Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đặc tính sao Thiên Việt - đào hoa và hiển quý

Sao Thiên Việt có thể hóa giải được bất lợi của một số sao hãm địa như Âm Dương hãm, chính tinh hãm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính sao Thiên Việt - đào hoa và hiển quý

Đặc tính sao Thiên Việt - đào hoa và hiển quý

Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Việt trong Tử Vi

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa  Chủ Biệt danh
Thiên việt Nam Đẩu (trợ tinh) Âm hỏa Âm quý Sinh ban đêm quý Ngọc đường quý nhân

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Việt là âm thủy, là trợ tinh thứ hai trong chòm sao Nam Đẩu, hóa khí là âm quý, tức người sinh vào năm âm hoặc sinh ban đêm sẽ có quý khí, còn gọi là Ngọc Đường Qúy Nhân.

Sao Thiên Việt cũng là một trong lục cát tinh, tương tự như sao Thiên Khôi, cũng là một sao quý nhân, quý nhân ở đây không phải là người hiển quý, mà là những người có thể giúp đỡ, chỉ bảo người khác trong những thời điểm thích hợp.

Cũng tương tự như sao Hữu Bật, sao Thiên Việt cũng có tính đào hoa, nên thường gặp những quý nhân khác giới, hơn nữa, thường nảy sinh tình cảm với vị quý nhân này. Qúy nhân của sao Thiên Việt phù trợ cũng phần nhiều rất tự nhiên không lộ rõ, gián tiếp, bất ngờ và ngầm ẩn.

Bất kể sao nào gặp sao Thiên Việt, chỉ cần không gặp thêm sát tinh, đều thường được quý nhân giúp đỡ, mọi việc đều hết sức thuận lợi. Nhưng sau năm 40 tuổi, sao Thiên Việt dần dần mất đi sức mạnh của quý nhân, ngược lại còn dễ dẫn đến trở ngại và phiền toái. Nếu lại đồng cung với sao Hồng Loan thì thường biến thành đào hoa hồ đồ, phần nhiều trong lúc thiếu tỉnh táo để xảy những rắc rối về tình cảm với người khác giới. Chỉ có những chính tinh cấp 1 miếu vượng hoặc cát tinh có lực mới có thể thức tỉnh được đào hoa hồ đồ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính sao Thiên Việt - đào hoa và hiển quý

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Đặt tivi theo phong thủy

Tivi là đồ dùng không thể thiếu trong mỗi gia đình. Tuy nhiên, khi bày đặt tivi trong nhà, bạn cần lưu ý 1 số điểm sau.
Đặt tivi theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tivi là đồ dùng không thể thiếu trong mỗi gia đình. Tuy nhiên, khi bày đặt tivi trong nhà, bạn cần lưu ý 1 số điểm sau:

1. Nên đặt tivi ở nơi thoáng mát

Mức tản nhiệt của tivi tỉ lệ thuận với độ lớn của màn hình. Sự tích tụ lượng nhiệt sẽ ảnh hưởng đến sự lưu thông của khí, ảnh hưởng đến phong thủy của ngôi nhà. Do đó, nên đặt tivi ở nơi thoáng mát, thuận lợi cho việc tản nhiệt.

Lưu ý khi đặt tivi trong nhà

2. Vị trí đặt tivi nên kết hợp với mệnh tuổi của gia chủ
Ví dụ, người có mệnh tuổi thuộc hành Mộc (hoặc được Mộc tương sinh - hỷ Mộc) thì nên ngồi hướng Đông vì Đông thuộc Mộc. Như vậy, vị trí đặt tivi thích hợp chính là hướng đối diện với hướng Đông, tức là hướng Tây. 

3. Tivi không nên quá to
Theo phong thủy, ti vi theo ngũ hành thuộc Hỏa. Tivi càng lớn thì tính Hỏa càng mạnh. Trường hợp Hỏa vượng, trừ khi chủ nhân là người được Hỏa tương sinh thì sẽ có tác dụng tốt. Còn không có thể khiến cho chủ nhân gặp bất lợi, dễ mắc vào chuyện cãi cọ, thị phi.

4. Chú ý khi đặt tivi trong phòng ngủ

Cần chú ý tới mệnh tuổi của chủ nhân. Trường hợp là mệnh Thổ được Hỏa tương sinh thì tốt. Nếu bản mệnh đã là Hỏa lại thêm Hỏa của tivi thì sẽ trở nên quá vượng, bất lợi.

Tuy nhiên, nhìn chung việc đặt tivi trong phòng ngủ là không tốt. Diện tích phòng ngủ thường không lớn, bức xạ, từ trường của tivi sẽ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của bạn.

Ngoài ra, khi màn hình tivi hướng về phía người nằm ngủ trong thời gian dài sẽ gây bất lợi tương tự như ảnh hưởng của gương khi đặt đối diện với giường ngủ. Nó không chỉ khiến tâm tình bất an mà còn có thể dẫn đến đào hoa sát - rắc rối trong chuyện tình cảm với người khác giới. Giải pháp cho trường hợp này là sử dụng tấm vải che màn hình tivi.

5. Chú ý bức tường phía sau tivi

- Màu sắc bức tường nên kết hợp với mệnh tuổi chủ nhân.

- Tránh đặt tivi trước bức tường góc cạnh; tránh tường bị phân cắt; tránh đặt tivi trước cửa sổ hay ô cửa.

6. Chú ý tới tủ tivi

Việc chọn chất liệu và màu sắc của tủ nên dựa vào mối tương quan ngũ hành với mệnh tuổi của chủ nhân.

Nếu bạn thích bày đặt các đồ vật trang trí nhỏ trên tủ tivi, cần chú ý 1 số điểm sau:

- Tránh đặt đồ chơi vì có thể thu hút sự tò mò của trẻ, không an toàn khi trẻ với tay lấy đồ.

-
Nếu đặt biểu tượng con giáp thì tránh tương xung với con giáp cầm tinh tuổi mình. Ví dụ, người tuổi Tý thì tránh đặt hình con ngựa vì Tý - Ngọ tương xung.

- Bài trí thực vật có thể giúp tăng sinh khí và có tác dụng hóa sát. Nên đặt cây xanh lá sẽ rất tốt nhưng tránh đặt các loại cây hoa có gai như xương rồng hay hoa hồng...

6. Tránh mở tivi quá to

Khi mức âm lượng phát ra từ tivi quá lớn sẽ phạm vào "thanh sát" trong phong thủy, ảnh hưởng tới vận thế của người trong nhà.

Nếu tình trạng kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tâm lý, tình cảm, thính lực có thể bị giảm sút.   

(Theo Ccd.com)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tivi theo phong thủy

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay

Mỗi năm tương ứng với mỗi con giáp khác nhau, và năm Đinh Dậu nhà bạn sẽ giàu có sung túc nếu chọn được vật phẩm phong thủy phù hợp sau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vật phẩm phong thủy đa phần đều mang ý nghĩa tốt lành, cải thiện vận xui thành may cho gia đạo. Tùy theo ý định của gia chủ mà có thể chọn các vật phẩm phong thủy phù hợp với gia đình, nhưng nhìn chung đều cần tuân theo 5 yếu tố cơ bản: Kim (các đồ trang trí bằng kim loại như đế đèn, giá treo quần áo…), Mộc (nội thất chất liệu gỗ như bàn, ghế, sàn nhà…), Thủy (thác nước để bàn, bể cá…), Hỏa (nến, lò sưởi, bếp…), Thổ (các chậu cây cảnh, chậu hoa trong nhà…) – cũng cần phải được cân bằng.

Một số vật phẩm phong thủy sẽ giúp tiền vô như nước trong năm Đinh Dậu là:

Gương

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay - Ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Những tấm gương phản chiếu không chỉ khiến không gian phòng ốc trông rộng rãi, thông thoáng hơn mà nó còn giúp tăng vượng khí trong nhà. Tuy nhiên, cần lưu ý không đặt gương đối diện ở cửa ra vào, sự phản chiếu của tấm gương sẽ gây phản xạ vượng khí khiến tài lộc khó lòng vào nhà.

Chuông gió

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay - Ảnh 2.

(Ảnh: Internet)

Ngoài việc là món đồ trang trí dễ thương với những âm thanh trong trẻo vui tai, chuông gió còn giúp mang luồng khí tốt vào nhà. Vậy nên, ngại gì không sắm ngay 1 em chuông gió treo ở cửa sổ hay cửa ra vào mọi người nhỉ?

Cây xanh

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay - Ảnh 3.

(Ảnh: Internet)

Có một số cây xanh không cần chăm sóc nhiều nhưng vẫn tươi tốt, rất hợp để trưng trong nhà. Vừa góp phần thêm mảng xanh vào cuộc sống, lại vừa thu hút tài lộc. Gia chủ có thể tham khảo các loại cây như: thần tài, thiên tuế...

Bồn cá, chậu nước

Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay - Ảnh 4.

(Ảnh: Internet)

Đây là những vật phẩm phong thủy có ẩn ý hút tài lộc dồi dào. Nếu nhà bạn diện tích không quá lớn bạn có thể thay thế bằng các bức tranh có nước như thác nước, dòng sông...

(Tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm Đinh Dậu – đặt thứ này trong nhà thì tiền dồi dào như nước, đếm mỏi cả tay

Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Lý giải thế giới tâm linh là một trong những “ước mơ chưa thành hiện thực” của con người. Dù khoa học đang tiến bộ không ngừng, nhưng vẫn có những khoảng tối
Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lý giải thế giới tâm linh là một trong những “ước mơ chưa thành hiện thực” của con người. Dù khoa học đang tiến bộ không ngừng, nhưng vẫn có những khoảng tối chưa thể chạm tới.


Cham toi the gioi tam linh bang khoa hoc hinh anh
 
Nước Nga từ lâu đã thành lập viện nghiên cứu "não bộ". Họ hy vọng việc nghiên cứu bộ óc sẽ khám phá ra những điều mới lạ, đồng thời mở được cả cánh cửa "Huyền môn" để lý giải thế giới tâm linh mà từ lâu loài người thường cho là vô cùng huyền bí.
 
Bề ngoài thế giới chỉ biết được mục đích của việc nghiên cứu này ở Moscow là tìm hiểu sự liên hệ giữa bộ óc và thiên tài, năng khiếu của một con người như thế nào. Nhưng bên trong là những nghiên cứu có liên quan đến các sự kiện vượt ra ngoài ảnh hưởng của trường vật lý mà con người đang sống đó là lý giải thế giới tâm linh.
 
Ví như bộ não của Edgar Cayce, một người bình thường như bao người khác nhưng vào năm 35 tuổi ông tự nhiên thấy rõ được quá khứ xa xăm của những người bị bệnh ngồi hay nằm trước mặt ông và khi đó ông đi vào giấc ngủ thôi miên.
 
Năm 1945, ông Cayce biết trước mình sắp qua đời nên ngỏ ý tặng Viện Nghiên cứu óc não bộ óc của mình để các nhà khoa học tại đây nghiên cứu. Các khám phá từ lâu cho biết bán cầu não phía bên trái là cơ sở quan trọng của tư tưởng trừu tượng, nơi đây có thể là phần quan trọng cho các hoạt động thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí.
 
Mới đây, các nhà khoa học còn tìm thấy một bộ phận cơ thể kỳ diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh. Đó là tuyến tùng quả (Pineal gland) nằm trong hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995 đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian dài. Theo các nghiên cứu về óc não thì sau khi con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm, năng lượng bộ não của họ cũng chỉ mới sử dụng một hay hai phần mười mà thôi.
 
Năng lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng "mã phát" mà các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng gọi là mã phát chính là sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết.
 
Phải chăng đây là lời giải cho những hiện tượng tâm linh huyền bí hay những khả năng vi diệu của con người. Đến nay, năng lượng não bộ con người vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu và trong tương lai, nhiều khám phá mới sẽ được công bố.
► ## giải mã giấc mơ theo khoa học tâm linh chuẩn xác

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Cách trang trí phòng làm việc để tạo không khí vui tươi? –

Phòng làm việc không chỉ cần yên tĩnh mà còn phải có không khí vui tươi. Để làm được như vậy, khi trang trí bạn cần lưu ý: - Điều cần phải chú ý đầu tiên là ánh sáng, vì học tập và làm việc là một quá trình lâu dài, ánh đèn mạnh hay yếu ảnh hưởng r

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng làm việc không chỉ cần yên tĩnh mà còn phải có không khí vui tươi. Để làm được như vậy, khi trang trí bạn cần lưu ý:

–   Điều cần phải chú ý đầu tiên là ánh sáng, vì học tập và làm việc là một quá trình lâu dài, ánh đèn mạnh hay yếu ảnh hưởng rất lớn đến thị lực. Ánh sáng trong phòng nên là ánh sáng tự nhiên, được tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng tự nhiên sẽ làm tăng hứng thú công việc, cửa sổ của phòng phải được để mở, bàn làm việc không nên đặt ngay trước cửa sổ, tránh bị ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp vào làm hoa mắt, chóng mặt.

103-14

Để bảo vệ mắt và tránh mệt mỏi, nên dùng loại đèn có ánh sáng mát dịu, có hiệu quả động, tĩnh như đèn sợi đốt, compact để chiếu sáng. Không nên dùng đèn chiếu có ánh sáng màu, dễ bị hoa mắt, chóng mặt. Hơn nữa cũng không nên dùng loại đèn dài tiếp đất có ánh sáng từ sau gáy hắt ra đằng trước.

Tủ sách nên dùng đèn áp tường để tiện cho việc tra cứu, tìm sách báo và tài liệu. Trong phòng phải có đủ các cây xanh tươi tốt, đặc biệt là cây bách hợp, vì nó có thể làm giảm bớt lượng bức xạ trong phòng.

–   Sự yên tĩnh trong phòng làm việc là rất cần thiết. Nếu phòng bị làm ồn thì hiệu quả công việc và học tập sẽ không cao. Vì vậy bạn nên sử dụng các vật liệu xây tường, cửa sổ có khả năng cách âm và thu âm. Ngoài ra thảm trải sàn và rèm cửa dày cũng có tác dụng cách âm rất tốt

–   Các đồ vật trong phòng ngoài tủ sách, bàn làm việc, vi tính, ghế, sôfa, thì những đồ thủ công mỹ nghệ, cây cảnh đều có thể làm cho căn phòng trở nên mát mẻ, đẹp đẽ và sạch sẽ. Chúng sẽ làm tinh thần bạn thêm hưng phấn, đồng thời thể hiện tính cách và trình độ văn hoá của bạn.

–   Để có thể đạt được hiệu quả làm việc tốt nhất, bạn nên để một khoảng không gian cho việc cất giữ, lưu trữ các loại sách, báo, tài liệu làm việc và những đồ dùng cần thiết cho công việc, tạo sự ngăn nắp, trật tự cho căn phòng mà khi cần có thể tìm thấy ngay

–    Màu sắc, mặt tường, cửa ra vào, màn che cửa trong phòng làm việc có thể dùng các màu có gam sáng, nhẹ nhàng như màu xanh, hồng nhạt… để tạo sự yên tĩnh thư thái.

Lựa chọn ghế phù hợp là một trong những yêu cầu trong phong thuỷ nhà ở, đôi với ghế trong phòng làm việc thường được đòi hỏi rất cao, cụ thể bao gồm những phương diện sau đây:

Ghế nên có độ cao thích hợp, để đầu gối gấp và chân duỗi trên nền nhà thật thoải mái và tự nhiên. Ghế ngồi cũng nên có tính linh hoạt nhất định, có thể điều chỉnh độ cao hoặc chuyển hướng trong một phạm vi nhất định theo yêu cầu của người sử dụng, có như vậy co’ thể vừa có thể với lấy đồ vật trên bàn từ phía trước, lại vừa có thể nghiêng người ngả về phía sau để cơ thể được duỗi ra một cách thoải mái.

Nhìn từ góc độ cơ thể mà nói, mông của người cũng dày như gót chân, mà da mông rất dày và dẻo dai, là bộ phận có thể chịu được áp lực nhất trên cơ thể chúng ta. Vì thế một chiếc ghế thích hợp nên được thiết kế sao cho trọng tâm trên cơ thể rơi vào chính đốt xương cụt trên mông, như vậy có thể nâng cao được hiệu quả công việc, học tập.

Khi xuất hiện một vài vấn đề sau sẽ mang lại một số ảnh hưởng không nhỏ cho công việc và học tập.

+ Nếu ghế ngồi quá thấp. Khi ghế ngồi thấp đến đầu gối hoặc nhỏ hơn 90°, cơ bụng sẽ phải chịu một lực ép khiến không thể bảo đảm được trạng thái thích hợp cho xương lưng và xương cổ, đồng thời khi thời gian chịu vác nặng của lưng bị kéo dài sẽ khiến cho chúng ta cảm thấy mệt mỏi, không thoải mái, rất dễ làm giảm hiệu suất làm việc.

+ Ghế ngồi quá cao. Ghế ngồi quá cao khiến cho đôi chân không chạm đất, thì không chỉ cơ chân chịu áp lực mà phần đùi và cổ chân cũng sẽ bị nằm trong tình trạng bị kéo xuống, cơ thể vì thế mà rất mệt mỏi.

+ Ghế ngồi quá hẹp. Khi ghế ngồi quá hẹp, một mặt sẽ gây cảm giác gò bó, mặt khác sẽ khiến cho cơ bắp ở hai bên cơ thể phải chịu áp lực, nếu như ghế ngồi quá rộng hai cánh tay sẽ phải duỗi ra ngoài khiến tổ chức các cơ bị kéo duỗi ra, những tình trạng này đều dễ gây ảnh hưởng đến học tập và làm việc.

+ Độ dốc của tựa ghế phải thích hợp. Độ dốc của tựa ghế nên được tăng lên theo mức độ nghỉ ngơi và độ dài của tựa ghế, tựa ghế không thể bị tách rời khỏi sự biến đổi về độ cao, sâu, và dốc của mặt ghế và độ dài của tựa ghế. Cùng với sự gia tăng của rất nhiều công dụng nghỉ ngơi, góc nghiêng của tựa ghế cũng dần được nâng cao, những điểm đỡ dần dần được dời lên phía trên, điểm đỡ và góc đỡ đồng thời từ một được tăng lên thành hai, góc hẹp càng nhỏ thì chức năng nghỉ ngơi lại càng phát huy tác dụng.

+ Độ cao của tựa ghế phải thích hợp. Phạm vi của các cử động là rất lớn, có thể không thiết kế thêm tựa ghế, những công việc tĩnh hoặc những động thái khi nghỉ ngơi nên có được những điểm đỡ tương ứng để không gây trở ngại cho công việc và hoạt động, độ cao của tựa ghế có thể được nâng dần dần, cao nhất có thể đạt tới bằng với độ cao của xương bả vai, hoặc phần cổ, những hoạt động nghỉ ngơi ở trạng thái tĩnh lại có thể đòi hỏi độ dài của tựa ghế có thể đỡ được bộ phận đầu.

+ Sự chắc chắn của ghế ngồi. Ngày nay, nhiều người thích chạy theo mốt mới, trào lưu mới mà xem nhẹ độ chắc chắn trong hình dáng của ghế ngồi, trong phong thuỷ, điều này không có lợi cho công việc hay học tập của chúng ta.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách trang trí phòng làm việc để tạo không khí vui tươi? –

Cách hóa giải phong thủy cửa chính không thuận –

Theo quan niệm trong phong thủy nhà, phong thủy cửa chính là một trong ba yếu tố quan trọng để hợp thành nhà tốt. Nếu cửa chính không thuận phong thủy… Theo quan niệm truyền thống của phong thủy học về phong thủy cửa trong ngôi nhà thì nhà có góc nhọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm trong phong thủy nhà, phong thủy cửa chính là một trong ba yếu tố quan trọng để hợp thành nhà tốt. Nếu cửa chính không thuận phong thủy…

Theo quan niệm truyền thống của phong thủy học về phong thủy cửa trong ngôi nhà thì nhà có góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính (thường là cửa bị góc tường nhọn của nhà hàng xóm hoặc đốc nhà hàng xóm chiếu thẳng cửa chính) sẽ dẫn đến nhiều hậu quả không tốt.
Thực ra nói như vậy có phần thái quá, nhưng nếu lo lắng về hiện tượng có góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính nhà, bạn có thể xử lý bằng cách treo tấm biển đầu thú. Tấm biển đầu thú rất ít thấy.

Đây là một tấm ván rộng 8 thốn (một thốn = 3,333 cm), cao 12 thốn, trên đó vẽ một đầu thú đang mở rộng miệng. Cách làm rất đơn giản, bạn chỉ cần treo tấm biển đầu thú trên dọc cửa, hướng thẳng vào góc nhọn phía trước, làm như vậy hóa giải được tà khí chiếu vào cửa chính của góc nhọn.

171

Ngoài ra, bạn cũng có thể treo gương lõm, còn gọi là “gương lòng chảo”. Do cấu tạo của gương lõm có thể phản chiếu trở lại toàn bộ hình ảnh vật chắn phía trước, vì vậy nó được coi là công cụ tốt nhất hóa giải góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính.

Cách treo gương lõm đơn giản, làm như treo tấm biển đầu thú. Bên cạnh đó, xây tường chắn cũng là một cách hóa giải hay. Việc xây đoạn tường chắn ở ngoài hoặc trong cửa giúp tường sẽ trở thành tấm chắn để chắn góc nhọn đang chiếu thẳng vào cửa chính.

Nếu trước cửa có đường cái đâm thẳng vào, theo phong thủy học đó cũng là điều không tốt. Nó ảnh hưởng rất lớn đến ngôi nhà. Cửa nhà nếu có đường cái chạy thẳng tới gọi là: “Ám tên tường hung” (mũi tên vô hình đâm thẳng vào ngực). Điều này không có lợi cho chủ nhà, còn trong nhà sẽ có người bị tàn tật. “Kinh lỗ ban” nêu ra biện pháp hóa giải bằng cách “Dùng đà cản”.

172

Một số nhà xây dựng ở chân dốc, cửa chính đối diện với dốc, thế này không thuận. Theo phong thủy học, đường cái là “nước” (thủy), tuy nói “thủy” là “tài” nhưng nếu như nước ào ào từ đường dốc chảy vào cửa chính (trừu tượng) hùng thế này tất biến thành họa.
Trong trường hợp này, ở phía bên ngoài cửa, bạn có thể xây bậc vào cửa (một bậc, 2 bậc hoặc 5 bậc), làm như thế để làm giảm thế nước chảy vào cửa. Những dòng nước vô hình sau khi bị các bậc xây trước cửa ngăn cản thế của nước đã giảm đi rất nhiều, vì vậy không thể gây họa được. Số bậc thang xây trước cửa phải là số lẻ.

“Đường cong hình cánh cung ngược” là đoạn đường cong trước cửa mà chiều cong hướng thẳng vào cửa chính, phong thủy học gọi nó là “lưỡi liềm cắt sườn”. Nếu trước cửa có đường cái cong hình cánh cung ngược, hướng cánh cung vào cửa chính thì trong nhà luôn có chuyện dâm loạn, có người bị thương tật, nhà thường xẩy ra hỏa hoạn mắc bệnh về thần kinh…

Trong “Bát quái minh kính” cũng có nói rằng: “Đường cong như cánh cung ngược trước cửa thì dữ” Cách hóa giải có thể dùng một trong 3 giải pháp: Chôn bí “thái sơn thạch cảm đương” trước cửa hoặc treo tấm gỗ ghi “sơn hải trấn” hay treo gương lõm.
Kinh lỗ ban ghi rằng: “Hai nhà không thể đối diện vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai cửa không thể đối nhau vì như thế sẽ có một nhà gặp dữ”. Để hóa giải, một số người treo gương: Tam xoa, bát quái, bạch hổ nhưng làm như vậy lại gây ra lo lắng cho nhà đối diện và hai bên cùng tìm cách hóa giải.

Nếu như muốn vừa xóa bỏ được sự uy hiếp về tâm lý “hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối cửa với mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “thiên quan tứ phúc” (ông trời ban phúc). Ngoài ra, chủ nhà có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo 4 chữ “thiên quan tứ phúc” trên cửa để 2 bên đều có phúc.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải phong thủy cửa chính không thuận –

Xem tướng số đàn ông –

Tướng đàn ông không tốt bạn nên tránh lấy làm chồng Cằm của con trai mà vuông vắn nhẵn nhụi là chuyện tốt. Nhưng nếu có cằm như thế và yếu hầu nhô ra, môi hồng răng trắng, thì xác suất anh ta ngoại tình sẽ cao. Da dẻ trắng bệch Những gã đàn ông da dẻ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng đàn ông không tốt bạn nên tránh lấy làm chồng

Cằm của con trai mà vuông vắn nhẵn nhụi là chuyện tốt. Nhưng nếu có cằm như thế và yếu hầu nhô ra, môi hồng răng trắng, thì xác suất anh ta ngoại tình sẽ cao.

Da dẻ trắng bệch

Những gã đàn ông da dẻ trắng bệch là những người có tính cách mềm yếu, thiếu quyết đoán. Vì là những kẻ nói giỏi hơn làm nên họ sẽ dễ dàng bị nhiễm các thói hư tật xấu bên ngoài, nếu lao vào các tệ nạn xã hội mà khó dứt ra. Những người đàn ông như vậy chỉ có thể đem lại cho bạn cảm giác bị phản bội, sự thất vọng lẫn cả sự tổn thương. Bạn đừng dễ dàng tin vào những lời đường mật của họ nhé!

Mắt to không có thần sắc

1448956367_dan-ong1jpg

Trong 5 ngũ quan của con người, mắt là quan trọng nhất. Nếu một chàng trai có đôi mắt chuyển động không ngừng; trong khi nói chuyện không nhìn thẳng vào bạn mà ánh mắt đung đưa, láo liên khắp nơi, thì thường sẽ là người lăng nhăng.

Nếu anh ta có một đôi mắt to nhưng lại không có thần sắc, hoặc là mắt một bên to một bên nhỏ, những người có tướng mạo như vậy thường sẽ không có trách nhiệm, tính cách mềm yếu, không quyết đoán.

Hơn nữa, những chàng trai như vậy thường được rất nhiều các cô gái thích, bạn sẽ không bao giờ xua đuổi được những cô tình địch chủ động biểu đạt tình cảm với anh ấy. Những cô gái thích những chàng trai dịu dàng đa tình thế này cần quan sát cẩn thận và suy nghĩ kỹ càng.

Lông mày

Những chàng trai có lông mày lộn xộn, không có đường nét rõ ràng, thường là người có đầu óc đơn giản, không thích nghĩ quá phức tạp. Từ góc độ tướng mạo mà nói, những người có lông mày rải rác, lộn xộn thường có những hành vi phóng đãng.

Mũi nhỏ

Trong nhân tướng học, chiếc mũi được xem như là nơi chứa đựng tiền tài, phú quý. Nếu anh chàng mà có mũi nhỏ cho thấy đường tài lộc, công danh của họ cũng hạn hẹp. Mũi không nên gãy, bởi đó là điển hình của người đàn ông sẽ sống dựa vào vợ. Nếu bạn không giàu có thì tốt nhất nên tránh xa những chàng trai như thế này. Mũi không được có vết sẹo, vết thương. Nếu nơi cất giữ tiền tài có vết nứt thì tất nhiên tiền tài cũng sẽ bị rò rỉ.

Môi

Môi lệch thì lòng cũng sẽ không ngay thẳng. Lời dỗ dành của những chàng trai có môi bị lệch cũng không thể tin tưởng được. Môi dưới dày, có nốt ruồi là người vô cùng coi trọng chuyện dục vọng, xác thịt, hay nói dối và dễ bắt cá 2 tay.

Răng

Răng ít thường là người nhát gan, bụng dạ hẹp hòi, hay so đo tính toán, hay đề phòng và để tâm chuyện vụn vặt. Nếu mở miệng mà thấy để hở lợi, hở đường tơ lợi thì thu nhập của họ không được ổn định. Khi nam nữ chung sống với nhau, nếu không cãi nhau thì vẫn tốt đẹp, nhưng một khi trở mặt thì sẽ xảy ra tranh chấp, không kiêng nể lời lẽ, dễ làm tổn thương người mình yêu.

Cằm

Cằm của con trai mà vuông vắn nhẵn nhụi là chuyện tốt. Nhưng nếu có cằm như thế và yếu hầu nhô ra, môi hồng răng trắng, thì xác suất anh ta ngoại tình sẽ cao.

Còn con trai mà có cằm nhọn, ít thịt, thường là người không có chí lớn, làm việc gì cũng chần chừ, do dự, sự nghiệp không được phát triển lắm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng số đàn ông –

Tuổi Dậu hợp làm ăn với những tuổi nào?

Tuổi hợp làm ăn với tuổi Dậu: Người tuổi Dậu tính tình cần lao, coi trọng vẻ bề ngoài nhưng giỏi việc đoán biết tương lai, trong việc kinh doanh cũng rất nhanh
Tuổi Dậu hợp làm ăn với những tuổi nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Người tuổi Dậu tính tình cần lao, coi trọng vẻ bề ngoài nhưng giỏi việc đoán biết tương lai, trong việc kinh doanh cũng rất nhanh nhẹn.


► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Người tuổi Dậu
giỏi việc đoán biết tương lai, trong việc kinh doanh khá nhạy bén nhưng tính tình dễ thay đổi hơn nữa khả năng chịu đựng kém vậy nên muốn công việc kinh doanh đoạt hiểu quả cao nhất thì nên hợp tác cùng người khác.

Tuoi Dau hop lam an voi nhung tuoi nao hinh anh
 
Người tuổi Dậu nên hợp tác với người tuổi nào?
 
Với tuổi Tý: Hợp tác khá mạo hiểm, vì cả hai cùng không có khả năng ứng biến trên thương trường.   Với tuổi Sửu: Hợp tác không có nhiều ý nghĩa lắm, thường xuyên có những suy nghĩ trái chiều trong công việc, hiệu quả công việc thấp mà người tuổi Sửu lại cố tình không công nhận những ưu điểm của người tuổi Dậu, chỉ cảm thấy rằng người tuổi Dậu rất lười biếng.   Với tuổi Dần: Tuyệt đối không thể hợp tác bởi tính cách 2 người hoàn toàn trái ngược nhau, nếu hợp tác thì người tuổi Dần sẽ cảm thấy rất mệt mỏi.   Với tuổi Mão: Hợp tác là không thể bởi người tuổi Dậu không có cái nhìn sâu sắc như người tuổi Mão, nếu người tuổi Mão chấp nhận hợp tác thì hẳn là họ sẽ có mục đích khác.   Với tuổi Thìn: Hợp tác có thể thành công nhưng người tuổi Thìn sẽ là người chịu trọng trách lớn hơn mặc dù trên thực tế, đôi khi người tuổi Dậu cũng có những thành tích nhất định.   Với tuổi Tị: Không thích hợp cho lắm bởi cả 2 chỉ biết nói mà không biết làm, sự nghiệp nhanh chóng tan thành mây khói, nếu chú trọng hơn tới hành động một chút thì cũng có thể đạt thành công chút ít.

Tuoi Dau hop lam an voi nhung tuoi nao hinh anh 3
 
Với tuổi Ngọ: Có thể hợp tác nhưng người tuổi Dậu phải tự mình nắm trọng trách, bởi người tuổi Ngọ sẽ không chấp nhận nếu người tuổi Dậu lười biếng.   Với tuổi Mùi: Không thể hợp tác bởi người tuổi Dậu không thể hiểu hết được bản tính người tuổi Mùi, không nhận ra được ưu điểm, mà chỉ cảm thấy phiền muộn vì năng lực kém.   Với tuổi Thân: Tốt nhất là không cần hợp tác bởi người tuổi Dậu chỉ làm vướng chân người tuổi Thân mà thôi.   Với tuổi Dậu: Tuyệt đối không thể hợp tác, nếu không sẽ cầm chắc thất bại trong tay.   Với tuổi Tuất: Không nên hợp tác, cho dù có hợp tác được thì đôi bên vẫn khá cảnh giác nhau.

Tuoi Dau hop lam an voi nhung tuoi nao hinh anh 3
 
Với tuổi Hợi: Hợp tác không nên tuy nhiên cũng có thể thu được những lợi ích nhất định. 
Lichngaytot.com
Người tuổi Thân nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
Người tuổi Mùi nên hợp tác làm ăn với tuổi nào? Người tuổi Ngọ nên hợp tác làm ăn với tuổi nào? Người tuổi Tị nên kết giao hợp tác với tuổi nào? Người tuổi Thìn nên hợp tác kinh doanh với tuổi nào?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Dậu hợp làm ăn với những tuổi nào?

Lấy thiện làm đầu

Một bài viết hay về làm việc thiện cải vận số. Mời các bạn cùng đọc.
Lấy thiện làm đầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người nghiên cứu tướng thuật, đều biết câu "cổ bần bổ tướng", ý nghĩa của câu này là cho dù bạn đang nghèo khó nhưng vẫn phải tiết kiệm những đồng tiền lẻ này để giúp đỡ người bần cùng, bố thí cho người xuất gia. Rất nhiều người đều cho rằng: "Tôi nghèo như thế này, làm sao bố thí cho người xuất gia hoặc người bần cùng? Đợi đến khi phát tài, tôi sẽ làm những việc thiện, cứu giúp người bần cùng, bố thí cho người xuất gia".

Quan niệm này là sai lầm. Cho dù chúng ta nghèo khó, chúng ta cũng phải thể hiện tấm lòng nhân ái. Cổ nhân truyền đạt kinh nghiệm để dạy bảo chúng ta, cho dù chúng ta nghèo khó, vẫn phải khắc phục khó khăn, bố thí cho người khác. Người này cho dù sinh ra có tướng nghèo khó, có thể dùng Hậu thiên để bổ trợ. Thay tướng đổi vận, sau này sẽ có một ngày thành đạt.

Hoặc là chỉ cần trong tâm có lòng nhân ái, cứu giúp người bần cùng khắp nơi, giúp người bệnh lâu ngày khỏi bệnh, giúp người chết sống lại, giúp người khó khăn lâu ngày phát đạt, cái đức mà trời ban cho. Chỉ cần nghĩ đến người khắp mọi nơi, thì trời cũng có thể nghĩ đến bạn, nhân quả báo ứng, nơi nơi đều có.

Cái được mất của cá nhân, cái lợi doanh tài phú đều ở kiếp sau, cứu giúp người làm đầu. Đây chính là nguyên tắc làm người của chúng ta.

(Tử vi đẩu số giải đoán bệnh tật - Phan Tử Ngư)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lấy thiện làm đầu

Cách lấy Đại vận trong Tứ Trụ

Sắp xếp đại vận chia ra làm năm dương, năm âm : - Người năm dương là : Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. - Người năm âm là : ất, đinh, kỉ, tân, quý. Nam sinh năm dương, nữ sinh năm âm là hành vận thuận. Nam sinh năm âm, nữ sinh năm dương là hành vận nghịch. Cách sắp xếp cụ thể về vận trình lấy can chi tháng sinh là chuẩn gốc để sắp thuận hay sắp ngược.
Cách lấy Đại vận trong Tứ Trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1-      CÁCH SẮP XẾP CỦA NAM SINH NĂM DƯƠNG

Bước thứ nhất. Đầu tiên lập giờ sinh và sắp xếp Tứ trụ .

Ví dụ .

Nam sinh

                        Tháng 4                       Ngày 16                      Giờ thìn

Năm 1990

Quan               Sát                               Nhật nguyên               Quan  

Canh ngọ         Tân tị                           Ất hợi                          Canh thìn

Đinh kỉ            Bính mậu canh            Nhâm giáp                   Ất mậu quý

Thực tài           Thương tài quan          An kiếp                       Tỉ tài kiêu

Bước thứ hai. Tính số đại vận.

Căn cứ nguyên tắc nam sinh năm dương lấy chiều thuận tức tính từ ngày sinh đến tiết lệnh sau đó xem có tất cả bao nhiêu ngày, rồi chia cho 3, số kết quả là số của đại vận .

Trong ví dụ trên đếm từ ngày 16 tháng 4 đến giờ thìn ngày 13 tháng 5 có tất cả 27 ngày. Lấy 27 chia 3 được 9 tức người con trai đó 9 tuổi lấy đại vận .

Bước thứ ba.  Sắp xếp vận trình cho cả cuộc đời.

Căn cứ nguyên tắc con trai sinh năm dương lấy chiều thuận tức bắt đầu xếp từ can chi của tháng sau, xếp theo chiều thuận, nói chung xếp theo vận 8 bước. Tháng sinh là tân tị, can chi sau tân tị là nhâm ngọ nên 9 tuổi lấy vận là nhâm ngọ.

An           Kiêu            Kiếp             Tỉ       Thương           Thực         Tài           Tài

Nhâm     Quý             Giáp             Ất         Bính             Đinh        Mậu         Kỉ

Ngọ         mùi                thân              dậu       tuất              hợi           tí             sửu

   9              19               29                 39           49                 59            69           79


Đinh, kỷ

At, kỉ,

Đinh

Mậu,canh

Nhâm

Tân

Mậu,tân

Đinh

Nhâm giáp

Quý

Quý, tân

Kỉ

Thực, tài

Tỉ, tài,

An

Tài, quan,

ấn

Sát

Tài, sát,

Thực

An, kiếp

Kiêu

Kiêu,sát,

tài


Bước thứ tư. Phối với lục thân.

Sau khi xếp xong đại vận , căn cứ lục thân của Tứ trụ , lấy can làm chuẩn, ghi ra lục thân của can từng 10 năm vận và lục thân của thiên can  ẩn trong địa chi. Lục thân của nó vẫn giống như lục thân của thiên can ẩn trong địa chi. Lục thân của nó vẫn giống như lục thân trong Tứ trụ  tức ngày can âm gặp vận can dương là chính ( tức là ngay ) ngày can âm gặp vận can âm là thiên ( tức là lệch ). Sau đó có thể căn cứ tổ hợp sắp xếp trong Tứ trụ và kết hợp với thiên can địa chi của từng đại vận mà dự đoán cát hung.

 1.      CÁCH SẮP XẾP CỦA NỮ SINH NĂM DƯƠNG

 Bước thứ nhất.  Lập giờ sinh và sắp xếp Tứ trụ . Ví dụ :

Nữ sinh

Năm 1990

Quan




Tháng 4

Sát



Ngày 16

Nhật nguyên


Giờ thìn

Quan


 Canh ngọ

Đinh kỉ

Thực tài

Tân tị

Bính mậu canh

Thương tài quan

At hợi

Nhâm giáp

An kiếp

Canh thìn

At mậu quý

Tỉ tài kiêu

 Bước thứ hai.  Tính số đại vận .

            Căn cứ nguyên tắc năm dương sinh nữ tính chiều ngược , tức bắt đầu tính từ ngày sinh đếm ngược đến tiết lệnh phía trước, xem tất cả bao nhiêu ngày, sau đó chia cho 3, kết quả phép chia là số của đại vận 

            Ở ví dụ trên từ ngày 16 tháng 4 đếm ngược đến 12 tháng 4 ( giờ sửu lập hạ ), tất cả có 4 ngày, chia 3 được 1, thừa 1 ngày bỏ qua không tính. Người con gái này một tuổi đã lập vận.

Bước thứ ba.  Sắp xếp vận trình cả cuộc đời.

Năm dương sinh nữ thì xếp ngược, tức là bắt đầu xếp từ can chi củ tháng trước tháng sinh, cứ thế đi ngược mà xếp. Em gái đó tháng sinh là tân tị, can chi phía trên tân tị là canh thìn, nên một tuổi vận là canh thìn.


Quan

Tài

Tài

Thực

Thương

Tỉ

Kiếp

Kiêu


Canh

thìn


Kỉ

mão


Mậu

dần


Đinh

sửu


Bính


At 

hợi


Giáp

tuất


Quý

Dậu

1

11

21

31

41

51

61

71


At mậu quý ất

Tỉ tài kiêu tỉ


Giáp bính mậu

Kiếp thương tài


Quý tân kỉ quý

Kiêu sát tài kiêu


Nhâm giáp

An kiếp


Tân đinh mậu tân

Thực tài sát sát


Bước thứ tư.  Phối hợp với lục thân.

Xếp xong đại vận, căn cứ lục thân trong Tứ trụ ghi ra lục thân trong vận và lục thân của thiên can ẩn trong địa chi, sau đó căn cứ tổ hợp sắp xếp của Tứ trụ kết hợp với can chi của từng đại vận để đoán cát hung.

2.      CÁCH SẮP XẾP CỦA NỮ SINH NĂM ÂM

 Nữ sinh năm âm thì theo ngày sinh đếm xuống đến tiết lệnh dưới, xem có tất cả bao nhiêu ngày, chia cho 3, được số của đại vận . Ví dụ.

Nữ sinh năm 1991, tháng 12, ngày 2, giờ thìn, Giờ tị ngày 2 tháng tháng 12 năm 1991 là tiết lệnh tiểu hàn, chỉ cách một giờ. Theo cách tính cổ, một giờ này vẫn quy đổi thành một ngày, rồi thêm vào hai ngày để chia cho 3 được đại vận từ 1 tuổi. Tăng lên thành ba ngày để tính một tuổi như thế tức là đã kém mất 35 giờ, như thế lấy số của đại vận sai số lớn quá. Thực tế thì nên lấy 1 giờ tính thành 10 ngày tức cô gái này sau khi sinh được 10 ngày đã lấy đại vận, tức tính đại vận một tuổi từ giờ tị ngày 12 tháng 12 năm 1991, đến giờ tị ngày 12 tháng 12 năm 2001 bắt đầu hành vận 11 tuổi.

Trên đây là cách lấy đại vận của nam sinh năm dương, nữ sinh năm dương, nữ sinh năm âm. Cách lấy đại vận của nam sinh năm âm giống như cách lấy cho nữ sinh năm dương nên không giải thích nữa.

Trong tính toán dùng số ngày chia cho 3, nếu thừa 1 ngày thì bỏ đi, thiếu 1 ngày thì thêm vào cho chẵn. Ví dụ 23 ngày chia  3, thiếu 1 ngày đầy 8 lần nên thêm một ngày cho đủ 24 ngày, chia được 8, tức 8 tuổi bắt đầu tính đại vận .

Lại ví dụ nếu giờ sinh vào trước hay sau giao tiết lệnh mấy giờ, nếu người tính thuận thì không đủ một ngày hoặc chỉ có một ngày, trong trường hợp đặc biệt đó có thể thêm vào hai ngày cộng thành 3 ngày, sau đó chia 3 được 1, tức 1 tuổi bắt đầu tính đại vận. Đối với các trường hợp khác không được thêm vào hai ngày.

Số ngày chia cho 3 tức là cứ 3 ngày được tính thành 1 tuổi. Số ngày tính đại vận nói chung là tính số ngày trọn đủ giờ. Ở ví dụ 1 trên đây chính là lấy số ngày đủ giờ để tính.

Trong ví dụ 1 là 9 tuổi bắt đầu tính vận tức từ giờ thìn ngày 16 tháng 4 năm 1999 bắt đầu vận 9 tuổi, đến giờ thìn ngày 16 tháng 4 năm 2009 chuyển sang vận 19 tuổi.

Tính đại vận cũng lấy tròn tuổi làm chuẩn. Ngoài ra còn có cách tính chính xác hơn. Như ví dụ 2 từ giờ sinh là thìn đến giao tiết lệnh thực tế là 4 ngày ba giờ, nhưng tính theo 3 ngày là 1 ngày, như vậy 3 giờ là 30 ngày vừa đúng 1 tháng. nên ví dụ 2 chính xác hơn là 1 tuổi 5 tháng bắt đầu đại vận, tức bắt đầu từ giờ thìn ngày 16 tháng 9 năm 1991 bắt đầu tính vận quan.

Còn có cách tính vận lấy ba ngày quy đổi thành 1 tuổi, 5 ngày là 1 tuổi thừa 2 ngày tức 1 tuổi 8 tháng thì bắt đầu đại vận. Như nữ sinh giờ tị ngày 27 tháng 11 năm 1991 thuận đếm đến tiết tiểu hàn tức giờ tị ngày 2 tháng 12, cộng đủ 5 ngày, chia cho 3 còn thừa 2 ngày, hai ngày quy đổi thành 8 tháng tức 1 tuổi 8 tháng bắt đầu đại vận , đó là ngày 2 tháng 8 năm 1992 vậy.

Lược trích "Dự đoán theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lấy Đại vận trong Tứ Trụ

Đặt tên cho con theo Mệnh Thủy –

Mệnh của con người là do trời ban, mỗi năm sinh sẽ có một mệnh khác nhau thuộc vào 1 trong 5 mệnh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cha mẹ muốn con cái có cuộc sống sau này được thuận lợi, may mắn thì nên đặt tên con hợp phong thủy, hợp mệnh của con cũng nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ư nên xem xét kỹ cả giờ, ngày sinh và tháng sinh của con trước khi đặt tên cho con.

Theo phong thủy, tất cả vạn vật trong vũ trụ đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Theo nguyên lý cơ bản, năm ngũ hành này tương sinh, tương khắc với nhau.

– Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

– Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Với mệnh Mộc cha mẹ có thể đặt tên con liên quan đến kim loại (Kim), cây (Mộc) hay nước (Thủy) bởi Kim sinh ra Thủy, Thủy sinh ra Mộc.

Đặt tên cho con

Con bạn sinh ra thuộc mệnh Thủy và bạn đang phân vân không biết chọn tên cho con như thế nào mới là tốt nhất. Thủy chỉ mùa đông và nước nói chung như những cơn mưa lất phất hay mưa bão, Thủy cũng chỉ bản ngã, vẻ đẹp và nghệ thuật và Thủy có liên quan đến mọi thứ trong cuộc sống.

– Tích cực: Có khuynh hướng nghệ thuật, thích kết bạn và biết cảm thông.
– Tiêu cực: Nhạy cảm, mau thay đổi và gây phiền nhiễu.

Đặt tên cho bé theo mệnh Thủy, bố mẹ có thể chọn:

Đặt tên cho con gái

– Cho bé gái, có những cái tên hay như:

  • Lệ
  • Thủy
  • Giang
  • Loan
  • Sương
  • Hoa
  • Băng
  • Huyên
  • Nga
  • Tiên
  • Di
  • Uyên
  • Nhung
  • Phi
  • An
  • Khánh
  • Trinh.

Đặt tên cho con trai

– Cho bé trai, có những cái tên đẹp như:

  • Hồ
  • Quang
  • Cương
  • Đồng
  • Biển
  • Tuyên
  • Trọng
  • Toàn
  • Sáng
  • Danh Giang
  • Trí
  • Hoàn
  • Luân
  • Hưng
  • Bùi
  • Quân
  • Triệu
  • Quyết
  • Tuyê
  • Tiến
  • Hợp
  • Lưu
  • Hiệp

Đó là những cái tên thật ý nghĩa để các bạn có thể lựa chọn và đặt tên phong thủy mệnh Thủy cho bé. Những cái tên này sẽ đơn giản hóa cho các mẹ mỗi khi phải bỏ nhiều thời gian để lựa chọn một cái tên phù hợp với con yêu của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con theo Mệnh Thủy –

Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương

Mệnh học Đông Phương cũng tương tự như trong toán học nó phải được xây dựng trên một số tiên đề. Do vậy qua lăng kính Vật Lý, tôi thừa nhận Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề xuất phát từ 2 khái niệm cơ bản trong Vật Lý Học hiện đại là Lỗ Đen và Lỗ Trắng như sau:
Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


A – Các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương (?)

Mệnh học Đông Phương cũng tương tự như trong toán học nó phải được xây dựng trên một số tiên đề. Do vậy qua lăng kính Vật Lý, tôi thừa nhận Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề xuất phát từ 2 khái niệm cơ bản trong Vật Lý Học hiện đại là Lỗ Đen và Lỗ Trắng như sau:

Trong vật lý thiên văn, một Lỗ Trắng là một thiên thể giả định phóng ra vật chất, ngược lại với nó là một Lỗ Đen vốn hút mọi vật chất kể cả ánh sáng.

Tôi xin trình bầy từng bước quan điểm này như sau:
1 – Qua định luật vạn vật hấp dẫn cổ điển của Newton mà loài người đã biết đến sự tồn tại của hệ mặt trời bởi sự tương tác hấp dẫn của mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta không thể tách rời nhau qua vài tỷ năm.
2 – Các mặt trời ở gần nhau đã tạo thành Thiên Hà (hay Ngân Hà khoảng 300 tỷ mặt trời). Vậy thì chắc chắn phải có một lực hấp dẫn nào đó đã giữ chúng tồn tại gần với nhau qua bao tỷ năm như vậy, nếu không thì chúng đã trôi nổi trong vũ trụ giống như nếu không có lực hấp dẫn giữa mặt trời với 8 hành tinh trong hệ mặt trời của chúng ta thì hệ mặt trời của chúng ta đã không thể tồn tại tới ngày nay.
Qua sự giúp đỡ của các kính thiên văn hiện đại người ta dự đoán có vật thể bí ẩn đã hấp dẫn giữ các mặt trời lại để tạo thành Thiên Hà và vật thể bí ẩn này người ta gọi là Lỗ Đen. Từ đây chúng ta có thể suy ra trong mỗi trung tâm của mỗi Thiên Hà phải có một Lỗ Đen là một điều hợp lý.
3 – Giống như các Thiên Hà, tâm của mỗi siêu Thiên Hà cũng phải tồn tại một Lỗ Đen rất lớn để giữ các Thiên Hà không bị tản mát trong vũ trụ bao la.

Vậy thì các Lỗ Đen chỉ có một nhiệm vụ hút mọi vật, kể cả ánh sáng khi chúng không may đi qua “Chân Trời Sự Kiện“. Nếu chỉ có các Lỗ Đen thì vũ trụ ngày nay chắc rằng chỉ còn là một mầu đen bởi vì tất cả mọi vật đều bị Lỗ Đen nuốt hết nếu chúng ta thừa nhận thời gian là vô tận.

Để giải quyết mâu thuẫn này, người ta bắt buộc phải đưa ra khái niệm về Lỗ Trắng. Mặc dù người ta không thể nhìn thấy các Lỗ Đen mà chỉ dự đoán được sự tồn tại chúng qua lực tương tác của chúng với các vật xung quanh còn các Lỗ trắng thì người ta có thể nhìn thấy được chúng nhưng tại sao người ta lại chưa phát hiện được chúng trong vũ trụ?

Vậy thì Lỗ Đen và Lỗ Trắng là hai vật thể khác nhau hay không? Theo tôi chúng chỉ là một bởi vì chả có vật nào như Lỗ Đen cứ hút mãi và cũng chả có vật nào như Lỗ Trắng cứ phun mãi. Điều này có thể giải thích là khi một Lỗ Đen hút mãi tới một mức độ nào đó thì nó sẽ tới một giá trị tới hạn M và khi đó nó phải phun ra để trở về trạng thái (Lỗ Đen) bình thường của nó (các Lỗ Đen này được gọi là Lỗ Đen M). Các vật bị nó phun ra không thể bay theo chiều đó vào vũ trụ mãi được mà chúng chỉ bay tới một giới hạn nào đó thì chúng phải dừng lại bởi lực hấp dẫn của các Lỗ Đen M đã khống chế chúng (ngày nay người ta nhận thấy vũ trụ đang giãn nở ngày càng nhanh chứng tỏ tàn dư của Lỗ Trắng chưa kết thúc).

Lỗ Trắng và Lỗ Đen M của nó cũng như các vật thể bị Lỗ Đen M này khống chế đã tạo thành một Vũ Trụ Nhỏ (bởi vì ai mà biết được trong Vũ Trụ có bao nhiêu Lỗ Đen M?) tồn tại với thời gian vô tận.
Từ mô hình Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi đã suy luận rằng Thái Cực chỉ là một khái niệm để mô tả tại thời điểm khi mà Lỗ Đen M bắt đầu trở thành Lỗ Trắng. Còn Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Đông Phương của cái Vũ Trụ Nhỏ này, trong đó Âm và Dương là nói đến cặp phạm trù đối lập, theo cách hiểu đơn giản nhất.

B – Tiên đề Âm Dương

Người ta có thể ứng dụng các tiên đề Âm và Dương để giải thích các khái niệm cơ bản trong cái Vũ Trụ Nhỏ này mà tôi tạm thời phân chúng thành 3 dạng : Đơn tính, lưỡng tính và vô tính.

1 - Đơn tính (có nghĩa là chỉ cần một trong 2 phạm trù đối lập của Âm và Dương có thể sinh sản được).
Đây chính là các trường hợp mà Âm và Dương đại diện cho các cặp phạm trù đối lập có thể chuyển hóa cho nhau mà trong thực tế người ta đã biến khối lượng thành năng lượng (bom nguyên tử) và năng lượng biến thành khối lượng theo đúng phương trình năng lượng và khối lượng có thể chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein:
E = mc² ( trong đó E là năng lượng , m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng).

Nếu ta quy ước gọi khối lượng (m) mang phạm trù Dương thì năng lượng (E) sẽ mang phạm trù Âm

Hiện giờ qua cỗ máy Large Hadron Collider (Máy gia tốc hạt lớn - gọi tắt là LHC) các nhà Vật Lý đang đi tìm “Hạt của Chúa” (tức một dạng “hạt” cụ thể mà các nhà Vật Lý gọi là hạt Higgs) đã đóng vai trò trong việc chuyển năng lượng thành khối lượng.

Ngay cả khái niệm bên phải và bên trái cũng có thể xếp vào loại này bởi vì nếu một người khi đi mãi về phía tay phải thì sau khi đi vòng quanh quanh trái đất, người đó dĩ nhiên sẽ tới bên trái của đối tượng làm mốc xuất phát lúc trước.

Tương tự như bên trên và bên dưới cũng có tính chất này nếu chúng ta thừa nhận mọi điểm trên mặt đất đều có một trục từ trường ảo như trục từ trường bắc nam của trái đất. Nếu như vậy thì bất kỳ vật nào đi lên phía trên mãi mãi rồi sẽ phải trở về mặt đất ở một điểm bên đối diện của trái đất và rồi nó nó đi theo trục của trái đất tại điểm đó sẽ đến bên dưới của đối tượng làm mốc mà từ đó nó đã bắt đầu đi lên phía trên.

Lỗ Đen và Lỗ Trắng cũng là một cặp phạm trù đối lập của Âm và Dương. Chúng có thể chuyển hóa cho nhau, đó chính là cuộc đời của các Vũ Trụ Nhỏ đang tồn tại mà ngày nay chúng ta vẫn đang nhìn thấy bằng mắt thường.

2 – Lưỡng tính (có nghĩa là phải có sự kết hợp cả hai phạm trù đối lập của Âm và Dương mới sinh sản được).
Đây chính là các trường hợp Âm và Dương được áp dụng cho các cặp phạm trù đối lập không thể chuyển hóa được cho nhau mà chúng muốn tồn tại và phát triển phải có sự tác động của cả hai phạm trù đối lập này. Một trong các ví dụ hiển nhiên là con người hay động vật. Âm và Dương ở đây được đại diện cho giống đực và giống cái. Chính có sự tác động giữa hai đối tượng này mà con người và động vật mới có thể tồn tại tới ngày nay.

Âm và Dương còn có thể đại diện cho cả động vật và thực vật bởi vì phải có sự tác động của cả 2 đối tượng này thì chúng mới có thể cùng tồn tại và phát triển tới ngày nay (xem giải thích ở dưới).

3 - Vô tính (có nghĩa đây là các dạng phạm trù đối lập của Âm và Dương không có khả năng sinh sản) :

Đây là các trường hợp mà Âm và Dương không thể chuyển hóa và tác động được với nhau. Một trong các ví dụ này là các khái niệm như đen và trắng; tốt và xấu; ……

C – Tiên đề Ngũ Hành
Ngũ hành là Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ và Kim. Chúng có các tính chất tương sinh như Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và rồi Thủy lại sinh cho Mộc… .Và tính chất tương khắc như Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy và rồi Thủy lại khắc Hỏa….. Người ta đã ứng dụng các tiên đề này để mô tả gần như mọi quy luật phát triển của thế giới tự nhiên đều tuân theo quy luật của một vòng tròn khép kín.

1 - Các ví dụ về quy luật của vòng tròn khép kín :
a - Chu kỳ Sinh Thành Lão Tử của con người và động thực vật (chúng đều được sinh ra, trưởng thành, suy yếu, chết rồi lại được đầu thai để sinh ra…).
b - Chu kỳ của động vật và thực vật (động vật ăn rau, hoa quả, thu O2 và thải ra phân, khí CO2 , còn thực vật thì ngược lại. Rõ ràng chúng đã tạo ra quy luật của một vòng tròn khép kín).
c - Chu kỳ của nước biển nóng do mặt trời chiếu đã bốc hơi lên cao, được gió thổi vào đất liền, khi tới độ cao đủ lạnh, hơi nước ngưng tụ thành nước rơi xuống chẩy thành các dòng sông ra biển và rồi chúng lại bốc hơi…..

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Âm Dương và Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh lý học Đông Phương

Muốn biết trước số mệnh, xem sao Trường Sinh trong Bát tự (phần 1)

Các sao Trường Sinh ứng với Bát tự thế nào sẽ mang lại vận mệnh tương ứng cho con người ngay từ khi mới sinh ra đời.
Muốn biết trước số mệnh, xem sao Trường Sinh trong Bát tự (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Muon biet truoc so menh, xem sao Truong Sinh trong Bat tu (phan 1) hinh anh
 
Trường sinh: Là sao đầu tiên trong các sao Trường Sinh, cho thông tin về phúc thọ, bác ái, phát triển, tăng tiến, vĩnh cửu, thịnh vượng, phát đạt, được trọng vọng.
 
Có ở Nhật chủ: phúc thọ, tăng tiến, hạnh phúc, thịnh vượng, phát đạt, được trọng vọng, người nhân ái.

Có ở cột năm:  thường về già mới phát đạt.
 
Có ở cột ngày: báo sớm đã hiển đạt, gia đình hạnh phúc, anh em thuận hoà, mọi người quý mến, trường thọ. Nhưng trường hợp đặc biệt, sinh vào ngày Mậu Dần, Đinh Dậu thì phúc phận kém, ít được hưởng điều tốt trên.
 
Có ở cột giờ: con cái hiển đạt, làm rạng rỡ tổ tông.
 
Cột giờ và ngày đều có trường sinh: người tài giỏi, hiển đạt sớm, cha mẹ anh em sum họp thuận hoà, hưởng nhiều phúc đức do tổ tiên để lại.
 
Nữ nếu cột ngày có Trường sinh, không bị các hàng Chi khác hình xung phá hại thì một đời hạnh phúc, con cái thành đạt, nếu sinh ngày Bính Dần, Nhâm Thân thì lại càng tốt đẹp.
 
Mộc dục: Trong các sao Trường Sinh, sao này cho thông tin về sự mê hoặc, duyên phận không bền, nửa đường đứt gánh, sống thụ động, không quyết đoán, có gian khổ, vì sắc đẹp mà thân bại danh liệt.
 
Có ở cột ngày (Nhật chủ): xa cha mẹ, thiếu niên lao khổ, không được hưởng phúc của cha mẹ để lại, tha hương lập nghiệp, khó lấy vợ. Trong Tứ trụ có Tỷ kiên, Kiếp tài, tính hay thiên vị, bảo thủ, xa xỉ, hiếu sắc, không hoà thuận với anh em, cha mẹ.
 
Có ở cột năm: cha mẹ tha hương, bản thân về già không như ý, gia đình khó vẹn toàn.
 
Có ở cột tháng: sự nghiệp vẫn chưa yên khi đã quá nửa đời người, hôn nhân có thể thay đổi.
 
Có ở cột giờ: gần về già không như ý, nếu có các Chi khác xung hình hại phá, suốt đời không gặp may. Nếu sinh ngày Ất Tỵ lại có đức vọng, được mọi người tôn kính, nhưng phúc phận không dày, hay bệnh.
 
Nữ mệnh cột ngày có Mộc dục suốt đời bất mãn bất bình, hay gặp sự không may. Nếu sinh ngày Giáp Tý hoặc Tân Hợi, tính tình cứng rắn như nam giới.
 
Cột ngày và giờ đều có Mộc dục sống cô độc, khắc vợ con. Theo các nhà mệnh lý, bất cứ cột nào có Mộc dục, công việc làm ăn khó khăn, hay gặp thất bại. Phụ nữ tứ trụ có Mộc dục, phá hại tiền của, hại chồng hại con.
 
Quan đới: Đây là chòm sao tốt trong các sao Trường Sinh, cho thông tin có địa vị cao, phát triển, sự thành công, được tôn kính, có đức, hướng đi lên, thịnh vượng, từ bi, sự uy nghiêm và có danh vọng.
 
Cột năm có Quan đới càng về già càng hạnh phúc, hưởng phúc về già.
 
Cột tháng có Quan đới lúc nhỏ gian khó, đến trung niên từ 40 tuổi trở đi tự nhiên phú quý.
 
Cột ngày có Quan đới lúc nhỏ không như ý, lớn lên phát vận như cá gặp nước gặp may, nếu có Thiên (ấn hoặc tài) là người có từ tâm và tài năng xuất chúng, danh vọng cao, anh em hoà thuận, được trọng vọng trong xã hội.
 
Cột giờ có Quan đới: con cái phát đạt.
 
Song nếu Quan đới bị hình xung hoặc trong Tứ trụ có Thương quan, Kiếp tài, Thực thần, Thiên ấn ở sát bên cột Quan đới mà lại không có sao tốt giải cứu sẽ cho biết người này hay làm việc bất chính, thích đầu cơ, khinh đời, cuối đời phá gia bại sản, mang tiếng cho gia đình họ hàng.
 
Nữ mệnh cột ngày có Quan đới, dung mạo đoan trang, lấy được chồng như ý. Song nếu sinh vào ngày Nhâm Tuất, Quý Sửu, hoặc gặp sao xấu, vợ chồng sớm xa cách.
 
Lâm quan: Sao cho thông tin về sự lương thiện, cung kính, khiêm nhường, cao thượng, thịnh phát, danh vọng tài lộc, phong lưu, sông lâu , hạnh phúc.
 
Cột năm có Lâm quan báo về già hiển đạt.
 
Cột tháng có Lâm quan, báo nửa đời người sự nghiệp hưng vượng, nhưng ở quê người.
 
Cột ngày có Lâm quan: báo thay trưởng của tổ nghiệp, hoặc xa quê lập nghiệp, hoặc làm con nuôi người khác được hưởng thừa tự; địa vị trong gia đình hơn các anh em khác, có đức, thân ái với tất cả mọi người, có tài văn chương, nhưng khi phát đạt vợ thường mất sớm. Nếu lúc thiếu thanh niên hay gặp may thì lúc về già bị suy đồi. Nếu thiếu niên gian khổ thì trung niên lại khai vận làm ăn phát đạt.
 
Đối với nữ giới, cột ngày có Lâm quan sẽ làm vợ chính, nhưng thường phá hại vận tốt của chồng, lại hay lấn át chồng, nếu lấy làm lẽ sau sẽ đoạt quyền làm vợ chính.
 
Cột giờ có Lâm quan, con cái hiển đạt. Nhưng có Kiếp tài kèm theo, là người ham mê tửu sắc.
 
Đế vượng: Sao này cho thông tin vượng phát, lớn mạnh, luôn đi một mình và làm chủ, có quyền uy, danh vọng, mưu trí, tài học, hay nay đây mai đó.
 
Cột năm có Đế vượng cho biết con nhà danh giá lương thiện, giàu có, có danh vọng, tính hay tự ái.
 
Cột tháng có Đế vượng báo có nghiêm trang, tính cương cường không khuất ai.
 
Cột ngày có Đế vượng báo vị thế số phận quá vượng, nên có sao khác chế ngự đi, nếu không dễ bị người khác hãm hại. Nếu cột năm và tháng gặp Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, là con trưởng cũng không được hưởng tổ nghiệp để lại, tha hương lập nghiệp hoặc làm con nuôi người khác, vợ chồng khắc nhau.
 
Nữ giới ngày sinh có Đế vượng, tính khí giống đàn ông, khắc chồng hoặc có nhiều bệnh. Nhưng nếu Tứ trụ có Thiên quan hoặc Chính quan thì không khắc chồng con. Nếu sinh ngày Bính Ngọ, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Nhâm Tý, Quý Hợi vợ chồng sẽ ly biệt, sống cô đơn.
 
Cột giờ có Đế vượng: con cái có danh vọng.

► Tham khảo thêm: Tử vi trọn đời qua lá số tử vi chuẩn xác

ST
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn biết trước số mệnh, xem sao Trường Sinh trong Bát tự (phần 1)

Chọn vị trí đặt hũ gạo và tủ lạnh đúng theo khoa học phong thủy

Trong bếp có hai vật dụng chính là hũ gạo và tủ lạnh, cần bài trí như thế nào để tránh được những điều không tốt do những vật dụng này gâyra ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hũ gạo:

Lương thực chính của người phương Đông là gạo, đặc biệt là người phía Nam, với họ bữa ăn không thể thiếu gạo để thổi cơm, vì vậy nhà nào cũng có hũ gạo để đựng gạo, hũ gạo là đồ dùng không thể thiếu trong nhà bếp của mỗi gia đình.


Là vật dụng quan trọng như vậy, cuối cùng nó sẽ được đặt chỗ nào trong bếp ? Đặt hũ đựng gạo ở phương vị “thổ” đương vượng là có lý, vì rằng:

(1) Gạo của thóc lúa là thứ được cấy trồng từ đất.

(2) Người xưa cất giữ lúa gạo trong hang động dưới đất.

Nói tóm lại hũ gạo nên đặt ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của bếp và để sát mặt đất (tất nhiên phải chú ý đến chống ẩm) không phù hợp đặt hướng Đông và để cao.

Ngoài ra theo tập quán truyền thống của phương Đông là cất giữ thóc gạo ở chỗ kín vì vậy hũ gạo nên đặt chỗ kín đáo, nên đặt nó ở trong chum chôn dưới đất.

Tủ lạnh

Tủ lạnh cũng như hũ gạo là những công cụ không thể thiếu được trong nhà bếp mỗi gia đình, nay xin nói về những điều cấm kỵ khi đặt tủ lạnh.

Tủ lạnh dùng để cất giữ đồ ăn thức uống hàng ngày cho mỗi gia đình, ngày nay ở thành phố tủ lạnh rất phổ biến vì vậy mọi người đều muốn biết tủ lạnh nên để vị trí nào trong nhà bếp là thích hợp?

Về vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, đến nay vẫn chưa có ý kiến chung. Có 1 số người cho rằng tủ lạnh nên đặt tại hướng dữ, vì rằng tủ lạnh đã lạnh lại còn nặng, đặt nó ở hướng dữ là để chấn áp các sao dữ. Tuy nhiên, có 1 số người lại có ý kiến ngược lại, rằng tủ lạnh nên đặt ở hướng lành!


Ý kiến thứ 2 được xem là hợp lý:

(1) Tủ lạnh là chỗ bảo quản thức ăn đồ uống cho cả nhà nếu đặt nó ở hướng dữ là không thích hợp.

(2) Tủ lạnh là máy móc nó vận hành liên tục cả 24h trong ngày, nếu như đặt ở hướng dữ sẽ làm chấn động đến các sao dữ, kích động nó đi gây rối vì thế đặt tủ lạnh ở hướng dữ không thích hợp. Trong phong thủy học có nói rằng: “Phương vị dữ phù hợp với yên tĩnh chứ không phù hợp với chấn động” cũng chính là nguyên nhân giải thích ở trên.

Nguồn: Phong Thuy – Phong Thuy Nha O – Tu Bep



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn vị trí đặt hũ gạo và tủ lạnh đúng theo khoa học phong thủy

Xem tử vi trọn đời cho người tuổi Quý Mão

Tử vi tuổi Quý Mão: Người có bát tự trụ Quý Mão nhanh trí, nhưng tài vận không ổn định, gặp nhiều phong ba trong tình duyên.
Xem tử vi trọn đời cho người tuổi Quý Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người có bát tự trụ tuổi Quý Mão nhanh trí, nhưng tài vận không ổn định, gặp nhiều phong ba trong tình duyên. Để hiểu rõ hơn về tử vi trọn đời của họ, hãy tham khảo bài viết dưới đây.


Xem tu vi tron doi cho nguoi tuoi Quy Mao hinh anh
 
Trụ ngày tuổi Quý Mão có Quý Nguyên, hóa giải Nạp Âm nên đa mưu túc trí, nhân hậu lương thiện, trượng nghĩa. Bên cạnh đó, Mão Mộc của người có bát tự ngày Quý Mão là thần thực tạo nên tính cách cởi mở, hòa nhã. Mệnh chủ nên kết hợp Mậu Tuất, trong cuộc sống tất gặp Tý Thủy. 
  Mệnh trụ ngày Quý Mão có tài năng và sự nhanh nhạy, được quý nhân phù trợ, tuy nhiên, tài vận không ổn định, càng lớn tuổi càng thất thoát nhiều, thành công trên đường học vấn và sự nghiệp liên quan đến kỹ thuật.
Bí kíp phong thủy “ thoát FA” mới nhất 2016
Để thúc đẩy vận đào hoa cho bản thân, sớm thoát khỏi kiếp FA thì bạn cần xây dựng một hình tượng rõ ràng về “người trong mộng” hoặc có những sự thay đổi nho
Người tuổi Quý Mão khổ về đường tình duyên do gặp phải nhiều phong ba, dễ gây ưu sầu, nhưng về lâu về dài đều đạt được ước nguyện. Nam mệnh có thể tìm được nhân duyên tốt, tuy nhiên cần phải vừa chú trọng về vẻ bề ngoài vừa phải bồi dưỡng tinh thần. Nữ mệnh có gia vận tốt đẹp, tình duyên như ý.    Bát tự trụ ngày Quý Mão thích hợp kết hôn cùng những người sinh ngày: Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thìn, Giáp Thân, Ất Sửu, Ất Hợi, Ất Dậu, Bính Dần, Bính Tý, Bính Thân, Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Sửu, Đinh Mão, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Mậu Ngọ, Mậu Dần, Kỷ Mão, Kỷ Hợi, Kỷ Mùi, Kỷ Tỵ, Canh Thìn, Canh Ngọ, Canh Tuất, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Mùi, Tân Mão, Tân Dậu, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Quý Tỵ, Quý Mùi.  
► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo Lịch vạn sự

Chi Nguyễn (Theo Azg168)
Xem thêm Clip về Nhân quả ba đời


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người tuổi Quý Mão

Kiểm điểm tánh chất các sao trong tử vi: 14 Chính Tinh

Bài viết của cụ Anh Việt trình bày vấn đề kiểm điểm tính chất sao trong tử vi. Bài trình bày về 14 chính tinh.
Kiểm điểm tánh chất các sao trong tử vi: 14 Chính Tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Anh Việt

Chúng tôi đã nêu các bảng lập thành để các bạn an sao.

Chúng tôi đã nêu lên luật Âm Dương và luật sinh, khắc chế hóa giữa các Hành của Sao với Hành của Cung (để có sao miếu địa, đắc địa hay hãm địa), và giữa các Hành của Sao và Hành của Mạng. Chúng tôi đã có một bản về các Sao, Hành, Phương, Âm Dương của các sao đó, cùng với vị trí miếu, đắc địa hay hãm địa của các sao. Chắc các bạn đã sử dụng tất cả các nguyên tắc đó.

Trong kỳ này, chúng tôi xin tiếp sang một nhận xét khác, tuy vẫn là nhận xét đại cương, về tánh chất các sao, thay đổi tánh chất tốt xấu và ý nghĩa tùy tên của Cung (cung Mạng, cung Phúc Đức) và tùy theo những sao khác gặp phải.

Khi theo dõi cuộc kiểm điểm đại cương này, các bạn nên có trong đầu óc phương hướng, Âm Dương và Hành của mỗi sao, cùng với những cung miếu địa, đắc địa hay hãm địa của mỗi sao (theo như kỳ trước). Các bạn cũng nên luôn luôn nhớ lại rằng sao tốt, nhưng nếu Hành của sao lại khắc Mạng của con người, thì cái hay của sao lại dùng để khắc Mạng, sẽ có hại. Đối với sao Hung cũng vậy, tuy là xấu trong bản chất, nhưng ở nơi miếu địa, đắc địa, thì cũng có ảnh hưởng tốt, ảnh hưởng đó thường là bộc phát bất ngờ, nhưng các hung tinh miếu địa đó cũng phải có Hành nuôi dưỡng cho Mạng mới được.

TỬ VI

Tử Vi là đế tinh, đứng đầu các sao. Tại Mạng là biểu hiện của sự thông minh, uy nghi, trung hậu nếu là miếu địa. Nếu còn đắc địa, cũng biểu hiện sự thông minh, thao lược. Ở đất bình hòa, chỉ là sự nhân hậu.
Nhưng đấy là kể Tử Vi không bị chặn. Nếu gặp Tuần-Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp thì lại hỏng, đó là Đế ngộ hung đồ, ảnh hưởng tốt của Tử Vi bị phá hết.

Tử Vi mà không gặp hung đồ, lại được thêm các trung tinh phò tá như Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu thì không khác gì vua giỏi có đủ quần thần, hiển hách, cao sang lắm. Tử Vi gặp thêm Thiên Tướng, hoặc Thất Sát, hoặc Lộc, Mã cũng rất tốt.

Tử Vi gặp thêm Thiên Phủ càng thêm trọng hậu, con người tốt và thêm sự giầu có.

Tử Vi không sợ Hỏa, Linh. Tử Vi còn chế ngự được Hỏa, Linh.

Gặp hạn, mà thấy Tử Vi tốt đẹp, là không những được hay, mà còn giải trừ được các họa hại. Nhưng nếu Tử Vi có xấu (tức là gặp Tuần, Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp) thì lại gặp những không may, hoặc Tử Vi ở các nhàn cung (Hợi, Tí, Mão, Dậu), thì Tử Vi không còn cứu được các họa hại nữa.

Tử Vi chủ về quan lộc, tiền tài, phúc đức, ở vào các cung mang tên đó và cung Mạng mới hay (nếu đất tốt).

LIÊM TRINH

Liêm Trinh là thứ sao võ tướng, chỉ công danh lớn, sự thẳng thắn, nóng nảy, sự liêm khiết. Đó là Liêm Trinh ở đất tốt và hợp Mạng. Liêm Trinh ở đất xấu, con người thành khắc nghiệt. Liêm Trinh cũng có đặc tánh như một thứ sao Đào Hoa, còn gọi là Đào Hoa thứ hai (nếu thủ Mạng).

Nếu Liêm Trinh ở đất xấu, thì chủ về sự kiện cáo, tù tội (như người mà Mạng có Liêm, Tham ở Tị, Hợi, thời cuộc đời thường bị tù hay bị kiện cáo). Liêm Trinh, dù có ở đất tốt mà gặp Xương, Quan, Phủ đồng cung, cũng có ảnh hưởng đó. Nếu ở đất xấu, lại thêm Kị, Hình và sát tinh (Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh) thì Liêm Trinh còn tác hại mạnh.

Liêm Trinh chủ về quan lộc, ở Mạng và Quan Lộc và có đất tốt, mới hay, chứ ở các cung khác như Tài Bạch, chẳng giúp ích gì).

THIÊN ĐỒNG

Chủ về Phúc, Thọ, nên ở Phúc Đức, Mạng, mới hay, ở các cung khác kém hay.

Người có Thiên Đồng tại đất tốt là người trung hậu, từ thiện, vui vẻ, nhưng cũng hay canh cải hay thay đổi. Nếu Thiên Đồng tại Mạng mà bị đất xấu, con người cũng hay canh cải, thay đổi, hay gặp chuyện kiện cáo, thị phi bực mình, nhưng bản chất cũng nhân hậu.

VŨ KHÚC

Chủ về công danh và tài lộc, nên ở cung Mạng, Thân và Tài Bạch, Điền Trạch, lại được đất tốt, là tốt. Ở các cung khác kém hay, không đúng cung.

Người được Vũ Khúc tại Mạng, nơi đất tốt, là người cương nghị, có công danh, có tài lộc. Nhưng nếu Vũ Khúc ở hãm địa, thì con người lại tham lam, ương ngạnh, hay thất tài.

Vũ Khúc là sao mạnh, nên không sợ các sát tinh phá. Có gặp các sát tinh đồng cung, Vũ Khúc cũng át đi được. (Sát tinh là Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh).

THÁI DƯƠNG

Tức là mặt trời. Sao này chủ về quan lộc, công danh. Về phần Mặt trời, lại còn thêm yếu tố giờ giấc. Như người Mạng có Thái Dương, mà sanh ban ngày (tức là giờ có mặt trời trên bầu trời) là tốt đẹp.
Có Thái Dương tại Mạng, ở đất tốt, là người thông minh, nhân hậu, có công danh, có tài lộc, có uy quyền. Ở đất xấu kém thông minh, ít uy quyền, nhưng cũng nhân hậu.

Thái Dương gặp Đào, Hồng, Hỉ hay Hỏa, Linh đắc địa càng tốt hơn. Thái Dương gặp Riêu, Đà, Kị, hoặc Kình, Không Kiếp thì giảm đi. Ở Miếu địa gặp Tuần Triệt thì bị chế bớt. Nhưng nếu Thái Dương ở hãm địa gặp Tuần, Triệt lại tốt thêm. Thái Dương có thêm Kị (biểu tượng mây che), không khác nào mặt trời thêm mây ngũ sắc, càng tốt hơn.

Mạng của đàn bà mà có Thái Dương thì kém hơn.

THIÊN CƠ

Đây là sao Thiện, chủ về phúc thọ và huynh đệ. Được Thiên Cơ tại Mạng ở đất tốt, là người khéo léo, có mưu lược, từ thiện, nhân hậu. Nhưng hãm địa, các đức tánh trên kém đi.

THIÊN PHỦ

Là tài tinh và quyền tinh, cũng có khả năng cứu giải khỏi các tai nạn, bệnh tật nếu ở đất tốt và không bị tiết giảm.

Ở đất tốt, Phủ làm cho Mạng thêm quyền lộc, làm cho bản chất con người từ thiện, nhân hậu.

Gặp những sao Kình, Đà, Hỏa, Linh, không sợ. Nhưng gặp Tuần, Triệt ngay tại cung đó và Không, Kiếp, Thiên Không thì bị ngăn trở nặng, lại bị ảnh hưởng xấu.

Được Thiên Phủ ở Tài Bạch mà không bị các cách xấu ngăn trở thì giầu to.

THÁI ÂM

Chủ về công danh cũng như về điền trạch, tài sản, thiên về tài sản nhiều hơn.

Thái Âm là mặt trăng, nếu người sanh ban đêm thì tốt hơn, nhất là những người sanh từ 1 đến 15 (trăng thượng huyền).

Gặp Đào, Hồng, Hỉ, tốt.

Gặp Kị đồng cung: tốt hơn (thêm mây ngũ sắc).

Gặp Riêu, Đà, Kị hay Kình, Không, Kiếp, bị cản trở.

Ở đất tốt miếu địa mà gặp Tuần, Triệt thì bị che lấp, xấu.

Ở đắc địa, thêm Tuần Triệt lại tốt lên.

Hãm địa, gặp Tuần Triệt, sáng lên.

Mạng có Thái Âm thì con người khoan hòa, từ thiện, và có nhiều may mắn, nhiều tài sản. Nhưng phải ở đất tốt. Nếu Thái Âm ở đất xấu, cũng nhân hậu nhưng suy bại.

Được Thái Âm tốt ở Điền Trạch, Tài Bạch là tốt.

THAM LANG

Tham Lang là sao chủ về uy quyền và họa phúc, vừa là hung tinh vừa là dâm tinh. Cho nên người gặp Tham Lang đất tốt tại Mạng, thì có uy quyền, tài lộc, thọ, nhưng thích sắc dục, nếu không có cách kiềm chế. Nếu Tham Lang hãm địa thì dâm tham vô độ và quyền thế giảm kém.

CỰ MÔN

Cự Môn chủ về các tai nạn thị phi, công môn; nhưng được những cách tốt thì cũng có công danh tiền bạc.

Ở đất tốt, Cự Môn tại Mạng làm cho có uy quyền, tài, lộc, làm cho thuần hậu, vui vẻ. Ở đất xấu, Cự Môn làm cho kém sáng, thành gian trá, hay có chuyện thị phu, kiện cáo.

Tại Tý-Ngọ, Cự Môn là ngọc quý giấu trong đá, cần có song Hao, hay Tuần, Triệt đồng cung, hoặc Hóa Lộc, thì mới phá vỡ được đá làm cho giầu có.

Cự Môn hãm địa hay có tai họa, nhưng gặp Hóa Khoa đồng cung lại chẳng có gì đáng sợ.

THIÊN TƯỚNG

Tướng nhà trời dũng mãnh, chủ về uy quyền, tài lộc, và phúc thiện.

Tại Mạng, ở đất hay đất xấu, đều làm cho con người uy dũng có uy quyền; có tài lộc, nhân hậu, nhưng dễ đam mê.

Đi với Liêm Trinh, trừ được tánh xấu của Liêm.

Sao Thiên Tướng không sợ các sát tinh (Hỏa, Linh, Không Kiếp). Các sao này không giảm chế được Thiên Tướng, nhất là Thiên Tướng ở đất tốt. Trái lại Thiên Tướng ngộ Kình lại hay gây tai họa. Thiên Tướng ngộ Triệt, Tuần cũng không hay, ở Quan Lộc làm công danh gián đoạn, ở Mạng thì mất quyền và làm cho họa hại.

THIÊN LƯƠNG

Thiên Lương chủ về sự hiền hòa, phúc thọ. Người được Thiên Lương đất tốt tại mạng, là người hiền lành, nhân hậu, biết quyền biến, tránh được các tai họa. Nhưng ở đất xấu, Thiên Lương vẫn làm cho con người hiền lành nhưng hay nhầm lẫn, đổi thay bất thường.

THẤT SÁT

Là quyền tinh dũng tinh, chủ về uy lực và sự sát phạt. Tại Mạng, ở đất tốt là người có uy quyền, dũng mãnh, nóng nảy. Ở đất xấu thì hung bạo, hay bị tai họa. Nếu Thất Sát gặp Kình đồng cung thì hay có những họa lớn.

PHÁ QUÂN

Phá Quân là hung tinh, chủ về quyền uy, nếu ở đất tốt tại Mạng thì thêm tánh can đảm và gian hiểm. Ở hãm địa, thì hung bạo, gian ác, sẵn sàng hại người và hay bị tai họa.

Phá Quân tại Mạng ở Thìn Tuất, con người dũng mãnh mà không tình nghĩa.

Gặp Hao, Phá Quân càng tác hại

Được thêm Lương, Hỉ, Lộc thì Phá Quân bị chế ngự về các ảnh hưởng xấu.

(Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiểm điểm tánh chất các sao trong tử vi: 14 Chính Tinh

Phong thủy xe hơi –

Khi nhắc tới xe hơi, người ta thường ngầm quy ước với nhau hình ảnh của chiếc xe là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh của chủ xe, tuy vậy, hiếm có người chú ý tới việc mang lại “khí tốt” cho chiếc xe của chính họ. Những dòng khí hay năng lượng đó là tổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi nhắc tới xe hơi, người ta thường ngầm quy ước với nhau hình ảnh của chiếc xe là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh của chủ xe, tuy vậy, hiếm có người chú ý tới việc mang lại “khí tốt” cho chiếc xe của chính họ.

Những dòng khí hay năng lượng đó là tổng hòa của nội thất xe lẫn tất cả những gì thuộc về chiếc xe đó, tất nhiên dù chúng có cân bằng hay không thì cũng đều ảnh hưởng trực tiếp lên chủ xe. Khoa học phong thủy chỉ ra một số điểm chú ý nhằm mang lại phong thủy tốt cho xe hơi.

Thế Tứ Linh trong xe hơi

Nhìn chung, hơi cũng tuân thủ theo thế đất Tứ Linh kinh điển: phía sau cao hơn phía trước và được “nâng đỡ” ở hai bên xe, thậm chí chỗ ngồi của xe cũng nên theo hình thế Tứ Linh này. Những xe nào thoai thoải về phía sau và trống ở phía sau có thể khiến người ngồi trong xe cảm thấy bất an, như trong trường hợp bạn nhìn thấy ai đó lái xe mà cửa sau hoặc nắp thùng sau xe không được đóng kín.

Đèn sau xe tượng trưng cho khu vực Huyền Vũ, chính vì vậy phải chắc chắn rằng các đèn này không bị mờ tối và luôn hoạt động tốt; khi chúng bị hỏng phải thay thế ngay. Các xe có vị trí ngồi dốc về phía trước, như các loại xe thể thao đắt tiền, cũng phơi bày nhược điểm ở phía sau vì vị trí Huyền Vũ yếu. Phong thủy chỉ ra rằng không nên để những bộ phận quan trọng như thế bị hỏng hóc hoặc mờ đục.

20130831090437-san-pham-bmw

Trang trí xe

Những logo cảnh báo dán phía sau xe có tác dụng tăng cường năng lượng cho vị trí Huyền Vũ này, đặc biệt là những câu đại loại như “Làm ơn giữ khoảng cách” hoặc “Baby in car”. Với những giấy dán có tính khôi hài hoặc khó đọc sẽ mang đến tác dụng ngược vì chỉ khuyến khích xe chạy sau tiến đến gần xe của bạn hơn. Vì vậy, bất cứ loại logo hay giấy dán trang trí nào gây mất tập trung của người phía sau thì chủ xe nên tránh dùng.

Có nhiều người thường mang theo những vật có tính linh thiêng trong xe hơi khi di chuyển. Ở phương Tây hình tượng thánh Christopher được tin là vật hộ mạng vì đây là Thánh đỡ đầu cho những người đi xa trong khi ở Việt Nam đó là hình tượng Phật Bà Quan Âm hoặc Đức Mẹ Maria…

Xe hơi và “luồng khí sạch”

Không khí bên trong xe cần phải trong lành vì đây là yếu tố quan trọng liên kết người ngồi trong xe với thế giới bên ngoài. Nếu không khí thiếu trong sạch, tài xế sẽ trở nên dễ mệt mỏi và mất tập trung.

Để làm trong lành bầu không khí trong xe, chủ xe có thể dùng các chất tạo mùi tự nhiên đồng thời cũng tác động lên tâm trạng của những người trong xe. Cây hương thảo, dầu hoa cam và dầu chanh có tác dụng rất tốt trong việc làm nguôi cơn giận và giúp cho tâm trí của người ngồi trong xe được thanh thản, nhẹ nhàng. Chú ý không để cho đồ đạc trong xe bị xáo trộn bừa bãi.

Tầm nhìn lại là một yếu tố quan trọng khác khi tài xế ngồi bên trong xe hơi. Các kính xe và các đèn pha phía trước nên được giữ sạch và trong để chúng ta có thể quan sát rõ bên ngoài khi gặp thời tiết xấu. Trong phong thủy, những chiếc cửa sổ xe được xem là “mắt xe”.

Thêm vào đó, nên chú ý lên lịch bảo dưỡng xe nhằm duy trì nguồn năng lượng mạnh mẽ vốn có của chiếc xe. Đó không đơn giản là bơm xăng hay rửa xe, bởi nếu chủ xe quan tâm đến động cơ xe như quan tâm đến thân thể của mình thì chẳng ai vui khi chúng không hỏng hóc và hoạt động tốt. Vì vậy, cần đảm bảo rằng chủ xe phải thường xuyên đưa xe đến các gara để đảm bảo các bộ phận xe luôn trong tình trạng họat động tốt.

Chọn màu xe

Đứng trên quan niệm về Phong Thủy, khi chọn màu cho xe chúng ta phải chắc chắn rằng màu này không xung khắc với màu Ngũ hành tương ứng với tuổi của mình.

Ví dụ, một thanh niên tuổi Ngọ mạng Hỏa, không nên chọn xe màu đỏ vì màu này làm tăng thêm tính Hỏa của người ấy. Một chiếc xe màu xanh đậm hoặc đen sẽ làm dịu bớt Hỏa, và Kim – màu trắng hay xám – thì thích hợp hơn, và an toàn hơn, vì làm Hỏa suy yếu đi.

Mặt khác nếu người lái xe nào dễ bị mất tập trung và là người tuổi Hợi mạng Thủy thì nên chọn màu xe thuộc hành Mộc (màu xanh lá). Màu thuộc hành Kim (trắng hoặc bạc) cũng có tác dụng hỗ trợ những người này.

Tuy vậy, việc chọn màu sắc hợp phong thủy cho xe cũng tùy thuộc vào sở thích của chủ xe. Nếu chọn được màu xe hợp mạng, tuổi, nhưng chủ xe lại không thích màu đó, thì điều đó cũng không tạo nên luồng khí giao hòa tốt đẹp giữa chủ xe và chiếc xe. Nên cân nhắc kĩ về vấn đề này.

Bãi đỗ xe

Khi đỗ xe, tốt nhất nên đỗ xe ở vị trí nằm xa với nhà gia chủ hơn là đỗ xe ngay trong một địa điểm nào đấy thuộc ngôi nhà hoặc để xe nằm đối diện với ngôi nhà đó.

Lí do đơn giản cho điều này là do phong thủy vốn quan niệm xe hơi như “một con hổ sống”, nên nếu cứ đỗ xe hướng vào nhà bạn hay nơi làm việc, thì nó sẽ tạo ra sát khí đe dọa tới những người sống ở nơi nó hướng vào.

Biển số xe

Quan điểm về biển số xe có thể thay đổi tùy theo các nền văn hóa khác nhau. Tại Việt Nam, theo phát âm tiếng Hán Việt, số 4 (tứ) được phát âm như chữ “chết” (tử) cho nên đây bị xem là số mang đến điều xui xẻo. Hoặc những biển số có tổng 1 cũng thường bị coi là biển số xấu.

Cũng theo cách này, số 8 có phát âm trong tiếng Hán Việt gần giống chữ “phát” nên rất được ưa chuộng. Tương tự như vậy, số 6 có phát âm trong tiếng Hán Việt gần giống với “lộc” nên cũng được xem là một số đẹp. Biển số xe nào có chứa nhiều số 6 và 8 thường được nhiều người săn lùng và sẵn sàng trả giá cao để sở hữu.

Thêm vào đó, nếu có những con số phù hợp với mệnh của người lái thì biển số xe cũng có thể sẽ mang lại nhiều may mắn. Ví dụ, mệnh Mộc hợp với những số 1-3-4 hoặc mệnh Hỏa thì hợp những số 9-0.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy xe hơi –

Hồ lô vật phẩm phong thủy tác dụng Tiêu Tai – Hóa Bệnh –

Quả hồ lô là quả gì? quả hồ lô phong thủy có tác dụng gì? Và tại sao lại có tác dụng như thế? Các bạn hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về quả hồ lô phong thủy để có câu trả lời cho những câu hỏi trên nhé! Đặc điểm của quả hồ lô Quả Hồ Lô, có ngoại hình rấ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quả hồ lô là quả gì? quả hồ lô phong thủy có tác dụng gì? Và tại sao lại có tác dụng như thế? Các bạn hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về quả hồ lô phong thủy để có câu trả lời cho những câu hỏi trên nhé!

Nội dung

  • 1 Đặc điểm của quả hồ lô
  • 2 Tác dụng của hồ lô trong phong thủy
    • 2.1 Có tác dụng quảng cáo rất lớn
    • 2.2 Quả hồ lô có thể tiêu tai hóa bệnh
    • 2.3 Mang lại tình cảm gắn bó cho các cặp vợ chồng

Đặc điểm của quả hồ lô

Quả Hồ Lô, có ngoại hình rất kỳ lạ, miệng nhỏ mà bụng lớn, người xưa đã rất thông minh khi sử dụng nó làm đồ chứa đựng, đựng nước, đựng rượu, lại dừng cất giữ linh đan diệu dược. Trong hiệu Y Dược, chỗ trên đài cao thường hay trưng bày một cái Hồ Lô bằng kim loại rất lớn.

ho-lo

Tác dụng của hồ lô trong phong thủy

Có tác dụng quảng cáo rất lớn

Nó có tác dụng quảng cáo rất lớn, chỉ cần thấy Hồ Lô thì hiểu ngay là chỗ làm về Y Dược. Trong tác phẩm Tây Du Ký , có các loại yêu tinh thường hay dùng Hồ Lô tu luyện thành Pháp Khí, là pháp bảo để chiến thắng đối thủ.

Quả hồ lô có thể tiêu tai hóa bệnh

Nói về hình dạng, Hồ Lô không chỉ để sử dụng mà nó còn có các công hiệu Thần Bí vô cùng ! Trong Phong Thủy Học công dụng của Hồ Lô rất lớn. Các bậc Tiên Hiền đã sớm phát hiện Hồ Lô không chỉ tiêu tai mà còn có thể hóa bệnh.

Phàm trong nhà mà thường có người bị bệnh, có thể treo Vật phẩm phong thủy này, có thể trợ giúp mau lành bệnh, nam nữ già trẻ đều dùng được. Nếu như bạn không có nhiều kiến thức về Phong Thủy thì dùng Hồ Lô treo ở đầu giường của Bệnh Nhân, tất nhiên sẽ có hiệu quả.

Nếu cần có thể đọc trong các sách về Phong Thủy hoặc nhờ Phong Thủy Sư tính giúp cho phương vị Thiên y hoặc Diên Niên để treo thì kết quả rất tốt. Bệnh lớn hóa nhỏ, bệnh nhỏ sẽ hết, làm cho người bệnh yếu trở nên khỏe mạnh tinh thần khoan khoái.

Trong Huyền Không Phong Thủy, Nhị Hắc và Ngũ Hoàng là hai sao mang đến nhiều bệnh tật, nếu nó bay vào cửa hoặc phòng ngủ. Như năm nay 2010 nếu phòng ngủ của bạn ở phương vị Đông-bắc hoặc Tây-nam thì bị sát khí của sao Nhị Hắc và Ngũ Hoàng. Làm cho người ngủ ở hai phòng này, nhiều khi vô duyên vô cớ bị bệnh tật tai họa, đây chính là lúc phát huy tác dụng to lớn của Hồ Lô đồng.

Nhị Hắc, Ngũ Hoàng ngũ hành thuộc Thổ, dùng kim hóa giải. Hồ Lô Đồng thuộc kim, kim có thể tiêu hóa thổ, Hồ Lô lại có thể hóa giải bệnh tật, một vật dùng hai mục đích, hiệu quả sẽ rất tốt.

Mang lại tình cảm gắn bó cho các cặp vợ chồng

Hiện nay ngoài Hồ Lô thiên nhiên được xử lý để sử dụng còn có nhiều loại Hồ Lô với nhiều chất liệu được chế tác như gỗ, kim loại, ngọc. Trong nhà nếu vợ chồng bạc duyên, chung giường mà khác mộng, có thể treo thử một cái Hồ Lô đồng ở đầu giường, có thể sẽ nối lại sợi dây tình cảm, có khi đem lại những cảm xúc ngọt ngào như thời mới yêu nhau.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hồ lô vật phẩm phong thủy tác dụng Tiêu Tai – Hóa Bệnh –

Trồng cây phong thủy theo tuổi –

Có rất nhiều cách chiêu tài, giữ tài, trong đó mọi người có thể bày cây phong thuỷ để thu hút tài vận. Tùy vào từng con giáp bản mệnh mà có từng loại cây may mắn khác nhau. Chọn đúng cây phong thuỷ cho từng con giáp giúp bạn tăng cường tài vận trong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều cách chiêu tài, giữ tài, trong đó mọi người có thể bày cây phong thuỷ để thu hút tài vận. Tùy vào từng con giáp bản mệnh mà có từng loại cây may mắn khác nhau. Chọn đúng cây phong thuỷ cho từng con giáp giúp bạn tăng cường tài vận trong sự nghiệp và mang lại may mắn trong cuộc sống.

Nội dung

  • 1 Tuổi Tý
  • 2 Tuổi Sửu
  • 3 Tuổi Dần
  • 4 Tuổi Mão
  • 5 Tuổi Thìn
  • 6 Tuổi Tỵ
  • 7 Tuổi Ngọ
  • 8 Tuổi Mùi
  • 9 Tuổi Thân
  • 10 Tuổi Dậu
  • 11 Tuổi Tuất
  • 12 Tuổi Hợi

Tuổi Tý

Cây mang lại tài vận: Cây Kim Tiền

Những người tuổi Tý đa phần không biết cách quản lý tiền bạc, nhưng họ luôn có ý thức tích lũy tiền bạc và tiết kiệm. Họ không am hiểu đầu tư, thường không nắm bắt được cơ hội kiếm tiền.

Người tuổi Tý nếu có thể đặt một chậu Kim Tiền trong nhà riêng sẽ giúp họ nhận được nhiều may mắn. Đồng thời tăng thêm tinh thần mạo hiểm, giúp người này dũng cảm đương đầu thách thức để nắm bắt những cơ hội phát tài.

Tuổi Sửu

Cây mang lại tài vận: Cây dứa cảnh nến

Nếu người tuổi Sửu trồng một chậu Cây dứa cảnh nến trên bàn làm việc sẽ mang vận tài lộc đến cho họ.

Tên thường gọi: Cây dứa cảnh nến (cây dứa cảnh lệ, cây dứa cánh sen, cây ngôi sao đỏ, cây ngọn lửa đỏ, cây phong lộc hoa).


Người tuổi Sửu chịu được vất vả, làm việc theo hướng thực tế, là người trung thực nhưng tương đối bảo thủ, mỗi ngày làm việc chỉ kiếm được một ít tiền.

Những người tuổi này nên đặt chậu dứa cảnh nến ở bên trái bàn làm việc để trợ giúp bạn kiếm được nhiều tiền hơn, mà bạn cũng sẽ cảm thấy thoải mái hơn.

Tuổi Dần

Cây mang lại tài vận: Cây Ngũ gia bì

Người tuổi Dần dám đương đầu với nguy hiểm, biết cách kiếm tiền. Nhưng thực tế thì họ không quá coi trọng tiền tài, mà chỉ thích quá trình kiếm ra nó. Đôi khi người tuổi này có chút nóng vội, hấp tấp dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tiền tài.

Nếu người tuổi Dần trồng một chậu ngũ gia bì trong phòng khách sẽ giúp cho con đường tài vận của họ ổn định, phát triển thuận lợi; đồng thời giúp họ củng cố tài vận, giữ được tiền bạc không tiêu biến.

Tuổi Mão

Cây mang lại tài vận: Cây Trúc phú quý (cây phát lộc)

Người tuổi Mão không biết mẹo kiếm tiền, đối với chuyện tiền tài có chút bảo thủ. Vì vậy, tiền họ kiếm được thường ít và chậm hơn, cơ hội phát tài cũng không dễ dàng.

Người tuổi Mão nên đặt cành phát lộc trên tủ lạnh( chú ý là phải để số lẻ) để giúp tài vận của họ được thịnh, kiếm tiền nhanh hơn, nhiều hơn.

Tuổi Thìn

Cây mang lại tài vận: Cây xương rồng và cây vạn niên thanh

Đường tài vận của người tuổi Thìn vô cùng tốt. Không cần làm việc quá vất vả vẫn có tiền vào túi, nhưng bên cạnh thường có kẻ xấu giở trò mờ ám, từ đó cản trở con đường tài lộc của họ.

Người tuổi Thìn nên đặt một chậu xương rồng ở hướng Tây Bắc của phòng khách để hóa giải tà khí, phòng kẻ tiểu nhân và đặt một cây vạn niên thanh ở hướng Đông Nam giúp mang đến tài lộc.

Tuổi Tỵ

Cây mang lại tài vận: Cỏ đồng tiền

Kỳ thực người tuổi Tỵ có đường tài vận không tệ nhưng lại không biết nắm chắc cơ hội, vì do dự nên hay bỏ qua thời cơ kiếm tiền.

Người cầm tinh con rắn nên trồng một ít cỏ đồng tiền trước bệ cửa sổ để trợ giúp tài vận tăng tiến, đồng thời tăng năng lực phân tích cá nhân, giúp bạn mạnh mẽ hơn, hành động quyết đoán hơn.

Tuổi Ngọ

Cây mang lại tài vận: Cây trầu bà

Tài vận người tuổi này rất tốt, biết cách kiếm tiền. Nhưng tuổi này lại khá tham lam, chính tính cách này làm họ bị tổn thất trong quá trình kiếm tiền.

Trong nhà người tuổi Ngọ nên đặt mấy chậu trầu bà sẽ giúp tài vận của họ tập trung một mối, nhưng cũng phải suy xét tình hình kỹ lưỡng, không được tham lam.

Tuổi Mùi

Cây mang lại tài vận: Cây Lan quân tử

Người tuổi này không quan trọng tiền tài, khát vọng kiếm tiền cũng không lớn. Bởi họ không nỗ lực sức mình để kiếm tiền nên cơ hội phát tài là khá thấp.

 

Người tuổi Mùi nên đặt một chậu lan quân tử ở phía bên phải bức tường đối diện sofa trong nhà, sẽ mang đến quý nhân phù trợ họ trên con đường tài vận.

Tuổi Thân

Cây mang lại tài vận: Cây tùng bồng lai

Người tuổi Thân biết cách kiếm tiền, cũng biết cách nắm bắt cơ hội tài lộc, nhưng họ kiếm nhiều thì tiêu cũng nhiều. Họ tiêu tiền như nước, không biết tiết kiệm nên cuối cùng còn lại không đáng là bao.

Người tuổi Thân nên đặt một chậu tùng bồng lai trong phòng đọc sách, phòng làm việc. Điều này giúp họ kiếm được tiền, làm ví tiền không bao giờ cạn.

Tuổi Dậu

Cây mang lại tài vận: Cây Ngọc Lộ (sen đá)

Đường tài vận tuổi này rất vượng, nhưng không biết giữ. Tiền tài hoặc là bị vay mượn, hoặc hao tổn khi đầu tư. Khả năng tổn hao tiền tài rất cao.

Không muốn vậy, người tuổi Dậu nên trồng một chậu sen đá ở phòng khách, giúp họ ngăn chặn việc hao tổn tài lộc. Tiền tài tự nhiên sẽ giữ được.

Tuổi Tuất

Cây mang lại tài vận: Cây phát tài (cây kim ngân)

Người tuổi này có đường tài vận khá ổn định, nhưng không biết cách quản lý, không biết nắm bắt cơ hội kiếm tiền. Khi có cơ hội không biết cách trân trọng, nên rất khó phát tài.

Những người này nên đặt chậu kim ngân ở phòng khách, giúp họ tích lũy tiền tài, kiếm được nhiều tiền hơn, tài lộc lũ lượt kéo đến.

Tuổi Hợi

Loại cây vượng tài: Nhất mạt hương (tên tiếng Anh Plectranthus hadiensis var. tomentosus).

Người cầm tinh con lợn có cuộc sống đầy đủ sung túc, ăn ngon mặc đẹp, nhưng cũng vì cuộc sống xa xỉ này mà họ thường tiêu hết tiền, ít khi dư dả để tiết kiệm, tài sản dần dần ít đi.

Người tuổi Hợi nên đặt một chậu nhất mạt hương trên bàn máy tính trong văn phòng và ở nhà, để giúp bạn lý trí hơn mỗi khi tiêu tiền, hạn chế việc tiêu pha tùy tiện. Nhưng bạn phải nhớ thường xuyên chạm vào lá cây thì mới có hiệu quả!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trồng cây phong thủy theo tuổi –

Vai trò của đá thạch anh tím trong cuộc sống –

Đá thạch anh là loại đá quý được con người rất tin dụng. Đá thạch anh là một trong những loại đá được sử dụng để làm các món đồ trang sức không chỉ bởi vẻ đẹp lấp lánh mà nó còn có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe và có ý nghĩa phong thủy rất quan t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đá thạch anh là loại đá quý được con người rất tin dụng. Đá thạch anh là một trong những loại đá được sử dụng để làm các món đồ trang sức không chỉ bởi vẻ đẹp lấp lánh mà nó còn có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe và có ý nghĩa phong thủy rất quan trọng trong cuộc sống. Thạch anh có rất nhiều loại màu sắc khác nhau như: tím, vàng , lục, hồng , sữa, pha lê …. Trong đó, có lẽ thạch anh tím là loại được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Vậy tại sao thạch anh tím lại được dùng phổ biến hơn so với các loại đá khác. Vai trò của đá thạch anh tím trong cuộc sống là gì? Hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây để hiểu thêm nhé!

Nội dung

  • 1 Thạch anh tím
  • 2 Vai trò của đá thách anh tím
    • 2.1 Thạch anh tím có tác dụng kỳ diệu đối với sức khỏe
    • 2.2 Thạch anh tím là lá bùa hộ mệnh trong phong thủy
    • 2.3 Thạch anh tím vận hành phong thủy

Thạch anh tím

Thạch anh (silic điôxít, SiO2) hay còn gọi là thủy ngọc là một trong số những khoáng vật phổ biến trên Trái Đất. Thạch anh được cấu tạo bởi một mạng liên tục các tứ diện silic – oxy (SiO4), trong đó mỗi oxy chia sẻ giữa hai tứ diện nên nó có công thức chung là SiO2.

Thạch anh được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau: điện tử, quang học,… và trong ngọc học. Các tinh thể thạch anh trong suốt có màu sắc đa dạng: tím, hồng, đen, vàng,… và được sử dụng làm đồ trang sức từ rất xa xưa.

Ametit loại biến thể màu tím của thạch anh được coi là đá quý của tháng hai và là loại được ưa chuộng nhất của họ thạch anh.

Vai trò của đá thách anh tím

Đá thạch anh tím là loại đá từ thiên nhiên rất quý hiếm tỏa ra năng lượng có công dụng rất tốt đối với sức khỏe con người và đặc biệt, trang sức từ đá thạch anh tím còn mang ý nghĩa mang lại nhiều điều may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống của chúng ta.

Thạch anh tím có tác dụng kỳ diệu đối với sức khỏe

Thạch anh tím là một tinh thể tỏa ra năng lượng. Vì vậy, khi đeo trang sức từ thạch anh tím sẽ có tác dụng cực kì tốt khi được dùng để giảm đau và giảm stress, giận dữ và khó chịu, làm dịu tâm tính, xoá bỏ các nỗi sợ và cảm giác tiêu cực. Thêm nữa, thạch anh tím còn có thể được đeo để bảo vệ ta khỏi những đòn tấn công tinh thần cũng như những tổn hại khác.

Ngoài ra, theo nghiên cứu của các nhà khoa học, đá thạch anh tím tỏa ra năng lượng kỳ diệu, giúp chúng ta tỉnh táo, nó rất tốt cho những người muốn cai nghiện thuốc lá, rượu bia hoặc những chất gây nghiện khác. Nó còn có thể được dùng cho các vấn đề về xương khớp, như giảm sưng tấy, thâm tím và giúp cho hô hấp, tiêu hoá cũng như da dẻ, đồng thời chữa các các rối loạn trong tim và tuần hoàn, thính giác và thị giác. Nó thường xuyên được dùng để chữa chứng đau đầu và cũng có thể được đặt dưới gối làm giảm chứng mất ngủ.

Thạch anh tím là lá bùa hộ mệnh trong phong thủy

Theo các nhà sư Phật giáo tin rằng thạch anh tím giúp đem lại sự thanh thản và được dùng làm các chuỗi hạt cầu nguyện ở Tây Tạng.

Thạch anh tím có tác dụng chống lại những ma thuật được sử dụng trong thời gian lâu dài cho việc khai hóa tâm linh và sự linh thiêng. Mỗi chuỗi hạt thạch anh tím giúp cho sự trầm tư mặc tưởng. Thạch anh tím còn được biết như thể là loại đá của Giám mục và vẫn còn được sử dụng bởi những Giám mục Công giáo, tượng trưng cho lòng thành kính, sự khiêm tốn, tính không ngôn, thành thật và thiêng liêng.

Thạch anh tím vận hành phong thủy

Ngày nay, thạch anh tím được sử dụng hàng ngày với ý nghĩa vận hành phong thủy. Đặt quả cầu thạch anh tím ở góc Đông-bắc của phòng học sẽ tăng cường vận may về đường học vấn. Đặt ở góc Tây-nam của phòng ngủ sẽ kích hoạt vận may về quan hệ tình cảm hoặc đời sống hôn nhân hạch phúc. Không nên đặt quá cao, tốt hơn nên đặt trên mặt bàn, nhất là bàn làm việc.

Sử dụng chùm thạch anh tím, hoặc quả cầu thạch anh tím đặt nới cửa sổ để đón nhận tia nắng thì rất có lợi cho việc duy trì năng lượng dương trong nhà. Chùm thạch anh tím đặt dưới ánh trăng để thu hút năng lượng sẽ mang lại sự điềm tĩnh hơn cho mọi người trong nhà.

Có thể thấy, đá phong thủy thạch anh tím vừa có tác dụng chữa bệnh rất tốt đối với sức khỏe vừa là lá bùa hộ mệnh mang lại nhiều may mắn và hạnh phúc . Như vậy, thạch anh tím có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vai trò của đá thạch anh tím trong cuộc sống –

Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Hình ảnh em trai thường xuất hiện trong những giấc mơ của nữ giới. Một cô gái học tập xa nhà tâm sự: Em trai tôi nhỏ hơn tôi vài tuổi, hoạt bát đáng yêu, cả nhà tôi ai cũng yêu mến chú ấy cả. Nói thật, tôi rất nhớ em. Tôi mơ thấy mình trở về nhà vào
Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Năm Tỵ nói chuyện rắn trong dân gian

Nhân dịp Tết Quý Tỵ, giới chiêm tinh Trung Hoa dự báo một năm con rắn nhiều xáo trộn: xung đột Nhật Bản – Trung Quốc trên biển, thị trường tài chính thế giới chao đảo như rắn uốn mình. Tuy nhiên cũng như rắn lột da, Quý Tỵ cũng hứa hẹn nhiều thay đổi sâu rộng. Năm Rắn bắt đầu kể từ 10/02/2013 tốt hay xấu ?
Năm Tỵ nói chuyện rắn trong dân gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


ể “trả lời” câu hỏi này, trong bài tường thuật 07/02/2013 từ Hồng Kông nhân dịp năm rồng sắp qua, năm rắn sắp đến, AFP tóm lược dự báo của một số chiêm tinh gia Trung hoa về tương lai trong năm Quý Tỵ. Theo hãng tin có tiếng nghiêm túc này thì “giới chiêm tinh Á châu tiên đoán con rắn năm nay là con rắn độc, hành thủy, sẽ mang lại những tai họa lớn và chuyển đổi quan trọng.

Trong quá khứ, năm Tỵ 2001 nổ ra vụ Al Qaida khủng bố tòa tháp đôi New York, năm Tỵ 1989 xảy ra phong trào Dân chủ Thiên An Môn và cuộc đàn áo đẫm máu đêm mùng 3 rạng mùng 4 tháng 6, năm rắn 1941 không quân Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng. Một chiêm tinh gia họ Châu dự báo vào tháng 5, xác xuất Nhật Trung đụng độ tại biển Hoa Đông rất cao.

Trên các mạng xã hội tại Việt Nam cũng có nhiều dự báo và ước vọng trong năm Quý Tỵ. Tại Pháp, nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Nguyễn Dư không tin vào bình luận của giới chiêm tinh nhưng quan tâm nhiều hơn về giai thoại “rắn” trong dân gian, trong thi ca.

Trong bài “Rồng rắn lên mây”, giáo sư Nguyễn Dư đưa đến độc giả những nghi vấn rất lý thú về bài thơ “Rắn đầu biếng học”, về những giai thoại trong vụ án “Lệ Chi Viên”…về một số “chi tiết” đáng ngờ của các nhà nghiên cứu Tây phương về Nguyễn Trãi.

Theo tác giả, dân gian Việt Nam hay Trung Hoa thì con rắn được xem là biểu tượng của cái “xấu” nhưng dù có “độc” đến đâu vẫn không đáng sợ bằng chế độ chính trị hà khắc (Liễu Tôn Nguyên). Trước thềm năm Quý Tỵ, xin gởi đến quý thính giả bài phỏng vấn giáo sư Nguyễn Dư sau đây. 

 ***

Bài viết tham khảo : Rồng rắn lên mây của giáo sư Nguyễn Dư

Nước ta nhiều núi rừng, sông lạch. Lắm thuồng luồng, rắn rết. Rắn bò vào điện thờ, chui vào sách vở, nấp trong quán ăn. Trẻ con mới tập tễnh cắp sách đến trường đã phải rùng mình làm quen với họ hàng nhà rắn :

Chẳng phải liu điu, vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm, rát cổ cha,
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba.
Từ nay Châu, Lỗ, xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
(Rắn đầu biếng học, Quốc văn giáo khoa thư)

Rắn đầu biếng học, có bản chép là Trách mình biếng học, tục truyền là của Lê Quý Đôn. Bài thơ ghép được nhiều tên rắn như vậy thì ngoài thần đồng Lê Quý Đôn ra ai mà làm được, phải vậy không thưa các cụ? Lãng Nhân (Giai thoại làng Nho), Bùi Hạnh Cẩn (Lê Quý Đôn), Tạ Quang Phát (Vân đài loại ngữ) và nhiều học giả khác kể rằng :

Năm lên tám, một hôm Lê Quý Đôn bị bố mắng là đồ rắn đầu rắn cổ (hay rắn đầu biếng học), bèn xuất khẩu « phun » ra bài thơ!

Rằng hay thì thật là hay, nhưng nghe không ổn, hôm nay xin bàn! Bàn về Rắn và Rắn. Rắn luồn lách và rắn cứng đờ. Rắn (con rắn) thì cả nước ta ai cũng biết. Tất cả các tự điển tiếng Việt từ xưa đến nay đều có từ Rắn này. Khỏi cần bàn thêm.

Rắn (cứng) mới… có vấn đề. Từ điển Alexandre de Rhodes (1651) có từ Rắn (cứng). Có cả Rắn gan và Rắn mày rắn mặt. Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của không có Rắn (cứng). Chỉ có Cứng (cứng lòng, cứng cổ, cứng đầu). Tự điển Génibrel (1898) có Rắn (raide), Rắn mắt (têtu) và Rắn gan, rắn dạ (audacieux).

Việt Nam tự điển (1931) của hội Khai Trí Tiến Đức không có Rắn (cứng) nhưng lại có Dắn (cứng, trái với nát). Ngược lại, Cứng nghĩa là Dắn (không bẻ được, trái với mềm). Tìm trong tất cả các tự điển xưa không đâu có rắn đầu và rắn đầu rắn cổ.

Thực tế thì người miền Bắc thường mắng con là đồ Cứng đầu cứng cổ hay Rắn mày rắn mặt. Người đàng ngoài không nói rắn đầu hay rắn đầu rắn cổ. Khuyên con chăm học chứ không khuyên siêng học. Đọc truyện Đông Chu liệt quốc, kính phục cụ Phan Chu Trinh. Châu, Lỗ hơi xa lạ với họ.

Lê Quý Đôn sinh năm 1726 tại Diên Hà (Thái Bình). Mười bốn tuổi mới rời quê, theo cha lên kinh đô Thăng Long… Rắn đầu biếng học và Châu, Lỗ xin siêng học, chắc chắn không phải là khẩu khí của cậu bé Lê Quý Đôn.

Bố Lê Quý Đôn mắng con rắn đầu rắn cổ (Lãng Nhân, Bùi Hạnh Cẩn) là… mắng bậy!
Rắn của Quốc văn giáo khoa thư bò lung tung như vậy nhưng vẫn còn kỉ luật hơn rắn của nhà nho rất nhiều.

Sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (thế kỉ 18) có truyện Quan Phục Hầu Nguyễn Trãi :
« Quốc triều Quan Phục hầu Ức Trai tiên sinh người xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc. Trong khi Thái Tổ Cao Hoàng Đế bình định thiên hạ, các hiệu lệnh văn thư đều do tay ông thảo cả. Trong bài Bình Ngô đại cáo của ông có câu rằng :

Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm.
Nghĩa là : Đến nỗi đứa trẻ con giảo quyệt như Tuyên Đức nhàm võ không chán.

Ông làm câu ấy, là vì ông oán ghét người Minh nhiễu hại nước ta, nên xỉ vả thẳng đến vua của họ. Người Trung Quốc xem bài Bình Ngô đại cáo phê rằng : « Người nào làm bài này, con cháu sẽ không được toàn vẹn ». Về sau vì việc Thị Lộ ông bị giết chết. Người ta cho lời phê của người Trung Quốc là linh nghiệm.

Ông lấy Nguyễn Thị Lộ làm vợ lẽ. Tục truyền Thị Lộ là yêu tinh rắn hoá thành (…). Sau ông vì nàng mà bị tội » (1).

Vũ Phương Đề là người đầu tiên đem « sấm » Tàu và « yêu tinh rắn » vào thêu dệt cái chết của Nguyễn Trãi. Vũ Phương Đề đã mở đường cho phong trào viết… « lẫn lộn thực hư ». Cái chết bi đát của Nguyễn Trãi, một sự kiện lịch sử có thật, bắt đầu được tô vẽ, thêm bớt.

Đầu thế kỷ 19, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án soạn sách Tang thương ngẫu lục, chép truyện Ông Lê Trãi. Thực thực hư hư. Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi được thần báo mộng, được Tiên Dung mách bảo vào Lam Sơn phò Lê Lợi ...

Trước khi hiển đạt, Nguyễn Trãi mở trường dạy học ở làng Nhị Khê. Một hôm ông sai học trò dọn sạch một cái gò để dựng nhà học. Đêm hôm ấy ông nằm mộng thấy một người đàn bà đến xin ông cho ngừng chặt phá, làm cỏ trong 3 ngày để mẹ con bà kịp rời đi nơi khác. Tỉnh dậy, ông ra thăm thì thấy học trò đã làm cỏ xong cái gò. Chúng khoe có đánh cụt đuôi một con rắn và bắt được hai quả trứng.

« Ông cầm hai quả trứng về nuôi giữ. Đêm hôm ấy giong đèn đọc sách, ông thấy một con rắn trắng leo trên xà nhà, rỏ giọt máu xuống sách, ướt chữ « đại » (là đời), vết máu thấm xuống ba tờ giấy. Ông tự hiểu mà rằng :
- Nó sẽ báo oán ta đến ba đời sau.
Trứng rắn nở ra được hai con, một dài một ngắn, ông sai đem thả xuống sông Tô Lịch ở làng bên, nay những rắn ấy làm thần sông.

Khi ông hiển đạt, thường mỗi ngày ở triều đình về, qua phố hàng Chiếu, gặp một người con gái nhan sắc rất đẹp. Hai bên dùng thơ đùa cợt, rồi ông yêu mến, lấy về làm thiếp. Trong năm Thiệu Bình, người ấy thường đi lại vào trong cung cấm, vua Thái Tông cho làm chức Nữ học sĩ. Đến khi vua thăng hà, Triều đình đem nàng ra tra hỏi. Nàng nói là do ông xúi. Vì thế nên ông phải tội. Khi bị hành hình người con gái ấy hoá làm con rắn, bò xuống mặt nước mất.

Ông có một người thiếp chạy trốn xuống vùng Sơn Nam, ẩn ở nhà người, rồi sinh ra được một người con trai là Anh Võ (…). Nhớn lên, Anh Võ làm quan ở Đài sảnh, rồi phụng mệnh đi sứ Tàu. Khi qua hồ Động Đình, thấy trên mặt nước xuất hiện một con rắn, rồi sóng gió nổi lên dữ dội, ông khấn xin cho đi xong việc nước, sóng gió mới im. Sau khi đi chầu vua Tàu về, đến hồ Động Đình, thuyền bị úp sấp mà chết đuối, được truy tặng Thái Sư Sùng Quốc Công » (2).

Truyện Ông Lê Trãi của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án được dàn dựng công phu, có nhiều tình tiết hấp dẫn. Truyện được nhiều tác giả đời sau, trong đó có cả người Pháp, tiếp tục thêm mắm thêm muối, « xào xáo » lại.

Năm 1886, Landes kể truyện Ông Nguyễn Trại (Nguyễn Trãi được Tây gọi là Nguyễn Trại). Xin tạm dịch : « Nguyễn Trại là ông tổ thứ nhất của Gia Long. Ông làm quan kiểm lâm thời Lê. Một hôm ông dẫn lính vào rừng đốn cây, gặp một tổ rắn, đến đêm nằm mộng thấy một người đàn bà (…).

Sau khi bọn lính giết con rắn cái, trên đường về ông gặp một cô bé rất xinh đang đứng khóc. Cô bé lúc này đã bị hồn con rắn cái yêu tinh kia nhập vào. Nguyễn Trại động lòng mang cô bé về nuôi. Lớn lên cô được tuyển vào cung vua.

Có lần Hoàng thái hậu bị đau mắt, không lang y nào chữa nổi. Cô gái xin chữa. Cô chỉ liếm nhẹ vào mí mắt, Hoàng thái hậu bèn khỏi.

Một hôm nhà vua bị đau lưỡi, cho vời cô gái vào chữa. Cô gái xin nhà vua lè lưỡi cho cô xem. Vua lè lưỡi. Cô gái bỗng nhe răng cắn lưỡi vua. Vua chết tức khắc. Đình thần ra lệnh giết cô gái. Nguyễn Trại và người lính hầu của ông bị xử tội phải chôn sống.

Vợ người lính biết tin, lên đường đi thăm chồng. Nhưng, lúc bà đến được cửa ngục thì chồng đã bị hành quyết. Nguyễn Trại nói với vợ người lính : « Chồng nàng chết vì ta. Ta bị oan, cũng sẽ chết. Chuyện đã rồi ! Nàng hãy chìa tay ra để ta lưu dấu tích lại cho hậu thế ». Người đàn bà chìa tay ra, Nguyễn Trại liền nhổ nước bọt vào lòng bàn tay.

Trở về nhà, người đàn bà mang thai. Bà sinh được một đứa con trai nối dõi dòng họ Nguyễn Trại ». Landes chú thích : Có người kể rằng Nguyễn Trại từ chối những lời dụ dỗ của con yêu tinh nhập vào cô bé. Thậm chí ông còn đánh cô bé. Con yêu tinh trả thù bằng cách nhập vào con gái của ông. Lớn lên, con gái của Nguyễn Trại được tuyển vào cung vua, trở thành hoàng hậu. Về sau, hoàng hậu phạm tội giết vua. Dòng họ Nguyễn Trại bị giết hết. Lúc sắp chết Nguyễn Trại được vợ một người lính xin được tiếp tục lưu truyền dòng dõi của ông » (3).
Năm 1898, Nordemann kể Sự tích ông Nguyễn Trãi bằng chữ quốc ngữ. Nordemann cũng nói tên Trại bị trại thành Trãi !

« Đời vua Thái Tổ, nhà Hậu Lê, ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội, có một người tên là Nguyễn Trại (tục gọi là Nguyễn Trãi)… Nguyễn Trại nằm mộng thấy một người đàn bà xin cứu cho « mười ba mẹ con tôi ». Sau đó, người nhà dọn vườn chém con rắn chửa mười hai trứng v.v.

Truyện của Nordemann đại khái cũng giống truyện của Landes. Nhưng Nordemann đưa ra một chi tiết cần được kiểm chứng : « Nghe có người nói rằng ông Nguyễn Hữu Độ, làm kinh lược Bắc Kỳ, tước là Vĩnh Lại Quận Công, mới mất năm Đồng Khánh thứ ba, cũng là dòng dõi ông (Nguyễn Trại) ấy » (4).

Năm 1908, Dumoutier lại đưa thêm vài điều mới vào truyện Vua Lê Lợi và con rắn hồ Động Đình. Xin dịch tóm tắt :
« Ông Phi Khanh dọn vườn sửa soạn đất làm nhà. Ông nằm mộng thấy một người đàn bà xin ông tha chết cho ba mẹ con v.v. Phi Khanh đọc sách, bị con rắn trên xà ngang nhỏ một giọt máu xuống sách, thấm ướt 3 tờ giấy…
Con trai Nguyễn Trãi tên là Nguyen Dam được vua Lê Thánh Tôn cử đi sứ sang Tàu. Thuyền đang đi trong hồ Động Đình thì một con rắn rất lớn nổi lên vùng vẫy gây sóng gió. Nguyen Dam xin được đi bình yên, lúc trở về sẽ nộp mình.

Đi sứ xong, lúc trở về Nguyen Dam lại gặp rắn. Ông viết 2 bức thư gửi vua Tàu và vua ta để giãi bày hoàn cảnh, rồi nhảy xuống sông. Con rắn cắn ông, lôi xuống đáy hồ. Vua Tàu được tin, bèn sai phù thuỷ dùng bùa bắt con rắn. Mổ bụng moi xác Nguyen Dam, đem chôn cất. Thân rắn bị chặt làm 3 đoạn, vứt xuống hồ. Trong hồ bèn nổi lên 3 hòn đảo. Vua Tàu phong Nguyen Dam làm thần hồ Động Đình » (5).

Dumoutier mời Bố của Nguyễn Trãi nhập cuộc. Nguyen Dam (không biết tên Việt là gì) có liên hệ gì với Anh Võ (hay Anh Vũ) không ?

Ba tác giả Pháp đưa ra nhiều tên mới lạ, không hiểu nhằm mục đích gì ?
Tại sao Nguyễn Trãi bị đổi thành Nguyễn Trại ?
Trường hợp dấu ngã đổi thành dấu nặng chúng ta còn thấy trong một văn bản khác. Địa danh Vỹ Dã, Tổng Dã Lê, xã Dã Lê thượng, Dã Lê hạ của thời Lê Quý Đôn (6) đã trở thành thôn Vỹ Dạ, làng Dạ Lê không biết từ lúc nào.

Rất có thể mấy ông Tây đã được mấy ông thông ngôn trọ trẹ chữ quốc ngữ « gà » cho chăng ?
Truyện Ông Lê Trãi của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án được Phan Kế Bính đổi tên thành Nguyễn Trãi, đưa vào sách Nam Hải dị nhân.

Phan Kế Bính cho biết « vua Thái Tôn nhân đi chơi qua tỉnh Bắc, vào chơi trại Tiêu viên, Nguyễn Trãi đi vắng, có nàng hầu là Thị Lộ, ở nhà pha chè hầu vua, chiều hôm ấy vua mất… » (7).

Ngô Sĩ Liên chép là vua về đến Lệ chi viên (vườn Vải). Phan Kế Bính chép là trại Tiêu viên (vườn Chuối). Bao giờ thì đến lượt vườn Chà Là, vườn Sa Bô Chê ?

Nguyễn Đổng Chi đổi hẳn tên truyện thành Rắn báo oán. Ông ngờ rằng Rắn báo oán của ta chịu ảnh hưởng truyện Phương Chính Học và truyện Ngô Trân của Tàu.

« (Rắn báo oán) là câu chuyện do tầng lớp nho sĩ gần gũi giai cấp thống trị bịa đặt ra nhằm huyền thoại hoá tấn thảm kịch của người anh hùng Nguyễn Trãi, xoá mờ sự thật về tấn thảm kịch ấy, hòng gỡ tội cho những kẻ đã gây ra cái chết oan khốc của ông và cả họ ông » (8).

Thưa cụ Nguyễn Trãi, vàng thau lẫn lộn của thời xưa chưa phiền bằng « vàng ta pha vàng tây » của đời sau đâu ạ! Cụ sống khôn thác thiêng, xin cụ… xí xoá cho !
Thuở bé tôi thích nghe chuyện thần thánh, ma quỷ. Cho đến ngày bị thầy mắng Nói có sách, mách có chứng, bị cụ Mạnh bắt gặm cục xương Tận tín thư bất như vô thư mới tỉnh người. Từ đó hết thích truyện « vớ vẩn ».

Dân ta có truyền thống kính trọng các vị anh hùng dân tộc. Thần thánh, ma quỷ chỉ nên kính nhi viễn chi, xin các sử gia đừng nhập nhằng đưa vào sử.

Vẽ rắn thêm chân nên giao cho nghệ nhân dân gian, những người như Thạch Sanh.
Thạch Sanh mồ côi cha mẹ, kết nghĩa với Lý Thông. Trong vùng có con yêu tinh :
Nó là rắn lớn hiện hình,
Nhờ hơi nhật nguyệt thành tinh hại người

Nhà vua treo giải thưởng tìm người giết con Xà tinh. Thạch Sanh vác búa đi giết được Xà tinh. Nhưng bị Lý Thông lập mưu cướp công. Một hôm, công chúa bị Mãng Xà Vương « tam đầu cửu vĩ (ba đầu chín đuôi) ai nào chẳng ghê » hoá thành Đại Bàng bắt mang về hang. Thạch Sanh giết Mãng Xà vương, cứu được công chúa. Nhưng lại bị Lý Thông cướp công, lấp cửa nhốt dưới hang (…). Thạch Sanh còn gặp nhiều lận đận. Còn phải giết Trăn Tinh, đánh hồ tinh. Cuối cùng, Lý Thông cũng bị trừng trị. Thạch Sanh dẹp được giặc, được vua gả công chúa, truyền ngôi.

Xà của Tàu là rắn của ta. Mãng là con trăn, một giống rắn lớn. Trăn tinh không biết có họ hàng gì với Chằn tinh không ? Chằn cũng là yêu quái (Huỳnh Tịnh Của). Bên cạnh mấy con rắn có chân làm trò mua vui, vô thưởng vô phạt, ta còn có mấy con rắn giúp các ông đồng bà cốt, pháp sư phù thuỷ kiếm ra tiền.

« Phụ thần Bạch Xà thì dùng một con rắn bằng rơm rồi phù phép vào con rắn để con rắn bò quanh nhà diệt tà ma. Con rắn thường bò được là nhờ trong ruột có bộ phận cử động bằng máy, nhưng những người quá tin cho là thầy phù thuỷ cao tay có phép lạ » (9)

« Tại các điện thờ chư vị, nhất là điện thờ các ông Hoàng, bà Chúa Thượng Ngàn, ta thường thấy ở hai bên hàng sà kèo có cặp rắn trắng rất lớn mào đỏ, mà các đệ tử gọi là ngựa ngài, tức là cặp rắn là cặp ngựa để ngài cưỡi.

Các đệ tử con hương thường thuật lại tại các đền thờ ông Hoàng bà Chúa ở đường rừng, hay có những cặp rắn có mào thật bò ra quấn lấy kèo lấy cột ở trong đền, khác hẳn với các đền, điện miền xuôi, cặp rắn chỉ là đồ mã ».

« Nói về rắn, phải kể tới loại rắn biển, tức là con đẻn cũng được dân ta ở ven miền duyên hải kính sợ tôn thờ và gọi bằng Ông (...). Cũng là đẻn, phải kể đến bà Lạch tức là bà Chằng lạch và bà Mộc, được gọi là Mộc trụ thần xà » (10).
« Đẻn là loại rắn biển có nhiều sắc, nó cắn nhằm ai thì bắt ngủ mê mà chết. Đẻn cườm là đẻn có hoa lúm đúm, chính là đẻn độc hơn.
Thành ngữ Xông khói đẻn nghĩa là đốt đẻn khô làm cho chủ nhà mắc khói nó mà ngủ mê, ấy là nghề kẻ trộm ». (Huỳnh Tịnh Của).

Có âm thì phải có dương. Có bà thì phải có ông.

« Cấu trúc không gian trong các điện thờ Mẫu, vị trí chư vị thần thánh được bài trí sắp xếp theo ba tầng : tầng trên không, tầng ngang trên ban, bệ thờ và tầng trệt. Đây là một điều rất riêng vì không có tôn giáo tín ngưỡng nào bài trí như vậy. Ở tầng không là sự hiện diện của đôi mãng xà (còn gọi là Ông Lốt) tượng trưng cho quan lớn Tuần Tranh. Một con màu trắng, một con màu sẫm quấn trên xà ngang phía trái, bên trên ban thờ » (11).

Quan lớn tuần Tranh là ai ?

« Ở huyện Vĩnh Lại (Hải Dương), về đời Trần có hai vợ chồng nghèo, không con cái. Một hôm người chồng làm vườn bắt được hai quả trứng. Trứng nở ra hai con rắn. Người vợ muốn giết. Người chồng bảo để nuôi. Rắn một ngày một lớn. Vợ chồng phải đem ném xuống sông. Nước sông bỗng xoáy lại thành vực.

Một hôm có nàng công chúa qua sông, bị nước xoáy không đi được. Người vợ ném cơm xuống sông, khấn vái. Sông lặng sóng ngay. Dân sở tại lập miếu thờ thần Thuồng Luồng của sông. Đến đời Trần Minh Tôn, có vợ quan phủ Ninh Giang Trịnh Thường Quân là Dương Thị bị mất tích. Thường Quân phải nhờ Bạch Long Hầu dắt xuống Thuỷ Cung tìm vợ. Vợ chồng gặp lại nhau. Dương Thị kể cho chồng nghe chuyện bị hoàng tử thứ năm của Thuỷ Thần Long Vương bắt về làm vợ. Thường Quân đem chuyện khiếu nại với Thuỷ Thần. Thuỷ Thần xử cho vợ chồng Trịnh Thường Quân được đoàn tụ. Phạt hoàng tử thứ năm, đày ra sông Tranh cho được đới công chuộc tội.

Thuỷ thần vừa tuyên án xong thì trên trần gian miếu thần Thuồng Luồng bị đổ nát. Người ta thấy một con rắn dài hơn mười trượng, vảy biếc mào đỏ nổi trên mặt nước đi về phía sông Tranh, hơn trăm rắn nhỏ theo sau. Hoàng tử thứ năm hiển linh tại sông Tranh. Dân gian lập đền thờ, gọi là đền thờ Quan lớn tuần Tranh. Hàng năm mở hội. Các bà các cô lên đồng, hầu bóng rất đông » (12).

Ông Lốt là… cái gì ?

Lốt nghĩa rộng là vị thần đội lốt rắn thường gọi là ông Lốt. Nghĩa bóng là mượn bóng mượn tiếng đi doạ nạt lừa đảo. Thí dụ : đội lốt sư đi khuyến giáo. (Từ điển Khai Trí Tiến Đức).
Lốt là con rắn huyền thoại, một loài rắn nước mà người ta thường mô tả là có 3 cái đầu người và 9 tấm vẩy ở cuối đuôi. Nó dùng để cho thuỷ thần cưỡi, theo đạo đồng cốt (Nordemann).
Ông Lốt là « ngựa » của ông Hoàng ba, hoàng tử thứ năm, quan lớn tuần Tranh. Lốt sống dưới Thuỷ phủ. Lốt cũng có ba đầu chín đuôi, giống Mãng Xà Vương của truyện Thạch Sanh.
Nhìn sang vườn nhà hàng xóm cũng thấy rắn. Rắn thật !

Liễu Tôn Nguyên kể truyện người bắt rắn :
« Ở Vĩnh Châu có giống rắn lạ, thân đen, vằn trắng chạm vào cây cỏ, thì cây cỏ chết, cắn phải người, thì không thuốc gì chữa nổi. Song mà bắt được giống rắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như bệnh trúng phong, bệnh co quắp chân tay, lại sát được cả trùng.
Cho nên nhà vua có lệ bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy để dành. Ai bắt được rắn thì được trừ thuế ruộng.

Người châu Vĩnh tranh nhau mà làm nghề bắt rắn. Có nhà họ Tương cũng làm nghề ấy đã được ba đời. Hỏi ra thì nhà họ Tương nói :
- Ông tôi chết về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nối nghề ông cha tôi mới có mười hai năm, cũng đã mấy lần suýt chết.
Người ấy nói, vẻ mặt rất buồn rầu.
Ta thương và hỏi rằng :
- Nhà ngươi có thật cho nghề bắt rắn là khổ không ? Ta sẽ nói với quan trên cho nhà ngươi bỏ nghề ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà ngươi tính thế nào ?
Người họ Tương vừa khóc, vừa nói :
- Ông thương tôi, muốn cho tôi sống, thì ông để cho tôi làm nghề bắt rắn còn hơn. Nếu tôi không làm nghề này thì tôi khốn khổ đã lâu rồi. Nhà tôi ba đời ở làng kể đã hơn sáu mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày một quẫn bách. Người làng phải rút hết cả lợi hoa màu, vét hết cả của cải trong nhà để mà nộp thuế hết, thậm chí bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chết đường, chết chợ kể bao nhiêu người. Những người vào chạc tuổi ông tôi mười nhà không còn một. Những người vào chạc tuổi cha tôi, mười nhà còn độ hai, ba. Những người vào chạc tuổi tôi mười nhà còn độ bốn, năm. Không chết chóc thì lưu lạc cả…

Tôi nhờ nghề bắt rắn mà còn đến bây giờ. Những quan lại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc hết đầu làng, cuối xóm vơ vét đến cả con gà, con chó, dân gian phải hãi hùng kinh sợ. Những lúc ấy, về phần tôi, tôi được yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn còn là tôi được ăn no, ngủ yên. Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra là vui vẻ, không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày này, sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt rắn, ví với người làng xóm tôi cũng đã là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xin thôi.

Ta nghe câu chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng nói : « Chính sách hà khắc độc hơn hổ dữ » ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mới cho là thật. Than ôi ! cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn con rắn độc, cho nên nói ra đây để người xem xét phong tục thấu được tình cảnh đau khổ của dân ! » (13).
Kinh Thi có câu : « Duy huỷ duy xà nữ tử chi tường ; duy hùng duy bi nam tử chi tường » (Mộng thấy rắn là điềm sinh con gái, mộng thấy gấu là điềm sinh con trai).
Điềm lành hùng huỷ hiện thân
Kể đã ba đời sinh được phu nhân (Thiên Nam ngữ lục) (14).
Tục truyền là bà ngoại Khổng Tử một hôm nằm mộng thấy một con rắn be bé xinh xinh bò vào giường, chui xuống dưới chăn. Mẹ Khổng Tử nằm mộng thấy một con gấu trúc to tướng vén màn leo vào giường. Người Tàu cho rằng đó là điềm thánh nhân sắp ra đời !
Nói chung, loài người không thích rắn. Thậm chí sợ rắn.
Sợ từ ngày bà E-Và bị Rắn dụ dỗ ăn trái cấm. Bà mời ông A-Dong cùng ăn. Thượng đế hay tin bèn nổi giận, đuổi ông bà ra khỏi vườn Địa Đàng. Phạt ông bà và con cháu đời sau phải sống… như chúng ta bây giờ !

Rắn trở thành kẻ thù của loài người từ ngày đó.

Người phương Tây gọi những kẻ hay nói xấu, chụp mũ người khác là bọn rắn độc (langue de serpent, langue de vipère). Cứu giúp kẻ vô ơn, sẵn sàng quay lại hại chính mình là ấp rắn trong ngực (Réchauffer un serpent dans son sein). Ta gọi bọn khua môi múa mép là nói rắn trong lỗ bò ra. Dân ta căm thù, nguyền rủa bọn cõng rắn về cắn gà nhà. Nói đúng hơn là bọn bắt rắn về cắn gà nhà (Léopold Cadière).

Tuy nhiên, rắn phương Tây cũng có khi được cưng. Ngày nay chúng ta thấy nhan nhản rắn trên bảng hiệu của bác sĩ, tiệm thuốc tây. Ồ, lạ nhỉ ? Vì sao vậy ?
Thần thoại Hi Lạp suy tôn Asclépios là ông thần đứng đầu ngành y. Ông có tài chữa lành cho người mù, người tàn tật. Ông cải tử hoàn sinh cho Glaucos, Tyndare, Hippolyte. Tâm nguyện của Asclépios là cứu nhân độ thế… hoàn toàn miễn phí.

Không ngờ, việc làm của Asclépios đã gây bất mãn cho vị thần cai quản Địa ngục Hadès. Hadès lo ngại… thiếu dân để hành hạ. Hadès khiếu nại với Zeus. Zeus mủi lòng trước cảnh đất rộng người thưa của Địa ngục, bèn tung sét đánh chết Asclépios.
Sinh thời, Asclépios rất thích rắn vì rắn là con vật biết thay da đổi thịt, biết đổi mới hàng năm. Rắn lột xác giống như bệnh tật được chữa khỏi, sức khoẻ được phục hồi.
Lúc đi hành nghề, Asclépios bao giờ cũng mang theo chiếc gậy có chạm trổ một con rắn. Vì vậy mà các bác sĩ, dược sĩ đã chọn Rắn quấn gậy làm biểu tượng của ngành nghề và mời rắn bò lên bảng hiệu.

Rắn của người lớn rắc rối quá.

Rốt cuộc chỉ có Rồng rắn của trẻ con là dễ thương nhất !
Lũ trẻ thật là… rắn gan (de Rhodes, Génibrel). Dám để cho rắn chơi trèo với rồng. Chúng mày cho dân đen được dòm mặt vua à? Không coi tôn ti trật tự ra cái quái gì.
Trò chơi Rồng rắn chia làm hai phe. Ít đứa chơi (chuyện khó tin!) thì chọn một đứa làm thầy thuốc, đám còn lại ôm nhau làm rồng rắn. Thầy thuốc phải đuổi bắt cái đuôi rồng rắn. Nếu có nhiều đứa chơi thì chia làm hai phe, mỗi phe là một rồng rắn. Đứa đứng đầu vừa phải bảo vệ, che chắn cho cái đuôi khỏi bị đối phương bắt, vừa phải tìm cách bắt cái đuôi của đối phương. Vào trò, rồng rắn uốn éo hát :
Rồng rắn lên mây
Có cây núc nác
Có nhà điểm binh
- Thầy thuốc có nhà không?
- Thầy thuốc không có nhà
(…)
- Xin khúc đuôi
- Tha hồ mà đuổi.

Thế là tha hồ đuổi bắt nhau. Vui nhộn, ồn ào. Người lớn bực mình thì mặc kệ người lớn !
Gần đây bên Âu Tây nảy sinh mốt chơi rắn cảnh. Đẹp… dễ sợ ! Nhưng chưa đáng sợ bằng mốt ẩm thực đầy « tâm huyết » của đại gia nước ta. Hôm nay mời ông món lạ. Ít hiệu có.
Khách chuyện trò mới hết nửa đĩa lạc rang thì từ nhà bếp một « thích khách » mặt lạnh như tiền bước ra. Tay cầm dao, nách kẹp chiếc gậy nhỏ. Một thằng tiểu đồng xách giỏ rắn theo sau. Thầy trò đến trước mặt khách ẩm thực chờ lệnh. Ông khách quen của hiệu liếc nhìn giỏ rắn rồi hất hàm, chỉ tay. « Thích khách » liền thò chiếc gậy gắn móc sắt vào giỏ, khoắng một vòng, lôi con rắn được chọn ra ngoài. Tay còn lại múa một đường, cổ rắn bị kẹp chặt. Dao loè sáng. Tiết rắn phọt ra. Tiểu đồng nhanh tay giơ tách hứng. Không một giọt rơi xuống mặt bàn. Thêm một đường dao. Tim rắn bị móc ra, thả vào tách. Tiểu đồng mở chai Quốc Lủi, rót đầy tách, đặt trước mặt khách.

Khách mỉm cười, gật đầu ra hiệu cho « thích khách » biểu diễn thêm một lần nữa…
Tâm, huyết đã sẵn sàng. Hồ trường ! Hồ trường ! Ta biết rót về đâu ?(Nguyễn Bá Trác). Rót vào họng chứ còn rót vào đâu nữa? Định rót vào túi à? Lộc trời cho, ta cứ nốc. Làng Lệ Mật « có hàng trăm hộ nuôi rắn, hàng chục nhà hàng đặc sản rắn và có nhiều hoạt động văn hoá nghệ thuật về rắn được tổ chức rầm rộ hàng năm. Lệ Mật được đánh giá là trung tâm giao dịch về rắn của toàn miền Bắc, đồng thời là làng rắn nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới » (15). Lại thêm một thành tích nổi… da gà!

Rắn được giới ẩm thực khen là loài có tâm, huyết. Bổ thận, cường dương. Bảy món khề khà. Ngộ độc, chết có người chôn, lo gì !
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết Con Rắn 2013)

1- Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký, bản dịch của Đoàn Thăng, Văn Học, 2001, tr. 275.
2- Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Tang thương ngẫu lục, bản dịch của Đạm Nguyên, 1962, Đại Nam tái bản, tr. 112-128.
3- A. Landes, Contes et Légendes annamites, Imprimerie Coloniale, 1886, tr. 63.
4- Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn (1898), Nguyễn Bá Mão biên dịch và chú thích bổ sung, Hội Nhà Văn, 2006, tr. 26-28.
5- Gustave Dumoutier, Essais sur les Tonkinois, IDEO, 1908, tr. 300-304.
6- Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch của nhóm Đỗ Mộng Khương, Đào Duy Anh
hiệu đính, Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 79.
7- Phan Kế Bính, Nam Hải dị nhân liệt truyện (1912), Mặc Lâm tái bản, 1969, tr.33-39.
8- Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4, Khoa Học Xã Hội, 1975,
tr. 451-461.
9- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Nam Chi tùng thư, 1965, Xuân Thu
tái bản, tr. 211.
10- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển hạ, tr. 260 -261.
11- Bùi Xuân Mỹ, Tục thờ cúng của người Việt, Văn Hoá Thông Tin, 2001, tr. 181.
12- Nguyên Tử Năng, Thần thoại Việt Nam, 1966, Zieleks tái bản 1980, tr. 96-104.
13- Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân, Cổ học tinh hoa, quyển 2, Thọ Xuân, 1962,
tr. 133-135.
14- Đinh Gia Khánh chủ biên, Điển cố văn học, Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 193.
15- Quốc Văn, Làng nghề Hà Nội, Thanh Niên, 2010, tr. 127.


Trích từ: www.viet.rfi.fr
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm Tỵ nói chuyện rắn trong dân gian

Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Chọn đất tốt an táng là một trong những việc rất quan trọng. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ là một gợi ý đáng lưu tâm cho bạn.
Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn đất tốt an táng là một trong những việc rất quan trọng, không chỉ với người đã khuất mà còn với gia đình, những người còn sống. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ là một gợi ý đáng lưu tâm cho bạn.


Chon long huyet cho phu nu trong nha, con chau doi doi phuc am hinh anh
 
Huyệt mộ mà Hình và Thế mâu thuẫn, đại mạch không thông, phong thủy hỗn loạn thì sẽ nảy sinh hiện tượng trái với tự nhiên. An táng ở đất ấy thì thi thể không thể tiêu tan, có hại cho người đã mất và vận thế của gia đình.    Long huyệt là nơi đất tốt, có long mạch, rất thích hợp để an táng, có lợi cho người còn sống, con cháu được hưởng phúc tổ tiên. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ không giống với nam giới. Vốn “phúc đức tại mẫu”, huyệt mộ của người phụ nữ càng tốt thì gia trạch càng hưng.   Muốn táng người nữ trong nhà ở cuộc đất tốt cho âm trạch thì phải chọn nơi phong thủy thật tốt, trước thoáng rộng, sau có chỗ dựa, chín dòng nước như Cửu Long mang nước, phân cách đồi núi như đóa hoa sen nở rộ, gọi là Cửu Long tráo ngọc liên”. Nếu thiếu một dòng, thêm một dòng hay dòng nước quá mạnh đều có thể phá vỡ thế cục, không tốt.   Số 9 là số lớn nhất ở hàng đơn vị, ẩn chứa ý nghĩa chí tôn, phát âm cũng tựa như vĩnh hằng, là kí tự cát tường, may mắn. Mặt khác, dòng nước nhỏ thì không gọi là Long mà là Xà, cũng mất thế cục.   Chọn huyệt cát, yên âm trạch
Theo quan niệm của người phương Đông, âm trạch là yếu tố quan trọng tác động đến đời sống. Linh hồn người chết có yên ổn thì con cháu mới thịnh vượng, được

Một cuộc đất tốt để táng người nữ khác là “Lạc thần liễn”. Thế đất này chỉ hợp với táng người nữ, táng người nam thì cả gia tộc bại vong, người nam trong nhà không ốm yếu chết bệnh cũng suy đồi.
  Mộ mà phía trước có một đạo nho nhỏ dẫn tới suối hoặc ao, mà con suối ấy lại là địa mạo hiểm thủy thì chính là thế huyệt tốt. Dòng nước mà suối dẫn vào tưới tắm, làm tốt tươi cho ngôi mộ, thế đất cực tốt trong phong thủy âm trạch.   Đây là thế huyệt hiếm gặp, giữa huyệt có dòng nước vĩnh viễn chảy, không lớn tới mức tràn ra, không nhỏ đến nỗi khô cạn, tụ khí. Tìm được cuộc đất tự nhiên như vậy rất thích hợp để táng người nữ trong nhà, con cháu được hưởng phúc ấm.  
► ## gửi tới bạn đọc công cụ xem ngày chôn cất theo Lịch vạn sự để mồ mả an yên

Trần Hồng (Theo 99166)

Xem Clip Chọn năm sinh con hợp tuổi cha mẹ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Tướng phụ nữ sát chồng |

Trán có xoáy ốc - Trán có ngấn lằn - Trán cao, mặt hãm. Mặt dài, miệng lớn - Mặt gầy (ốm) nổi gân - Mặt như ba khuỷu - Mặt nhọn, eo hẹp - Mặt như Vân mẫu (trắng) - Mặt trệ như bùn. Tướng đàn bà khắc sát chồng con o Trán có xoáy ốc o Trán có ngấn lằn
Tướng phụ nữ sát chồng |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ sát chồng |

Các ngày “Xích tòng – Giáng hạ” kỵ làm nhà, mai táng, cưới hỏi –

Tháng Giêng kỵ ngày 7 và 11 âm Tháng Hai kỵ ngày 9 và 19 âm Tháng Ba kỵ ngày 15 và 16 âm Tháng Tư kỵ ngày 9 và 22 âm Tháng Năm kỵ ngày 9 và 14 âm Tháng Sáu kỵ ngày 10 và 20 âm Tháng Bảy kỵ ngày 8 và 23 âm Tháng Tám kỵ ngày 18 và 29 âm Tháng Chín kỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhung-chom-sao-nu-de-bi-e-nhat1-500x330

  1. Tháng Giêng kỵ ngày 7 và 11 âm
  2. Tháng Hai kỵ ngày 9 và 19 âm
  3. Tháng Ba kỵ ngày 15 và 16 âm
  4. Tháng Tư kỵ ngày 9 và 22 âm
  5. Tháng Năm kỵ ngày 9 và 14 âm
  6. Tháng Sáu kỵ ngày 10 và 20 âm
  7. Tháng Bảy kỵ ngày 8 và 23 âm
  8. Tháng Tám kỵ ngày 18 và 29 âm
  9. Tháng Chín kỵ ngày 2 và 23 âm
  10. Tháng Mười kỵ ngày 1 và 14 âm
  11. Tháng Mười một kỵ ngày 2 và 21 âm
  12. Tháng Chạp kỵ ngày 1 và 30 âm

Thơ rằng:

“Xích tòng ngày ấy phải lưu tâm

Làm nhà, gia sản bại không còn

Chôn cất sẽ rồi trùng tang đấy

Hôn nhân thì sớm phải ly tan”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngày “Xích tòng – Giáng hạ” kỵ làm nhà, mai táng, cưới hỏi –

Đặt tượng Phật Di Lặc chuẩn phong thủy để đón rước tài lộc

Tùy thuộc vào điều kiện gia đình, văn phòng, gia chủ có thể bày tượng Phật Di Lặc phong thủy để đón rước nhiều tài lộc cũng như niềm vui trong cuộc
Đặt tượng Phật Di Lặc chuẩn phong thủy để đón rước tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tùy thuộc vào điều kiện gia đình, văn phòng, gia chủ có thể bày tượng Phật Di Lặc để đón rước nhiều tài lộc cũng như niềm vui trong cuộc sống.


Phật Di Lặc còn gọi là Phật cười, khá được ưa chuộng trong bài trí trong nhà hay văn phòng. Ông Phật cười tượng trưng cho sự may mắn và thịnh vượng. Chiếc bụng lớn của ông chứa đầy của cải, tài lộc. Mọi người thường hay lấy tay xoa bụng Phật Di Lặc để mong muốn nhận được nhiều may mắn và an lành. Nụ cười hả hê của ông như xua tan mọi lo lắng, buồn phiền trong cuộc sống.

Theo các nhà phong thủy, vị trí lí tưởng để đặt tượng Phật Di Lặc là ở độ cao khoảng 1m, nhìn thẳng ra cửa chính để thu hút tài lộc và may mắn. Nếu không có được vị trí trên, hãy bày tượng ở một chiếc bàn cạnh tường hoặc ở góc xa nhất của phòng đối diện với cửa chính.

Vị trí bày tượng Phật Di Lặc phong thủy

Dat tuong Phat Di Lac chuan phong thuy de don ruoc tai loc hinh anh
 
1. Ở phía Đông


Cuộc sống gia đình khó tránh những lúc mâu thuẫn, cãi vã khiến mọi thành viên trong nhà đều bị ảnh hưởng. Bạn nên đặt một bức tượng ông Phật cười ở phía Đông của ngôi nhà hay phòng khách để hóa giải những rắc rối đó, tạo ra sự hài hòa cho cả gia đình.

2. Ở cung Sinh Khí

Trong Bát Trạch có 8 hướng, Sinh Khí (hướng chính Bắc) là một trong số đó. Cung Sinh Khí thuộc sao Tham Lang, là sao tốt, thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.

Do đó, đặt tượng ở hướng này sẽ giúp chủ nhân vượng tài khí, sức khỏe, may mắn và đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.

Dat tuong Phat Di Lac chuan phong thuy de don ruoc tai loc hinh anh 2
 
3. Ở hướng Đông Nam


Hướng Đông Nam là cung Thiên Lộc. Bạn có thể đặt tượng Phật Di Lặc ở hướng này của phòng khách, phòng lễ tân, hội trường... sẽ đem lại tiền tài và may mắn.

Đối với những người nắm giữ chức vụ chủ chốt trong công ty hoặc các chính trị gia, đặt tượng Phật cười ở hướng Đông Nam văn phòng hay bàn làm việc sẽ giúp họ thêm bạn bớt thù và vạn sự hanh thông.

Bên cạnh đó, hình ảnh Phật với nụ cười sảng khoái cũng giúp tâm trí minh mẫn và giảm bớt căng thẳng.

4. Trên bàn làm việc

Đặt tượng Phật Di Lặc ở văn phòng, trên bàn làm việc sẽ mang tới nhiều cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp cũng như giảm bớt căng thẳng, mệt mỏi trong công việc cho bạn. Đồng thời, nó còn có tác dụng ngăn chặn xung đột, mâu thuẫn với đồng nghiệp, cấp trên và cấp dưới.

Học sinh muốn đạt thành tích cao có thể đặt tượng này trên bàn học để tập trung, tăng cảm hứng học tập và khả năng sáng tạo.

5. Trong xe ô tô

Với những người hay đi xe đường dài, đặt tượng Phật trong xe ô tô giúp giảm bớt lo âu, tránh tai nạn và thu hút tài lộc.

Tiết lộ bất ngờ về tính cách con người theo ngũ hành
– Mỗi người sinh ra đều có mệnh lý riêng, tương ứng với một yếu tố trong ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi hành lại mang những nét
Vị trí không nên đặt tượng Phật Di Lặc


Theo phong thủy nhà ở, kiêng kị đặt tượng Phật Di Lặc trong phòng tắm, phòng bếp hoặc phòng ngủ.

Việc đặt trực tiếp Phật trên sàn nhà cũng bị nghiêm cấm vì đây là những nơi không trang nghiêm, không thể hiện sự thành kính đối với Phật.

Không nên đặt Phật gần các thiệt bị điện tử bởi có từ trường xấu và tiếng ồn phát ra làm tiêu tan năng lượng tích cực mà Phật tạo ra.

Nếu phía trên tượng Phật là cầu thang, nơi mà mọi người thường đi lên xuống thì gia đình sẽ gặp nhiều chuyện lận đận, bất hạnh. Chính vì thế, nên tránh đặt tượng ở vị trí gần cầu thang.

Phùng Hiền

 
Xem thêm video: Luật nhân quả ở đời, sống lâu chết yểu là vậy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tượng Phật Di Lặc chuẩn phong thủy để đón rước tài lộc

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd