Mơ thấy xác chết: Một đời hạnh phúc mỹ mãn –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Gần 6 giờ chiều, tại một phòng phám sản trên phố Hoàng Cầu (Đống Đa, Hà Nội) đông nghịt chị em ngồi chờ. Trong số này, chỉ có 3-4 người đến khám thai, vài phụ nữ khám phụ khoa, đặt thuốc, còn đông nhất là số chị em muốn siêu âm trứng.
"Bác sĩ canh trứng mát tay lắm, cơ quan em 4-5 người cùng rủ nhau tới đây canh, cứ tan giờ làm là đến", Thuận, 28 tuổi thì thầm khi ngồi đợi đến lượt siêu âm. Thuận cho biết, con gái đầu lòng của cô mới 2 tuổi rưỡi, nhưng nghe nói con trai mà đứng chữ Nhâm thì tài, mà lại còn Nhâm Thìn nữa thì càng tốt nên hai vợ chồng đang cố đẻ con trai vào năm sau.
Trước khi tìm tới phòng khám này, Thuận đã tham khảo rất nhiều tài liệu hướng dẫn sinh con theo ý muốn trên mạng, thậm chí còn in cả "cẩm nang" về để hai vợ chồng nghiên cứu và áp dụng, từ thực đơn ăn uống, tư thế, ngày quan hệ... "Mọi việc khác mình có thể tự làm, riêng canh ngày rụng trứng để 'yêu' là phải nhờ bác sĩ", Thuận bày tỏ.
Theo bác sĩ dặn, từ ngày thứ 12 của chu kỳ, Thuận sẽ tới siêu âm trứng để xác định thời điểm rụng. "Có ngày 'cao trào' em phải tới siêu âm 3 lần, sáng, trưa, tối để xem chính xác trứng rụng lúc nào còn 'đúc' cu tí. Ông xã cũng phải trực chiến, vợ ới là về ngay. Nhưng chẳng hiểu vì căng thẳng quá hay sao mà mấy chu kỳ rồi mà em vẫn chưa đậu", Thuận kể.
Cô cho biết, để chắc ăn hơn, bác sĩ còn giúp cô bơm nước muối vào vùng kín trước khi vợ chồng "gần gũi".
"Công cuộc 'săn rồng' mệt lắm, nhưng chồng em là con trai một, đứa thứ hai mà vẫn là con gái thì chắc lại phải đẻ tiếp", Thuận thổ lộ.
Cũng mong đậu thằng cu như Thuận, nhiều chị em không ngại tốn thời gian, tiền bạc tìm tới các phòng khám sản phụ khoa nhờ canh trứng, tư vấn sinh con trai. Tại hầu hết các phòng khám tư của những bác sĩ có tiếng ở Đê La Thành, Hoàng Cầu, Kim Ngưu, Cầu Giấy, Hà Đông... dịch vụ này đều sẵn sàng và khá hút khách. Cũng có một số chị em eo hẹp thời gian, ngân sách thì tự tham khảo tài liệu rồi tính toán, áp dụng.
Ngồi đợi tại một phòng siêu âm tư nhân trên đường Trần Bình, Cầu Giấy, Hà Nội, chị Phượng (Phú Diễn, Từ Liêm) cho biết, vì bận công việc, lại phải lo cho con nhỏ, ban đầu, chị tự mua que thử rụng trứng về canh nhưng không được như ý nên đành đi siêu âm trứng cho chắc ăn. "Ở đây họ chỉ chuyên siêu âm chứ không khám sản phụ khoa nên không tư vấn được nhiều, mình phải tự tính toán thêm, nhưng được cái gần nhà nên theo có thể tới thường xuyên", chị nói.
Dù không có chuyên môn về sản khoa, nhưng khi được yêu cầu canh trứng sinh bé trai, cô kỹ thuật viên của phòng siêu âm này cũng hướng dẫn tận tình: "Nếu chu kỳ của chị ngắn, dưới 28 ngày thì cứ tầm khoảng ngày thứ 8 thì chị bắt đầu tới, còn chu kỳ dài hơn thì cứ 10 ngày qua đây, sau đó tùy vào kết quả siêu âm, bác sĩ sẽ hẹn tiếp".
Không chỉ áp dụng các cách "hiện đại", nhiều người còn vận dụng theo những cách dân gian, như tính tuổi bố mẹ và tháng thụ thai, hay uống thuốc bắc để tinh trùng khỏe hơn, rồi đeo đá phong thủy...
Bác sĩ Lê Thị Kim Dung, Trung tâm Y khoa Thái Hà (Đống Đa, Hà Nội) cho biết, dù liên tục từ chối nhưng bà vẫn thường xuyên nhận được những lời nài nỉ nhờ tư vấn, siêu âm trứng để sinh con theo ý muốn, trong đó, cứ 10 người muốn sinh con trai thì chỉ có 1 là mong đẻ con gái.
"Việc này năm nào, tháng nào cũng có, nhưng gần đây có vẻ rộ hơn, do các mẹ mong đẻ được quý tử năm rồng. Đa số rơi vào những người sinh con thứ 2, một số là con thứ ba, và không ít người sinh con đầu cũng muốn 'canh'", bà nói.
Không chỉ người Bắc khát con trai, chuyện canh trứng tính ngày để có quý tử cũng bắt gặp tại nhiều nơi khác như TP HCM, các tỉnh miền trung hay nông thôn.
Cưới từ năm ngoái nhưng vợ chồng chị Thanh Ngọc (quận Bình Thạnh, TP HCM) cố “nhịn” cho đến năm nay để chờ sinh "rồng con”.
Chị Ngọc thực hiện rất nghiêm ngặt những “kinh nghiệm dân gian” mà mẹ chồng dặn dò, từ ăn nhiều hải sản, thịt bò, thịt lợn, trứng, hạn chế ăn rau, đến uống thảo dược, nhai mấy chỏm cau non, rồi tập niệm vòng hạt, và chỉ “gần” chồng vào giữa trưa... Tuy nhiên, dù đã “thả” gần nửa năm mà chưa dính, chị lại thấp thỏm vì “vừa sợ không sinh được con năm rồng vừa lo vô sinh".
Ngay từ cuối năm ngoái, trên các diễn đàn online, nhiều chủ đề như “làm sao để sinh con năm rồng” liên tục được lập ra và thu hút hàng nghìn thành viên tham gia, chia sẻ kinh nghiệm hoặc giới thiệu các cuốn “bí kíp”.
Trên trang webtretho, thành viên Nghi Phuong cho biết, chị đã đọc kỹ sách hướng dẫn theo dõi chu kì rụng trứng để căn giờ thụ thai nhưng vẫn chưa “thông".
“Em định tới kỳ rụng trứng tới sẽ tiến hành rửa âm đạo bằng nước chanh, không biết mẹ nào đã làm chưa và có hiệu quả không truyền bí kíp cho em với ạ!”, thành viên này kêu gọi.
Không những muốn sinh quý tử năm rồng, nhiều người mong con ra đời đúng vào giờ, ngày, tháng Thìn. “Em xem Lục thập hoa giáp bảo đẻ con năm Nhâm Thìn nên đẻ vào 9h ngày 01/04/2012, là giờ Thìn, ngày Nhâm Thìn, tháng Giáp Thìn, năm Nhâm Thìn. Em bàn với chồng rồi nhất định phải căn đúng thời khắc này mới được, thậm chí đẻ mổ cũng phải cố”, mebengo chia sẻ.
Theo bác sĩ Kim Dung, hiện nay, hầu như phòng khám sản phụ khoa tư nhân nào cũng sẵn sàng thực hiện việc này: từ tư vấn, siêu âm trứng, tới rửa vùng kín bằng dung dịch kiềm, cho uống thuốc tăng kali...
"Theo luật thì việc lựa chọn giới tính này bị cấm, phạt, nhưng thực tế, có nhiều cách để lách, như thỏa thuận ngầm giữa bác sĩ và bệnh nhân, hay lập lờ giữa việc siêu âm, tư vấn chữa hiếm muộn với việc sinh con theo ý muốn", một bác sĩ sản khác tiết lộ.
Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết, hiện chưa có thống kê nào về hiệu quả thực sự của các biện pháp sinh con theo ý muốn như chế độ ăn, cải tạo môi trường âm đạo... và thực sự những cách này không mấy hiệu quả.
Ông cho biết, sự hình thành giới tính thai nhi chịu tác động của nhiều yếu tố như do di truyền, tính chất của tinh trùng (khỏe hay yếu, số lượng bao nhiêu, khả năng di chuyển ra sao, tinh trùng Y phân lập thế nào...), mức miễn dịch của âm đạo (có trường hợp môi trường âm đạo giết chết tinh trùng Y), thời điểm rụng trứng, thời điểm giao hợp... Hơn nữa, mỗi lần thụ thai, xác suất sinh con trai và con gái theo quy luật tự nhiên là 50/50, nên nhiều người, sinh con trai theo theo xác suất này lại ngộ nhận là do áp dụng phương pháp hiệu nghiệm.
Một bác sĩ tâm lý làm việc tại TP HCM cho biết, chưa có thống kê nào về những người sinh “giờ vàng, ngày vàng” hay “năm vàng” thành công hơn những người còn lại. Hơn nữa chính những tập tục kiêng kỵ dân gian như thế đã góp phần làm lệch cán cân dân số vốn đang là nỗi lo của nhiều quốc gia trên thế giới.
“Sinh được một đứa con thông minh, khoẻ mạnh hay không còn do sức khỏe của thai phụ, chế độ dinh dưỡng, tập thể dục thời điểm , trong và sau thai kỳ… Xét cho cùng nếu sinh được ‘heo vàng, rồng vàng’ mà không chú ý việc giáo dục chúng thì cũng bằng không”, vị bác sĩ nhấn mạnh.
Nguồn: Vnexpress.net Trong phong thủy, góc học tập là một trong những không gian cần được quan tâm hàng đầu bởi nó có thể ảnh hưởng trực tiếp tới chuyện học hành, thành tích thi cử và tương lai con trẻ.
Áp dụng những mẹo phong thủy dưới đây cũng là cách để các bậc cha mẹ giúp con cái học hành giỏi giang, thi cử đỗ đạt.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Đành rằng cái ăn, cái mặc để nuôi sống gia đình và bản thân là việc hàng đầu. Nhưng có thấy nỗi day dứt của những người có tâm huyết muốn truyền cho con cháu biết đời cha mình do ai sinh ra, từ đâu đến, tổ tiên công đức ra sao, ngặt vì gia phả đã mất; có thấy được nỗi niềm của những người trú ngụ ở phương xa không được cha ông truyền cho biết gốc gác của mình từ đâu, họ hàng là ai, khi đó mới thấy đầy đủ ý nghĩa của hai chữ "Gia phả-Gia bảo". Giọt nước rất quý đối với người sống trên sa mạc, còn đối với người sống ven sông, dễ gì mỗi lần "Uống nước" lại phải "Nhớ nguồn".
Thời trước họ nào cũng có gia phả, có họ từng nhà còn có gia phả. Nếu vì thuỷ, hỏa, đạo tặc để mất vàng bạc- của cải gì thì mất, chứ không để mất gia phả. Ngặt vì gia phả ngày xưa viết bằng chữ Hán, hơn nữa từng chi từng nhà chỉ nối phần trực hệ của chi mình, nhà mình, thảng hoặc mới có một cuốn gia phả ghi đời tiếp nối của chi anh, chi em, đến đời hai đời ba là cùng, do đó nếu một chi mất gia phả thì chi khác không thể bổ cứu. Hiện nay, do mất gia phả nên nhiều họ tuy cùng ở với nhau trong một địa phương vẫn không biết nhau, không nhận được quan hệ họ hàng.
Về một ý nghĩa khác, gia phả sở dĩ gọi là gia bảo vì đó là lịch sử của tổ tiên nhiều đời truyền lại, là điều tổ tiên muốn gửi gắm lại cho đời sau. Bất cứ họ nào, bất cứ con người nào trong họ, có tài năng lỗi lạc đến đâu, cá nhân cũng không thể viết được toàn bộ gia phả mà chỉ có kế thừa đời trước và truyền dẫn đời sau.
Gia phả các họ là các nguồn bổ sung tư liệu rất quý, rất dồi dào cho quốc sử, nếu các nhà sử học biết khai thác cũng có khả năng từ gia bảo trở thành quốc bảo.
Trích dẫn từ sách Tử vi đẩu số toàn thư của cụ Vũ Tài Lục dịch và bình chú
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a) Cát hung
b) Hư thực
c) Chủ khách
d) Cường nhược
Cát – Hung: Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào?
Sao tốt lâm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì?
Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với các cung tam hợp và cung xung chiếu:
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:
A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:
B. Cứu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
những đồ vật khác. Đồng tiền xu là một trong những vật phẩm được dùng trong phong thủy để thu hút tiền bạc, thịnh vượng. Một trong những ưu điểm của những đồng tiền xu phong thủy đó là sự đơn giản khi áp dụng. Hơn nữa, bạn có thể sử dụng những đồng xu này cho nhiều nơi khác nhau, không quá khó khăn trong việc chọ vị trí đặt để như các đồ vật thu hút thịnh vượng khác như cóc ngậm tiền hoặc hòn non bộ.
![]() |
![]() |
Trong phòng ngủ, hành Hỏa phát ra năng lượng dương, khi nguồn năng lượng này dư thừa sẽ khiến bạn bị mất ngủ. Hơn nữa, trong phòng ngủ dạng năng lượng này ở thế quá mạnh sẽ không thu hút được vận may về tình cảm mà chỉ tăng cường dục tính ở người đàn ông.
![]() |
Hành Hỏa mang lại vận may cho tình yêu |
Biểu tượng được cho là hiệu quả nhất khi đặt trong phòng ngủ là Song Hỷ. Khi chữ Song Hỷ được trang trí trên chụp đèn hoặc đèn lồng, nó tạo ra năng lượng chủ về sự may mắn trong các mối quan hệ. Đây là cách tốt nhất để đưa năng lượng Hỏa vào phòng ngủ.
Phương pháp thứ hai để cung cấp năng lượng Hỏa cho phòng ngủ là treo màn màu đỏ. Bạn có thể treo màn có biểu tượng tình yêu như đôi chim uyên ương, ngỗng hoặc vẹt xanh để tạo nên không khí hòa hợp, gắn bó.
Lưu ý, không lạm dụng hành Hỏa trong phòng ngủ mà cần phải dung hòa nó với những vật biểu tượng cho tình yêu.
(Theo Phong thủy trong tình yêu)
Tuyển tập những câu nói hay của Charlie Chaplin. Sir Charles Spencer Chaplin, Jr. KBE (sinh ngày 16 tháng 4 năm 1889, mất ngày 25 tháng 12 năm 1977), thường được biết đến với tên Charlie Chaplin (hay Vua hề Sác lô ở Việt Nam) là một diễn viên, đạo diễn phim hài người Anh.
Chaplin là một trong những diễn viên, đạo diễn nổi tiếng nhất trong thời kỳ đầu của Hollywood và điện ảnh Mỹ. Ông được coi là một trong những nghệ sĩ kịch câm và diễn viên hài xuất sắc nhất mọi thời đại của thể loại phim này và là một trong những diễn viên được biết đến nhiều nhất trên thế giới. Charlie Chaplin còn là một trong những nhân vật sáng tạo và có ảnh hưởng nhất của kỷ nguyên phim câm khi ông tự đóng, đạo diễn, viết kịch bản, sản xuất và soạn nhạc cho phim của mình.
Vai diễn chính và được biết đến nhiều nhất của ông là nhân vật kẻ lang thang (The Tramp) (hay còn có tên Charlot – Anh hề ở Pháp, Ý, và nhiều nước khác trong đó có Việt Nam – Sác lô là phiên âm tiếng Pháp của từ Charlot). “The Tramp” là một anh thanh niên sống lang thang nhưng có tư cách và luôn cư xử như một quý ông, trang phục của anh ta luôn là chiếc áo khoác chật, chiếc quần và đôi giày quá khổ, một chiếc mũ quả dưa, cây gậy chống bằng tre và một bộ ria mép chải chuốt.
Trong rất nhiều vinh dự đã được nhận, Chaplin có một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood. Năm 1985 hình của ông được in lên tem của Anh và năm 1994 là tem của Mỹ.
Năm 1992 một bộ phim về cuộc đời Chaplin đã được quay với tựa đề Chaplin, bộ phim được đạo diễn bởi đạo diễn từng đoạt giải Oscar Richard Attenborough và có sự tham gia diễn xuất của Robert Downey Jr., Dan Aykroyd, Geraldine Chaplin (con gái của Charlie, trong phim này cô thủ vai bà nội của mình). Downey đã được đề cử giải Oscar cho diễn viên nam chính năm 1993 với vai diễn trong bộ phim này.
Tôi thích đi dưới mưa để không ai thấy tôi đang khóc.
I always like walking in the rain, so no one can see me crying.
Để thật sự cười, anh phải có thể lấy nỗi đau của mình ra và chơi với nó!
To truly laugh, you must be able to take your pain, and play with it!
Giúp bạn bè khi họ cần thật dễ dàng, nhưng dành cho họ thời gian không phải lúc nào cũng thuận lợi.
To help a friend in need is easy, but to give him your time is not always opportune.
Đây là một thế giới tàn nhẫn, và người ta phải tàn nhẫn để đối phó với nó.
This is a ruthless world and one must be ruthless to cope with it.
Bản chất thực sự của một người đàn ông xuất hiện khi anh ta say xỉn.
A man’s true character comes out when he’s drunk.
Một ngày không có tiếng cười là một ngày lãng phí.
A day without laughter is a day wasted.
Chúng ta ai cũng muốn giúp người khác. Con người là thế. Chúng ta muốn sống bên hạnh phúc của nhau chứ không phải sự khổ sở của nhau.
We all want to help one another. Human beings are like that. We want to live by each other’s happiness, not by each other’s misery.
Tuyệt vọng là ma túy. Nó ru ngủ trí óc vào sự dửng dưng.
Despair is a narcotic. It lulls the mind into indifference.
Cuộc đời là bi kịch khi quay gần, nhưng là hài kịch khi quay xa.
Life is a tragedy when seen in close-up, but a comedy in long-shot.
Con người là thiên tài khi đứng một mình. Nhưng đám đông con người thì tạo ra con quái vật không đầu, một thằng ngu lớn lao, tàn bạo đi bất cứ nơi nào bị thúc.
Man as an individual is a genius. But men in the mass form the headless monster, a great, brutish idiot that goes where prodded.
Tôi nghĩ một trong những điều trớ trêu của cuộc đời là gây ra sai lầm vào đúng lúc.
I suppose that’s one of the ironies of life doing the wrong thing at the right moment.
Không có gì là vĩnh viễn trên thế giới độc ác này – thậm chí cả những rắc rối của chúng ta.
Nothing is permanent in this wicked world – not even our troubles.
Anh muốn ý nghĩa làm gì chứ? Cuộc đời là khát khao, không phải một ý nghĩa.
What do you want a meaning for? Life is a desire, not a meaning.
Tôi không có nhiều kiên nhẫn với vật đẹp đẽ cần phải giải thích mới hiểu được. Nếu nó cần thêm diễn giải từ ai khác ngoài người tạo ra nó, thì tôi tự hỏi liệu nó đã làm trọn mục đích của nó chưa?
I do not have much patience with a thing of beauty that must be explained to be understood. If it does need additional interpretation by someone other than the creator, then I question whether it has fulfilled its purpose.
Sự căm thù của con người sẽ trôi qua, và những kẻ độc tài rồi sẽ chết, và sức mạnh chúng cướp của nhân dân sẽ trở về với nhân dân. Và chừng nào con người còn chết đi, tự do sẽ không bao giờ tàn lụi.
The hate of men will pass, and dictators die, and the power they took from the people will return to the people. And so long as men die, liberty will never perish.
Tại sao thi ca lại phải khiến người ta hiểu được?
Why should poetry have to make sense?
Ngôn từ rất rẻ. Thứ to nhất bạn có thể nói là ‘con voi’.
Words are cheap. The biggest thing you can say is ‘elephant’.
Tôi không tin công chúng biết mình muốn gì; đó là kết luận tôi thu được từ sự nghiệp của mình.
I don’t believe that the public knows what it wants; this is the conclusion that I have drawn from my career.
Kẻ độc tài giải phóng chính mình, nhưng lại nô dịch hóa nhân dân.
Dictators free themselves, but they enslave the people.
Điều đáng buồn nhất tôi tưởng tượng ra được là quen với sự xa hoa.
The saddest thing I can imagine is to get used to luxury.
Những cửa hàng ở vị trí tốt có những đặc điểm sau:
1. Ở nơi trung tâm thành phố
Khu vực này thường là khu trung tâm thương nghiệp, hoạt động buôn bán đông đúc, náo nhiệt, kinh doanh rất tốt. Địa điếm của những cửa hàng này còn được gọi là nơi “tấc đất tấc vàng”.
2. Nơi có mật độ dân cư cao
Nơi dân cư tập trung đông thì tầng lóp người tiêu dùng cũng đa dạng, thanh niên, người già, tầng lớp trung lưu, thượng lưu, dân lao động đều có cả. Dù bán loại hàng hóa nào cũng có một lượng khách tiêu dùng nhất định.
3. Giao thông thuận tiện
Giao thông thuận tiện là điều kiện đầu tiên đi mua hàng của người tiêu dùng. Nếu cửa hàng gần bến xe hoặc nơi xe cộ đi lại thuận tiện, không phải đi bộ xa thì vị trí của cửa hàng đó đáng để các doanh nghiệp suy nghĩ.
4. Khu phố bán hàng
Đối với phần lớn các doanh nghiệp, nếu có thế tập trung vào một nơi cùng bán hàng thì càng có lợi trong kinh doanh.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Nội tâm được ẩn sâu dưới dáng vẻ bề ngoài. Tuy nhiên, những suy nghĩ thầm kín cũng như những hoạt động tâm lý đó lại được thể hiện rất đầy đủ và rõ ràng trên nét mặt. Dù bạn cố tình làm mọi cách có thể để che giấu suy nghĩ của mình, thì chúng vẫn sẽ hiển hiện qua vị trí cũng như sắc diện của ngũ quan trên gương mặt. Hơn nữa, tất cả quý, phúc, phú, danh, lộc trong suốt cuộc đời bạn cũng đều được ẩn giấu trong đường nét của mắt, tai, mũi, lông mày và khuôn miệng. Hãy cùng Nhân tướng học xem tướng đôi mắt để kiểm định lại cuộc sống của mình trong quãng đời đã qua và những thông tin về những tháng năm sắp tới.
Đôi mắt thường được ví với “cửa sổ tâm hồn” vì trong các hoạt động giao tiếp hàng ngày, chúng ta đều rất chú ý quan sát đôi mắt của đối phương, đặc biệt là trong lần đầu gặp gỡ hay khi chào hỏi lẫn nhau. Ấn tượng sâu đậm nhất đọng lại trong tâm trí mọi người sau mỗi lần gặp mặt đều được quyết định bởi hình dạng và thần thái của đôi mắt.
Nguyên nhân là vì đôi mắt của mỗi người không chỉ có khả năng truyền đạt những suy nghĩ nội tâm cũng như cá tính mà còn có thể bộc lộ hành vi cử chỉ của người đó. Đôi mắt đứng đầu trong Ngũ quan và được các lý luận của bộ môn Nhân tướng học vô cùng coi trọng. Đôi mắt là cơ sở phân loại quan trọng trong Nhân tướng học. Theo lý luận của Nhân tướng học thì thông qua quan sát các đặc điểm như kích thước, vị trí, hình dạng, thần thái, của đôi mắt, có thể suy ra được tính cách phẩm chất của người sở hữu đôi mắt đó, thậm chí còn có thể suy ra được vận mệnh của người đó, bao gồm nghiệp học, sự nghiệp, kết bạn, tình cảm, hôn nhân và gia đình.
Bởi vậy, đôi mắt chính là một nội dung trọng yếu của Nhân tướng học. Cũng vì nguyên nhân này nên bài học đâu tiên của Nhân tương học chính là phải nắm vững tất cả những nội dung có liên quan đến xem bói đôi mắt. Đồng thời, có thể vận dụng những hiểu biết vào việc đánh giá, tuyển chọn và sử dụng con người để dẫn dắt cho cuộc sống và sự nghiệp của mình.
Ánh mắt đờ đẫn, vô hồn, đem lại cảm giác không có tinh thần và thiếu tập trung.
Những người có đôi mắt nhu vậy thường lười biếng, không tích cực và cũng không đáng tin cậy. Khi lựa chọn bạn đời, tuyển dụng nhân viên hay lựa chọn đối tác trong kinh doanh,… tốt nhất hãy cố gắng tránh lựa chọn những người có tướng mắt vô hồn như vậy.
Một đôi mắt có thần thái với ánh nhìn có hồn sẽ gây được ấn tượng tốt đẹp với người đối diện. Phần lớn mọi người đều cho rằng những người có đôi mắt có hồn thường rất thông minh, năng động, hoạt bát và giàu nhiệt huyết. Thực tế cũng đã chứng minh rằng, những người có tướng mắt có hồn thường rất tích cực, cầu tiến, sẵn sàng phấn đấu và chịu đựng mọi khó khăn vất vả để khẳng định và nâng cao giá trị của bản thân mình. Dù vấp phải tình huống khó khăn, họ vẫn kiên cường phấn đấu không biết mệt mỏi. Cũng chính vì những phẩm chất này mà họ thường được “quý nhân” giúp dỡ, cũng dễ có được thành công trong sự nghiệp.
Ngược lại, xem tướng đôi mắt của những người mà ánh mắt lúc nào cũng đờ đẫn, vô hồn sẽ đem lại ấn tượng về sự thiếu tinh thần, không tích cực. Thực tế đã chứng minh rằng, những người có ánh mắt vô hôn thường thiếu tích cực, khó có được sự tin tưởng, ủng hộ của mọi người xung quanh. Những người này cũng sẽ không có vận mệnh tốt đẹp, đường đời càng đi lại càng gập ghềnh hơn.
Những người có thái độ không thành khẩn, thiếu trung thực, khi nói chuyện thường nhìn ngang nhìn ngửa, ánh mắt láo liên bất định, đôi khi thiếu tự tin hoặc có mưu đổ trục lợi nhằm lợi dụng ngưòi khác, bạn cần hết sức cảnh giác với những người có ánh mắt nhìn như vậy, bởi nếu không sẽ dễ bị lừa hoặc phải chịu thiệt thòi.
Ngoài việc đánh giá ánh mắt có tinh thần, có sức sống hay không chúng ta còn phải chú ý quan sát ánh mắt có láo liên không, tức là trong khi trò chuyện, đôi mắt không nhìn thẳng vào đối phương, mà liên tục đảo qua đảo lại không cố định.
Người có ánh mắt láo liên thường để lại cho người đối diện ấn tượng về sư thiếu thành khẩn và không tập trung. Vì vậy, mọi người thường không tin tưởng vào lời nói của họ. Chính điều đó sẽ khiến họ gặp khó khăn khi xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh.
Những người có tướng mắt như vậy là thiếu tự tin hoặc đang có mưu đồ trục lợi nhằm lợi dụng người khác. Vì vậy, khi tiếp xúc với những người có ánh nhìn như vậy, bạn cần hết sức cảnh giác, đề phòng để tránh rơi vào cái bẫy mà họ đã giăng sẵn. Nếu không, chắc rằng bạn sẽ dễ bị lừa gạt và phải chịu nhận phần thua thiệt về mình.
Những người có ánh nhìn trong sáng cũng sẽ dễ lưu lại cho người đối diện ấn tượng rất sâu sắc và tốt đẹp. Ánh mắt trong sáng có nghĩa là tròng mắt có rất ít tia máu đỏ, tròng trắng và tròng đen phân biệt rõ ràng, đen trắng tách bạch.
Xem tướng đôi mắt những người có ánh mắt trong sáng cũng sở hữu một tâm hồn và trái tim thuần khiết, làm việc đàng hoàng, quang minh chính đại. Khi gặp phải những khó khăn trong cuộc sống, cũng sẽ luôn có người tốt, quý nhân tự tìm đến giúp đỡ. Nhờ công việc họ sẽ trở nên giàu có, cũng có thể đưa ra được những kế sách đầu tư tài chính rõ ràng, chính xác. Họ cũng sẽ không gặp khó khăn trong chuyện tình cảm. Dù họ làm bất cứ việc gì cũng đều có thể đạt được thành công một cách thuận lợi.
Ngược lại, những người có ánh mắt không trong sáng, nghĩa là phần tròng trắng ngả vàng, có nhiều tia máu hoặc sự phân chia giữa hai phần đen – trắng không rõ ràng, khó có thể có tâm hồn và trái tim trong sáng. Trong đầu họ thường có nhiều suy nghĩ đan xen, không lúc nào được bình yên thanh thản. Khi làm bất cứ việc gì cũng không thuận lợi và dù có cố gắng hết sức trong công việc cũng sẽ xảy ra nhiều vấn đề không mong muốn như bị chèn ép, lấn lướt, không giữ dược tiền bạc, khả năng phán đoán kém cỏi, không xuất sắc, không kiên định trong tình cảm, chần chừ thiếu quyết đoán, nên thường sẽ dẫn tới những kết quả không tốt đẹp.
Một ánh mắt có thần sắc sẽ tạo được ấn tượng sâu sắc và tốt đẹp cho người đối diện. Người có ánh nhìn như vậy thường được đánh giá là thông minh, năng động, luôn tích cực phấn đấu vươn lên trong cuộc sống và công việc. Những người này nếu không thể trở thành lãnh đạo, cũng là người có tài năng nổi bật.
Thông thường, mọi người ưa thích những đôi mắt to tròn, quan niệm những cô gái có đôi mắt to đều xinh đẹp, những chàng trai có đôi mắt to đều đẹp trai, hào hoa. Tương tự như vậy, những người có đôi mắt nhỏ sẽ luôn để lại cho người khác ấn tượng không mấy tốt đẹp. Sở dĩ mọi người có quan niệm như vậy là do bị ảnh hưởng bởi mô típ của phim ảnh hoặc truyện.
Tuy nhiên, trong Nhân tướng học, người có đôi mắt to và người có đôi mắt nhỏ đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Nhân tướng học không nhìn nhận một cá nhân đơn giản và trực quan rằng mắt to là tốt, mắt nhỏ là không tốt.
Khi phán đoán về tướng số của một người nào đó thông qua đôi mắt, chúng ta phải quan sát đồng thời tất cả các cơ quan khác trên gương mặt để có thể đưa ra những nhận định tổng hợp, từ đó rút ra được kết luận chuẩn xác nhất. Trong Nhân tướng học, tất cả các bộ phận trên gương mặt đều có tầm quan trọng ngang nhau, việc phân chia theo thứ tự chỉ là để giúp bạn có thể nắm bắt và lý giải những lý luận đó một cách thuận tiện hơn mà thôi.
Những người có đôi mắt to luôn dễ dàng để lại cho người đối diện một ấn tượng lần đầu tốt đẹp bởi họ rất nhiệt tình, cởi mở. Chính những đặc điểm tính cách này đã giúp họ nhanh chóng xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với mọi người xung quanh.
Họ hiếu kỳ như trẻ nhỏ, thích tìm tòi và khám phá tất cả mọi thứ xung quanh mình. Tuy nhiên, nhược điểm của họ là tâm trạng và suy nghĩ hay thay đổi, có mới nới cũ, đặc biệt là trong vấn đề tình cảm. Vì vậy, dù nảy sinh tình cảm tốt đẹp với đối tượng nhưng họ lại không thể xây dựng được một tình yêu lâu dài, ổn định. Khi hai bên xảy ra xung dột, tranh chấp, họ thường không đủ kiên nhẫn và bình tĩnh để giải quyết mọi việc mà luôn hiếu thắng, thích lấn lướt đối phương.
Tuy nhiên, cũng vì bản tính vui vẻ nên họ thường dễ giận nhưng mau quên, không có tâm lý thù dai. Cá tính thích thay đổi của họ thể hiện rõ ràng nhất trong công việc, làm việc thường bỏ ở nửa chừng, hoặc luôn có xu hướng tìm kiếm công việc khác. Chính cách làm việc như vậy đã khiến họ không thể gặt hái được những thành công lớn. Chỉ có sự bền bỉ, kiên trì đến cùng, mới có thể đạt được mục đích. Những người có đôi mắt to rất phù hợp với các công việc đòi hỏi sự nhanh nhẹn, khéo léo trong giao tiếp như ngoại giao, lễ tân, chăm sóc khách hàng,…
Những người có đôi mắt nhỏ cũng có ưu điểm và khuyết điểm riêng. Người có đôi mắt to thường rất nhiệt tình, vui vẻ trong khi người có đôi mắt nhỏ lại thường trầm tính và bảo thủ hơn. Chính vì đặc điểm này nên họ luôn gặp nhiều khó khăn khi muốn xây dựng mối quan hệ với những người xung quanh. Nếu không được mọi người nhìn nhận và khẳng định khả năng, họ rất dễ nảy sinh tâm lý tự ti, mặc cảm lên sẽ tỏ thái độ tiêu cực, thiếu can đảm và quyết đoán trong mọi vấn đề. Mỗi khi phải đối diện với một sự việc mới lạ, họ thường không có hứng thú tìm hiểu. Họ bảo thủ, thậm chí cố châp, luôn tuân thủ đúng theo nguyên tắc đã đề ra, đôi khi thành ra cứng nhắc, khiến mọi người có cảm giác khó gần. Tuy nhiên, ưu điểm của họ là có tâm hồn trong sáng, chu đáo, thận trọng, không dễ phạm sai lầm. Nếu những người này được giao những công việc quan trọng, họ sẽ cẩn thận làm đến nơi đến chốn một cách tỉ mỉ, chắc chắn. Họ đáng tin cậy hơn nhiều so với quan niệm thông thường.
Mắt to thích hợp với các ngành nghề đòi hỏi sự nhanh nhạy trong giao tiếp, những người mắt nhỏ lại phù hợp với những công việc yêu cầu độ chính xác mạch lạc hành chính, hoạch định chính sách, tài vụ,…
Ngưòi có đôi mắt một mí thường rất bảo thủ luôn suy tính mọi chuyện cần thận, tỉ mỉ trước khi bắt tay vào hành động. Tuy nhiên, nhược điểm của họ là khả năng diến đạt rất kém, không hoạt ngôn nên thường lúng túng khi giao tiếp với người xung quanh. Người có đôi mắt một mí cũng thường tuân thủ nguyên tác, thậm chí đến ngoan cố, cứng nhẳc.
Ngoài ra, quan điểm thể mỹ phổ biến hiện nay lại cho rằng, nam giới đôi mắt một mí sẽ rất có sức hút và đối với người khác giới.
Cũng giống như trường hợp mắt to – mắt nhỏ, đa số mọi người đều thích hai mí hơn là mắt một mí. Chính vì quan niệm này nên các thẩm mỹ viện mới ra dịch vụ phẫu thuật xẻ mí, cắt hai mí. Mắt một mí hay mắt hai mí đều là đăc trưng lộ sự khác biệt trong tính cách của mỗi người. Tuy nhiên, chúng ta cần phải biết rằng người mắt một mí cũng có những ưu điểm riêng biệt, và người mắt hai mí cũng có những nhược điểm của họ.
Hơn nữa, vì còn chịu ảnh hưởng tổng hợp của các bộ phận khác trên gương mặt nên người có đôi mắt một mí không phải ai cũng trầm tính bảo thủ, mà cũng có người rất hoạt bát, năng nổ. Tương tự, không phải tất cả người nào mắt hai mí đều nhiệt tình, năng động, mà cũng có những người trầm tính nhẹ nhàng hơn. Mắt một mí hay mắt hai mí chỉ là một trong những đặc điểm chúng ta tham khảo khi quan sát gương mặt và phán đoán về tính cách của một người. Đặc điểm này tuy không phải là tối quan trọng nhưng cũng không thể bỏ qua.
(theo Tử Vi Số Mệnh)
Khi chỉ có một không gian nhỏ để bố trí phòng tắm, điều bạn quan tâm tới đầu tiên là làm sao WC được rộng rãi, lối lưu thông tiện lợi.
![]() |
Ba khu vực không thể thiếu là bồn cầu, nơi tắm và chỗ rửa tay. Bạn cần tách biệt khu vực khô và ướt để đảm bảo vệ sinh, tránh trơn trượt. |
![]() |
Để tạo cảm giác phòng được rộng rãi, màu trắng là tông hợp lý nhất. |
![]() |
Nhưng đó không phải là nguyên tắc bất di bất dịch, bạn có thể kết hợp màu sáng với các tông trầm. |
![]() |
Bạn cũng có thể tạo điểm nhấn bằng cách sử dụng một mảng tường màu sắc hoặc thảm họa tiết. |
![]() |
Gương soi vừa cần thiết trong phòng vừa là chi tiết giúp phòng rộng hơn. Bạn nên lựa chọn loại gương lớn hơn thông thường. |
![]() |
Nếu có thể, bạn nên bố trí một ô cửa nhỏ lấy sáng giúp WC được thoáng đãng và khô hơn. |
![]() |
Trong diện tích hạn chế, bạn nên làm tủ âm tường hay chọn bồn tắm nhỏ hơn một chút. |
Lam Huyền (Theo Karmastream)
![]() |
![]() |
![]() |
► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả công cụ Bói tình yêu và Xem ngày cưới chuẩn xác |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Tuy không nằm ở vị trí chủ đạo của ngôi nhà, phòng tắm giữ vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe và tinh thần bạn. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về phong thủy phòng tắm hiện đại để cùng làm đẹp thêm “góc không thể thiếu trong mỗi căn nhà”, bạn nhé !
7 điểm quan trọng cho phòng tắm:
- Trần: Nếu trần nhà bị ảnh hưởng bởi hơi nước quá nhiều sẽ dễ bong tróc. Do đó, bạn nên lựa chọn vật liệu trần có tính năng chống thấm, chống ẩm, chịu nhiệt tốt. Phần đỉnh của phòng tắm rửa, vệ sinh cần phải chú ý ngăn ngừa ẩm ướt và đảm bảo độ kín đáo.
- Vách: Cần lựa chọn những vật liệu có tính chống thấm, chống mục và chống biến chất cao. Các loại gạch men dễ lau chùi, nhiều màu sắc đẹp mắt, mau khô là vật liệu ốp tường vệ sinh lý tưởng để bạn lựa chọn. Nên chọn gạch ốp tường có màu tương đồng với gạch nền để tạo ra sự thống nhất cho phòng vệ sinh.
- Sàn: Sàn của phòng tắm, vệ sinh không được tích nước, không trơn trượt để đảm bảo an toàn khi sử dụng. Tốt nhất, bạn nên chọn các loại gạch nền có hoa văn nổi.
- Lỗ thoát nước: Mặt sàn của nhà vệ sinh cần có lỗ thoát nước mạnh và có độ nghiêng nhất định để tránh nước ứ đọng gây trơn trượt, ẩm ướt và tạo ra khí xấu cho nhà bạn.
- Bài trí: Bạn nên trang bị đầy đủ những vật dụng cần thiết cho việc vệ sinh, tắm rửa như bồn tắm, bồn rửa mặt, bồn cầu… Ngoài ra, gương trang điểm, giá treo khăn, tay vịn cho bồn tắm cũng rất cần thiết.
Nên chọn bồn tắm dạng tròn hoặc chữ nhật. Ngoài ra, bồn tắm hình ngũ giác hay hình lục giác cũng rất phù hợp. Không nên chọn bồn tắm hình tam giác hay hình dạng bất quy tắc.
- Cửa: Cửa phòng vệ sinh nên làm bằng chất liệu có tính năng ngăn thấm nước, chồng gỉ, mục. Tránh dùng cửa gỗ. Nên có thanh chắn ở cửa để đề phòng nước thoát ra ngoài.
- Thiết bị điện: Nên chọn loại ổ cắm điện có nắp đậy ngăn nước. Không nên lắp đặt để lộ dây điện ra ngoài. Nước đồng nghĩa với sự giàu sang, phú quý cho nên vị trí của phòng tắm luôn được khoa phong thủy coi trọng.
Quan điểm chung cho phòng tắm:
Nên bố trí phòng tắm ở hướng dữ, tránh đặt đè lên hướng lành (làm ảnh hưởng không tốt đến các sao lành, vận may của đất ở). Ngoài ra, phòng tắm nên đặt chỗ kín, cách xa cửa ra vào chính. Cũng không nên đặt không gian này gần nhà bếp vì bất lợi cho vấn đề sức khỏe.
Bạn nên tách phòng tắm khỏi nhà vệ sinh hoặc bảo đảm khu vực phòng tắm nằm trong phòng ngủ phải có hệ thống thông khí hoạt động tốt.
Màu sắc dùng trang trí phòng tắm sẽ ảnh hưởng đến cảm giác của người dùng. Xu hướng phòng tắm hiện nay đang hướng tới việc lựa chọn những gam màu “organic” gần với thiên nhiên như xanh dương, xanh lá cây… Dù chọn màu gì, bạn vẫn có thể tạo một không gian thư giãn với những bản ballad nhẹ nhàng cùng mùi hương quyến rũ của tinh dầu.
(Theo Mẹ yêu bé)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Nhìn vào độ cao thấp của 3 chân hương trong cách thắp Tam Bảo hương còn lưu lại sau mỗi lần thắp, có thể dự đoán điềm lành dữ cho gia chủ, biết trước để tránh.
Theo Đạo Phật, cách thắp 3 nén hương trong một bát hương gọi là Tam Bảo Hương. Tam Bảo chính là Phật, Pháp và Tăng, trong đó Pháp chính là kinh Phật, còn Tăng là người xuất gia.
Theo Đạo giáo, 3 nén hương này gọi là Tam Thanh Hương, trong đó Tam Thanh là Ngọc Thanh: Thiên tôn nguyên thủy; Thượng Thanh: Thiên tôn Linh Bảo và Thái Thanh: Thiên tôn Đạo Đức.
Trong 3 nén hương này, nén ở giữa là hưởng chủ, gọi là hương Giáo chủ; nén bên trái là hương Thanh Long; còn nén bên tay phải là hương Bạch Hổ. Mục đích của việc thắp 3 nén hương này là linh ứng báo tin, bảo vệ người trong nhà và xua đuổi mọi tai ương. Nhìn vào độ cao thấp của 3 chân hương này còn lưu lại sau mỗi lần thắp có thể dự đoán một vài điềm lành dữ cho gia chủ.
Theo tâm linh, có nhiều quan niệm về các số lượng nén hương trên ban thờ. Có thể tham khảo Thắp bao nhiêu hương trên bàn thờ là tốt nhất? để hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Mục lục (Click vào đây để chọn nội dung muốn xem nhanh nhất)
Ý nghĩa: Sau mỗi lần thắp hương, nếu độ dài 3 chân hương bằng nhau là dấu hiệu cho thấy mọi phương diện trong cuộc sống như gia đình, công việc, sự nghiệp, các mối quan hệ xã giao, tình yêu… đều tốt đẹp và bình an vô sự.
Trên thế giới này ai ai cũng cầu mong cuộc sống bình an. Nói một cách khác là làm sao sống đúng với lương tâm, không vi phạm các chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Hoặc đơn giản là phát huy cái thiện, tiêu trừ và thay đổi cái ác. Theo đó, cách thắp hương này còn như một lời nhắc nhở đối với tất cả mọi người, luôn luôn làm việc thiện thì mới có được cuộc sống bình yên và hạnh phúc.
Ý nghĩa: Sau khi thắp hương, 3 chân hương còn lưu lại có độ dài ngắn như vậy là điềm lành báo hiệu những nỗ lực trong suốt thời gian qua của bạn được đền đáp xứng đáng “khổ tận cam lai”, vận thế chuyển biến tích cực, khó khăn tai họa tan biến, phúc lộc dồi dào.
Trong hoàn cảnh bình thường (không có tai họa nào xảy ra), nếu Tiêu Tai hương xuất hiện cũng như một lời nhắc nhở bạn phải đề cao cảnh giác trước những mối nguy hiểm tiềm tàng trong công việc hoặc gia đình. Đồng thời nếu phạm sai lầm cần phải sửa đổi, cải tà quy chính thì mới được hưởng phúc.
Ý nghĩa: Sau khi thắp hương, độ dài 3 chân hương còn lưu lại như vậy là dấu hiệu cho thấy việc tu hành đã hoàn tất, không còn sai sót nào và được thần linh phù hộ: “Công Hành hoàn bị, thần linh phù hộ”.
Ở đây, Công chính là sự lương thiện từ sâu thẳm trái tim con người, Hành là đức hành, không sát sinh. Người có “Công Hành hoàn bị” tức là lương thiện, không sát sinh mà phóng sinh, được thần linh phù hộ độ trì. Nếu chỉ có Công không Hành hoặc ngược lại thì thần linh không phù hộ.
Trong hoàn cảnh bình thường mà xuất hiện Công Đức hương cho biết Công Hành của bạn viên mãn. Còn trong nghịch cảnh (hoàn cảnh không thuận lợi), cho thấy bạn thiếu Công Đức, hành sự khó thành.
Ý nghĩa: Độ dài 3 chân hương còn lưu lại sau khi thắp như hình trên là điềm báo cho thấy những thành công bước đầu trong công việc, sự nghiệp và nhắc nhở bạn phải nỗ lực hơn gấp nhiều lần để tiếp tục tiến lên phía trước.
Ngoài ra, điềm báo chân hương này còn có ý chỉ người tu tập Phật pháp lâu ngày khó tránh lúc buông lỏng. Phải luôn nhắc nhở bản thân không uổng phí công sức. Chỉ vì nghiệp lực của quá khứ quá nặng nên phúc báo tạm thời chưa thể xuất hiện, nên mới thấy nản lòng, thậm chí hối hận. Giữ tâm thanh tịnh, tiến hành từng bước, không được nóng vội, ắt có ngày thành chính quả.
Có thể bạn chưa biết Tại sao thắp hương cúng lễ vào ngày 1 và 15 hàng tháng
Ý nghĩa: Điềm báo chân hương này là dấu hiệu cho thấy trong gia đình sẽ có người nhận được tin vui về sự thăng tiến trong công việc, sự nghiệp.
Ý nghĩa: Trong cuộc đời mỗi con người cần có những hành động yêu nước, thương yêu nhân loại, bảo vệ pháp luật thì phúc lộc mới dồi dào, cơ hội làm quan, thăng tiến trong quan trường, sự nghiệp mới nhiều. Sự xuất hiện của Tăng Lộc hương cũng nhằm nhắc nhở người làm quan, lãnh đạo cần phải công minh, liêm chính.
Ý nghĩa: Độ dài 3 chân hương còn lưu lại này cho thấy trong vòng 10 ngày có dấu hiệu thu được tiền bạc, tài lộc tăng.
Khi Tăng Tài hương xuất hiện sẽ mang hai hàm ý. Thứ nhất, bạn sẽ tìm được người giúp đỡ để giải quyết công việc được thuận lợi, gặt hái thành công và tiền bạc. Thứ hai chỉ những dự định hoặc kế hoạch của bạn là chính xác, có thể yên tâm triển khai, sau này sẽ có những tin vui về tài lộc.
Ý nghĩa: Độ dài chân hương còn lưu lại như vậy là dấu hiệu cho thấy trong vòng 10 ngày sẽ có tin vui, hỉ sự hoặc mọi việc được như ý cát tường.
Trong đời người, Phúc Lộc Mang là tam bảo. Phúc đại diện cho quan vị; Lộc chỉ tiền tài; Mang chính là sức khỏe. Có được Phúc là do phải tu tâm dưỡng tính lâu dài; có được Lộc là do những nỗ lực trong việc bảo vệ đất nước, pháp luật và đồng loại; có được sức khỏe, cuộc sống trường thọ là do việc không sát sinh.
Ý nghĩa: Độ dài ngắn của những chân hương này là điềm báo cho thấy người trong nhà sẽ tổ chức lễ mừng thọ.
Một trong những yếu tố có thể giúp con người kéo dài tuổi thọ chính là từ bi độ lượng, không sát sinh mà thường xuyên phải làm việc thiện. Có thể bạn chưa biết Phật dạy 7 trường hợp không nên sát sinh.
Khi có người nhà mắc bệnh nặng, nếu có Thọ hương xuất hiện thì mọi người cần nhắc nhở nhau không nên sát sinh mà phải tiến hành phóng sinh, như vậy bệnh tình mới thuyên giảm. Ngoài ra, điều này còn có hàm ý là hướng đến những hành động lương thiện, tu tâm dưỡng tính để có thể sống lâu sống khỏe.
Ý nghĩa: Đây là điềm báo Thần Tiên đang tới để kiểm tra công việc, sự nghiệp, nhắc nhở bạn phải làm việc nghiêm túc, không được phép làm bất cứ việc xấu hay có hành vi tự phụ nào.
Điều này cũng có hàm ý nhắc nhở chúng ta phải tuân thủ và bảo vệ pháp luật, những quy tắc, chuẩn mực đạo đức. Đồng thời phải cải tà quy chính, đã làm sai thì phải sửa chữa nếu không sẽ gặp nhiều rắc rối trong cuộc sống.
Ý nghĩa: Điềm báo chân hương này mang ý nghĩa Phật Tổ tới kiểm tra công việc, nhắc nhở con người, nhất là người tu tập không được lười biếng, làm việc xấu mà cần tu tâm dưỡng tính, hướng đến cái thiện.
Khi thấy có Đại Thiên Chân hương xuất hiện, bạn cần vấn lại lương tâm xem những việc đang làm có vi phạm pháp luật hay trái với lương tâm hay không. Nếu có lập tức phải sửa ác thành thiện, làm nhiều việc tốt để cuộc sống được thuận lợi, tâm hồn thanh tịnh hơn.
Ý nghĩa: Những dấu hiệu này cho thấy trong vòng 3 ngày sẽ xuất hiện người tốt đến trợ giúp hoặc sự giúp đỡ nào đó mang lại điều cát lợi.
Ngoài ra, những chân hương này còn mang hàm ý: Thứ nhất, trong cuộc sống con người cần phải biết giúp đỡ lẫn nhau, đó là điều tất nhiên; Thứ hai, con người không thể tránh khỏi những sai lầm nhưng nếu biết sửa ác thành thiện thì sẽ được thần linh phù hộ; Thứ ba, khi ai đó xung quanh gặp khó khăn, chúng ta cần đưa tay giúp đỡ, làm việc thiện sẽ nhận được thiện báo.
Ý nghĩa: Điềm báo chân hương này là tín hiệu cho thấy trong vòng 7 ngày sẽ có tin vui về tiền bạc, tài lộc.
Ngoài ra, điều này còn có ý nghĩa là “hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, nhắc nhở con người cần phải tu nhân tích đức, tỉnh táo trước những hành vi xấu, học hỏi những điều lương thiện, tốt đẹp thì chuyện vui, tài lộc mới đến.
Ý nghĩa: Điều này là dấu hiệu cho thấy trong vòng 3 ngày bệnh tật của người thân trong gia đình chuyển biến tốt đẹp, những tai ương biến mất, đồng thời có tin vui về tiền bạc, thăng tiến trong sự nghiệp.
Khi Hiến Thụy hương xuất hiện báo hiệu những khó khăn, trở ngại, nghịch cảnh mà bạn đang phải trải qua sẽ biến mất, thay vào đó là công đức viên mãn, phúc lộc dồi dào.
Ý nghĩa: Dấu hiệu này cho biết trong vòng 7 ngày sẽ có người xấu tới gây chuyện thị phi.
Khi thấy hiện tượng Khẩu Thiệt hương xuất hiện, bạn nên nhắc nhở và kiềm chế bản thân không được phạm vào họa khẩu thiệt thị phi, mắng chửi hoặc nói xấu sau lưng người khác. Ngoài ra, cần cảnh giác cao độ, dù ai đó có nói gì cũng không được tin tưởng, không đưa tin, truyền tin sai lệch sự thật.
Ý nghĩa: Khi thắp hương mà độ dài 3 chân hương còn lưu lại như vậy là điềm báo trong vòng 3 ngày sẽ có người tốt tới đưa ra những lời mời thú vị. Ở đây chỉ những lời mời mang tính tích cực, là việc thiện chứ không phải việc xấu xa.
Tuy nhiên, khi có Trường Sinh hương xuất hiện, bạn cần phân định rõ ràng tốt xấu, việc tốt nên theo nhưng việc xấu phải tránh xa.
Ý nghĩa: Khi có Thiên La và Địa Võng Thần tới giám sát, đôn đốc công việc thì bản thân mỗi người cần phải nghiêm túc chấp hành, tu sửa sai lầm và hướng đến những việc lương thiện.
Thiên có thập thiện chi công, Địa có ngũ giới chi đức, Thần Thiên Địa tới cốt để xem chúng ta tu hành ra sao, ngũ giới có gì sai sót, thập thiện còn vấn đề tồn đọng nào hay không. Nếu nêu vẫn tồn tại nhiều thiếu sót thì phải nhanh chóng sửa đổi, tu tâm dưỡng tính.
Ý nghĩa: Độ dài những chân hương còn lưu lại này cho thấy trong vòng 3 ngày sẽ có tổ sư (người thầy) đến chơi và kiểm tra, đánh giá hiệu quả công việc.
Theo điển tích nhà Phật, Khai Sơn tổ sư đến kiểm tra bài tập của các đệ tử. Bài tập này có liên quan đến 4 vấn đề: Thứ nhất là giới luật; Thứ hai là tụng kinh niệm phật; Thứ ba là cống hiến xã hội và thứ tư là tham, sân, si, niệm đã được rũ bỏ hoàn toàn hay chưa. Nếu phát hiện thấy còn sai sót thì phải sửa đổi, cải tà quy chính. Nếu đang trong quá trình tu hành mà xuất hiện Thôi Cung hương thì biểu thị việc tu hành đang có sai sót hoặc vẫn chưa kịp thời sửa đổi.
Ý nghĩa: Dấu hiệu này cho thấy trong vòng 1 tháng gia đình sẽ có người mất hoặc trong vòng nửa năm con cháu (bậc hậu bối) trong nhà bị thương.
Thôi Mệnh hương là một trong những điềm xấu, báo hiệu sự đoản mệnh, nguy hiểm đến tính mạng. Không chỉ vậy, súc vật được nuôi dưỡng trong gia đình như chó, mèo, ngựa, dê, trâu, bò… chết cũng được gọi là Thôi Mệnh. Cách duy nhất để tránh được Thôi Mệnh chính là kiêng kị giết chóc và tích cực phóng sinh. Phóng sinh một lần, phúc báo đời đời, nghiệp lành khai nở.
Ý nghĩa: Đây là dấu hiệu cho thấy trong vòng 7 ngày gia đình sẽ có người mặc hiếu phục (trang phục mặc trong lễ mừng thọ) để tham dự buổi lễ chúc thọ nào đó.
Hiếu Phục hương chứa hai hàm ý: Thứ nhất, nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn hiếu thuận với cha mẹ và người thầy truyền nghề cho mình. Thứ hai cần có thái độ khoan dung, tha thứ cho kẻ thù và làm nhiều việc thiện. Đặc biệt, lúc mắc trọng bệnh cần ăn chay niệm phật, phóng sinh thì bệnh tật mới thuyên giảm.
Ý nghĩa: Dấu hiệu những chân hương còn lưu lại này cho thấy, người tu hành có sức khỏe tốt, không mắc bệnh tật. Còn những ai tự tu thiền định thì trí tuệ minh mẫn, phúc đức dồi dào. Nhắc nhở người tu tập phóng sinh, ăn chay, không sát sinh, bố thí, hành thiện.
Ý nghĩa: Sau khi thắp hương, độ dài 3 chân hương như vậy là điềm báo về tổn hao tài sản, nỗi lo mất tiền mất của.
Khi có Tặc Đạo hương xuất hiện, thứ nhất cần phải nhắc nhở bản thân tu nhân tích đức. Thứ hai cảnh báo nguy cơ có kẻ trộm hay phá hoại việc bạn đang làm. Thứ ba chỉ những tài sản trong gia đình là do trộm cắp, cướp đoạt của người khác mà có được. Thứ tư cho biết lai lịch tiền bạc, tài sản trong của gia đình không rõ ràng; Thứ năm cảnh báo nguy cơ “phá gia chi tử” của con trai trong gia đình. Cách duy nhất để phòng tránh việc tổn thất tài sản nặng nề chính là làm việc thiện.
Ý nghĩa: Đây là điềm báo cho thấy trong vòng 7 ngày có kẻ xấu xuất hiện gây chuyện thị phi hoặc tìm cách hãm hại, cần phải nâng cao cảnh giác.
Khi có Ác Sự hương xuất hiện cũng là lúc kẻ xấu tới gây chuyện thị phi. Người này có thể gây phiền nhiễu ở nơi làm việc, trong gia đình, các mối quan hệ bạn bè… Lúc này, tốt nhất bạn không nên can thiệp vào những rắc rối thị phi khác thì sẽ bình an vô sự vượt qua khó khăn.
Ý nghĩa: Độ dài 3 chân hương còn lưu lại sau khi thắp như vậy là dấu hiệu cho thấy trong vòng 7 ngày sẽ có tai họa về bệnh tật giáng xuống, có thể là người hoặc gia súc trong nhà mắc bệnh.
Cách tốt nhất có thể ngăn được tai họa về bệnh tật chính là không làm tổn hại chúng sinh, tránh sát sinh mà phải phóng sinh, ăn chay niệm phật, tu nhân tích đức.
Ý nghĩa: Độ dài 3 chân hương còn lưu lại sau khi thắp như vậy biểu thị người làm việc thiện, không sát sinh mà phóng sinh, tâm tính lương thiện thì ắt được thần linh phù hộ.
Ngoài ra, đây cũng là dấu hiệu cho thấy người làm việc thiện nhưng bị thiệt thòi thì sẽ được thần linh phù hộ và bù đắp trong công việc hay cho đời con cái sau này.
Lichngaytot.com
Đầu tiên là chúng ta cần lựa chọn vị trí tối ưu trong phòng làm việc của bạn. 1 vị trí tối ưu phải được tính toán theo trạch vận, theo luật âm dương – ngũ hành, thường chỉ có các chuyên gia về phong thuỷ mới thẩm định chính xác được cho chúng ta.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể lựa chọn được vị trí tốt cho riêng bản thân, theo những tiêu chí căn bản của thuật phong thủy văn phòng.
Bạn cũng nên sắp xếp đồ đạc thật gọn gàng trên bàn làm việc, việc để các vật dụng bừa bãi sẽ phát sinh âm khí làm giảm năng suất công việc. Ngoài ra, chúng ta nên dùng những pháp khí sau đây để bài trí trong văn phòng làm gia tăng hiệu quả trong công việc :
Cầu thang được sử dụng để mọi người để di chuyển từ tầng này đến tầng khác trong nhà một cách dễ dàng và phong thủy cho cầu thang không phải là điều gì xa lạ đối với chúng ta. Tuy nhiên, về mặt phong thủy thì cầu thang mang biểu tượng xấu mặc dù không đến nỗi làm năng lượng thất thoát đi như nhà vệ sinh hay phòng tắm nhưng nếu bạn không để ý sẽ ảnh hưởng không tốt tới cuộc sống của gia đình bạn.
Cầu thang theo phong thủy là xấu vì cấu trúc nặng nề của nó và chúng thường có xu hướng gây áp lực với bất cứ thứ gì ở phía dưới cầu thang. Điều này có nghĩa là theo phong thủy, cầu thang sẽ ngăn chặn và làm giảm bớt nơi có năng lượng tốt quanh khu vực của nó.
Dưới đây là ví dụ để giúp bạn hiểu được rõ hơn:
Ví dụ 1: Nếu trong nhà có cầu thang ngay tại khu vực mà theo phong thủy là mang lại tiền bạc, sự sung túc tức là góc Đông Nam thì đồng nghĩa với việc các thành viên trong nhà không có nhiều tiền của, thường xảy ra tình trạng túng thiếu.
Không có nghĩa là gia đình sẽ bị phá sản (tuy nhiên vẫn có thể xảy ra nếu có thêm những khiếm khuyết nghiêm trọng khác về phong thủy) mà sẽ là sẽ gặp vấn đề về tiền bạc. Thậm chí, họ có thể kiếm được nhiều tiền nhưng sẽ không thể tiết kiệm được gì. Mọi người thường xuyên sẽ phải đối mặt với những khoản chi không cần thiết, những chi phí không mong muốn, không thể lường trước.
Ví dụ 2: Góc phía Đông được xem là góc mang lại sức khỏe cho gia chủ, nếu xây cầu thang ở vị trí này sẽ đồng nghĩa với việc các vấn đề sức khỏe liên tục gây phiền hà cho các thành viên trong nhà bất kể họ có nhờ tới bác sĩ giỏi tới đâu để cứu chữa thì tình hình vẫn không được cải thiện.
![]() |
![]() |
Bố cục căn nhà toạ Bính hướng Nhâm: Tài vận và sức khoẻ vận tương đối bình ổn, không có thay đổi to tát.
Tài vận: Hướng Bắc của căn nhà là hướng vượng khí tài thần, nên đặt vật phong thuỷ như đồng tiền ngũ đế, tỳ hưu ở vị trí này để tăng cường tài vận.
Sức khỏe nhân đinh: Hướng Bắc của phòng khách là vị trí vượng khí của Đinh thần, đặt nồi cơm điện ở đấy cực kỳ tốt cho sức khoẻ. Ngoài ra, hướng Tây Nam của phòng khách là hướng sinh khí của Đinh thần, ta cũng có thể đặt nồi cơm điện tại vị trí này để có lợi cho sức khoẻ.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
=> Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Nếu áp dụng phương pháp dọn dẹp nhà cửa khoa học, hợp lý và đúng phong thủy, bạn vừa có thể tiết kiệm được thời gian, công sức mà lại mang đến nhiều may mắn, tài lộc cho gia đình mình trong năm mới.
Cho dù năm mới vừa qua, bạn có thể không may mắn ở một số chuyện, nhưng hãy tin rằng “tống cựu nghinh tân”, tức đuổi cái cũ, xấu đi thì cái mới, cái tốt sẽ đến. Trong số những cái cũ và xấu ấy, bụi bặm là nguyên nhân đầu tiên tác động xấu đến phong thủy của nhà bạn. Vì vậy, bạn hãy bắt đầu việc quét dọn nhà cửa với tâm trạng phấn khỏi và theo gợi ý dưới đây:
1. Dọn dẹp theo nguyên tắc
Bạn nên quét dọn theo nguyên tắc từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài: Bắt đầu từ tầng thượng đi xuống nhà dưới, từ bếp ra ngoài sân. Lau sạch bụi bám trên bề mặt các đồ vật bằng gỗ, kim loại, đặc biệt là gương, kính để tái kích hoạt các thuộc tính tự nhiên của ngũ hành trong đồ vật.
Sau đó quét dọn những góc nhà đầy bụi bặm, mạng nhện. Hãy nghĩ rằng những chỗ bụi bám chính là nơi tàng trữ xui xẻo, bạn cần chịu khó lau chùi thật sạch sẽ. Những đồ hư cũ, không dùng được nữa thì nên vứt bỏ. Riêng với giày dép cũ, bạn có thể tận dụng để hóa giải xui xẻo cho những người phạm Thái Tuế, Tam Tai, năm hạn…
Trước ngày 25 tháng Chạp, hãy mang giày dép cũ bỏ tại ngã 3 đường gần nhà, sau đó tìm đường khác để quay về nhà. Đây là quan niệm giải hạn của các cụ ngày xưa. Việc mang đồ ra bỏ ở ngã ba đường sẽ giúp những vị khách lãng du thiếu thốn có đồ sử dụng, niềm vui của họ sẽ hóa giải hết vận hạn của ta.
2. Lưu ý vật dụng trong bếp
Theo phong thủy, bếp là nơi tích tụ tài lộc của cả gia đình. Bếp thuộc Hỏa, kỵ Kim, Thủy. Vì vậy, khi dọn dẹp, cần sắp xếp những vật thuộc Kim (như dao, muỗng, nĩa…) hay Thủy (tủ lạnh, nước uống…) tránh xa bếp. Nếu để dao gần bếp thì gây tán tài, tiền bạc hao hụt. Điều kỵ nhất là vị trí bếp đối diện với nhà vệ sinh. Trong trường hợp này, nên sử dụng quạt hút gió, quạt treo tường để thay đổi hướng gió trong khu vực bếp hoặc bố trí cây xanh để tăng Mộc tính, trung hòa giữa Hỏa – Thủy và khử mùi, lọc khí CO2 thải ra khi đun nấu.
3. Làm mới phòng khách
Ở phòng khách, bạn nên giặt giũ hoặc thay rèm cửa, sơn phết, thay giấy dán tường mới. Năm Qúy Tỵ nghiêng về hành Thủy nên bạn có thể chọn những màu sắc thuộc hành Kim như trắng, xám bạc, vàng ánh kim; hay hành Thủy như xanh dương, hoặc hành Mộc như xanh lá cây, xanh nõn chuối để tạo ra sự tương sinh (Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc) nhằm mang lại may mắn. Bạn cũng có thể treo tranh “Kim Kê hý Nhật” – “Gà trống vàng gáy mừng mặt trời” để thành công trong sự nghiệp, tiêu trừ tật bệnh. Nếu đang kinh doanh, việc trang trí hình tượng trâu kéo bắp cải, trâu kéo xe tiền sẽ giúp công việc thuận lợi.
4. Cẩn trọng với bàn thờ
Đối với khu vực thờ tự, hãy dùng khăn giấy ướt lau sạch bụi bặm cho các tượng (thần tài, thổ địa) hoặc ảnh trên bàn thờ. Tuy nhiên, nên hạn chế di chuyển tượng, ảnh và không dùng giẻ lau. Tiếp theo, hãy kê gọn bàn thờ cho hợp lý theo nguyên tắc: Bát nhang lúc nào cũng đặt xa tượng/ảnh nhất, nghĩa là gần với người thắp nhang nhất, khoảng ở giữa dùng để bày nước, trà, rượu, bình hoa hoặc là mâm trái cây khi cúng. Đối với những nhà thắp nhang nhiều, khi cúng vào ngày 30 tháng Chạp nên đốt hết phần chân nhang của năm cũ, lưu ý là không được vứt vào sọt rác.
Theo phong thủy, quan điểm kỵ di chuyển bát nhang trên bàn thờ là không đúng. Thật ra, việc đánh bóng lư đồng, bát nhang vào dịp lễ, Tết vừa thể hiện sự trang trọng vừa giúp “tống cựu nghinh tân”.
5. Tẩy uế để xua khí xấu
Cuối cùng, hãy nấu nước lá bưởi hoặc lá khổ qua (mướp đắng) để tẩy uế cho nhà cửa. Sau đó, mau thuốc xông nhà hay nhang trầm đốt lên để xua đi tất cả khí xấu, chuẩn bị đón một năm mới thật tinh khiết, nhiều niềm vui.
► Mời các bạn tra cứu Lịch 2016 theo Lịch vạn sự chuẩn xác |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)