Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vận mệnh người tuổi Quý Tỵ theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Quý Tỵ là con rắn ra khỏi bãi cỏ, thông minh, tướng mạo tuấn tú, làm việc không thiên lệch, ly hương sẽ phát đạt.
Vận mệnh người tuổi Quý Tỵ theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

Giai ma van menh nguoi tuoi Quy Ty theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Nạp âm Lục Thập Hoa Giáp của Quý Tý là Trường lưu Thủy cuồn cuộn bất tận, tất quy về phương Đông Nam, xuôi dòng tự quy về Thìn, Tỵ. Nếu Nhâm Thìn tọa cung Tài Bạch, một đời tuy không phú quý nhưng cũng không nghèo khổ. Trong tay không có được số tiền lớn nhưng không bao giờ thiếu tiền dùng.
 
Thủy của Quý Tỵ ưa Kim sinh dưỡng như Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim. Cũng ưa Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim. Ưa Quý Sửu Tang đô Mộc làm núi, Quý Mùi Dương liễu Mộc làm vườn, gọi là Thủy nhiễu hoa đề cách, chủ vinh hoa phú quý. Gặp Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim, cũng là cát lợi. 
 
Duy gặp Hải trung Kim, Sa trung Kim thì vô ích. Kỵ Thổ làm tắc nghẽn khô cạn, nhưng Thổ lại có công đắp đê, chỉ lấy Canh, Tân, Bính, Đinh là tốt; Mậu, Kỷ là không tốt. 
 
Gặp Hỏa là tương hình, mà có tượng ký tế, ưa gặp Mậu Tý, Mậu Ngọ, là Thiên can hợp hóa. Ưa nhất Giáp Thìn Phúc đăng Hỏa.
 
Gặp Mậu Thìn Đại lâm Mộc, mệnh chủ cát lợi.
 
Lục Thập Hoa Giáp của Quý Tỵ: Quý lộc tại Tý, chi khác có Tý, mệnh chủ cát lợi, phú quý. Quý quý tại Tỵ, chi khác có Tỵ, mệnh chủ cát lợi, phú quý. Tỵ mã tại Hợi, chi khác có Hợi, mã phạm hình, không nên làm kinh doanh, có thể bỏ mạng nơi đất khách quê người.
 
Chi khác không ưa gặp Thân, Dần, là phạm hình. Mệnh nữ chủ lấy ba đời chồng hoặc sảy thai, sinh non. Chi khác có Dần, đề phòng thân thể bị thương tật, nhất là đề phòng tứ chi thương tổn do mắc bệnh tiểu đường, hoặc tai biến. 
 
Quý Tỵ là Thủy tự tuyệt, dòng nước khô cạn. Nếu gặp Bính Tuất, Đinh Hợi Ốc thượng Thổ; Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ e rằng gan không tốt, thọ mệnh không dài. 
 
Người sinh năm Quý Tỵ có tài ăn nói, nên theo nghề tuyên truyền, maketting, bảo hiểm. Nếu chi khác có Dậu, có thể nghiên cứu mệnh lý, làm giáo viên hoặc hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. 
 
Người tuổi Quý Tỵ nên giữ mình, chớ trêu hoa ghẹo nguyệt, sẽ tự tìm đến phiền phức. Gặp năm Tỵ, Hợi, trong nhà khó được yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.
 
Bạn đời không nên gặp người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh. 
Theo Tử vi toàn tập
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Quý Tỵ theo Lục Thập Hoa Giáp

Xem ngày tốt xấu tháng Mười Hai theo Đổng công tuyển trạch nhật

Việc phạm phải ngày hung là vô cùng xấu. Để tránh ngày hung, chọn ngày cát, ta cần xem ngày thật cẩn trọng vì điều đó quyết định tới sự thành bại của công việc.
Xem ngày tốt xấu tháng Mười Hai theo Đổng công tuyển trạch nhật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 


Xem ngay tot xau thang Muoi Hai theo Dong cong tuyen trach nhat hinh anh
12 con giáp 9




Nguyệt kiến Sửu: Tiểu hàn - Đại hàn. (Từ ngày 5-6 tháng 1 DL)  Sau Tiểu hàn là Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn, kị tu tạo, động thổ. 
 
Trực Kiến - ngày Sửu: 
Vãng Vong, Hồng Sa. 
 
Ất Sửu, Kỷ Sửu nên làm các việc khai sơn, phạt cỏ, hưng công, động thổ, giá thú, khai trương, xuất hành, nhập trạch, là ngày thứ cát.
 
Đinh Sửu là Sát nhập trung cung, không nên khua nhạc, trống, làm ồn ào, hôn nhân, mọi việc đó hại gia trưởng, trạch mẫu. 
 
Quý Sửu tuy vượng nhưng lục sát nhập trung cung, tổn thương nhân khẩu, hung. 
 
Trực Trừ ngày Dần: 
Canh Dần là Hỏa Tinh, Thiên Đức, Nguyệt Đức. 
 
Giáp Dần, Bính Dần, Nhâm Dần, đều có Hỏa Tinh, và Hoàng La, Tử Đàn, Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Bảo Liễu (xe ngọc quý), Khố Châu phúc lộc, Văn Xương, Lộc Mã Quan Ích là những sao tốt chiếu lâm, nên tốt cho các việc khởi tạo, hôn nhân, an táng, nhập trạch, khai trương, xuất hành, trăm việc thuận lợi, dùng ngày đó gia môn phát đạt, động thổ thấy tiến tài sản, tên là "Đăng hổ bảng". 
 
Mậu Dần cũng có Hỏa Tinh nhưng là thứ cát, ngày đó có thể dùng. 
 
* * * * *  Theo "Thích kỷ biện phương", Dần ở tháng chạp là thiên tặc, là ngày Dần trong tháng có Hỏa Tinh thì không ghi, đó là hai thuyết nên tồn lưu để tham khảo.  * * * * * 
 
Trực Mãn - ngày Mão: 
Thiên Phú, Thổ Ôn, không nên động thổ, Thiên Ôn một năm. 
 
Nếu dùng ngày Mão vào việc cưới, gặp cha mẹ, ăn hỏi, cũng thứ cát  nhưng có lục bất thành, lục bất hợp, cái đó không nên.
 
Duy có Tân Mão có thể tạo tác, hưng công, nhưng là thứ cát. 
 
Trực Bình - ngày Thìn: 
Có Đáo Châu tinh, bị dính líu tới kiện tụng nhưng sau cũng ổn thỏa. 
 
Duy có Nhâm Thìn nên mai táng, cưới vợ, gặp cha mẹ, hưng công, động thổ, xuất hành, nhập trạch là thứ cát.
 
Canh Thìn là Thiên Đức, Nguyệt Đức, nên làm nhỏ cũng được thứ cát. 
 
Mậu Thìn thảo mộc điêu linh, lúc đó ngũ hành vô khí, và là thoái tinh, lại kiêm Sát nhập trung cung, mọi việc bất lợi, hung. 
 
Trực Định - ngày Tị: 
Thiên Thành.  Một thuyết nói là Quan Phù Tinh Phi, nhưng nói là ngày Tử Khí, nếu phương tu tạo trực với Phi Cung Châu Bách, Quan phù thì sẽ thấy ngay, nếu như phương đó hợp với cát thần tụ tập thì có thể cứu được sự hung và dùng cũng được.
 
Quý Tị tuy là gặp lúc kinh sinh thủy được tinh khiết nhưng may ra chỉ có thể khai sơn, phạt cỏ, ngày đó là thứ cát, nếu cưới vợ chồng hoặc khai trương, xuất hành, nhập trạch, đặt móng, buộc giàn thì lại là ngày Thiên Thượng Đại không vong nạp âm Tị, tuyệt đối không nên dùng. 
 
Đinh Tị là Chính tứ phế, xấu, một năm bốn mùa (quý), dùng ngày Tị chủ khẩu thiệt, tuy có Hỷ Thần hoá giải cũng thuộc khó thoát, nếu như cát vượng còn hưng suy thì cần xét rõ mệnh tuổi và sơn hướng không phạm xung khắc thì mới có thể dùng. 
 
Trực Chấp - ngày Ngọ: 
Canh ngọ :Thiên-Nguyệt. Như năm Canh Ngọ mà làm ở Canh “sơn”, Giáp “hướng”, có thể thâu về là nạp âm. Phương chi ngày đó có người dùng giờ Canh Thìn, giờ gặp tam hợp chiếu Giáp, Canh, mà Canh thì Lộc ở Thân, Thìn Mã (ngọ), lại gặp Nhâm Thân. Ở đây sinh ra thành ngày Lộc Mã. Long Mã gặp Lộc Tinh là Thanh Nhân Nam Diện Tinh(sao phía Nam là sao Thánh nhân), còn có cát tinh Huỳnh La, Tử Đằng, Thiên Hoàng, Địa hoàng, Kim ngân, Khố lâu đồng chiếu: chủ ích cho con cháu, vượng gia môn, tấn điền sản, thay đổi lộc vị.
 
Nhâm Ngọ cũng tốt. Các ngày Ngọ khác thứ cát. Bính Ngọ thì Chính tứ phế hung không dùng.   Trực Phá ngày Mùi: 
Đinh Mùi là "Thủy cư cự mẫn" (trong nước có con cá bể to tên là mẫn). 
 
Quý Mùi là "Thủy nhập Tần châu nội", "Văn Xương quý hiển tinh", động thổ, hưng công, xuất hành, nhập trạch, cưới vợ, khai trương, trăm việc rất tốt. 
 
Kỷ Mùi, Tân Mùi là Sát nhập trung cung, xấu.  Ất Mùi cũng bất lợi. 
 
Trực Nguy - ngày Thân: 
Canh Thân có Thiên Đức, Nguyệt Đức, nên là các việc sửa chữa, an táng, làm ăn nhỏ là thứ cát (tốt vừa), nếu nhà to, có hàng nghìn, hàng trăm thợ trở lên, thì những việc khởi tạo, khai trương, nhập trạch, hôn nhân, lại không nên, vì là ngày Sát nhập trung cung, không lợi cho người gia trưởng. 
 
Mùa xuân tuy có Thiên Đức, Nguyệt Đức cũng không có tác dụng gì, tổn thương tay, chân, người thợ phá mất, tổn hoại khí huyết, làm lớn thì nhanh thấy, làm nhỏ thì ứng chậm. 
 
Nếu làm chuồng trâu, dê, lợn, thì trong 60 ngày, 120 ngày sẽ thấy hổ lang làm bị thương, lại sinh ôn dịch thời khí. 
 
Giáp Thân, khởi tạo, an táng tốt.  Bính Thân, Nhâm Thân, chỉ nên mai táng. 
Trực Thành - ngày Dậu: 
Thiên hỉ.  Ất Dậu, Quý Dậu là khi kim vượng. 
 
Ất Dậu là lúc nước trong sạch, có Hoàng La, Tử Đàn, Kim Ngân Khố Lâu, Tụ Lộc Đới Mã, là những cát tinh che, chiếu, tốt cho việc cưới vợ, khởi tạo, khai trương, nhập trạch, an táng, là ngày tốt trọn vẹn, chủ về con cháu hưng vượng, trăm việc vừa lòng (xứng tâm). 
 
Đinh Dậu cũng thuộc kim vượng, nhưng chỉ có mai táng là đại cát, những việc còn lại là thứ cát.  Tân Dậu là Kim loan (nhạc ngựa bằng vàng), thứ cát.
 
Trực Thu - ngày Tuất: 
Có Đáo Châu tinh, có việc liên quan tới tòa án nhưng sau cũng ổn thỏa. 
 
Canh Tuất có Thiên Đức, Nguyệt Đức, tám vị Kim tinh, có "Nam tử chi hoan" (cái hang của con trai), trước bị thị phi nhưng sau đó lại đại cát. 
 
Giáp Tuất tám phương đều bạch, ở 24 hướng mọi thần đều chầu trời Nguyên nữ, ngày đó trộm sửa có thể dùng. 
 
Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, trăm việc đều kị.  Ngày Mậu Tuất cũng không thể dùng. 
 
Trực Khai - ngày Hợi: 
Thiên Tặc, Nguyệt Yểm.  Ất Hợi có Văn Xương tinh. 
 
Kỷ Hợi có Hỏa Tinh, có Văn Xương hiển quý tinh, nên làm các việc đặt móng, buộc giàn, hôn nhân, khai trương, nhập trạch, xuất hành, trù mưu làm mọi việc, đều tốt trọn vẹn. Nên dùng giờ Mậu Thìn. Ngày đó tuy phạm Thiên tặc nhưng lại có Thiên cẩu huyên, cho nên được thượng cát. Nếu như gặp ngày này mà mạng không khắc thì dùng được.
 
Đinh Hợi: trăm việc không nên làm.  Ngày Tân Hợi âm khí rất bạo, không phải là chỗ dùng của dương gian. 
 
Quý Hợi là ngày cùng của lục giáp, không thể dùng.  Mà Kỷ Hợi vì có Hỏa Tinh nên mọi việc có thể dùng, không thể không thuận mà xứng lòng, như ý.    Trực Bế - ngày Tý: 
Hoàng sa.  Canh Tý tuy có Thiên Đức, Nguyệt Đức nhưng lại là lúc Thiên Địa chuyển Sát. 
 
Nhâm Tý, Bính Tý là Thiên Địa chuyển trục, không nên làm các việc hưng công, động thổ, phạm cái đó rất hung.  Giáp Tý là Thiên xá, là Tiến thần. 
 
Và Mậu Tý chỉ nên làm việc nhỏ thì thứ cát, không nên làm việc lớn, sẽ bị vạ triền miên, chẳng lành, không biết Đại Mã Nạp Âm, hung sát và Bắc phương tạo độc chi thần (thần làm cờ lớn ở phương Bắc), thuần âm hắc sát chi khí Dư tào túc lệnh (chủ quản đông người nghiêm chỉnh lệnh), không phải là rất quý, không nên dùng, phải cẩn thận.   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày tốt xấu tháng Mười Hai theo Đổng công tuyển trạch nhật

Giờ mão là mấy giờ? Từ giờ mấy giờ đến mấy giờ?

Giờ mão là mấy giờ? Liệu bạn có biết được chính xác giờ mão từ mấy giờ đến mấy giờ không? Dám chắc câu hỏi này sẽ làm khó khá nhiều người đặc biệt là các bạn trẻ. Để biết giờ mão là mấy giờ chúng ta hãy cùng tìm hiểu sau đây nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giờ mão là mấy giờ? Liệu bạn có biết được chính xác giờ mão từ mấy giờ đến mấy giờ không? Dám chắc câu hỏi này sẽ làm khó khá nhiều người đặc biệt là các bạn trẻ. Để biết giờ mão là mấy giờ chúng ta hãy cùng tìm hiểu sau đây nhé.

Giờ mão là mấy giờ? Từ giờ mấy giờ đến mấy giờ?

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại:

+ Giờ Mùi là mấy giờ?

+ Giờ Ngọ là mấy giờ?

Giờ mão là mấy giờ?

Từ thủa xa xưa, ông cha ta thường dùng 12 con giáp để gọi năm, ngày, tháng, giờ. Số 12 con giáp chính là 12 con vật quen thuộc được sắp xếp theo thứ tự sau đây: Tý (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Cọp), Mão hay Mẹo (Mèo), Thìn (Rồng), Tỵ (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó) và Hợi (Heo).

Một ngày được chia làm 24 giờ, các cụ ta chia các giờ theo giờ 12 con giáp như sau, hãy cùng tìm hiểu.

Giờ

Thời Gian

Giờ

Thời Gian

Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng

Ngọ

Từ 11 giờ đến 13 giờ trưa

Sửu

Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng

Mùi

Từ 13 giờ đến15 giờ xế trưa

Dần

Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng

Thân

Từ 15 giờ đến 17 giờ chiều

Mão

Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng

Dậu

Từ 17 giờ đến 19 giờ tối

Thìn

Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng

Tuất

Từ 19 giờ đến 21 giờ tối

Tỵ

Từ 9 giờ đến 11 giờ sáng

Hợi

Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya

Nhìn vào bảng trên, bạn sẽ dễ dàng có câu trả lời cho câu hỏi “giờ mão là mấy giờ” , không chỉ thế còn biết được các giờ thìn, tỵ, thân, dậu, tuất hợi...chính xác là mấy giờ.

Người sinh giờ mão

Người sinh giờ mão sẽ sinh trong khoảng thời gian từ 5 giờ đến 7 giờ sáng. Theo tử vi, những người sinh vào giờ mão thường có cuộc sống khá yên bình. Họ được hưởng nhiều phúc lộc, tuổi thơ bình yên trôi qua không vất vả như những người sinh giờ sửu, tuổi sửu hay giờ dần, tuổi dần. Tóm lại người sinh giờ mão có cuộc sống khá tốt, họ nhận được đầy đủ sự yêu thương của bố mẹ, gia đình.

Người sinh giờ này hợp với các lĩnh vực văn học, nghệ thuật và cơ khí. Họ hợp với các công việc do mình làm chủ. Nếu thấy bản thân có thể, hãy tự đứng ra lập nghiệp, bạn sẽ thành công.

+ Người sinh vào đầu giờ mão tức trong khoảng 5 giờ đến 6 giờ: người này có bản mệnh khắc cha mẹ, sẽ thành công nếu lập nghiệp ở xa.

+ Người sinh vào giờ chính mão tức 6 giờ sáng sẽ có cuộc sống hòa thuận bên cah mẹ, anh em, nam giới thường được nhờ gia đình nhà vợ, cuộc đời khá may mắn và thuận lợi.

+ Còn người sinh vào cuối giờ mão, tức 6 giờ đến 7 giờ sáng có bản mệnh khắc cha, sự nghiệp khá khó khăn.

Bên trên là một vài điều về giờ mão cũng như cách tính giờ theo 12 con giáp mà mọi người nên biết. Hãy tham khảo nhé.

Để lựa chọn được những giờ tốt, ngày hoàng đạo bạn có thể tham khảo thêm tại: Xem ngày tốt xấu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giờ mão là mấy giờ? Từ giờ mấy giờ đến mấy giờ?

Những điều cấm kỵ khi chọn mua giường ngủ –

Có thể nói giường là vật quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi con người, khoảng 1/3 thời gian trong đời người là ở trên giường, do đó lựa chọn được một 1 chiếc giường tốt có vai trò vô cùng quan trọng đến sức khỏe mỗi người. Khi lựa chọn giường phải ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ú ý một số điểm sau.

giuong_go_thegioinemgiuong_12

Ky giường quá cao

Mặc dù giường cao tạo cảm giác sạch sẽ và có khí thế nhưng lại là một nguy cơ tiềm ẩn đối với con người, đặc biệt là người già, giường quá cao sẽ gây khó khăn khi lên xuống, trong khi ngủ nếu phải thức dậy ban đêm thì dễ bị ngã.

Ky giường quá thấp

Giường quá thấp mặc dù lên xuống dễ dàng, cũng rất thoải mái nhưng lại không tốt cho việc thông gió dưới gầm giường, hơn nữa dễ tiếp xúc và hít phải không khí ẩm ướt dưới gầm giường, tạo mầm mống gây bệnh cho con người.

Ky giường quá mềm

Con ngưòi ngủ có thoải mái hay không chủ yếu dựa vào độ mềm của đệm. Theo phân tích, khi nằm ngửa, độ cong của cột sống ở phần lưng từ 2 – 3 cm là thích hợp nhất, độ cong không thích hợp vừa ảnh hưởng đến giấc ngủ lại vừa ảnh hưởng đến hình thể và sự phát triển của cơ thế. Một chiếc đệm tốt là đệm có thể chống đỡ đều đặn trọng lượng các bộ phận trên cơ thể, có các đặc điểm như thoát khí tốt, chống ẩm, giữ ấm tốt.

Giường quá mềm sẽ làm tăng độ cong sinh lý tự nhiên của cột sống lưng, khiến xương sống bị biến dạng, đặc biệt là đối vởi trẻ em, trong thời kỳ cơ thể chưa phát triển hết thì không được nằm giường mềm, nếu chọn giường đệm lò xo thì cũng nên chọn loại cứng một chút.

Ky giường quá cứng

Giường quá mềm không tốt, giường quá cứng cũng không tốt cho cơ thể. Giường quá cứng khi ngủ không thoải mái, ngủ không ngon, không có lợi cho việc thư giãn, xua tan mệt mỏi mà ngược lại sẽ tăng thêm cảm giác mệt mỏi, không đạt được mục đích nghỉ ngơi.

Ky giường quá nhỏ

Giường quá nhỏ mặc dù có thể tiết kiệm không gian nhưng lại dễ khiến người nằm trên đó có cảm giác tủi thân, không duỗi được chân tay thoải mái, ngủ trong sự căng thẳng, không đạt được mục đích nghỉ ngơi. Hơn nữa giường quá nhỏ cũng dễ khiến người ngủ nếu không cẩn thận sẽ bị rơi xuống đất hoặc thường đá chăn xuống đất.

Kỵ giường quá ngắn

Giường đầu tiên là phải có kích thước đầy đủ, có độ rộng và dài nhất định. Người cao ngủ giường ngắn, ngươi béo ngủ giường chật hẹp sẽ không được thoải mái. Theo phán đoán của các chuyên gia, con ngưòi trong khi ngủ vào ban đêm, bình quân trở mình trên 20 lần, nếu giường nhỏ không được dang chân dang tay một cách thoải mái sẽ ảnh hưởng đến sự thư giãn của cơ thể và khó xua đi cảm giác mệt mỏi. Thường thì độ dài của giường ít nhất cũng phải dài hơn cơ thể bạn 15 cm, độ rộng: khi hai tay gối dưới đầu, hai khuỷu tay chạm xuống đệm mà không nhô ra ngoài giường là được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kỵ khi chọn mua giường ngủ –

Đặt cây xương rồng trên bàn làm việc sẽ mang lại điềm xui xẻo

Tuyệt đối không nên bày cây xương rồng ngay trong nhà hay phòng làm việc vì sẽ dẫn tới gia chủ bị bệnh tật, mất mát tài sản, tình cảm trục trặc, làm ăn thất bát.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện nay, những chậu xương rồng bé với đầy đủ hình dáng và chủng loại được rất nhiều người ưa thích mua về để trưng bày trong nhà hoặc trên bàn làm việc. Tuy nhiên, theo các chuyên gia phong thủy, đặt xương rồng trong nhà hoặc phòng làm việc là điều tối kỵ.

Cây xương rồng là một trong những cây có tác dụng hóa hung cao nhưng lại cực kỳ cấm kỵ khi bài trí trong nhà.

Trong phong thủy, hình dáng của cây xương rồng thuộc vào loại đặc biệt, thân phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng với ý nghĩa mang đến sức mạnh, có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài. Vì thế nó là một trong những cây có tác dụng hóa hung cao nhưng lại cực kỳ cấm kỵ khi bài trí trong nhà.

Bày xương rồng trong nhà gia chủ dễ bị bệnh tật, mất mát tài sản, tình cảm trục trặc, cô đơn.

Nguyên nhân bởi cây xương rồng là cây nhiều gai nhọn, những mũi nhọn của nó chĩa vào người thì sẽ tạo ra khí xấu, ảnh hưởng tới sức khỏe của gia chủ. Chưa kể việc tập trung quá nhiều gai nhọn trên thân cây khiến nó luôn bị bao bọc bởi sát khí. Đôi khi, xương rồng nở hoa (nếu trồng xương rồng mà nở hoa, được coi là điềm lành vì hoa của nó mang năng lượng tốt) nhưng không đủ sức để át đi năng lượng xấu của những chiếc gai nhọn.

Dù hoa xương rồng rất đẹp nhưng cây xương rồng vẫn có tính sát khí cao

Thuyết phong thủy cũng quan niệm "hình nào khí nấy", vì vậy, nếu một cây xanh tốt, khoẻ khoắn, dáng vươn cao sẽ tạo nên nhiều sinh khí. Ngược lại nếu cây có dáng ủ rũ, gai góc, xù xì sẽ theo chiều hướng ngược lại, tạo nên sát khí hoặc ám khí. Vì vậy, nếu bày trong văn phòng công ty, công ty sẽ khó phát triển, người đứng đầu cũng không sáng suốt, thường bệnh tật và tài sản công ty dễ mất mát.

Nếu bạn là một người yêu xương rồng thì chỉ nên đặt xương rồng ở ngoài cửa, như vai trò của người canh gác, bảo vệ bạn khỏi những năng lượng xấu, ngăn không cho chúng xâm nhập vào nhà.

Vì cây xương rồng là một cây có nhiều gai nhọn xung quanh khiến nó luôn được bao bọc bởi sát khí nên các nhà phong thủy đưa ra lời khuyên không nên đặt xương rồng trong phòng làm việc hoặc trong nhà mà chỉ nên trồng xương rồng vào những khu vực xấu hoặc để chống lại những sát khí chiếu vào nhà như để trấn lại góc nhọn hoặc các loại mũi tên sắt từ hàng rào của người hàng xóm...

Mộc Lan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt cây xương rồng trên bàn làm việc sẽ mang lại điềm xui xẻo

3 chòm sao phô trương thích trưởng giả học làm sang

3 chòm sao phô trương dưới đây, dù chẳng phải mới phất lên nhưng khí chất thì lại giống y hệt, nhất nhất trưng diện khoe của.
3 chòm sao phô trương thích trưởng giả học làm sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Nhà giàu mới nổi" vốn chẳng tốt đẹp gì, có tiền là phơi bày thanh thế một cách quá đà.

 
3 chom sao pho truong thich truong gia hoc lam sang hinh anh
 

Kim Ngưu

  Chòm sao yêu tiền như Kim Ngưu luôn có cảm giác tự hào về khối tài sản mà mình có được. Họ sống tiết kiệm, cóp nhặt và làm việc rất chăm chỉ để thỏa mãn ham muốn của bản thân. Nên khi đã thành công, đã kiếm được một khoản dù lớn hay bé thì Kim Ngưu cũng muốn cả thế giới biết đến thành tựu của mình.   Họ tiêu tiền, mua sắm, trưng diện, nhưng vốn không quen với chốn xa hoa nên cách thức của họ khá quê mùa, kệch cỡm và khiến người khác bàn tán. Chỉ có điều, chòm sao này vốn không quan tâm tới ánh nhìn của người khác, cứ tự do làm bản thân vui là được.
 

Sư Tử

  Chòm sao phô trương nhất vòng tròn hoàng đạo này luôn tìm đủ mọi chiêu trò để mình nổi bật nhất, đình đám nhất. mỗi ngày, Sư Tử đều lượn qua lượn lại, khoe khoang sự giàu có, thành đạt và hạnh phúc của bản thân, người khác có đồ gì đẹp họ cũng phải có bằng được để nhận được sự ngưỡng vọng của người khác. Có thể cuộc sống của họ tốt như vậy thật, cũng có thể không.   Tất nhiên, không ai rỗi hơi mà tung hô Sư Tử cả ngày. Cũng như khoe quá đà, bày lộ liễu như thế chỉ khiến người khác nghĩ rằng cung hoàng đạo Sư Tử đang “trưởng giả học làm sang”. Nhiều khi, cố gồng mình lên để sang chảnh cũng khiến chòm sao này mệt mỏi.  

Cự Giải

 
3 chom sao pho truong thich truong gia hoc lam sang hinh anh
 
Cự Giải rất hiền lành, nhưng lại là chòm sao ham hư vinh, thích hưởng thụ. Có chút tiền là Cự Giải trang bị phục sức lòe loẹt, trang sức đắt tiền, mặc kệ người khác nói mình là khoe của hay kệch cỡm. Họ chỉ muốn khiến mình lỗng lẫy hơn, ra dáng hơn.
  Có thể những thứ đó không phù hợp với Cự Giải nên họ không được đánh giá cao, thậm chí chi nhiều tiền nhưng lại chẳng hiệu quả, không được khen mà chỉ nhận chê.

Xem thêm: Cự Giải chỉ hạnh phúc khi ở bên chòm sao nào? 
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao phô trương thích trưởng giả học làm sang

Mơ thấy em bé mới sinh –

Nằm mơ thấy em bé mới sinh Giấc mơ thấy em bé mới sinh tượng trưng cho sự cuộc sống đầy vui trẻ, tràn ngập tiếng cười đang chờ đón bạn. Hơn thế nữa giấc mơ còn mang đến tài lộc, cuộc sống no ấm, hạnh phúc mỹ mãn. Giải mã giấc mơ thấy em bé mới sinh:
Mơ thấy em bé mới sinh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy em bé mới sinh –

Bình hoa mang lại may mắn

Bình là biểu tượng của hòa bình và hòa hợp. Việc cắm hoa hay các đồ vật khác vào bình, tùy vào từng loại mà càng làm tăng thêm ý nghĩa của biểu tượng.
Bình hoa mang lại may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Trưng bày bình lớn mang lại may mắn cho gia chủ

Theo phong thủy, trưng bày bình lớn có thể mang lại may mắn cho gia chủ. Bình có trang trí biểu tượng hay họa tiết may mắn có thể đặt ở nhiều vị trí trong nhà, trừ nhà bếp. Bình có cắm cành thông hoặc cành tre và đặt ở giữa nhà được coi là biểu tượng của cuộc sống hôn nhân hòa hợp và lâu bền. Cắm vào bình 3 thứ vũ khí giáo, thương, rìu chiến biểu tượng cho sự thành công trong sự nghiệp.

Khi mua bình, bạn hãy chọn những kiểu bình hiện đại bằng pha lê hoặc sành sứ để tăng cường năng lượng Thổ ở góc Tây Nam hoặc ở giữa nhà.

Bạn có thể trưng bày bình hoặc dùng bình để cắm hoa. Không nhất thiết phải cắm hoa thật, bạn có thể dùng hoa làm bằng lụa. Có thể kết hợp cắm những loài hoa đặc trưng theo mùa như hoa cúc, hoa lan, hoa mận...
(Theo Phong thủy trong tình yêu)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bình hoa mang lại may mắn

Luận cát, hung của sao Tứ Lục khi kết hợp trong Cửu tinh

Sao Tứ Lục, ngôi sao ứng với số 4 trong Cửu tinh, khi kết hợp với các sao khác thành ra cát, hung thay đổi. Luận cát, hung của sao Tứ Lục trong Cửu Tinh.
Luận cát, hung của sao Tứ Lục khi kết hợp trong Cửu tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Tứ Lục, ngôi sao ứng với số 4 trong Cửu tinh, khi kết hợp với các sao khác thành ra cát, hung thay đổi.

Luan cat, hung cua sao Tu Luc khi ket hop trong Cuu tinh hinh anh
 
Sao Tứ Lục là sao Văn Khúc. Nếu vượng thì tài văn chương lừng danh, khoa cử đỗ đạt, con gái dung mạo đoan trang và lấy được con nhà quyền quý. Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn, đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá bại phải lang thang phiêu bạt.
 
Tứ Lục gặp Nhất Bạch là sinh nhập. Nếu vượng thì một đời danh giá, đại lợi về văn tài, học hành thì cử đỗ đạt. Con cái thông minh, thành tích thường đứng đầu, nghề nghiệp vừa ý, tài vận thuận lợi. Nếu suy thì dễ mắc bệnh phong, hoặc vì dâm đãng tửu sắc mà hư bại, gây ra tiếng xấu bên ngoài. Hoặc vợ vô sinh, có con thì cũng chết yểu.
 
Tứ Lục gặp Nhị Hắc là khắc xuất. Nếu vượng thì tương đối giàu sang, vợ nắm quyền trong nhà, con cái đông. Nếu suy thì vợ ngỗ nghịch, khắc mẹ chồng và ức hiếp em chồng. Không khí gia đình nặng nề, không vui; người nhà thường hoảng loạn, dễ mắc chứng đau dạ dày; bị chó dại cắn. Mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng thường hay xích mích, mẹ già gặp tai ương. Sự nghiệp suy bại, gia phong càng lúc càng xấu đi, hoặc có người xuất gia làm ni.
 
Tứ Lục gặp Tam Bích là tỵ hòa. Nếu vượng thì âm dương phối hợp đúng phép, gia đạo êm ấm, con cái thuận hòa, sự nghiệp thuận lợi, tương đối giàu sang. Nếu suy thì vợ chồng hay cãi vả xích mích, người nhà thường có ý làm tăng ni, xuất hiện kẻ sống lang thang chẳng ra gì. Thường mang bệnh dị ứng hoặc có tật ở tay chân.
 
Sao Tứ Lục gặp Tứ Lục là tỵ hòa. Nếu vượng thì hai sao Văn Khúc cùng đến, con cháu thành tích nổi bật, có tinh mừng về thi cử. Đại lợi về tài văn chương, làm quan văn khá nổi tiếng. Nếu suy thì phiêu bạn khắp nơi, hoặc trở thành tăng ni. Đàn ông xa nhà bôn ba, sống nơi chân trời gốc bể. Người nhà dễ bị bệnh phong; quả phụ làm chủ gia đình.
 
Tứ Lục gặp Ngũ Hoàng là khắc xuất. Nếu vượng thì có tài văn chương, giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì ham ăn ham uống, ruộng vườn bỏ hoang, cảnh nhà ảm đạm, buồn tẻ; nữ chủ nhân thường hay đau ốm, có ý hướng xuất gia, khó sinh và khó nuôi con cái, gia đạo lụn bại.
 
Tứ Lục gặp Lục Bạch là khắc nhập. Nếu vượng thì quan binh không dám đụng đến, được mọi người đối đãi tử tế, gia đạo êm ấm, tài lộc có đủ. Nếu suy thì cha chồng ngược đãi con dâu, dễ khiến con dâu phải bỏ nhà ra đi. Người trong nhà thường tranh chấp nhau; dễ mắc bệnh gan, mật và thương tật ở tay. Tứ - Lục sóng đôi là tượng “Dịch Mã”, nên người nhà dễ phải tha hương, rày đây mai đó; nặng thì có thể bị đày.
 
Tứ Lục gặp Thất Xích là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền hành, táo bạo hơn người nhưng tích lũy được nhiều tiền của. Nếu suy thì nam nữ đa dâm, con cháu học hành chẳng ra gì; dễ bị bệnh thổ huyết mà chết yểu. Ra ngoài gặp nhiều thị phi; mẹ chồng nàng dâu bất hòa. Dễ phạm kiếp sát đào hoa.
 
Tứ Lục gặp Bát Bạch là khắc xuất. Nếu vượng thì vợ hiền dạy con thảo, của cải chất thành núi. Nếu suy thì người nhà có người ở trong rừng núi sâu làm ẩn sĩ, hoặc vào chùa làm sư. Con cháu nhiều bệnh tật, học hành không giỏi; dễ mắc bệnh viêm mũi, bệnh phong hoặc bị rắn hay chó cắn.
 
Sao Tứ Lục gặp Cửu Tử là sinh xuất. Nếu vượng thì hợp với kim Tiên Thiên, được tài lẫn quý, xuất hiện kẻ sĩ văn chương nổi tiếng. Nếu suy thì thường bị đau mắt hoặc nạn hỏa tai. Đàn ông dễ rơi vào cảnh ngộ vì gian dâm mà gia sản lụn bại.
► Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận cát, hung của sao Tứ Lục khi kết hợp trong Cửu tinh

Mơ thấy sóc có ý nghĩa gì với người đang yêu?

Mơ thấy bầy sóc chạy quanh, ám chỉ rằng bạn đang có dính líu vào một mối quan hệ không có mục đích, nghĩa lý. Đó còn có thể là một dự án kinh doanh lớn nhưng
Mơ thấy sóc có ý nghĩa gì với người đang yêu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Mơ thấy bầy sóc chạy quanh, ám chỉ rằng bạn đang có dính líu vào một mối quan hệ không có mục đích, nghĩa lý. Đó còn có thể là một dự án kinh doanh lớn nhưng không mang lại tiền tài và địa vị cho chủ nhân. 


► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ thấy cá, mơ thấy máu

Mo thay soc co y nghia gi voi nguoi dang yeu hinh anh
Ảnh minh họa
Đối với người đang yêu thì giấc mơ này còn là điềm báo rằng, mối lương duyên mà bạn đang theo đuổi không phải là tình yêu đích thực, thậm chí không đạt được kết quả như mong đợi.   Sóc còn ngụ ý cho hành động tiết kiệm của bạn. Nếu mơ thấy nó đang chạy quanh mình thì bạn cần phải điều chỉnh hành động của mình.    Mơ thấy bạn đang nuôi những chú sóc xinh xắn, điều này ám chỉ sau một thời gian dài cố gắng làm việc thành quả tốt đẹp đã thuộc về bạn.    Tuy nhiên, thấy bầy sóc trên cây lại báo trước rằng bạn sắp phải đối đầu với hoàn cảnh khó khăn rắc rối nào đó trong cuộc sống.     Mơ thấy trèo lên cây bắt sóc thường là điềm báo sẽ bị người yêu hờ hững trong một thời gian ngắn.   Mơ thấy sóc phóng vào mình thường là điềm báo bạn sắp có sự lầm lỡ trong việc định đoạt công việc hoặc trong cách đối nhân xử thế.   Mơ thấy để con sóc trên vai thường là điềm bạn đang yêu lầm người, anh ta là kẻ lừa đảo chứ không có ý chân thành với bạn.

Nếu trong giấc mơ bạn mơ thấy mình đang chạy hay rượt đuổi với con sóc, thì giấc mơ nói rằng bạn đang cố gắng thay đổi niềm tin của bạn và thay đổi ý kiến của bạn để phù hợp với những người khác. Bạn đang tìm kiếm sự chấp nhận trong con người mình.
 
Trong giấc mơ mà bạn thấy mình đang nuôi dưỡng một con sóc, điều này biểu thị rằng sự thoải mái sẽ trở về thông qua những công việc khó khăn, siêng năng và sự khôn ngoan.
 
Mơ thấy một con sóc màu trắng trong giấc mơ của bạn tượng trưng cho sự kiên trì và không bỏ cuộc của bạn trong cuộc sống.
 
Nếu bạn nằm mơ thấy một con Sóc đất trong giấc mơ của bạn, giải mã giấc mơ nói rằng bạn đang nắm giữ quá khứ quá lâu rồi và cần phải học cách cho đi, loại bỏ nó đi!

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy sóc có ý nghĩa gì với người đang yêu?

Tướng mạo người thông minh –

Người thông minh, dù có biểu hiện ra ngoài hay không, thì từ tướng mạo của họ hoàn toàn có thể nhận diện ra được. Dưới đây là một số điểm đặc trưng trên khuôn mặt của những người có đầu óc nhạy bén này. 1. Trán lớn rộng Trong nhân tướng học, người ta
Tướng mạo người thông minh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mạo người thông minh –

Xem tướng qua tư thế ngồi –

Ngồi thuộc tĩnh tướng, từ cách ngồi, thế ngồi mà các sách Tướng pháp cổ cũng đề cập, ta có thể biết được tâm tính của con người, bần lĩnh của người đó. Ngồi chỉ đơn thuần, vậy mà quan sát ta cũng biết được nhiều thông tin. Ngồi được định hình từ khi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đứa trẻ ở tuổi vị thành niên (đã đi học) và dáng ngồi ít thay đổi cho đến lớn. Ngồi thuộc “duy biến” nên ngồi thay đổi tư thế theo thời vận. Khi hèn ngồi khác, khi sang cũng cùng một con người đó mà khi trẻ ngồi khác khi già. Tuy vậy, xét tướng ngồi – tọa tướng là ứng xét (khi thấy). Nó cho phép ta nhận rõ được nhân cách tự tại của cá nhân đó.

cao4-1958c

1. Ngồi vững trãi. Nhìn thế ngồi như quả núi định vị. Lưng thẳng, đầu mặt thẳng, nhìn thẳng.
Tướng: Quý, tâm địa tốt, có trí tuệ nhưng cũng mưu mô, có lý tưởng, tài năng.

2. Ngồi bệ vệ ngay thẳng, ít xoay dở.
Tướng: Định tâm, uy nghi, cơ mưu và nhiều tham vọng, dáng ngồi của người quyền quí, oai vệ, phong độ, giầu sang.

3. Ngồi lưng còng tự nhiên.
Tướng: Tận tụy, kiên trì.

4. Người ngồi không yên chỗ xoay dở luôn luôn.
Tướng: Nôn nóng, hèn kém, nghèo.

5. Dáng ngồi đĩnh đạc, nghiêm trang.
Tướng: Nhiều tham vọng, khoẻ mạnh và thọ.

6. Người ngồi vững, lưng thẳng (dáng thiền).
Tướng: Có trí tuệ thông đạt, tâm tính bình thản, thiện tâm, cô độc ưa tĩnh lặng.

7. Tướng ngồi quý là vững như núi “Tọa vi sơn phú qui khả kỳ” thì phú quý tự đến không phải cầu.

8. Tướng ngồi không yên thì yếu kém, không thọ.

9. Tướng ngồi không nga}” ngắn là người thường.

Như vậy tướng ngồi thể hiện phong cách vì vậy khi thời vận đến quý sang, thì bản thân người đó chú ý đến thế ngồi của mình trước cử tọa. Người tầm thường thì ngồi tùy tiện, không ý tứ gì.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua tư thế ngồi –

Yến lão

"Yến" là tiệc rượu. Nhiều làng có tục yến lão, hàng năm hay hai ba năm một lần, thết tiệc mừng thọ các quan lão. Có thể nói đây là một thịnh điển thời thái bình, không phải là một hủ tục đã gây nên nhiều tệ đoan như tục ngôi thứ hương ẩm. "Sống lâu lên lão làng", tự nhiên có vinh dự tuổi thọ, không phải tranh dành mới có, chẳng phải có tiền mà mua được, có quyền thế mà tạo nên được.
Yến lão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi năm cứ đến dịp làng mở hội hoặc ngày đại lễ có định kỳ, các quan lão tụ hội ở chùa hay nơi công quán hay một đương cai, làng đem cờ quạt với phường bát âm đến rước ra đình. Những làng trù phú thường sắm đủ võng lọng rước lão, lão 100 tuổi đi võng điều che bốn lọng xanh, lão 90 tuổi đi võng điều hai lọng xanh, lão 80 tuổi vọng xanh (đòn cong) một lọng, lão 70 võng xanh (đòn ống) một lọng. Trai tráng cầm cờ khiêng võng đều nón dấu áo nẹp. Đám rước rất trọng thể.

Tại đình làng, nơi giữa thiết lập bàn thờ tiên lão, các quan lão ngồi hai gian bên theo thứ bậc tuổi, có làng yến cả lão bà thì gian trái lão ông ngồi, gian bên phải lão bà ngồi.

Tuỳ theo lệ làng, có nơi lão 90 tuổi hoặc lớn hơn nữa ngồi một mình chiếu nhất, có nơi chưa đến 60 tuổi đã là bậc cao niên nhất, cũng ngồi một mình chiếu nhất.

Tế lão cũng đủ nghi thức như tế thần, ba tuần rượu với văn tế tiên lão, văn chúc thọ quan lão, có ban tư văn hành lễ, phường bát âm tấu nhạc.

Lúc tế, quan lão ngồi trước những mâm cỗ đặt giữa chiếu, chỉ uống rượu suông không ăn, là thủ ý trang nhã, trịnh trọng đối với dân làng, ngồi chứng kiến cuộc lễ diễn hành và chăm chú nghe văn tế, văn chúc thọ. Những mâm cỗ kia sẽ được mang đến từng nhà biếu các cụ.

Cỗ yến lão thường là rất thịnh hậu cả về phẩm lẫn lượng, có nơi mỗi cỗ hai bánh dày, hai bánh chưng với những món giò, nem và nhiều thứ bánh khác làm rất công phu.

Chiếu nhất, một cụ ngồi thì được biếu cả một cỗ gọi là cỗ một, chiếu nhì, hai cụ ngồi là cỗ đôi thì được biếu mỗi cụ một nửa cỗ, những cỗ dưới là đồng hạng cứ bốn cụ một cỗ.

Từ ngàn xưa, những khi có việc làng, không hề có bóng phụ nữ nơi đình trung. Ngày yến, sự hiện diện của các lão bà đem lại cho dân làng một cảm giác đặc biệt vui vể đầm ấm.

Mỹ tục yến lão là do đạo hiếu mà ra, một đặc tính dân tộc, có ý nghĩa rất trọng hậu, trẻ vui đạo trẻ, già vui tuổi già, trái ngược hẳn với cái thảm cảnh ở mấy nước văn minh cường thịnh cứ đến tuổi già là bị liệt vào hạng người vô dụng, ăn hại xã hội, con cháu ít chăm nom, người đời lạnh nhạt.

Lúc vãn niên, tóc bạc da mồi, với cuộc sống buồn tẻ nơi thôn dã năm tháng trôi, các cụ hẳn cũng cảm thấy sung sướng đã được cả làng tỏ tình quý trọng, quý trọng rất mực trong cuộc rước đón những buổi yến ẩm, con cháu các cụ thì được hãnh diện là gia đình có phúc mới được tuổi thọ, cho nên nhiều nhà, dù ngèo cũng ráng may sắm cho ông bà đi dự yến.

Cụ thì mũ ni nhung đen, áo vóc đại hồng, cụ thì khăn nhiễu tam giang, giầy văn hài, cụ thì áo đoạn huyền quần lụa bạch, có những cụ nhà bần hàn, quanh năm quần nâu áo vải lúc này cũng quần chúc bâu, áo the thâm, áo láng chéo go, dép mới thay quai... Y phục tuỳ hoàn cảnh mỗi nhà, không có lệ định nào, chỉ trừ màu vàng của nhà vua, quan dân đều không được mặc

Trước ngực, dưới vòng dây thao quàng cổ là túi gấm màu lam, màu huyền đựng trầu, thuốc, cối, chày...

Đám rước quan lão, y phục màu sắc như vậy với võng lọng cờ quạt, vừa gợi cảm. Những nhà từ mấy đời không hề có ông cha được dự, không khỏi bùi ngùi tiếc thương người đã khuất, không khỏi thèm muốn ước mong cho gia đình đời nay và đời sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Yến lão

Xem tuổi xông nhà 2015 cho người sinh năm Ất Mão 1975 –

Luận giải 1. Xông đất đầu năm 2015 – Ất Mùi, gia chủ tuổi Ất Mão Theo kinh nghiệm dân gian, khi chọn người xông đất nên chọn người có Thiên can, Địa chi, Ngũ hành tương sinh với Gia chủ. Đồng thời Thiên can, Địa chi, Ngũ hành của năm 2015 cũng cần tư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Luận giải

1. Xông đất đầu năm 2015 – Ất Mùi, gia chủ tuổi Ất Mão

su-nghiep-cua-12-cung-hoang-dao-danh-cho-nguoi-tuoi-mao_1

Theo kinh nghiệm dân gian, khi chọn người xông đất nên chọn người có Thiên can, Địa chi, Ngũ hành tương sinh với Gia chủ. Đồng thời Thiên can, Địa chi, Ngũ hành của năm 2015 cũng cần tương sinh với người đó.

Các tuổi sau đây phù hợp với Gia chủ để xông đất vào đầu năm mới (tốt nhất từ trên xuống):

1970 (Canh Tuất – Xuyến thoa kim) – 17/20đ — 4 yếu tố Hợp, 2 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1983 (Quý Hợi – Đại hải thủy) – 16/20đ — 3 yếu tố Hợp, 3 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1954 (Giáp Ngọ – Sa trung kim) – 15/20đ — 2 yếu tố Hợp, 4 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1955 (Ất Mùi – Sa trung kim) – 15/20đ — 2 yếu tố Hợp, 4 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1963 (Quý Mão – Kim bạch kim) – 15/20đ — 2 yếu tố Hợp, 4 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1966 (Bính Ngọ – Thiên thượng thủy) – 15/20đ — 2 yếu tố Hợp, 4 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1967 (Đinh Mùi – Thiên thượng thủy) – 15/20đ — 2 yếu tố Hợp, 4 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1975 (Ất Mão – Đại khê thủy) – 15/20đ — 2 yếu tố Hợp, 4 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1982 (Nhâm Tuất – Đại hải thủy) – 15/20đ — 2 yếu tố Hợp, 4 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

1953 (Quý Tỵ – Tràng lưu thủy) – 14/20đ — 1 yếu tố Hợp, 5 y/t Bình thường, 0 y/t Khắc

Xem Tướng Chấm Net dựa vào 6 yếu tố (được liệt kê ở phần chi tiết) để tính điểm và sắp xếp thứ tự từ cao đến thấp. Có thể trong phần kết quả sẽ có những trường hợp như Thiên Can của khách khắc với Gia Chủ. Nếu để xét riêng 1 yếu tố nào đó thì ta đã loại ra rồi. Nhưng vì ở đây ta tính tới tổng thể các yếu tố, cái này bù cái kia thì vẫn có thể cân nhắc. Có khi nào tìm được người thập toàn để giúp mình không???

Chi tiết

Xông đất đầu năm là phong tục lâu đời của người Việt, với quan niệm rằng trong ngày mồng Một tết nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, may mắn, hanh thông thì cả năm theo đó cũng được tốt lành, thuận lợi.

Người khách đến thăm nhà đầu tiên vào ngày mồng Một tết vì thế rất quan trọng. Cho nên cứ cuối mỗi năm, mọi gia đình đều tìm trước những người vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành đạt trong Gia đình, họ hàng, làng xóm hay người quen để nhờ sang thăm vào mồng Một tết

Người xông đất thường phải có Thiên can, Địa chi, Ngũ hành tương sinh với Gia chủ, theo triết học Đông phương thì sẽ giúp tăng tài khí, may mắn cho Gia chủ. Người xông đất nếu hợp với năm nay thì càng tốt. Đã vượng thịnh thì càng giúp Gia chủ thêm vượng thịnh hơn.

Xem Tướng Chấm Net xin trình bày chi tiết như sau:

Tuổi xông nhà 1970 (Canh Tuất – Xuyến thoa kim)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Kim tương sinh với Thủy của gia chủ, rất tốt

– Ngũ hành của năm nay là Kim không sinh, không khắc với Kim của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can của tuổi xông nhà là Canh tương hợp với Ất của gia chủ, rất tốt

– Thiên can của năm nay là Ất tương hợp với Canh của tuổi xông nhà, rất tốt

– Địa chi của tuổi xông nhà là Tuất tương hợp với Mão của gia chủ, rất tốt

– Địa chi của năm nay là Mùi không tương hợp, không xung khắc với Tuất của tuổi xông nhà, chấp nhận được

Tổng điểm: 17/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1983 (Quý Hợi – Đại hải thủy)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Thủy không sinh, không khắc với Thủy của gia chủ, chấp nhận được

– Ngũ hành của năm nay là Kim tương sinh với Thủy của tuổi xông nhà, rất tốt

– Thiên can của tuổi xông nhà là Quý không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Quý của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Hợi tương hợp với Mão của gia chủ, rất tốt

– Địa chi của năm nay là Mùi tương hợp với Hợi của tuổi xông nhà, rất tốt

Tổng điểm: 16/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1954 (Giáp Ngọ – Sa trung kim)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Kim tương sinh với Thủy của gia chủ, rất tốt

– Ngũ hành của năm nay là Kim không sinh, không khắc với Kim của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can của tuổi xông nhà là Giáp không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Giáp của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Ngọ không tương hợp, không xung khắc với Mão của gia chủ, chấp nhận được

– Địa chi của năm nay là Mùi tương hợp với Ngọ của tuổi xông nhà, rất tốt

Tổng điểm: 15/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1955 (Ất Mùi – Sa trung kim)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Kim tương sinh với Thủy của gia chủ, rất tốt

– Ngũ hành của năm nay là Kim không sinh, không khắc với Kim của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can của tuổi xông nhà là Ất không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Ất của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Mùi tương hợp với Mão của gia chủ, rất tốt

– Địa chi của năm nay là Mùi không tương hợp, không xung khắc với Mùi của tuổi xông nhà, chấp nhận được

Tổng điểm: 15/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1963 (Quý Mão – Kim bạch kim)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Kim tương sinh với Thủy của gia chủ, rất tốt

– Ngũ hành của năm nay là Kim không sinh, không khắc với Kim của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Thiên can của tuổi xông nhà là Quý không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Quý của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Mão không tương hợp, không xung khắc với Mão của gia chủ, chấp nhận được

– Địa chi của năm nay là Mùi tương hợp với Mão của tuổi xông nhà, rất tốt

Tổng điểm: 15/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1966 (Bính Ngọ – Thiên thượng thủy)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Thủy không sinh, không khắc với Thủy của gia chủ, chấp nhận được

– Ngũ hành của năm nay là Kim tương sinh với Thủy của tuổi xông nhà, rất tốt

– Thiên can của tuổi xông nhà là Bính không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Bính của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Ngọ không tương hợp, không xung khắc với Mão của gia chủ, chấp nhận được

– Địa chi của năm nay là Mùi tương hợp với Ngọ của tuổi xông nhà, rất tốt

Tổng điểm: 15/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1967 (Đinh Mùi – Thiên thượng thủy)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Thủy không sinh, không khắc với Thủy của gia chủ, chấp nhận được

– Ngũ hành của năm nay là Kim tương sinh với Thủy của tuổi xông nhà, rất tốt

– Thiên can của tuổi xông nhà là Đinh không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Đinh của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Mùi tương hợp với Mão của gia chủ, rất tốt

– Địa chi của năm nay là Mùi không tương hợp, không xung khắc với Mùi của tuổi xông nhà, chấp nhận được

Tổng điểm: 15/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1975 (Ất Mão – Đại khê thủy)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Thủy không sinh, không khắc với Thủy của gia chủ, chấp nhận được

– Ngũ hành của năm nay là Kim tương sinh với Thủy của tuổi xông nhà, rất tốt

– Thiên can của tuổi xông nhà là Ất không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Ất của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Mão không tương hợp, không xung khắc với Mão của gia chủ, chấp nhận được

– Địa chi của năm nay là Mùi tương hợp với Mão của tuổi xông nhà, rất tốt

Tổng điểm: 15/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1982 (Nhâm Tuất – Đại hải thủy)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Thủy không sinh, không khắc với Thủy của gia chủ, chấp nhận được

– Ngũ hành của năm nay là Kim tương sinh với Thủy của tuổi xông nhà, rất tốt

– Thiên can của tuổi xông nhà là Nhâm không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Nhâm của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Tuất tương hợp với Mão của gia chủ, rất tốt

– Địa chi của năm nay là Mùi không tương hợp, không xung khắc với Tuất của tuổi xông nhà, chấp nhận được

Tổng điểm: 15/20 ( Tốt )

Tuổi xông nhà 1953 (Quý Tỵ – Tràng lưu thủy)

– Ngũ hành của tuổi xông nhà là Thủy không sinh, không khắc với Thủy của gia chủ, chấp nhận được

– Ngũ hành của năm nay là Kim tương sinh với Thủy của tuổi xông nhà, rất tốt

– Thiên can của tuổi xông nhà là Quý không tương hợp, không xung khắc với Ất của gia chủ, chấp nhận được

– Thiên can của năm nay là Ất không tương hợp, không xung khắc với Quý của tuổi xông nhà, chấp nhận được

– Địa chi của tuổi xông nhà là Tỵ không tương hợp, không xung khắc với Mão của gia chủ, chấp nhận được

– Địa chi của năm nay là Mùi không tương hợp, không xung khắc với Tỵ của tuổi xông nhà, chấp nhận được

Tổng điểm: 14/20 ( Khá )


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi xông nhà 2015 cho người sinh năm Ất Mão 1975 –

Hướng của cửa sổ –

Cửa sổ mở về hướng Đông là một điềm lành vì dương khí ở hướng Đông rất dồi dào. Trong phong thủy gọi là “tử khí đến từ hướng Đông” (“tử” ở đây tức là màu tím trong tia cực tím). Cửa sổ mở về hướng Bắc không có lợi cho sức khỏe của mọi người trong nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

file.394957

Cửa sổ mở về hướng Đông là một điềm lành vì dương khí ở hướng Đông rất dồi dào. Trong phong thủy gọi là “tử khí đến từ hướng Đông” (“tử” ở đây tức là màu tím trong tia cực tím).

Cửa sổ mở về hướng Bắc không có lợi cho sức khỏe của mọi người trong nhà, vì phương Bắc trong ngũ hành phong thủy thuộc “âm thủy”, cửa mở về hướng Bắc dễ dẫn “âm sát” vào nhà. Trong khi đó, cửa sổ mở về hướng Nam, nếu nhìn thấy các vật như góc nhà, cây khô, đá nhọn hoặc đường chân trời thì không có lợi cho sức khoẻ, dễ bị các bệnh về mắt.

Cửa sổ phòng khách và phòng ngủ nếu đối diện với những vật không may mắn sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và của cải của chủ nhà và gây ra nhiều vấn đề bất cập.

Ngoài cửa chính, cửa sổ là con đường duy nhất để những người trong nhà kết nối với thế giới bên ngoài, vì thế cửa sổ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thông thường, các nhà có cửa sổ hướng Đông Nam tương đối dễ chịu, mùa đông ấm áp, mùa hè mát mẻ, nhưng theo quan điểm phong thủy thì trước hết phải nhìn rõ cảnh vật xa gần bên ngoài cửa sổ. Nếu cảnh vật là “xung sát” kém may mắn thì cho dù ‘cửa sổ ở hướng Đông Nam cũng là điều không tốt.

Nếu cửa sổ bị che khuất tầm nhìn bởi một nhà bên cạnh, ngưòi trong nhà vì thế không cách nào mở rộng tầm mắt vượt qua bên ngoài cửa sổ thì đó cũng là một điều bất cập. Phong thủy gọi đó là: “quái khí bất đáo”, nói cách khác tức là “sinh khí” và “tài khí” không thể vào được trong nhà. Đốỉ với chủ nhân của ngôi nhà thì điều này quả thật không có lợi.

Ngoài ra, nếu cửa sổ đối diện ngay với một con đường cái dài và thẳng thì cũng không tốt, vì trên đường cái chắc chắn sẽ có xe cộ thường xuyên qua lại. Nếu những chiếc xe đó đi thẳng qua cửa sổ nhà bạn thì đó là “xung tâm thủy”. Đây là một trong những “hung sát” có ảnh hưởng không tốt với sức khỏe con người. Ngược lại, nếu xe đi qua về hướng con đường đối diện với cửa sổ đó thì sẽ tạo thành thế “chỉ thủy”. Những nhà thường xuyên bị “chỉ thủy” đương nhiên khó mà tích luỹ được của cải. Vì thế, cửa sổ đối diện với đường cái nhỏ và hẹp, dù là theo hướng nào cũng đều là không tốt.

Cửa sổ lí tưởng nhất là đối diện với một con đường hơi ngoằn nghèo uốn lượn, đó chính là thế hiếm gặp – “cửu khúc thủy”. Nhờ có “cửu khúc thủy” mà con cháu đời sau trong nhà mới có thể giữ được địa vị và sự giàu sang phú quý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng của cửa sổ –

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 21 tháng 4 âm lịch - Hội Yên lập

Vào ngày 21 tháng 4 âm lịch hàng năm có diễn ra lễ hội Yên Lập được tổ chức tại xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 21 tháng 4 âm lịch - Hội Yên lập

Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 21 tháng 4 âm lịch - Hội Yên lập

Hội Yên lập

Thời gian: tổ chức vào ngày 21 tháng 4 âm lịch

Địa điểm: xã Yên Lập, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thần Bản Thổ.

Nội dung: Người dân Yên Lập mở tiệc bánh giầy để dâng cúng lên vị thần bản thổ; tiếp đó là tiết mục múa gươm, và cuộc thi chọi trâu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 21 tháng 4 âm lịch - Hội Yên lập

Tam Ban Xảo Quái cách cục hiếm có trong Phong Thủy

Trong “Phụ mẫu Tam ban quái” còn được chia ra làm 2 loại là “Thất tinh đả kiếp” và “Tam ban Xảo quái”. Riêng trong mục này chỉ xin bàn qua “Tam ban Xảo quái” mà thôi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những cách cục có thể giúp cho trạch vận của căn nhà được lâu dài, bền bỉ thì ngoài cách “Hợp Thập” còn có những cách cục “Tam ban quái”.

Nói “Tam ban quái” là vì trong toàn trạch bàn, các vận-sơn-hướng tinh tại mỗi cung hoặc là nối liền nhau thành 1 chuỗi như 1-2-3, 2-3-4, 3-4-5, 4-5-6, 5-6-7, 6-7-8, 7-8-9, 8-9-1, 9-1-2, hoặc là tạo thành những chuỗi số cách đều nhau 3 số như 1-4-7, 2-5-8, 3-6-9. Cách có những chuỗi số nối liền nhau được gọi là “Tam ban quái”, còn cách có những chuỗi số cách đều nhau 3 số được gọi là “Phụ mẫu Tam ban quái”.

tam ban

Trong “Phụ mẫu Tam ban quái” còn được chia ra làm 2 loại là “Thất tinh đả kiếp” và “Tam ban Xảo quái”. Riêng trong mục này chỉ xin bàn qua “Tam ban Xảo quái” mà thôi.

Gọi là “Tam ban Xảo quái” là vì đây là trường hợp “Tam ban quái” kỳ diệu và hiếm có nhất, và do đó cũng là cách cục quý giá và tốt đẹp nhất trong mọi cách cục của Huyền không Phi tinh. Nó chỉ xuất hiện khi các vận-sơn-hướng tinh tại mỗi cung kết hợp thành 1 trong 3 cặp số: 1-4-7, 2-5-8, 3-6-9. Điều kiện tiên quyết là tất cả các cung phải có 1 trong 3 cặp số này, tức là toàn bàn đắc Tam ban quái thì mới được coi là đắc “Tam ban Xảo quái”.

Thí dụ: nhà tọa THÂN hướng DẦN (tức hướng 60 độ), nhập trạch trong vận 8.



Nếu lập trạch vận thì ta thấy tất cả các cung đều có 1 trong 3 cặp số 1-4-7, 2-5-8 hay 3-6-9, cho nên căn nhà này toàn bàn là cuộc Tam ban quái, và được coi là đắc “Tam ban Xảo quái”.

Vì cách cục như trên là rất hiếm, nên trong tổng số 1944 cách cục của Phi tinh thì chỉ có 16 cách là hội đủ điều kiện của “Tam ban Xảo quái” như sau:

- Nhà tọa CẤN hướng KHÔN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa KHÔN hướng CẤN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa DẦN hướng THÂN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa THÂN hướng DẦN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa SỬU hướng MÙI: trong các vận 4 và 6.
- Nhà tọa MÙI hướng SỬU: trong các vận 4 và 6.

Đối với Huyền không Phi tinh, những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” được coi là kỳ diệu, vì chẳng những là mỗi con số được cách nhau 3 số, “giống như 1 chuỗi ngọc đính liền nhau, (thuận hay nghịch đều cách 3), hoàn toàn tự nhiên, không chút gượng ép” như Trạch vận Tân án đã nói, mà còn vì trong 3 cặp số đó, mỗi cặp đều có 1 số tiêu biểu cho Thượng Nguyên – Trung Nguyên – Hạ Nguyên. Như 1-4-7 thì 1 là số của Thượng nguyên, 4 là số của Trung nguyên, 7 là số của Hạ nguyên. Với cặp 2-5-8 thì 2 là số của Thượng nguyên, 5 là số của trung nguyên, 8 là số của Hạ nguyên. Với cặp 3-6-9 thì 3 là số của Thượng nguyên, 6 là số của Trung nguyên, 9 là số của Hạ nguyên. Các số 1-4-7 lại đều là những số khởi đầu của Tam nguyên, 2-5-8 đều là những số giữa, 3-6-9 đều là những số cuối, nên vừa có thể làm cho tương thông (hay thông khí) hết cả 3 Nguyên, lại vừa không bị rối loạn hoặc pha tạp. Những cặp số có thể làm thông khí cả Tam Nguyên há không phải là lâu dài hay sao? Lại không bị rối loạn hoặc pha tạp, há không phải là quý khí hay sao? Cho nên những nhà đắc được cuộc “Tam ban Xảo quái” chẳng những vận khí sẽ rất lâu dài trong suốt Tam Nguyên Cửu Vận, mà vì còn đắc quý khí, nên nếu biết cách xử dụng thì dòng họ đời đời sẽ phú quý, danh gia vọng tộc. Nếu không biết cách xử dụng thì cũng chỉ bình thường, thậm chí có thể mang lấy nhiều tai họa tùy theo từng trường hợp.
Những trường hợp Tam Ban Quái phát sinh tai họa

Tuy một số nhà đắc cách “Tam ban Xảo quái” chẵng những đã không gặp được điều gì tốt lành, lại bị nhiều tai họa liên tiếp xảy ra, hại người tốn của... là do những nguyên nhân sau đây:

1) Nhà thường chỉ có cửa trước, chứ không có cửa sau. Lý do là vì những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” hầu như bao giờ cũng gặp trường hợp “Thượng Sơn, Hạ Thủy”, vượng tinh của Hướng sẽ tới phía sau nhà, còn vượng tinh của Sơn sẽ tới phía trước. Nếu phía sau nhà không có cửa hoặc hồ tắm... thì vượng tinh của Hướng đã bị “Thượng Sơn”, nên tài lộc sẽ gặp nhiều khó khăn, bế tắc. Nếu như phía trước nhà đã có cửa mà còn trống, thoáng, thì vượng tinh của Sơn đã bị “Hạ thủy”, chủ phá bại về nhân đinh. Đó là chưa kể trong 16 cách cuộc đắc “Tam ban Xảo quái” thì đa số lại còn bị Phản-Phục Ngâm, nên làm sao tránh được tai họa? Cho nên tối thiểu là nhà phải có cổng, cửa, hay thủy tại khu vực có vượng khí của Hướng tinh, dùng cách “Nhất chính đương quyền” để hóa giải những cuộc “Thượng Sơn, Hạ Thủy” và Phản-Phục ngâm thì mới có thể tránh được tai họa (nên nhớ là cách “Thượng Sơn, Hạ Thủy” của Phi tinh chỉ là về hình thức, tức là vì Hướng tinh chiếu tới phía sau nhà, nên trên danh nghĩa thì nó đã bị “lên núi” tức “Thượng Sơn”. Nhưng nếu phía sau nhà có thủy hoặc cửa ra vào thì nó đã “gặp nước”, nên biến thành cách “Đáo Hướng”, chứ không còn là cách “Thượng Sơn” nữa. Tương tự với Sơn tinh tới hướng trên danh nghĩa là “Hạ Thủy”, nhưng nếu phía trước có núi hay nhà cao thì Sơn tinh đã “gặp núi”, nên lại biến thành cuộc “Đáo Sơn”. Còn về Phản-Phục ngâm thì chúng chỉ gây tai họa trong trường hợp là khí suy, tử mà thôi. Nên nếu phương có vượng khí mà có cửa hoặc sông hồ... thì cái họa do Phản-Phục ngâm cũng không còn nữa).

2) Phía sau nhà đã không có cửa, lại còn có núi cao hay nhà cao. Phía trước nhà đã có cửa, lại còn thêm trống, thoáng thì tai họa càng nặng.

3) Nếu đã phạm các điều ở trên, mà hướng nhà lại kiêm nhiều, vị trí cửa, bếp, bàn thờ... còn phạm Không vong thì tai họa càng nghiêm trọng.
4) Phía sau nhà đã không có cửa hay thủy, còn cửa trước tuy không nằm ngay đầu hướng, nhưng lại nằm trong 1 khu vực làm tiết thoát nguyên khí của hướng tinh nơi đầu hướng (tức Hướng tinh ở hướng phải sinh cho Hướng tinh nơi cửa) thì cũng gặp nhiều tai họa.

5)Những nhà tuy phía sau có cửa, nhưng lại bị nhà hàng xóm cao hoặc áp sát, phía trước tuy không có cửa, nhưng có sân trống hay thủy... thì cũng vẫn là cách cục phá bại và gặp nhiều tai họa.

Gần đây, có 1 số nhà Phong thủy lại cho rằng những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” cần phải vuông vức, để tất cả các cung của Bát quái đều nằm gọn trong căn nhà và chiếm 1 phần bằng nhau, chứ không thể có cung nào bị lọt ra ngoài nhà hay chiếm 1 phần quá ít so với những cung khác!!! Họ cho rằng chỉ có những nhà như thế mới phát phúc, lộc, còn những nhà không vuông vức thì sẽ gặp nhiều tai họa. Tuy nhiên, nếu gặn hỏi lý do thì họ thường chỉ trả lời được rằng nếu các cung không đồng đều, hay có 1, 2 cung lọt ra ngoài cửu cung thì Tam ban quái sẽ không đầy đủ, nên khí sẽ “không thông” mà gây ra tai họa. Nhưng thật ra nếu xét kỹ “tiêu chuẩn” này thì có thể nhận thấy là ngay chính họ cũng không biết lý do tại sao những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” mà cũng vẫn bị họa, nên mới đưa ra “tiêu chuẩn” nhà cần vuông vức. Và vì không tìm được lý do giải thích, cho nên họ mới xoay sang “kết hợp” đủ mọi lý thuyết khác để tìm câu giải đáp như sau:

- Về hình cục loan đầu: thì những gì vuông vức đều được coi là tốt đẹp, làm cho khí lưu thông điều hòa, còn những gì méo mó, lệch lạc đều bị coi là xấu, là làm cho khí bị bế tắc hoặc trì trệ, thiên lệch... mà làm hỏng cuộc “Tam ban Xảo quái”.

- Về vận khí: hầu hết các cuộc đắc “Tam ban Xảo quái” đều xuất hiện trong các vận 2, 5, 8 tức là Thỗ vận, nên nếu nhà vuông vức thì tướng nhà sẽ hợp với nguyên vận (hình vuông thuộc Thổ) mà làm cho tốt đẹp.

- Về phương vị: vì chỉ có những nhà nằm trong tọa hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN (tức trục ĐÔNG BẮC –TRUNG CUNG - TÂY NAM) là đắc “Tam ban Xảo quái”, mà Ngũ hành của trục này đều thuộc Thổ, cho nên hình dáng của căn nhà mới “cần” vuông vức để hợp với Ngũ hành của tọa-hướng và trung cung mà giúp cho thông khí hoặc tăng thêm cái tốt, chế hóa được cái xấu...

Tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều nhà đắc “Tam ban Xảo quái”, lại vuông vức nhưng vẫn gặp tai họa như 1 số trường hợp dưới đây:

- Trường hợp 1: nhà tọa SỬU hướng MÙI (210 độ), nhập trạch trong vận 6 (1965). Nhà hình chữ nhật, chiều dài của mặt tiền là 9m, chiều sâu 4m 5, có cửa trước tại khu vực phía TÂY NAM, cửa hông tại khu vực phía TÂY. Phía sau không có cửa, chỉ có nhà hàng xóm áp sát ngay sau tường.

Nếu lập tinh bàn thì thấy có vượng khí Lục bạch của Hướng tinh tới phía sau, cửa trước có hướng tinh Cửu Tử, cửa hông có Hướng tinh Ngũ Hoàng. Sau khi vào ở được 2 năm thì người ông nội mất, sau đó 8 năm thì người cha mất (lúc đó mới có 49 tuổi). Về kinh tế thì gia cảnh ngày 1 túng thiếu, trong nhà luôn có người bệnh hoạn.

- Trường hơp 2 (trong Trạch vận Tân án, trang 412): nhà tọa MÙI hướng SỬU kiêm KHÔN-CẤN 3 độ (tức hướng 33 độ), nhập trạch năm CANH NGỌ (1930, tức thuộc vận 4). Trong sách không nói kích thước bao nhiêu, nhưng theo hình vẽ thì nhà hình vuông. Phía sau không có cửa, ở hướng cũng không có cửa, chỉ có 1 cửa duy nhất nằm tại phương KHẢM để ra, vào mà thôi.

Nếu lập tinh bàn thì thấy vượng khí của Hướng tinh tới phía sau, phía trước có hướng tinh Nhất bạch, nơi cửa ra vào có Hướng tinh Tam bích. Nhà này sau khi vào ở làm ăn thất bại, hao tài tốn của, xung đột với khách hàng, lại còn bị thầy Phong thủy tiên đoán “sẽ có giặc cướp đến quấy nhiễu, hoặc bị kẻ xấu vu khống khiến phải hao tổn nhiều tiền của”, nên khuyên 1 là làm cửa và đường đi thông phía sau, 2 là “tìm ngay 1 căn nhà khác để thuê và chuyển đến sẽ tránh được tổn thất”.

- Trường hợp 3 (cũng trong Trạch vận Tân án, trang 202): nhà của 1 đại phú gia, xây dựng vào vận 2, tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng TÂY NAM – 225 độ). Đây là 1 dinh thự “có quy mô hùng tráng, trông như lâu đài vua chúa”. Nhà có cổng, cửa ra vào tại khu vực phía NAM, phía sau (tức khu vực ĐÔNG BẮC) có biển mênh mông.

Nếu lập tinh bàn thì sẽ thấy phía ĐÔNG BẮC đắc vượng khí Nhị Hắc, phía NAM đắc sinh khí Tam bích, nên tuy trong sách không vẽ hình dáng ra sao, nhưng trong vận 2, vượng khí chiếu đến phía ĐÔNG BẮC, mà nơi này có đại thủy mênh mông, nên “phát đạt vô hạn, tiến triển mạnh mẽ, có thể nói là nhà phát phúc duy nhất trên quần đảo”. Qua vận 3, hướng tinh Nhị Hắc tuy đã biến thành thoái khí, nhưng cửa khẩu nơi phía NAM lại đón được vượng khí, nên “vẫn tiếp tục phát triển thịnh vượng như vận trước”. Cuối vận 3, vượng khí đã hết, công việc làm ăn gặp thất bại nặng, sự nghiệp trong phút chốc ra tro, chủ nhân đau buồn mà chết. Nhìn vào trạch vận này, Thẩm điệt Dân tiên sinh (tức con trai của Thẩm trúc Nhưng) đã từng nhận định:”Toàn bộ cục diện này hợp thành Tam ban quái, nên vận 2 đại vượng, vận 3 vẫn có lợi. Nhưng khi sắp sang vận 4 thì sẽ thất bại nặng, chỉ e còn có tai họa khác đáng sợ hơn”.

Qua 3 trường hợp trên, ta thấy ngay cả đối với những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” thì họa, phúc vẫn là do cổng, cửa hay những phương vị có sơn-thủy... quyết định, chứ không phải là do nơi hình dạng của căn nhà có vuông vức hay không. Ngay cả trong trường hợp 3 tuy không biết hình dạng căn nhà như thế nào, nhưng nếu nó thiên lệch thì tại sao trong vận 2 và 3 vẫn vượng phát, cực thịnh 1 thời? Còn nếu nó vuông vức thì tại sao khi sắp qua vận 4 cơ nghiệp lại hóa thành tro, bụi? Cho nên nguyên do tạo ra họa, phúc cũng vẫn là cổng, cửa và những phương vị có Son, Thủy... mà thôi. Ngoài ra, có 1 vài trường hợp nhà đắc “Tam ban Xảo quái” cũng đòi hỏi nhà cần vuông vức, nhưng là để thỏa mãn những yếu tố khác, chứ hoàn toàn không liên quan gì tới cách cục này cả. Sau cùng, tuy trong lý thuyết thường nói những nhà hay mộ đắc cách này đều sẽ được “thông khí” và phát suốt Tam Nguyên Cửu Vận, nhưng thật ra muốn đạt được sự “thông khí” thì cần phải thỏa mãn 1 số điều kiện cần thiết thì phúc lộc mới được trường cửu, lâu dài.
.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam Ban Xảo Quái cách cục hiếm có trong Phong Thủy

Các ngành trong khoa tử vi

a. Võ học: Sát, Phá, Liêm, Tham: nếu hội đủ cả bốn sao chiếu Mệnh thì nghiệp võ của đương số sẽ rõ ràng. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp quân nhân vẫn không hội đủ bốn sao. Mặt khác, cũng có trường hợp có đủ bốn sao mà vẫn không phải là nhà binh. Trong trường hợp này, những sao đó nói lên võ tính của đương sự hơn là võ học hay võ nghiệp: biểu lộ tính can đảm, táo bạo, liều lĩnh, hay sát phạt, có hành động võ phu.
Các ngành trong khoa tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Binh Hình Tướng ấn: cách này chỉ sự hiển đạt trong nghiệp võ, chỉ quân nhân có tài tác chiến, tài tham mưu, đồng thời cũng là quân nhân có chiến công, có cầm quân, có huy chương.

Vũ Tướng: hai sao này kết hợp cũng chỉ võ nghiệp rất đặc sắc.

Tử Phủ Vũ Tướng: cách này vừa chỉ văn, vừa chỉ võ cho nên đặc biệt có quyền uy: đó là ngành võ cầm quyền chính trị.

Tướng Quân, Thiên Mã: chỉ quân nhân có tài. Tướng Quân chỉ võ tính, sự cương cường, hiếu thắng, phách lối còn Thiên Mã chỉ tài năng. Nếu Thiên Mã đi với Thiên Tướng cũng đồng nghĩa nhưng đây là một quân nhân có kỷ luật hơn vì Thiên Tướng vốn đôn hậu, có tư cách hơn Tướng Quân.

Thiên Mã, Lực Sỹ: là cách của võ tướng có sức mạnh từ đó vũ dũng (ít có mưu lược).

Thiên Tướng-Tướng Quân hay Thiên Tướng-Phục Binh hay Tướng Quân-Phục Binh: là tướng có quân, có quyền.

Ngoài ra có thể kể một số sao trợ võ, nghĩa là đi chung với các võ tinh khác thì làm cho võ nghiệp rõ rệt hơn. Đó là Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa, Linh là những sát tinh, hung tinh nói lên tính nết mạnh bạo, dám làm, tác phong của võ cách. Ví dụ, hai sao Kình, Hỏa miếu địa đồng cung là số danh tướng, hợp vớ cách Sát Phá Liêm Tham. Tướng Mã Không Kiếp đắc địa chỉ quân nhân cầm binh, vị tướng cầm quân có nhiều binh tướng dưới tay, thường lập nghiệp vẻ vang trong thời tao loạn. Sát Phá Liêm Tham gặp Kình hãm địa ở Mão và Dậu là tướng làm loạn, đảo chánh, binh biến, khát máu, giết người không gớm tay.

b. Văn học
Văn Xương, Văn Khúc: chỉ các môn về văn chương, triết lý hoặc chỉ môn học nói chung.

Thái Tuế, Thiên Hình, Cự Môn, Quan Phù: một trong bốn sao này chỉ các môn học về luật pháp.
Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật: cả bốn sao này chỉ ngành dịch thuật. Đây là bộ sao của các thông ngôn, hành nghề dịch sách, tu thư, khảo cứu cổ ngữ, kim ngữ.

Lưu Hà, Tấu Thư, Hóa Khoa, Thái Tuế, Cự Môn, Hóa Kỵ: chỉ sự hùng biện, tài dùng ngôn ngữ, ứng dụng đắc cách vào ngành sư phạm, vào khoa hùng biện, chính trị học.

Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: chỉ người công chức. Ngành học là hành chính, quản trị công sở.

Lộc Tồn: chỉ tài năng tổ chức, sắp xếp công việc, do đó cũng liên quan đến ngành quản trị hành chính hay công sở đặc biệt là quản trị tài chính, kế toán, ngân sách, kho bạc, ngân hàng.

c. Khoa học:
Thiên Tướng, Thiên Y: Hai sao này đi chung (đồng cung hay hội chiếu) có nghĩa là y học. Ngoài ra, nếu Thiên Y đi kèm với các sao phù trợ khác cũng có nghĩa về y học: Thiên Quan, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Phúc, Thiên Lương, Thái Âm, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần ...

Thiên Y, Hóa Kỵ: có ý nghĩa bào chế thuốc men, có liên quan đến y dược học.

Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm, Thái Dương: các sao này có nghĩa là điện, liên quan đến ngành điện học, điện tử hay nguyên tử.

Thiên Cơ: liên quan đến máy móc, ngành cơ khí, kỹ thuật. Đây có thể là sao của kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật, kỹ nghệ gia.

d. Kinh tế học:
Vũ Khúc, Tham Lang: Vũ Khúc chỉ tài lộc, tiền bạc. Tham Lang chỉ sự đua chen tham lợi. Đây là cách chỉ nghề thương mại, kinh doanh.

Hóa Lộc, Lộc Tồn và Thiên Mã: Hai sao Lộc chỉ tiền tài. Thiên Mã chỉ tài năng, sự tháo vát, giao dịch. Hai sao này đi chung chỉ ngành thương mại, đặc biệt là ngành thương mại lưu động. Người có bộ sao Mã Lộc hay Mã Tồn là kẻ mua sỉ bán lẻ hay đại lý thương mại hay người phân phối, đóng vai luân lưu hàng hóa trong hệ thống kinh tế.

Vũ Khúc, Thiên Phủ: Thiên Phủ chỉ cái kho tàng hay kho bạc. Ngành học của Phủ có thể là ngân hàng, tín dụng, thuế khóa. Vũ Khúc có thể chỉ kinh tế học. Đây là cách chỉ ngành kinh tế, tài chính.

Vũ Khúc, Tham Lang, Kình Dương, Thất Sát: bốn sao này sáng sủa hội họp thường thiên về kỹ nghệ.

e. Nghệ thuật:
Phượng Các, Tấu Thư, Xương Khúc: Phượng Các là thính giác. Tấu Thư là sự linh mẫn, êm dịu, ngọt ngào. Xương Khúc chỉ môn học. Bốn sao này đi cùng chỉ môn âm nhạc.

Tấu Thư, Hồng Loan: Hồng Loan có nghĩa là hoa tay, từ đó chỉ ngành học liên quan đến sự khéo tay như hội họa, điêu khắc, thêu may, hay thủ công nghệ nói chung.

Đào Hoa, Tấu Thư, Thiên Hỷ, Vũ Khúc: bộ sao của ca sĩ, kịch sĩ, diễn viên màn ảnh, tài tử, minh tinh, có liên quan đến ngành học như hát, đóng kịch, đóng phi. Đào Hoa chỉ sự hâm mộ, Thiên Hỷ chỉ sự giúp vui, Vũ Khúc chỉ danh giá, sự nổi tiếng.

Thiên Trù, Tấu Thư, Hóa Lộc hay Hồng Loan: chỉ ngành nấu bếp, nấu rượu, chế tạo thức ăn thức uống hoặc gia chánh.

Đào Hoa, Hồng Loan với Mộc Dục hay Hoa Cái: chỉ môn thẩm mỹ học, chuyên về sửa sắc đẹp. Nếu đi với Thiên Hình hay Kiếp Sát chỉ môn giải phẫu thẩm mỹ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngành trong khoa tử vi

Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Các ông thầy tướng thấy đôi mắt phụ nữ có đuôi là thở dài: đàn bà đa tình là họa.
Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mẹ chồng xem mắt con dâu, thấy long lanh ướt, lúc nào cũng miệng cười mắt cười cũng thầm lo: nó đa tình thế kia chỉ khổ con mình. Chả biết ai khổ hơn ai, đàn bà đa tình và những người xung quanh họ.

Mình biết một chị đã qua tuổi 50, mắt lá răm đuôi dài quét hết dũng khí của đàn ông đối diện, 4 lần đò, giờ vẫn lênh đênh vì tội đa tình.
Một chị nữa cười nhiều mà mắt như loáng nước, đen ánh lên với vòng chân mày mượt gọn, sắc sảo thế nên có cháu ngoại rồi vẫn cô đơn.
Mình cũng biết một em xinh như mơ, chân đủ dài, mắt phượng không cần trang điểm vẫn cứ lên hình ngọt ngào “thưa quý vị và các bạn” mở đầu một ngày mới. Đàn ông liêu xiêu vì em không tính hàng đơn vị.. qua tuổi 35 vẫn tự lái xe, tự mua thuốc uống khi ốm, vì tự biết mình đa tình, dính vào ai cũng khổ mình khổ người..

Nhiều người bảo đàn bà đa tình như lũ trẻ háu ăn đi tiệc buffet, lấy đầy đĩa đủ mọi món nhưng vẫn không thấy đủ. Mình thấy so thế chẳng đúng tẹo nào. Bọn trẻ con háu ăn lấy về nhưng không ăn hết, đàn bà đa tình không phải ai cũng muốn sưu tập các vệ tinh để tạo club. Đa tình thì dễ xao xuyến, dễ yêu và dễ bị cuốn đi…và khi cuốn đi rồi, khó biết dừng lại. Chỉ vậy thôi.

Đàn ông thích đàn bà đa tình hay không chẳng biết, chỉ biết rằng giai nào dám chọn đàn bà đa tình làm vợ chắc chắn phải đầy bản lĩnh, tự tin (những kẻ bạc nhược, tặc lưỡi….hên xui, biết nàng đa tình, sợ mà vẫn lấy rồi lấy về để dằn vặt thì không tính là đàn ông)! Đàn ông giỏi giang kiểu này mình rất nể, có một thằng bạn mình cũng dám chọn một em đa tình, nó bảo: Nàng đa tình nhưng nàng yêu mình là đủ. Khi nào nàng nhảy sang yêu thằng khác thì .. tính tiếp!

Nói đàn bà đa tình như than hồng không thể bọc năm bảy lần giấy, thả vào nước là nguội tanh cũng sai. Đàn bà đa tình giống một thanh kim loại tích điện, có thể làm sôi mọi loại chất lỏng từ đắng đến cay, từ ngọt đến mặn, và dĩ nhiên là làm tan chảy và bay hơi cả nước đá lẫn nước lọc..Năng lượng ấy mà dồn cho những đam mê nghề nghiệp mang thiên hướng văn học, nghệ thuật thì .. quá ổn.

Cá nhân mình chỉ thấy đàn bà đa tình khổ, không phải vì chịu đựng ánh mắt nghi ngờ của người đàn ông bên cạnh hay đàm tiếu của những người xung quanh, mà khổ vì những nồng nàn đôi khi không được thổi bùng lên thành lửa. Vì những nồng nàn của đàn bà đa tình nhiều khi không phải …yêu đương mà chỉ là những đam mê .. phi vật thể! Không biết giải thích vụ này thế nào….

Không chỉ ngoài đường, trong nhà, đàn bà đa tình mới bị “kỳ thị”. Công sở có lẽ là nơi khó khăn nhất cho họ. Đàn bà đa tình làm sếp thì..cũng căng người chịu thị phi. Giỏi cỡ nào, thông minh nhạy bén cỡ nào cũng chỉ được nhìn nhận là nhờ đa tình mà thành hay bại! Còn nữ nhân viên đa tình có chăng chỉ được lòng sếp nam trăng hoa trong ngắn hạn, đa phần phải tự bảo vệ mình trước đồng nghiệp và sếp nữ đoan trang chỉnh chu không bao giờ cười hở răng. Với nhóm các phụ nữ đặc biệt đi đúng lề này thì đa tình hay lẳng lơ cũng là một, đều là dạng tiềm ẩn nguy hiểm phá tan hạnh phúc gia đình của người khác. Kiểu cướp trên giàn mướp mà mắt vẫn đẫm lệ đầy xót xa…và nhóm cực đoan này thường quy kết: “đa tình rồi cũng bạc tình”, một cái kết hết sức phi lý mà vẫn được tán đồng, nhất là sau các ví dụ thảm thương như đại gia đi Lexus hay anh Hoàng Hùng báo NLĐ.

Trong khi logic mà nói, đa tình, giàu tình cảm, là thái cực đối lập với bạc tình.

Và có lẽ để tự bảo vệ mình mà đàn bà đa tình dường như ngày càng ít đi..Những ướt át xao xuyến liêng biêng dễ dàng say đắm nhường chỗ cho chừng mực và tỉnh táo. Phải biết dừng ở đâu chứ!

Đàn bà than thở: đa tình chỉ chuốc khổ tự thân….Nắng chang chang, mình lại vừa thấy một em đa tình từ chối lời hẹn gặp giai thú vị, để phi ra nắng gặp khách hàng tiềm năng là một chị rất ghét thói đa tình…

Sao đời không bao dung để thấy đàn bà đa tình là phúc chứ đâu phải họa nhỉ. Hồn nhiên đa tình để yêu ghét tự tâm, chân thành và nồng cháy thì có gì mà sai??

Nhiều anh đàn ông bảo "đàn bà đa tình" cũng tốt thôi, nhưng phải nói rõ là đa tình nhưng chỉ yêu chồng và con mình thôi, không yêu chồng người khác…. làm khó nhau quá…Các anh ấy bảo đa tình, rồi sẽ đa nhân tình thôi!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mắt phụ nữ có đuôi là tướng người đa tình

Người tuổi Dần hợp làm ăn với tuổi nào?

Người tuổi Dần cũng tài đức vẹn toàn, trong việc kinh doanh cũng có thể tự lập nhưng nếu kết hợp với người tài trí nữa thì thành công đạt được sẽ cao hơn.
Người tuổi Dần hợp làm ăn với tuổi nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Dần luôn mang lại cảm giác dũng mãnh, mạnh mẽ, thái độ quyết đoán.


Nguoi tuoi Dan hop lam an voi tuoi nao hinh anh
 
Người tuổi Dần cũng khá uy nghiêm, giỏi về quản lý, tự đưa ra quyết sách đúng đắn, thực lực cũng khá, biết cách nắm thời cơ. Tuy nhiên, về kiến thức chuyên môn kinh doanh thì tuổi Dần lại có phần khuyết thiếu.
Vậy, người tuổi Dần có thể hợp tác làm ăn với tuổi nào?   Với tuổi Tý: Không tốt cho lắm, nhanh chóng tan rã hoặc gặp nhiều thất bại.
Với tuổi Sửu: Người tuổi Dần nếu hợp tác với người tuổi Sửu thì việc kinh doanh sẽ gặp nhiều thất bại bởi người tuổi Dần không chấp nhận được thái độ duy vật chất của người tuổi Sửu, trước sau gì cũng tan rã.   Với tuổi Dần: Sự hợp tác không được tốt cho lắm, bởi vì cả đôi bên đều khuyết thiếu thái độ nhân sinh cùng ý tưởng kinh doanh.
Với tuổi Mão: Có thể làm cộng sự, đôi bên bổ trợ cho nhau, người tuổi Dần sẽ cảm thấy có lợi cho mình nên nguyện ý hợp tác nhưng người tuổi Mão thì nên cẩn thận chút, bởi người tuổi Dần tính tình không được tốt cho lắm. Với tuổi Thìn: Người tuổi Thìn và người tuổi Dần nếu hợp tác thì sẽ đạt hiệu quả khá cao bởi cả 2 cùng có năng lực siêu phám, lại có sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau, cùng nhau phát triển.

Nguoi tuoi Dan hop lam an voi tuoi nao hinh anh
 
Với tuổi Tị: Hợp tác không tốt, dễ tan vỡ.   Với tuổi Ngọ: Không nên hợp tác.   Với tuổi Mùi: Có thể hợp tác nhưng không được lâu dài. Với tuổi Thân: Có thể tiến hành hợp tác.   Với tuổi Dậu: Tuyệt đối không thể hợp tác, đôi bên thường có những ý kiến bất đồng, thường xuyên xảy ra tranh cãi, mâu thuẫn. Nếu có thể hợp tác thì cũng cũng khó đảm bảo ích lợi công bằng cho đôi bên.
Nguoi tuoi Dan hop lam an voi tuoi nao hinh anh
 

Với tuổi Tuất: Có thể hợp tác nhưng mối quan hệ giữa họ là thiên địch, nên ngoài lĩnh vực kinh doanh thì lĩnh vực nào cũng có thể hợp tác.
  Với tuổi Hợi: Có thể hợp tác ngắn hạn, thời gian dài sẽ xuất hiện nguy cơ, bởi người tuổi Dần luôn có xu hướng uy hiếp người tuổi Hợi nhưng đôi khi chính người tuổi Dần lại không biết hành động của mình ảnh hưởng tới người tuổi Hợi.
 
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Phương Thùy
Người tuổi Thân nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
Người tuổi Thân hoạt bát, hiếu động, có chủ kiến, tính độc lập cao, với tính cách như vậy, nếu kết hợp làm ăn cùng 12 con giáp thì sao?
Tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào?
Tuổi Tý độc lập tự cường, rất giỏi nắm bắt và cập nhật thông tin. Vậy, để đạt được thành công trong sự nghiệp thì người tuổi Tý nên kết giao hợp tác với tuổi
Người tuổi Sửu nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
Người tuổi Sửu trời sinh bản tính cần cù, dù năng lực không cao lắm nhưng lại rất được mọi người tin cậy. Người này dù có cố gắng gây dựng sự nghiệp tới đâu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Dần hợp làm ăn với tuổi nào?

Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Một bài sưu tập các bài viết của anh AlexPhong để tiện theo dõi.
Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một bài viết mình chép lại các kinh nghiệm của anh AlexPhong trên các diễn đàn.

Kình Đà hiệp Kỵ

1. Tử vi dùng vòng địa chi làm tiêu chuẩn đánh giá các sao khác. Trong đó cơ sở nền tảng là địa bàn gồm 12 cung cố định. Tiếp đến là vòng Thái Tuế và tất cả các sao hàng chi đại diện cho địa chi của năm sinh. Tiếp đến là vòng Lộc Tồn và vòng Trường Sinh. Đến đây coi như bức tranh đã vé xong cái nền. Trên cái nền đó, chính là hoàn cảnh của lá số, các tinh đẩu còn lại như 14 chính tinh, lục cát tinh, lục sát tinh và tứ hóa thao diễn thất tình lục dục của cuộc đời.

Vậy giữa địa chi và thiên can thì dùng cái nào để đánh giá cái nào. Nói cách khác dùng cái nào làm nền cho cái nào. Xin thưa đó là dùng địa chi làm nền cho thiên can, như hệ tọa độ cho các điểm thiên can. Hỏi vì sao, thì đó là tiên đề, đó là quy ước khi lựa chọn 12 cung địa bàn.

Cho nên, vòng Thái Tuế là cơ sở đánh giá tất cả các sao còn lại. Tác giả Thiên Lương vô tình khám phá ra điều này. Tại sao không dùng vòng Lộc Tồn thì đơn giản vì Lộc Tồn theo can, an còn không đủ kín 12 cung thì làm sao dùng làm nền.

2. Có nhiều cách phân loại vòng Lộc Tồn, ông Thiên Lương phân loại theo Thái Tuế, Lộc Tồn Tuế Hổ Phù, Lộc Tồn không Tuế Hổ Phù. Cách phân loại này vô tình trùng hợp một phần cách phân loại của sách cổ. Đó là phân loại theo âm dương. Chỉ có hai loại Lộc Tồn: đó là thuận âm dương hay nghịch âm dương. Với vòng Thái Tuế thì đương nhiên Lộc Tồn phải thuận âm dương mới gặp được Thái Tuế.

Lộc Tồn thuận âm dương là Lộc Tồn của những năm Giáp Ất Canh Tân. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung dương, Lộc Tồn tuổi âm an can âm. Chỉ có Lộc Tồn của 4 tuổi này đi kèm Tuế Hổ Phù hoặc Long Phượng Hổ Cái. Cho thấy phép dùng địa chi để đánh giá thiên can, sơ qua cũng có thể thấy Lộc Tồn 4 tuổi này ưu việt hơn 6 tuổi còn lại.

Lộc Tồn nghịch âm dương là Lộc Tồn của những năm Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung âm, và Lộc Tồn tuổi âm an cung dương.

Vì sao dám nói, người xưa phân loại Lộc Tồn theo cách này. Vì có dấu vết. Dấu vết rất rõ nhưng con cháu không mấy kẻ lần ra. Đố là biểu hiện của song Hao. Trục song Hao vuông góc với trục Lộc Tồn Phi Liêm. Nói cách khác, khi Lộc Tồn cực mạnh thì song Hao phải cực tiểu và ngược lại. Cho nên khi Lộc Tồn trái vị âm dương thì song Hao miếu địa.

Khi Lộc Tồn trái vị âm dương ở tý ngọ tị hợi. Thì song Hao miếu địa ở dần thân mão dậu. Qua đó, hiểu ý tiền nhân rằng Lộc Tồn trái vị âm dương là Lộc Tồn hãm địa. Qua đó, hiểu ý tiền nhân dùng lý âm dương để định vị miếu hãm chứ không phải lý ngũ hành. Hỏi sao khi áp ngũ hành vào lý giải lúc trúng lúc trật. Vì ngũ hành là sản phẩm không hoàn hảo của âm dương. Vì không hoàn hảo nên mới chuyển động (hành). Nhưng cũng vì không hoàn hảo nên mới có sai số. Như một ván cờ ban đầu hai bên cân bằng âm dương. Sau vì một bên đi trước tạo chênh lệch âm dương mà tạo thành cục diện tranh đoạt đồ sát về sau.

Tuổi Bính Mậu Nhâm, Lộc Tồn can dương đóng âm vị, dương lạc vị thì âm đắc vị cho nên Đà La miếu địa ở thìn tuất.

Tuổi Đinh Kỷ Quý, Lộc Tồn can âm đóng dương vị, âm lạc vị thì dương đắc vị cho nên Kình Dương miếu địa ở sửu mùi.

3. Xét qua tứ hóa, tứ hóa là sản phẩm diễn hóa của thập can. Nói cách khác chúng là 4 đứa con lưu lạc của Lộc Tồn. Lộc Tồn không cư tứ mộ thì tứ mộ đối với tứ hóa mà nói cũng không hề ủng hộ nhau chút nào. Cho nên khi Hóa Kỵ cư tứ mộ được coi là đắc địa vì bản chất Hóa Kỵ là xấu. Cái xấu không tung hoành được ở mộ địa có nghĩa là tốt. Ta tự hiểu cho các trường hợp Lộc Quyền Khoa đóng ở tứ mộ cũng coi như bị hạn chế tác dụng.

Xét một câu phú liên quan: Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cuộc. Tức Kình Đà giáp hai bên cung có Hóa Kỵ thì rất xấu. Ta là người nay, ta hiểu tính đỏng đảnh của người xưa. Những câu phú người xưa để lại lúc ứng lúc không, vì họ chưa nói hết. Tùy điều kiện mà phân ra ứng hay không. Ở đây ta tìm thử xem Kình Đà hiệp Kỵ khi nào xấu khi nào không, thì coi như hiểu câu phú này. Nôm na là Lộc Tồn đồng cung Hóa Kỵ.

Tại những vị trí Lộc Tồn đúng vị âm dương:

Với Lộc tại dần, can Giáp, Nhật kỵ. Ta thấy Cự Nhật miếu vượng.

Với Lộc tại mão, can Ất, Nguyệt kỵ. Ta thấy Nguyệt hãm.

Với Lộc tại thân, can Canh Đồng kỵ. Ta thấy Đồng Lương miếu địa.

Với Lộc tại dậu, can Tân Xương kỵ. Tại dậu Xương hãm địa.

Tại những vị trí Lộc Tồn trái vị âm dương:

Với Lộc tại tỵ, can Bính, Liêm kỵ. Liêm Tham tại tỵ cực hãm. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại tỵ, can Mậu, Cơ kỵ. Cơ tại tỵ đắc địa.

Với Lộc tại hợi, can Nhâm, Vũ kỵ. Vũ Phá tại hợi cực hãm.

Với Lộc tại tý, can Quý, Tham kỵ. Tham Lang cư tý hãm địa. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại ngọ, can Đinh, Cự Kỵ. Cự Môn ở ngọ không được coi là miếu, vì cần tuần triệt mới đập đá lộ ngọc. Ngọc mà ở trong đá đương nhiên ngọc hãm địa.

Với Lộc tại ngọ can Kỷ. Văn Khúc hóa Kỵ. Tại ngọ Văn Khúc hãm địa.

Khi Lộc Tồn chính vị âm dương. Lộc Tồn ngộ Kỵ trong những trường hợp chính tinh miếu vượng, không có Triệt Tuần án ngữ. Trong khi Lộc Tồn trái vị âm dương khi Hóa Kỵ xâm nhập, thường những trường hợp đó chính tinh hãm địa. Chỉ có trường hợp của Thiên Cơ nhìn mặt Thái Âm miếu địa ở hợi mà đắc địa.

Cho nên có khả năng Kình Đà hiệp Kỵ là cách chơi chữ của tiền nhân khi nói về các diễn hóa âm dương phía trên. Mà ta chỉ cần hiểu đơn giản nó chỉ xấu khi chính tinh đi cùng hãm địa, hoặc nó chỉ xấu với 6 can Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý khi Lộc Tồn trái vị âm dương. Qua đây, cũng thấy rằng chính tinh hãm địa hóa Kỵ bị coi là xấu không cửa bật. Chính tinh hãm địa hóa Lộc Quyền được khen tốt trong nhiều câu phú, ở đây không nhắc lại nữa. Vậy phải chăng chính tinh miếu vượng cát hóa vẫn tốt hơn chính tinh hãm địa cát hóa?

4. Nhân đây ta xét tương quan Triệt với chính tinh cực hãm:

Xét trục tỵ hợi. Trục tỵ hợi là trục rất khốc liệt. Biểu hiện của nó là Không Kiếp đại ma đầu miếu địa, đương nhiên ta phải ngầm hiểu sự khó chịu của các chính tinh, nhất là những cát chính tinh khi đến đây. Tại đây vua tử vi phải ôm kiếm ra trận. Tại đây trinh nữ Liêm Trinh gặp dê xồm Tham Lang. Tại đây thương gia Vũ Khúc gặp tướng cướp Phá Quân. Tất cả những chính tinh dương như Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham đến đây đều gặp khó. Đám văn nhân Cự Cơ Đồng Lương thì phập phù nhưng đỡ khổ hơn vì tính mềm, đến nơi ma giáo lên ngôi cũng đỡ khổ hơn mấy anh cứng đầu. Đến Thái Dương cũng cực hãm ở hợi và tuy vượng ở tỵ thì gặp cảnh đắc thời nhưng trái vị. Thái Âm đối với trục tị hợi thì đỡ hơn vì dù sao ít nhất cũng đắc vị, còn tùy thời, tại hợi thì lưỡng toàn kỳ mĩ, tại tị thì hãm địa nhưng đắc thời.

Xét Vũ Phá. Vũ Phá ở hợi thì không gặp Triệt. Vũ Phá ở tị gặp Triệt với hai can Bính Tân. Bính Đồng Cơ hóa Lộc Quyền, Bính ngó lơ không cứu Vũ Phá. Tân Cự Nhật hóa Lộc Quyền, Tân cũng ngó lơ không cứu Vũ Phá. Trong trường hợp này Vũ Phá có Lộc Tồn đồng cung hoặc tam hợp. Ta biết cũng chẳng đến đâu, mà còn gieo rắc sự ngờ vực liệu Phá Quân có phá Lộc Tồn. Kỳ thực, chẳng phải vậy mà do nhiều yếu tố cộng hưởng lại.

Xét Liêm Tham ở tỵ. Tuổi Bính Liêm Trinh hóa Kỵ. Ta biết Triệt cũng không cứu Liêm Tham trong trường hợp này. Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc. Ta biết Triệt có cứu Liêm Tham trong trường hợp này, Liêm Tham có song Lộc.

Xét Liêm Phá cư dậu cực hãm. Tuổi giáp có Triệt. Liêm hóa Lộc Phá hóa Quyền Vũ Hóa Khoa chiếu về. Ta biết Triệt cứu Liêm Phá trong trường hợp này. Nhưng tuổi Kỷ Vũ hóa Lộc Tham hóa Quyền, ta biết Triệt có cứu nhưng kém ưu ái hơn so với trường hợp của Giáp.

Xét Liêm Phá cư mão tuổi Đinh. Nguyệt Đồng hóa Lộc Quyền. Triệt ngó lơ Liêm Phá. Tuổi Nhâm Lương Lộc Tử Vi hóa Quyền, Vũ Khúc hóa Kỵ. Như vậy có Quyền Kỵ chiếu về. Trường hợp này Triệt có cất nhắc Liêm Phá hơn trường hợp tuổi Đinh. Như vậy, Liêm Phá thích Giáp Nhâm hơn Kỷ Đinh. Cũng là cái lý dương tìm dương.

Xét Đồng Cự cực hãm sửu mùi. Tại sửu gặp Triệt của Mậu Quý. Tuổi Mậu Tham hóa Lộc, Nguyệt hóa Quyền tại hợi. Ta biết Triệt của Mậu không cứu. Tuổi Quý Phá hóa Lộc Cự hóa Quyền có Kình Dương đồng cung. Ta biết tuổi quý có cứu. Tuổi Bính Đồng gặp Triệt ở Tuất hóa Lộc. Ta nói Đồng được Triệt cứu trong trường hợp này. Tuổi Mậu có Thái Âm hóa Quyền từ cung thân chiếu về. Có cứu nhưng kém tuổi Bính.

Như vậy, Triệt có lúc cứu có lúc không cứu chính tinh hãm địa. Cho thấy nói Triệt cứu chính tinh hãm địa chẳng phải hoàn toàn.

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế, giữ đã lâu giờ chia sẻ với quý độc giả. Cho thấy cái hiểu về vòng Thái Tuế của những người tưởng là hiểu, xưng danh môn nọ kia kỳ thực mới chỉ là da thịt mà thôi.

Nhân (Thiên Không)-Quả (Quả Tú). Nhân quả bất khả đồng cung.

Có ba loại Phượng Các ở địa bàn, đó là:

1. Mã Phượng

2. Hổ Phượng

3. Long Phượng

Hàm ý mỗi con tung cánh một thời. Cũng hàm ý có 3 kiểu bay: bay như ngựa, bay như rồng, bay như hổ.

Có ba loại Thái Tuế ở địa bàn, đó là:

1. Thái Tuế Hoa Cái: vua ngồi dưới lọng rồi nhận Quả Phúc. Sao Hoa Cái mang nghĩa tu hành đầy ẩn ý.

2. Thái Tuế Khốc Hư: vua thở dài rồi nhận Quả Điếu cay đắng.

3. Thái Tuế Mã Phượng: vua rong chơi rồi nhận Quả Hồng gió bụi nhưng đó là sự thành công ở cõi trần.

Chớ tưởng vua nào cũng như vua nào mà ngộ nhận Thái Tuế là toàn tốt đẹp. Cảnh nhà địa chi không vui vẻ như bề ngoài ngó vào mà thấy.

Có ba loại Thiên Mã ở địa bàn, đó là:

1. Mã Tang Hổ: ngựa chở xác, khi vua khóc và Đào Hồng Hỷ gặp nhau vui say, để rồi nhận được Quả Điếu.

2. Mã Khốc Khách: ngựa vượt khó, hướng tới cái Quả Phúc

3. Mã Phượng Tuế: ngựa bay chở vua, dẫn tới Quả Hồng thành đạt

Cùng là ngựa, thân phận nào giống nhau. Đâu cần dùng ngũ hành phân ra mã cùng đồ mà biết ngựa đi về đâu.

Có ba loại hoa đào ở địa bàn, đó là:

1. Đào Thiên Không: xảo trá, hoa giả để nhận Quả Hồng vinh quang đó nhưng luân hồi gió bụi.

2. Đào Hồng Loan: hương sắc để nhận Quả Điếu cay đắng tóc tang.

3. Đào Tử Phù: chỉ còn xác hoa, chứ hoa đã chết ở cách cục Hồng Kiếp cho tuổi tứ mộ. Quá chán kiếp hồng trần gió bụi nên cắt nát đóa hoa đào. Nhưng nhờ Mã Khốc Khách vượt khó mà nhận Quả Phúc vẹn toàn.

Chớ tưởng hoa đào ở đâu cũng là đào hoa.

Có ba loại Kiếp Sát ở địa bàn, đó là:

1. Hồng Kiếp: kiếp hồng trần, đi cùng Thiên Hỷ nên ở đây Sát không còn là giết mà Sát là sát hạch xem có qua được cửa Tham Sân Si không. Hồng Kiếp luôn đi kèm Thiên Không càng làm rõ cái nhân đầy cắc cớ cho tuổi thìn tuất sửu mùi để cuối cùng nhận Quả Phúc.

2. Cô Kiếp: kiếp cô đơn. Có lúc nhận Quả Hồng có khi nhận Quả Phúc.

3. Tử Phù Kiếp Sát: đi kèm chiêu hồn lệnh Tử Phù của thần Nguyệt Đức âm hàn, Kiếp Sát chính là lưỡi hái tử thần. Nên giành cho Quả Điếu.

Chớ tưởng Kiếp nào cũng là kiếp.

Đào Không thì Hồng Quả mà Hồng Không thì Phúc Quả. Tuổi thìn tuất sửu mùi có cách cục Hồng Không (không dính bụi hồng trần, cái nhân tu hành) và Quả Phúc (nhận quả phúc) cho nên tuổi tứ mộ được khuyên tu hành, và tuổi tứ mộ có ưu thế tu hành hơn so với tuổi khác. Ngàn năm chỉ thấy Hồng Không, đến nay mới thấy có Phúc Quả. Cho nên Đào Không thì Hồng Quả có nghĩa cứ gian dối đi cứ giả lả sắc không đi sẽ thành công đấy nhưng rồi ngập trong bụi trần khó thoát. Hơn nữa, ta thấy chỉ có Cô Thần đi với Thiên Không chứ Quả Tú không bao giờ đi với Thiên Không cho thấy không có Quả Không. Vì nhân quả không thể đồng cung. Khi Hồng Quả thì cùng lúc cách cục có Mã Phượng Tuế, cảnh vua cưỡi ngựa đi chơi đậm chất hồng trần là chuẩn mực của thành công nhân thế. Còn ở cảnh Quả Phúc, phải chăng tiền nhân sâu xa cổ vũ cuộc đời Mã Khốc Khách vượt muôn dặm Kiếp Hồng Không để giành được Quả Phúc?

Người xưa nói Hồng Phúc tề thiên. Tử vi coi đời người có ba loại quả: Quả Hồng giành cho vua thể hiện sự rực rỡ thành đạt ở cõi trần. Quả Phúc giành cho người giác ngộ thể hiện sự giải thoát thanh cao, và Quả Điếu để trừng phạt những kẻ buông lơi bản thân rơi vào cám dỗ.

Thật không sai chạy mảy may.

...

12 cung liên hòan có nhiều cách phân loại. Nếu phân loại theo tam hợp thì có 4 bộ tam hợp, đây là cách phân loại của Thiên Lương. Bài trên là phân loại theo bộ tứ nên có 3 bộ tứ: thìn tuất sửu mùi, dần thân tị hợi và tý ngọ mão dậu. Vì bộ tứ xét theo trục, nên coi đồng trục là một loại. Hoàn cảnh của tuổi thìn và tuất giống nhau, hoàn cảnh của sửu và mùi giống nhau. Hoàn cảnh của trục thìn tuất giống trục sửu mùi.

Cho nên ta thấy sau khi phân loại thì sao nào cũng có 3 loại. Ta rất dễ nhớ 3 hoàn cảnh sau:

1. Tuổi tí ngọ mão dậu. Thái Tuế Khốc Hư, khi đó Đào Hồng Hỷ đồng trục, Mã Tang Hổ, cho Quả Điếu. Diễn xuôi là cảnh vua lo buồn, Đào gặp Hồng nên duyên nghiệp, con ngựa chở tang dẫn đến quả Điếu u ám. Dễ nhớ đây là tuổi tứ chính, Thái Tuế và Khốc Hư sẽ đồng trục.

2. Tuổi thìn tuất sửu mùi. Thái Tuế Hoa Cái, Kiếp Sát Hồng Không, Mã Khốc Khách, Quả Phúc Đức. Cảnh đức vua ngồi thiền (Đức Phật ngồi tòa sen), con ngựa vượt khó đưa chủ nhân vượt qua kiếp hồng trần đến với quả phúc. Dễ nhớ đây là tuổi tứ mộ. Thái Tuế Hoa Cái sẽ đồng cung.

3. Tuổi dần thân tị hợi. Thái Tuế Mã Phượng, Đào Không, Quả Hồng. Đức vua cưỡi ngựa che lọng, trong cảnh sắc không đời thường mà đạt thành công to lớn Quả Hồng. Dễ nhớ vì đây là tuổi tứ mã, Thái Tuế và Thiên Mã sẽ đồng trục.

Đến đây bạn dễ nhớ 12 tuổi chung quy chỉ có 3 cảnh trên, tất cả các sao đi vào hệ thống củng cố cho một ý nghĩa mạch lạc. Bạn không còn mơ hồ đi gom từng sao lẻ. Bạn cảm nhận được, cầm nắm được Thái Tuế. Biết "đức vua" của bạn đang trong hoạt cảnh nào. Vậy có thú vị không?

Mới nghe thì thấy có bộ tứ đẹp có bộ không. Kỳ thực là tùy thời mà cái gì lên ngôi ở hoàn cảnh đó. Như tuổi tứ mộ, ta biết cảnh tu hành đầy hứa hẹn nhưng phải hiểu Thái Tuế tứ mộ xét theo triết lý đời thực với hoàng đế là biểu tượng của thành đạt thì thế tứ mộ này là thế kém rồi. Xét theo chuẩn của hoàng đế thì thế Tuế Mã Phượng mới là mặt trời chính ngọ của vị thiên tử đang đương thời hoạt động. Thái Tuế tứ mộ là đức Thái Thượng Hoàng đã qua thời và đi nghỉ ngơi giống Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Cho nên Thái Tuế Hoa Cái chính là cảnh vua ngồi thiền hay hình ảnh Đức Phật tọa trên tòa sen. Theo quan điểm đời là kém, nhưng theo quan điểm đạo là cực phẩm. Tương tự như thế, tuổi tứ chính hay còn gọi là tứ bại, tứ đào hoa. Ta thấy nếu xét từ vị trí ông vua thì đó không phải thời chính trị pháp luật thịnh thế như Mã Phượng Tuế của tuổi tứ mã, cũng không phải thời tâm linh lên ngôi như Thái Tuế Hoa Cái của tứ mộ, mà là thời của Đào Hồng duyên nghiệp thủ diễn. Nôm na có thể hiểu là thời mà cảnh dở khóc dở cười diễn ra nhiều nhất. Nếu nói thời Mã Phượng Tuế chính trị làm chủ, xã hội trật tự theo pháp luật. Nếu nói thời Thái Tuế Hoa Cái, tâm linh làm chủ. Thì thời Đào Hồng Hỷ cảm xúc con người làm chủ, mang đậm chất hỷ nộ ái ố của kiếp người. Đây là thời văn học nghệ thuật phát triển nhưng cũng là thời nhiều loạn lạc nhất của xã hội.

Hiểu theo khách quan thì 3 bộ tứ cân bằng nhau, mỗi bộ thủ diễn một vai trò không thể thiếu của tự nhiên. Bộ tứ mã chính là hình ảnh của Thiên khi thiên tử trị vì. Bộ tứ mộ chính là hình ảnh của Địa khi tâm linh trị vì. Bộ tứ bại chính là hình ảnh của Nhân khi cảm xúc hỉ nộ ái ố của con người trị vì.

...

Đến đây quý độc giả dễ dàng vận dụng ý nghĩa cốt lõi của 3 bộ tứ, bất kỳ người có trí nhớ tệ thế nào cũng nhớ được:

1. Tuổi tứ mã, thời tứ mã dần thân tị hợi là khi chính thống chuẩn mực lên ngôi. Thời này cứ vững tin theo chính đạo mà bước theo chắc chắn sẽ thu được thành công. Hình ảnh lúc trung niên, hình ảnh lúc Lâm Quan. Cho nên Thất Sát miếu địa ở dần thân thỏa sức thi hành chính đạo.

2. Tuổi tứ mộ, thời tứ mộ thìn tuất sửu mùi là lúc ngưng nghỉ, khi tinh hoa hội tụ để chuẩn bị thoát thai sang giai đoạn mới. Thời này là buổi đêm mà người xưa khuyên con người nên ngồi kiểm điểm lại bản thân trong ngày để tiến bộ vào ngày hôm sau. Hình ảnh lúc già. Cho nên Tham Lang miếu địa ở thìn tuất lặng im tích lũy.

3. Tuổi tứ bại, thời tứ bại tý ngọ mão dậu là lúc hoạt động sôi nổi, khi trải nghiệm là cần thiết để đúc rút được kinh nghiệm về sau. Thời này giống thời hoạt động sôi nổi của thanh niên, yêu đương nhiều người, đi chơi nhiều chỗ, va nhiều nên có vui có buồn mà dần trưởng thành. Thời này không thể theo lề lối cứng nhắc hay thụ động chờ đợi mà phải thử và sai, thử và sai nhiều lần mới tiến bộ. Hình ảnh lúc trẻ. Cho nên Phá Quân miếu địa ở tý ngọ nhiệt tình khai phá.

Bây giờ mới biết 3 anh em Sát Phá Tham thì Tham Lang già nhất, Thất Sát mới đang trung niên, còn Phá Quân nghịch ngợm trẻ nhất.

Lộc Tồn

Như bài trước ta đã phân ra hai loại Lộc Tồn: Lộc Tồn thuận lý âm dương và Lộc Tồn nghịch lý âm dương. Bài này ta xét sâu hơn về các dạng Lộc Tồn trên và các hệ quả của nó.

Lộc Tồn tuổi giáp tại dần, Đà La tại sửu, Kình Dương tại mão. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại sửu Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc sửu.

Lộc Tồn tuổi ất tại mão, Đà La tại dần, Kình Dương tại thìn. Khi đó Khôi Việt tại Tý và Thân cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại thìn Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc thìn.

Lộc Tồn tuổi Canh tại thân, Đà La tại mùi, Kình Dương tại dậu. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho vị trí Kình Đà. Tại mùi Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc tại mùi.

Lộc Tồn tuổi Tân tại dậu, Đà La tại thân, Kình Dương tại tuất. Khi đó Khôi Việt dần ngọ cứu cánh cho Kình Đà. Tại tuất Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc tại tuất.

Như vậy, với 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân, Kình Đà đều có Khôi Việt cứu giải và tại vị trí đắc địa thì Kình hoặc Đà luôn hội đủ Khôi Việt. Cho thấy, tử vi quan điểm Lộc Tồn thuận lý âm dương thì Kình Đà là vị trí cần cứu giải chứ không phải Lộc Tồn.

Sang đến 6 tuổi còn lại khi Lộc Tồn trái lý âm dương. Đa số các vị trí của Lộc Tồn có Khôi Việt hội chiếu. Như tuổi Mậu Lộc Tồn tị có Thiên Khôi sửu chiếu. Tuổi Bính Lộc Tồn tị có Khôi Việt từ hợi dậu chiếu lên. Tuổi Kỷ Lộc Tồn ngọ có Thiên Khôi ở tý chiếu. Tuổi Nhâm Lộc Tồn hợi có Khôi Việt ở mão tị chiếu về. Như vậy, tử vi quan niệm Lộc Tồn trái lý âm dương là Lộc Tồn yếu cần có Khôi Việt hội chiếu hỗ trợ. Trong khi Kình Đà của 4 tuổi Bính Mậu Nhâm Kỷ không cần có Khôi Việt hỗ trợ.

Riêng hai tuổi Đinh và Quý, tuy Lộc Tồn trái lý âm dương nhưng không được Khôi Việt hội chiếu, mà các vị trí Kình Đà của hai tuổi này được Khôi Việt cứu giải. Điều đó đồng nghĩa với công nhận Lộc Tồn của Đinh Quý là Lộc Tồn không yếu kém. Có thể đây là sai số của tử vi khi cố tình thêm Khôi Việt để cứu giải Kình Đà. Nhưng khả năng đây là sai số bị loại trừ vì ta biết với tuổi Canh thì Khôi Việt trong các môn khác vốn an ở dần ngọ nhưng bị điều chỉnh sang sửu mùi ở tử vi. Mục đích của việc điều chỉnh đương nhiên là để lá số cân bằng hơn. Nói cách khác, vị trí sửu mùi là vị trí cần hỗ trợ của tuổi Canh. Ta biết ở đó có Kình Đà. Vậy thì, nếu Đinh Quý là sai số của Khôi Việt thì tại sao không điều chỉnh như tuổi Canh. Cho nên có khả năng Khôi Việt của Đinh Quý mở ra một tác dụng đặc biệt nữa của Khôi Việt ngoài mục đích hóa giải Kình Đà.

Ta biết Lộc Tồn là cát tinh, như bài trước đã phân tích thì Lộc Tồn bao hàm toàn bộ tứ hóa. Thế nhưng, áp hai bên Lộc Tồn là Kình Đà mang ý nghĩa xấu, thì Lộc Tồn có thể nói chính là bao hàm của cát hóa Khoa Quyền Lộc. Và Kình Đà là hình ảnh của Hóa Kỵ. Khôi Việt xuất hiện để giải cứu các vị trí có Kình Đà. Vậy còn Hóa Kỵ thì Khôi Việt có cứu giải không.

Bắt đầu từ tuổi Đinh, Khôi Việt ở hợi dậu có thể cứu giải cho trường hợp Đồng Cự Kỵ ở sửu mùi trong tình thế Đồng Cự cực hãm. Nếu thay đổi vị trí của Khôi Việt cứu giải Lộc Tồn ở ngọ, thì Khôi Việt không thể cứu giải cho Đồng Cự.

Tuổi Quý, Khôi Việt ở mão tị có thể cứu giải lý tưởng cho Liêm Phá Kỵ và Vũ Phá Kỵ ở tị hợi và mão dậu. Như vậy, nếu nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ là không xấu thì không đúng, vì không xấu thì tại sao Khôi Việt phải cứu giải. Mà phải nói là cực xấu như hoàn cảnh một người đã vừa nghèo đói lại còn mắc bệnh nan y. Nhưng nhờ có Khôi Việt quý nhân đến mà ta có thể nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ thì cùng tắc biến thành tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây do Khôi Việt mang lại, còn cùng cực thì do Hóa Kỵ gây nên.

Đến đây, ta biết được tác dụng đặc biệt của Khôi Việt được an để lập lại cân bằng cho lá số, cụ thể là cứu giải cho Kình Đà và Hóa Kỵ.

Kiểm tra khả năng cứu giải Hóa Kỵ của Khôi Việt cho 8 tuổi còn lại thì thấy:

Tuổi Giáp Nhật Nguyệt Kỵ sửu mùi có Khôi Việt thủ và chiếu.

Tuổi Ất Nguyệt hãm dần thìn ngọ hóa Kỵ có Khôi Việt tý thân chiếu. Ba vị trí hãm này của Nguyệt là cực hãm vì sai cả thời lẫn vị.

Tuổi Bính Liêm Phá hãm mão dậu và Liêm Tham hãm tị hợi có Khôi Việt thủ chiếu hóa giải. Nếu cực đoan, ta có thể kết luận một thủ bằng hai chiếu.

Tuổi Mậu có Thiên Cơ hóa Kỵ. Do đặc điểm Thiên Cơ hãm địa tại dần và hợi đều do ảnh hưởng của Thái Âm hãm địa ở dần và tị mà ra. Nhưng tuổi Mậu Thái Âm luôn hóa Quyền, đi cùng Thiên Cơ thành cách Quyền Kỵ không tồi. Cho nên Khôi Việt sửu mùi được thiết kế để cứu Thiên Cơ đơn thủ ở hợi mà lờ đi Cơ Nguyệt đồng cung ở dần. Có thể nói không phải không có lý.

Tuổi Kỷ Văn Khúc hóa Kỵ. Văn Khúc cực hãm ở dần ngọ, có Khôi Việt ở tý thân chiếu hội cứu giải.

Tuổi Canh Thiên Đồng hóa Kỵ. Tại sửu Đồng Cự cực hãm, nên có Khôi Việt sửu mùi cứu giải.

Tuổi Tân có Văn Xương hóa Kỵ. Xương cực hãm ở dần ngọ, được Khôi Việt đóng tại dần ngọ cứu giải.

Tuổi Nhâm có Vũ Phá cực hãm hóa Kỵ ở tỵ hợi, có Khôi Việt ở mão tỵ cứu giải.

Như vậy 100% các trường hợp chính tinh cực hãm hóa Kỵ được Khôi Việt cứu giải. Trong khi có 80% Kình Đà hoặc Lộc Tồn được Khôi Việt cứu giải. Có thể nói Khôi Việt được thiết kế để giải cứu chính tinh cực hãm hóa Kỵ là tiên quyết, đồng thời cứu cả Kình Đà nhưng là thứ yếu so với Hóa Kỵ.

Nhưng không đơn giản chỉ có vậy. Từ tinh bàn, ta có thể thu được nhiều hệ quả khác. Như có ý kiến cho rằng Kình Đà miếu tứ mộ. Có ý kiến lại cho rằng Đà La miếu tứ sinh. Nay thì ta biết, đó là do Khôi Việt. Khi có Khôi Việt đó là Kình Đà miếu, nhất là trường hợp đồng cung hoặc hội đủ Khôi Việt, mạnh nhất là tọa Khôi hướng Việt hoặc ngược lại tọa Việt hướng Khôi. Còn nếu nói Kình Đà miếu tứ mộ, rồi Đà La miếu tứ sinh thì lúc trúng lúc trật. Đó không phải bản chất.

Hệ quả tiếp theo là Nhật Nguyệt hóa Kỵ sửu mùi. Các sách đều cho rằng Nhật Nguyệt tranh tối tranh sáng. Cần Hóa Kỵ hoặc Triệt để tách ra. Kỳ thực đó không phải bản chất. Bản chất là Khôi Việt. Do đó khi Nhật Nguyệt sửu mùi Hóa Kỵ mà không có Khôi Việt thì ta biết trường hợp đó chẳng thể phản cách. Triệt ngọ mùi chỉ có ở tuổi Ất Canh. Tuổi Canh thì Khôi Việt đóng tại sửu mùi, tuổi Ất thì Khôi Việt tại tí thân không ứng cứu. Nếu so sánh giữa hai tuổi thì tuổi Ất có Khôi Việt và Quyền Kỵ Lộc Tồn thủ chiếu. Tuổi Canh có Khôi Việt Lộc Khoa tại bản cung. Bù lại tuổi Ất tránh được Đà Kình, còn Canh dính phải Kình Đà. Cân nhau chằn chặn.

Hệ quả tiếp theo là tương truyền Hóa Kỵ đắc địa tứ mộ. Có thể suy nghĩ rằng tứ mộ không chứa Lộc Tồn, Khôi Việt cũng không an La Võng. Vậy thì tứ mộ bất lợi cho toàn bộ tứ hóa, riêng Hóa Kỵ có nghĩa xấu cho nên khi bị kìm hãm tại tứ mộ mà thành bớt xấu chăng. Nhưng đến đây, ta có thể chắc chắn hơn với trường hợp Hóa Kỵ tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu, khi đó chắc chắn rất tốt đẹp cho Hóa Kỵ. Cũng chắc chắn hơn với Kình Đà tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu.

Hệ quả tiếp theo là giả thuyết Kình Đà hiệp Kỵ chỉ là bại cục khi không có Khôi Việt. Ở các bài trước khi chưa xét Khôi Việt, ta ngờ bại cục là do chính tinh cực hãm hóa Kỵ. Nhưng ở bài này ta thấy cả hai trường hợp chính tinh cực hãm đó. Vũ Phá hợi tuổi Nhâm, và Liêm Tham tị tuổi Bính đều có Khôi Việt hội chiếu cứu giải. Nếu đã chấp nhận rằng Khôi Việt đặt ra để giải Hóa Kỵ, thì ta công nhận rằng Kình Đà hiệp Kỵ là nói tất cả các trường hợp còn lại không có Khôi Việt hội chiếu.

Hệ quả nữa, là có thể nhận định Kình Đà mà gặp Hóa Kỵ mới đích thị là Kình Đà sát thủ (tất nhiên không có Khôi Việt cứu giải). Về sau ta còn biết thêm chỉ khi Hình Diêu gặp Hóa Kỵ thành cách Hình Kỵ hoặc Diêu Kỵ thì khi đó Hình Diêu mới là Hình Diêu xấu. Quan điểm này trùng với quan điểm của tứ hóa phái khi cho rằng lục sát tinh gặp Hóa Kỵ mới tác họa, còn không thì vẫn chỉ tiềm tàng dưới dạng rủi ro.

Cũng có thể có ý kiến cực đoan hơn cho rằng, Khôi Việt là quý nhân chỉ cứu những cảnh cùng cực chứ không cứu cảnh bình thường. Nói cách khác, Khôi Việt chỉ cứu Hóa Kỵ do chính tinh cực hãm hóa thành, gọi là mạt lộ gặp quý nhân mà phản vi kỳ cách. Chứ Khôi Việt không cứu giải tất cả Hóa Kỵ.

Nhưng dù sao từ nay quý độc giả dùng Khôi Việt, Kình Đà, Hóa Kỵ trong luận giải sẽ tự tin hơn nhiều cảnh mơ mơ hồ hồ trước đây.

Sự ngoại lệ của can Đinh và can Quý tại sao Lộc Tồn trái vị âm dương mà không kém, thì ta biết về sau Quan Phúc sẽ bù trừ cho. Nhưng đó là chuyện dài, vì sau khi đặt Khôi Việt vào lá số, do Khôi Việt đi cứu giải hết thế xấu của Kình Đà Kỵ, tiền nhân đã phải đặt Hỏa Linh để chuyên khắc chế Khôi Việt. Rồi sau khi lỡ tay thả Hỏa Linh vào rồi thì phải đặt ra Quan Phúc để kiềm chế bớt Hỏa Linh. Cứ thế cứ thế cho đến khi sai số nhỏ xuống mức chấp nhận được.

...

Giờ ta biết Khôi Việt có thể trị được Hóa Kỵ. Ta phân tích lại tượng sau khi đã có cơ sở lập tượng. Bắt gặp câu phú:

Việc người xích mích khá không

Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm

Việc xích mích ở đây ám chỉ Hóa Kỵ. Khôi Việt thì đã rõ có thể trị Khôi Việt nhưng không rõ vì sao có Tử Vi vì câu phú khác nói "Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh". Rõ ràng Tử Vi không thích Hóa Kỵ chút nào. Mà chẳng cần câu phú đó, chỉ cần ta biết Tử Vi ưa Lộc Tồn thì đương nhiên không thích Kình Đà Kỵ.

Đi tìm Tử Vi Hóa Kỵ ta thấy Tử Vi chỉ gặp Hóa Kỵ khi Vũ Khúc Hóa Kỵ hoặc Tham Lang Hóa Kỵ, vì đơn giản trong các sao có thể đồng cung hoặc hội chiếu với Tử Vi thì chỉ có hai sao đó có thể Hóa Kỵ. Mà hai sao đó Hóa Kỵ chỉ ở tuổi Nhâm Quý. Khôi Việt của Nhâm Quý đều an ở tị và mão.

Tuổi Nhâm Vũ Khúc Hóa Kỵ nhưng đồng thời Tử Vi Hóa Quyền, khi đó là cách Quyền Kỵ bớt xấu, thậm chí tốt.

Tuổi Quý Tham Lang Hóa Kỵ nhưng luôn có Khôi Việt soi rọi hai cung mão dậu. Trường hợp Tử Tham đối cung ở tý ngọ, thì bạn biết câu phú Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh rồi. Vì sao tuổi Quý có Lộc Tồn cư tý chiếu Tử Vi ngọ mà sách không kể. Đó là vì Tham Lang hóa Kỵ đồng cung chiếu lên.

Cho nên "Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm" có nghĩa là khi Tử Vi gặp Kỵ thì cần có Khôi Việt hóa giải, đồng thời khẳng định ý nghĩa Khôi Việt giải Kỵ.

Nhưng nghĩ cho kỹ Khôi Việt sinh ra để giải Kỵ phải chăng Khôi Việt hợp Kỵ. Nói thế tuy không đúng nhưng cũng không sai, vì nếu không gặp thì làm sao hóa giải. Như Quan Phúc sinh ra để hóa giải Hỏa Linh nếu không gặp Hỏa Linh thì ai trị Hỏa Linh, và Quan Phúc khi đó làm gì. Nếu dụng tượng có thể biết tuy hai ông thầy tu quan phúc bắt bọn ma tà Hỏa Linh nhưng Hỏa Linh cũng là đèn nhang để thầy tu Quan Phúc có thể tu hành.

Hóa Kỵ là cãi vã xích mích. Khôi Việt có tượng là trưởng là đầu. Có thể giải quyết cãi vã thì phải chăng Khôi Việt là tượng trưởng bối đứng ra dàn xếp lũ con nít tranh giành, hay Khôi Việt là công lý có thể giải nỗi oan Hóa Kỵ. Sau này khi bạn biết Quang Quý không ưa gì Hóa Kỵ bạn sẽ hiểu vì sao Khôi Việt phải đi cùng Quang Quý để giải Không Kiếp. Đơn giản vì Quang Quý có thể đặc trị Không Kiếp nhưng phòng ngừa Hóa Kỵ xâm nhập phá tan uy tín của Quang Quý, thì Khôi Việt phải chắp tay đứng đó sẵn sàng quét sạch bụi thị phi cho Quang Quý rảnh tay mà cải hóa Không Kiếp.

Quang Quý Hóa Kỵ là cảnh tai tiếng khi làm ơn. Ý nghĩa rất phong phú còn tùy các cách cục đi kèm. Như làm ơn mắc oán, hay lợi dụng tiền từ thiện để tiêu xài cho riêng mình đều là cảnh này. Ân Quang ban ân vì ân mà nên oán. Thiên Quý được người quý, quý quá mà lại thành thù.

Quay lại cảnh Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ. Ta có thể hiểu là Thiên Hình và Hóa Kỵ. Nhưng cũng có thể đó là Kình Dương và Đà La vì hóa khí của Kình là Hình mà của Đà là Kỵ. Khi đó hiểu đơn giản là Tử Vi ưa thích Lộc Tồn chứ không thích gặp Kình Đà. Nhưng tại sao phải sợ Hóa Kỵ của tuổi Quý mà không dám nhận Lộc Tồn từ tý chiếu về. Hàm ý sâu xa ở đây là do chính Hóa Kỵ là chất xúc tác để Kình hóa hình và Đà hóa kỵ. Có Hóa Kỵ Kình mới thể hiện tính hình, có Hóa Kỵ Đà mới thể hiện tính kỵ. Ngược lại, có Khôi Việt thì Kình Đà sẽ không hóa hình kỵ nữa.

Hóa khí chẳng qua là cách nói ẩn dụ của tính chất tiềm tàng. Nó có đấy nhưng chưa gặp xúc tác sẽ chưa bộc lộ. Điều này góp phần làm nên sự huyền ảo của tử vi. Phần nào nói lên tính động của dịch lý.

Khôi Việt tượng là đầu. Là đầu nên làm chủ được cái lưỡi Hóa Kỵ mà giải Kỵ. Là đầu nên sợ sét Hỏa Linh đánh, vì sét đánh trúng đầu không ai nói sét đánh trúng cái mông Thai Tọa. Ông tăng Quan Phúc ngồi thiền Thai Tọa trong đèn nhang Hỏa Linh mà thành được việc. Nhưng để sét đánh thì Hỏa Linh Khôi Việt chưa đủ, khi đó bạn mới chỉ mắc bệnh nhức đầu nhức óc. Để thành cách sét đánh phải có Thiên Hình là hình phạt là hành hạ thì mới rõ nghĩa trời phạt. Cho nên sét đánh phải là "Hỏa Linh Hình Việt".

Sau này bạn sẽ biết vì sao phải có Hình mới gây thương tổn đánh đập trừng phạt trực tiếp, phải có Diêu mới mang ý nghĩa lừa đảo dụ dỗ trực tiếp. Không có Hình thì Hỏa Linh Khôi Việt mới là nhức đầu. Không có Diêu thì Kỵ Đà Khôi Việt là ẩn sĩ, thêm văn tinh thì kẻ ẩn sỹ có tài, có tài nhưng vô dụng nên ẩn sĩ. Nhưng họ không lừa ai vì không có Thiên Diêu.

Dù là một sao, nhưng xúc tác cho ý nghĩa quyết định. Đến đây bạn hiểu phép dụng tượng.

...

Có 12 cung. Cho dù nhiều thần sát đến đâu cũng chỉ có 12 cung. Hết chỗ đứng thì phải dẫm lên chân nhau mà đứng. Mà đứng cùng nhau rồi thì bị đối xử không khác gì nhau cả. Cho nên tối đa số thần sát có ý nghĩa chỉ là 12 hoặc 4 hoặc 3 là đủ.

Long Trì Quan Phù đồng cung, Thiên Không Thiếu Dương đồng cung, Tuế Phá Thiên Hư đồng cung là những ví dụ điển hình. Vì cùng là sao chi năm cho nên dù an ra cả vạn thần sát thì cũng chi biểu hiện cho chi năm từ các góc nhìn. Cho nên càng nhiều thì càng rối.

Trở lại bản đồ các sao an theo can năm. Thấy rằng dù an bao nhiêu sao thì cũng chỉ biểu hiện can năm trên 12 cung. Hiện nay đã có các sao:

12 sao vòng Bác Sỹ

2 sao Đường Phù Quốc Ấn

3 sao Lộc Kình Đà

2 sao Khôi Việt

2 cung gặp Triệt

2 sao Quan Phúc

1 sao Lưu Hà

1 sao Lưu Niên Văn Tinh

1 sao Thiên Trù

Tổng cộng đã là 26 sao cho 12 vị trí. Nghĩa là mỗi vị trí trung bình có 2,2 sao. Mỗi cung bị lặp lại hai lần. Số sao dùng để mô tả cung bị thừa đến hơn 2 lần. Điều này nói lên sự rối rắm của tư duy phương Đông. Ví dụ cung sửu của tuổi Giáp hội tụ tất cả Khôi Việt Đà Quan Phúc Lưu Hà Lưu Niên Văn Tinh, tốt xấu lẫn lộn, chỉ biết luận là tốt.

Cho nên cần thiết phải thanh lọc, chỉ để lại những đại diện có ý nghĩa duy nhất không thể thay thế thì khi luận giải mới không bị loạn.

Với vòng Thái Tuế, ta chia được thành 3 loại. Vậy với 10 thiên can có thể làm vậy không.

Con số 12=3X2X2 cho nên có thể phân thành 2 loại, 3 loại, 4 loại, hoặc 6 loại. Nhưng con số 10=2X5 chỉ có thể phân thành 2 loại hoặc 5 loại.

Phân chia thành 5 loại ví dụ:

Giáp Canh có tương quan Khôi Việt và Lộc Tồn giống hệt nhau chỉ khác vị trí, có thể gom cùng 1 loại.

Ất Tân một loại

Mậu Kỷ một loại

Bính Nhâm một loại

Đinh Quý một loại

Nếu phân tiếp thành 2 loại thì:

Giáp Canh Ất Tân Đinh Quý một loại, loại Kình Đà gặp Khôi Việt

Mậu Kỷ Canh Nhâm một loại, loại Lộc Tồn gặp Khôi Việt

Một loại này bao hàm 3 sao Lộc Kình Đà, 12 sao vòng Bác Sỹ, 2 sao Khôi Việt. Như vậy là gom được 17 sao.

Triệt có cách phân bố không phụ thuộc các sao trên. Cho nên nhất thiết phải xét Triệt không thể ngó lơ.

Phép hội sao

Xét vòng Thái Tuế bạn thấy Tuế Phá luôn xung chiếu Thái Tuế, khi bạn ở Thái Tuế thì chẳng đời nào bạn chịu coi mình có Tuế Phá chiếu về. Khi bạn ở Tuế Phá chẳng thể nào bạn phủ nhận Tuế Phá mà vơ Thái Tuế. Như vậy rõ ràng hai vị trí này là khác nhau. Và rõ ràng là bạn không thể lấy sao chính xung về làm sao của mình được. Nếu coi xung như thủ thì chẳng ai phân ra Lộc Tồn chiếu Phi Liêm, chẳng ai phân ra Phục Binh chiếu Thiên Tướng, Bệnh chiếu Trường Sinh.

Nhưng tại sao trước giờ tam hợp phái lại ôm tất cả các sao xung chiếu cũng như tam chiếu về xét một mớ. Rõ ràng có gì đó không ổn, vì cách xét đó ít ra là sai với ba vòng Thái Tuế, Bác Sỹ và Trường Sinh.

Bây giờ xét tam hợp. Ba vị trí Sinh Vượng Mộ tam hợp với nhau. Nhưng Mộ là mộ, không thể coi là Trường Sinh, Sinh là sinh không thể coi là Đế Vượng. Như vậy Sinh Vượng Mộ cho bạn biết không thể nào xét tam hợp hổ lốn cá mè. Mà chính xác nhất phải xét sao thủ tại cung đó.

Đến đây bạn thừa nhận ít ra với 3 vòng cơ bản Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, không thể xét tam hợp cũng như xung chiếu làm sao của mình. Nếu cố tình làm vậy lập tức bị sai lạc.

Xét đến vòng chính tinh bạn thấy tương tự. Không thể nào ngồi ở cung Vũ Khúc bạn kéo Tử Vi tam chiếu về làm như là của mình, vì Tử Vũ Liêm vĩnh viễn tam hợp. Sát Phá Tham cũng vậy. Nói cách cục là để bạn hiểu tình thế của tinh bàn. Nhưng vô tình người xưa mập mờ làm bạn hiểu lầm phép tam chiếu và chính chiếu.

Đến đây lại có hai hướng:

1. Nếu mở rộng suy luận trên cho tất cả các sao, thì bạn chỉ có thể xem sao thủ cung để luận mà bỏ qua xung chiếu và tam hợp. Phép này cũng có lý cho cách xem hạn của nam phái. Đó là đến từng hạn, thì bạn phải gom từng cung lại và bức tranh dần hiện ra.

2. Phép hội sao trên chỉ có ý nghĩa với các vòng sao kín như Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, còn các sao đơn như Long Phượng Mã Đào Hồng Cái Tả Hữu đều có thể xung chiếu và tam chiếu, vì những sao đó không có các sao khác vĩnh viễn xung chiếu nó hoặc tam hợp nó. Ở đó là vị trí trống nên có thể chịu ảnh hưởng bởi xung chiếu và tam chiếu. Lập luận này cũng có lý, và từ đây bạn mở ra phép hội sao, biết sao nào chiếu được sao nào không.

Đến đây, bạn biết trong phép xem hạn của tam hợp phái hay nam phái, chỉ có một mình cung hạn được tính. Xem đại vận bạn có một cung, xem xuống tiểu vận bạn có 2 cung, xem đến tháng bạn có 3 cung. Cứ thể tổ hợp lại ra cách cục gì bạn chịu cách cục đó.

Nói về cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của tác giả Thái Thứ Lang

Trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Thái Thứ Lang các câu phú được cho vào phần PHỤ GIẢI nằm dưới phần ĐẠI CƯƠNG, có nghĩa là khi áp dụng có mâu thuẫn thì điều chỉnh theo phần đại cương ở trên.

...

Nói chung ông TTL đặt nặng đắc hãm và xét việc theo thứ tự trên dưới chứ không lung tung. Ngôn từ dùng khá chặt chẽ và máy móc, chứ không chém bừa.

Ví dụ:

Phá Miếu gặp cát tinh miếu, Kình Đà Không Kiếp đắc thì thôi, khen lên mây luôn.

Phá hãm gặp Kình Đà Không Kiếp đắc vẫn được phê là: cũng được hưởng giàu sang nhưng hay mắc tai họa.

Chỉ có Phá hãm lại gặp sát tinh hãm thì thôi, đổ mực vào cách cục: nào là cùng khốn, nào là lang thang, nào là nan y, nào là xiềng xích, nào là yểu tử, nào là thê thảm, bla bla bla...

Tóm lại nguyên tắc xét là:

- Chính tinh MVĐ hay hãm

- Sau đó mới đến sát tinh đắc hay hãm

Trường hợp xấu nhất luôn là Chính tinh hãm+Sát tinh hãm, lại không hợp cách nữa thì thôi, mang chuyện địa ngục lên để luận.

Còn chính tinh miếu+cát tinh đắc+sát tinh đắc hợp cách= thiên đường là đây, tiền lắm râu dài trường thọ, bla bla bla...

Ngoài ra, còn một đặc điểm với chính tinh là phân chia thành bộ, rồi bộ này có hợp bộ kia không.

TVĐSTB - trang 317

Phương pháp luận đoán vận hạn:

A. Quan sát

1.Gốc đại hạn 10 năm

2.Lưu đại hạn một năm (để cấp độ xét vẫn trên tiểu hạn)

3. Lưu niên tiểu hạn một năm

a. Sự tương sinh tương khắc giữa: (lúc nào cũng cân nhắc ngũ hành trước)

b. Chính diệu nhập hạn và chính diệu thủ mệnh thuộc cùng nhóm hay khác nhóm.

c. Sự tốt xấu của các sao hội hợp nhập hạn.

Đặc điểm của sách này là thích phân cấp độ, thứ tự ưu tiên rõ ràng. Xét cái gì trước, cái gì sau, cái gì to, cái gì bé, cái gì chính, cái gì phụ. Cho nên đề mục chi chít như lá mít. Việt Nam còn 2 tác giả cũng rất thích cụ thể hóa vấn đề là Thiên Lương (chuẩn hóa vòng Thái Tuế), Việt Viêm Tử (chia 8/2, 7/3 cho tuần triệt). Trung Hoa có Phan Tử Ngư và Liễu Vô Cư Sỹ cũng rất thích sợi tóc chẻ tư, viết cái gì là rõ ràng rành mạch không thích cảm tính chung chung.

Có lẽ, đây là tính hệ thống của cuốn sách. Gặp lá số nào cũng mang barem ra chém như chấm thi từ mục 1 đến 100, trong 1 lại chém từ a đến z.

Có lẽ trước khi đi tu, tác giả là quân nhân.

Đậu phụ, chém.

Cà rốt, chém.

Bắp cải, chém.

Rau sống, chém.

Chém,

Chém,

Chém hết.

Như bản The Mass:

Chém hết cho anh,

Chém hết cho anh,

Mang vào đây, mang vào đây chém, mang vào đây chém cho anh...

Chém, chém, chém, chém hết cho anh...

...

1. Trang 58 TVĐSTB, mục Hóa Lộc, TTL có thòng một câu: "Gặp Lộc Tồn đồng cung: gây ra những sự chẳng lành."

Trang 150, câu 7, 8, 9 đều ca ngợi cách bày đặt của Lộc Tồn và Hóa Lộc không đồng cung mà phải chính chiếu mới tốt đẹp.

Trang 164 câu 4, 5 ca ngợi thêm trường hợp một Lộc thủ một Lộc tam chiếu cũng OK.

Trang 165 câu 7 tác giả vẫn hết sức dè dặt không cho song Lộc đồng cung, dàn xếp rất rõ ràng: một thủ một chiếu.

Thì, tóm lại ý của ông ta vẫn ca ngợi chiếu hội thì đẹp, còn đồng cung thì "chẳng lành". Câu phú Lữ Hậu có lẽ ghép sự "chẳng lành" là "độc đoán" và "chuyên quyền" chứ không có các ngôn từ của địa ngục như "bại liệt" "tan xác" "hỏng người"...

Nếu coi hai lời phán "độc đoán" và "chuyên quyền" là xấu thì toàn bộ hệ thống trên nhất quán. Nhưng bôi thêm "xấu" là phanh thây, bay đầu, ngồi phải bàn chông, tông nhầm lựu đạn thì không có.

2. Theo tinh thần chính xác từng câu từ của tác giả, thì trang 166 câu 16: Khoa mệnh Quyền triều, đăng chung giáp đệ, có giải thích rõ ràng là Khoa thủ mệnh và Quyền chiếu chứ không phải đồng cung cũng không phải tam hợp, vì sao có đặc điểm này?

Tiếp theo, trang 162 mục tứ hóa, duy nhất có Hóa Quyền bị cảnh báo là "nếu gặp Tuần Triệt án ngữ" thì công danh trắc trở thành ít bại nhiều, trong khi 3 hóa còn lại không có lưu ý tuần triệt.

Trang 58 khi giới thiệu về tứ hóa, riêng Hóa Quyền có một đặc điểm:

"Gặp nhiều sao tốt đẹp: làm cho tốt đẹp hơn

Gặp nhiều sao xấu xa: làm cho xấu xa thêm".

còn 3 hóa còn lại không có đặc điểm này.

Truy tiếp Tuần Triệt thay đổi tính chất của các sao như Tử Phủ Nhật Nguyệt Tướng Tướng Hình Thai Ấn Mã Khôi Việt, rồi các sao Tả Hữu, Phục Binh, Quan Phù, Phi Liêm, Lực Sỹ, Lâm Quan có tính chất trợ tốt trợ xấu như Hóa Quyền thì thêm được:

- Hóa Quyền có tính thay đổi cường độ, các hóa khác không có.

- Các sao chủ quyền lực rất kỵ Tuần Triệt.

- Tuần Triệt có tính chất thay đổi cường độ--->phù hợp với tính chất đảo ngược đắc hãm của chính tinh mà TTL dùng rất nhiều trong sách.

Thì, đó người ta gọi là thực học.

...

Phần xem vận TTL có nói khi các sao lưu gặp các sao cố định thì mới tác dụng. Quan điểm này trùng với cách xem của Big boy Vương Đình Chi. Như vậy không phải lúc nào cách cục này cũng được kích hoạt.

...

Tử Vi Đẩu Số Trung Châu Vận Đoán-Vương Đình Chi, trang 319-320:

2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SUY ĐOÁN ĐẠI HẠN, LƯU NIÊN, LƯU NGUYỆT, LƯU NHẬT. Phàm đối với các sao mà có "lưu tinh" thì lấy lưu tinh làm chủ. Mệnh bàn vốn có các sao, không xung thì không khởi tác dụng.

...

Ứng kỳ và độ bền của mệnh:

Nhân-->Địa--->Thiên;

vận--->thân--->mệnh;

xinh gái--->đằm thắm--->nhân hậu;

đẹp trai--->tài cao------->dũng cảm;

bằng giỏi--->kiến thức rỗng--->giả dối;

có học--->thiếu tư duy--->trí thức rởm;

giao tiếp vụng--->hảo ý--->chân tình;

Nói chung, cái gì cũng sẽ bộc lộ dần theo thời gian, vị cay xộc lên trong nháy mắt vị đắng ngấm xuống tận trăm năm. Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

...

Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

Có nghĩa là:

Những đại vận thấy tinh đẩu sáng sủa hội tụ, nôm na là đẹp nhưng thành tựu so với vận khác lại tầm thường thì:

1. Xem lại khái niệm "đẹp" của đại vận.

2. Phải có một yếu tố A nào đó ẩn tàng có tác dụng điều chỉnh bề nổi là "đẹp". Phải chăng A là ngũ hành âm dương, phải chăng A là thiên can mệnh cung, hay tứ hóa thiên nguyên thì tùy phái.

Tương tự khi gặp một vận tinh đẩu xấu hội tụ mà thực tế cái xấu không đáng kể, thậm chí hi hữu còn đại phát thì cũng như trên sẽ tìm được yếu tố A.

Nếu chấp nhận có tam tài tức ba cấp độ mạnh yếu rộng lớn khác nhau là Thiên Địa Nhân thì phải chăng phối hợp tinh đẩu chỉ cho biết yếu tố nhân. Quan điểm phân cấp này đối lập với quan điểm hài hòa tất cả ngũ hành của ông Sở Hoàng trong bộ Hỷ Kị. Đây cũng chính là bế tắc trong phần luận ngũ hành của tác giả Nguyễn Phát Lộc khi ông không phân biệt được thứ tự quan trọng của các tương tác.

Nói cách khác, các tính trạng bộc lộ ra bên ngoài chịu chi phối của trình tự DNA bên trong và không biểu hiện hoàn toàn trình tự của DNA.

Thôi, viết vậy, lười quá, ai quan tâm tự tìm nhé.

...

Còn về mệnh cung thiên can. Ví dụ: Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí bô-xít.

Thì, Giáp Đinh Kỷ không hẳn do hóa khí khi phối GĐK vào. Mà có ý kiến cho rằng. Dần ẩn tàng Giáp, Ngọ ẩn tàng Đinh Kỷ nên Tử Vi cư ngọ lấy thiên can của dần ngọ biểu hiện bằng Lộc Tồn.

Rồi Tử vi nam hợi nữ dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng. Do lấy Nhâm can từ hợi và Giáp can từ dần.

Trang 99 TVĐSTB: câu 3. Thái Dương cư ngọ Canh Tân Đinh Kỷ thì Canh Tân lấy do hóa khi, còn Đinh Kỷ lấy do Lộc Tồn.

Điều này dẫn đến điểm rất quan trọng về cách chia đại vận thành nhiều mảnh và có vài ông giấu diếm dùng trên forum trước đây.

Ví dụ:

Sửu, tháng 12 Sau Tiết Tiểu Hàn, Quý chiếm 9 ngày, Tân chiếm 3 ngày, Kỷ

chiếm 18 ngày.

Tức là, đại vận sửu 10 năm: 3 năm đầu đứng chữ Quý, 1 năm sau đứng chữ Tân, 6 năm cuối đứng chữ Kỷ.

Đây cũng là tuyệt kỹ mà tử vi chợ cóc trong mơ cũng không có, các tử vi siêu thị nghiệm thử xem.

...

Và cũng nói luôn, là không bao giờ chứng minh hay hiểu vì sao 1 3 5 đặt ở ngọ dần thìn từ cách an sao tử vi hiện nay. Muốn truy gốc phải tìm từ các văn bản cổ hơn tử vi.

Triệt đóng nhâm quý cũng vậy, nó chỉ là biểu hiện chứ bản chất vì sao nó vậy mà không có tài liệu khác thì giải thích thế quái nào được. Vì trong phép an sao tử vi làm gì có các tiền đề đứng trước nó mà giải thích. Trong tử vi, nó được đặt cái huỵch như tiền đề, muốn giải thích nó bằng chính nó có mà ăn chinsu.

Sơ đẳng về phương pháp luận như vậy các ông còn không nắm được thì còn tìm tòi nghiên cứu cái gì.

Trước một vấn đề, phải biết mình cần gì đã.

Nhận xét về cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Đầu tiên là ngưỡng mộ tình yêu đối với tử vi của tác giả. Thiếu TY này mọi thứ chỉ là loại rác không thể tái chế.

Về phương pháp tử vi từ kỷ Jura cho đến thời tên lửa hành trình, đi đâu loanh quanh cũng chỉ vài phương pháp:

- Vòng tròn: dung hòa tất cả, pp này có ông Sở Hoàng với Hỉ kị đại đột phá, có tác giả VDTT với Hoàn Toàn Khoa Học, có Liễu Vô Cư Sỹ với "phải có cả cát tinh và sát tinh mới coi là tốt". Mỗi phái này đưa ra các tiêu chuẩn để lấy điểm trung hòa.

- Điểm mốc: điển hình cho phương pháp luận này là phái ngũ hành, bất kể thế nào cứ sinh là tốt khắc là xấu, đôi khi có phản cách nhưng không nhiều. Triết lý của phái này là: người hàng xóm chết nhưng hai cha con bán quan tài lại mừng thầm. Không có tốt xấu, chỉ có tốt với ai, và xấu với ai. Hôm nay có người thăng quan thì cũng có người vào tù, vấn đề là khí nào trong ngũ khí nắm lệnh. Khí Alex nắm lệnh thì tất cả đàn em của Alex ngồi từ cấp Thứ trở lên, khí Alex thất lệnh thì: alo, alo, anh, anh khỏe không, 5 năm em mới gọi được cho anh, bận quá trời anh ơi...Điển hình có cụ BaLa lấy ngũ hành nạp âm của năm sinh làm chuẩn phán định tất cả phần còn lại của lá số.

- Cung bậc: chia làm các tầng khác nhau để xét như barem thi đại học, Thiên-Địa-Nhân, Sinh-Vượng-Mộ chẳng hạn. Phương pháp này xét theo thứ tự ưu tiên, to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau. Cách xem hạn trong Tử Vi Giảng Minh thể hiện phương pháp chia tầng này. Phương pháp này lợi hại ở chỗ xem được cuống và lá, cân phân nặng nhẹ, suy xét thực hư.

Về tĩnh-động thì VN mình theo tĩnh, còn Đài Cảng theo động. Vì theo tĩnh, nên phải ôm 108 sao, trong một vận lại phải dùng các pp phân định sao nào ảnh hưởng nhiều sao nào ảnh hưởng ít. Sản phẩm trôi nổi thị trường là phương pháp sao treo sao rung sao bay. Nhiều người lên đây bán hàng nhái, nhưng tôi khẳng định là: không có đâu. Vì ngay chiều hôm nay, một chân truyền của sao treo rung bay đã ngồi đây cà fe chém gió với tôi.

Quyển TVĐT thay vì chọn cách đứng cao lên-nhìn rộng ra-tổng quát hóa thì lại đi sâu vào lá số, sách viết rất chi tiết phần tính lý tinh đẩu và các cách cục, dùng ngũ hành làm tôn chỉ đoán mệnh. Và nhu cầu thiết yếu là phải dùng các cách Sinh-Tuyệt-Mộ rồi Tuần Triệt theo các tuần hoa giáp để phân định ảnh hưởng nặng nhẹ của sao từ các cung xung chiếu, và tác dụng lên mệnh bàn nói chung.

Nói chính xác thì pp sinh tuyệt mộ này không sai, trước đây có bác Hổ Về Rừng dùng rồi, nhưng tùy hệ phái mà có nên dùng hay không. Chứ không phải thấy mọi người dùng mình cũng ôm vào. Đã khác mạch thì muốn ôm cũng không nổi. Dù sao, cách luận như luận Tử Phá cư sửu của tác giả khá đặc sắc. Quyển này vẫn không thoát khỏi bóng dáng đè nặng của các tiền bối tử vi Việt trước đây để khai sáng một cách nhìn mới, một cách nhìn nào đó thực sự mới và hợp lý, nhưng bạn nào tôn thờ ngũ hành chắc chắn sẽ rất thích quyển này.

Mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý

Xưa nay mệnh cục tương sinh, và thế âm dương thuận lý được coi là tốt. Nay ta cân phân xem có đúng vậy không.

Thứ nhất, âm dương thuận lý ta biết 6 cường cung sẽ nhận các sao như Tuế Hổ Phù Long Phượng, còn âm dương nghịch lý 6 cường cung sẽ nhận thế Thiên Không Kiếp Sát Thiếu Âm.

Nay xét mệnh cục, có 3 loại tương tác:

- Mệnh cục tỉ hòa

- Mệnh cục tương sinh

- Mệnh cục tương khắc

Nếu mệnh cục tỉ hòa coi như mệnh cục cùng sinh cùng diệt, khi cục trường sinh thì mệnh cũng trường sinh và khi cục tuyệt mệnh cũng tuyệt.

Mệnh cục tương sinh có hai trường hợp, mệnh sinh cục và cục sinh mệnh. Mệnh sinh cục thì mệnh có thể hỗ trợ cục. Ví dụ: mệnh kim cục thủy, khi cục thủy tuyệt khí tại tị thì mệnh kim trường sinh tại tị, tạo thành thế tuyệt xứ phùng sinh. Và ngược lại cho trường hợp cục sinh mệnh.

Mệnh cục tương khắc cũng có hai trường hợp, mệnh khắc cục và cục khắc mệnh. Đã khắc thì hàm ý là không giúp đỡ và hàm ý là không thuần nhất. Ví dụ mệnh kim khắc cục mộc. Mộc khí tuyệt tại thân nhưng tại đó kim vượng.

Trên cách nhìn tổng quát lá số thì khi mệnh cục tương khắc, tại một cung vị bất kì nếu hành khí này vượng thì hành khí kia suy và ngược lại.

Bây giờ xét xem sinh hay khắc là tốt hay xấu. Ta biết cách cục VCD Nhật Nguyệt thích Không Vong và ưa Mộc Suy Tuyệt. Nếu mệnh cục tương khắc, thì khi cục khí mộc suy tuyệt chắc chắn mệnh khí sẽ vượng. Tức nôm na ta hiểu sự mộc suy tuyệt ở đây không hòan toàn.

Đến đây có hai ngã rẽ để hiểu:

1. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh cần sinh vượng mộ bù lại cho cục mới là tốt

2. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh không nên sinh vượng mộ mới là thuần nhất, nếu không sẽ thành cảnh trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược.

Khi mệnh cục đồng hành, hay tương sinh thì sự đồng nhất của mệnh và cục cao hơn so với trường hợp mệnh cục tương khắc.

Đối với cách cục VCD Không Vong Nhật Nguyệt, ta biết cách này ưa Thiên Không cho nên phải là âm dương nghịch lý. Chứng tỏ âm dương thuận nghịch lý còn tùy cách cục mới biết được xấu tốt, không cứ thuận lý là tốt mà nghịch lý là xấu. Nếu thuận lý sẽ phù hợp với cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham khi đó Tuế Hổ Phù Long Phượng Hổ Cái sẽ tề tựu. Còn với VCD không vong Nhật Nguyệt lại cần Thiên Không Đào Hồng hơn Tuế Hổ Phù. Cách này còn ưa Mộc Suy Tuyệt hơn Sinh Vượng Mộ. Nhưng khi đó cần mệnh khí sinh vượng hay tử tuyệt?

Tứ mộ khởi biến hóa

Theo quy luật ngũ hành áp trên địa bàn. Tứ mộ là nơi ngừng nghỉ của năm hành. Không cần biết phương pháp gì, cách biện nào thì tứ mộ vẫn là nơi ngưng nghỉ của một hành nào đó, trước khi nó Tuyệt và trước khi hành khác sinh ra. Cho nên vận tứ mộ là vận thay đổi. Thay đổi có hai chiều hướng là từ tốt sang xấu và từ xấu sang tốt. Cho dù người mới học không rõ thay đổi đó là chiều hướng nào thì có thể nắm chắc một điều: tại vận tứ mộ phải có sự thay đổi. Ai đang đắp chăn ấm hãy lo ngại, ai đang co ro dưới gầm cầu hãy hi vọng. Đến tứ mộ đất trời cũng phải đổi thay chứ không nói con người.

Việt Nam đã có nhiều lần thay triều đổi đại vào năm Tuất. Kể cả không thay chiều đổi đại thì những năm thìn tuất cũng có sự kiện đáng kể. Gần đây những năm thìn tuất là sự chống tiêu cực trong giáo dục. Người đương thời Đỗ Việt Khoa anh cứ nhằm năm thìn tuất là tỏa sáng. Sau đó thì không thấy nhắc đến anh nữa. Năm sửu của Việt Nam thường là năm thất bại của các bang hội. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dập tắt năm sửu.

Tiểu vận của nam giới trong tử vi luôn đi thuận. Cho nên những năm La Hầu Kế Đô Thái Bạch của nam giới là những năm tiểu vận rơi vào tứ mộ. Với dân gian mà nói phải ra chùa làm lễ giải hạn. Với nhà tử vi mà nói đó là những năm rơi vào tứ mộ. Không hẳn xấu nhưng phải có thay đổi. Nắm được vấn đề cơ bản này, sẽ giúp ích rất nhiêu cho người mới học xem số, kể cả những người xem lâu năm có tiêu chí để đối chiếu tránh được mông lung. Vì đời người nhiều lắm có hai lần trải qua đại vận tứ mộ.

...

Tất nhiên phải kể đến ảnh hưởng của tinh đẩu, nếu không thì an tinh đẩu làm gì. Nhưng tử vi là bài toán mô tả không gian 3 chiều và 1 chiều thời gian. Muốn xác định được một điểm trong không gian phải dùng ba trục tọa độ x, y, z. Ba trục này đôi một độc lập nhưng không thể thay thế cho nhau. Nếu hỏi như trên là hiểu một trục có thể thay thế cho cả ba. Tất nhiên, không có chuyện đó. Nhưng nếu tìm được một thước đo có thể đánh giá rõ ràng vấn đề, phép đo đơn giản thì thước đo đó có giá trị.

Chân lý là con đường đơn giản nhất trong những con đường tương đương. Điều này đúng với cả chân người.

Về Tứ Hóa Phi Tinh

Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.

Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.

Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.

Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.

Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.

Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.

Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.

.........

Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.

Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.

Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.

Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.

.........

Tổng hợp

Tứ sát:

Sát Phá Tham của vòng chính tinh

Mộc Suy Tuyệt của vòng Trường Sinh

Kình Đà của can năm sinh

Không Đào Sát của chi năm sinh

Đến đây ta đã có thể xem tử vi theo hệ thống.

Với yếu lĩnh lượng đổi chất đổi, khi có 1 thì gọi là mầm mống, khi có 2 là thành hiện tượng, khi có 3 thì cực điểm, nhưng khi có 4 yếu tố hội tụ thì lại phản vi kỳ, không trở thành có, mà sát lại đảo thành cát.

Tứ sinh:

Tử Vũ Liêm của vòng chính tinh

Tuế Hổ Phù của vòng thái tuế

Lộc Tướng Ấn của vòng lộc tồn bác sỹ

Sinh Vượng Mộ của vòng trường sinh

Tứ sinh được mô tả trong thế chân mệnh thiên tử của topic này. Tứ sinh cộng hưởng với nhau thì hoàn mỹ.

Việc xem số xoay quay Tứ Không, Tứ Sát và Tứ Sinh. Dựa vào hệ thống này thì giờ đây chúng ta có thể xem tử vi một cách toàn diện, không thiếu sót. Và hiểu được cái gì là chính cái gì là phụ. Sau khi đã xác định được khung số, việc xét đoán các tiểu tiết sẽ có định hướng và bớt mông lung hơn, tất nhiên sẽ tự tin và kết quả sẽ chính xác hơn. Xin chúc mừng cộng đồng biết được điều này.

Mệnh Tài Quan trong cách hiểu tổng quát thì cũng là một loại "sao". Loại sao này có thể tổ hợp với bất cứ bộ sao nào phía trên để ra chi tiết cuộc đời. Tức là bạn có 5 yếu tố để xét số rồi đấy. Trước giờ bạn nghĩ cứ phải nhìn từ mệnh tài quan nhìn đi. Giờ bạn đã biết có thể nhìn từ bất cứ cung nào cũng là lá số của mình, và mệnh tài quan cũng chỉ là một tam hợp.

Khi 5 yếu tố cộng hưởng: Mệnh tài quan có Tử Vũ Liêm+Tuế Hổ Phù+Lộc Tướng Ấn+Sinh Vượng Mộ.

Nếu Mệnh Tài Quan là tượng của Sinh Vượng Mộ thì Điền Tật Bào chính là tượng của Mộc Suy Tuyệt. Giả sử Điền Tật Bào của bạn hội tụ 4 yếu tố tứ sinh thì bạn có tứ sinh+ 1 Tuyệt tất nhiên sẽ không tốt bằng ngũ sinh khi Mệnh Tài Quan + 4 sinh rồi.

Và khi đại vận đi đến cung Tật, bạn cũng ngầm hiểu giống như mình từ vị trí Sinh Vượng Mộ đến vị trí Mộc Suy Tuyệt ắt không thể tốt đẹp. Đó là lý thống nhất về quy luật của tất cả các tam hợp.

....

Cũng chẳng có gì phải giữ làm của riêng. Vì có đưa ra cũng chưa chắc đã lãnh hội được.

Có những điều các tiền bối nói trước đây tôi rất coi thường, ví dụ như Nhật/Nguyệt thủ mệnh thì khắc đoạt phụ tinh/mẫu tinh nên cha mẹ mất sớm.

Sau này thực tế thấy nhiều lá số có Thái Dương hoặc Thái Âm thủ mệnh đều: hoặc sau khi cha/mẹ mất thì phát tài phát quyền, hoặc phát tài phát quyền xong trong thời gian ngắn cỡ vài tháng thì cha/mẹ mất. Cách đây không lâu khi cha tôi đưa lá số đối thủ chính trị của ông có Thái Dương thủ mệnh, sau khi lên chức vài tháng cha bại liệt rồi qua đời trong trạng thái thực vật. Tôi mới ngỡ ngàng đốn ngộ, buột miệng bảo: lá số này quả nhiên có Thái Dương thủ mệnh. Ngẫm lại mới thấy ngày xưa quá non nớt, chuyện đời thật rộng lớn mênh mông như biển Thái Bình.

Đó mới chính là phần tâm linh thú vị khó lý giải của tử vi, chứ không phải như mấy thằng ngu có vài thuật toán cơ bản không luận được lại đổ tại cho huyền bí.

Cho nên có lẽ các chiêu thức kinh khiếp nhất đều lộ lộ trong sách rồi, chỉ trách ta quá thông minh mà u mê thôi.

Ta vẫn lang thang buổi chợ chiều

Đường dài bóng đổ dáng liêu xiêu

Từ ngày hôm đó ai đi mất

Ta vẫn đi ngang buổi chợ chiều.

....

Vòng Thái Tuế không chịu tương tác với Không Vong nhưng vòng Trường Sinh thì đặc biệt chịu sự tác động mạnh mẽ của Không Vong. Nói vậy để bạn biết con gà không thể cộng với con vịt mà phải chọn đúng gà.

Vị trí Tuyệt rất hợp với Triệt, thậm chí có người coi nó là Triệt thứ hai.

Vị trí Mộ rất hợp với Tuần, cả hai cùng chủ tích lũy thu hút gom góp.

Cho nên bạn biết Trường Sinh không ưa Triệt Tuần chút nào, trừ khi phải đào dòng chảy với kỹ thuật âu thuyền nâng con tàu qua kênh đào Panama kỳ diệu.

Nói về sát tinh, có Địa Không và Linh Tinh hợp với cách cục VCD Nhật Nguyệt, còn Kình Đà thì phá hoại cách cục này. Mệnh thân đắc cách VCD Nhật Nguyệt rất kỵ hành vận Sát Phá Tham do tính âm dương đối chọi nhau điên đảo. Còn mệnh Sát Phá Tham gặp vận Nhật Nguyệt bạn có thể hỏi vua Quang Trung.

Câu đầu tiên khi nghĩ về cách cục Nhật Nguyệt là bạn phải nhớ tới thông minh. Cách cục Nhật Nguyệt đại diện cho trí thông minh, uyên bác trên bất cứ lá số nào. Cách cục Sát Phá Tham cho biết khả năng hành động. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng cho biết khả năng tổ chức quản lý. Sát Phá Tham thì thiên dương, Nhật Nguyệt thiên âm, còn Tử Phủ Vũ Tướng dung hòa ở giữa.

Cho nên nghĩ tới Nhật Nguyệt là nghĩ tới thông minh và trường thọ. Còn lại tùy bạn gia giảm khi cách chưa hoàn thiện hoặc bị phá.

...

Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.

Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.

Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.

Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.

....

Đầu tiên nói về thể dụng. Thể dụng là nội hàm bất biến của quẻ. Nó phụ thuộc vào vị trí hào động là ở đâu. Ví dụ Thiên Phong Cấu thì mãi mãi là kim khắc mộc. Cho nên thể dụng cho biết cái Thế của quẻ. Thế đứng, thế chủ động hay thế bị động, thế chính danh hay thế danh bất chính đều do thể dụng mà ra. Ví dụ thể là kim khắc dụng mộc thì mình được thế chủ động. Mình là vua còn dụng là bề tôi. Nhưng ngoài thế còn có lực. Vào mùa xuân, kim tuyệt không khắc nổi mộc vượng. Vào thời Hiến Đế vua không bảo được Tào Tháo. Vào thời Chúa Trịnh thì vua Lê chỉ là cái bóng. Cho nên nhìn vào mùa gieo quẻ thì bạn biết lực lượng của hai phe thể dụng. Bạn biết có khắc nổi không, có sinh nổi không. Nó cho biết thực hư của mối quan hệ thể dụng. Bề ngoài Hiến Đế và Tào Tháo là vua tôi. Bên trong thì Tháo nắm quyền.

Yếu tố thứ ba là tên quẻ. Tên quẻ cho biết tính chất của thời đó. Địa Thiên Thái và Thiên Địa Bĩ đều là Thổ sinh Kim. Nhưng một thời thái một thời bĩ. Ý nghĩa quẻ có mối liên hệ chặt chẽ với tương quan nội quái ngoại quái. Bạn kiểm nghiệm sẽ hiểu sự kì diệu này. Vì dụ Bĩ là nội sinh ngoại không tốt. Thái là ngoại sinh nội nên tốt. Thiên Trạch Lý lễ dã lộ hành. Nội ngoại đều là kim nhưng ngoại quái Càn là quái mạnh. Nội quái Đoài yếu đuối thụ động hơn, phải chịu sự uốn nắn và chuẩn mực của càn, cho nên nghĩa quẻ là theo lề lối khuôn phép mà đi. Lý nghĩa đen là cái giày. Giày có khuôn thước. Sau khi dựa vào những cơ bản trên và thực hành. Bạn sẽ nắm vững cách xem.

....

Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Chúc bạn thành công

....

Chính tinh là tâm thái, phụ tinh cho mô tả chính xác. Ví dụ: "cái áo" cụt lủn chỉ cho biết là cái áo, nhưng áo bộ đội, hay áo khoác, hay áo rét, hay áo gió, hay bra, thì tùy thuộc vào phụ tinh. Thoáng qua bề ngòai tướng người thì do chính tinh làm chủ. Cụ thể con người đó thế nào thì do phụ tinh chi tiết thêm.

Phân cách phải nắm chắc tầng bậc, thứ tự mới không thể nhầm lẫn. Vũ trụ có trật tự của nó, thời gian có thứ tự trước sau. Chỉ cần thay đổi thứ tự, ý nghĩa thậm chí bị đảo ngược.

...

Đó là thuận lý tự nhiên. Tử vi và đời có những cách thuận lý cũng có những cách nghịch lý. Thuận lý thì bền và được quần chúng ủng hộ. Nghịch lý thì cũng có thể thành công, nhưng phải trả giá bằng tai tiếng hoặc tù tội hoặc mạng sống. Ví dụ đi ăn cướp sẽ có tiền nhanh nhưng hậu quả là bỏ mạng hoặc đi tù. Tiếc là bây giờ nhiều người đi theo con đường bất chấp này.

Biểu hiện thành hình của sự nghịch lý tự nhiên là các vị trí sát tinh. Cứu cánh của nó là miếu đắc địa, tức vị trí cân bằng âm dương của sát tinh. Khi sát tinh miếu địa, thành công vang dội và bất ngờ nhưng bạo phát bạo tàn. Bạo tàn vì căn lõi của nó là sự nghịch lý rồi, nên không thể bền.

Tổng hợp từ Facebook

- Mệnh khắc xuất là sướng trước khổ sau hay khổ trước sướng sau?

- Khổ trước sướng sau.

- Vì sao có thể biết như vậy?

- Vì bốn mùa xuân hạ thu đông có trật tự rõ ràng.

...

Âm dương đã nghịch lý thì mệnh cục trái tính âm dương. Trái tính âm dương rồi thì sinh hay khắc đều không có tác dụng mạnh. Cho nên:

- Âm dương là tiên quyết, ngũ hành là hậu quyết.

Xét mệnh cục tương khắc phải trong không gian âm dương thuận nghịch lý.

Học mãi mới hiểu vì sao đời kêu oai oái mệnh cục tương sinh hay tương khắc đều chẳng khác gì nhau.

...

Trong tử vi thì dương mặc định cho tốt. Âm cho xấu. Ví dụ Tử Vi cung dương bao giờ cũng tốt hơn cung âm. Dương là thuần nhất rõ ràng. Âm là tạp loạn mập mờ. Ví dụ các chính tinh đồng cung dương là các sao cùng tính chất gặp nhau. Các chính tinh đồng cung âm là chính tinh khác tính chất gặp nhau.

Nếu tháng giờ cùng tính âm dương, mệnh thân đóng cung dương.

Nếu cung mệnh và năm cùng tính âm dương, đó là âm dương thuận lý, xác suất gặp sao tốt rất cao.

Nếu cung mệnh và tháng cùng tính âm dương, không gặp Hình Riêu.

Nếu cung mệnh và giờ cùng tính âm dương, không gặp Không Kiếp.

Cục dương với ngày dương tốt hơn ngày âm.

Cục âm thì hỗn độn có tốt có xấu.

Nếu tháng và ngày cùng tính âm dương Thai Tọa sẽ đóng cung dương.

Như vậy chưa cần lập lá số. Xem tổ hợp năm- tháng- ngày- giờ nếu thấy cùng tính âm dương nhiều sẽ tốt nhiều. Khác tính âm dương sẽ kém tốt.

Xem vận nếu nhập vận cung dương thấy nhiều sao xấu e rằng khó cứu vì cái xấu là thuần nhất. Nhập vận cung âm thấy nhiều sao tốt coi chừng cái tốt thiếu ổn định. Tuổi âm nhập vận cung dương tất nhiên phải chịu nhiều chóe ngoe. Cho dù nhiều sao tốt cũng không thể mãn ý như tuổi dương nhập cung dương.

Xem ra phép âm dương cô đọng quá mà ít người chịu dùng triệt để.

...

Thái Thứ Lang cho rằng mệnh VCD hợp vận Sát, Phá, Liêm, Tham, lục sát, lục bại. Cung VCD thì hợp Tuần Triệt án ngữ. Nhưng sách vở khác như Thiên Lương chỉ đề cập đến Bạch Hổ mà không hề nhắc tới 5 bại tinh còn lại là Tang Khốc Hư song Hao.

Kì thực do yếu quyết: " hỏa không phát, kim không minh". Dẫn đến mệnh rồi sao hợp với VCD đều phải là hỏa hoặc kim. Mà Tang mộc, Khốc Hư đều thuộc thủy. Song Hao thì Thái Lang cho là hỏa. Có sách cho là thủy. Các sách không dùng Hao cho VCD chắc quan điểm Hao thủy. Còn theo Thái Lang thì dùng Hao cho cung VCD ngon lành.

...

Cái gì nghịch với Đạo (quy luật tự nhiên) thì không bền. Cái gì thuận với Đạo thì không thể vội.

...

Nhược điểm song Hao: có tiền là tiêu, có sức là chơi.

Đặc điểm song Hao: tích độc nhanh, thải độc nhanh. Nên song Hao đi kèm sát tinh dễ trúng độc cấp tính mà đột quỵ. Song Hao kèm cát tinh phú quý không thể bền.

Nhược điểm Lộc Tồn: tụ không thể tán. Nên Lộc Tồn khả giải sát tinh nhưng lại làm ngưng trệ tam hóa. Dẫn đến hóa khí khó phát tác. Dễ nhiễm độc mạn tính. Khi phát hiện không thể cứu.

Hóa Kị phúc đức có xu hướng tự kỉ. Đi kèm Đà Riêu thì khó chữa. Hay nghĩ đến việc tự sát hoặc bi quan không lối thoát.

...

Trong mệnh lý, có những yếu tố luôn đi thuận, thể hiện quy luật bất biến. Ví dụ: vòng thái tuế, bốn mùa xuân hạ thu đông, quy luật sinh khắc của ngũ hành. Sách nói: "Thiên địa bất nhân coi vạn vật như chó rơm". Hàm ý các quy luật tự nhiên cứ vận hành như vậy bất kể ý muốn con người ra sao. Người tốt hay người xấu nhảy từ tháp Effel xuống đều chết vì trọng trường tác dụng bất kể tốt xấu.

Nhưng liên quan đến con người luôn có thuận và nghịch. Như đại vận phải tính tới yếu tố nam nữ. Vong Trường Sinh Vòng Bác Sĩ đều kể tới yếu tố nam nữ. Cách an Hỏa Linh cũng kể đến nam nữ. Tiểu vận cũng kể đến yếu tố nam nữ. Cho nên các sao trên có thể xếp vào phần Nhân.

Tuy nhiên, các quy luật tự nhiên (chỉ an thuận hoặc chỉ an nghịch) hay còn gọi là phần Thiên luôn có ảnh hưởng lấn át áp đặt lên phần nhân. Tính chất của các sao đó như các hằng số bất biến. Sự luận giải cũng đơn nhất không đa nghĩa. Và là tiêu chuẩn để hiệu chỉnh khi có sự mập mờ từ các suy luận khác. Nhược điểm của yếu tố Thiên là thô mộc, thiếu chi tiết tinh xảo, rõ ràng nhưng chung chung.

...

Tham Sát Phá: tham sân si. Tham có lúc hóa Lộc hóa Quyền hóa Kỵ nhưng không hóa Khoa. Lòng tham có thể làm con người giàu có quyền lực cũng có thể gây họa (Kỵ) nhưng không thể mang lại sự sáng suốt (Khoa).

Phá có thể hóa Lộc, Phá có thể hóa Quyền, nhưng không hóa Khoa và Kỵ. Si mê có thể đem lại giàu có và quyền lực nhưng không đem lại sự sáng suốt nhưng cũng không gây họa ( có ý kiến cho rằng trong Phá luôn có tính Kỵ rồi nên không cần hóa Kỵ nữa).

Nhưng Sát tức sân hận thì không hóa, không thể chuyển hóa hay rất khó chuyển hóa.

...

Trong tử vi:

1. Dương là quy ước của tốt. Âm là quy ước của xấu.

2. Thuần tốt hơn Tạp.

3. Nếu tạp thì cân đối tốt hơn thiên lệch.

Điều 1 thể hiện qua vị trí khởi điểm của các cát tinh và chính tinh. Điểm hai thể hiện trong cách cục. Điểm ba thể hiện trong sự miếu đắc của sát tinh.

...

Thứ 7 là ngày dành cho gia đình.

Chủ nhật là ngày dành cho bản thân.

Những ngày còn lại dành cho xã hội.

Written by người phản đối những khuyến khích làm việc cả ngày thứ 7 và CN của bọn chủ người Nhật.

Quy luật tự nhiên có nhịp điệu có chu kỳ. Mặt trời mọc rồi lặn hàng ngày. Từ lâu loài người đã phát hiện ra chu kỳ 7. Tại vị trí số 7, năng lượng yếu nhất và cần phải tĩnh dưỡng. Trong tử vi đó là ngôi Thất Sát đứng thứ 7 kể từ vị trí sung mãn là Thiên Phủ. Phủ trù phú thì Sát rất nghèo. Phủ đầy năng lượng thì Sát ít năng lượng. Phủ vượng thì Sát diệt. Trong Tarot, con bài số 7 của cả bốn nguyên tố đều mang nghĩa xấu. Thất côn chủ tranh đoạt. Thất kiếm chủ trộm cắp. Thất cốc chủ mê muội. Thất tiền chủ sự nghỉ ngơi. Thất tiền mang ý nghĩa khá nhất tứ nguyên tố thì cũng không thể hoạt động được.

...

Tử vi là tà đạo và chỉ có những người chính khí ngút trời mới có thể làm chủ được nó. Còn lại đều bị tử vi dắt vào con đường lầm lạc, đều làm nô lệ cho nó và bị tâm ma sai khiến bất kể kẻ đó bao tuổi, tài cao bao nhiêu. Cho nên học tử vi mà thấy càng ngày Tham Sân Si càng lộ rõ và ngấu nghiến tâm can thì kẻ đó đã bước vào ma đạo rồi. Những lời khuyến cáo của tôi hay bị bọn u mê coi thường. Chúng không hiểu bản chất tà ngụy của các thuật bói. Chúng không hiểu vì sao các đại đức họ chỉ khuyên người đời tu tâm chứ đừng ham cầu bói toán. Biết sẽ chết lúc nào. Nhưng không biết bệnh gì. Dù biết bệnh gì. Nhưng không biết cách chữa thì biết làm gì. Hay cái biết đó để phục vụ cho lòng tham của tâm, tham phúc và sợ họa. Phúc không phải đuổi theo mà được. Phúc do nó tự tìm mình mà đến. Họa không phải đuổi mà đi. Họa do nó tự bỏ ta mà đi. Vạn sự do tâm. Tâm thiện phúc đến. Tâm ác họa đến. Bọn bói toán chỉ cầu biết cái biểu hiện mà không biết được nguyên nhân thì sao chúng có thể giúp người. Chưa nói trình độ của chúng thì như gia cầm lục súc.

...

Tứ hóa là bốn loại tâm lý cảm xúc, nói gọn là tâm thế. Hóa Kỵ là tâm thế tiêu cực. Tứ hóa phái cho rằng lục sát tinh không đáng sợ, đáng sợ là khi Hóa Kỵ đến kích phát lục sát tinh tác họa. Lục sát tinh nó như tính xấu tiềm ẩn trong con người bạn do DNA quy định khi chúng ta sinh ra. Nhưng nếu không có tâm lý tiêu cực thì lục sát tinh đó cũng không tác họa. Con người sơ sinh mang hai tính thiện ác. Thiện như cát tinh, ác như lục sát. Nhưng nếu không vào hoàn cảnh nhất định của cả thân và tâm, thì những căn ác đó không có điều kiện nảy nở mọc thành quả, thậm chí còn lặn mất. Hóa Lộc bản chất là loại tâm lý tích cực, có tác dụng kích phát theo hướng lạc quan. Khi đi cùng lục sát, Hóa Lộc biến lục sát thành kỳ cách. Ví dụ như sự tinh xảo của các nghệ nhân hay các cầu thủ bóng đá. Họ dùng cái quái cái tinh xảo đó để phục vụ cái tốt. Hoa sen trong bùn là tượng tương ứng của Hóa Lộc trong lục sát. Diêu Đà Kỵ là một cách cục thể hiện sự kích phát của Hóa Kỵ. Bản chất là Kỵ kích phát Đà Diêu. Trong cách cục có thể chỉ có Đà Diêu, khi gặp vận có Kỵ kích phát sẽ xảy ra chuyện không hay.

Qua bài này, bạn hiểu thêm về tứ hóa, cảm thấy sờ được, nắm được tứ hóa chứ không mơ hồ như kinh điển từ ngàn xưa. Ngoài ra, chịu khó áp dụng bạn còn hiểu được ứng kỳ. Cứ khi nào Hóa Kỵ nhập hoặc xung cung lục sát thì xấu. Cứ khi nào Hóa Lộc nhập hoặc xung thì khả quan. Không có Lộc Kỵ kích phát thì không sợ sát tinh. Tất nhiên đi ngang con chó, nó đã không bảo gì đừng có đá vào mõm nó.

...

Thái Âm cặp với 3 người đàn ông: Cơ Nhật Đồng.

Thái Dương cặp với 3 người đàn bà: Cự Nguyệt Lương.

Tử Vi làm việc với 5 đồng đảng: Phủ Tướng Sát Phá Tham.

Nhóm sao âm chủ quan hệ con người hơn là nhóm sao dương. Nhóm sao dương chủ quan hệ công việc hơn là nhóm sao âm.

...

Cần nghiêm khắc nhìn lại thuyết tam tài. Đây là thiếu sót lớn nhất của giới mệnh lý ngày nay.

...

Tượng Khí Số và Lý. Mãi không hiểu Lý là gì sau mới biết Lý là câu chuyện.

Khách hàng không mua rượu vang, họ mua câu chuyện về nút gỗ sồi gắn với chai rượu ấy. Vì câu chuyện hàm chứa mạch xuyên suốt từ lúc hình thành chai vang đó. Câu chuyện cho họ thấy sự có lý. Câu chuyện cho họ lý do mua nó và uống nó chứ không phải loại vang khác.

Tử vi cũng có Lý bên cạnh Tượng Khí Số. Lý của tử vi là câu chuyện hợp lý giữa các tương tác sao. Khách hàng muốn nghe câu chuyện xuyên suốt toàn lá số. Nên hãy túm được mạch chuyện và kể cho họ. Mà muốn làm được việc đó thì phải giỏi. Cố gắng giỏi nhé.

...

Những người có Không Kiếp thủ mệnh, nhất là Không Kiếp hãm địa là những người khi nói chuyện hay tỏ ra biểu hiện nguy hiểm. Không hẳn họ muốn vậy, và cách nhìn sự thế của họ như vậy. Sự việc có thể đơn giản thường lại bị họ làm cho rối tung lên. Một người vá xe bình thường cũng có thể trở thành điệp viên quốc tế trong mắt họ. Tuy nhiên, đó chỉ là thùy tượng của Không Kiếp. Tùy tình huống cụ thể mà cân phân khác nhau. Nhưng qua đó, ta thấy được cuộc đời phụ thuộc vào cách nhìn đời hơn là phụ thuộc vào đời thực. Thấy sự việc nguy hiểm sẽ có tâm thái tương ứng đối phó với sự việc đó. Phải chăng truyền thuyết các đại sư ngồi thiền, chim chóc rắn rết có thể bu quanh là có thật?

[Mình cũng đang tỏ vẻ nguy hiểm ^^]

Vậy sao Khôi Việt Quang Quý giải quyết được sự "tỏ vẻ nguy hiểm" này?

...

Cách nghiên cứu một sao trong tử vi rất đơn giản. Bạn cứ nhìn thẳng vào nó, trong khi mọi thứ xung quanh nó thay đổi thì bạn vẫn nhìn thẳng vào nó. Rồi bạn sẽ nhận ra nó, nhận ra mối liên hệ giữa bầu trời sao xung quanh nó với nó.

...

Ngũ hành là thuộc tính. Âm dương là trạng thái. Cùng là sắt nhưng có sắt nguội sắt nóng, có sắt khối sắt vụn, có sắt thuần sắt tạp.

...

Trong tử vi. Yếu tố A có tính chất tiên thiên của nó. Nhưng khi gặp yếu tố B thì cát hung là sự tương tác giữa A và B. Nói cách khác đó là hậu thiên của A. Ví dụ A là đèn, B là trời nắng. AB là đốt đèn giữa trời nắng. Cho nên cần lắm nhận thức đúng đắn khi xem vận. Cùng cái đèn đó nhưng trong đêm thì lung linh huyền ảo.

Hay như mệnh Sát Phá Tham đến đại vận Nhật Nguyệt, dù Nhật Nguyệt có rực rỡ cùng các cát tinh đi kèm đến đâu thì cũng khó mà tốt đẹp. Cái nhìn này khác với cái nhìn khi nhập đại vận nào đó, không cần xét đến vốn mệnh là gì.

...

Tuần và Triệt là Không Vong. Không Vong có nghĩa là thời gian không thực. Trong đó Triệt là quá sớm. Tuần là quá muộn. Thái Dương hợp Triệt vì mặt trời chủ tán xạ chủ sáng sớm. Thái Âm hợp Tuần vì mặt trăng chủ thâu liễm thu vào. Cho nên khi Nhật Nguyệt hãm địa tức mặt trời và mặt trăng sai thời. Gặp Tuần Triệt thì thời được điều chỉnh lại.

Vấn đề ở chỗ muộn là muộn bao lâu, sớm là sớm bao lâu. Có thể ngẫm mà biết được.

...

Trong tử bình, động tĩnh do địa chi báo. Cát hung do thiên can quản. Ví dụ tiểu vận năm ất mùi, chắc chắn chi mùi được hiện và chi sửu bị xung. Vào năm đó sửu và mùi đều có chuyện. Nhưng cát hay hung phải xem biểu hiện của can ất. Dụng Kỷ, Ất phá Kỷ thổ dụng thần là hung. Dụng Canh, Ất hợp Canh là cát.

Trong tử vi thì địa chi năm vận cho biết cung bị động. Nhưng động cát hay động hung phải xem thiên can. Nôm na phái tứ hóa khẳng định cách xem của mình.

...

Ngũ hành sinh khắc đi cùng nhau song song. Có sinh mới có khắc và ngược lại. Kim khắc mộc để mộc sinh hỏa. Dao chẻ củi đốn cây để mang đi đốt. Thủy dập hỏa thành tro để hỏa sinh thổ. Hỏa khắc kim để kim sinh thủy. Lửa nung kim loại tan chảy thành lỏng. Thổ ngưng thủy để thủy bớt tràn lan có thể dưỡng mộc. Mộc khắc thổ để thổ sinh kim. Cây mọc trên đất để chuyển khoáng vào đất.

Đó là khắc để mà sinh. Và còn sinh để mà khắc.

Hỏa sinh thổ để thổ khắc thủy cứu hỏa.

Thổ sinh kim để kim khắc mộc cứu thổ.

Kim sinh thủy để thủy khắc hỏa cứu kim.

Thủy sinh mộc để mộc khắc thổ cứu thủy.

Mộc sinh hỏa để hỏa khắc kim cứu mộc.

Cho nên xét ngũ hành đầy đủ cần biết cả sinh khắc vậy. Vì sao chưa sinh vì chưa bị khắc. Bị khắc mới chuyển hóa. Vì sao còn khắc vì khắc chưa đủ để sinh.

Tiếp theo là ngũ hành phản khắc nha. Bình thường dương khắc dương nhưng phản khắc là âm khắc dương.

Bình thường thủy khắc hỏa. Nhưng âm hỏa (ngọn lửa không trực tiếp) phản khắc thủy thì thủy cũng sinh mộc. Ví dụ lửa đun nước nước hóa hơi (mộc).

Thổ khắc thủy nhưng thủy phản khắc xói mòn thổ mà lộ kim.

Kim khắc mộc (cây) nhưng âm mộc (khí) phản khắc ăn mòn làm kim loại chảy nước.

Phản khắc có thể luận như sau:

Hỏa khắc kim nhưng kim hóa thủy phản khắc lại hỏa làm hỏa sinh thổ.

Kim khắc mộc nhưng mộc hóa hỏa khắc lại kim làm kim sinh thủy.

Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim khắc lại mộc làm mộc sinh hỏa.

Thổ khắc thủy nhưng thủy sinh mộc phản khắc lại thổ làm thổ sinh kim.

Thủy khắc hỏa nhưng hỏa sinh thổ phản khắc lại thủy làm thủy sinh mộc.

Nếu nắm được do khắc mà sinh và do sinh mà khắc thì thông đạt ngũ hành.

...

Lửa là dương hỏa. Nhiệt là âm hỏa. Gặp lửa có thể bén ngay nhưng quá trình truyền nhiệt cần có thời gian. Cái gì cần có thời gian cần có tích lũy số lượng mới chuyển hóa thì cái đó thuộc về âm.

Cô cảnh sát giao thông xinh đẹp dắt bà cụ qua đường cho phóng viên chụp ảnh. Là hiện tượng âm hay dương? Phải chăng là âm khi hai nhân vật trong sự việc là nữ. Nhưng không, đó là dương. Vì hiện tượng trên là không thường thấy là đặc biệt, là nỗ lực 5 phút đã có thể thực hiện được. Thời gian ngắn thì bạn biết ngay là dương. Âm cần có quá trình. Số lượng ít bạn biết ngay là dương. Âm cần xảy ra ở nơi nơi.

Vậy thì hiện tượng âm là gì với giao thông. Đó là quy hoạch quy mô lớn. Đó là giáo dục ý thức tham gia giao thông của người dân trong thời gian dài. Đó là hệ thống cống ngầm tương xứng với số dân trên mặt đất. Đó là không đập cầu đi bộ mới xây để dựng cầu vượt. Những cái đó cần có tầm nhìn cần nỗ lực trong thời gian dài. Nó thuộc về âm. Nếu nó thành công thì toàn bộ thành phố chuyển mình thành tiêu biểu giao thông của thế giới. Cái tiêu biểu đó là dương.

Chứ cái dương nhỏ nhoi dắt bà cụ qua đường làm trò lòe con mắt người dân để gây thiện cảm. Chỉ làm trò được vài lần, nhiều quá thành lố. Trong khi tắc vẫn tắc, khổ vẫn khổ, ăn chặn vẫn ăn chặn, mất lòng tin vẫn mất lòng tin.

Cái âm tác dụng cần thời gian. Thủy xói mòn thổ cũng cần thời gian. Nước chảy đá mòn chính là hiện tượng thủy phá thổ. Phản khắc thuộc âm. Âm cần bền bỉ lâu dài và tích lũy. Không khí ăn mòn kim loại tức mộc (khí) phá kim cần thời gian. Khắc là gì. Khắc là thuận theo tự nhiên. Phản khắc là gì. Phản khắc là nghịch lại tự nhiên. Nghịch lại thì khó. Khó thì phải từ từ bền bỉ, không thể sốt xình xịch.

Trong phim bến Thượng Hải, quá trình tán gái của Hứa Văn Cường là thuận thiên, anh đến với Trình Trình trong thế dương Thái Sơn áp đỉnh. Nhưng quá trình tán gái của Đinh Lực là thế âm. Anh phải mài mòn Trình Trình theo thời gian, kiên trì ít một ít một. Và cuối cùng con cóc ăn thịt thiên nga.

...

Mỗi người có một mối quan tâm cũng như gắn bó vào một mấu chốt trong từng giai đoạn cuộc đời. Lá số tử vi có 12 cung. Có tốt có xấu. Nói theo thiên hướng là sở trường sở đoản mỗi người không giống nhau. Mới đầu xem tử vi ai cũng xem dàn trải mọi việc. Sau khi có kinh nghiệm mới biết thế nào là trọng điểm. Với một tay phó tổng cục trưởng. Vấn đề chủ chốt là có lên chức được nữa hay không. Điều chuyển công tác thế nào. Tất nhiên sức khỏe là điều quan trọng với mọi người nhất là quan chức có tuổi. Trọng điểm là sức khỏe và công tác, những lĩnh vực còn lại ít ảnh hưởng hơn. Có những trường hợp cụ thể khác nhau nhưng mấu chốt vẫn là công tác và sức khỏe.

Với những hoàng hậu và phi tần. Vấn đề là con trai có lên làm vua không. Làm vua lâu bền không. Thì cuộc đời bà mẹ sang trang. Có những bà thái hậu có con ở ngôi thời gian ngắn thì bị chết, không rõ bệnh hay tự chết, cho nên bà đó dành phần đời còn lại đi tu. Đi tu là đúng vì tuy trẻ nhưng cuộc đời coi như chung kết rồi. Bà ấy có đi buôn, có viết sách, có làm gì nữa thì cơ bản thế cục đã định.

Cho nên số phận do chúng ta lựa chọn một phần. Chúng ta chọn công chức hay buôn bán thì cuộc đời sẽ xoay quanh những khung chính đó. Và cung trọng điểm theo đó mà hiện. Hơn nữa cơ bản trong mỗi một giai đoạn cuộc đời, ta ngồi nghĩ cũng biết điều chủ chốt là gì mà khi điều đó thay đổi thì mọi thứ thay đổi.

...

Mộc là khí. Mộc ứng với gió trong tứ nguyên tố. Trong Dịch, quẻ Tốn là gió thuộc mộc. Trong Đông y, thủy sinh mộc mộc sinh hỏa, thủy ứng với tinh, mộc ứng với khí, hỏa ứng với thần. Tinh sinh khí khí sinh thần. Lấy ngọn đèn bấc làm ví dụ thì dầu là tinh thủy dưới đáy. Bấc là khí mộc ở giữa kết nối. Ngọn lửa chính là thần hỏa phía trên cùng.

Lại có thủy đới mộc, hóa ra chính là xăng. Mộc ở đây là khí là nhẹ. Nhờ thành phần hydrocarbon no và nhẹ này mà xăng duy trì sự cháy. Mộc sinh hỏa.

Hôm trước nói về phản khắc hôm nay nói về phản sinh. Mộc sinh hỏa nhưng hỏa cũng thiêu đốt mộc, hỏa càng sáng thì mộc càng tiêu. Kim sinh thủy nhưng thủy càng nhiều càng mòn kim. Thủy sinh mộc nhưng mộc nhiều hút cạn nước. Hỏa sinh thổ nhưng thổ nhiều thì hỏa cũng tắt. Thổ sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ không còn là thổ.

Quá trình sinh là tiệm tiến lượng đổi chất đổi. Cho nên dương không sinh dương. Âm không sinh âm. Mà dương sinh âm, khi âm đã trưởng thì âm lại sinh dương. Mới đầu củi nhiều lửa ít. Củi là dương lửa là âm. Sau lửa to củi ít dần. Lửa dần thành dương mà củi dần thành âm. Đó chính là chuyển hóa âm dương.

...

Tứ sinh là nơi vấn đề phát sinh. Thích hợp với các sao ưa tung hoành như Thiên Mã Không Kiếp, song Hao Thất Sát Vũ Tướng Đồng Lương cung dương.

Tứ bại là nơi vấn đề vừa phát sinh. Thích hợp với các sao bại tinh như Khốc Hư miếu tí ngọ. Tang Hổ miếu mão dậu. Song Hao miếu mão dậu. Cơ Cự miếu mão dậu. Cho nên có ý kiến cho rằng Cơ Cự phù hợp với các bại tinh như Tang Hổ Khốc Hư Song Hao. Thực ra chúng là những kẻ đồng hương.

Tứ mộ là nơi an tĩnh, nơi tập hợp lại binh lực, nơi ủ mưu để chuyển hóa từ cũ sang cái mới. Cho nên tứ mộ phù hợp với những sao ưa sự an định như Tả Hữu Xương Khúc Hóa Kị Thai Tọa Quang Quý Cơ Lương Liêm Phủ. Và không phù hợp với các sao thích động như Đồng Cự. Đồng ở mộ như đứa trẻ bị nhốt ở nhà. Cự vốn là ám tinh ở mộ u ám càng không ai soi rọi làm sáng cho, nên càng hôn ám.

Nguyên lý của cát tinh hay sát tinh miếu là sự thuận lợi do phù hợp với địa bàn mang lại. Những cung đó coi như quê hương của các tinh đẩu đó. Nhưng sát tinh miếu vượng còn tuân theo 1 nguyên lý nữa đó là sự kìm hãm cái xấu. Kìm hãm sự mất cân bằng. Đây gọi là chế hóa.

Nguyên lý trên giống như sự thuần cách trong tử bình. Nguyên lý dưới giống như sự cân bằng theo phép lấy dụng thần theo thân vượng nhược của tử bình.

Tuy nhiên nhìn lại 3 phân cách trên. Thì tứ bại và quê hương của lục bại Tang Hổ Khốc Hư Hao tuy có gây mệt mỏi nhưng không phải là sự sát phạt tột cùng cực đoan. Bại và hao có thể hiểu như cơn ốm, như vụ tai nạn có thể đền tiền mà xong, như sự mệt mỏi nhọc nhằn không xấu để chết mà chẳng tốt để vui.

Sát địa chính là tứ sinh. Tứ sinh chính là tứ sát. Quê hương và hộ khẩu vĩnh viễn của Kiếp Sát Thiên Mã. Nơi thường trú và địa bàn ưa thích của Không Kiếp. Ở tứ sinh sự việc chỉ có hai thái cực, một là tột cùng vui sướng, hai là tột cùng bi thảm. Không có chỗ cho kiểu nửa buồn nửa vui nửa âu sầu như tứ bại. Ở đây tính chất con bạc của Không Kiếp được ủng hộ triệt để.

Tứ sinh chính là tứ sát.

Tứ bại chính là tứ thành.

Tứ ám (mộ) lại chính là tứ vinh.

...

Địa Không: trộm.

Địa Kiếp: cướp.

Trộm cướp gặp nhau rất tâm đầu ý hợp.

Địa Không là không được.

Địa Kiếp là có rồi mất.

Không Kiếp gặp nhau an ủi nhau thôi thì tôi cũng như anh.

Tên khai sinh của Địa Không là Thiên Không. Sau này nhập tịch Việt Nam thì đổi thành Địa Không. Cho nên Không Kiếp bản chất là "của thiên trả địa". Cái có lấp ló cái không.

Thiên Cơ là hỏi. Cự Môn là đáp. Cơ Cự gặp nhau là là có hỏi có đáp nên miếu địa.

Thiên Đồng là đồng ý. Cự Môn là phản đối. Đồng Cự là phản đối gặp đồng ý nên hãm địa.

Cự là gái trẻ. Cơ là trai trẻ. Trai trẻ gặp gái trẻ thì đăng đối.

Cự là gái trẻ. Nhật vượng là trai trẻ. Nên Nhật vượng thì Cự vượng.

Cơ là trai trẻ. Nguyệt vượng là gái trẻ. Nên Nguyệt vượng thì Cơ vượng.

Nhật hãm là trai già. Trai già gặp gái trẻ thì khó hợp nên Nhật hãm thì Cự hãm.

Nguyệt hãm là gái già. Gặp Cơ là phi công. Nên Nguyệt hãm thì Cơ hãm.

Đồng là đồng ý. Âm là im lặng. Đồng Âm im lặng và đồng ý.

Cự là hỏi. Cự Nhật là người đàn ông hỏi ở dần thân. Khi đó Đồng Âm là người phụ nữ đồng ý ở tý ngọ. Đó là tượng thuận vợ thuận chồng.

Nhật còn là thông minh. Nguyệt là hiền ngoan. Cự Nhật là hỏi thông minh. Đồng Âm là sự đồng ý ngoan ngoãn. Nhật khôn thì Nguyệt ngoan.

Đồng là cậu bé trai. Lương là cô bé con của Nguyệt vĩnh viễn tam hợp Nguyệt. Đồng Lương gặp nhau thì đăng đối. Đồng đồng ý, Lương thì lành vì là con của mẹ hiền (Thái Âm).

Cơ Cự Đồng Lương về động từ là hỏi đáp thuận tòng, về tính chất là linh hoạt hiền lành nhẹ nhàng, về giới tính Cơ Đồng là trai Lương Cự là gái. Về tuổi tác thì Đồng Lương nhỏ tuổi Cơ Cự thì thành niên. Tham Liêm là trung niên. Nhật Nguyệt thể hiện chung lúc già lúc trẻ.

Cơ Lương cũng là cách miếu vì Cơ thiện Lương lành. Cơ trai thành niên gặp cô gái nhỏ.

Nhật là ý chí. Nguyệt là tấm lòng. Trai cần khôn. Gái cần ngoan.

...

Tham Lang hình là thủy khí là mộc, tính dâm và tham lam. Khí mộc nên hợp với Hỏa Linh vì ngũ hành sinh khắc theo khí không theo hình. Nhưng tính dâm tham theo hình không theo khí. Mang tính đào hoa nên tại tứ bại địa Tham hãm địa. Hãm vì tính dâm tham không được kiềm chế. Hãm vì Tham ưa lén lút ẩm ướt tối thui ở tứ mộ hơn là những nơi đường đường chính chính như tứ chính (cũng là tứ bại). Tại tứ bại Tham làm hủ hóa Tử Vi.

Tại tứ mộ nhất là âm mộ sửu mùi. Tham miếu địa vì tìm được bạn tình và không gian phù hợp đó là Vũ Khúc. Sự đam mê hào hoa của Tham gặp được sự khéo léo tài năng của Vũ Khúc. Sự bừa phứa của Tham được khuôn chỉnh bởi sự cương nghị của Vũ Khúc. Tính mộc của Tham được âm kim của Vũ khắc chế. Trong khi tính mộc của Tham khắc chế tính thổ của Tử Vi nên sự hoang tàng của con dê Đát Kỷ này khống chế hoàn toàn Trụ Vương cường tráng.

Nhiều bạn hỏi khi nào là tứ chính, khi nào là tứ bại. Thực ra, chính và bại chỉ là hai cách gọi khác nhau của cùng 1 sự. Tuy nhiên phân tiếp theo âm dương thì Tý Ngọ là chính còn Mão Dậu là bại.

Tử Vi tại mão dậu bị Tham khống chế hoàn toàn. Đất mão dậu luôn là niềm đau của Tử Phủ Vũ Tướng.

Tại Tý Ngọ ít ra Tử Vi đóng cung dương và tại ngọ Tử Vi tại chính vị ngôi cửu ngũ chí tôn.

Cũng như tứ mã tứ sinh dần thân tị hợi. Tử Vi ở dần thân gặp Thiên Phủ được coi là tốt hơn tị hợi. Cho nên dần thân có thể coi là sinh địa. Còn Tử Vi cầm kiếm Thất Sát ở tị hợi. Thứ nhất là âm cung khó hợp tính dương của Tử. Thứ hai là khi đó đức vua phải chinh chiến. Cho nên tị hợi có thể coi là mã địa phù hợp hơn là sinh địa.

Đất tứ mộ cũng chia âm dương. Dương mộ là La Võng. Âm mộ là sửu mùi. Đối với Tử Vi tại la võng đi cùng Tử Tướng xung đối Phá Quân. Ít ra vẫn là cung dương và chính danh với Tử Vi. Còn tại âm mộ sửu mùi bị Phá Quân quấn chặt thành thần bất trung tử bất hiếu. Sự bất nhân của Phá thìn tuất vẫn đường đường là một người anh hùng chứ không ám tàng như Tử Phá. Đó cũng là tính chất khác nhau cơ bản của cung âm cung dương. Tại la võng Nhật Nguyệt cũng xung nhau quyết liệt chứ không quấn quít như sửu mùi. Cho nên nếu nói tính chất tứ mộ là kìm hãm sa lầy thì đó là âm mộ. Còn dương mộ có hẳn một tên khác là La Võng. Cái tên thiên la địa võng thể hiện phần nào tính chất khốc liệt của dương mộ. Dương mộ không phải chỗ hãm lại bằng âm mưu mà là chỗ khuất phục bẵng võ lực bằng bá đạo.

...

Trong lá số tử vi có 6 cung cùng là cung dương và 6 cung cùng là cung âm. Như cung mệnh tài quan phuc di thê là có cùng tính âm dương. Và 6 cung còn lại như phụ tử nô điền tật bào có cùng tính âm dương. Cùng tính âm dương thì có thể xung chiếu tam hợp với nhau, gây ảnh hưởng với nhau trực tiếp. Khác tính âm dương thì chỉ có thể gặp nhau qua giáp hợp hại. Nói cách khác giáp hợp hại là cách mà các cung khác tính âm dương gặp nhau. Các cung khác tính âm dương thì các sao phân bố ở đó cũng khác chủng loại tính lý. Nói cách khác các sao đó không bao giờ có thể cộng hưởng theo cách ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Sự cộng hưởng của cùng tính âm dương là cộng hưởng gây tăng cường độ số lượng. Sự cộng hưởng khác tính âm dương là cộng hưởng gián tiếp, gây tốt hay xấu theo thời gian lâu dài chứ không ngay tức khắc như cộng hưởng cùng tính lý.

Có 5 cặp sao vĩnh viễn nhị hợp nhau như Phủ và Nhật; Cơ và Phá; Vũ và Nguyệt; Đồng và Tham; Liêm và Lương.

Tính chất của các căp nhị hợp không cùng loại mà cũng không đối nghịch chan chát. Vì dù sao không thể cộng cũng không thể trừ do khác thứ nguyên hay hông cùng loại. Chúng tồn tại song song với nhau như hai mặt của vấn đề. Cơ hệ thống hợp với Phá bát nháo. Khi Cơ miếu thì Phá hãm còn khi Phá miếu thì Cơ hãm. Nhưng ngũ hành của Cơ là mộc được âm thủy của Phá sinh trợ. Cơ và Phá cùng là sao âm. Tức âm dương ngũ hành của các cặp sao này thuận nhau. Nhưng sự đắc hãm là đối nghịch. Điều này hợp lý vì hai mặt của một vấn đề khó mà cùng tỏa sáng.

Phủ Nhật hỏa thổ tương sinh cùng là sao dương. Phủ chủ gom chứa ẩn giấu che chở, Nhật chủ tỏa sáng phát huy quảng bá.

Đồng Tham cùng là sao dương thủy mộc tương sinh. Tham chủ vơ vét tư túi, Đồng chủ phúc chia sẻ xởi lởi.

Vũ Nguyệt cùng là sao âm kim thủy tương sinh, Vũ chủ luồn lách khéo léo, Nguyệt lại chủ thu liễm an định.

Liêm Lương đều là sao âm, hỏa thổ tương sinh. Lương hình mộc khí thổ chủ lành chủ bao dung. Liêm chủ nguyên tắc hình phạt.

Các bộ sao lục hại vĩnh viễn gồm có: Tử vi Cự Môn; Cơ Tướng; Sát Nhật. Các sao Tử Cự Tướng Sát không tham gia nhị hợp chỉ tham gia lục hại. Với Tử Vi đó là sự cô độc chí tôn không cần sự ám trợ của bất kì ai. Với Cự Môn đó là sự chống đối bẩm sinh, không thích ai giúp và không thích giúp ai. Với Tướng Sát cũng vậy. Sát thủ cô độc Thất Sát và sự chấp chưởng hành chính không lôi thôi của Thiên Tướng.

Cặp Sát Nhật cùng là sao dương và hỏa khắc kim. Tính chất xây dựng quảng bá của Nhật bị đối chọi bởi tính hủy diệt của Thất Sát.

Thiên Cơ và Thái Dương là hai sao vừa hợp vừa hại. Nhưng Cơ hợp cái xấu là Phá và hại cải tốt là Tướng. Còn Nhật hại cái xấu là Sát và Hợp cái thiện là Phủ. Những sao như Đồng Lương chỉ hợp không hại, điều đó nói lên tính cách không tranh giành của Đồng Lương. Tham Lang tuy là tham trong tham sân si nhưng cũng không tham gia lục hại thể hiện cái xấu thụ động của Tham, cái xấu không áp đặt không tranh đoạt.

Từ hại hợp hiểu được tính trừ ác của Thái Dương và xu hướng theo ác của Thiên Cơ. Thái Dương tuy là văn tinh nho nhã nhưng dám tranh đấu với cái ác. Hình ảnh cho Thái Dương là các trí sĩ cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Họ đều là người có học và không phải tay dao súng nhưng không phải vì thế mà sợ ác phụ tà.

Cũng hiểu sự chống đối bất mãn của Cự Môn khi công khai bác bỏ ngôi của Tử Vi. Mặc dù bị thổ của Tử Vi áp chế nên sự chống đối của Cự là vô lực nhưng dù sao đức vua chắc chắn phải đạp lên miệng thế gian mà thi hành vương đạo.

Cặp đối xung vĩnh viễn Phá Tướng vừa hợp vừa hại với Thiên Cơ. Nhưng thế lục hại của Cơ Tướng lạ kì ở chỗ Cơ mộc được Tướng thủy sinh. Đây là cặp lục hại tương sinh duy nhất. Có thể nó mang hai hàm nghĩa. Một là phe chính nghĩa Thiên Tướng không thể bị khắc chế. Hai là Thiên Cơ cũng không phải sao ác. Hoặc cũng có thể tính hệ thống của Cơ cạnh tranh tính bảo thủ cơ chế của Thiên Tướng.

Nôm na có thể hiểu. Nhị hợp là hỗ trợ, sự hỗ trợ nhưng không tham gia cùng như đồng bọn (tam hợp). Hỗ trợ như cha mẹ hỗ trợ con ăn học nhưng cha mẹ không thi hộ được. Lục hại là sự cạnh tranh. Cạnh tranh nhưng không đối đầu hay hủy diệt nhau. Cạnh tranh như các bạn học cùng đi thi, như môn thể thao đua ngựa. Hợp và hại không cùng thứ nguyên nên không thể cộng dồn tăng lượng như tam hợp. Nhưng ảnh hưởng của nó không thể không xét đến trong tử vi. Có điều nếu cứ gom sao tả pí lù cùng với tam hợp xung chiếu tất sẽ sai và thêm rối.

...

Thế đối xung vĩnh viễn của chính tinh đòi hỏi hai chính tinh đó cùng 1 vòng Tử Vi hoặc Thiên Phủ. Phủ đối Sát và Tướng đối Phá, cho thấy sự đặc biệt nghiêm trọng của Sát Phá nên cần sự coi chừng trông nom của Phủ Tướng.

Thế nhị hợp và lục hại vĩnh viễn cần sự đóng góp của 2 chính tinh thuộc 2 tinh hệ khác nhau, 1 sao từ Tử Vi và 1 sao từ Thiên Phủ.

Tinh hệ chòm Tử Vi có một đặc điểm là không có sao nào vĩnh viễn xung chiếu sao nào, tất cả các sao đều xung với cung vô chính diệu. Và đặc biệt hơn, toàn bộ tam hợp xung ngôi Tử Vi đều không có chính tinh. Ví dụ ngôi Tử Vi ở tý thuộc tam hợp thân tý thìn thì tam hợp xung đối với nó ở dần ngọ tuất không có chính tinh nào thuộc chòm Tử Vi. Nói cách khác chòm Tử Vi không có nội xung và ngôi Tử Vi không chịu sự tương xung của tam hợp đối.

Thế nhưng Tử Vi có vây cánh vĩnh viễn là Vũ và Liêm. Thiên Cơ có vây cánh Thiên Đồng. Vây cánh từ tam hợp vĩnh viễn thể hiện đồng bọn đồng đảng hay chính bản thể sao đó ở vị trí khác. Như Nguyệt với Lương như Phủ với Tướng, cùng một gốc sinh ra, theo thời sinh vượng mộ khác nhau mà diễn hóa khác nhau. Các sao có tam hợp vĩnh viễn cơ bản là sao đa hình, có nhiều bộ mặt chứ không thuần nhất. Vũ hay Liêm cũng là bộ mặt hay trạng thái lúc nào đó của Tử Vi. Phủ hay Tướng cũng là hai bộ mặt của cùng một sự vật. Nguyệt hiền thì Lương lành.

Nhưng ngôi vị Thái Dương không tam hợp với bất cứ chính tinh nào trong chòm tử vi. Thái Dương cũng không xung đối với chính tinh nào. Nói cách khác Thái Dương duy nhất và đơn độc như mặt trời vĩ đại rọi ánh sáng về 3 cung tam hợp và chính chiếu với nó. Nó cũng không có bộ mặt hay biến thể nào khác. Phe xung đối Thái Dương có Đồng Cơ trong tam hợp khác với ngôi Tử Vi bất khả chống đối.

Từ bố trí chòm Tử Vi có thể thấy hình bóng quân thần khánh hội bất khả chống đối của Tử Vi và sự cô độc chí tôn của vầng Thái Dương ban phát ánh sáng vô lượng tới các cung.

Trong chòm Thiên Phủ, một mạch 7 sao liên hoàn. Tam hợp Sát Phá Tham vĩnh viễn xung tam hợp Phủ Tướng, Tham Lang ở vị trí dễ thở nhất không bị áp chế. Cự Môn là hình ảnh của Thái Dương bên chòm tử vi khi không tam hợp cũng như không xung chiếu với bất cứ cung nào. Trong tam hợp xung đối với Cự Môn là Nguyệt Lương một phe hiền lương vốn có. Dựa trên nguyên tắc bày sao của chòm Thiên Phủ thì Cự Môn phải mang tính tà ám xấu xa đối với tính hiền lành của Nguyệt Lương. Nếu Nguyệt Lương không tranh giành thì Cự Môn như cái hố đen hút sạch tất cả những gì tam hợp hay đối xung với nó. Nên tượng Cự Môn là cánh cửa lớn là cái mồm là hố đen chuyên hút vào. Đối lập với sự tỏa sáng của Thái Dương luôn ban phát tỏa ra. Cho nên khi Cự gặp Nhật sáng, Cự Môn no nê ánh sáng nên vượng địa. Qua đó thấy thêm sự ích kỷ của Cự Môn. Trước giờ người đời chỉ hiểu Cự là chống đối chứ không hiểu sức hút khủng khiếp của nó. Chính vì tính câu hút khủng khiếp mà nó rất hợp với các sao Không Vong như tuần triệt, mà dấu vết của tính chất này là cách cục Thạch Trung ẩn ngọc. Cự hút sáng vì nó là vùng ám tối. Cho nên chắc chắn không thể hợp với Hóa Kỵ chủ đêm đen và cũng là sao thu liễm. Cự Kỵ bị xếp vào phá cách là vì vậy. Cự Môn ghét sự ám tối của tứ mộ vì Cự đã ám vốn khát khao ánh sáng vào tứ mộ không thể khá lên nên Cự hãm tứ mộ. Ở tứ sinh, Cự nhận được ánh sáng từ Thái Dương nhưng sự miếu hãm của Cự tại tứ sinh phải nhìn mặt Thái Dương, nếu Thái Dương miếu thì Cự vượng nếu Thái Dương hãm thì Cự đói ánh sáng cũng hãm địa. Nhưng khi Thái Dương ở ngọ thì Cự hãm ở tuất, mặc dù cùng tam hợp. Điều đó cho thấy sự khác nhau của tam hợp và xung chiếu. Xung chiếu và đồng cung thì Nhật vượng có thể bù cho Cự thành vượng. Nhưng trong tam hợp thì không. Xung chiếu chính là rọi đèn vào trực diện, tác dụng ngay lập tức, còn tam hợp là hợp chứ không phải xung chiếu. Một Cự hãm dù tam hợp Thái Dương nói lên điều đó và nói lên rằng trong đội của bạn có những người giỏi và người kém, người giỏi đó không chuyển hóa người kém tốt lên, nhưng kẻ thù sẽ làm anh ta giỏi lên.

Và khi Cự gặp Cơ thì Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi. Cự miếu khi đồng cung với Cơ mặc dù Cơ không có ánh sáng như Nhật, phải chăng Cơ có 1 cái gì đó khác mà Cự cần được bổ khuyết. Cự có một nhu cầu nào đó được Cơ đáp ứng.

Tứ mộ bít bùng thì Tuần Triệt là sự trải rộng.

Tứ mộ là tối ám thì Tuần Triệt là sự quang đãng.

Tứ mộ trợ tối thì tuần triệt trợ sáng.

Cự Môn cần khoảng không và ánh sáng, một khao khát chính đáng và hướng thiện, như người tù trong địa ngục hướng về thiên đường rực rỡ cao xa.

Cự muốn đối cung của nó là khoảng trống, cho nên nó thích đối cung vô chính diệu như Cự Cơ mão dậu. Cự Nhật dần thân. Nếu đối cung là chính tinh thì mong sao đó là ánh sáng của Thái Dương ở tị hợi. Ở sửu mùi tuy Cự đồng cung với Đồng, đối cung là vô chính diệu nhưng hiềm là đất tứ mộ không phù hợp nên Cự hãm địa.

Cách đồng cung của Cự có Cự Đồng Cự Nhật Cự Cơ. Trong trường hợp Cự Cơ đối cung ở tý ngọ, cần sự hỗ trợ của Tuần Triệt để tạo khoảng trống, Cơ ví như tảng đá lấp mặt Cự Môn nên cách cục gọi là Thạch Trung Ẩn Ngọc. Nói về tính không của địa bàn thì tứ sinh hay tứ mã gần với tính không nhất. Trong khi tứ mộ tĩnh tứ chính chuẩn mực thì tứ mã thay đổi và chuyển động. Vì có bóng dáng tính không nên Không Kiếp thích tứ mã, tại tứ mã dần thân tị hợi Cự Môn cũng khá thoải mái với Thái Dương. Người cha kèm cô con gái. Đến cung mão dậu thì gả cho chàng trai trẻ Thiên Cơ. Người mẹ kèm chàng trai trẻ Thiên Cơ đến mão dậu thì trao cho cô gái trẻ Cự Môn. Từ cung tý Cự nhìn thấy tình yêu của đời mình ở Thiên Cơ ở ngọ, chàng tỏa sáng nhẹ nhàng làm Cự muốn nghịch chuyển không thời gian đến với chàng qua cây cầu Tuần Triệt. Đến sửu Cự Môn kết hôn với chàng trai Thiên Đồng ham chơi. Hai vợ chồng choảng nhau suốt ngày rồi ra tòa. Sang cung dần Cự về với người cha già Thái Dương tu dưỡng vá víu lại bầm giập của đời gái sau khi bị Thiên Đồng vầy vò. Trong khi đó Thiên Cơ cũng ngược đường ngược nắng về tìm Cự, và anh chị tìm thấy tình yêu của đời mình ở mão dậu. Hai vợ chồng buôn bán xuất nhập khẩu điên đảo chẳng mấy chốc thành cự phú. Rồi Cự gặp chồng cũ ở tứ mộ. Thiên Đồng giờ đã tướp như xơ mướp. Khi Cự đến tị thì người cha Thái Dương đã già ở hợi. Cự lại đến ngọ hướng về người chồng Thiên Cơ và mong sao nhịp cầu Tuần Triệt giúp họ đến với nhau.

...

Trong tử vi, các chính tinh cùng tam hợp vĩnh viễn như Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham thì tương sinh, đối xung như Phủ Sát và Tướng Phá thì tương hòa, lục hại như Nhật Sát hay Tử Cự mới tương khắc. Cho thấy sự đối xung dù trái ngược tính chất sao nhưng vẫn là sự tương hỗ lẫn nhau tạo sự cân bằng nhất định. Trong khi thế tương khắc của ngũ hành phản ánh sự khác biệt cả về tính chất và bất phối hợp. Các cặp sao miếu vượng đồng cung đa số là tương sinh tương hòa. Chỉ trừ có cặp Cự Nhật và Tham Vũ là có tương khắc. Các cặp sao cực hãm đa số nằm ở tị hợi mão dậu có trường hợp tương sinh như Vũ Phá, nhưng Vũ Phá đều là sao âm. Sự phối hợp hai sao âm như Liêm Phá hay Vũ Phá đều là sự cực đoan. Không tốt so với các trường hợp 1 sao dương 1 sao âm đồng cung.

Miếu hãm là sự tổng hòa của âm dương+ngũ hành+tính lý. Nhưng trên cái nhìn tổng quát ngũ hành tương sinh và tỉ hòa đa số tốt hơn tương khắc dù ngũ hành là bài toán gần đúng. Sự phối hợp cộng hưởng các sao đòi hỏi cần có sự phối hợp ngũ hành âm dương làm nền tảng.

Miếu hãm của sao là sự tổng hợp thực dụng nhất từ âm dương ngũ hành và tính lý. Nói về địa bàn thì đất có thổ công sông có hà bá. Tị hợi và mão dậu là địa bàn xảy ra chính tinh cực hãm nhiều nhất. Mão dậu là đất ưa thích của bại địa song Hao và Tang Hổ Hình Riêu. Tị hợi là đất ưa thích của Không Kiếp. Đã là cung âm và là đất ưa thích của sát bại tinh thì chính tinh cát tinh đến đó phải chịu tù túng hãm địa. Duy có Cơ Cự miếu mão dậu. Duy có Tử Sát tạm ổn tị hợi. Tuy là tạm ổn nhưng thế Tử Sát là một thế yếu của Tử Vi.

Ba sao có tính chất tiên thiên mặc định xấu của tử vi là Sát Phá Tham. Nó là hình bóng Mộc Suy Tuyệt. Trong đó Sát là Tuyệt, Tham là Mộc Dục và Phá là Suy. Sát Tuyệt nên hoành hành cung tứ tuyệt, miếu ở dần thân và đắc ở tị hợi. Tuy nhiên là sao dương nên thoải mái nhất ở dần thân. Tham lộng hành ở tứ bại áp chế và hủ hóa Tử Vi. Phá bất nhân nghịch tử ở tứ mộ và ngụy quân tử hóa Tử Vi. Ở cung âm trong trục sở trường, 3 sao trên đều đồng cung Tử Vi.

Đã là 3 sao xấu. Cho nên khi hãm địa là xấu nhất. Và sự xấu nhất nằm trên tị hợi mão dậu. Trục tị hợi có thể gọi thay bằng trục sát. Trục mão dậu có thể gọi thay bằng trục bại.

Cực hãm có thể phản hóa thành kì cách, nhưng cũng có thể Hóa Kị để tồi tệ thêm. Như Vũ Phá tuổi nhâm, Liêm Tham tuổi quý là cách cục Kình Đà hiệp Kị điển hình. Tử Tham tuổi Quý là cách cục Tử Tham song Hao Kị. Thế Hóa Kị của Tham luôn có Hóa Lộc từ Phá Quân tam hợp. Cũng như tuổi Nhâm thế Hóa Kị của Vũ luôn có Quyền của Tử Vi tam hợp.

Nói cách khác trong Quyền của Tử Vi có tàng Kị. Trong Lộc của Phá Quân cũng có tàng Kị. Tuổi Giáp thì Liêm Hóa Lộc luôn có Vũ hóa Khoa củng cố. Tuổi Bính có Lộc Quyền song hành. Tuổi Đinh có Khoa Quyền song hành.

Như vậy là có đủ các cặp:

Lộc Quyền

Khoa Quyền

Lộc Khoa

Lộc Kị

Quyền Kị

...

Mệnh tuần thân triệt Cơ Nguyệt Đồng Lương

Mệnh triệt thân tuần cần vô chính diệu

Mệnh trước, thân sau. Triệt tác dụng mạnh 30 năm đầu. Tuần dai dẳng cả đời. Vì sao có con số 30 vì thời gian chỉ có số 60. Chia đôi hai nửa thì 30 thuộc nửa đầu. Con số 30 của triệt nói rằng triệt khỏe mạnh 30 năm đầu.

Cho nên mệnh triệt thân tuần là chính cách không vong. Như trứng gặp trứng, đá gặp đá. Sách Thái Thứ Lang cho rằng mệnh triệt thân tuần thì cần vô chính diệu là vì vậy. Vì không vong khi đó là chính cách.

Nói về thời gian thì sát tinh bộc phát sau đó tàn phai. Cát tinh thì bền vững ổn định. Trong tử vi cát tinh nhiều hành thổ và Tả Hữu Xương Khúc đều đắc ở tứ mộ. Biểu tượng thủ lãnh của tử vi là ngôi Tử Vi cũng được gán hành thổ. Vị phó vương thiên phủ cũng được gán hành thổ. Trong môn tử vi, thổ đại diện cho trung dung đại diện cho chuẩn mực. Như Tử Vi là điểm chuẩn của 14 chính tinh. Lộc Tồn là điểm chuẩn của chính vị thiên can. Thể hiện sự ổn định bền vững. Tử Vi tốt nhất gặp Lộc Tồn chứ không phải Khoa Quyền Lộc. Phủ Tướng thậm chí không cần Khoa Quyền Lộc.

Ngoài đời thực cũng vậy. Cái gì gian ác hay xảo trá ban đầu hoành hành rất mạnh, nhưng về lâu về dài, ảnh hưởng càng kém dần. Nói cách khác cái gì không có sự bền vững là sát tinh. Cái gì mưu mẹo chỉ có tác dụng nhất thời. Về lâu về dài, những cái hào nhoáng đó bong đi mất chỉ còn cốt lõi bản chất thủ diễn. Mới đầu đi tán gái hỏi vợ, tay xảo trá bóng mượt chiều lòng. Khi đã đạt mục đích hay không đạt mục đích. Chúng lật lọng giở dói. Vì sự tốt đó không phải bản chất của chúng mà vì mục đích chúng phải giả tốt. Vì sao thiên hạ bị lừa. Vì mới đầu bọn đi lừa có một túi đường. Chúng ném cái chóc vào tai con mồi. Đường rơi xuống tim nở hoa. Cô gái tin tưởng giao tiền bạc và thân thể cho chúng sử dụng lạm dụng rồi chán rồi thì chúng chà đạp.

Cho nên Hoàng Thạch Công phải thử Trương Lương 3 lần mới giao sách. Thử 3 lần xem độ nhẫn có dài không. Thử 3 lần xem tâm có suy chuyển không. Thử 3 lần xem lớp sơn tử tế có bong ra hay không. Gia Cát cũng phải thử 3 lần xem Lưu Bị có nhẫn không. Hay khi ông cần thì ông cần vậy. Lúc bất cần thì khỏi vòng cong đuôi. Sự nhẫn chính là độ bền mà nó không có ở sát tinh nhất là sát tinh hãm địa. Trong tư duy của người kém thành công, có điểm chung là thiển cận. Thiển là nông còn cận là gần. Không nghĩ sâu và không nhìn xa. Nếu chúng ta cứ nhìn sâu và xa mãi thì chúng ta đều là người lương thiện. Vì lương thiện là sự cư xử cân bằng. Vì nhìn xa mãi thì gieo nhân nào gặp quả đó. Không thể khinh suất coi thường.

Điểm chung của Lê Văn Luyện, Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Hải Dương là sự manh động không tính hậu quả. Đó cũng là đặc tính của sát tinh. Là sự vô trách nhiệm với việc mình làm. Thường thì người ta vì cái lợi trước mắt mà sẵn sàng thiêu đốt tương lai. Vì cơn đói mà ăn mất bát thóc giống. Sự cân bằng giữa lâu dài và tức thời chính là hạnh phúc.

Cát tinh, người tốt có điểm chung là sự bền vững lâu dài. Đòi hỏi chữ nhẫn. Đòi hỏi thử thách. Theo thời gian cái gì bên trong cùng sẽ biểu hiện và lộ ra sau cùng. Cho nên cần thời gian. Cần thời gian để trồng cây, để xây dựng một thương hiệu, hay phát triển nghề. Chúa cũng cần thời gian để truyền giáo. Ngày đầu bị truy quét cực kì gian khổ. Nhưng cái tốt cái đẹp luôn may mắn rơi vào kẽ đá và mọc lên. Vì cái tốt kiên trì hơn cái ác. Triệt rất mạnh mẽ 30 năm đầu. Nó thuộc kim cho đúng tượng con dao hay dây thép. Đã siết là thành hình và có tì vết. Nó áp mệnh thì tác dụng rất mạnh mẽ triệt để, cho nên mệnh cần vô chính diệu mới hợp cách. Còn tuần áp mệnh thì mức độ không mạnh như triệt. Các sao mềm như Cơ Nguyệt Đồng Lương có thể chịu được. Trong đó Đồng Cơ là một bộ tam hợp. Nguyệt Lương là một bộ tam hợp. 4 sao mềm nhất tử vi lý số.

Có người hỏi khi nào có thể phản vi kì cách. Chỉ có thể phản vi khi có yếu tố dương. Không có dương thì không thể phản vi. Như Không với Kiếp, phản vi chỉ có thể là Không. Hai tên bất lương Không Kiếp thì Không có đầu óc và thích lọc lừa. Kiếp khỏe chân tay và thiên về cướp bóc. Nói với Không, khuyên nhủ Không và chuyển hóa Không dễ hơn Kiếp. Không thuộc dương có sự bao quát dù cực đoan. Kiếp thuộc âm có sự cụ thể và chi tiết. Sát tinh âm như cái xấu đã thành hình khó mà chuyển hóa. Sát tinh dương như cái xấu mới sinh còn có thể uốn nắn. Cho nên muốn phản cách phải có yếu tốt dương. Phải có cái mầm của sự vươn lên ở trong bùn thì mới thành. Dương mộc là cây còn sống. Âm mộc là gỗ đã chết. Cây sống có thể uốn, cây chết chỉ có thể đục và ghép mà thôi.

....

Con người có hai cực đại là sinh và tử. Sinh được mặc định là cát, tử được quy ước là hung. Cát hung là việc của bản thân mình còn việc sinh tử liên quan đến người thân thì gọi là việc hiếu hỷ. Trong đó việc hỷ là việc có thêm người. Việc hiếu là việc có người thân qua đời. Trong chòm thái tuế 12 cung, việc hiếu được đánh giá bởi tam hợp Tang Tuế Điếu, trong đó ý nghĩa của Tang Môn và Điếu Khách khá rõ ràng chủ việc tang và người tới viếng. Việc hỉ được đánh dấu bởi chòm Đào Hồng Hỉ với Thiên Hỷ vĩnh viễn xung Hồng Loan. Tang và Hỷ là hai tam hợp liền kề nên không bao giờ xung chiếu nhau tạo cảnh dở khóc dở cười tróe ngoe.

Thiên Hỉ cũng được bố trí để không gặp được Thiên Mã. Nhưng chỉ khi đóng ở tứ chính là Hồng Hỷ không gặp Cô Quả. Còn lại Hồng Hỉ luôn gặp cô quả. Tức là có vui nhưng cô đơn.

Xét kĩ hơn thì Tuế Hổ Phù chủ cãi vã tranh chấp. Tang Tuế Điếu chủ tan buồn. Đào Hồng Hỉ chủ vui vẻ. Và Âm Long Trực chủ không cạnh tranh mà an phận.

Tức là có 4 thái cực: cạnh tranh, an phận, vui, buồn. Vui buồn có lẽ là hai thái cực rõ ràng. Còn cạnh tranh hay an phận đều gây nên những ấm ức. Tuế Hổ Phù ngoài nghĩa cạnh tranh có thể gọi là THẮNG. Còn Âm Long Trực ngoài nghĩa an phận có thể gọi là THUA. Vậy là có Vui, Buồn, Thắng, Thua.

Thắng thua xong lại vui buồn

Buồn vui rồi lại mưu cầu thắng thua

....

Cái gì hợp với Không sẽ ghét Mộ. Cái gì hợp với Mộ sẽ ghét Không. Vì Không là giải tỏa phóng khoáng thì Mộ là kìm nén tích tụ. Không là rộng thì Mộ là đọng. Không là cho thì Mộ là giữ. Nhật Nguyệt cần khoảng không để soi rọi. Nhật Nguyệt ghét tứ mộ o bế. Đồng Cự thích Không để đồng thoáng cửa mở, nên Đồng Cự ghét tứ mộ vì Đồng tắc còn cửa đóng. Hóa Kị thích tứ mộ an tĩnh như con mèo lười. Hóa Kị ghét Không thành mông lung. Nếu không gặp Không thì ít ra gặp tứ mã tung hoành. Quý nhân không cư tứ mộ nên Quý Nhân chẳng ngại Không Vong. Các cát tinh thích an định ở tứ mộ nên các cát tinh chẳng cần quý nhân. Quý nhân là dành cho hiểm cảnh. Tứ mộ như phe của bên bảo thủ bên có sẵn bên đang nắm quyền, chứ tứ mộ không hợp cho phe cách mạng. Cách mạng thích tứ mã xung động. Không Kiếp là sao âm nên thích tị hợi hơn dần thân. Đồng Lương phe chính nghĩa thích dần thân cung dương hơn tị hợi. Khi mộ gặp không vong thì không vong phá mộ. Dương mộ cứng như đá ong nên gia La Võng khẳng định. Âm mộ nhão như bùn lầy. Nên Triệt Kình phá La Võng vì Triệt chủ cắt phá chia tách. Âm mộ nhão nhoét nên cần Tuần để thu hút đóng khung. Cho nên Nhật Nguyệt ở sửu mùi cần triệt chia tách tại bản cung. Nhưng cung vcd ở mùi thì cần tuần để thu hút ánh sáng Nhật Nguyệt.

....

Sự cộng hưởng của các vòng sao trong tử vi cũng tương tự sự cộng hưởng các yếu tố trong đời. Ví dụ sự cộng hưởng của thời gian của sức khỏe của sự nghiệp của gia đình. Nếu thuở sức khỏe tốt mà tiền bạc sự nghiệp cũng tốt, gia đình cũng đầm ấm là lí tưởng. Còn nếu không có sự cộng hưởng. Ví dụ lúc khỏe thì nghèo, già rồi không mấy thời gian lại giàu thì không có mấy thời gian hưởng. Lúc khỏe thì nghèo lúc giàu thì yếu tiền cũng chỉ để chữa bệnh. Lúc nghèo thì cả nhà sum vầy. Giàu rồi gia đình li tán. Cho nên sự cộng hưởng của các vòng sao là quan trọng. Lúc lên được tất cả cộng hưởng nên năng lượng rất mạnh. Lúc xuống thì sự cộng hưởng năng lượng xấu cũng tạo ra sự chấm dứt gọn gàng. Cách cục Trúc La là sự cộng hưởng sát tuyệt của các vòng sao Trường Sinh (Mộc Suy Tuyệt); chính tinh ( Sát Phá Tham); Thái Tuế (Đào Hồng Không Sát). Khi đầy đủ các yếu tố thiên địa nhân, sự sát sẽ xảy ra. Đó là cốt yếu của cách cục. Cách cục cần có sự phối hợp của các vòng sao thuộc tam tài chứ không chỉ 1 tài thiên hay địa hay nhân.

Bạn xét thử Linh Xương Đà Vũ?

....

Trời tròn đất vuông. Tự nhiên tròn. Khoa học vuông. Nếu thứ nguyên của vuông là 1 thì thứ nguyên của tròn là pi. Nếu thứ nguyên của tròn là 1 thì thứ nguyên của vuông là pi. Thứ nguyên của vuông và tròn không thể nào cùng là số nguyên. Pi là số vô tỷ. Cho nên khoa học mãi mãi chỉ tiệm cận tự nhiên. Không tài nào trùng khít. Nguyên tắc lề lối xã hội loài người cũng vuông. Luật pháp loài người cũng vuông. Đời thực thì lại tròn. Con người từ xưa đã phát hiện ra sai khác này nên đã bỏ vuông mà theo tròn. Đó là những người đi tu. Đó là sự phát biểu Đạo khả đạo phi thường đạo. Đạo là hình tròn không thể mô tả bằng hình vuông dù số hình vuông là rất lớn. Người theo tròn thì thờ chân lý. Người theo vuông thì thờ chiến thắng. Người chiến thắng được gọi là thành công. Còn người theo tròn thì không có thành công. Vì không có thành công nên không có thất bại. Nhưng Phật phải ở trong chùa. Phật phải ở trong đời.

Có đạo thì cũng có đời

Đời không muốn thấy đạo truyền ở đâu

Vì tròn nên đời không hiểu đạo. Khi kể về đạo phải dùng vuông để kể thì đời mới hiểu. Vuông là ngón tay chỉ. Tròn là mặt trăng. Vì tròn nên không thể nắm bắt không thể đặt để. Nên tròn phải được bọc bên ngoài là vuông. Để có thể đặt để trên bàn trên kệ thờ cho người đời ngắm nhìn tròn.

Nhìn vuông là để ra tròn

Thấy tròn là lúc chẳng còn thấy vuông

...

Cự là trả lời. Cơ là hỏi. Không hỏi mà trả lời là vô duyên cho nên Cự gặp được Cơ là miếu địa.

Cự là logic. Cơ là con số. Cự gặp Cơ là vừa có số vừa có lý. Cự không thì thiên về logic. Cơ không thì thích cụ thể. Cho nên Cự Cơ thành kì cách. Nhiều nhà toán học có Cự Môn ở mệnh. Cũng nhiều thầy giáo dạy toán có cách cục Cơ Không Kiếp.

Cự là nói. Cơ là suy nghĩ. Cự Cơ là nói có nghĩ.

...

Càn là càn rỡ. Khôn là khôn ngoan. Li là li tán. Khảm là hợp vào. Tốn là tốn kém. Cấn là lấn cấn. Chấn là chấn động. Đoài là đòi hỏi.

Tưởng đùa mà thật.

...

Mệnh là cái đầu. Thân là đôi tay. Phúc là tâm.

Không Kiếp là dối trá. Hỏa Linh là điên loạn. Kình Đà là cố chấp.

...

Tâm thiện đến đâu, phúc sâu đến đó.

Tâm nhẫn đến đâu, phúc lâu đến đó.

...

Tuần là bùng binh. Triệt là đèn xanh đèn đỏ. Một cách hóa giải xoay tròn. Một cách hóa giải ngăn chặn.

...

Bùng binh là một sự ngăn trở đối với đường thẳng và sự nhanh. Nhưng bùng binh là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đèn giao thông là sự ngăn trở của đường thẳng và sự nhanh. Nhưng cũng là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đối với các xe không muốn chuyển hướng thì Tuần và Triệt là sự cản trở. Tuần thì chuyển chậm và liên tục. Triệt thì đóng mở đóng mở. Sự xung đột của Sát Phá Tham ở mức độ nào đó cần có sự hạn chế điều chỉnh của TT. Đây chính là các tổ lái đường phố. Tử Phủ là xe nguyên thủ trong nước. Nhật Nguyệt là xe nguyên thủ quốc tế. Tử Phủ Nhật Nguyệt ít thích Tuần Triệt.

...

Tiểu vận tốt trong đại vận xấu như ngày nắng trong mùa mưa.

...

Lá số bà Nancy Reagan cách cục Phủ Tướng triều tam không hội đủ Tả Hữu Long Phượng Lộc Ấn nên quý cách. Mệnh VCD ngoài Nhật Nguyệt có thể nhận sự đầm ấm của Phủ Tướng. Vì Phủ Tướng không hóa nên ưa thích Lộc Tồn. Vì VCD không vong nên ưa thích Mộc Suy Tuyệt.

Cơ bản những tranh cãi tồn tại vì người đời không chịu tìm cách cục khi xem một lá số tử vi. Quý? cách cục gì? Phú? cách cục gì?

...

Cách cục VCD đắc tam không hội song Lộc là kì cách. Nếu không có song Lộc mà chỉ có tam không thì nhiều ý tưởng, thông minh nhưng không có thành quả.

...

Lá số VCD của Trần Lập tại dậu được tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng khá tốt đẹp. Tổ hợp Nhật Nguyệt tịnh minh thiếu song Lộc và bị sát tinh xâm phạm. Đại vận Nhật Nguyệt phát mạnh nhưng mệnh VCD đến đại vận Sát Phá Tham là vận Trúc La nên gặp ác hạn. Mệnh thân nhiều sát tinh có Tuần Triệt án ngữ như bom Văn Phú nổ chậm. Hình thái cách cục giống lá số Lý Tiểu Long và John Lennon, sát tinh ngộ chế. Đến khi không thể chế thì tác họa.

Kì lạ cả thái tuế Lưu niên ĐV và tiểu vận đều hội cung tật. Phải chăng gợi mở một cách xem vận?

Tiểu vận có Riêu Y Bệnh Phù. Năm Bính Liêm hóa Kị xung tật. Kị thủ có thể thoát nhưng Kị xung thì khó né. Đại vận Bính Tý Liêm lần nữa hóa Kị xung tật. Xem ra không phải ngẫu nhiên mà Hóa Kị cố tình tác họa. Một bản mệnh vốn bị Kị xung ẩn tàng sự bất trắc sẽ đến trong cuộc đời. Đến vận liên hoàn Kị xung nữa thì không đỡ nổi.

...

"Lộc tùy Kị tẩu" cho biết rõ thế nào là Kị xung, thế nào là Lộc xung, thế nào là phát xạ, thế nào là thu liễm.

Nếu Lộc là ánh sáng thì Kị là con mắt.

...

Hóa Lộc thủ, Hóa Quyền chiếu và ngược lại Quyền thủ Lộc chiếu trường hợp nào tốt hơn? Trả lời câu hỏi cơ bản này là cả một nghệ thuật cầu kì.

...

Vốn có một Hóa Kị, lại thêm một Kị đến xung. Tốt hay xấu? Chọn đúng thiên đường, chọn sai ra đường. Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung vốn có Hóa Kị, vận có Hóa Lộc đến xung hàm ý tốt hay xấu? Chọn đúng là thiên đường, chọn sai là ra đường. Lại một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung phu, cung nô, hay cung tử tức liên quan trực tiếp việc có người yêu nếu người đó chưa kết hôn?

...

Nhân có bạn nói về nhất lục cộng tông. Lưu ý nhất lục cộng tông là cặp đối ngẫu nhưng chỉ có một chiều thuận sinh là chiều nghịch của địa bàn. Nghĩa là xem phúc để rõ hơn về nguồn tử tức. Xem tật để rõ hơn nguồn phúc. Xem mệnh để rõ hơn nguồn họa. Xem tài để rõ hơn nguồn điền.

Nhưng cũng có nghĩa là xem tử để rõ hơn về hậu của phúc. Xem nô để rõ hơn về hậu của phối, cho nên có ý kiến cho rằng nô là vợ hai hoặc chồng hai. Cái đó đúng. Xem phúc để rõ hơn về hậu của họa. Xem điền để rõ hơn tiền có tích lũy được không. Bắc phái xem điền để biết có của tích lũy không. Xem họa để rõ hơn hậu của mệnh.

MỆNH ---> HỌA --->PHÚC

PHỤ--->TÀI--->ĐIỀN

PHỐI--->NÔ--->MỆNH

Bạn có liên hệ gì duyên khởi duyên diệt của VẬN?

Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

Cung số 6 là đối xứng của cung bên cạnh cung 1. Nói chung loanh quanh là chủ sự tiếp diễn. Cho nên nhất lục cộng tông nghĩa là cùng 1 tổ mà ra.

...

Nếu xếp các việc con người làm theo một thang bậc thiện- ác đúng- sai. Thì ranh giới thiện-ác đúng-sai sẽ được tâm lý con người quy ước là ở giữa. Dù cái thang đó có dài ra hay ngắn lại theo thời gian thì lằn ranh tâm lý luôn rơi vào giữa.

Luật pháp là sự quy ước cái ĐÚNG. Thế nào là ĐÚNG thì xem luật. Không đúng luật là sai. Nếu không có luật pháp thì không có căn cứ để xử đúng sai. Luật pháp thay đổi theo thời gian căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm xử thế của loài người. Và luật pháp luôn có xu hướng tiệm cận chân lý nhưng không phải chân lý.

Người có đạo đức đơn giản là người tuân thủ luật pháp. Sống thời nào theo luật pháp thời đó. CÔNG LÝ là cái lý của công chúng. Công chúng là đa số xã hội. Họ quyết định thế nào là Đúng.

Luật pháp là giao ước giữa người và người với nhau. Để khi xảy ra chuyện thì căn cứ vào đó để xét và xử.

Người bị luật pháp giết là người bị người giết. Người chết già là người bị trời giết vì những quy luật hạn chế của sinh giới.

Thái Tuế là luật pháp, Bạch Hổ là công an, Quan Phù là viện kiểm sát.

...

Cơ bản thì số phận có hai phần. Phần do mình chủ động và phần do mình thụ động. Nỗ lực bản thân chỉ có thể thay đổi phần chủ động. Còn phần bị động thì vô phương. Mở rộng phần chủ động càng rộng càng tốt cũng là một cách thay đổi số phận. So sánh khập khiễng là nắm đằng chuôi. Gốc rễ là Tâm. Thân cành là Ý. Lá quả là hành động. Vì vạn vật đồng nhất thể nên cơ cấu bộ máy quốc gia cũng vậy. Tâm chính là ý thức hệ, cộng sản hay tư bản. Ý chính là ý thức hệ được diễn giải thành văn bản như Hiến Pháp Luật Pháp. Hành chính là sự thực hành những quy ước đó. Số phận phần chủ động được quyết định trực tiếp bởi hành động. Mối quan hệ này tuân theo quy luật tự nhiên. Hành động thế này sẽ tương ứng có hậu quả thế này. Hành động thế kia có hậu quả thế kia. Hành động thường theo thói quen. Hành động cũng chính là lựa chọn. Chọn làm cái này không làm cái kia. Chọn người này không chọn người kia. Hành động là chuỗi các lựa chọn. Lựa chọn thì bị quyết định bởi Ý. Ý chính là muốn hay không muốn. Ý bị quyết định bởi tâm. Tâm ác thì có ý giết người. Tâm thiện thì không nảy Ý giết người. Dù cả hai loại tâm có rơi vào hoàn cảnh như nhau thì lựa chọn cũng khác nhau. Trả đũa hay không trả đũa. Lấy hay bỏ. Thông minh là cấp độ của Ý. Sáng ý là thông minh. Tối ý là ngu. Thông minh là có tài. Có người tài mắt có người tài tay. Nôm na đều sáng ý. Tài là có làm được không? Đức là có nên làm hay không? Thông minh không có nghĩa là tâm tốt. Vì ý nằm dưới cấp độ của tâm. Ý như con sao. Sắc hoặc cùn. Tâm quyết định con dao đó nấu ăn hay chém người. Cho nên muốn đổi số phận thì tu Tâm. Tâm dẫn Ý tốt theo. Ý lại chỉ thân làm gì. Kết quả của hành động chính là phần chủ động của số phận. Biểu hiện của số phận thay đổi là thói quen thay đổi. Biểu hiện của số phận thay đổi là quan điểm thay đổi. Cụ thể là cách làm thay đổi. Ba cái đó chưa thấy thay đổi thì ta chỉ già đi và chờ may rủi của phần còn lại của số phận rơi xuống thôi.

...

Thanh kiếm cắm xuống là biểu tượng của quyền lực, sự răn đe. Kiếm chỉ lên trời là khởi nghĩa tấn công. Kiếm giương ngang là phòng thủ. Đó là tam kiếm.

...

Vì sao lấy vòng Thái Tuế làm thước đo các sao khác mà không lấy vòng Lộc Tồn? Vì vòng Thái Tuế không phụ thuộc vào địa bàn như vòng Lộc Tồn Bác Sĩ. Lộc Tồn ít ra phải né tứ mộ.

Vòng Trường Sinh còn phụ thuộc hơn khi Trường Sinh buộc phải đóng ở 4 cung dần thân tị hợi.

...

Các bạn học tử vi có phương pháp có hệ thống dù chưa giỏi rồi sẽ giỏi. Còn không có hệ thống, dù nay đoán trúng mai lại đoán trật cũng chẳng biết vì sao.

...

Thông thường tam hợp phái cho rằng xung chiếu và thủ là giống nhau. Nhưng tứ hóa phái cho rằng thủ và chiếu là khác nhau, thậm chí còn có một chiều. Đó chính là phép hội sao: sự phân biệt chiều hội chiếu.

...

Việc xem vận hạn cần có nguyên tắc. Có nguyên tắc mới hiểu căn nguyên. Như một người vốn có tính ăn cắp. Gặp được kho hàng mới nảy sinh lòng tham. Đến khi người gác lơ là mới thực hiện hành vi ăn cắp. Chứ không phải ai lúc nào thấy kho hàng cũng ăn cắp.

Xem vận cũng vậy. Hiện nay đa số xem vận từ ngọn. Thấy tiểu vận quét vào cung nào liền đoán sự việc liên quan cung đó. Thì làm sao trúng. Lá số lập nên cho biết tiềm năng ý hướng của mệnh tạo. Nhưng đó chỉ là cách cục chứ không cho biết cát hung. Đến đại vận thì những ý hướng đó bắt đầu nổi rõ hơn. Và trận địa bày sẵn. Khi lưu niên dẫm phải đúng kíp nổ. Sự kiện liền xảy ra. Như vậy sự kiện có gốc có thân mới có ngọn. Truy tìm từ gốc có thể dò được năm lưu niên ứng kì. Trong đại vận có khả năng phát quyền. Lưu niên tới kích hoạt sẽ phát quyền. Trong đại vận không phát quyền. Lưu niên tới đấm bùm bụp vào cung quan cũng không đổi. Xem tiếp về gốc của quyền. Như Quang Trung bẩm sinh là thiên tướng quân. Đến vận phát quyền sẽ khác hẳn người thường. Mình không có, đến vận mượn được chỉ là cái áo sặc sỡ bên ngoài mà thôi. Quá vận sẽ trở lại con số 0 ban đầu. Nên cơ bản lộ trình xem vận là Thiên- kết cấu lá số (chủ tư chất tiềm năng thiên khiếu sở trường), Địa- đại vận dẫn hóa (chủ cách cục và xu hướng cát hung), Nhân- lưu niên ứng kì (chủ cát hung). Xem trong đại vận có tín hiệu phát tài mới tìm lưu niên phát tài. Đại vận tuy vẫn là cách cục nhưng đã đóng khung ấn định cát hung rồi.

...

Trong cả rừng phú và sách, các bạn học tử vi hãy chọn cho mình những nhận định chuẩn mực (nói cách khác là ví dụ mẫu). Học thuộc và kiểm nghiệm nhiều lần nhận định đó. Sau tích lũy các nhận định đó sẽ hình thành yếu lĩnh của phép xem. Còn hơn lan man ôm đồm quá nhiều nhận định. Nếu cả quyển sách tóm lược vào 10 câu trọng yếu. Thì 10 câu đó là gì?

Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng vậy. Đó là 18 chưởng tiêu biểu đủ để toàn diện cho phép đánh. Tuy là trong thực tế có nhiều biến hóa đa đoan nhưng con số 18 đủ để đại diện những trọng yếu. Nắm vững 18 phép đó có thể tự biến hóa toàn diện. Các tiền bối trải qua quá trình nghiên cứu và chắt lọc thấy rằng không thể rút xuống 17 chiêu, còn nếu để 19 chiêu thì thừa. Như một giáo trình ngoại ngữ, các vấn đề đưa ra là chọn lọc với mục đích là đơn giản nhất nhưng toàn diện nhất. Cho nên học trọn vẹn một giáo trình tốt hơn mỗi quyển học một tí.

Sách của Trung Châu tuy tỉ mỉ nhưng nhược điểm là dễ gây loạn. Nếu người đọc rút được những câu trọng điểm và từ đó nương vào thì đỡ khổ hơn.

...

Ăn mặc là hình thức, phòng ở là nội tâm. Macbook là hình thức, quản lý file là nội tâm. Cả hai đều quan trọng, nội tâm là bên trong nên theo thời gian sẽ bộc lộ ra sau.

...

Con đến trường để học tập. Học tập để khai phá tiềm năng của bản thân rồi sau này đóng góp xã hội. Giáo dục là để phát hiện sở trường và vun đắp sở trường, định hướng thành sản phẩm hữu ích cho cộng đồng. Chứ học tập không phải để hơn người, không phải để hơn con nhà hàng xóm như tiềm thức ăn sâu vào đa số phụ huynh Việt. "Mày cũng chẳng bằng con người ta".

...

Theo chiều nghịch của địa bàn: quan ---> mệnh ---> tài. Cung quan là khí chất bên trong mệnh. Cung tài là biểu hiện bên ngoài mệnh.

Nói về đời thực, tiền tài là phục sức bề ngoài. Khả năng và khí chất ẩn ở bên trong.

...

Khi năm sinh gửi tứ hóa đến các cung. Các cung có 4 thái độ đối với hóa khí được gửi đến. Đó chính là tự hóa. Đây là mô phỏng chính xác nhất tâm tư của đời người. Khi người khác yêu (Hóa Lộc) bạn. Bạn có 4 cách đối đáp: yêu lại (Lộc), kiêu kì (Quyền), hòa nhã (Khoa), thu mình lại (Kị). Tương tự khi người khác đánh (Quyền) bạn, bạn có thể: cười nhăn nhở, đánh lại, phân bua, và sợ hãi. Bạn tươi cười chào (Hóa Lộc) người khác. Người khác có thể niềm nở lại, có thể kiêu, có thể chừng mực, có thể sợ hãi bị bạn lừa. Đó là phản ứng nằm ngoài ý muốn của ta.

Cho nên đừng có ngồi trách đời sao phũ với mình. Đời nó phũ chung với mọi người. Còn cách phản ứng với cái phũ đó là do mình

...

Điền của nô chính là nô của điền, đó là cung tài bạch. X của Y chính là Y của X với bất kì X hay Y là gì.

...

Hoá Kị cung phối ý là một người cũng thấy nhiều. Hoá Lộc cung phối ý là bao nhiêu người cũng còn ít. Hoá Kị là ghét, Hoá Lộc là yêu quá. Yêu quá hay ghét quá đều dẫn đến một kết cục chung. Điều này khác với nhận định truyền thống rằng cứ Khoa Quyền Lộc là tốt. Ai dè trong thực tế Lộc cũng cho kết quả li hôn. Cho nên hiểu bản chất cách cục và hiểu qua loa về cách cục cho kết quả sai một li đi một dặm. Tương tự thì Khoa Quyền cung phối cũng không hề dễ chịu.

...

Nếu tam hợp phái là phái của tam hợp thì tứ hoá phái là phái của chính xung.

...

Phụ mẫu của vợ mình là bố mẹ vợ chính là phối của phụ mẫu. Tức phối của phụ mẫu mình là ông bà thông gia của bố mẹ mình.

Tử tức của phụ mẫu chính là phụ mẫu của tử tức, hay chính là con dâu của bố mẹ mình, tức mẹ của con cái mình, tức vợ mình.

Bào của phụ mẫu chính là phụ mẫu của bào. Bào của phụ mẫu là cô dì chú bác mình, chính là phụ mẫu của bào tức bố mẹ của tụi anh em họ mình.

Tử tức cố định là con mình, thì Tử tức của phép di cung là con dâu con rể. Phối của mình là vợ mình, phối của bố mẹ mình là thông gia. Như vậy bản chất cung phối là thông gia.

Qua di cung anh em là anh em họ.

Nhờ đó ta biết phép di cung là phép "phối chéo", âm với dương và dương với âm. Khi dương với dương là chính, âm với âm là chính, thì âm với dương là chéo. Trong đời thực có mối quan hệ bố mẹ vợ, anh em họ, chẳng lẽ trong mệnh lý không có.

...

Cát tinh hãm: tiền hung hậu cát, ví dụ Thái Dương hãm thành công muộn, đây chính là thiếu dương trong tứ tượng.

Sát tinh miếu: tiền cát hậu hung, ví dụ Không Kiếp miếu bạo phát bạo tàn, đây chính là thiếu âm trong tứ tượng.

...

Vận đến vòng Thái Tuế là đến thiên thời, vận đến tam hợp mệnh như được là chính mình. Cát hung là do trời nhưng sướng khổ do mình cảm nhận. Giả sử tam hợp mệnh không trùng tam hợp Thái Tuế thì ví dụ tinh giản nhất là: đến tam hợp Thái Tuế được làm vua, còn đến tam hợp mệnh được sống như chính mình. Làm vua là thành công nhưng sống như chính mình là hạnh phúc. Kiếp nhân sinh ảo diệu ở chỗ là được cái này mất cái kia. Đây chính là dạng thiếu âm thiếu dương trong tứ tượng. Người học thường bị loạn những chỗ này. Đây cũng là yếu quyết để xem vận. Tam hợp mệnh là một dạng "đúng" như tam hợp Thái Tuế thì nô và tật chính là "sai", cho nên đặt Thiên Thương và Thiên Sứ làm dấu.

...

Theo nhất lục cộng tông:

Cung di là cung bào hậu thiên. Gọi là anh em xã hội, những người bạn quen từ xã hội.

Cung thê là điền hậu thiên. Vợ chính là gia đình. Người xưa gọi là hiền nội.

Cung phúc là tật hậu thiên, tử là phúc hậu thiên, tật là mệnh hậu thiên.

Cung quan là tử tức hậu thiên. Công việc là đưa con tinh thần. Đi nghịch nhất lục từ mệnh đến quan là 5 bước, bằng đi thuận từ mệnh đến quan cũng là 5 bước.

Cung bào là quan hậu thiên, là quan của cung điền. Về điền là về vườn. Bào là công việc lúc về vườn.

...

Khó khăn của tử vi không phải là tìm ra cái mới, mà sử dụng cái đã có đúng như vai trò của nó, sắp xếp cái đã có đúng như trật tự của nó, một cách đơn giản nhất.

...

Tang Tuế Phá cùng âm dương nhưng nghịch ngũ hành. So với dương tử phúc thuận ngũ hành nhưng nghịch âm dương, cái nào tốt hơn? Trả lời được thì bạn giỏi nhì thế giới.

...

Trước đây tư duy của chúng ta cho rằng Tuần và Triệt là cản trở, rồi tiến bộ hơn lại cho rằng Tuần Triệt là lực lượng điều chỉnh. Để rồi vẫn mơ hồ câu hỏi: vậy miếu địa gặp Tuần Triệt thì xem thế nào.

Bây giờ hãy thay đổi đi. Hãy nghĩ rằng TT là cách điều chuyển năng lượng khác đi. Nghĩa là miếu hay hãm khi gặp TT vẫn là miếu hãm. Nhưng ví dụ Tuần câu hút năng lượng Nhật Nguyệt về, vo lại, nén dần, nén dần, đến khi thật chặt thì mới làm một cái nổ bum. Đó, mới là Tuần Triệt.

...

Tuần tích tụ dồn nén đến cực hạn thì bung ra. Triệt vét sạch dốc sạch năng lượng đến cực hạn thì co lại. Triệt giống như dùng doping, kích thích và vét sạch sức lực dùng khi đó để ngày mai nằm bệt mệt mỏi gấp n bình thường. Tuần cộng, triệt trừ. Tuần già Triệt trẻ. Tuần muộn, Triệt sớm. Đó là cách sử dụng năng lượng của Tuần Triệt vậy.

...

Thái Dương ngọ nên gặp Triệt, Thái Dương tí nên gặp Tuần. Chân lí giản dị vậy thôi.

...

Không phải cứ số nào cũng lên chức là hay, số nào giàu là hay. Quan trọng là đi đúng con đường của mệnh thì cuộc đời sẽ hanh thông. Còn cứ chạy theo thói đời thì sẽ đau khổ. Xem tử vi để nhìn ra con đường của mệnh. Công chức hay binh nghiệp hay tá điền. Đi con đường nào cũng có cái hay riêng. Sự an phận của người hiểu và không hiểu mệnh ở chỗ đó. "Số tôi không giàu" từ người bi quan và người hiểu mệnh nói ra khác nhau ở chỗ đó. Phương Tây gọi là sở trường sở thích. Phương đông chúng ta gọi là Số Phận. Làm một bà nội trợ hạnh phúc chồng con thành đạt còn hơn bon chen làm bà công chức làng nhàng. Hạnh phúc là đi đúng con đường vận mệnh của mình. Không hão vọng, dù con đường số mệnh của mình nhàn hay vất vả. Chỉ cần là số mệnh của mình, mình sẽ đi hết con đường đó. Đó chính là kiên định, đó chính là cá tính, đó chính là đặc sắc. Đi đúng đường mình sẽ tôn trọng đường người khác. Anh đánh cá việc anh, tôi kiếm củi kệ tôi. Giúp được nhau thì tốt, không thì đường ai nấy đi. Vui với cái của chính mình sẽ thông cảm với cái của người khác. Tử vi giúp con người thấy được con đường vận mệnh.

...

Lưu niên Thái Tuế:

Hoá Lộc nhập/ xung mệnh còn Hoá Kị nhập/ xung thê: lấy vợ.

Hoá Lộc nhập/ xung thê còn Hoá Kị nhập/ xung mệnh: bỏ vợ/ vợ bỏ.

Vì sao? Phải chăng vì một khi phụ nữ họ đã nắm được Hoá Lộc, họ cần chồng làm gì? Không phải, mà vì sự vận hành của Lộc Kị, cái chúng ta nói với nhau thành công thức như trên chỉ để dễ nhớ.

...

Lưu niên phi Hoá Lộc nhập tật, Hoá Kị nhập mệnh thì năm đó báo hiệu là năm xấu. Đừng nhầm Lộc di mệnh Kị nhé. Lộc di mệnh Kị lại tốt.

...

Tất cả nhận định của tiền nhân trong tử vi đều đúng, vấn đề là đúng đến đâu?

...

Thái Tuế Lộc Tồn chỉ là cột mốc, lên hay xuống do thời vận. Thời vận thay đổi từ các dấu mốc đó. Lên xuống tuỳ trường hợp.

John Lennon, Nguyễn Cao Kỳ, Tưởng Giới Thạch, John Kennedy, Muhammad Ali, Tôn Trung Sơn đều "ra đi" trong đại vận Thái Tuế.

...

Vận trình như nắng mưa bên ngoài. Cái cây còn sống thì nắng mưa rồi cũng qua hết. Nếu cây đã chết, vào nắng sẽ khô, ngâm mưa sẽ mục. Vấn đề không phải mưa nắng mà là nội tại cái cây.

Trong tử vi cái gì là nội khí?

...

Các tình yêu thấy chưa. Chung quy cứ phải Hoá Lộc Hoá Quyền. Cho dù cực hãm, làm cái phản hoá là xong. Tự cường là tự do. Kể cả có Không Kiếp Hoả Linh, có Quyền Lộc là thành Tôn Trung Sơn vĩ đại. Tiền và quyền có thể sai khiến và sử dụng côn đồ cũng như quân đội. Tuy nhiên để bền vững phải có Khoa và Kị.

...

Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

...

Thượng trung hạ cách của tử vi có thể nhìn thấy từ vị trí của tứ hoá nguyên thuỷ. Thông thường các tổ hợp như tứ hoá toàn phùng là cực mạnh, Khoa Quyền Lộc là mạnh, sau đó đến Lộc Quyền, rồi Quyền Khoa, Quyền Kị... Các tổ hợp thiếu Hoá Lộc yếu hơn các tổ hợp khác. Ví dụ như Khoa Quyền hay Quyền Kị đều không tồi nhưng không thể so với Lộc Quyền. Kể cả Lộc Khoa cũng là tổ hợp khuyết thiếu. Đôi khi đơn hoá hợp cách lại có tác dụng tốt hơn nhị hoá hay tam hoá lủng củng.

...

Quang Quý Thai Toạ là dạng hoá khí của tứ cát Xương Khúc Tả Hữu. Xương Khúc Tả Hữu khi hoá cũng có thể thành Khoa Kỵ nhưng không thể thành Quyền Lộc. Vì tiến hoá của XKTH đã là Quang Quý Thai Toạ. Ứng dụng là gì? Là các sao hoá khí có thể dùng làm cơ sở để xét đoán. Tinh đẩu khi chưa hoá cũng như cá chép, hàm ý và tình tứ chưa rõ ràng. Còn khi đã hoá, là rồng, ý tứ là rõ rệt, biểu hiện cũng đơn nhất, tính chất cũng tinh tuý. Cho nên tứ cát Tả Hữu Xương Khúc ít được nhắc đến, hay nói đúng hơn là không cần nhắc đến. Chỉ xét tương tác tứ vinh, tứ hoá và lục sát đã đủ bao hàm trong đó: chính là tương tác của cát tinh và sát tinh. Thêm Không Vong đại diện thiên hãm, La Võng đại diện địa hãm, Thương Sứ đại diện nhân hãm. Gộp là lục hãm. Quý tinh, tứ hoá, sát tinh, và lục hãm phơi bày là đầy đủ căn cứ xét đoán một lá số. Không thể thiếu sót.

...

Sinh 1 đến 6, thuỷ nhị cục

Sinh 7 đến 12, mộc tam cục

Sinh 13 đến 18, kim tứ cục

Sinh 19 đến 24, thổ ngũ cục

Sinh ngày 25 đến 30, hoả lục cục

Là chính cục.

...

Tháng chủ cung, ngày chủ tinh.

...

Hình: có vẻ bề ngoài là cái máy bay

Lý: bay được

Khí: nhiên liệu

Vận: may hay rủi

Dụng: tầm ảnh hưởng bao lâu bao xa, bao nhiêu quan trọng? Máy bay do thám không người lái tuy nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng có khi hơn Boeing 747.

Máy bay mô hình bán cho trẻ em khá giống bề ngoài nhưng không bay được. Máy bay đồ chơi bay được nhưng tầm ảnh hưởng chỉ là đồ chơi, tầm ảnh hưởng chỉ là vài trăm mét, sức bền chỉ là vài chục phút.

Nhưng mà có hình rồi mới xét lý, có hình lý mới xét khí. Không có hình lý chỉ có mỗi khí thì như hồn không có xác nhập vào, như địa chi không có thiên can biểu hiện.

Lý là sự hợp lý, hợp lý về khí động học, hợp lý về trọng trường mới bay được.

Hình lý khí cần tương xứng với nhau. Nếu không cân xứng thì vô dụng. Khí vượng thì lớn, khí suy thì nhỏ, khí âm thì lâu, khí dương thì mạnh mẽ.

Lý trong tử vi là cách cục. Cách cục là tổ hợp có lý của vài sao. Cách cục đó thấm đậm khí âm dương ngũ hành thì mạnh mẽ, không thì hời hợt nhếch nhác.

Hình dáng: chuẩn cho vận động viên bơi lội.

Lý: bơi đúng kỹ thuật

Khí: yếu

Vận: đen

Kết quả: vô dụng

Khí: vượng

Vận: đỏ

Kết quả: 100 huy chương vàng Olympic

...

Nói về tam hợp phái có thể gói trong hai câu:

Bị rách nhưng lại có vàng

Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng

...

Cự Môn hoá Lộc: tán dương, khen ngợi

Cự Môn hoá Quyền: đe doạ, hạ lệnh

Cự Môn hoá Khoa: giảng giải

Cự Môn hoá Kị: oán trách

Cự Môn Không Kiếp: nói dối

...

Miếu hãm của tinh đẩu có giá trị đáng kể. Cho dù không gặp phản cách Lộc Quyền nhưng sự miếu đắc của sát tinh vẫn cho kết quả tốt đẹp. Cho nên nếu gặp Hoá Kị tứ mộ, hay Kình Dương tứ mộ đơn lẻ. Có thể nhận định đó là tốt. Miếu hãm của tinh đẩu dù sao cũng do Khí mà ra. Tinh đẩu là cái Hình, cách cục là sự có Lý, miếu hãm là một biểu hiện của Khí.

...

Bệnh tật thuộc về mộ. Ngưng đọng trì trệ. Cần gặp Không để khai phá sự ngưng trệ này. Nên bệnh nhẹ gặp Không thì khỏi, bệnh nặng gặp Không thì vong.

...

Chính tinh mệnh thân của con cái ứng với chính tinh cung tử tức của cha mẹ, hoặc cung mệnh thân của cha mẹ. Cho nên đôi khi vận cha mẹ mất chưa chắc đã động cung phụ mẫu mà động tinh đẩu chính là chính tinh mệnh thân của cha mẹ. Ví dụ cha mệnh Thiên Tướng đến năm mất thì vận người con nhập đúng cung có Thiên Tướng.

...

Cách xem tiểu vận cho tuổi âm cần được rà soát lại nghiêm ngặt.

...

Trước khi học cách xem vận cần nắm được học thuyết tam tài thì sẽ không bị thừa hay thiếu.

...

Không có một quy luật hay công thức nào đơn điệu như kiểu vận rơi trúng cung thê thì cưới, hay Hoá Kị xung thê thì li hôn, vì vận rơi cung thê có thể cưới có thể bỏ, Kị xung cung thê có thể cưới có thể bỏ. Bởi vì đó chỉ là một yếu tố. Cần có ít nhất ba yếu tố độc lập mới đủ cho hệ quy chiếu tam tài. Cho nên có những vòng lặp 10 năm hoặc 12 năm khi thiên can hay địa chi quay lại đúng như vậy nhưng sự kiện thì không giống nhau.

...

Đàn ông lấy vk rồi thì mang tượng Thái Âm.

Đàn bà lấy ck rồi thì mang tượng Thái Dương.

...

Vượng suy là quan hệ can và chi. Hợp phá là quan hệ can và can. Hợp xung là quan hệ chi và chi. Chung quy tử bình chỉ có hai loại quan hệ này, cùng âm dương và khác âm dương. Cho nên dụng thần cũng chỉ có hai loại: một loại theo vượng suy và một loại theo cách cục.

Mối quan hệ can can hay chi chi là mối quan hệ tiềm năng, tức là có thể xấu cũng có thể tốt, chưa thể kết luận. Ví dụ địa chi tương xung có thể kích phát cũng có thể huỷ diệt. Yếu xung mạnh là kích phát. Mạnh xung yếu là huỷ diệt. Mối quan hệ can- chi hay mối quan hệ vượng suy là mối quan hệ có thể kết luận. Nói cách khác quan hệ can-can chi-chi là quan hệ cần, quan hệ can-chi là quan hệ đủ.

Nhưng như vậy cho biết cách cục dụng thần cần xét trước. Sự mạnh yếu của cách cục được xét bằng vượng suy. Từ đó mà có cách cục cao thấp.

Trong bốn trụ thì năm ngày cùng tính âm dương. Tháng giờ cùng tính âm dương. Năm như phúc đức, ngày như bản mệnh. Năm là gốc mệnh của mình, là mình khi nhỏ. Ngày là mệnh sau này mình tạo ra được. Tháng là lực lượng phủ chụp mình quản mình. Giờ là lực lượng mình tạo ra và do mình quản. Nó như quan và tài của tử vi. Cho nên khi năm hay ngày bị vận tới xung. Sự ảnh hưởng là trực tiếp rõ ràng. Khi tháng và giờ bị xung, sự ảnh hưởng là gián tiếp và từ từ. Có thể ví dụ cực đoan như bản thân bị ốm và vk con bị ốm. Đều là ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng một trực tiếp một gián tiếp khác nhau.

...

Mỗi tam hợp lấy một cung đại diện. Tứ tượng của tử vi có thể là: ta (mệnh), người (nô), phúc (phúc), hoạ (tật).

...

Thái Dương cư tỵ miếu địa nhưng là cung âm, vì thế bên ngoài có danh có tí rực rỡ, nhưng mà bên trong không có thực như bên ngoài. Ví dụ: có danh nhưng mà nghèo, hoặc có tài nhưng không gặp thời. Cái lệch về âm dương ảnh hưởng đến bên trong, đến sự lâu dài, chứ không dễ thấy như bề ngoài.

...

Thái Tuế chủ danh cho nên chủ cả dự. Danh là tiếng, dự là được người khác khen. Người thuộc vòng Tuế Hổ Phù đến chết cũng coi mình là chân lý, đến chết cũng không nhận sai. Thế nhưng tuế hổ phù không làm người đó chủ động trong hành động của mình. Con người có thể phân ra hai loại: sống chủ động và sống bị động. Trong tứ hoá thì Lộc Quyền là chủ động, Khoa Kị là bị động. Còn trong cách cục thì song Lộc là chủ động. Nhật Nguyệt chiếu hư vô có tam Không là đỉnh cao của cách cục Không Vong. Nó cấu thành bởi tam tài thiên địa nhân là: Không Vong, Nhật Nguyệt và song Lộc. Không Vong là môi trường cho vầng Nhật Nguyệt soi rọi, nhưng cần có song Lộc mới hoàn hảo. Sự có mặt của song Lộc nói lên sự chủ động. Hạt giống thành công của đời người.

Tử Vi cư ngọ vô Hình Kị

Giáp Đinh Kỉ vị chí công khanh

Vì Tử Vi khi đó gặp Lộc Tồn là tử vi chủ động. Tử vi Hình Kị là Tử Vi bị động.

...

Dương âm cùng tồn tại nhưng dương luôn thống âm. Xem nhé.

Đàn bà tuy đòi hỏi nữ quyền, bình quyền. Ok hết nhưng chung quy trong thế giới này đàn ông vẫn thống trị. Chị em nên mở lòng chấp nhận sự thực này nhé.

Thiên luôn áp địa. Khi cả thiên hà này hỗn loạn sao bay khắp nơi thì cái quả cầu bé nhỏ này cũng chẳng thay đổi được gì.

Bà cả luôn lấn át bà hai, vì chính quy. Danh chính thì ngôn thuận. Này Hà Hồ, chị cho mượn ck chị đấy nhé. Dùng xong nhớ trả chị còn cho người khác mượn.

Quân đội chính quy và cảnh sát luôn lấn át xã hội đen. Về lòng dân cũng như về bài bản hệ thống. Hơn nữa, quan mà đi ăn cướp vẫn dễ hơn bọn trộm cắp đường chợ.

Khoa học luôn lấn át huyền học (vì tâm lý con người). Khoa học là ánh sáng, huyền học là bóng tối. Bóng tối là nơi không có ánh sáng. Trong con mắt và ngôn từ người đời, bóng tối bị định nghĩa bằng ánh sáng. Huyền học cũng đang bị định nghĩa bằng khoa học. Thực ra, đó là nhu cầu chủ quan của con người. Chứ bóng tối và ánh sáng ngàn năm cùng tồn tại, không có nhu cầu định nghĩa. Ngay khi huyền học phơi bày được quy luật gì, người đời xếp cái đó vào khoa học. Thứ chưa biết và đã biết mãi cứ là hai mảng âm dương quyện với nhau.

Thực ra âm dương vốn không hơn kém gì nhau. Nhưng tâm lý con người ta phân biệt. Tâm lý chúng ta hướng sáng hơn tối, hướng khô hơn ướt, hướng thiện hơn ác. Chứ đối với Đạo mà nói, thiện hay ác chẳng khác gì nhau. Khoá sắt hay khoá vàng đều là khoá.

Vậy vì sao có âm dương? Vì con người tự phân biệt ra vậy. Để làm gì? Để có cái nói với nhau về vũ trụ. Một vũ trụ bản chất của nó là vũ trụ không lời.

...

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế

Ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Dương chủ ấn định xác lập. Như một nhân sĩ cách mạng đi theo lý tưởng của mình. Đó là lí do trai tráng rời bỏ gia đình đi tòng quân chiến đấu.

Âm như cảm xúc, đi theo bản năng và xu hướng mà bất kể lí do lí trí. Đó là lí do Mị Châu rải lông ngỗng.

Cho nên phản cách chỉ xảy ra với sát tinh dương như Địa Không, Kình Dương và Hoả Tinh. Quý cách có Kình Dương nhập miếu chứ không có Đà La nhập miếu. Âm tòng thế nên không thể sáng lập cái mới, không sáng lập cái mới thì không thể phản cách.

...

Khi mà những thứ mình thiết lập đã cho thành quả thì đời phải chùng xuống lấy đà. Khi đó phải thiết lập cơ sở mới, và cần có thời gian để thiết lập mới nở hoa. Chứ lúc đó còn u mê tiếc nuối thì suy nghĩ thoái hoá quá. Giống như bố mẹ cho nền tảng cung Mệnh, ba mươi năm hưởng tràn cung mây, rồi sang cung Thân đời mình mình lo, bố mẹ già mà nền tảng mới con xây chưa vững thì phải chịu khó khăn một thời gian. Xã hội cũng vậy, trải qua thời kì thiết lập các bộ luật thời đại, kiểu hình thái xã hội. Đến lúc cơ sở hạ tầng phát triển vượt quá thiết lập thượng tầng cũ thì phải thay đổi. Lúc đó người ta gọi là thời chiến hay thời loạn. Tử vi cứ ba cung thì lại đến mộ. Tứ sinh là sinh, tứ chính là vượng, vượng xong lại mộ để ẩn tàng để an nghỉ để xốc lại quần áo. Sau đó lại tứ sinh, tứ đẹp rồi lại tứ mộ tức tứ già.

Nhịp đời cứ lên xuống như hình sin. Lúc xuống không phải là thoái mà là lấy đà. Nên chuẩn bị lấy đà mới trước suy thoái không? Không. Vì lúc đó cái cũ chưa vươn tới đỉnh cao. Lộc Tồn thiết lập, Kình Dương vút rồi Đà La sa xuống, Lộc Tồn mới xuất hiện, Kình Dương lại vút cao.

...

Sát tinh là vũ khí. Kình là giáo dài, Đà là đao sắc. Hoả Linh là dùi cui điện, súng ống bom mìn. Không Kiếp là vũ khí người tức quần chúng cách mạng.

Cách tốt cần có 1 đến 2 sát tinh ngoài những cát và quý tinh khác. Tốt nhất là có một sát tinh. Hoặc hai sát tinh cùng cặp. Nếu cách cục không có sát tinh, chỉ như cái vỏ bề ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong rỗng tuếch. Các tổ hợp chính tinh không phải Tử Phủ Nhật Nguyệt rất cần sát tinh yểm trợ. Lí do là vua chúa không cần mang theo đao kiếm nhưng cầm dùi cui điện cầm điện thoại cầm nút điều khiển bom, quan quân nhất định phải có vũ khí bên mình. Bách tính cũng cần cuốc xẻng xà beng để lao động. Cuốc xẻng xà beng tức Kình Đà. Búa liềm tức Kình Đà.

Quần cát ủng nhất sát thì đó là cực quý. Tưởng có một Linh Tinh kèm cát hoá. Bill Gates có một Linh Tinh kèm thượng cách Nhật Nguyệt tịnh minh song Lộc. Linh Tinh của Bill Gates là công nghệ thông tin. Tôn có đủ Hoả Linh Không Kiếp Lộc Quyền, nhưng sát tinh của Tôn hơi nặng nên tàn phá cơ thể không thể chịu nổi. Ôm cả bom dẫn theo quần chúng cách mạng thì thành trì ọp ẹp Mãn Thanh sao chịu nổi.

Tử Phủ Nhật Nguyệt hợp Hoả Linh. Hoả Linh là hương hoả là hào quang là ánh sáng của đế vương của thần phật. Bảo Đại có một Linh Tinh cung thân trong tổ hợp Tử Vũ Liêm. Tay cầm dùi cui điện làm trùm hai chục năm với Tử Vi đắc Lộc Tướng Ấn.

Cho nên Tử Phủ không hợp Kình Đà. Vua gì lăm lăm thanh kiếm, vua gì cầm cuốc xẻng xà beng của giai cấp công nông lên dốc. Kình Đà có vẻ là vũ khí trang bị của giai cấp bình dân như công nông binh lính, không phải thứ vũ khí hào hoa của giới thượng lưu.

Không Kiếp đi với Đồng là quần chúng cách mạng. Không Kiếp đi với Tướng là quân đội nhân dân. Không Kiếp đi với Phá Quân là tổ chức khủng bố. Không Kiếp đi với Tử Vi: đế ngộ hung đồ. Vì vua là ngôi chí tôn chính chủ, có bao giờ thích quần chúng cách mạng. Gặp phải lũ nữ tặc táo tợn thì thân trai còn đâu mảnh chip vắt hông. Lộc Tướng Ấn là ấn ngọc giáp vàng của hoàng thượng, cũng đời nào muốn lọt vào tay Không Kiếp thảo dân cho chúng bán đồ cổ làm món tiền như Đại Nam Quốc Ấn.

Có vũ khí rồi nhưng ta cần Lộc Quyền để sử dụng hiệu quả thành công món vũ khí đó.

Vậy công thức thành công là gì: thiểu sát + đa cát quý + cát hoá.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Nuôi mèo theo phong thủy có tốt không

Mèo là thú cưng được nhiều người ưa chuộng. Nhưng bạn có biết nuôi mèo theo phong thủy có ý nghĩa như thế nào không? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu nhé.
Nuôi mèo theo phong thủy có tốt không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Nuôi thú cưng trong nhà không chỉ để vui, để thỏa mãn nhu cầu muốn chăm sóc một ai đó hay để làm sang mà còn có tác dụng rất lớn nhằm thúc đẩy phong thủy nhà ở. Ngày nay điều kiện sống ngày càng được nâng cao, con người ta cũng nuôi thú cưng nhiều hơn trước, nhưng có lẽ không phải ai cũng biết rằng thú cưng nuôi không đúng cách cũng sẽ ảnh hưởng không tốt đến phong thủy của căn nhà mình đang sống.


nuoi meo theo phong thuy2

Nuôi mèo theo phong thủy có tốt không?

  Từ lâu, mèo đã được coi là một vật nuôi thường thấy trong nhiều gia đình. Trước đây, mèo được nuôi với mục đích chính là đuổi chuột, nhưng giờ thì mèo đã trở thành vật cưng, là bạn của rất nhiều người yêu động vật.   Mèo là loài động vật có linh tính, thậm chí nhiều nơi còn tôn thờ loài vật này thành Thần, vì thế mà nuôi mèo cũng có nhiều điều cần phải lưu ý. Những chú mèo là vật cưng thường thấy trong nhà, chúng không chỉ đáng yêu mà còn rất dễ nuôi, có lợi cho phong thủy nhà ở   Theo phong thủy, mèo là loài động vật mang dương khí vượng, có thể tăng thêm sinh khí và dương khí cho căn nhà. Mèo có thói quen là thích tìm đến những nơi ấm áp, hay quấn quýt bên chủ nuôi, biết an ủi và xua tan sự cô độc của gia chủ, còn có thể đem lại cảm giác ấm áp cho chủ chúng nữa. Trường khí từ hơi ấm lan tỏa bởi những chú mèo rất có lợi cho sức khỏe của người nhà, giúp cho người nuôi chúng có tâm trạng thoải mái và vui vẻ.


nuoi meo theo phong thuy

Nuôi mèo theo phong thủy rất tốt cho vận khí tài lộc

  Ngoài ra, những chú mèo còn được ví như những vị thần bảo vệ cho tài lộc của gia chủ. Mèo có thể đuổi chuột, mà trong phong thủy, chuột ra vào nhà tự nhiên như không, ăn vụng và cắn xé vật dụng trong nhà nên được xem như là dấu hiệu không tốt của tài vận bất ổn. 


Có thể bạn chưa biết: Ý nghĩa biểu tượng mèo trong phong thủy.
  Lũ chuột rất tinh ranh, giỏi ẩn nấp ở những nơi kín đáo, khó phát hiện. Chúng thỏa sức tung hoành, phá hoại đồ đạc trong nhà nên nếu nhà có chuột cũng tức là tài lộc không được tốt, tiền vào nhà nhưng không giữ được yên ổn, khó bề tích trữ, tiết kiệm. Khi nhà có chuột, cách tốt nhất là nuôi thú cưng là mèo, mèo là thiên địch của chuột, trường khí mà những chú mèo phát ra có thể trấn được khí xấu do lũ chuột gây ra, bảo vệ cho vận trình tài lộc của gia chủ.


nuoi meo theo phong thuy1

Nuôi mèo theo phong thủy có thể giữ cho tài lộc bình ổn

  Theo truyền thuyết, mèo và chuột vốn là bạn tốt. Khi Thiên đình tuyển chọn 12 loài động vật làm đại diện cho 12 con giáp, mèo và chuột sớm đã hẹn với nhau cùng đi ứng tuyển. Nhưng chuột vốn tinh ranh, gian xảo nên hẹn vậy chứ mưu mô đi ngay từ trước mà không đợi mèo.    Nó núp sẵn ở một góc, chỉ chờ Thiên đình phát lệnh là lập tức ra mắt ứng tuyển, nhờ thế mà đứng vị trí đầu tiên trong số 12 con giáp. Mèo y hẹn xuất hành nên đến muộn, bị gạt ra ngoài chờ, từ đó mèo quyết định tuyệt giao, nuôi lòng thù hận với chuột. Hễ nhìn thấy chuột ở đâu là mèo sẽ xông ra bắt, cho nó một bài học, còn chuột vừa thẹn vừa sợ nên chỉ cần thấy thấp thoáng bóng mèo là vội trốn đi. 


nuoi meo theo phong thuy3

Mèo đuổi chuột, tránh tiền bạc hư hao

  Bạn nuôi mèo trong nhà, không chỉ nuôi một chú thú cưng mà còn có tác dụng phong thủy rất lớn, đuổi lũ chuột phá tài đang hoành hành trong nhà mình, xa hơn là ngăn lũ chuột quay lại làm tổ, tụ tập trong nhà, khiến tài vận hư hao, vận trình sa sút, tán gia bại sản. Nếu vì nhiều lý do mà bạn không thể nuôi mèo thì cũng có thể Bài trí biểu tượng mèo để thu hút may mắn cho mình.   Mèo thuộc hành Mộc nên nếu bạn nuôi mèo trong nhà và chuẩn bị thảm ngủ cho chúng thì cũng nên chú ý một chút về màu sắc để tránh phạm xung khắc ngũ hành, khiến chú mèo dễ bệnh tật, ốm yếu. Mèo là Mộc, nên chọn thảm có màu thuộc hành Thủy và Mộc như màu đen, xanh đen, xanh lam, xanh lá cây… Thảm màu đỏ thuộc hành Hỏa xung khắc với hành Mộc của mèo, sẽ làm giảm nguyên khí, mèo nhà bạn không được khỏe mạnh mà hay đau yếu.  
Ly Lan

Mơ thấy chó có sang, mơ thấy mèo có khó? Làm thế nào để mèo Thần Tài hút càng nhiều tiền bạc? Infographic: Mèo siêu bá đạo của 12 con giáp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nuôi mèo theo phong thủy có tốt không

Khái quát về Tử vi (P1)

Tử vi hay còn gọi là Tử vi đẩu số được sáng lập bởi tiên sinh Hi Di Trần Đoàn thuộc đời Bắc Tống Trung Quốc. Lá số tử vi được lập bởi Thiên ban, Địa ban, hơn 100 sao trong Tử Vi dựa trên triết ly Kinh dịch và ngũ hành âm dương mà luận đoán.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi, hay Tử Vi Đẩu Số, là một hình thức bói toán vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, Can Chi… bằng cách lập lá số tử vi với Thiên bàn, địa bàn và các cung sao; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người.

-Nguồn gốc khoa Tử Vi

Khoa Tử vi bắt nguồn từ thời nào? Cho đến nay sách sử không ghi lại ai là người khai sáng ra nó. Các Tử vi gia thường chỉ chú ý đến việc giải đoán tử vi hơn là đi tìm hiểu lịch sử. Bởi vậy cho đến nay, lịch sử khoa này vẫn còn lờ mờ. Thậm chí có người còn lầm lẫn khoa Tử vi với những chuyện truyền kỳ hoang đường.

Đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử vi Đẩu số Toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn.

sao-thien-co-tai-cung-ty

Bài tựa viết như sau: “Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.

Tôi vì muốn biết nên đă tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh”.

Các sách về Tử vi sau này cũng đều thống nhất rằng người đầu tiên tổng hợp, hệ thống lại thành môn bói này là Trần Đoàn tức Hi Di Lão Tổ, sống vào đời Bắc Tống, Trung Quốc.

Trần Đoàn, tự Hi Di, người đất Hoa Sơn ngày nay về phía Nam huyện Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây. Tương truyền rằng khi ra đời, ông bị sinh thiếu tháng, nên mãi hơn hai năm mới biết đi, thủa nhỏ thường đau yếu liên miên. Trần Đoàn học văn không thông, học võ không đủ sức, thường suốt ngày theo phụ thân ngao du khắp non cùng thủy tận.

Thân phụ Trần Đoàn là một nhà thiên văn, lịch số đại tài đương thời. Về năm sinh của tiên sinh không một thư tịch nào chép. Nhưng căn ứ vào bộ Triệu thị Minh thuyết Tử Vi kinh, khi Trần Đoàn yết kiến Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn vào niên hiệu Càn Đức nguyên niên (năm 963 Dương lịch) có nói: “Ngô kim nhật thất thập hữu dư” nghĩa là “tôi năm nay trên bảy mươi tuổI”. Vậy có thể Trần Đoàn ra đời vào khoảng 888-893 tức niên hiệu Vạn Đức nguyên niên đời Đường Hy Tông đến niên hiệu Cảnh Phúc nguyên niên đời Đường Chiêu Tông. Trần Đoàn bắt đầu học thiên văn năm 8 tuổi.

Bộ Triệu thị Minh thuyết Tử Vi kinh thuật rằng:

“Tiên sinh 8 tuổi mà tính còn thơ dại. Lúc nào cũng ngồi trong lòng thân phụ. Một hôm thân phụ tiên sinh phải tính ngày giờ mưa bão trong tháng, bị tiên sinh quấy rầy, mới dắt tiên sinh ra sân, chỉ lên bầu trời đầy sao mà bảo:

- Con có thấy sao Tử Vi kia không?

Đáp:

- Thấy.

Lại chỉ lên sao Thiên Phủ mà hỏi:

- Con có thấy sao Thiên Phủ kia không?

Đáp:

- Thấy

- Vậy con hãy đếm xem những sao đi theo sao Tử Vi và Thiên Phủ là bao nhiêu?

Thân phụ tiên sinh tưởng rằng tiên sinh có đếm xong cũng trên nữa giờ. Không ngờ ông vừa vào nhà, tiên sinh đã chạy vào thưa:

- Con đếm hết rồi. Đi sau sao Tử Vi là 5 sao, như vậy chòm sao Tử Vi có 6 sao. Đi sau sao Thiên Phủ là 7 sao, như vậy chòm Thiên phủ có 8 sao.

Từ đấy tiên sinh được thân phụ hết sức truyền khoa thiên văn và lịch số.”

-Du nhập vào Việt Nam

Tuy xuất phát từ Trung Quốc, Tử Vi không được nổi bật lắm trong các môn bói toán khác. Nhưng khi du nhập vào Việt Nam , nó trở thành môn học được ưa chuộng nhất. Có rất nhiều học giả Việt nam đã cống hiến thêm cho môn nầy, trong đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Quý Đôn. Dần dần, Tử Vi Việt Nam có thêm những dị biệt so với Tử Vi nguyên thủy của Trung Quốc.

Những dị biệt giữa Tử Vi Việt Nam và Trung Quốc bao gồm:

- Cách an mệnh của Tử Vi Việt nam bắt đầu từ cung Dần, trong khi Trung quốc bắt đầu từ cung Sửu

- Cách tính tuế hạn của Tử Vi Việt Nam tùy thuộc vào chi của tuổi người xem. Trong khi tuế hạn của Trung quốc cố định.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khái quát về Tử vi (P1)

Xem ngày sinh để biết tài lộc và cách tiêu tiền

Căn cứ vào ngày tháng năm sinh cũng có thể biết được cuộc đời này bạn có bao nhiêu tiền trong tay. Công thức tính dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về điều đó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Công thức tính   Bước 1: Viết ngày tháng năm sinh của bạn ra một tờ giấy.   Bước 2: Cộng tất cả những con số ở ngày, tháng, năm lại với nhau. Tiếp tục cộng cho tới khi kết quả là một chữ số. Đó chính là con số linh nghiệm của sinh mệnh.   Bước 3. Đối chiếu con số linh nghiệm của sinh mệnh với kết quả dưới đây.   Ví dụ: Bạn sinh vào 18/6/1980 = 1+8+6+1+9+8+0=33=3+3=6. Đối chiếu số 6 với kết quả dưới đây.  

Xem boi ngay sinh de biet tai loc va cach tieu tien hinh anh
 
2. Đối chiếu kết quả     - Con số sinh mệnh là 1   Xem bói ngày sinh, số 1 mang ý nghĩa về tính độc lập mạnh mẽ. Người có số sinh mệnh là 1 thường làm việc gì cũng muốn tự mình làm, không thích người khác giúp đỡ. Nếu mở công ty, cơ sở kinh doanh riêng, một mình bạn sẽ kiêm cả ông/bà chủ lẫn nhân viên, việc lớn nhỏ đều tỏ tường.    Khi điều kiện kinh tế cho phép, tiền nhiều, người này thường tiêu tiền hào phóng. Nhưng ngược lại, khi kinh tế eo hẹp, ngoài việc ăn mặc, mọi hoạt động giải trí khác đều được người này loại ra khỏi lịch trình hàng ngày, tiết kiệm chi tiêu, lâu dần cũng thoát khỏi cảnh nghèo khó.      - Con số sinh mệnh là 2   Chủ nhân của con số sinh mệnh là 2 thường có tính cách thuộc hai kiểu điển hình như sau. Một là trong ngoài bất nhất, bên ngoài thì tỏ ra hài hòa, đáng yêu, nhưng bên trong lại hiểm độc, vì lợi ích cá  nhân, nói trở mặt là trở mặt được ngay.   Kiểu thứ hai là thù lâu nhớ dai. Một khi ai đó đã mượn tiền của họ mà không trả hoặc lâu rồi chưa trả được, họ sẽ khắc sâu trong tim, sống để bụng, chết mang theo.   
Xem boi ngay sinh de biet tai loc va cach tieu tien hinh anh
 
  - Con số sinh mệnh là 3   Người có số sinh mệnh là 3 thường không giỏi biểu đạt cảm xúc, ý kiến cá nhân nhưng lại có năng khiếu và niềm đam mê nghệ thuật.    Tuýp người này không coi trọng tiền bạc, vật chất nhưng lại rất quan tâm tới giá trị tinh thần và cả vật chất của những tác phẩm nghệ thuật. Trong tay họ nắm giữ không ít tiền bạc, tác phẩm nghệ thuật có giá trị.      - Con số sinh mệnh là 4   Mang trong mình con số sinh mệnh là 4, bạn luôn thấy thiếu an toàn, tâm hồn mong manh dễ vỡ, có thể bị tổn thương bất cứ lúc nào. Bạn lo lắng, sợ hãi khi cô đơn một mình.    Chính vì thế, bạn luôn tìm kiếm cảm giác an toàn ở phương diện tiền bạc. Bạn lao vào kiếm tiền như điên, tiết kiệm tiền bằng mọi cách, chỉ khi nhìn thấy số tiền tươi rói trong tài khoản ở ngân hàng, bạn mới thực sự cảm thấy bình yên.
- Con số sinh mệnh là 5   Có con số sinh mệnh là 5, chứng tỏ bạn thuộc tuýp cuồng tự do, thích bay nhảy, đi du lịch khám phá những điều mới mẻ. Để thực hiện được sở thích và cũng là những mục tiêu to lớn ấy, bạn hăng say kiếm tiền, làm thêm nhiều việc không quản vất vả.    Có những lúc bạn chi tiêu tiết kiệm tới mức, ăn không dám ăn, mặc chẳng dám mặc, còn luôn than nghèo kể khổ với bạn bè. Nhưng khi tiền đã về túi, bạn bỗng trở thành con người khác, hào sảng và phóng khoáng hơn gấp bội.
  - Con số sinh mệnh là 6   Có con số sinh mệnh này, bạn sở hữu trái tim nhân hậu, tấm lòng hướng thiện cao cả. Chỉ cần người thân, bạn bè gặp khó khăn, bạn sẵn sàng tìm cách tương trợ.    Dù kiếm được rất nhiều tiền, nhưng việc tích lũy cho bản thân người này lại không nhiều. Họ vẫn giữ thói quen sống giản dị, tiết kiệm, nhưng vì hào phóng giúp đỡ người khác nên đôi khi bản thân chịu không ít thiệt thòi.
Xem boi ngay sinh de biet tai loc va cach tieu tien hinh anh
 
  - Con số sinh mệnh là 7   Nằm trong nhóm người có số sinh mệnh là 7, tài vận của bạn cực tốt. Thêm nữa, bạn cũng rất nhạy bén với các con số, giỏi phân tích, tính toán. Dù là khi kiếm được nhiều tiền hay ít, khi giàu sang hay nghèo khó, bạn vẫn tìm ra cho mình hướng đi phù hợp, tính toán đâu ra đó.   Nhìn chung, đời sống vật chất của người này phong phú vô cùng. Phần lớn đều có mức sống khá giả, giàu có.     - Con số sinh mệnh là 8   Đối chiếu kết quả thấy con số sinh mệnh của bạn là 8, chứng tỏ khả năng tiết kiệm, tích lũy tiền bạc của bạn rất lớn. Hơn ai hết, bạn tự lực cánh sinh, biết quý trọng giá trị đồng tiền, vì thế chi tiêu cũng có sự tính toán kỹ càng.   Với bạn, dù đột nhiên có được món tiền trúng số, lãi từ cổ phiếu… thì đó cũng chỉ là may mắn nhất thời, không quan trọng. Điều cốt lõi là ở giá trị tích lũy và thực lực cố gắng ở mỗi người.     - Con số sinh mệnh là 9   Có con số sinh mệnh là 9, bạn không giỏi trong việc quản lý tiền bạc. Thậm chí, lúc cơ hàn, tinh thần bạn bấn loạn, lo lắng không yên. Chính vì thế, càng khó tìm ra hướng đi đúng giúp bạn nhanh chóng thoát nghèo.   Dẫu vậy, khả năng tích lũy tiền bạc của người này rất tốt. Nhờ vào lối sống cần kiệm mà họ nắm trong tay khối tài sản khá, để rồi những lúc xảy ra sự cố bất ngờ họ có thể tự tin ứng phó kịp thời.  
Ngọc Diệp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh để biết tài lộc và cách tiêu tiền

Các lễ hội ngày 16 tháng 1 Âm Lịch - Hội Chọi Trâu

Một số lễ hội tiêu biểu được tổ chức vào ngày 16 tháng giêng âm lịch: Hội Chọi Trâu ở Vĩnh Phúc,Hội Đền Hạ Lũng,Hội Kì Yên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 16 tháng 1 Âm Lịch - Hội Chọi Trâu

Các lễ hội ngày 16 tháng 1 Âm Lịch - Hội Chọi Trâu

1. Hội Đền Hạ Lũng

Thời gian: tổ chức từ ngày 16 tới ngày 18 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: phường Đằng Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn và ghi nhớ công đức của Ngô Quyền (người mở đầu thời đại tự chủ cho nước ta, đại thằng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938).

Nội dung: Mở đầu hoạt động tế lễ, dâng hương, sau đó mọi người có thể tham quan di tích lịch sử bãi cọc Bạch Đằng.

2. Hội Chọi Trâu

Thời gian: Tổ chức vào ngày 16 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: xã Hải Lựu, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn và ghi nhớ công đức của Thành hoàng làng là Lữ Gia (thừa tướng của nước Nam Việt, thời Triệu Đà).

Nội dung: Tương truyền, lễ hội có từ thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, lúc này nhà Hán xâm lược nước Nam Việt của Triệu Đà, triều đình nhà Triệu tan rã Lữ Gia lui quân về núi Hải để tổ chức đánh giặc. Sau mỗi trận thắng, Lữ Gia lại cho tổ chức chọi trâu để động viên quân sĩ, trâu sau khi chọi được giết để khao quân. Lữ Gia mất, dân làng Hải Lựu thờ làm Thành hoàng của làng và lễ hội chọi trâu cũng được bắt đầu từ đó.

Theo tục lệ, tất cả các con trâu tham gia chọi, sau khi kết thúc cuộc đấu sẽ đem ra thịt. Người dân nơi đây quan niệm rằng, ăn thịt trâu chọi sẽ mang lại nhiều may mắn và sức khỏe trong những ngày đầu năm mới.

3. Hội Kì Yên

Thời gian: 18 đường Mai Văn Ngọc, phường 10 quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Phật, thần và các vị Tiền hiền, Hậu hiền.

Nội dung: Lễ hội bắt đầu bằng nghi thức tụng kinh cầu an của Phật giáo, tiếp theo là phần múa Lân và biểu diễn võ thuật cổ truyền, các nghi thức tế Thần, tế tiền hiền, Hậu hiền. Buổi tối có phần xây chầu, đại hội và hát bội. Ngày thứ 2 và ngày thứ 3 của hội có nghi thức tế nam quan, nữ quan theo truyền thống Bắc bộ. Kết thúc lễ hội là nghi thức tôn Vương và hồi chầu theo truyền thống các đình Nam bộ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 16 tháng 1 Âm Lịch - Hội Chọi Trâu

3 nguyên tắc dưỡng sinh của Phật giáo giúp sống thọ

Dưỡng sinh là một trong những cách tu thân của nhà Phật. Dưới đây là 3 nguyên tắc sống lành mạnh của Phật giáo, bạn đọc nên tham khảo và áp dụng.
3 nguyên tắc dưỡng sinh của Phật giáo giúp sống thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưỡng sinh là một trong những cách tu thân của nhà Phật. Thân thể có khỏe mạnh thì chất lượng cuộc sống mới được nâng cao. Dưới đây là 3 nguyên tắc sống lành mạnh của Phật giáo, bạn đọc nên tham khảo và áp dụng.


3 nguyen tac duong sinh cua Phat giao giup song tho  hinh anh
 
Phật giáo nổi tiếng với lối sống lành mạnh, nghiêm khắc với bản thân nên có rất nhiều nhà sư trường thọ. Bí quyết chính là 3 nguyên tắc dưỡng sinh cơ bản dưới đây.   1. Ăn chay   Nguyên tắc dưỡng sinh của Phật giáo chính là ăn chay, ăn các loại thực phẩm tốt cho sức khỏe, thanh đạm. Người theo Phật thức ăn chủ yếu là thực vật, rau xanh chứa nhiều vitamin và khoáng chất thiết yếu rất có lợi đối với cơ thể. Việc bài trừ thực phẩm có nguồn gốc động vật trong bữa ăn hàng ngày có tác dụng tránh vi khuẩn xâm nhập, hạn chế u xơ và những loại bệnh do dư thừa chất béo gây ra. Ngoài ra, người tu hành cũng bổ sung đạm thông qua các nguồn thực phẩm khác như đậu, nấm nên vẫn đảm bảo cân bằng dinh dưỡng.  Người không ăn chay trường có thể lựa chọn ăn chay tuần, ăn chay cách nhật hoặc đôi lúc có những tuần chay để thanh lọc cơ thể, đẩy độc tố ra bên ngoài.   2. Đi bộ hàng ngày   Vận động là một trong những phương pháp sống lâu và sống khỏe đặc biệt hiệu quả. Kém vận động sẽ khiến cơ thể trì trệ, thân thể rệu rã, ảnh hưởng tới hoạt động của tất cả các cơ quan.   Phật giáo khuyến khích Phật tử đi bộ hàng ngày và tự làm các công việc trong nhà. Đi bộ không chỉ giúp tăng cường sức khỏe mà còn là hình thức dưỡng tâm, thanh tỉnh tâm hồn, sảng khoái tinh thần. Vận động chân tay thì đầu óc cũng tỉnh táo.   Chọn chuẩn cách dưỡng sinh theo mùa Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 5) Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 4) 12 nguyên tắc không cần ăn chay trường mà vẫn khỏe mạnh
3. Thường xuyên mơ hồ

3 nguyen tac duong sinh cua Phat giao giup song tho  hinh anh
 
Tâm tính khỏe mạnh tức là đời sống tinh thần bình an, dưỡng sinh quý ở dưỡng tâm, dưỡng thành một tâm an lạc. Nhân sinh vốn lắm quanh co, khó có thể cầu toàn mà tròn vẹn, không thể chuyện gì cũng được như ý nên người sống trên đời không thể cưỡng cầu bản thân mười phân vẹn mười, phải hướng tới sự tích cực, nhìn vào ưu điểm thay vì khuyết điểm.   Truy tìm danh lợi mỏi mệt, tính toán chi li lắm muộn phiền, lo được lo mất rất khổ, oán trời trách đất chỉ càng khổ tâm. Tức giận người khác là trừng phạt chính mình, phiền não vì khuyết điểm của mình chỉ tự làm mình khổ tâm. Hối hận là bất đắc dĩ tàn phá bản thân, sầu lo chỉ dùng để khiến mình thêm lo lắng.   Vì thế, đôi khi mơ hồ một chút, bình thản một chút, rộng rãi một chút thì cuộc sống dễ dàng hơn, chính mình cũng hạnh phúc hơn. Không cần cố chấp, không cần hoàn mĩ, xem nhẹ thế sự, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không có, để bản thân được an khang.    Người hướng Phật chỉ một lòng tín Phật, không quản chuyện nhân gian nên ít bận lòng. Người thường cũng có thể để bản thân mơ hồ, chuyện cho qua được thì để nó trôi qua.    Ăn chay - đường Phật dẫn dưỡng sinh, dưỡng tâm Sinh hoạt chuẩn ngũ hành cho cơ thể luôn khỏe mạnh
► Cùng đọc châm ngôn cuộc sống và suy ngẫm

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 nguyên tắc dưỡng sinh của Phật giáo giúp sống thọ

TƯ VẤN, THIẾT KẾ XÂY DỰNG NHÀ Ở

Tư vấn thiết kế xây dựng nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

I – Xác định hướng xây dựng hợp phong thủy

Chủ nhà sinh năm Nhâm Tuất 1982, dự kiến xây nhà trong năm 2016.

Về phương vị xây dựng và bối cảnh địa hình có đặc điểm như sau:

+ Hướng chính Đông quay ra đường giao thông.

+ Hướng chính Nam quay sang một nhà hàng xóm, nhưng có thể mở một cổng để đi vào nhà

+ Còn lại các hướng Tây, Bắc, Đông Bắc, Tây Nam đều không có đường đi vào nhà, hoặc bị lệch so với thế đất.

                                    Tư vấn xây dựng nhà cửa hợp phong thủy cho người sinh năm 1982

  • Như vậy có thể kết luận sơ bộ hai hướng Đông và Nam có thể xây dựng nhà ở trong năm nay.
  • Đối với hướng Đông

+ Về Bát trạch: Chủ nhà sinh năm 1982 quái mệnh thuộc Ly, vào nhóm Đông tứ mệnh, nhà ở hướng Đông là phương vị Sinh khí đại cát

+ Về Huyền không: Chính hướng là 109 độ la bàn. Có thể xây dựng nhà theo sơn Tân hướng Ất gặp cách song tinh hội tọa, mở thành môn phương Tị (cung Tốn) để nắm vượng khí. Đặc biệt hơn, Lưu niên phi tinh năm Bính Thân 2016 Nhị hắc nhập trung cung, Cửu tử tới hướng Đông, đang trong vận 8, nên Cửu tử là sinh khí, vượng khí cát lợi. Sang vận sau có thể mở thành môn ở phương Dần là vượng khí. Tuy nhiên, trên cơ sở khảo sát thực tế địa hình, phía đối diện bên kia đường, nhà hàng xóm cao hơn, mái nhọn chĩa thẳng, mặc dù, mái nhọn thuộc Hỏa xung chiếu và qua một cái ao, nhưng hung khí vẫn rất nặng nề, buộc lòng phải tìm một phương vị khác, có tính an toàn hơn.

  • Đối với hướng Nam

+ Về Bát trạch: Quái mệnh chủ nhà thuộc Ly, gặp phương Nam chính là phương Phục vị, rất là cát lợi

+ Về Huyền không: Chính hướng có tọa độ 197 độ thuộc sơn Quý hướng Đinh

  • Về sát tinh trạch vận: Năm Thân – Tý – Thìn thuộc Thủy cục mà xây nhà theo các phương Tị, Ngọ, Mùi (tam hội Hỏa cục phương Nam) là phạm tam sát về phương vị.
  • Năm 2016 sao Lục bạch bay tới hướng Nam, Lục bạch là chính quan tinh đang thất lệnh, dễ xảy ra nguy cơ kiện cáo
  • Nhị hắc nhập trung cung trong năm 2016 chủ những điều thị phi miệng tiếng, tranh chấp, cự cãi. Tổng hợp ba điều trên thì nguy cơ xảy ra kiện cáo, thị phi, hình pháp rất cao.
  • Hóa giải những bất lợi trên bằng các biện pháp sau:
  1. Sau khi xây nhà xong, đặt một chum nước to trước sân, hướng giữa cửa và thả một con cá màu đen. Vì nước có tác dụng hóa giải tam sát trạch vận. Đối với Lục bạch thuộc hành Kim, Kim Thủy tương sinh nên sát khí bị nhuyễn hóa, một con cái đen thuộc hành Thủy, kết hợp với Lục bạch tạo nên tổ hợp số sinh thành Nhất lục cộng tông nên hóa giải hung hiểm
  2. Chọn ngày giờ tốt để khởi công động thổ, và động thổ tại phương vị sinh khí chính Đông sẽ hóa giải hầu hết sát khí và bất lợi trong bối cảnh này.

                           Tư vấn xây dựng nhà cửa hợp phong thủy cho người sinh năm 1982

   Năm Thân tạo nên tam hợp Thân - Tý - Thìn mà xây dựng theo hướng Nam là phạm tam sát. Lưu niên Bính Thân phi tinh thì Lục Bạch tới hướng Nam

+ Bàn về trạch vận.

Sau khi lập tinh bàn ta sẽ thấy căn nhà đắc cách song tinh hội hướng, đả kiếp cung Ly, phù hợp với địa hình trong thực tế, đằng trước có một khoảng đất trống khá rộng, xa hơn là một ngôi nhà tương đối cao, sau lưng (phương tọa) là một bãi đất bằng của nhà hàng xóm. Xét thấy với bố cục này chủ nhà có điều kiện phát triển, đinh tài đều lưỡng đắc. Cụ thể từng phần như sau:

                               Tư vấn xây dựng nhà cửa hợp phong thủy cho người sinh năm 1982

  • Trung cung: Có tổ hợp phi tinh sơn hướng là 4 – 3 tạo nên thế quẻ Phong lôi Ích (Là một quẻ cát trong Kinh dịch, nói về tính chất giúp ích, phụ tá đắc lực, cống hiến cho xã hội, cống hiến cho cộng đồng mà được trọng vọng, danh lợi song thu), vận tinh 8, kết hợp với hướng tinh 3 tại trung cung tạo nên tổ hợp số sinh thành 3 – 8 làm bằng vô cùng cát lợi. Tuy nhiên, cặp sao 4 – 3 đều là tổ hợp sao thất lệnh, và cả hai sao này đều mang hành Mộc, nên những người trong gia đình dễ mắc các bệnh về gan, mật, gân, và tay chân. Hóa giải bất lợi trên bằng cách tại khu vực trung tâm căn nhà nên sơn màu đỏ và tăng cường thiết bị chiếu sáng, vì Mộc sinh Hỏa, nên bất lợi được hóa giải, tăng cường điều may mắn cát lợi
  • Phương tọa có tổ hợp 9 – 7 tọa thành quẻ (Hỏa Trạch khuê, là quẻ xấu, nói lên tình cảnh, chia ly xa cách về gia đạo), cho nên không nên dùng nó làm phòng ngủ của vợ chồng. Vận tinh 4 tại khu vực này kết hợp với sơn tinh 9 tạo nên tổ hợp số sinh thành 4 – 9, cát lợi, tuy nhiên, sơn tinh ở phương vị này phạm phản ngâm( sao Cửu tử thuộc Hỏa dễ mắc các bệnh về tim mạch, huyết áp), nên hóa giải bằng một chiếc bình gốm lớn, hoặc một quả cầu thạch anh màu vàng, vì Hỏa sinh Thổ, bất lợi bị tiêu biến.
  • Phương hướng (Chính Nam) có tổ hợp sao 8 – 8 là cặp sao đương vượng, có thể khiến chi út trong nhà hiển đạt về công danh, bất động sản, ruộng vườn ngày càng được mở rộng. Điều quan trong hơn là vận tinh 3 kết hợp với, sơn tinh, hoặc hướng tinh tạo nên tổ hợp số sinh thành 3 – 8 làm bằng. Tuy nhiên, phải giữ gìn môi trường ở khu vực đằng trước nhà, không được để ô nhiễm, bẩn thỉu, trường khí dơ trọc, rác thải bừa bãi mới thực sự là cát lợi.
  • Phương vị Tây Bắc của căn nhà có tổ hợp sao 5 – 2 là một tổ hợp xấu, vì hai sao này đều là sát tinh thất lệnh, 5 – Liêm trinh, Mậu kỷ sát, Ngũ hoàng sát, Ôn hoàng. 2 – còn gọi là sao Bệnh phù, vì thế khu vực này các ít hoạt động càng tốt, cũng tuyệt đối không được để các máy móc, hoạt động rung chuyển. Tốt nhất là nên để làm phòng vệ sinh. Theo bát trạch, phương vị Tây Bắc căn nhà đối với chủ nhân cũng là phương vị xấu, nên để làm phòng vệ sinh để trấn áp hung khí. Tại khu vực này tuyệt đối không được làm bếp hay phòng ăn, vì dễ gây bệnh dạ dày, tiêu hóa, ngộ độc thực phẩm, nặng thì có thể dẫn đến ung thư dạ dày… (Lá số Tử vi của hai vợ chồng đều có mệnh Thiên đồng hãm. Dù Thiên đồng là bậc thầy của sát tinh, khó khăn, trở ngại, nhưng lại cực kỳ nhậy cảm với bệnh tiêu hóa, và an toàn vệ sinh thực phẩm)…
  • Phương vị chính Tây trong căn nhà có tổ hợp sao 6 – 1 là cặp số sinh thành, vận tinh tại vị trí này là 1, kết hợp với phi tinh lưu niên là 4 tạo nên tổ hợp nhất tứ đồng cung, phát mạnh về nghiệp văn chương, khoa bảng, lập nghiệp bằng tri thức, nên tại phương vị này có thể sử dụng làm phòng đọc sách, hoặc bếp ăn, sẽ tốt (nếu là làm bếp nên quay hướng nấu về phương vị chính Đông, vì nguyên tắc của bếp là tọa hung hướng cát, miệng bếp quay về phía Đông hút sinh khí, nuôi dưỡng con người tràn dầy sức khỏe, sắc sảo về trí tuệ và tự tin trong cuộc sống).
  • Phương vị Tây Nam, có tổ hợp 1 – 6 tạo nên thế quẻ, Thủy thiên nhu, nói về việc nuôi dưỡng, chăm sóc, 1 – 6 cùng gốc là cặp số sinh thành, sao Bát bạch trong năm lại tới hướng đó, tuy nhiên, là phương vị phạm Thái tuế tinh quân, làm phòng đọc sách, hoặc phòng ăn sẽ cát lợi.
  • Phương vị Đông bắc có cặp số sinh thành 2 – 7, tuy nhiên tại phương vị này năm 2016  Ngũ hoàng lưu niên chiếu tới, không nên làm phòng ở trẻ nhỏ. Có thể hóa giải bằng cách treo một chiếc chuông gió bằng kim loại có 6 thanh tại đó, hoặc treo chuỗi tiền xu cổ có 6 đồng
  • Phương vị chính Đông có tổ hợp sao 2 – 5 bất lợi cho sức khỏe, nên sử dụng các vật dụng bằng kim loại để hóa giải bất lợi trên
  • Phương vị Đông Nam nếu mở thành môn sẽ nắm được vượng khí, đó là nơi vượng khí được thu nạp vào. Nên mở cổng tại phương này, sẽ thu được nhiều lợi ích kinh tế trong sự nghiệp. Tuy có tổ hợp 3 – 4 nên hóa giải bất lợi của tổ hợp này bằng cách sơn cổng màu đỏ và treo một chiếc đèn lồng màu đỏ, ban đêm có thể thắp sáng để trang trí, vừa hóa giải bất lợi vừa tăng cường thêm vượng khí từ thành môn, sang năm 2017, sao Cửu tử bay tới phương vị đó thì chiếc đèn lồng vẫn còn phát huy được tác dụng của nó, tăng cường vượng khí trong các hoạt động nghề nghiệp, dồi dào về tiềm lực kinh tế.

                             Tư vấn xây dựng nhà cửa hợp phong thủy cho người sinh năm 1982

Căn nhà tuy phạm Tam sát phương vị khi khởi công và gặp chính quan sát tại phương vị chính hướng, tuy nhiên, căn nhà là cách đả kiếp cung Ly, khiến vận khí 9 cung được tương thông, lại gặp nhiều tổ hợp số sinh thành nên triển vọng sẽ xuất hiện quý nhân hiển đạt. Nên vận dụng kỹ lưỡng, linh hoạt, sáng tạo các biện pháp hóa giải bất lợi và bảo vệ môi trường trong lành, vì khoa học phong thủy, cũng như khoa học địa lý, sinh học hiện đại đều chú trọng hướng tới một môi trường trong lành, tốt cho sức khỏe rồi mới tới việc tàng phong tụ khí, phát triển trong sự nghiệp.

II – Chọn ngày tốt khởi công

Ngày 08/ 04 dương lịch là ngày 02/ 03 âm lịch. Tức là ngày Canh Thân

Ngày này can chi tương hòa, bản thân nó đã rất cát lợi.

Ngày này là ngày hoàng đạo, lại là ngày Đại minh cát nhật, Cửu tinh là Cửu tử - là sao sinh khí, với ba yếu tố cát lợi trên tạo nên nền tảng, chỗ dựa vững chắc như tam cương trong xã hội. Với ba yếu tố đại cát trên có thể hóa giải những điều bất lợi từ các yếu tố khác, và nâng đỡ, dìu dắt con người hướng tới thành công, vinh quang

Ngày này là ngày có sao Tam hợp, Thiên tài, Nguyệt ân nên may mắn, khởi công tạo tác sẽ tăng thêm tài lộc

Trực ngày là Trực Định nên rất tốt với việc khởi công động thổ.

Giờ Hoàng đạo là giờ Thìn tức là 7 – 9 sáng, có thể khởi công, động thổ

Như vậy bằng việc lựa chọn ngày tốt, giờ tốt để khởi công đã hóa giải được tam sát phương vị như ở trên đã kể.

III – Văn khấn lễ động thổ

Thái tuế đóng Bính Thân, tháng Nhâm Thìn, ngày Canh Thân.

Hoàng Thiên hậu thổ chứng giám !

Chư vị long thần, thổ địa, táo quân xét soi !

Tổ tiên ông bà tại thượng !

Phận con cháu nhỏ bé bất tài con là Nguyễn Văn A, cùng vợ con là Trần Ngọc C và các cháu, cúi đầu lậy dưới, có lời tâu trình với trời đất, thần linh và tổ tiên như sau:

Từ xưa tới nay, dòng họ ta vẫn lấy việc ăn ở hiền lương, thẳng ngay, hiếu đễ làm đầu, cư xử không có gì quá quắt, đối xử với họ hàng và người làng người xóm chưa bao giờ phạm phải điều gì lỗi đạo.

Cha con và mẹ con vào thời kháng chiến là một cán bộ sỹ quan trung thành, đóng góp nhiều công lao vào sự nghiệp cứu nước, bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc. Đến thời kỳ xây dựng kinh tế và công cuộc đổi mới, cha mẹ chúng con cũng dự phần công lao bé nhỏ

Đến thời hiện nay vợ chồng chúng con một người từng làm giáo viên dạy dỗ học trò, một người làm trong ngành y tế luôn nỗ lực hết mình nêu cao y đức, cứu vớt, chăm sóc, chữa trị, bệnh tật cho bệnh nhân, cứu khổ phò nguy, giải trừ tai ách

Thường ngày chúng con tự biết không có tài đức gì nên chẳng bao giờ dám làm điều bất hiếu, lỗi đạo, luôn lấy thanh liêm, cần kiệm, siêng năng, hiếu đễ làm đầu.

Nay vì, nhà cửa đã cũ, nhìn cơ đồ của ông cha, tổ tiên xuống cấp, lòng con nhớ tới công ơn của tổ tiên mà không khỏi bùi ngùi, thương nhớ. Không những nhà cửa xuống cấp, mà vợ con còn sắp sinh em bé, căn nhà cũ trở nên chật hẹp. Kinh dịch có quẻ Trạch Hỏa cách ý tượng thay cũ đổi mới là điều phải đạo và nên làm.

Nay nhờ sự che chở độ trì của thần linh, ơn trên

Nay nhờ hồng phúc và công lao to lớn như trời biển của tổ tiên nên vợ chồng chúng con đã có đủ điều kiện để xây dựng nhà mới.

Một vì, nếu cao công đức của tổ tiên, nên chúng con xây lại nhà để có nơi khang trang quanh năm bốn mùa lo việc tế tự, thờ phụng cúng giỗ

Hai vì, nhờ sự phù hộ độ trì của tổ tiên nên chúng con ăn nên làm ra, có thể gây dựng nổi cơ đồ, khiến cho rạng rỡ tông đường

Ba vì, có nhà cửa vững chãi, khang trang nên chúng con an cư lạc nghiệp, phấn đấu nhiều hơn trong sự nghiệp, cống hiến nhiều hơn cho quê hương, đất nước, cộng đồng.

Bốn vì, Cũng là để các cháu nhỏ có môi trường rộng rãi phấn đấu hơn trong học tập.

Nay con sửa soạn, cơm canh, rượu thịt, trai giới ba ngày, tắm gội sạch sẽ, lại chọn thợ tốt, kén ngày lành cúi đầu thượng trình lên hoàng thiên hậu thổ, chư vị tôn thần, và ông bà tổ tiên. Trước là báo cáo công việc xây dựng, sửa đổi, kiến thiết, sau là kính nhờ hồng phúc uy linh của ơn trên, tổ tiên ông bà khôn thiêng phù hộ che chở bảo vệ độ trì cho chúng con được may mắn trong thi công, ban cho chúng con sức khỏe, trí tuệ, may mắn và con cháu đời đời được hưởng công ơn, phúc lộc. Con cùng vợ con và các cháu xin nguyện, đoàn kết yêu thương một lòng, ngày càng tu sửa đức chính và cống hiến nhiều hơn cho nhân dân và cộng đồng.

Các đấng ơn trên và tổ tiên xin chứng giám cho lòng thành và thượng hưởng !

Xin chứng giám cho lòng thành và thượng hưởng !

Xin chứng giám cho lòng thành và thượng hưởng !

(Sau khi đọc văn khấn thì động thổ, cuốc 9 nhát ở phương vị chính Đông)

(Trước khi động thổ quán triệt anh em thợ và hàng xóm đến giúp không được nghịch cuốc xẻng, dụng cụ và đào bới đất cát trước. Sau khi khấn xong, động thổ, đợi tàn hương thì hóa vàng mã, hóa văn khấn. Nhắc nhở an toàn lao động, giờ giấc, kỷ luật, chất lượng tiến độ với anh em thợ thuyền, động viên, khích lệ tinh thần hăng say của các đội ngũ thợ)

Hải Triều


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: TƯ VẤN, THIẾT KẾ XÂY DỰNG NHÀ Ở

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd