh tương khác. Lựa chọn tầng nhà nên dựa vào tính tương sinh, tương trợ của ngũ hành.

Ngày nay khi các chung cư mọc lên như nấm, việc mua nhà tầng để ở, thuê văn phòng trong các chung cư, tòa nhà cũng vô cùng phổ biến. Trong phong thủy, nếu ngũ hành của tầng nhà tương sinh với mệnh của gia chủ thì cát tường, ngược lại thì không tốt cũng không xấu chứ không đến mức hung sát.

Ngũ hành của tầng nhà như sau:

Tầng 1 và 6 thuộc Thủy; tầng 2 và 7 thuộc Hỏa; tầng 3 và 8 thuộc Mộc; tầng 4 và 9 thuộc Kim; tầng 5 và 10 thuộc Thổ. Nếu số tầng lớn hơn 10 thì dựa vào phần đuôi đẻ tính, ví dụ: tầng 19 có số 9 thuộc Kim, vậy tầng 19 thuộc Kim.

chung-cu-phong-thuy

Căn cứ vào năm sinh để xác định tầng nhà:

Người sinh năm Tý (cầm tinh con chuột) có ngũ hành thuộc Thủy: Hợp Kim (tầng 4 và 9), Thủy (tầng 1 và 6), bình thường Hỏa (tầng 2 và 7).

Người sinh năm Sửu (cầm tinh con trâu) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Dần (cầm tinh con hổ) có ngũ hành thuộc Mộc: Hợp Thủy (tầng 1 và 6), Mộc (tầng 3 và 8), bình thường Thổ (tầng 5 và10).

Người sinh năm Mão (cầm tinh con mèo) có ngũ hành thuộc Mộc: Hợp Thủy (tầng 1 và 6), Mộc (tầng 3 và 8), bình thường Thổ (tầng 5 và 10).

Người sinh năm Thìn (cầm tinh con rồng) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Tỵ (cầm tinh con rắn) có ngũ hành thuộc Hỏa: Hợp Mộc (tầng 3 và 8), Hỏa (tầng 2 và 7), bình thường Kim (tầng 4 và 9).

Người sinh năm Ngọ (cầm tinh con ngựa) có ngũ hành thuộc Hỏa: Hợp Mộc (tầng 3 và 8), Hỏa (tầng 2 và 7), bình thường Kim (tầng 4 và 9).

Người sinh năm Mùi (cầm tinh con dê) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Thân (cầm tinh con khỉ) có ngũ hành thuộc Kim: Hợp Thổ (tầng 5 và10), Kim (tầng 4 và 9), bình thường Mộc (tầng 3 và 8).

Người sinh năm Dậu (cầm tinh con gà) có ngũ hành thuộc Kim: Hợp Thổ (tầng 5 và 10), Kim (tầng 4 và 9), bình thường Mộc (tầng 3 và 8).

Người sinh năm Tuất (cầm tinh con chó) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Hợi (cầm tinh con lợn) có ngũ hành thuộc Thủy: Hợp Kim (tầng 4 và 9), Thủy (tầng 1 và 6), bình thường Hỏa (tầng 2 và 7).

Tuy nhiên mỗi nhà đều có nhiều người cầm tinh khác nhau, nên mệnh gia chủ là tính mệnh của người đứng tên căn nhà (thường là người đàn ông trong nhà) hoặc là người quản lý chi tiêu trong nhà (nếu không lấy theo người đứng tên).

Cách này khi chọn tầng văn phòng, lấy theo mệnh của người đứng đầu công ty (trên giấy tờ, hoặc là người quản lý trực tiếp ở vị trí cao nhất).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lựa chọn tầng chung cư theo phong thủy –

Chuyên gia giải thích cách tính năm nhuận chính xác

Theo ThS. Trần Tiến Bình - nguyên cán bộ Phòng Nghiên cứu Lịch (Trung tâm Thông tin Tư liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam): "Cách tính năm nhuận âm lịch theo quy luật 19 năm hay tính năm nhuận dương lịch theo quy tắc cứ 4 năm một lần đều hoàn toàn không chính xác".

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Về việc năm 2014 có nhuận tháng 9 hay không, phóng viên đã phỏng vấn chuyên gia nghiên cứu lịch Trần Tiến Bình - người từng công tác tại Viện Hàn Lâm KH&CN VN.

Thạc sĩ Trần Tiến Bình có kinh nghiệm công tác lâu năm tại Ban Lịch Nhà nước, sau này là Phòng Nghiên cứu Lịch (Trung tâm Thông tin Tư liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Ông Trần Tiến Bình cũng là người trực tiếp biên soạn lịch phát hành rộng rãi trong cả nước.

Trao đổi với phóng viên, ThS. Trần Tiến Bình cho biết, tính lịch phải dùng tới các mô hình thiên văn tiên tiến nhập hàng đống dữ liệu để lập trình tính chứ không thể tính nhẩm được.

 
Thưa ông, hiện tại có khá nhiều những ngộ nhận về việc tính lịch năm nhuận. Ông có thể cho biết một số những sai lầm phổ biến về cách tính lịch?

Còn một vài điều theo tôi là những lỗi rất phổ thông.

Thứ nhất cần phân biệt giữa nhuận trong âm lịch và dương lịch. Năm nhuận của dương lịch chỉ thêm 1 ngày, tức tháng 2 có 29 ngày chứ không có tháng nhuận như âm lịch.

Thứ hai, về dương lịch không phải cứ 4 năm (chia hết cho 4) có một năm nhuận, thí dụ năm 1900 hay 2100 không phải là năm nhuận mặc dù các năm này chia hết cho 4.

Thứ ba, ai đó nói cứ 3 năm âm lịch có 1 năm nhuận cũng không chính xác, thí dụ các năm 2004, 2006, 2012, 2014 đều là các năm nhuận nhưng chỉ cách nhau 2 năm.

Thứ tư, quan niệm cho rằng âm lịch của chúng ta thuần tuý tuân theo tuần Trăng cũng không đúng, như tôi sẽ giải thích ở phần sau, âm lịch mà chúng ta đang sử dụng phải gọi chính xác là lịch âm dương, vì nó vừa tuân theo chuyển động của Mặt Trăng, vừa theo chuyển động của Mặt Trời.

Vậy, cách tính năm nhuận dương lịch chính xác nhất là như thế nào, thưa ông?

Những năm có số chia hết cho 4 được gọi là năm nhuận dương lịch chỉ đúng một phần. Riêng đối với những năm có tận cùng 2 số 0 phải chia hết cho 400 mới là năm nhuận như năm 2000! Như vậy độ dài trung bình của năm dương lịch hiện nay (còn gọi là Tân lịch hay lịch Gregorius) là 365.2425 chứ không phải 365.25 (365 1/4), độ dài 365 1/4 là độ dài của Cựu lịch (lịch Julius) đã thôi không sử dụng trên thế giới từ năm 1582 khi Giáo hoàng Gregorius XIII ban hành sắc lệch cải cách lịch.

Còn đối với cách tính năm nhuận âm lịch thì ra sao, thưa ông?

Ngày mồng một âm là ngày mà Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời theo thứ tự nằm thẳng hàng, Mặt trăng quay nửa tối về phía Trái đất (nên người ta thường nói tối như đêm 30), thời điểm này gọi là thời điểm không trăng, hay thời điểm Sóc.

Để có lịch không những tuân theo tuần trăng mà còn phù hợp với thời tiết khí hậu người xưa đưa vào lịch cả các yếu tố liên quan đến vị trí của Trái đất trên quỹ đạo quanh Mặt trời.

Theo ThS. Trần Tiến Bình: "Để có lịch không những tuân theo tuần trăng mà còn phù hợp với thời tiết khí hậu người xưa đưa vào lịch cả các yếu tố liên quan đến vị trí của Trái đất trên quỹ đạo quanh Mặt trời".

Người tính lịch sẽ tính liên tiếp các thời điểm thẳng hàng hay thời điểm Sóc. Nếu hai thời điểm Sóc kế tiếp (sau khi làm tròn đến ngày, không tính giờ) cách nhau 29 ngày thì tháng đó thiếu, còn cách nhau 30 ngày thì là tháng đủ.

Như vậy, ta có lịch theo tuần trăng, ta còn gọi là lịch âm lịch, giống như lịch Hồi giáo. Và lịch này sẽ bị lệch một cách hệ thống so với năm thời tiết vì 12 tháng âm tổng cộng chỉ có trung bình xấp xỉ 354.36 ngày, hụt mất gần 11 ngày so với dương lịch.

Để có lịch không những tuân theo tuần trăng mà còn phù hợp với thời tiết khí hậu, người xưa đưa vào lịch cả các yếu tố liên quan đến vị trí của Trái đất trên quỹ đạo quanh Mặt trời ( hay vị trí của Mặt trời di chuyển trên Hoàng đạo nếu nhìn từ Trái đất).

Và do vậy lịch chúng ta đang dùng gọi chính xác là lịch âm dương. Như vậy, vấn đề là để đưa lịch âm cho phù hợp với chuyển động của Trái đất quanh Mặt trời (tức lịch dương) thì ta phải chèn tháng nhuận để cho phù hợp. Vậy chèn như thế nào, không phải theo chu kỳ 19 năm.

Muốn tính tháng nào có nhuận, người ta phải dựa vào tính giữa ngày Đông Chí (khoảng 21 tháng 12 dương lịch) năm này và năm sau có bao nhiêu điểm sóc. Nếu có 12 điểm sóc thì tháng đủ. Nếu có 13 điểm sóc thì cần phải chèn tháng nhuận vào. Như vậy, ta xác định được năm nào có nhuận.

Để biết tháng nhuận là tháng mấy thì phải tính thêm các trung khí để biết có tháng nhuận trong năm hay không. Trong năm nhuận tháng không có Trung khí là tháng nhuận, tháng này đánh số trùng với tháng trước nó (thêm chữ nhuận). Nếu trong năm nhuận có hai tháng không có Trung khí thì tháng đầu tiên sau Đông chí được coi là tháng nhuận.

Việc tính chính xác lịch có ý nghĩa như thế nào, trong quá khứ, có thời điểm nào lịch Việt Nam bị sai lệch hay không, thưa ông?

Khi bắt tay vào tính lịch năm 2000 chúng tôi đã thấy là lịch Việt Nam năm 1997 bị sai một chỗ vì ngày mồng 1 âm lịch rơi vào 23 giờ 56 phút ngày 29 tháng 12 chứ không phải phải là ngày 30 tháng 12 như công bố, nhưng vì là quá khứ nên chúng ta không xét lại.

Và ngay cả lịch Trung Quốc do Đài thiên văn Tử Kim Sơn công bố cũng có điểm sai lệch so với dữ liệu của Đài thiên văn Naval (Hoa Kỳ), điều này chúng tôi kiểm chứng qua trao đổi với Gs. E. M. Reingold (Hoa Kỳ) một chuyên gia hàng đầu thế giới về lịch pháp...!

 1. Ngày mồng 1 âm lịch, lúc Trái đất, Mặt Trăng, Mặt trời nằm thẳng hàng (điểm Sóc) có phải là Nhật thực không?

Thời điểm xảy ra Nhật thực luôn luôn rơi vào ngày mồng 1 âm (ngày Sóc) nhưng ngày Sóc chưa chắc đã có Nhật thực. 

Trong một tháng âm lịch luôn có ngày Sóc và ngày Trăng tròn nhưng không phải lúc nào cũng xẩy ra Nhật thực hay Nguyệt thực vì mặt phẳng chuyển động của Mặt trăng (gọi là Bạch đạo) nghiêng hơn 5 độ so với mặt phẳng chuyển động của Trái đất (Hoàng đạo).

Nhật thực hay Nguyệt thực chỉ xẩy ra khi các vị trí Sóc và Trăng tròn nằm cạnh một trong hai điểm giao nhau giữa Bạch đạo và Hoàng đạo, gọi là Tiết điểm.

2. Thời đại thông tin hiện nay liệu có thể đưa ra vài công thức đơn giản để bạn đọc tự lập trình tính lịch?

Hoàn toàn có thể nhưng các thuật toán và bảng số liệu sẽ chiếm nhiều trang giấy, chưa kể có bài toán độc giả phải tự giải và tìm ra thuật toán vì không có sẵn, tôi giới thiệu các bước tính và tài liệu tham khảo trong sách ở dưới. 

Có những thuật toán ngắn hơn nhưng lại không chính xác, chẳng hạn thời điểm Sóc chỉ cho phép chính xác đến ngày chứ không đến phút!

3. Thời điểm trước đó các cụ ta tính lịch như thế nào?

Người xưa đã phát triển các mô hình tính toán bằng các phương trình bậc thấp rồi cao dần kết hợp với đo đạc, quan trắc thiên văn như quan Thái Sử Cục Đặng Lộ (đời Trần) đã chế ra Lung linh nghi để khảo sát thiên tượng. 

Cố Gs. Hoàng Xuân Hãn trong cuốn "Lịch và lịch Việt Nam", (đây là một trong các công trình được xét tặng Giải thưởng HCM) cũng đã phải lập trình để phục tính lịch thời Lê, phép lịch có tên là Đại Thống, trong quá trình phát triển đã có hàng chục phép lịch như vậy với độ chính xác tăng dần theo thời gian.

Khi in cuốn sách vào năm 1982 Gs. Hoàng Xuân Hãn cũng chỉ đề nghị các nhà làm lịch sau này dựa vào 4 điểm Khí được phương Tây công bố rồi ước lượng trung bình các Khí khác chứ không ngờ rằng sau đấy với sự phát triển của khoa học bây giờ chúng ta có thể tính chính xác 24 Khí.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyên gia giải thích cách tính năm nhuận chính xác

Thập tiện: 10 loại địa hình xấu

Thập tiện là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca về 10 kiểu địa hình xấu rất kỵ trong việc an táng.
Thập tiện: 10 loại địa hình xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thập tiện là một trong 10 bí quyết của Cửu Ca về 10 kiểu địa hình xấu, rất kỵ trong việc an táng.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

1. Nhất tiện, bát phong xúy huyệt: Bát phong là gió từ 8 hướng thổi vào huyệt làm khí tiêu tán.

2. Nhị tiện, Chu Tước tiêu sách: là gò Chu Tước trước mộ vô tình, không triều bái, không nhảy múa.

3. Tam tiện, Thanh Long phi khứ: chỉ gò Thanh Long không ôm huyệt mộ có thế bay đi.

4. Tứ tiện, Thủy Khẩu phân lưu: nước ở cửa sông chảy đi không bao huyệt mộ.

5. Ngũ tiện, bãi đầu kiều vĩ: Bãi đầu là chỉ các núi không hướng về huyệt mộ; kiều vĩ là cong đuôi, ý chỉ dòng nước chảy đi không bao bọc huyệt mộ.

6. Lục tiện, tiền hậu xuyên phong: Tiền hậu chỉ gò Chu Tước, gò Huyền Vũ nhỏ và thấp hoặc không có gió thổi tản khí huyệt mộ.

7. Thất tiện, sơn phi thủy tẩu: chỉ núi không triều, nước không ôm huyệt.

8. Bát tiện, tả hữu giai không: không có gò Thanh Long, gò Bạch Hổ.

9. Cửu tiện, sơn băng thủy liệt: núi đổ, nước cạn.

10. Thập tiện, hữu chủ vô khách: Hữu chủ là có huyệt mộ; vô khách là không có án sơn, triều sơn.

(Theo Bí ẩn thi vận)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thập tiện: 10 loại địa hình xấu

Chùa Hương Tích - Hà Tĩnh

Chùa Hương Tích là ngôi cổ tự linh thiêng, một địa danh, thắng cảnh nổi tiếng của xứ Nghệ với nhiều huyền thuyết, huyền thoại hấp dẫn.
Chùa Hương Tích - Hà Tĩnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hương Tích là ngôi cổ tự linh thiêng, một địa danh, thắng cảnh nổi tiếng của xứ Nghệ với nhiều huyền thuyết, huyền thoại hấp dẫn. Hương Tích cổ tự toạ lạc và tựa lưng vào dãy núi Hồng Lĩnh, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

Hương Tích cổ tự đã từng nổi tiếng là Hoan Châu Đệ Nhất Danh Lam. Đến với nơi đây, có thể tận hưởng cảm giác thoải mái những giây phút tĩnh tâm hướng tới Bồ tát, hướng về đất Phật, hướng về cõi siêu linh tịnh độ, để thắp nén tâm hương cầu xin chư Phật, chư Bồ tát phù hộ, độ trì cho cuộc sống mỗi ngày được may mắn, tốt đẹp hơn lên.

Chùa Hương Tích là cả một quần thể văn hóa-tôn giáo Việt Nam cổ truyền, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngường nông nghiệp, tín ngưỡng thờ mẫu và đặc biệt là nó gắn liền với biết bao huyền thoại, truyền thuyết đủ để thấy nơi đây thật linh thiêng, huyền diệu.

Tương truyền rằng, Chùa Hương Hà Tĩnh có từ thế kỷ XIII dưới thời nhà Trần, nghĩa là có trước chùa Hương Hà Tây tới hàng trăm năm. Nếu như khách lên chùa Hương Hà Tây phải đi qua suối, qua núi thì để lên tới đỉnh chùa, du khách phải đi thuyền qua lòng hồ Nhà Đường chừng 2 cây số, sau đó vượt thêm 2 cây số đường rừng rợp bóng thông trúc và nhấp nhô đá suối.

Mỗi ngọn núi ở đây đều có một hình dáng riêng, một tên gọi riêng, trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau hai bên bờ. Đến với nơi đây, ta có thể cảm nhận về một cõi thật nên thơ. Lên chùa, có cơ hội thưởng ngoạn rất nhiều cảnh sắc kỳ thú của một vùng sơn thuỷ hữu tình. Nào là động Tiên Nữ 36 cửa ra vào, am Phun Mây, khe Tiên Tắm, bàn cờ Tiên…

Phía trước tiền đường là bức đại tự với bốn chữ “Cổ Nguyệt Linh Quang” nét thư pháp rất đẹp. Sau tiền đường là Phật điện, mái thấp. Năm mươi pho tượng Phật ngồi im kín điện, tượng chỉ ngang cao tầm ngực, tất cả các pho tượng đều khoác áo lụa vàng, lung linh hư ảo giữa sương mây và lửa nến. Gạch dưới chân am là gạch Trần. Còn những viên gạch lớn vuông vức dựng ngang lưng tường, có đúc tượng rồng lân, các lời cầu khấn Phật, cũng đúng theo phong cách Trần. Ngược đường lên đỉnh núi còn một kỳ tích bí ẩn. Nơi đó gọi là nền Trang Vương. Sử sách triều Nguyễn nhắc rằng ở đây có thành đá, có 99 nền điện thờ.

Quanh năm suốt tháng, chùa được đón du khách đạo hữu lên dâng hương, vãn cảnh. Vào mùa lễ hội (tháng giêng, tháng hai âm lịch) và mùa lễ vu lan (tháng bảy âm lịch), có hàng vạn du khách trẩy hội về ngôi chùa linh thiêng này.

Mặc dù không nổi tiếng như chùa Hương (Hà Tây) nhưng từ lâu, chùa Hương ở Hà Tĩnh đã trở thành điểm đến tâm linh của người dân các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh… cùng nhiều du khách thập phương khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hương Tích - Hà Tĩnh

Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Ất Mộc

Dựa trên bát tự mệnh lý cùng đưa ra một số kiến giải về tính cách của người sinh ngày Ất Mộc.
Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Ất Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng thuộc ngũ hành Mộc nhưng người sinh ngày Giáp Mộc có ý thức tự chủ cao, độc lập; ngược lại người sinh ngày Ất Mộc thì ôn hòa nhã nhặn, không thích tâng bốc bất cứ chuyện gì lên.

Dac trung tinh cach cua nguoi sinh ngay At Moc hinh anh
 

1. Tính cách của người sinh ngày Ất Mộc

  Những người sinh ngày Ất ví dụ như Ất Sửu, Ất Hợi, Ất Dậu, Ất Tị là thuộc nhóm những người sinh ngày Ất Mộc. Ất Mộc là thiên can thứ hai trong số 10 thiên can, thuần âm Mộc. Ưu điểm trong tính cách của người này là ôn hòa yên tĩnh, ngoài nhu trong cương, linh hoạt co dãn, nhẫn nhục chịu được vất vả. Nhược điểm là đa sầu đa cảm, vô tình bạc nghĩa, tính toán chi li.   Ất Mộc là hoa tươi, cỏ mềm làm người ta vui tai vui mắt, tính cách nhỏ bé mềm mại, yêu kiều nhu thuận. Sinh lực mạnh mẽ, thích nhất là dựa vào người khác mà trưởng thành, có tính ỷ lại mạnh và nhẫn nại cao. Xem thêm bài viết: Tính cách người mệnh Mộc: thích lãnh đạo và hay nóng giận.   Tuy rằng bản thân thiếu quyết đoán nhưng lại rất linh động, không cố chấp, lấy phương thức hài hòa nhất để giải quyết vấn đề. Đồng thời mượn sức lực, quyền thế của người khác, lấy tiến làm lùi, tự tìm đến cách có lợi nhất cho mình. Bất luật cuộc sống khó khăn tới mức nào cũng đều vượt qua nghịch cảnh mà tiến về phía trước.   Người sinh ngày Ất Mộc tinh thần tự chủ tự cường không quá mạnh, lúc phát sinh vấn đề phần nhiều có thái độ yên lặng, bình tĩnh, tìm phương án thích hợp nhất mới tiến hành. Nhưng vì quá coi trọng hòa khí nên thường thành đối tượng ba phải, bị hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng.   Theo tử vi, Ất Mộc giỏi tùy cơ ứng biến, giỏi lợi dụng hoàn cảnh và người khác để phát triển bản thân nhưng lòng đố kị mạnh, lúc giao du thường tính toán chi li. Mở miệng ra là nói tiền quá thô tục, quan điểm rất khí khái nhưng nội tâm lại coi trọng tiền tài. Vì tính cách khó từ chối người khác nên miễn cưỡng đáp ứng rồi sau đó hối hận, dù cho mượn món tiền nhỏ hay lớn đều như vậy.   Người sinh ngày Ất Mộc ôn nhu đôn hậu, thích hợp với những ngành nghề mềm mại. Tốt nhất là làm những việc có tính chất phụ trợ như thư ký, trợ lý là tốt nhất. Ất Mộc là cây cỏ nhỏ, có nhiều tình thú, có thiên phú, phần lớn theo đuổi nghệ thuật, âm nhạc, hội họa,  
Dac trung tinh cach cua nguoi sinh ngay At Moc hinh anh 2
 
Người này không chủ động giao lưu bạn bè mà thường rất lặng lẽ, bề ngoài hiền lành nhưng lời nói cử chỉ toát ra sự bất khuất cứng cỏi khiến người khác cảm thấy thú vị. Ất Mộc không hề dễ bắt nạt, cũng không thích bắt nạt người khác, quật cường mà không có tính công kích.   Bề ngoài thành thục, bẩm sinh tự yêu mình lại thêm chút tự ti nên chắc chắn không có chuyện chủ động theo đuổi người khác phái. Bản tính thông minh, coi trọng nội hàm, sâu lo trong lòng, ra ngoài thì vui vẻ nhưng về nhà lại cô độc nặng nề.   Người này thể chất kém nhưng lại giống như cành liễu, mềm mại mà dẻo dai khó bẻ, thân thể gặp tình huống bất lợi sẽ tùy biến, không miễn cưỡng chính mình nên khả năng bị bệnh nặng nguy cấp không nhiều. Nhược điểm cơ thể chủ yếu ở gan và họng.
Tham khảo thêm bài viết: Chỉ rõ bản chất của lá số tử vi khuyết Mộc
 

2. Đặc trưng của người sinh ngày Ất Mộc

  Nội tâm nhiều dục vọng, không cam chịu ở bên dưới người khác nhưng bề ngoài thì lại không dễ dàng hiển hiện ra.   Thích yên lặng tiến hành mọi việc, chưa thành công thì không rêu rao, thành công rồi nhất định phải gõ trống khua chiêng ăn mừng.   Mưu lược cao, gánh được trọng trách, không thích ràng buộc, chuyên làm công tác tham mưu, tư vấn, thích hợp là người hỗ trợ, làm việc hậu trường cho lãnh đạo.   Đến chậm đi cũng chậm, lấy thận trọng làm đầu.   Bình tĩnh, nội tâm, nhỏ bé mềm mại, nhẫn nại, biết tiến biết lùi, linh động.   Tâm tư nhiều, tạp nham, không chuyên nhất, điển hình của người có một muốn hai, có hai muốn ba, bốn, năm, vì thế mà dễ gặp thất bại, chỉ có chuyên tâm làm việc, không tham thứ không phải của mình thì cơ hội thành công mới nhiều.   Ôn hòa, nhẹ dạ, dễ bì lừa mất tiền bạc.   Cảm giác tinh tế, có năng lực thẩm mỹ, có thiên phú về văn học, nghệ thuật,
Tại sao ngũ hành Mộc hợp với ngũ hành Hỏa và ngũ hành Thủy? Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Người mệnh Mộc hợp cây gì để phúc lộc đầy nhà?

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Ất Mộc

Vị quan thanh liêm kháng lại áp lực quan trên rửa oan cho dân

Được biết như vị quan thanh liêm kháng lại áp lực quan trên rửa oan cho dân, Tiền Nhược Thủy đã rất thông minh và dũng cảm khi bảo vệ cho người dân của mình
Vị quan thanh liêm kháng lại áp lực quan trên rửa oan cho dân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiền Nhược Thủy thời Bắc Tống là người tri thức uyên thâm, có thể đoán biết đại sự lại là một vị quan thanh liêm chính trực. Trong “Tốc Thủy Kỷ Văn”, Tư Mã Quang đã ghi chép lại sự tình khi ông đảm nhiệm chức Thôi quan tại Đồng Châu (Tức thân tín và trợ thủ của quan Tri châu) ông đã kháng lại áp lực của quan trên mà rửa được một án oan.

Tri châu tại Đồng Châu, thượng cấp của Tiền Nhược Thủy là người chủ quan võ đoán, hơn nữa tính tình nóng nảy thường hay phạm sai lầm. Mỗi lần gặp phải tình huống như vậy, Tiền Nhược Thủy đều thảo luận với quan trên, nhưng tri châu thường không tiếp nhận ý kiến chính xác của ông. Mặc dù sau này khi chân tướng vụ án hiển lộ, tri châu thường cảm thấy xấu hổ vì sai sót của bản thân mình, nhưng sau đó mọi chuyện vẫn lặp lại như cũ.

Có lần, một nữ tỳ của một gia đình quyền quý không biết đi đâu mất tích. Cha mẹ cô tới Châu báo án, tri châu lệnh cho quan tham mưu kiêm sao lục thẩm tra thụ lý vụ án. Vị quan tham mưu kiêm sao lục này từng mượn tiền của nhà quyền quý nọ nhưng bị từ chối, trong lòng y nảy sinh oán hận.

Trong quá trình xét xử vụ án y đã võ đoán mà nói rằng nhà giàu đó đã hại chết nữ tỳ, rồi quăng thi thể cô xuống sông. Phụ tử nhà giàu đều không nhận tội cuối cùng bị dùng hình ép cung nên mấy cha con nhà giàu có người bị định tội là thủ phạm chính, người thì bị định tội là chủ mưu giết người, theo luật họ đều phạm tội tử hình.

Sau khi xét xử, viên quan tham mưu kiêm sao lục đã báo án lên tri châu, tri châu triệu tập quan viên hữu quan tiến hành phúc thẩm, một số người cho rằng án này đã được xử lý một cách chính xác, còn thể hiện sự đồng tình, chỉ có Tiền Nhược Thủy tỏ vẻ nghi ngờ vụ án, ông cho rằng khi xét xử nên thẩm vấn kỹ lưỡng, nếu không có chứng cứ xác thực mà định tội mưu sát chẳng khác gì coi rẻ tính mệnh con người.

Sau khi viên quan tham mưu kiêm sao lục biết chuyện đã tới phòng làm việc của Tiền Nhược Thủy trách mắng ông rằng: “Phải chăng ông đã nhận hối lộ của nhà quyền quý đó nên muốn giúp cho họ thoát tội chết?”

Tiền Nhược Thủy nói: “Có vài người vì vụ án này mà bị xử tử hình như hiện nay, sao ta lại có thể không thẩm tra lại kỹ lưỡng những lời khai của họ được?”

Vì thế, Tiền Nhược Thủy đã kéo dài vụ án thêm gần 10 ngày, trong quá trình đó dù tri châu nhiều lần đốc thúc ông cũng không trả lại vụ án, người trên kẻ dưới đều trách mắng ông.

Một hôm Tiền Nhược Thủy tới gặp tri châu nói rằng: “Sở dĩ tôi kéo dài vụ án này là vì muốn do thám tung tích của nữ tỳ, hiện nay nữ tỳ đã được tìm thấy”.

Tri châu thẩm tra thấy chứng cứ xác thực liền phóng thích cha con nhà giàu nọ.

Cha con nhà giàu khóc mà nói với tri châu rằng: “Nếu không nhờ ơn giúp đỡ của ngài thì chúng tôi đã bị tuyệt diệt dòng giống rồi”.

Tri châu nói với họ: “Không phải là ta, là Tiền Nhược Thủy đã giúp các ngươi”.

Cha con nhà giàu tìm Tiền Nhược Thủy muốn gặp ông để cảm tạ nhưng Tiền Nhược Thủy đóng cửa không tiếp. Cha con nhà giàu đi quanh tường bao mà khóc, sau khi về nhà họ đã mang gia sản của mình quyên góp cung tiến cho nhà chùa vì muốn cầu phúc cho Tiền Nhược Thủy, chuyện này đã gây chấn động cả một vùng.

Vì vụ án oan mấy mạng người đã được làm sáng tỏ, tri châu bèn trình báo việc này với hoàng đế để luận công xin ban thưởng cho Tiền Nhược Thủy. Tiền Nhược Thủy kiên quyết chối từ mà rằng: “Tôi chỉ cầu mong vụ án được giải quyết, người vô tội không bị chết oan uổng, luận công xin ban thưởng không phải là bổn ý của tôi”.

Tri châu nghe vậy càng thêm tôn kính ông.

Không bao lâu sau, Hoàng Đế biết chuyện đã thăng chức cho Tiền Nhược Thủy, chưa đầy nửa năm từ chức quan nhỏ tại địa phương ông đã được đề bạt làm quan tham mưu, hai năm sau ông vâng lệnh đảm đương chức phó Tể tướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị quan thanh liêm kháng lại áp lực quan trên rửa oan cho dân

Tính Tổng Quát khoaTử vi

Khoa Tử Vi có một tính tổng quát cao, nó chỉ nói lên mối tương quan trực tiếp giữa các yếu tố trong quá trình xét đoán. Vì thế không nên đòi hỏi ở Tử Vi một độ chính xác tuyệt đối như với Tứ Trụ hay Kinh Dịch mà chỉ nên chấp nhận một độ chính xác tương đối nào đó, thông thường, Tử Vi đạt mức chính xác 75% - 90%
Tính Tổng Quát khoaTử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi nói đến Tử Vi như một Khoa Học, một Hàm Số chỉ các loại năng lượng trong cơ thể con người được trừu tượng hóa qua tên các Sao, thì các hàm số này có sự lệ thuộc vào những ẩn số, và hàm số biến thiên theo ẩn số. Nếu người giải đoán tìm được đáp số của ẩn số thì ẩn số đó trở thành biến số thì ẩn số đó giúp xác định Hàm Số Tử Vi một cách thích đáng.

Thực vậy, mỗi sao trong một cung có nhiều ý nghĩa. Ý nghĩa đó thay đổi tùy sự kết hợp với các Sao khác. Người lý giải phải lựa chọn ý nghĩa nào đó thích hợp nhất trong thế liên hoàn kết hợp đó. Chính vì phải lựa chọn như vậy nên trên một sao có thể có nhiều luận đoán, căn cứ trên ý nghĩa khác nhau của một sao.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính Tổng Quát khoaTử vi

Bảo vệ tránh luồng sát khí –

Thông thường, việc dịch chuyển đồ đạc một vài centimét để nó không nằm trên đường đi của sát khí sẽ giải quyết được vấn đề. Nếu bạn không thể dịch chuyển đồ đạc, hãy tạo ra một dạng vật đệm nào đó hoặc dùng quả cầu pha lê có cạnh hay chuông gió để t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

án khí tiêu cực. Ví dụ, có thể để cây trồng trong nhà, đặt phía trước góc nhọn và dùng khăn trải bàn để làm dịu các cạnh của bàn.

cua

Tương tự, tranh ảnh và tác phẩm nghệ thuật về những vật trông giống như mũi tên bí mật có thể gây hại; vì thế, hãy để ý kỳ- tranh ảnh treo ở các khu vực chính trong nhà. Các dạng mũi tên bí mật này rất dễ hóa giải: chỉ cần lấy xuống hoặc treo ở chỗ mà chúng không gây hại.

Xà rầm lộ là nguồn sát khí trong nhà, tạo ra áp lực với vật phía dưới. Xà rầm đơn bên trên khu vực chính, như giường, ghế đi-văng hay bàn ăn là một vấn đề phong thủy tiềm tàng vốn có thể hóa giải. Nhiều rầm nhò cách đều nhau, nằm dọc theo chiều dài căn phòng ít nghiêm trọng hơn vì áp lực xuống dưới được phân tán đều hơn.

Hãy tự bảo vệ khỏi sát khí trong nhà bằng vải, thực vật, quá cầu pha lê có cạnh hay chuông gió

Trong trường hợp này, cách hóa giải tốt nhất và thường dễ nhất là dịch chuyển đồ đạc tránh nằm thẳng dưới xà rầm. Nếu không thể, hãy bổ sung vật gì đó nhằm nâng năng lượng dưới rầm nhà một cách tượng trung để làm dịu áp lực của nó. Một số lựa chọn:

  • Hình hoặc bức tượng nhỏ về thiên sứ hay chim gắn vào cạnh của xà rầm.
  • Đèn hất lên lắp bên dưới hai đâu xà rầm.
  • Sáo tre treo ờ cạnh xà rầm.
  • Những quà cầu pha lê nhỏ có cạnh treo bên dưới xà rầm. Trong phong thủy, con số có tác động mạnh (ví dụ: bội số của 3), vì thế dùng 3,6 hay 9 quả cầu sẽ cho hiệu quả cao nhất
  • Nếu bạn quyết định dùng sáo tre thì hãy nhớ treo sáo ở góc sao cho các đầu cao hơn chia vào nhau. Nếu xác định được đầu tre nào già hơn, hãy treo sáo với phần to, già hơn của sáo ở dưới và miệng sáo ở trên; nếu không xác định được đầu nào già hơn, hãy treo sáo sao cho miệng sáo nằm ở dưới.

    Các thiết bị điện – vốn mang lại nhiều thuận tiện cho cuộc sống hiện đại – gây ra một dạng sát khí hiện đại: tần suất điện từ. Đầu giường không được kê ở chỗ có hộp cầu chì hay thiết bị điện lớn – như tủ lạnh hay bếp nấu – ở mặt kia của bức tường đó.

    Hãy đảm bảo là những nơi mà bạn thường xuyên sử dụng – ví dụ như bàn làm việc – không chịu ảnh hưởng của tần suất điện từ mạnh. Ngủ là thời điểm dễ bị nguy hiểm nhất vì đó là thời điểm cơ thể tự hồi phục và tái tạo tế bào, tuy vậy, cũng sẽ là sáng suốt nếu thận trọng ngay cả khi thức.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảo vệ tránh luồng sát khí –

Trang trí ngoại thất với những ý tưởng cực dễ

Ngôi nhà đẹp từ "cái nhìn đầu tiên" là ao ước của hầu hết mọi người. Hãy cùng tham khảo một vài ý tưởng trang trí ngoại thất tuyệt vời dưới đây để ngôi nhà của bạn thêm hoàn mỹ nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đánh số nhà kiểu cách hiện đại

Hãy khiến cho ngôi nhà của bạn thêm nổi bật bằng cách đánh số nhà thật độc đáo. Ví dụ, thay vì những số đếm thông thường, bạn có thể sử dụng những con số được viết bằng chữ để tăng thêm vẻ thu hút cho không gian sống.

   Đánh số nhà bằng chữ khác lạ.

2. Hoa nơi cửa sổ

Những chậu hoa nhỏ nơi cửa sổ sẽ xóa tan đi những đường nét cứng nhắc của những bức tường hay khung cửa sổ bằng thép, gỗ... Không những vậy nó còn góp phần cho ngôi nhà của bạn trông đẹp hơn nhiều dù nhìn ở ngoài vào hay từ trong nhà ra.

   Hoa nơi cửa sổ khiến ngôi nhà của bạn sinh động hơn.

3. Cửa chính thật bắt mắt

Cửa nhà là yếu tố rất cần được lưu ý trong thiết kế ngoại thất, bởi lẽ đó là tất cả những gì mà một vị khách trông thấy khi họ bắt đầu bước vào ngôi nhà của bạn. Một cánh cửa được sơn với gam màu đậm không chỉ rất nổi bật, dễ dàng thu hút ánh nhìn từ xa mà còn phần nào thể hiện được cá tính của bạn nữa đấy.

   Cửa nhà bắt mắt tượng trưng cho sự mời gọi và thể hiện phần nào cá tính của bạn.

4. Hiên nhà đẹp với hoa

Bày hoa hay cây xanh trước cửa nhà là ý tưởng trang trí ngoại thất vô cùng phổ biến. Những chậu hoa sẽ giúp cho hiên nhà bạn tươi tắn và đáng yêu hơn. Tùy vào kiến trúc cửa nhà mà bạn có thể đặt hoa hoặc cây xanh ở cửa ra vào hoặc trên cầu thang. Bạn nên đặt hoa ở cả hai bên để tạo nên sự cân xứng về tỉ lệ và không gian.

   Nên đặt hoa ở cả hai bên để tạo nên sự cân xứng về tỉ lệ và không gian.

5. Màu sơn mái hiên khác lạ

Mặc dù mái hiên là phần nới rộng thêm bên ngoài, nhưng màu sắc của nó không nhất thiết phải trùng khớp với cả căn nhà. Chọn màu sơn khác lạ cho mái hiên (như các gam màu đối lập chẳng hạn) là một cách hữu hiệu khiến ngôi nhà của bạn trở nên hiện đại và ấn tượng hơn.

   Mái hiên khác màu làm ngôi nhà thêm ấn tượng và hiện đại.

6. Đèn chiếu sân hiên

Hệ thống đèn hiên nhà không chỉ có tác dụng thắp sáng, dẫn lối vào nhà cho khách còn làm tăng lên vẻ lung linh của ngoại thất ngôi nhà. Thế nên bạn đừng ngần ngại đầu tư những chiếc đèn treo thật đẹp và ấn tượng cho hiên nhà nhé.

   Đèn hiên có tác dụng thắp sáng, dẫn lối và làm đẹp hiên nhà.

7. Đường ống thoát nước ưa nhìn

Nhiều người chỉ quan tâm đến đường ống thoát nước khi nó có vấn đề mà không hề nghĩ rằng một hệ thống đường ống thoát nước đẹp cũng góp phần mang đến cho ngoại thất ngôi nhà sự hoàn hảo. Vậy chẳng có lý do gì để bạn không giữ những đường ống này thật sạch sẽ và thi thoảng thay cho nó một lớp sơn mới màu sắc và quyến rũ hơn.

   Ống nước cũng góp phần mang đến sự hoàn hảo về ngoại thất của ngôi nhà.   (Theo TTVN)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí ngoại thất với những ý tưởng cực dễ

Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Một bài viết trình bày bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi rất hay! Vương Đình Chi là một bậc thầy tử vi!
Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo "xu cát tị hung", và nhấn mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời giải.

Đẩu Số có thể luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc đời một con người, còn có "Địa vận" và "Nhân vận".

"Địa vận" có quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát được.

Nhưng, "Nhân vận" thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy, bạn bè,.v.v... lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo "xu Cát tị Hung" (theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí truyền.

Cho nên, người nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất "hợp Cục nhập Cách" này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu thiên.

Có một người từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật. Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục?

Vấn đề này đúng là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép "theo cát tránh hung" là sự thực như sau:

Năm 1984, Vương Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu, lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số.

Nếu như nhất định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để tránh.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN

1- Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng

Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến "cách" luận đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán mệnh.

Vương Đình Chi nói: "Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy cơ". Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: "Vâng, năm ngoái có sinh con, nhưng sinh đẻ thuận lợi", Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: "Có điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con". Thực sự, Ông không biết có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, "gây tê toàn thân" cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.

Sinh con không ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân, nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó nuôi.

Do đó có thể biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành định luận.

Có thể cử một số ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là "túc mệnh luận", tức chẳng thể luận đoán ra chuyện "không thể thay đổi được". Bởi vì khuynh hướng Tiên thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán "sinh con khó dưỡng" không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện đại.

Cổ nhân nói: "Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần nhiều đa dâm", nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị khá, cung mệnh là hai sao "Tham lang Liêm trinh" tọa thủ, nếu nói phóng đãng, tính chất cũng chính xác, bởi vì người này "có máu" nghệ thuật, đã từng phiêu bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.

Cho nên đặc tính của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ "phóng đãng" để khái quát. Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo thủ, không ai dám làm "lãng tử", lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là "phóng đãng".

Năm xưa, Vương Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi một điều rất hay, ông nói: "Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng giải phẫu thẩm mỹ". Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới của các tinh hệ.

Năm xưa, Huệ lão rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, có tặng cho Huệ lão một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu, tác phẩm của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu Số.

Những điều Huệ lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem sao.

Do đó có thể thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã hội.

2- Quan sát toàn diện 12 cung

Kỹ thuật luận đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm "tam phương tứ chính", sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận đoán.

Thông thường khi đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc luận đoán "tam phương tứ chính" của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch, cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp. Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.

Phương pháp luận đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn diện.

3- Các bước luận đoán mệnh bàn

Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3 điều:

3.1- Phương pháp an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.

Tiết này sẽ bàn về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh bàn.

3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền trạch

Từ cung Phụ Mẫu và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp "tay trắng làm nên", hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã có.

Điểm này rất trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt, nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình "tay trắng làm nên", điều này chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để xoay chuyển hoàn cảnh.

3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc đức

Thông thường sao hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động tinh thần và tư tưởng của một người.

Nếu tính chất của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt, còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.

3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có điểm đặc biệt đáng chú ý

Nếu nghi ngờ đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận đoán.

Xin đưa ra một ví dụ thực tế:

- Nữ mệnh, cung mệnh Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung Thân
- Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là "Hóa Lộc Hóa Khoa Hóa Quyền hội", trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
- Cung Phúc có Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp Thiên diêu (tức cung Tài)
- Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp tinh hệ ở cung Phu Thê.
- Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ, chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
- Nhưng không có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc nhiều bệnh,.v.v... Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và Lưu niên.

3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận hạn

Xem xét vận thế của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn xác.

Đại hạn Canh Tuất từ 25 - 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu Thê của Đại hạn.

Sao Lộc tồn của Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung (gọi tắt là vận Kình vận Đà).

Cung Phu thê của nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng tất có vấn đề.

Xem xét tiếp, thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn. Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, "Tử vi Tham lang" tọa thủ, nhưng Tham lang hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là "không có niềm vui gia đình", xấu nhất tức là "lưu Kình của Lưu niên" xung động "lưu Kình của Đại hạn", đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ "Tử vi Tham lang".

Do đó luận đoán sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.

Kiểm tra cung Tai Ách của người chồng, thì thấy "Thiên cơ Thái âm" tọa thủ, có Linh tinh Đà la đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời "tam phương tứ chính" lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu 1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của họ.

3.5- Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các cung

Dựa vào các bước quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục một số kỹ thuật.

Dưới đây, tôi xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham khảo

- Mượn sao an cung

Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là "mượn sao an cung". Về điểm này, thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu nay không có ai bàn tới.

Khi "mượn sao an cung", ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt thứ nhất.

Ví dụ tinh bàn của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ, nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi "mượn sao an cung", kết cấu của cung Phu Thê biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu bật.

Nhưng điểm này có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh hưởng đến bản cung. Tức dù không "mượn sao an cung", tính chất tinh hệ của bản cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi "mượn sao an cung". Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh biến hóa.

Khi tìm "tam phương tứ chính" của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa thủ, thì cung vị này vẫn phải "mượn sao an cung", sau đó mới hội hợp với bản cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số, vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt này.

Vẫn từ ví dụ trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân - Tý, lại xung hợp với đối cung (Tuất), cấu tạo thành "tam phương tứ chính". Hai cung Thân Tuất đều có chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ để "mượn sao an cung", mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình dương.

Tới đây, toàn bộ tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: "tứ sát kèm sát", tức là Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn, nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng không nói lời chia tay.

Từ ví dụ trên có thể thấy, "mượn sao an cung" là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số. Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là "bí pháp", không dễ gì truyền ra ngoài.

Các sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn nhau

Cần chú ý, tính chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh hệ khác phá hoại, đây gọi là "tinh diệu hỗ hiệp".

Về điểm này có thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:

Nữ sinh trung học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc", Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở Đại vận Quý Mão.

Chiếu theo Lưu niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có "Thiên Phủ Vũ khúc", hơn nữa còn có Vũ khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là "Lộc Văn củng mệnh". Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay sẽ không thất bại.

Ở đây cần chú ý "cung Mệnh của lưu niên" (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình cảm không tốt.

Lúc này, cần phải kiểm tra "cung Phúc đức của lưu niên" của cô gái này (tức nguyên tắc đồng thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh, cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).

Lại thấy cung Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nói là "đào hoa" tụ về cung Phúc đức.

Trong tình hình này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ, nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương Đình Chi.

Thông qua thí dụ này có thể biết, chỉ vì "cung mệnh của lưu niên" xuất hiện các tạp diệu Hàm trì, Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ "Lộc Văn củng mệnh" phát sinh biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: "các sao ảnh hưởng lẫn nhau".

"Sao đôi" xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm

Khi luận đoán Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là "Kiến tinh tầm ngẫu". Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu, mà Vương Đình Chi được truyền thừa.

Gọi là "Kiến tinh tầm ngẫu" (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp "sao đôi", khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi chút.

Ví dụ cổ nhân đưa ra nguyên tắc: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên tướng), "phùng Tướng khán Phủ" (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp "sao đôi". Nhưng cổ nhân thích giữ "bí mật", cho nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.

Liệt kê một số cặp "sao đôi" để tham khảo:

+ Chính diệu:
- Thiên phủ và Thiên tướng
- Thái Dương và Thái Âm
- Thiên Đồng và Thiên Lương
- Liêm Trinh và Tham Lang

+ Phụ diệu:
- Tử Phụ và Hữu Bật
- Thiên Khôi và Thiên Việt

+ Tá diệu:
- Văn Xương và Văn Khúc
- Lộc Tôn và Thiên Mã

+ Tạp diệu:
- Hồng Loan và Thiên Hỷ
- Hàm trì và Đạo hao
- Long Trì và Phượng Các
- Ân Quang và Thiên Quý
- Tam Thai và Bát Tọa
- Cô Thần và Quả Tú
- Thiên Khốc và Thiên Hư
- Thiên Phúc và Thiên Thọ
- Đài Phụ và Phong Cáo.

Nhưng, như thế nào mới gọi là "sao đôi" xuất hiện? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào nguyên tắc dưới đây để định.

- Loại tình huống có sức mạnh nhất là "sao đôi đồng cung". Ví dụ như tình huống "Thái dương Thái âm" đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức mạnh tuyệt đối không thể xem thường.

- Kế đến, loại tình huống có sức mạnh khá nặng là "sao đôi chiếu nhau", ví dụ ở hai cung Thìn và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau của chúng cũng không thể xem thường.

- Tiếp đến nữa là tình huống hội hợp "Song phi hồ điệp thức", tức là "sao đôi" chia ra ở hai bên "hợp cung", ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp "sao đôi" Khốc Hư lấy tư cách "song phi hồ điệp" hội hợp với cung Ngọ (là bản cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp "Song phi hồ điệp thức".

- Cuối cùng là hội hợp "Thiên tà thức" (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm "bản cung", tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ), đối với cung Tý là "bản cung" mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện "sao đôi" kiểu này có sức mạnh hơi kém.

Tóm lại, sức mạnh của các tình huống xuất hiện "sao đôi" theo thứ tự giảm dần như sau:

Đồng cung => Đối nhau.=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu => Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung Dần và Tuất).

Như đã nói, nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là "bí truyền". Cho nên dựa theo sách cổ để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức mạnh hơn kém của chúng.

"Tá cung an sao", "Tinh diệu hỗ thiệp", "Kiến tinh tầm ngẫu", là Vương Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những bí truyền này.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Xin đơn cử ví dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú )

Lục tiên sinh chủ trương dùng "Địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "Địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".

Liên quan đến phương pháp an sao ở "Địa bàn" và "Nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "Địa bàn".

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "Nhân bàn", nói một cách chính xác thì đây là "nhân bàn của địa bàn".

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "Thiên bàn" và "Địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN

1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu

Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷ mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của Đẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).

Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của "Thiên bàn".

Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch

- Cung Đinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn
- Cung Bính Dần là cung Phu thê của Đại hạn
- Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn
...v.v...
- Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn

Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hung thế nào.

Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là "Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12 cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó. Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:

1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)

2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)

Theo ví dụ trên:
- Cung mệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
- Vì vậy trong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
- Lại vì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.

Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưu niên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từng thứ loại.

Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như sau:

1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.

2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.

3)- Các sao xung động với "lưu diệu" thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.

4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với "lưu diệu" của Đại hạn.

Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu" đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.

Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.

Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.

Lúc luận đoán Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.

Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.

2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên

Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương pháp luận đoán.

Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:

Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.

Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được người chồng giầu sang.

Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.

Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình cảm.

Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kị xung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây là vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Thái dương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.

Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn mà không có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng chẳng thể khen.

Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương" và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).

Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửu là tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dương Thiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.

Còn trùng hợp một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.

Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn", "song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà còn là cách xấu "Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.

Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.

Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các sao.

Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu "Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các sao.

Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"

Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ 34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các sao.

Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần  tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về phương diện cung Tai Ách hay không.

Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.

Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.

Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao

Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.

Mệnh bàn nguyên cục:

- Cung mệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa thủ.
- Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
- Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
- Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh
- Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
- Giao hữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
- Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái, Nguyệt đức, Tuyệt
- Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
- Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam thai, Long đức, Dưỡng
- Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
- Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.
- Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.

Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê hương.

Nhưng Thái âm lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó còn bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cự môn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung" cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.

Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ở nơi xa.

Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.

Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất khá.

Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá tài.

Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh chấp.

Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.

Ghi chú về phép định Tiểu hạn

Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.

3)- Cách luận đoán Lưu nguyệt

Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.

Đơn cử một ví dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.

Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cung Giáp Thìn.

Cung Di của lưu niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung", biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị (còn gọi là "Kình Đà giáp Kị"), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh Tuất.

Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy ra.

Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn "Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũ khúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".

Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.

Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.

Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.

Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc Kim.

Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xu cát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.

Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt

Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn xương.

- Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát

- Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi.

- Cung Tai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh.

- Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.

- Hạn 2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.

- Hạn 3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.

- Đến hạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có thể nói là sự may mắn trời ban

Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con

Cách tính tuổi để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con để bổ xung.

Tính hạn của trẻ con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:

- Một tuổi ở cung Mệnh
- Hai tuổi ở cung Tài bạch
- Ba tuổi ở cung Tật ách
- Bốn tuổi ở cung Phu thê
- Năm tuổi ở cung Phúc đức
- Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan lộc)

Khi xem tính hạn cho trẻ con, chỉ xem "tam phương tứ chính" của bản cung, không bày bố thêm 11 cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp tính hạn cho trẻ con.

4)- Cách luận đoán lưu nhật

Vương Đình Chi không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì "nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn", không nên mang vận trình ra luận đoán quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán "tử kỳ" cho một người bệnh sắp chết, để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải chọn Ngày để đi.

Luận đoán lưu Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn niên lịch để tìm "can chi" ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính lưu diệu của lưu Nhật.

Ví dụ như tháng 4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi "Nhâm Tuất" để tìm lưu diệu, như Thiên lương hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung Hợi, Mã nhật ở cung Thân,.v.v...

Nếu có tháng Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười, từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng 11.

Ví dụ như lưu Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13 và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu diệu.

Còn ngày 16 của tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.

Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:

- Dương nữ, mộc tam cục, Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
- Mệnh lập tại cung Mậu Tuất, có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
- Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm, Thiên khôi, Thiên hỉ
- Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn khúc
- Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn, Thiên hình, Phá toái.
- Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên tướng, Đài phụ, Long trì
- Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương, Thiên lương, Địa không
- Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà la, Thiên hư
- Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao, Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
- Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi, Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
- Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa kiếp
- Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên khốc
- Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên việt.

Đương số đang ở trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an. Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không tương hội.

Thiên đồng và Cự môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này, mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất này.

Tra lưu niên, đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán định năm đó ắt sẽ có tai ách.

Tính chất của Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.

Có nhiều loại tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.

Cung Tai ách của lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội với tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với "Thái dương Thiên lương" mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột sống.

Tra đến lưu nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu Nguyệt.

Tháng Nhâm Dần thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà, nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.

Tra lưu nhật đến ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp 8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm trọng.

Thêm vào đó, cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình, còn bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5 tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị liệu.

Người phụ nữ này sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.

5)- Cách luận đoán lưu thời

Tử Vi Đẩu Số tuy có phương pháp luận đoán "lưu thời", nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng đến.

Phép tính lưu thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung Sửu,.v.v... đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng ngũ Thử độn như sau:

- Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
- Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
- Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
- Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
- Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân Tý

Như đối với ví dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh, cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ Ngọ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Tuổi Sửu và tuổi Mão có hợp nhau không? –

Tuổi Sửu và tuổi Mão đều nhút nhát và khó diễn đạt cảm xúc nên họ dễ tìm được sự đồng cảm ở nhau. Có thể nói, hai tuổi Trâu và Mèo sống nội tâm nhất trong 12 con giáp. Họ rất khó biểu đạt tình cảm thành lời, nhưng trong lòng họ luôn đầy ắp sự yêu thư
Tuổi Sửu và tuổi Mão có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu và tuổi Mão có hợp nhau không? –

Thú chơi bùa ngải mới: Kuman Thong, thần tài hay ma?

Gần đây, dư luận rộ lên tin đồn nhiều đại gia, người nổi tiếng... nuôi Kuman Thong trong nhà để cầu phát tài phát lộc. Vậy thực hư loại
Thú chơi bùa ngải mới: Kuman Thong, thần tài hay ma?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"bùa ngải" này là gì?


► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ theo lý giải tâm linh và khoa học
  Nếu bạn tìm hiểu về người Thái, bạn sẽ biết rằng họ sợ ma một cách nghiêm túc. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, dù sợ ma nhưng hàng triệu người Thái sẵn sàng mời một con ma ở nhà hoặc nơi doanh nghiệp của họ. Tất nhiên đây không phải là một con ma đáng sợ quẫn trí Mae Nak mà chúng ta đang nói về một con ma “cậu bé dễ thương” tên là “Kuman Thong”.   Cái tên “Kuman Thong” có nghĩa là “cậu bé vàng”, người nuôi Kuman Thong với nhiều mục đích sử dụng khác nhau như hộ pháp hoặc gia tăng pháp lực cho các pháp sư chơi ngải nhưng mục đích chính của nhiều người vẫn là giúp đỡ họ trong vấn đề tiền bạc.  
Thu choi bua ngai moi Kuman Thong, than tai hay ma hinh anh
Ảnh minh họa

 
Kuman Thong là tên gọi chung của các bức tượng nhỏ làm bằng đồng hoặc gốm …. Có hình dạng 1 đứa bé với một khuôn mặt đang mỉm cười.   Các bực tượng này là nơi ẩn náu cho linh hồn các đứa bé đã chết vậy làm sao để có được linh hồn của một đứa bé đã chết ? Có lẽ phải nói tới mặt trái của bức tượng này, vì sự nổi tiếng của Kumanthong vẫn còn tồn tại một thị trường đen cho các loại bản gốc của Kuman Thong làm từ thai nhi đã chết trong bụng mẹ hoặc các hài cốt có được từ việc mua ở các tụ điểm phá thai.   Trong tháng 5 năm 2012, một công dân Anh được sinh ra tại Đài Loan đã bị bắt tại Bangkok với rất nhiều các hài cốt của em bé trong hành lý của mình. Ông đã mua chúng ở Thái Lan và dự định bán lại chúng tại Đài Loan để kiếm lợi nhuận.
 
Trong năm 2010, một vị cảnh sát tại Bangkok tên Wat Phai Ngoen đã phát hiện nhiều xương sụn thai nhi bị phá thai được tìm thấy trên các cơ sở ở thị trường đen sau đó được đưa về các ngôi đền thờ táng, ông bắt đầu điều tra các việc làm phi đạo đức từ phòng phá thai bất hợp pháp, một số luồng ý kiến cho rằng người ta thu gom những thi thể này nhằm rao bán cho các học viên của ma thuật đen.   Kuman Thong thực ra không phải là một trong những bức tượng bằng nhựa mỉm cười mà bạn nhìn thấy trên rất nhiều đền thờ trên khắp Thái Lan. Các bản gốc của Kuman Thong là một cái gì đó nham hiểm hơn và cấm kỵ của một nghệ thuật và ma thuật đen tối nhất của nó.   Để làm Kuman Thong, đầu tiên phải phẫu thuật loại bỏ một thai nhi chết trong bụng mẹ từ tử cung của người mẹ và trải qua một buổi lễ, buổi lễ này phải được thực hiện bởi một người được đào tạo và nắm bắt những bí mật cổ xưa của Thái Lan là gọi hồn trong một nghĩa trang vào ban đêm với các em bé đã chết khô và rang trên lửa được các pháp sư tụng các thần chú và những câu thần chú bí mật này sẽ ràng buộc linh hồn của đứa trẻ chết non. Sau khi được rang trên lửa và sấy khô, hài cốt được bao phủ trong sơn mài bằng vàng đó là lý do ban đầu nó có tên là Kuman Thong.   Khi bạn đưa một Kuman Thong về nhà, bạn phải lập một ngôi đền cho đứa bé đó và thờ cúng nó như một đứa con của mình. Người ta cho rằng Kuman Thong có thể ban ân huệ cho ông chủ của mình nhưng chỉ khi đứa bé ấy cảm thấy hạnh phúc, vậy nên bạn phải rất cận trọng trong việc thờ cúng nó.   Nhưng sự giúp đỡ của các thứ tâm linh luôn có giá của nó. Nếu bạn đã chọn mang Kuman Thong vào nhà của bạn thì bạn phải chịu trách nhiệm chăm sóc nó tử tế bởi vì nó là một đứa trẻ ma, nếu bị bỏ rơi nó có thể ném một cơn giận nóng nảy kinh khủng vào bạn.   Vì Kuman Thong là một đứa trẻ nên người nuôi bày đặt rất nhiều đồ chơi xung quanh, việc chăm sóc Kuman Thong liên quan đến việc cho nó một cái gì đó để ăn và uống mỗi ngày chẳng hạn như bánh, kẹo hoặc đồ ăn nhẹ khác được coi là đồ cúng phù hợp. Đối với đồ uống Kuman Thong thích Nam-Daeng. Nam-Daeng có nghĩa là “nước đỏ” là một loại thức uống có đường được pha chế với màu nhân tạo đỏ tươi và hương liệu từ cây sala (Salacca wallichiana).   Bạn phải thừa nhận sự hiện diện của nó, nói chuyện với nó và sau đó nó sẽ mang lại những thứ tốt cho bạn và bảo vệ bạn khỏi kẻ thù của mình chẳng hạn như việc bạn đang đi trên đường mà có 1 chậu hoa rơi xuống trúng đầu bạn thì trước khi việc ấy xảy ra đã có một lực đẩy vô hình làm chậu hoa lệch hướng không thể rơi trúng bạn.   Những người giữ Kuman thong ở nhà thường gặp những điều kỳ lạ xảy ra như nghe thấy âm thanh cười nói của một đứa trẻ hoặc những tiếng bước chân nhỏ chạy quanh như một đứa trẻ đang chơi đùa điển hình như mở hoặc đóng cửa.   Đừng bao giờ nghĩ rằng bạn có thể thoát khỏi một Kuman Thong khi bạn đã có nó vì nó có thể gây ra cho bạn rất nhiều rắc rối khi bạn là một người sở hữu bình thường mà không có được năng lực như các pháp sư. Thay vào đó nếu bạn không muốn sở hữu một Kuman Thong trong nhà nữa thì hãy đến một ngôi đền nơi mà có các pháp sư giúp bạn thực hiện nghi lễ để giải phóng bạn khỏi gánh nặng chăm sóc cho các con ma.   Tôi biết về Kuman Thong lần đầu khi khi tôi thuê một căn nhà và ở đó 1 năm, bà chủ ngôi nhà đó là một người Thái tầm 50 tuổi, bà là một người phụ nữ rất thành thục bất kỳ việc thực hành tâm linh mà được cho là mang lại sự giàu có và may mắn. Bà ấy cùng với gia đình của mình trông giữ một ngôi đền chứa một vài hình ảnh Đức Phật, trong đó có hình những vị thần Shiva Hindu và ba pho tượng Kuman Thong lớn nhất trong số các bức tượng Kuman Thong, trông nó rất cổ đại và nó thực sự khiến tôi khiếp sợ.   Tôi thường có những giấc mơ kỳ lạ khi sống trong ngôi nhà đó và không bao giờ cảm thấy cô đơn. Một vài lần tôi bị đánh thức dậy vào giữa đêm bởi tiếng ồn lớn mà có vẻ như ai đó đang di chuyển xung quanh. Sau này tôi phát hiện ra rằng có một con mèo được nhận vào nuôi trong nhà và tôi nghĩ rằng tiếng ồn đó đến từ nó khi chiến đấu với một con vật khác (có thể là một con chuột) ở trên gác mái. Vì vậy, nếu những tiếng động kỳ lạ đến từ Kuman Thong hoặc mèo, chuột hay chỉ là một hoạt động tưởng tượng quá mức của tôi mà không bao giờ tôi có thể chắc chắn.   Điều duy nhất tôi chắc chắn đó là tôi thấy khó chịu vì bà chủ nhà để lại Kuman Thong tại nhà làm tôi phải gắn bó với nó và có nhiệm vụ chăm sóc cho nó. Trong năm đó, tôi sống với Kuman Thong, nó không cho tôi bất kỳ sự giúp đỡ về tài chính nào, điển hình như việc bà chủ không hoàn lại tiền đặt cọc cho tôi.   Vì vậy, tôi đã rất vui mừng khi được thoát khỏi ngôi nhà đó và sẽ không bao giờ chọn việc nuôi một Kuman Thong trong nhà.   Lần theo địa chỉ trang web có tên buachuThai…, chúng tôi đã tìm ra được một người quảng cáo có bán bùa chú Thái Lan. Người này có tên Linh H., đang hành nghề cô đồng tại Hà Nội. Được biết, H. trước đây cũng là một chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi công ty phá sản, bà này chuyển sang nghề cô đồng. Thỉnh thoảng, người này lại chắp mối cho nguời khác sang Thái Lan “thỉnh” bùa về.   Linh H. quảng cáo, khi nhắc đến bùa chú, không thể không nói tói bùa của Thái Lan và Campuchia. Trong đó, bùa Thái được giới doanh nhân săn lùng nhiều nhất, nhiều thương gia còn không tiếc chi hàng ngàn đô để đi tour rước bùa từ nuớc Thái về.   Lấy lý do đang bế tắc trong công việc làm ăn, muốn “thỉnh” bùa về giải hạn, sau cuộc điện thoại, cô đồng Linh H. mời chúng tôi đến tư gia để chọn mẫu bùa. Trong căn nhà cấp 4, người này dụng cái bàn nhỏ khoảng 1m2, đặt chính giữa đó là một bức tượng nhìn giống trẻ con. Theo quan sát của PV, bức tuợng kia trong suốt như thủy tinh, được nhuộm màu đen. Xung quanh được bài trí một vài cái chén nhỏ, một bát gạo, một vài hộp sữa nằm cạnh bao thuốc và que hương đang cháy dở.   Khi phóng viên hỏi về đặc điểm của loại bùa này, Linh H. chia sẻ: “Bùa ngải của Thái có rất nhiều loại. Nếu dựa vào công dụng thì chúng được phân loại theo bùa tình yêu, bùa công danh sự nghiệp và bùa bình an. Còn nếu dựa vào tính thiện – ác thì bùa thiện có tác dụng sai khiến người khác làm điều tốt, bảo vệ tính mạng chủ sở hữu. Ngược lại, bùa ác sẽ gây họa cho đói thủ hoặc khiến người khác phục tùng mình mà không cần lý do. Vì thế, trong quá trình làm phép, các pháp sư sẽ dựa theo công dụng để yểm bùa”.   Cũng theo cô đồng này, trong các loại bùa chú được du nhập về từ Thái Lan thì sức mạnh và sự ứng nghiệm nhất phải nhắc đến đó là bùa Kuman Thong. Loại bùa có hình dáng giống như một em bé. Người này giải thích: “Kuman trong tiếng Thái có nghĩa là bé trai, Thong có nghĩa là vàng. Sau khi làm xong hình hài bùa, chủ tế sẽ đọc lời niệm chú. Khi hoàn tất, bùa được mang đi mạ vàng và gia chủ đem về nhà để thờ. Quá trình làm bùa phải bắt đầu từ khi mặt trời mọc và hoàn tất trước sáng hôm sau. Vì thế, người ta nói rằng, Kuman Thong, tượng dát vàng hình bé trai có khả năng vô hạn”.   Về giá cả, bùa Kuman Thong được bán với giá từ vài trăm ngàn đến hàng triệu đồng cho khách bình dân. Họ có thể mua ở chỗ cô đồng Linh H.. Còn nhũng nguời khác nhiều tiền có thể sang tận Thái Lan “thỉnh” bùa để được tận mắt chứng kiến các thầy làm ra bùa của mình.   “Với người mua đi theo tour thì phải đặt lịch trước một tháng, còn những Kuman Thong bán ở Việt Nam, thích lúc nào đến lấy cũng được. Đắt là vậy nhưng bùa này vẫn đuợc giới doanh nhân, buôn bán ở Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông sử dụng rất nhiều. Ở nuớc ta cũng bắt đầu thịnh hành một vài năm nay”, cô đồng Linh H. bật mí. Khi tôi hỏi, liệu bùa có linh ứng như lời quảng cáo, cô đồng này nói rằng: “Thấy người ta bảo là linh lắm”.   Một trong những lý do khiến Kuman Thong được giới doanh nhân sử dụng là bởi niềm tin mê muội. Họ cho rằng, chúng có khả năng phá hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh. Thậm chí, nhièu người còn khẳng định, loại bùa này có khả năng phò trợ người “nuôi” làm ăn phát đạt. Tuy nhiên, trên thực tế, những “quyền năng” đó chỉ là lời truyền miệng, không có căn cứ.   Ngoài bỏ ra một khoản tiền lớn để “thỉnh” về, việc chăm sóc cho Kuman Thong được xem là vất vả và có phần quái dị. Nguời chủ phải đặt nó trên một chiếc bàn riêng, nơi kín đáo và “nuôi” dưỡng nó hằng ngày bằng một ly sữa hay nước ngọt. Họ truyền tai nhau rằng “con ma” nhỏ bé này có thể nhìn hay nghe thấy nhũng mối nguy hiểm với chủ nhân từ khoảng cách 20.000km.   Ngoài ra, trong quá trình tìm hiểu từ các doanh nhân đang có ý định “chơi” bùa Thái, chúng tôi còn được nghe rất nhiều lời đồn thổi về khả năng đáng sợ của Kuman Thong. Anh Lê V.H. (chủ một doanh nghiệp kinh doanh gỗ ở TP.Sơn Tây, Hà Nội) bày tỏ: “Bùa được xem là hiệu nghiệm khi chủ nhà cầu gì, Kuman Thong sẽ cho cái đó. Rất nhiều người nói rằng, họ trở nên may mắn, trúng số, làm ăn phát đại thờ Kuman Thong trong nhà. Mấy nay, xưởng gỗ ở đây mọc lên như nấm, buôn bán, kinh doanh của tôi tương đối khăn. Mấy hôm trước, bạn bè khuyên nên “nuôi” Kuman Thong”.   Theo anh H., nhiều người đồn thổi rằng việc “nuôi” bùa rất cầu kỳ và phức tạp. Nếu đã đặt Kuman Thong trong nhà phải rất cẩn thận. Khi muốn ngừng “nuôi”, không phải cứ ném hoặc hủy nó là được. Thậm chí còn khiến bùa quay lại vào chủ nhân của nó. “Mỗi khi nghe chuyện như vậy, tôi sợ đến nỗi nổi da da chẳng biết thực hư thế nào. Tôi quyết định không rước thứ bùa kinh dị này về nhà”, anh H. nói.   Người này còn kể cho chúng tôi nghe chuyện rắc rối từ việc “nuôi” bùa Thái anh tận mắt chứng kiến từ gia đình một nguời quen. Theo anh, tuy Kuman Thong chỉ là một đồ vật nhưng khi đã nuôi, ai cũng sợ quyền năng của nó. Bởi, trước khi nuôi Kuman Thong, họ đã đuợc người bán “nhồi nhét” những câu chuyện kỳ bí. Chính vì thế, nhiều người khi bế tắc trong công việc tìm đến bùa chú cũng giống như một đánh cược. “Có một gia đình tôi quen “nuôi” loại bùa này đe “phá” công việc làm ăn của đối thủ. Nhưng sau đó, công việc của công ty mình càng ngày càng tồi trong khi công ty của đối thủ lại ăn nên làm ra. Bực tức, anh chồng cầm bùa ném vào thùng rác. Thế rồi “thần hồn át thần tính lại đọc nhũng câu chuyện mê tín về bùa ngải trên mạng, anh chồng sợ hãi đến mức phải nhập viện tâm thần, vợ con thì bỏ đi. Sau khi điều trị khỏi cũng là lúc công ty của họ phá sản”, anh H. kể.

ST.
Giải mã câu chuyện bùa ngải nơi núi rừng Tây Nguyên Rùng rợn bùa ngải từ xác người Ly kì chuyện mỹ nhân Sài Gòn dùng bùa yêu chài đại gia
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thú chơi bùa ngải mới: Kuman Thong, thần tài hay ma?

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng thường dùng vì khắp nơi đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.
Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng thường dùng theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.

Các vị thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.

Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.

Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…

Sắm lễ cúng Ban Công đồng

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

– Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

– Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.

– Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

Hạ lễ cúng Ban Công đồng

Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.

Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.

Văn Khấn lễ Ban Công đồng

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương

– Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế

– Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu

– Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh

– Con lạy Tứ phủ Khâm sai

– Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu

– Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.

– Con lạy quan Chầu gia.

Hương tử con là:……………………

Cùng đồng gia quyển đẳng, nam nữ tử tôn

Ngụ tại:……………………………….

Hôm nay là ngày….. tháng….. năm Tín chủ con về đây……… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

Ngọc Hạp Ký

- Hứa Chân Quân - Tăng bổ cho mỗi nhà hàng ngày chọn để sử dụng Phần XEM THỜI TIẾT (Phục vụ nông nghiệp - theo âm lịch)
Ngọc Hạp Ký

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

BÀI CA 12 THÁNG CÁC TIẾT TỐT XẤU

1. Tháng giêng: Lập xuân, Vũ thuỷ
Năm mới mây đen bốn phương trời.
Tuyết lớn phân phân hạn khắp nơi.
Lập xuân mà được ngày trong sáng sáng.
Nhà nông thu hoắc chắc tay rồi
Ngày rằm sáng sủa hoả quả bội thu

2. Tháng hai: Kinh trập, Xuân phân
Sấm vang Kinh trập gạo tự nê.
Mưa ở Xuân phân bệnh ít ghê.
Trong tháng nếu mà ba ngày Mão.
Lúa hoa đậu mạch ắt đề huề
Ngày Xuân xá mưa tốt lành, quả ít
Tiết Lập xuân rồi xem đến ngạy "Mậu" thứ 5 là ngày Xuân xá

3. Tháng ba: Thanh minh, Cốc vũ
Đầu tháng Mồng một gặp gió mưa.
Nông thôn dịch bệnh phải phòng lo
Thanh minh mà được gió nam tới.
Chắc chắn nhà nông được bội thu.
Ngày Mồng ba có mưa, được tằm

4. Tháng tư: Lập hạ, Tiểu mãn
Lập hạ gió đông người ít bệnh.
Gặp thời Mồng tám quả nhiều ra.
Sấm vang Giáp tý, Canh tình nhật.
Nhiều sâu phá lúa phải liệu lo
Ngày Mùng bốn mưa thóc đắt.
Ngày mồng tám mưa cả năm tốt, ít quả.

5. Tháng năm: Mang chủng, Hạ chí
Mồng năm mưa xuống cả năm tốt.
Sấm vang Mang chủng cũng như trên.
Hạ chí gió từ Tây Bắc đến.
Rau rưa hỏng hết ở trong vườn.
Ngày Hạ chí có mưa cả năm tốt.

6. Tháng sáu: Tiểu thử, Đại thử
Nóng bức ở trong ba ngày phục.
Lúa màu trong ruộng nhiêu không kết.
Nếu phải vậy mà chẳng tai nguy.
Ba tháng đông về nhiều mưa tuyết.
Từ Hạ chí đến ngày "Canh" thứ ba là Sơ phục.
Sơ mục đến Mặt phục một tháng.

7. Tháng bẩy: Lập thu, Xử thử
Lập thu chẳng có mưa thì lo lắm.
Muôn vật từ đây thu một nửa.
Xử thử mà được mưa khắp chốn
Theo nhau kết quả, chẳng có lưu (tồn tại)
Ngày lập thu mưa nhỏ tốt, mưa lớn hại lúa.

8. Tháng tám: Bạch lộ, Thu phân
Thu phân mây trắng khắp trời bay.
Chốn chốn vui ca lúa (lúa muộn) được mùa.
Chỉ sợ ngày này nghe sấm dậy.
Mùa đông thóc gạo giá sao đây
Ngày Thu xã mưa trong năm tốt.
Tiết Lập thu rồi xem đến ngày "Mậu" thứ năm là Thu xã.

9. Tháng chín: Hàn lộ, Sương giáng
Mồng một sương sa ắt hại dân.
Trùng dương không mưa mùa đồng tạnh.
Trăng đỏ tháng này người nhiều bệnh.
Nếu mà có sấm giá rau tăng.
Ngày Trùng dương là ngày Mồng chín tháng Chín.

10. Tháng mười: Lập đông, Tiểu tuyết
Lập đông mà gặp phải canh "Nhâm"
Năm tới ruộng cao phí uổng tâm
Ngày ấy nếu lại là Nhâm tý
Tai thương tật bệnh hại nhân dân.
Ngày rằm trong sáng mùa đông khô hanh.
Ngày mười sáu trong sáng củi than bình thường.

11. Tháng mười một: Đại tuyết, Đông chí
Mồng một gió tây nhiệu trộm giặc.
Lại thêm tuyết lớn lắm tai ương.
Đông chí không mưa trời (mặt trời) không rõ.
Năm sau ắt hẳn được thái bình.

12. Tháng mười hai: Tiểu hàn, Đại hàn
Mồng một gió đống lục súc tai
Nếu mà tuyết lớn năm sau hạn.
Ngày ấy mà trời quang mây cũng tạnh.
Nhà nông ắt hẳn thảnh thơi chơi.

XEM NGÀY NGUYÊN ĐÁN U ÁM TRONG SÁNG
Ngày Nguyên đán sắc trời trong sáng, khí hậu ôn hoà, chủ quốc thái dân an, ngũ cốc tốt tươi người ít bệnh, gia súc hưng vượng, trộng cướp không. U ám lại có mưa, người sinh bệnh, ruộng vườn lụt lột, lục súc chẳng hưng, hoa quả kém. Gió dữ chủ giặc giã, lúa má chẳng lên, lục súc tai hại, năm hay hạn, rau quả ít. Nếu có tuyết lớn trong năm lúa mạch nở hoa tốt, trâu dê chó toi, quả hoa ít, thóc gạo kém, cá đắt, người yên.
Sắc mây có ánh đỏ chủ hoàng trùng phát sinh, tơ tằm ít, cây quả nhiều, rau rưa thịnh, đàn bà tai hại.
Sương mù nặng, trong năm đàn ông ôn dịch, trẻ nhỏ tai hại, tơ tằm rộng, mưa gió điều hoà.
Mưa sấm chớp, chủ yêu ma, giặc giã, người sinh bệnh rôm sẩy, trong tháng chớp nhiều, khí hậu ngược loạn âm dương phản thác, chớp mới người tai hại, mưa bay cát bụi thì tơ đắt, lúa kém.
Bốn phương có khí vàng, lúa ruộng rất tốt, khí trắng xấu, khí xanh sinh sâu bệnh, khí đó chủ hạn, khí đen chủ nước lớn.

XEM NGÀY NGUYÊN ĐÁN GẶP MỘT TRONG 10 HÀNG CAN
Gặp Giáp: Gạo kém người bệnh
Gặp Ất: Mạch đắt người bệnh
Gặp Bính: Có 40 ngày hạn, lại nói rằng chủ hạn ở tháng tư
Gặp Đinh: Tơ gai đắt
Gặp Mậu: Ngo, mạch, cá kém lại chủ hạn
Gặp Kỷ: Gạo đắt, tằm ít, mưa gió nhiều
Gặp Canh: Tiền vàng quí, lúa bội thu, người bệnh
Gặp Tân: Gai, mạch quí, lúa tốt
Gặp Nhâm: Gạo, mạch kém, vải, bạc, đỗ quí
Gặp Quý: Lúa kém, người dịch, mưa nhiều.

XEM NGÀY TÝ THUỘC HÀNG CAN GÌ THEO THƯỢNG TUẦN THÁNG GIÊNG
Ca rằng:
Giáp tý thì hay, Bính tý hạn
Mậu tý sâu trùng, Canh tý loạn
Nếu mà Nhâm tý nước lưng giời
Đều ở Mồng một đến Mồng mười tháng Giêng.
Nghĩa là:
Có ngày Giáp tý thì năm ây thịnh vượng
Có ngày Bính tý thì năm ấy hạn
Có ngày Mậu tý thì năm đó nhiều sâu bệnh
Có ngày Canh tý thì hay loạn lạc
Có ngày Nhâm tý thì năm ấy hay lụt lội, úng thuỷ.
Tính từ Mồng một đến Mồng mười tháng Giêng. Có thể năm trong 10 ngày ấy không có ngày Tý thì không nghiệm.

XEM BỐN MÙA NGÀY GIÁP TÝ THÉ NÀO
Mùa Xuân: Ngày Giáp tý mưa thì chăn nuôi gia súc chết toi
Mùa Hạ: Ngày Giáp tý mưa thì chèo thuyền vào chợ, nghĩa là lụt lội, úng thuỷ
Mùa Thu: Ngày Giáp tý mưa thì hạt hóc có tai, nghĩa là mùa Thu mưa nhiều hạt tóc mọc hoa rêu ra.
Mùa Đông: Ngày Giáp tý mưa thì rét lớn dữ dội.

XEM NGÀY SẤM ĐỐNG ĐẦU NĂM
Sấm ở phương Đông Bắc mói thứ đều hại.
Ở phương Đông Nam thì nhiều sâu bệnh
Ở phương chính Nam thì hay bị hạn (nắng nhiều)
Ở phương Tây nam sâu phá hại lớn
Ở phương chính Tây vàng, sắt đắt.
Ở phương Tây Bắc nước thái bình, dân có tai.
Ở phương chính Bắc trong năm mưa nhiều.
Tháng năm mới nghe sấm động thì người ta không có cái thổi nấu. Mùa Thu sấm nhiều ngũ cốc chẳng kết thực. Mùa Đông sấm vang dội, ngũ cóc tốt, người chẳng yên ổn, binh đao nổi dậy.

XEM VÀO NGÀY MƯA DẦN RA NGÀY MƯA DẦM
Tháng ba là đón Mai vũ. Tháng năm là Tống Mai vũ. Sau Mang chủng gặp ngày "Bính" mà mưa dầm. Ngày Tiêu thử gặp ngày "Mùi" nắng ráo hết mưa dầm, như âm u, mưa dầm trở lại.
Lại nói: Mưa đánh đầu Tiểu thử - Hoàng mai quay chuyển lưu.

XEM NGÀY LẬP XUÂN
Khí trời trong sáng trăm vật thành. U ám mưa chủ nước lớn. Phương Đông nhiều mây thì năm ấy tốt lành. Gió Đông thổi về thóc hại, nhân dân bình yên. Gió Tây chủ hạn thóc kém, trộm cắp phát sinh. Gó Nam gia súc yên. Gó bắc nước êm đềm.
Âm dương một khí tiên
Tạo hoá tổng do thiên
Hay xem Lập xuân nhật
Gặp Giáp Ất thì tốt
Bính Đinh hay đại hạn
Mậu Kỷ rộng nương tốt
Canh Tân người yên lành
Nhâm Quý nước liên thiên.



XEM NGÀY XUÂN PHÂN
Phương Đông có mây xanh, lúa mạch đạt, nếu trong sáng không có mây vạn vật chẳng thành, người hay bị bệnh nóng nhiệt. GiosTây thì lúa mạch kém, gió Đông lúa mạch hại, năm tốt lành. Gió Nam thì tháng 5 truowcscó mưa sau hạn. Gió Bắc thóc gạo đắt.

XEM NGÀY LẬP HẠ
Ngày Lập hạ thật trong sáng, năm ấy hạn, gió Đông ngũ cốc thu khá, nhân dân yên ổn. Gió Nam người hay đau ốm, lúa má khô nẻ. Gió Tây lục súc tai hại. Gió Bắc cá ốc nhiều. Nhược bằng cùng thời kỳ, gió Đông, gió Tây lung tung trong 10 ngày mà thanh khí hiện ra. Lại có gió Đông Nam thì năm ấy tốt lắm. Nếu thanh khí mà không hiện ra, thì năm ấy nhiều gió lớn. Gió Bắc nước dầm thời đất động, người dịch. Gió Tây sâu bệnh nhiều thành tai dịch. Gió Đông chủ việc sấm sét hại chết vật.

XEM NGÀY HẠ CHÍ
Ngày Hạ chí gặp Bính dần, Đinh mão: Ngô quý. Ngày ấy lúc giờ Ngọ, phương Nam có mây đỏ như hình thù con ngựa, gọi là Ly Cung Chính Khí thì ngũ cốc tốt. Như mây đổ không hiện thì ngũ cốc tít thành, người phải lo bệnh về mắ, lại hay nắng lắm. Gió Nam tốt lắm. Gió Bắc ruộng cao hạn. Gió Tây Nam tháng 6 có nước ứng lũ, người hại. Gió Tây Mùa thu mưa lớn. Gió Đông thì tháng 8 người bệnh. Gió Bắc gạo phía Bắc quí. Ngày 30 mà mưa gió, mùa Xuân tới gạo và mạch quí.

XEM NGÀY LẬP THU
Ngày Lập thu sấm nổi chưa khuyết thu, ngày ấy mưa rau được. Gió Đông người dịch, thảo mộc đều tốt. Gió Nam mùa thu hạn. Gió Tây mưa lớn. Gió Bắc mùa Đông nhiểu mây. Giờ Thân phương Tây Nam có mây đỏ được ngô. Không mây vạn vật chẳng thành.

XEM NGÀY THU PHÂN
Ngày Thu phân tạnh ráo trong sáng thì vạn vật chẳng sinh. Có mưa nhỏ, âm u tốt. Ngày giờ Dậu có gió, có mây trắng như bầy dê là chính khí đến vậy, lúa nếp được, năm tốt lành. Khí trắng và tạp khí hỗn thì có chi và gai có thu. Có sương người nhiều bệnh mà ứng vào tháng 02 năm tới. Gió Đông vạn vật chẳng thực, thóc quí. Gió Tây dân yên, người được mùa. Gió Tây Bắc có cướp bóc. Gió Đông Nam, hay có gió dữ đến. Gió Bắc rét lạnh nhiều. Gió Đông Bắc chủ tháng 11 âm thâm lâu. Ngày 30 gió nam thì xấu, gió Tây thì thổ phát triển.

XEM NGÀY LẬP ĐÔNG
Ngày Lập đông thuộc Hoả thì khong có mưa tuyết, ấm áp, năm tới hạn. Thuộc Thuỷ-Mộc năm sau mùa xuân mưa nhiều quả cây đua nở, năm sau hạn. Gió Đông, sấm mùa Đông xấu. Gió Nam, năm tới tháng 05 người bệnh. Gió Tây xấu. Gió Bắc mùa đông nhiều tuyết, cầm thú chết nhiều. Phương Tây Bắc có mây trắng như rồng như ngựa, gai được, nếu không có thì rét lớn hại vật, người bị dịch bệnh ở tháng 04 năm tới.

XEM NGÀY ĐÔNG CHÍ
Ngày Đông chí gặp hàng can Nhâm chủ hạn lớn nước nhỏ. Ngày 02 gặp can Nhâm hạn nhỏ. Ngày 03 gặp Nhâm hạn lớn. Ngày 04 gặp can nhâm ngũ cốc tốt lắm. Ngày 05 gặp Nhâm nước nhỏ. Ngày 06 gặp Nhâm nước lớn. Ngày 07 gặp Nhâm sống lưu hà. Ngày 08 gặp Nhâm..... Ngày 09 gặp Nhâm tốt lắm. Ngày 10, 11, 12 gặp Nhâm ngũ cốc chẳng thành. Gió nhiều rét lắm, năm tốt, người yên. Gió Đông người tai hại, nghé non hay chết. Gió Nam thóc quí. Gió Bắc mùa màng bội thu. Gió Tây lúa được người yên. Mây xanh từ phương Bắc đến năm tới tốt lành, không mây xấu. Mây đỏ chủ hạn. Mây đen chủ nước lớn. Mây trắng chủ người bệnh tật. Mây vàng nghề thợ phát triển.

(Còn tiếp)

XEM 60 NGÀY THEO VÒNG GIÁP TÝ MƯA, TẠNH
Mưa ngày Giáp tý, ngày Bính dần tạnh
Mưa ngày Ất sửu, ngày Đinh mão tạnh
Mưa ngày Bính dần, trong ngày tạnh
Mưa ngày Đinh Mão, tối tạnh
Mưa ngày Kỷ tị, tạnh ngay
Mưa ngày Canh ngọ, ngày Tân mùi tạnh
Mưa ngày Tân mừi, ngày Mậu dần mới tạnh
Mưa ngày Nhâm thân, tạnh ngay
Mưa ngày Quí dậu, ngày Giáp tuất tạnh
Mưa ngày Giáp tuất, tạnh ngay
Mưa ngày Ất hợi, trong ngày tạnh
Mưa ngày Bính tý, tạnh ngay
Mưa ngày Đinh sửu, tối tạnh
Mưa ngày Mậu dần, tạnh ngay
Mưa ngày Kỷ mão, tạnh ngay
Mưa ngày Canh thìn, tạnh ngay
Mưa ngày Tân tị, ngày Quí mùi tạnh
Mưa ngày Nhâm ngọ, tạnh ngay
Mưa ngày Quí mùi, ngày Giáp thân tạnh
Mưa ngày Giáp thân, tạnh ngay
Mưa ngày Ất dậu, ngày Bính tuất tạnh
Mưa ngày Bính tuất, tối tạnh
Mưa ngày Đinh hợi, tạnh ngay
Mưa ngày Mậu tý, ngày Canh dần tạnh
Mưa ngày Ất sửu, Nhâm dần tạnh
Mưa ngày Canh dần, tạnh ngay
Mưa ngày Tâm mão, ngày Quý tị tạnh
Mưa ngày Nhâm thìn, ngày Quí sửu tạnh
Mưa ngày Quí tỵ, tốt tạnh
Mưa ngày Giáp ngọ, tạnh ngày
Mưa ngày Ất mùi, Đinh dậu tạnh
Mưa ngày Bính thân, tối tạnh
Mưa ngày Đinh dậu, Kỷ hợi tạnh
Mưa ngày Mậu tuất, Tân sửu tạnh
Mưa ngày Kỷ hợi tạnh ngay
Mưa ngày Canh tý, Giáp thìn tạnh
Mưa ngày Tân sửu, Nhâm dần tạnh
Mưa ngày Nhâm dần, tạnh ngay
Mưa ngày Quý mão, tạnh ngay
Mưa ngày Giáp thìn, tạnh ngay
Mưa ngày Ất tị, ngày Bính ngọ tạnh
Mưa ngày Bính ngọ, tạnh ngay
Mưa ngày Đinh mùi, tạnh ngay
Mưa ngày Mậu thân, Canh tuất tạnh
Mưa ngày Ất dậu, ngày Tân hợi tạnh
Mưa ngày Canh tuất, tạnh ngay
Mưa ngày Tân hợi, ngày Quí sửu tạnh
Mưa ngày Nhâm tý, Quí sửu tạnh
Mưa ngày Quí sửu, tạnh ngay
Mưa ngày Giáp dần, tạnh ngay
Mưa ngày Ất mão, Bính thìn tạnh.
Mưa ngày Bính thìn, Đinh tỵ tạnh
Mưa ngày Đinh tị, tạnh ngay
Mưa ngày Mậu ngọ, tạnh ngay
Mưa ngày Kỷ mùi, tạnh ngay
Mưa ngày Canh thân, Giáp tý tạnh
Mưa ngày Tân dậu, tạnh ngay
Mưa ngày Nhâm tuất, tạnh ngay
Mưa ngày Quí hợi, tạnh ngay
(Còn tiếp)

XEM BẦU TRỜI
Buổi sớm phương Đông Nam tối đen, thì đến trưa sẽ mưa (trước Ngọ)
Buổi chiều phương Tây Bắc tối đen, thì nửa đêm sẽ mưa gió.

XEM MÂY
Buổi sớm trời không mây. Mặt trời ra tạm sáng
Buổi chiều phương Tây sáng . Hôm sau trời trong xanh
Ngoài trời tơ trắng bay. Nắng lâu chẳng hẹn kỳ
Sớm ra vùng biển có mây lên. Giờ thìn mư nhỏ, gió vừa tới
Gió tạnh, nhiệt bốc hơi. Mưa sấm sét đùng đùng
Gió Đông thổi mây sang Tây. Mưa chẳng có kéo dài
Gió Đông mà giờ Mão kéo mây. Mưa xuống hết giờ Thìn, giờ Tỵ
Mây từ phía Nam u ám. Mưa gió giờ Thìn sẽ thấy
Mặt trời mọc mà mây che. Không mưa thì trời cung u ám
Mây theo gió mưa mà tan. Gió mưa nhỏ cũng hết
Mây lên theo gió mà đi. Mưa gió chuyển giờ thìn
Mặt trời mờ, mây đen tiếp đến. Mưa gió chẳng phải bàn
Mây kéo đầy chân núi. Mưa gió đến liền liền
Mây theo "Long môn" kéo lên. Gió dữ mưa lớn liền
Tây Bắc mây đen sinh phát. Sấm sét mưa dữ dội
Hình giáng mây như bầy cá. Sớm mai gió sẽ nhiều
Mây như hình lưỡi câu sau giờ Ngọ. Sắc gió nối tiếp nhau như người
Hè mà mây lưỡi câu phát sinh. Mùa thu cũng tiếp như thế
Sáng sớm có mây chẳng lo. Ban đêm mây ủn thũm phương Tây
Loạn mây trời chói buộc. Mưa gió thời chẳng ít
Gió đuổi mây loanh quanh. Thì mây càng u ám.
Khuyên ai chẳng đi xa. Mây hồng mới lúc nhiều lên
Tạnh ráo chẳng khả hứa.

XEM GIÓ
Mùa Thu mùa Đông gió Đông Nam. Hỏi mùa ấy chẳng gặp lành
Mùa Xuân mùa Hè gió Tây Bắc. Mùa Hè mưa chẳng thuận
Hởi đầu giớ chẳng lớn (dài). Sau mưa sẽ có độc
Xuân Hè gió Đông Nam. Chẳng cầu hỏi ông giời (tốt)
Thu Đông gió Tây Bắc. Trời quang tạnh đáng mừng
Suốt mùa Hè thế gió nhẹ. Thuyền tầu ắt nên đi
Mùa Thu thế gió lớn. Thế gió chẳng yên lành
Mùa Hè đêm gió nhiều. Trong sáng mai chẳng hết
Mưa qua gió Đông đến. Thì sau càng thêm nhiều (gió)
Buổi sớm gió mưa đã công kích. Gió dữ thật khó tránh
Mồng ba mà gió táp. Mồng bốn hoàn khá thư
Ngày 15 và ngày 23. Gió táp ta đáng sợ
Ngày 7 và 8 có gió. Hỏi gió đầu có đến
Tuyết mà xuân nhiều lần. Có gió phải nên ghi
Tháng 2 nhiều mưa gió. Ra ngoài phải nhớ ghi Ngày 8 ngày 13, 19 và 21
Tháng 3 ngày 18 có mưa. Đến 18 tháng 4
Mưa gió sẽ tuôn trào. Thuyền bè người phải cẩn thận
Ngày Đoan ngọ hỏi gió đầu. Đến trung cửu phải nên ghi
Gió Tây Bắc to lớn. Quay về nam thì đất loạn
Tháng 6 ngày 11-12. Từ thượng cổ đều kỵ
Tháng bẩy mười ngày đầu. Mùa thu chẳng khai thuyền
Tháng tám mười ngày giữa. Theo nước trào chẳng nên rời.

XEM NGÀY
Mây như hình chim xuất hiện. Mưa tất quay rỏ giọt
Dưới mây mà mặt trời sáng. Tạnh ráo chẳng phải phòng.
Buổi sớm mặt trời như dát ngọc. Gió mạnh sẽ nổi lên
Sau buổi sớm mà mặt trời như dát ngọt. Ròi sẽ có mưa
Ngày lẻ mà như dát ngọc. Ngày chẳn theo như thế
Trước Ngọ mặt trới có quầng. Gió nổi lên ở phương Bắc
Sau Ngọ mặt trời có quầng. Phải phòng thế gió dữ
Vầng theo mở cửa mà thấy. Thì sắc gió chẳng cuồng đơn
Sớm trắng, chiều đỏ (vầng). Mưa bụi gió bay
Mặt trời lặn nấp sau mây hồng. Không mưa, ắt gió
Buổi sớm mặt trời như bốc lửa. Gió khô khan, phát triển.
Buổi sớm mặt trời còn chưa thấy mà như bốc lửa. Mưa ắt sẽ đến.
Buổi chiều sáng như đuốc trên trời. Thì triời sẽ u ám
Mặt trời tạnh sáng (sắc thái). Sẽ tạnh lâu
Mới sớm mà mặt trời đã trong sáng. Sự khô tạnh chẳng bền
Nếu phản chiếu ánh vàng. Ban ngày có gió dữ
Sau giờ ngọ mà mây che khuất. Đên mưa đầm đìa.

XEM CẦU VỒNG
Sau khi mưa mà có cầu vồng. Hẹn đến kỳ trong sáng tạnh
Cầu vồng đứt đoạn thấy muộn. Chẳng có diễn biến ra sao
Cầu vồng một đoạn buổi sớm rạp. Nếu có gió thì chẳng sợ.

XEM SƯƠNG MÙ
Buổi sớm có sương mù thì thu . Ắt trời trong khô tạnh
Nếu mùa sương mà sương chẳng có. Ắt mưa mãi chẳng thôi
Ba ngày sương mù dầy đặc. Ắt có gió dữ
Mà cầu vồng trắng giáng xuống. Thì sương mù ác (sấu) phải tan.

XEM CHỚP
Chớp loé phương Tây Nam. Ban ngày sẽ nắng nóng
Chớp loé phương Tây Bắc. Mưa xuống liền liền
Giờ Thìn chớp loé bay. Hẹn ngày gió táp sẽ tới.
Chớp loé sáng lung trung. Không mư gió tạnh
Sao sáng, sáng muộn muộn. Mưa xuống thì gió to.

NGHIÊN CỨU CÂU ĐÔI KHÂM THIÊN GIÁM
Hạ chí "tân" phùng tam phục nhiệt - Trùng dương mậu ngọ nhất dung kiền.
Ngày Hạ chí gặp "tân" thời kỳ tam phcuj nóng. Mồng 9 tháng 9 gặp Mậu thì mùa Đông khô, không mưa.
Lại có thơ rằng:
Trùng dương vô vũ khám thập tam
Thập tam vi vũ nhất đông càn.
Nghĩa là: Mồng chín tháng 9 không mưa thì xem ngày mười ba. Ngày 13 mà không mưa thì suốt mùa đông không có nước.
Tức là tục truyền rằng: " Mậu ngọ tác vô vũ" mậu làm không mưa.
Ngạn ngữ lại nói rằng: Thu hoa bất thu hoa đơn khoan chính nguyệt nhị thập bát.."
Nghĩa là: có thu được hoa hay không thì xem ngaà 28 tháng giêng. Ngày 28 tháng giêng mà khí trời tạnh ráo trong sáng không gió không sương thì ắt thu hoạch miêu hoa (tốt)
- Bát nguyệt thập ngũ vân dã nguyệt
Nghĩa là: Ngày rằm tháng tám, trăng có mây đón dường (mây xung quanh trăng) thì chuẩn bị sang năm tuyết nhiều (tuyết đánh đèn)
Tháng 8 ngày mồng một mà bị một trần. Thì tháng 5 năm sau hạn cả tháng.
- Tháng 3 mà gặp tiết Thanh minh thì cây chẳng già.
- Tháng 2 mà gặp tiết Than minh thì cây đã già rồi.
(Tiết Thanh minh ở tháng 2 cây cối kém phát triển, hoa quả ít)

XEM THIÊN VĂN NHẬT NGUYỆT
Biển Đông đến biển Tây 350.000 dặn. Biển Nam đến Biển Bắc 490.000 dặm. Từ Đông sang Tây 910.000 dặm. Từ Nam đến Bắc 800.000 dặm. Từ trời xuống đất 84.000 dặm. Quả đất dầy 73.200 dặm.
Trên có 9 sông 8 hà. Dưới có 5 hồ 4 biển. Giữa trời có một dải sông gọi là hà. Thiên tiên Hoàng Hà. Gió đến mặt đất 80 dặm. Mưa đến mặt đất 40 dặm. Tuyết đến mặt đất 100 dặm. Mây đến mặt đất 150 dặm. Mặt trời vuông tròn 860 dặm hình quan sát. Mặt trăng vuông tròn 880 dặm quan sát chiếu sáng khắp thiên hạ.
Đoạn này xuất tự thiên văn vào sách tổng ghi chép suốt tam nguyên (ba hội thượng, hạ, trung nguyên)

NĂM HỒNG VŨ THỨ 8. KHÂM THIÊN GIÁM TÂU GIÁNG
THIÊN NGƯU KINH XUÂN thức
XUÂN NGƯU NHAN SẮC thơ
Thơ rắng:
Niên can vi đâu thân thuộc chi
Hạp âm vi phúc bất sai di
Xuân nhật thiên ca gốc nhĩ vĩ
Chi vi đai hình nạp âm đề
Dương niên ngưu khẩu khai vi đích
Ngưu vĩ tả hách bất tu nghi
Âm niên ngưu khẩu đoạn nhiều hợp
Ngưu vi hữu hách giữ nhân tri
Chử Hiêu; giây buộc, Hách là đệm lót.
Ở thơ này nên đọc là Hiêu tức là giây buộc
Dịch nghĩa:
Can của năm ấy là đầu. Chi của năm ấy là thân (mình)
Nạp âm (Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) là bụng
Ngày xuân thiên can là sừng, tai, đuôi
Chi là ống chân đầu gối, nạp âm là móng.
Năm dương (giáp, bính, mậu, canh, nhâm) miện mỏ làm đích
Đuôi trâu vắt về bên trái thì phải xem xét.
Năm âm (ất, đinh, kỷ, tân, quí) miện trâu ngậm đoan trang
Đuôi trâu vắt về phên phải thì càng người biết đến.
(Hình dáng trâu khi dong thừng ở bên phải, hay bên trái, có thể thay cho đuôi vắt phải hay vắt trái, cũng có nghĩa)

XEM NIÊN CAN (thuộc hàng can): Giáp Ất thuộc sắc xanh. Bính Đinh thuộc hoả sắc hồng. Canh Tân thuộc Kim sắc trắng. Nhâm Quý thuộc Thuỷ sắc đen. Mậu Kỷ thuộc thổ sắc vàng.

XEM NIÊN CHI (thuộc hàng chi): Dần Mão thuộc Mộc sắc xanh. Tỵ Ngọ thuộc Hoả sắc hồng. Thân Dậu thuộc Kim sắc trắng. Hợi Tý thuộc Thuỷ sắc đen. Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc thổ sắc vàng.
Cách theo nạp âm như Giáp Tý là ngày lập xuân thuộc Hải trung kim - Kim sắc trắng, mộc sắc xanh..vvv (xem nạp âm ở các tài liệu khác).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngọc Hạp Ký

Thực hư về "trùng tang"

Trùng tang liên táng là một hiện tượng huyền bí chưa được giải thích một cách rõ ràng nhưng vẫn có nhiều câu chuyện chứng thực hiện tượng trùng tang này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trùng tang là một hiện tượng mà từ trước tới nay vẫn luôn được thêu dệt một cách huyền bí, mang màu sắc tâm linh rõ rệt và thể hiện “quyền lực” siêu nhiên không giới hạn của con người ngay cả khi đã… chết. Vậy “trùng tang” có thật hay không và nên hiểu nó như thế nào trên cả hai phương diện khoa học duy tâm và duy vật

Những cái chết “liên trận kỳ hồi”

Cách đây hơn một năm, nhiều tờ báo đưa tin về trường hợp trùng tang ở quận Tây Hồ, Hà Nội rất đáng sợ. Đó là một gia đình trong một ngày xảy ra 2 cái chết của bố chồng và nàng dâu cách nhau chưa đến 5 tiếng đồng hồ. Điều đáng nói là người con dâu đang khỏe mạnh bình thường, vẫn còn đang tất bật chuẩn bị “hậu sự” cho bố chồng thì bỗng nhiên đột tử vì cảm. Để tránh không chôn cất cùng một giờ, hơn nữa, chưa được “giờ đẹp” nên người bố “hạ huyệt” trước, sau đó người con dâu mới được khâm liệm và hạ huyệt sau.

Khỏi phải nói gia tộc đó hoảng sợ đến mức nào, nhất là người con trai cả đồng thời cũng là chồng của người vợ quá cố. Anh rất lo lắng cho đứa con trai độc nhất 15 tuổi và cả bản thân mình. Vì người ta bảo nhà anh bị “trùng tang”. Từ trước tới nay anh có biết “trùng tang” là gì đâu, hơn nữa, những chuyện như vậy chẳng khi nào anh quan tâm do không biết thực hư thế nào. Nhưng khi trong gia đình mình cùng lúc 2 cái chết của bố và vợ thì anh hoảng hồn thực sự, đến nỗi ai bảo gì anh làm nấy để gọi là tránh chuyện tương tự xảy ra.

Như gia đình trên đây, thì một gia đình ở ngay phố Ngọc Hà, quận Ba Đình cũng xảy ra những cái chết tương tự. Chỉ khác là gia đình này, trong vòng 3 năm, 2 người con trai duy nhất trong gia đình đều “đi” theo bố và “đi” một cách “bất đắc kỳ tử”. Người bố sau một thời gian bị bệnh nan y thì qua đời khi ở tuổi “thất thập cổ lai hy”. Nỗi đau của những người trong gia đình chưa qua thì chỉ sau cái lễ 100 ngày của ông ít hôm, lại đến con trai trưởng của ông mất. Cái chết của anh ở tuổi “vẫn còn đang xoan” không chỉ khiến cho người ta thương tiếc mà còn làm cho câu chuyện về “trùng tang” được tin nhiều hơn và thêu dệt nhiều hơn.

Đêm hôm trước, anh vẫn còn ngồi quán nước và nói chuyện oang oang về thế sự, không một chút biểu hiện của người đau ốm, bệnh tật. Thế mà sớm hôm sau, khi vợ gọi anh dậy để đỡ chị dọn hàng bán đồ ăn sáng như mọi khi, anh đã mãi ngủ không bao giờ dậy. Liên tiếp 2 cái chết xảy ra trong vòng hơn 3 tháng, tưởng như gia đình anh không thể gắng gượng được.

Vậy mà chưa hết, 2 năm sau, người con trai út đang phơi phới tuổi xuân bỗng dưng một chiều đi làm về kêu mệt, vào giường nằm rồi mất lúc nào cũng không ai biết. Cả gia đình nhộn nhạo, hoảng loạn. Không ai có thể giải thích được nguyên nhân vì sao chỉ trong thời gian ngắn mà cả 3 người đàn ông trong nhà đều ra đi ngoài lý do duy nhất: “Trùng tang”. Và trùng tang như thế được gọi là “trùng tang liên táng”.

Vậy trùng tang là gì?

Thực ra, từ trước tới nay, chưa bao giờ có một định nghĩa chính thống về “trùng tang” mà chỉ dựa trên hiện tượng rồi đúc kết thành quan niệm. Ngay cả, Phật pháp cũng không định nghĩa về hiện tượng này, mặc dù đây là “hồn cốt” của thế giới tâm linh. Theo cách hiểu dân gian “trùng tang” là trường hợp người chết “phạm” phải năm hoặc tháng hoặc giờ xấu do đó linh hồn không siêu thoát nên cứ quanh quẩn trong nhà trở thành “trùng” (có khái niệm cho rằng là “âm binh”) rồi lần lượt “bắt” theo từng người thân trong dòng tộc.

Nhưng phải trong 3 năm liền xảy ra liên tiếp những cái chết của những người trong cùng dòng tộc mới coi là “trùng tang”. Còn nếu không thì không phải. Có rất nhiều người nhầm lẫn điều này nên thấy trong gia tộc có nhiều người mất nhưng không phải trong 3 năm liên tiếp vẫn nhận là bị “trùng tang”.

Cách tính “trùng tang” theo “Phật pháp bách vấn” thì như thế này: Đối với những người tuổi thân, tý, thìn nếu mất vào một trong bất kể ngày hoặc tháng, năm, giờ tỵ thì coi là bị mất vào ngày trùng tang, còn được gọi là ngày “kiếp sát”. Tức là những tuổi đó “kỵ tỵ”. Mà đã ‘kỵ tỵ” thì những người tuổi thân, tý, thìn càng không được an táng vào ngày tỵ. Tương tự cách tính ấy, tuổi dần, tuất, ngọ kỵ hợi; tuổi tỵ, dậu, sửu kỵ dần; Hợi, mão, mùi kỵ thân. Tiện ích tính tự động trùng tang liên táng tại đây

Còn cách tính ngày trùng là chẳng hạn, ngày dần, tháng dần, năm dần, hay ngày thân, tháng thân, năm thân… cũng được gọi là ngày “trùng”. Ngày “trùng” này không tính riêng cho một tuổi nào mà bất kỳ người tuổi nào mất vào ngày “trùng” cũng “kỵ”.

Sách “Tam giáo chính hội” còn nói đến cách tính “trùng tang” cổ xưa là phải tính theo niên, nguyệt, nhật, thời (năm, tháng, ngày, giờ) thì mới biết người quá cố có “trùng tang” hay không. Theo cách tính đó thì những người mất ở tuổi (âm lịch): 10, 13, 16, 19, 22, (cứ cộng thêm 3) thì sẽ bị “trùng tang”. Hoặc những người tuổi tý, ngọ, mão, dậu nếu mất vào một trong các năm tuổi ấy, cũng coi là “trùng tang”…

“Lực siêu nhiên” hay tình cờ?

Tuy nhiên, việc “trùng tang” có thật hay không hay chỉ là sự ngẫu nhiên tình cờ?

Mặc dù là thế giới tâm linh đầy huyền bí và cũng có hẳn cách tính ngày “trùng tang” nhưng Phật giáo lại quan niệm về “trùng tang” như thế này: Sống chết là chuyện thường niên, do nghiệp lực của tự thân mỗi người chi phối. Sống và chết chỉ là hai hiện tượng trong tiến trình luân hồi bất tận. Nghiệp tuy có chung và riêng song nghiệp riêng vẫn giữ vai trò chủ động, quyết định, có tính cách độc lập, không ai có thể thay thế cho ai. Vì thế Phật giáo không có quan niệm về ngày trùng tang, trùng nhật và hoàn toàn phủ nhận việc ngày giờ mất cũng như chôn cất của một người mà có thể ảnh hưởng đến sự sống chết của người khác…”.

Trên cơ sở khoa học, GS.VS Đào Vọng Đức, PGS.TS Hà Vĩnh Tân, những nhà vật lý thuộc Hội Vật lý Việt Nam cũng đã bỏ nhiều thời gian nghiên cứu về vấn đề này đã lý giải theo cách của mình.

Mà cách lý giải ấy rất giống với những kiến giải của cố GS Nguyễn Hoàng Phương - nhà vật lý học nổi tiếng - từng giải thích hiện tượng “trùng tang” theo lý thuyết sóng điện từ và trường năng lượng: “Trong mối quan hệ giữa người chết bị “trùng tang” và người bị “trùng bắt” không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số khác nhau nhiều nên theo lý thuyết về nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (tần số này là bội số của tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống”. 

Còn TS Đỗ Kiên Cường, một người rất am hiểu về những khả năng tiềm ẩn của con người, về những cái gọi là “thế lực siêu nhiên”… đồng thời là tác giả của rất nhiều bài viết lý giải về vấn đề này dưới góc độ khoa học cho rằng: “Trùng tang” đơn giản chỉ là sự trùng hợp mang tính ngẫu nhiên. Trong đó, bản chất của sự trùng hợp là luật số lớn trong lý thuyết xác suất và thống kê. Định luật này đơn giản có thể hiểu là: “Với một mẫu xét đủ lớn, bất kỳ hiện tượng kỳ lạ nào cũng có thể xảy ra”.

Như vậy, với những cách giải thích trên đây, mặc dù chưa có cách giải thích nào có thể chứng minh theo kiểu “tai nghe mắt thấy” nhưng rõ ràng “trùng tang” chỉ là một quan niệm “siêu thực”, xuất phát và tồn tại trong tín ngưỡng, thế giới tâm linh của con người. Và khi đã tồn tại trong tín ngưỡng dân gian, thế giới tâm linh của con người thì nhận định như nhà văn hóa Trần Lâm Biền “cần gì phải biết đúng - sai; thực - hư mà cứ để nó như vậy. Duy chỉ có điều không được khoác lên nó, thêu dệt xung quanh nó màu sắc mê tín dị đoan”.

Còn cách “hóa giải” trùng tang như Phật giáo khuyên: “Vì là tập tục đã ăn sâu vào tâm thức mọi người nên trong tinh thần phương tiên, nhà chùa vẫn khuyên các Phật tử không an táng thân quyến vào những ngày trùng, nhằm giúp họ an tâm để chu toàn tang lễ đồng thời nỗ lực cầu nguyện, khai thị, làm phúc hồi hướng cho hương linh. Đây mới là những điều cần làm để “âm dương lưỡng lợi” theo quan điểm của Phật giáo”.

Còn để “trấn an” tinh thần của những người còn sống, dân gian có cách “giải” trùng tang là: dùng các vị thần sa, chu sa, sương luật, địa liền… cho vào một cái túi rồi đặt trong quan tài người chết. Hoặc có thể dùng bộ linh phù để gối đầu người đã khuất, dán lên ngực, hoặc lót dưới quan tài… Bộ linh phù này được biết ở chùa Hàm Long, Bắc Ninh có bộ ván in khắc phù giải đã có mấy trăm năm nay. Người dân có thể đến đây nhờ các sư thầy tư vấn mà không nên lập đàn tế lễ tốn kém, gây hoang mang cho người còn sống…

Theo Tùng An


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thực hư về "trùng tang"

Trả lời Chu Dịch (mẫu 3)

XEM TRẢ LỜI GIẢI QUẺ CHU DỊCH MẪU (3) (Vì lí do riêng tư, nên tên họ trong bài viết đã thay đổi.)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi 1: Công việc hiện tại đã không được gia han, tôi đã nộp hồ sơ xin viec vào ngày 2/10/2015 vị trí điều phối viên của khách hàng-kiểm tra y tế. Cho tới giờ tôi chưa nhận được thông tin gì từ nhà tuyển dụng. Vậy tôi muốn hỏi liệu tôi có hy vọng gì ở vị trí này không?

Trả lời:



Câu hỏi 2:con trai tôi cao, gầy, không trắng không đen. Hiện cháu đang học lớp 11. Tôi muốn biết cháu hợp với nghề nghiệp gì để định hướng cho cháu thi vào các trường đại học. Xin quý vị tư vấn giúp

Trả lời:

Câu hỏi 3: Toi muon biet toi va nguoi ban N sinh ngay 10-5-1962, co di den hon nhan ko?

Trả lời:

Câu hỏi 4: Tôi là nữ, sinh 02/05/1980 lúc 10:10 tối tại miền Nam VN, xin cho biết tình duyên của tôi trong 2 năm 2015-2016? 

Trả lời:


Câu hỏi 5: Tôi Muốn hỏi khi nào tìm được việc làm mới 

Trả lời:

Câu hỏi 6: Con đường công danh sự nghiệp của vợ chồng tôi như thế nào?

Trả lời:

Câu hỏi 7: Hien tai dang gap rac roi voi van de hoc van (Master Science degree) va muon hoc them len (Ph.D degree) thi co qua duoc khong ? 

Trả lời:

Câu hỏi 8: Tôi đã nộp hồ sơ để đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc. Vậy tôi muốn hỏi năm 2013 tôi có đi được sang đó làm việc không? nếu được thì bao giờ đi được và công việc tốt không?
Xin cam on.

Trả lời:

Câu hỏi 9: Con đã bị thất nghiệp mấy tháng nay rồi, con bây giờ dang lo về vụ tiền bạc, con muon hỏi bao giờ con mới co công việc lại và làm cái gì?  

Trả lời:


Câu hỏi 10: Toi lam nghe mong tay ,toi muon mo tiem co duoc khong hay la toi van tiep tuc lam cho hien tai hoac thay doi cho lam moi?

Trả lời:

Mời bạn tham gia dịch vụ ĐẶT CÂU HỎI CHU DỊCH.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trả lời Chu Dịch (mẫu 3)

Đàn ông tuổi nào yêu chiều vợ nhất trong 12 con giáp

Con gái lấy chồng ai chẳng mong được chồng thương yêu, chiều chuộng. Trong 12 con giáp thì anh chàng nào là người yêu chiều vợ nhất, bạn đã biết chưa?
Đàn ông tuổi nào yêu chiều vợ nhất trong 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”. Con gái lấy chồng ai chẳng mong được chồng thương yêu, chiều chuộng. Nhưng chọn chồng đâu có dễ, bạn đã biết trong 12 con giáp thì anh chàng nào là người yêu chiều vợ nhất hay chưa? Cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật này nhé.   Hôn nhân là chuyện trọng đại cả đời người. Có thể nói hôn nhân có sức mạnh diệu kì, thậm chí đủ sức để thay đổi cả một con người. Một anh chàng trông bề ngoài dữ dằn hổ báo song sau cánh cửa hôn nhân lại có thể trở thành một người chồng dịu dàng chu đáo, nuông chiều vợ hết mực.    Rồi cả những người đàn ông tưởng chừng khô khan, chẳng có tí xíu tế bào lãng mạn trong người thì bỗng một hôm khiến mọi người tròn mắt vì sự yêu thương dâng tràn trong mắt khi ngắm nhìn nửa kia của mình, nâng niu vợ trong lòng bàn tay.   Chắc hẳn được lấy một người như vậy làm chồng thì cuộc sống của người vợ sẽ vô cùng ngọt ngào và hạnh phúc. Người ta vẫn thường nói, chồng càng yêu chiều thì vợ càng xinh đẹp. Điều này thậm chí còn được các nhà khoa học Mĩ nghiên cứu và khẳng định nữa.   Vậy bạn có biết xem bói tử vi thì chàng giáp nào là người thương vợ, chiều vợ nhất không? Cùng đọc để chọn được người chồng lý tưởng trong 12 con giáp nhé.

Lam vo nhung chang giap nay, ban se duoc yeu chieu bac nhat hinh anh
 

Đàn ông tuổi Mùi

  Đàn ông tuổi Mùi tính tình hòa nhã, tướng mạo anh tuấn, phong độ, được rất nhiều cô gái theo đuổi. Tuy nhiên, không vì thế mà họ trăng hoa, ngược lại, đây là người tuyệt đối chung thủy trong tình yêu. Vì người mình thương, họ có thể hy sinh hạnh phúc bản thân, dù có nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng không từ.   Lấy vợ xong, tuy không đến mức “gọi dạ bảo vâng”, vợ nói đi hướng Đông nhất định không được sang hướng Tây, nhưng đàn ông tuổi Mùi luôn cố gắng thỏa mãn mọi yêu cầu của vợ. Trong thâm tâm, gia đình với họ luôn là số một.   Tính cách ôn hòa, lại yêu gia đình nên con giáp này rất biết chiều vợ thương con. Họ tinh tế quan sát và biết được người thân của mình muốn gì, cần gì rồi lặng lẽ biến ước muốn của đối phương thành sự thực. Chỉ cần nửa kia thực lòng đối đãi, yêu thương chân thành thì họ sẽ báo đáp lại bằng tình yêu thương vô bờ bến, yêu chiều vợ lên tới tận mây xanh.
Bạn có biết Tướng mặt đàn ông hết mực cưng chiều vợ sau hôn nhân là như thế nào không?


Lam vo nhung chang giap nay, ban se duoc yeu chieu bac nhat hinh anh
 

Đàn ông tuổi Thìn

  Chàng giáp này lại có phần hơi khác, trong máu họ mang chút gia trưởng, theo chủ nghĩa đàn ông. Họ là đứa con của Rồng nên sức hấp dẫn với người khác phái càng trở nên rõ rệt. Có điều tính cách có phần lạnh lùng, họ hiếm khi thể hiện tình cảm với người khác.   Sau khi kết hôn, đàn ông tuổi Thìn vẫn giữ vẻ trầm tĩnh thường lệ, nhưng sâu trong họ là ngọn lửa tình yêu bùng cháy. Họ thương yêu rất nhiều, cũng vô cùng nâng niu, nuông chiều vợ. Dù bản thân có phải cực khổ thế nào, chàng giáp này cũng không muốn những người mình yêu thương, nhất là vợ mình phải buồn tủi.
Mời bạn đọc thêm: 7 chiêu phong thủy khiến các ông chồng phải nghe lời vợ.
 
Tình yêu không nhất thiết phải nói bằng lời, đôi khi những hành động thiết thực còn mang nhiều ý nghĩa hơn lời nói. Tình yêu của đàn ông tuổi Thìn cũng như vậy. Nếu lấy người này làm chồng, bạn chẳng những có số hưởng phúc mà còn gặp được người chồng tuyệt vời, người cha hoàn hảo. Đừng bỏ lỡ báu vật trong tay nhé!

Lam vo nhung chang giap nay, ban se duoc yeu chieu bac nhat hinh anh
 

Đàn ông tuổi Sửu

  Chàng giáp này có tiếng là cần cù chăm chỉ, hay lam hay làm, chẳng ngại khó khăn gian khổ. Đôi khi chàng ta im lặng như hũ thóc, nhưng kì thực điều gì cũng tỏ tường. Ai tốt với mình, ai là người quan trọng, con giáp này đều hiểu rõ trong lòng.   Kết hôn với người tuổi Sửu, bạn sẽ có được một người chồng rất mực chung tình, cũng chân thành trung thực. Họ chẳng nề hà giúp bạn mọi chuyện trong nhà, chẳng vì mình là đàn ông mà lên mặt trịch thượng. Nấu cơm, rửa bát, quét nhà… anh ấy chỉ làm loáng xíu là xong, đâu có phải việc gì nặng nề mà phải lo âu.   Cuộc sống dù sung túc hay thiếu thốn, vợ con người tuổi Sửu vẫn nhận được những điều tốt đẹp nhất. Gia đình con giáp này trời định sẽ càng ngày càng hạnh phúc, vợ chồng ân ái yêu thương, đặc biệt là người chồng sẽ mãi thương yêu, nuông chiều vợ.     An An
Đàn ông tuổi nào kinh doanh giỏi, kiếm tiền nhiều? Top 3 con giáp nam càng yêu vợ càng phát tài 5 cải thiện nhỏ trong phòng ngủ khiến chồng yêu vợ hơn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đàn ông tuổi nào yêu chiều vợ nhất trong 12 con giáp

Nốt ruồi đại phú quý trên ngực và cổ

Cùng giải mã ý nghĩa của những nốt ruồi trên ngực và cổ đem lại phú quý cho teen.
Nốt ruồi đại phú quý trên ngực và cổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

img-0-5-2012111703-1338-1408028420.jpg chan-dung-nu-than-philippines-6630-5356- a1-02ee4-4766-1408028420.jpg
1. Giữa cổ 2. Hai bên xương đòn 3. Trước hai vai
pret-a-surf-bikini-thumb-233x3-7141-4939 5-d01dc-JPG-3694-1408028421.jpg memorialday7-5359-1408145603.jpg
4. Trên bầu ngực 5. Dưới bầu ngực 6. Giữa khe ngực

Mr.Bull (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi đại phú quý trên ngực và cổ

Tướng đàn ông mắt xếch –

Đàn ông đuôi mắt xếch là một nam tử hán. Đàn ông có đuôi mắt xếch tốt nhất là nên kết hôn với phụ nữ có đuôi mắt xệ, như vậy có thể bổ sung khiếm khuyết cho nhau, tạo nên gia đình hạnh phúc, đồng thời vận khí của 2 vợ chồng cũng tốt hơn. Phụ nữ mắt
Tướng đàn ông mắt xếch –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông mắt xếch –

6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Bạn vừa chia tay người yêu? Bạn đang thất tình? Bạn vẫn chưa quên được tình cũ? Hãy áp dụng ngay 6 mẹo phong thủy tình yêu giúp bạn nhanh chóng gạt bỏ quá khứ
6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn vừa chia tay người yêu? Bạn đang thất tình? Bạn vẫn chưa quên được tình cũ? Hãy áp dụng ngay 6 mẹo phong thủy tình yêu giúp bạn nhanh chóng gạt bỏ quá khứ và chào đón tương lai.


6 meo phong thuy tinh yeu nhanh tien cu, don moi hinh anh
 
1. Đặt đồng tâm kết đỏ dưới gối
  Chọn một ngày tốt, tắm rửa sạch sẽ, tĩnh tâm, thành kính đem tâm nguyện của mình kể rõ rồi đặt dây đồng tâm kết đỏ dưới gối. Đềm trăng tròn, khi nằm trên giường, đem tâm sự trong lòng nói ra sẽ mau quên chuyện cũ.   2. Trồng cây xanh   Không cần phải trồng cây lớn, chỉ một chậu cây nho nhỏ cũng có tác dụng phong thủy rất tốt. Tự mình chăm sóc cái cây ấy sẽ tạo cảm giác ấm áp, hạnh phúc và mời gọi tình mới đến mau hơn.

Đeo đá hồ ly phong thủy vừa giữ chồng tốt lại tăng tài lộc
– Chị em đeo trang sức đá hồ ly không những giữ chồng tốt, tăng vận đào hoa, cải thiện tâm trạng mà còn tăng vận may về tài lộc.

3. Sử dụng quần áo, trang sức màu hồng
  Màu hồng được cho là màu của tình yêu, có tác dụng phong thủy vượng đào hoa rất công hiệu. Khi sử dụng những vật phẩm có màu hồng thì phong thủy tình yêu của chủ nhân không chỉ được cải thiện mà tâm ý cũng hiển hiện ra ngoài, tăng cơ hội đến bày tỏ cho những đối tượng đến sau.   4. Trang trí nhà cửa theo phong cách ấm áp   Nội thất nhà đẹp nhưng mang vẻ lạnh lùng, tĩnh mịch sẽ không có lợi cho vận đào hoa của chủ nhân đâu. Thậm chí, người sống lâu ngày còn bị ảnh hưởng cảm xúc, trở nên lạnh nhạt, đạm mạc, xa cách với người khác. Những màu sắc ấm áp, bố cục nồng nhiệt sẽ khiến chủ nhân ôn hòa, vui vẻ và thoải mái hơn. Chuyện buồn cũng nhanh quá, chuyện tốt cũng mau tới hơn. Nhân duyên tốt thì đào hoa mới vượng.   5. Bày trí những vật phẩm phong thủy cát tường   Những vật phẩm phong thủy tình yêu tốt lành như uyên ương, thủy tinh, đồ đôi,… sẽ tạo cát khí cho không gian sống, nâng cấp vận trình tình duyên cho chủ nhân.  
6 meo phong thuy tinh yeu nhanh tien cu, don moi hinh anh
 
6. Đeo bùa chú
  Những loại bùa chú thúc giục tình yêu, chiêu đào hoa có công hiệu phong thủy rất mạnh mẽ. Nếu kết hợp với ngũ hành của bản mệnh nữa thì đặc biệt hiệu quả, nhất định “tống cựu nghênh tân” ngay lập tức. Trần Hồng

Xem Clip Cách đơn giản cởi bỏ nghiệp chướng
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Hướng dẫn cách thắp hương đúng cách

Vào ngày Rằm, ngày Tết, cúng lễ, cúng giỗ... người Việt có truyền thống thắp hương trên bàn thờ gia tiên. Nhưng không phải ai cũng biết thắp hương đúng cách.
Hướng dẫn cách thắp hương đúng cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vào ngày Rằm, mùng Một, ngày Tết, cúng lễ, cúng giỗ... người Việt đều có truyền thống tâm linh là thắp hương trên bàn thờ gia tiên. Mặc dù việc này ai cũng quen nhưng không phải ai cũng biết thắp hướng đúng cách.


► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com

Thắp hương có ý nghĩa gì?

Huong dan cach thap huong dung cach hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Thắp hương là để cầu mong các vị Thần Phật, ông bà tổ tiên nghe được lời cầu nguyện giúp đỡ vượt qua những nỗi khổ, ngoài ra người ta thắp hương còn để không khí trở nên thanh tĩnh, ấm áp và trang nghiêm. Hoặc đơn giản, nó chỉ là một cách để chúng ta bày tỏ lòng thành kính với những người đã mất. Việc thắp hương đúng cách như một sợi dây vô hình, gắn liền hai thế giới lại với nhau.  

Số lượng hương khi thắp

  Theo nhà Phật, số lẻ mang tính âm, còn số chẵn sẽ mang tính dương. Do đó, khi thắp hương người ta thường chọn số lẻ như 1, 3, 5, cây hoặc chọn nguyên một bó chứ không bao giờ chọn số chẵn như 2, 4, 6 nén. Vì theo nhà Phật tính âm tượng trưng cho những người đã mất nên khi đốt hương, chỉ đốt số lượng lẻ. Trừ trường hợp đốt cho người mới mất trong thời gian còn chịu tang, người ta mới thắp 2 nén hương.   Số lượng hương khi thắp mang ý nghĩa nhất định.   Khi người ta muốn cầu bình an, mong muốn việc làm ăn thuận buồm xuôi gió thì người ta chỉ thắp duy nhất một nén hương.   Trong tập tục Việt Nam, thắp hương đúng cách người ta thường thấp 3 nén hương, nhằm thể hiện lòng thành kính, sự tận tụy của bản thân với các bậc bề trên. Trong phong thủy, 3 nén hương tượng trưng cho Trời, Đất và Người. Nên vào những dịp trọng đại, người ta thương đốt 3 nén hương để cầu mong mọi chuyện được thuận buồm xuôi gió.   Còn việc thắp 5 nén hương, tượng trưng cho 5 mệnh trong phong thủy ( Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), nên khi mua đất, cất nhà người ta sẽ thắp 5 ném hương.
Huong dan cach thap huong dung cach hinh anh 2
Ảnh minh họa
Để cầu xin ân trên ban cho những điều may mắn, tốt lành người ta sẽ đốt 7 hoặc 9 nén hương.   Không chỉ vậy, ở một số vùng quê nước ta họ còn thắp hương từng gốc cây, góc nhà, vì theo họ mọi vật đều có tâm hồn và cần được an ủi để những vong hồn sống ở đó không cảm thấy cô đơn, hưởng được ít phước lành sớm ngày được siêu thoát.

 

Lưu ý khi thắp hương

 
Huong dan cach thap huong dung cach hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Nếu không muốn xui tận mạng thì khi thắp hương, bạn nên có những lời cầu khấn thành tâm. Đặc biệt, khi thắp hương ở chùa, miếu để cầu nguyện cho người thân đã mất, bạn nên nêu rõ tên của người đó ra để họ có thể hưởng được những điều tốt mà bạn cầu nguyện cho họ.   Một điều nữa chúng ta cũng cần phải ghi nhớ đó là khi thắp hương đúng cách, không chỉ thắp bằng tấm lòng thành kính mà còn phải tập trung không được có thái độ lơ là. Khi cắm hương, phải cắm từng nén một bằng hai tay vào bát hương.

ST.
Bố thí đúng cách - hưởng thụ khi học Phật Sự thật về tồn tại ma quỷ trong đời? Tiêu tán thiện nghiệp vì 4 sai lầm đáng trách
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn cách thắp hương đúng cách
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd