Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phong thủy rèm cửa cho ngôi nhà của bạn –

Rèm cửa là vật dụng tuyệt vời để trang trí, bảo vệ sự riêng tư cho ngôi nhà. Trong phong thủy, rèm cửa còn đem lại nhiều lợi ích khác. Củ thể khác như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết phong thủy rèm cửa để có thể biết phong thủy rèm cửa có ý nghĩa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rèm cửa là vật dụng tuyệt vời để trang trí, bảo vệ sự riêng tư cho ngôi nhà. Trong phong thủy, rèm cửa còn đem lại nhiều lợi ích khác. Củ thể khác như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết phong thủy rèm cửa để có thể biết phong thủy rèm cửa có ý nghĩa gì cho ngôi nhà của bạn? Chúng ta cùng đi tìm hiểu nhé!

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa phong thủy rèm cửa
    • 1.1 Giúp tinh thần thoải mái, ức chế sự tức giận
    • 1.2 Giải quyết tứ phương sát khí
    • 1.3 Tăng cường vận khí

Ý nghĩa phong thủy rèm cửa

Giúp tinh thần thoải mái, ức chế sự tức giận

Rèm cửa sổ, bên cạnh việc che nắng, bảo đảm sự riêng tư của ngôi nhà, còn có tác dụng giải phóng năng lượng hỏa. Đặc biệt là đối với người mệnh hỏa, rèm cửa càng cần thiết hơn. Tuy nhiên đối với những người mệnh khuyết hỏa, cần thêm năng lượng hỏa, cần tiếp xúc nhiều hơn với ánh sáng mặt trời thì không nên sử dụng rèm cửa dày.

Giải quyết tứ phương sát khí

Khi sử dụng rèm cửa cũng cần chú ý đến vật liệu, kiểu dáng, màu sắc. Theo quan điểm của phong thủy, chất liệu sợi nhân tạo là nguyên tố lửa trong ngũ hành. Theo nguyên lý Hỏa khắc Kim, rèm cửa làm từ sợi nhân tạo có thể ngăn chặn sát khí đến từ hướng Bắc và Tây Bắc.

1-1128-1410319609

Rèm Roman (rèm xếp nhiều lớp) đại diện cho Thổ trong ngũ hành, có thể ngăn sát khí Thủy từ phương Bắc tới. Rèm dạng sóng, đại diện cho Thủy, có thể ngăn sát khí Hỏa từ phương Nam tới. Loại rèm lá ngang màu trắng làm từ nhôm, đại diện Kim trong ngũ hành, nếu treo ở cửa sổ phía Đông và Đông Nam cũng có thể chống lại sát khí Mộc.

Tăng cường vận khí

Khi xây nhà, nhiều người thích trong nhà có cửa ban công thật lớn, sáng sủa và thoáng mát, để có thể nhìn được hết khung cảnh bên ngoài. Thật ra, điều này không phù hợp với phong thủy bởi may mắn của căn phòng có thể sẽ bị thoát ra ngoài nhiều.

Bình thường, trong phong thủy các kiểu ban công đều có tác dụng thụ khí. Bởi vậy cửa ban công nên treo rèm và rèm treo nên thường xuyên được kéo ra treo lên. Như vậy vừa có thể ngăn chặn khí không tốt từ bên ngoài vào, vừa giữ lại được cát khí trong phòng, có lợi nhất đối với gia chủ, với tài vận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy rèm cửa cho ngôi nhà của bạn –

Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo giờ sinh

Sinh giờ Tý, người tuổi Hợi thường có diện mạo thanh tú, thông minh, đa tài và có sức lôi cuốn người khác giới.
Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh giờ Tý (23-1h): Sinh giờ này người tuổi Hợi thường có diện mạo thanh tú, thông minh, đa tài và có sức lôi cuốn người khác giới.

(Ảnh minh họa)

Sinh giờ Sửu (1-3h): Sửu mệnh Thổ khắc chế Hợi mệnh Thủy. Sinh giờ này là người có lối sống tiêu cực, hám tài, trọng danh và coi nhẹ tình nghĩa.

Sinh giờ Dần (3-5h): Sinh giờ này là người có tính cách hung bạo, coi thường người khác, khó làm nên việc lớn.

Sinh giờ Mão (5-7h): Hợi mệnh Thủy sinh Mão mệnh Mộc. Người sinh giờ này có số may mắn, mưu sự đại thành, tài lộc dồi dào.

Sinh giờ Thìn (7-9h): Thìn mệnh Thổ khắc chế Hợi mệnh Thủy. Là người nổi tiếng, thích hư vinh, ưa sự hào hoa, hay được người đời xu nịnh.

Sinh giờ Tỵ (9-11h): Hợi mệnh Thủy khắc chế Tỵ mệnh Hỏa. Người tuổi Hợi sinh vào giờ này có sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên có số phát đạt, về già mọi sự bình thường.

Sinh giờ Ngọ (11-13h): Hợi mệnh Thủy khắc chế Ngọ mệnh Hỏa. Người có quyền chức, tuy nổi danh nhưng lại dễ bị hao tiền tốn của.

Sinh giờ Mùi (13-15h): Mùi mệnh Thổ khắc chế Hợi mệnh Thủy. Người tuổi Hợi sinh vào giờ này tuy thông minh, đa tài nhưng bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên bị phá tài, trong đời khó tránh khỏi tai họa.

Sinh giờ Thân (15-17h): Thân mệnh Kim sinh Hợi mệnh Thủy. Là người khéo léo, đa tài, giỏi biện luận, số có danh tiếng.

Sinh giờ Dậu (17-19h): Dậu mệnh Kim sinh Hợi mệnh Thủy. Người sinh giờ này vận thế đại vượng nhưng do Dậu - Hợi xung hình nên dễ gặp chuyện phiền phức, hay bị tiểu nhân quấy phá.

Sinh giờ Tuất (19-21h): Là người có cuộc sống tương đối bình yên.

Sinh giờ Hợi (21-23h): Do phạm phải sao Thái Tuế nên người sinh giờ này có sự nghiệp thăng trầm. Ngoài ra, do bị sao Chỉ Bối nhập cung mệnh nên cần hết sức cẩn trọng trong việc kết giao bạn bè.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà) 

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo giờ sinh

Tính cách, vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Thổ

Người tuổi Thìn mệnh Thổ là những người sinh năm Bính Thìn 1916, 1976...
Tính cách, vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Thổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phu nu manh me khong can dan ong
 

Người tuổi Thìn mệnh Thổ là những người sinh năm Bính Thìn 1916, 1976...

Với vẻ ngoài thanh lịch, họ dễ tạo được thiện cảm với người xung quanh, đặc biệt là người khác giới. Nụ cười luôn rạng ngời trên môi và ánh mắt thân thiện cũng là ưu thế của họ trong giao tiếp. Người tuổi Thìn sống bao dung, chân thành và vì vậy bạn bè, người thân luôn tìm đến họ để sẻ chia nỗi niềm tâm sự.

Người tuổi Thìn mệnh Thổ biết tiếp thu ý kiến của người khác nhưng khi cần thiết, họ rất kiên quyết bảo vệ lập trường của mình. Cũng giống những người tuổi Thìn thuộc các mệnh khác, người tuổi Thìn mệnh Thổ có ý chí mạnh mẽ và tinh thần không ngại khó khăn, thử thách. Họ còn là người khá nhanh nhạy trong việc nhìn nhận và giải quyết vấn đề.

Nếu không được sao tốt tương trợ, người tuổi Thìn mệnh Thổ sẽ phải vượt qua nhiều khó khăn để xây dựng sự nghiệp.

Tuy nhiên, nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, con đường công danh của họ sẽ rất thuận lợi, cuộc sống gia đình hạnh phúc.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách, vận mệnh người tuổi Thìn mệnh Thổ

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)

Ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất: Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 7 âm lịch thường có sức khỏe tốt, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, tài lợi song hành.
Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 7 âm lịch thường có sức  khỏe tốt, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, tài lợi song hành, số mệnh vinh hoa phú quý. 


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 1
  Những người tuổi Tuất sinh ngày mùng 1 âm lịch có tính cách nhân hậu, tinh thần hiệp nghĩa, dễ cảm thông với những hoàn cảnh khó khăn. Người này có công danh sự nghiệp thành đạt, có thể vang danh thiên hạ, cuộc sống vinh hoa phú quý.   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 2   Tính cách ôn hòa, điềm đạm, chân thành, làm việc theo những chuẩn mực đạo đức nhất định nên cuộc sống khá bình yên, không phải trải qua nhiều sóng gió. Người này số phải tự lập, không được dựa dẫm vào cha mẹ nên tiền vận vất vả. Trung vận chuyển biến tốt, hậu vận được hưởng phúc lộc từ con cháu.
Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 3   Người này sở hữu trí tuệ thông minh, lối sống tràn đầy nhiệt huyết, trọng nghĩa khinh tài nên được nhiều người yêu mến. Ngoài ra, tài vận của họ khá tốt, suốt đời không phải lo lắng về vấn đề tiền bạc.   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 4   Tiền vận không tốt, cuộc sống vất vả, khó tụ tài. Tuy nhiên đến trung vận thì gặp quý nhân phù trợ, công danh sự nghiệp thành đạt, danh lợi song hành.

Xem ngay sinh dai cat cho nguoi tuoi Tuat P1 hinh anh
Ảnh minh họa
  Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 5   Tính tình nóng vội, dễ bỏ cuộc giữa chừng nếu gặp phải thất bại. Ngoài ra, người tuổi Tuất sinh ngày mùng 5 có sức khỏe kém, mắc nhiều bệnh tật. Nếu tu tâm dưỡng tính, chăm chỉ rèn luyện sức khỏe thì vận thế mới chuyển biến tốt đẹp.   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 6   Người này thông minh, tốt bụng, công danh sự nghiệp phát đạt. Nam mệnh lấy được vợ hiền, có thể trợ giúp đắc lực cho sự nghiệp của chồng. Nữ mệnh được gả vào nhà quyền quý, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 7   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 7 âm lịch thường có sức  khỏe tốt, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, tài lợi song hành, số mệnh vinh hoa phú quý. 
Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 8   Người này có trí tuệ thông minh, lanh lợi, lúc nào cũng tràn đầy sức sống, làm việc có kế hoạch và sự tính toán rõ ràng nên có thể lập nên đại nghiệp. Ngoài ra, người này tính tình quyết đoán, có khả năng làm lãnh đạo nên thường giữ chức vụ cao trong tập thể.
Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 9   Tiền vận vất vả, tài lợi khó tụ nhưng trung vận chuyển biến tích cực, có thể đại phát, đời sống vật chất dư giả.   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 10   Người này thông minh nhanh nhẹn, có khả năng tùy cơ ứng biến khéo léo, lối sống phóng khoáng, tràn đầy nhiệt huyết nên được nhiều người yêu mến và dễ dàng gặt hái được thành công trong sự nghiệp và cuộc sống.   Người tuổi Tuất sinh ngày 11   Người tuổi Tuất sinh ngày 11 có tính cách thẳng thắn, ăn to nói lớn, một khi đã nói là nhất định sẽ làm cho bằng được. Tuy nhiên, người này dễ bị ngoại cảnh tác động, nếu không tỉnh táo sẽ bị kẻ xấu lợi dụng hoặc lừa gạt tiền bạc.    Người tuổi Tuất sinh ngày 12   Tiền vận không thuận lợi, trung vận khởi sắc và dần có xu thế ổn định. Sau khi lập gia đình, cuộc sống an nhàn và yên ổn hơn, con cái đầy nhà, sau này hưởng phúc lộc từ con cháu.   Người tuổi Tuất sinh ngày 13   Người này đa tài, có năng lực thực thụ nhưng lại không gặp may mắn trong cuộc sống. Số phải sống xa quê hương, bôn ba khắp nơi để cầu tài.   Người tuổi Tuất sinh ngày 14   Người này số không được gia đình hậu thuẫn, tiền vận vất vả, trung vận chuyển biến tích cực, có thể tay trắng lập nghiệp.   Người tuổi Tuất sinh ngày 15   Người tuổi Tuất sinh ngày 15 thông minh hiếu học và đa tài nhưng lại sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, không được cha mẹ hậu thuẫn mà phải tay trắng lập nghiệp.   Ngân Hà (Theo XZ360)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)

4 con giáp may mắn, cầu được ước thấy suốt suốt đời

Có những con giáp may mắn khi sinh ra đã thuận lợi đủ đường. Điểm danh 4 con giáp may mắn nhất trong mười hai con giáp đến suốt đời
4 con giáp may mắn, cầu được ước thấy suốt suốt đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Ai sinh ra cũng mong muốn có được phúc phận tốt và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Có lẽ 4 con giáp trong 12 con giáp dưới đây sẽ “cầu được ước thấy” điều đó khi được Thần May mắn che chở cả đời.


1. Thần May mắn che chở cho người tuổi Hợi


Theo luận giải tử vi cuộc đời của 12 con giáp, đứng đầu trong danh sách những con giáp được Thần May mắn che chở chính là người tuổi Hợi. Những chú Heo vui vẻ và nhiệt huyết thường có cuộc đời hanh thông, vô lo vô nghĩ.

Tuy suốt cuộc đời khó tránh khỏi những lúc thăng trầm, sóng gió trong công việc, sự nghiệp và sức khỏe. Nhưng cuối cùng mọi sự ắt thông, hễ gặp khó khăn, quý nhân lại xuất hiện trợ giúp. Đường tài lộc của người tuổi Hợi vì thế mà bừng sáng theo thời gian, đời sống vật chất và tinh thần lúc nào cũng dồi dào, rạng rỡ.

4 con giap may man, cau duoc uoc thay suot suot doi hinh anh
 

2. Thần May mắn che chở cho người tuổi Mão


Theo Tử vi trọn đời, cuộc đời người tuổi Mão nhìn chung vui nhiều hơn buồn, cát nhiều hơn hung, phúc lộc, trường thọ đủ cả, là một trong những con giáp may mắn, cầu được ước thấy. Đặc biệt, trong công việc, họ luôn gặp được quý nhân phù trợ, mang tới nhiều may mắn về tài lộc. Bản thân những chú Mèo thông minh, lanh lợi cũng không ngừng nỗ lực làm việc để chinh phục những mục tiêu lớn lao trong đời.

4 con giap may man, cau duoc uoc thay suot suot doi hinh anh 2
 
Do vậy, con giáp này thường không bị gánh nặng quá lớn về tiền bạc, vật chất. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn xoay sở để chí ít cũng đủ ăn đủ mặc, chứ không bao giờ chịu cảnh bần hàn.

Tuy được Thần May mắn dõi theo trong suốt cuộc đời, nhưng người cầm tinh con Mèo vẫn cần đề cao cảnh giác, hành sự thận trọng kẻo bị kẻ tiểu nhân đeo bám, gây phiền nhiễu để chặn đường tài lộc.

3. Thần May mắn che chở cho người tuổi Tý


Được trời phú cho sự thông minh, lanh lợi, cộng thêm vận khí tốt và được Thần May mắn che chở, người tuổi Tý sớm lập nên đại nghiệp, làm giàu dễ dàng và thuận lợi hơn so với người khác.

4 con giap may man, cau duoc uoc thay suot suot doi hinh anh 3
 
Đặc biệt, trong những năm có Tử vi tinh chiếu rọi, vận trình của người tuổi Tý thăng cấp bất ngờ, mưu sự đại thành, cát lợi an khang, sự nghiệp thăng hoa, thăng quan tiến chức ầm ầm.

Tuy vậy, nên nhớ rằng, “miệng ăn núi lở”, nếu chỉ vung tay quá trán mà không chịu tích lũy thì dù có tiền núi cũng sẽ dần vơi cạn. Tốt nhất bạn nên nhờ ai đó “tay hòm chìa khóa” cho mình, khỏi phải đắn đo trong chi tiêu.

Tiết lộ 5 con giáp “dựa hơi” Thần Tài, kiếm tiền như hái năm Bính Thân
– Được Thần Tài che chở và ưu ái đặc biệt, những con giáp dưới đây không chỉ gặp nhiều may mắn về tiền bạc mà còn dễ phát tài phát lộc trong
4. Thần May mắn che chở cho người tuổi Dần


Những chú Hổ dũng mãnh, trọng nghĩa khí, nhiệt tình giúp đỡ mọi người xung quanh. Cuộc đời họ khá may mắn, gặp hung hóa cát, nay giúp người mai được người báo đáp, đền ơn.

Đặc biệt trong những năm có nhiều cát tinh xuất hiện, đường quan lộc của họ sáng ngời, công danh sự nghiệp thăng cấp đột phá, rất dễ phát tài phát lộc bất ngờ. Bên cạnh đó, nếu kết hôn muộn, chuyện tình cảm, hôn nhân càng thêm phần thuận lợi.

Ngọc Điệp
 
Xem thêm video: Ghét của nào trời trao của nấy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp may mắn, cầu được ước thấy suốt suốt đời

Phong thủy phòng khách mang may mắn vào nhà dịp Năm mới

Một vài lưu ý trong việc bố trí, sắp xếp phòng khách sẽ giúp gia đình bạn gặp nhiều cát lành, bình an, thịnh vượng trong năm mới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy phòng khách luôn thể hiện mối quan hệ hài hòa giữa các thành viên trong gia đình, sự cân bằng trong việc thu nạp sinh khí, cát lành, bảo vệ nguồn tài sản, gia tăng thịnh vượng cho ngôi nhà. Trên thực tế, mọi người thường đặc biệt chú ý đến việc trang trí phòng khách bởi không gian này được xem là khu vực trung tâm, nơi có tầm ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề sức khỏe, tài lộc, con cái, sự hòa thuận của mỗi gia đình.

Để một năm mới an khang, thịnh vượng, vạn sự may mắn, bạn cũng nên dành chút thời gian xem lại cách bố trí không gian phòng khách, để không chỉ cải thiện tài lộc mà còn hút thật nhiều may mắn, bình an cho mọi người trong gia đình vào dịp năm mới.
Sắp xếp lại nội thất và trang trí phòng khách giúp nhà bạn gặp nhiều may mắn, tốt lành trong năm mới.

Vị trí phòng khách

Dù là căn hộ chung cư, biệt thự hay nhà phố, bạn cũng nên bố trí phòng khách ở vị trí đẹp nhất của ngôi nhà. Thông thường, phòng khách nên đặt gần nhất với lối vào nhà, gần với cửa chính để có thể thu nhận được nhiều sinh khí từ cửa vào. Nếu phòng khách của bạn cần đi qua một hành lang nhỏ, bạn nên chú ý đến việc dọn dẹp hành lang sạch sẽ, thắp đèn sáng ở hành lang. Đặc biệt cần hạn chế việc bày biện quá nhiều đồ đạc ở hành lang làm cản trở khí vào phòng khách gây ngột ngạt, bức bối, giảm bớt may mắn, tài lộc vào phòng.


Nếu là nhà phố có tầng lửng, phòng khách nên đặt ở khu vực tầng 1, nên thiết kế thêm giếng trời hoặc mở rộng lối đi giúp luồng sinh khí được chảy vào nhà nhanh hơn, mang lại nhiều may mắn, tốt lành đến cho gia đình.


Tạo sự thông thoáng cho lối đi vào nhà.

Kiểu dáng sắp xếp nội thất

Ở không gian phòng khách, bạn nên chọn khu vực có diện tích vừa phải. Tuy nhiên, để luồng sinh khí di chuyển một cách hài hòa, bạn nên chọn căn phòng có kiểu dáng hình vuông hay hình chữ nhật. Không gian vuông vắn cũng là cách giữ được lâu hơn tài lộc và may mắn cho căn phòng. Bên cạnh đó, bạn nên chú ý đến việc bài trí sofa, một trong những nội thất chính làm nên vẻ đẹp của căn phòng này.

Một trong những cách đặt sofa phổ biến trong phong thủy đó là bố trí sofa góc với hướng quay ra cửa chính, đặt sofa song song với nhau, phần bàn trà quay ra cửa chính hoặc cửa sổ. Bạn cũng có thể đặt sofa hình chữ U với phần đáy song song với cửa chính. Đây là những cách bố trí đơn giản mang lại nhiều tài lộc, may mắn, thịnh vượng cho gia chủ.


Sắp xếp nội thất gọn gàng.

Điều chỉnh vật dụng trang trí

Về cơ bản, phòng khách thường sử dụng khá nhiều đồ điện tử, công nghệ như loa, đài, ti vi, tủ lạnh... nên khi chọn vật dụng trang trí cần tiết chế những đồ có kiểu dáng sắc nhọn. Bởi việc mất cân bằng trong cách chọn lựa chất liệu nội thất dẫn đến mất cân bằng âm dương, là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến mối quan hệ của mọi người trong nhà cũng như khiến cuộc sống của mọi người gặp bất lợi về sức khỏe.


Hạn chế sử dụng đồ vật nhiều góc cạnh.

Tạo mùi hương tự nhiên

Nếu căn phòng có những mùi hôi khó chịu từ bàn ghế, bụi bặm, rèm cửa, hay sàn nhà vô tình sẽ khiến ngôi nhà bớt đi nhiều luồng sinh khí, gây ngột ngạt khó chịu cho mọi người. Để giữ lại luồng sinh khí, những điều may mắn, tốt lành cho căn phòng, mọi người có thể cắm hoa tươi, trồng cây thanh lọc không khí hay xịt phòng định kỳ sau khi dọn dẹp.


Tạo mùi hương tự nhiên cho không gian, thu hút sinh khí đến nhà.

Đặt đồ trang trí phong thủy

Ngoài những đồ trang trí đơn thuần, bạn cũng có thể mua sắm thêm một vài vật phẩm phong thủy để kích tài, chiêu lộc, mang nhiều may mắn, cát lành đến cho mọi người sống trong nhà. Tùy thuộc vào mục đích mong muốn như chiêu tài lộc, giúp mọi người khỏe mạnh, làm ăn buôn bán thuận lợi, giúp mọi người keo sơn, gắn bó... để chọn vật phẩm phong thủy phù hợp cũng như đặt ở vị trí hợp lý.


Đồ trang trí phong thủy có tác dụng kích hoạt tài lộc.

Chú ý đến vị trí của cửa

Hướng của cửa chính và cửa sổ cũng là một trong những điều quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chiêu tài, đón lộc của ngôi nhà. Để xác định được hướng tài lộc, bạn có thể sử dụng la bàn, đứng ở trung tâm căn nhà để tìm kiếm. Nếu hướng tài lộc không có cửa chính hay cửa sổ, bạn có thể xem xét việc mở thêm cửa ở vị trí hướng xác định. Nếu không thể mở thêm cửa, bạn có thể treo tranh và hỗ trợ ánh sáng hắt để góc nhỏ tài lộc được kích hoạt nhanh hơn, mạnh hơn so với thông thường.


Trang trí, làm đẹp cho cửa.
Chú ý chọn màu sắc phù hợp

Phòng khách được xem là một trong những căn phòng tụ tán nhiều tài lộc nhất trong ngôi nhà. Tùy vào hướng cửa chính để bạn chọn lựa được tông màu hợp phong thủy với ngôi nhà cũng như căn phòng. Tuy nhiên, về cơ bản không nên chọn màu tối làm màu nền. Nếu thích những màu tối, bạn nên chọn đồ trang trí hay nội thất có kích thước nhỏ, giúp tạo nên điểm nhấn cá tính trong không gian thay vì khiến căn phòng tối tăm, lụp xụp, chật chội. Không gian tiếp khách sẽ cân bằng âm dương, ngũ hành khi được bố trí màu sắc và ánh sáng hợp lý, tạo nên nét hài hòa đầy ấn tượng cho ngôi nhà.


Chọn gam màu phù hợp.

Nên chọn sàn có màu sắc và chất liệu đồng đều

Phòng khách có thể phân vùng hay không phân vùng nhưng vẫn cần đến sự đồng đều trên cùng một mặt phẳng, đồng đều về màu sắc và chất liệu. Sự đồng đều này tượng trưng cho sự êm ấm, bình yên gia đạo trong năm mới. Việc bố trí sàn giật cấp trong phòng khách là điều không nên bởi cách làm này dễ khiến cuộc sống gia đình gặp nhiều trắc trở, thăng trầm.


Nên chọn sàn với chất liệu gần gũi với tự nhiên.



Tiết chế dầm trong phòng khách

Để hạn chế nhiều dầm, xà trong phòng khách, bạn nên thiết kế trần thạch cao. Cách chọn trang trí với trần thạch cao cũng giúp không gian tiếp khách đẹp tinh tế và hài hòa hơn, làm giảm đáng kể những bức xạ xấu hay sát khí do dầm xà đè xuống, gây tổn hao sức khỏe, tài chính của mọi người trong nhà.


Sử dụng trần thạch cao để giảm bớt sát khí từ dầm, xà.
Theo Sina, Fengshui
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng khách mang may mắn vào nhà dịp Năm mới

Phong thủy nhà ở có lợi cho sức khỏe gia chủ

Sống trên đời, ai cũng có nhiều ước mơ, song không có sức khỏe thì chẳng thể làm được gì. Vậy để tốt cho sức khỏe cần chú ý những điều gì trong phong thủy nhà ở
Phong thủy nhà ở có lợi cho sức khỏe gia chủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sống trên đời, ai cũng có nhiều ước mơ, khao khát, nhưng nếu không có sức khỏe thì chẳng thể làm được gì. Vậy để tốt cho sức khỏe thì cần phải chú ý những điều gì trong phong thủy nhà ở? Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ tiết lộ cho các bạn bí mật này nhé.
Trong phong thủy có thuyết âm dương, mà theo phong thủy nhà ở thì nơi con người sinh sống được gọi là dương trạch. Được gọi là dương trạch nên nhà ở nhất định phải tràn đầy dương khí, có như thế thì mới tốt cho vận thế của gia chủ.
  Một ngôi nhà tốt sẽ khiến cho những người sống trong đó có sức khỏe dồi dào, vận trình tăng tiến. Vậy theo phong thủy thì nhà ở phải như thế nào mới có thể tăng cường dương khí, có lợi cho sức khỏe của gia chủ. Cùng Lịch ngày tốt đi tìm hiểu về những điều cần chú ý đó trong phong thủy nhà ở nhé.  

1. Minh sơn tú thủy


phong thuy nha o tot cho suc khoe
 
Xét môi trường xung quanh căn nhà thì thế đất đẹp cho nhà ở là có cách cục cát lợi, sơn thủy hữu tình. Sơn thủy ở đây phải là minh sơn tú thủy, nếu xây nhà ở nơi sơn cùng thủy tận thì chắc chắn sẽ có hại cho sức khỏe của gia chủ.   

2. Tàng phong tụ khí

  Mảnh đất tàng phong tụ khí sẽ có núi sông bao quanh, về cơ bản thì cách cục này được thể hiện như sau: tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ. Huyền Vũ cúi đầu, Chu Tước nhảy múa, Thanh Long uốn lượn, Bạch Hổ thần phục, trường khí mà nó tạo ra sẽ có lợi cho sức khỏe của con người.  

3. Dương khí vượng, hướng sáng

  Trong nhân gian vạn vật, thứ dương khí vượng nhất chính là mặt trời, là thái dương. Vì thế, khi xây và thiết kế nhà thì nhất định phải chú trọng đến hướng nhà, đây là điều tối quan trọng trong phong thủy nhà ở. Hướng nhà tốt thì căn nhà có thể hứng được ánh nắng mặt trời một cách đầy đủ, có tác dụng tích tụ dương khí rất tốt.

nha co nhieu nang chieu vao
 
  Chúng ta sống ở Bắc bán cầu nên theo phong thủy thì nhà ở nên chọn tọa Bắc hướng Nam, có như vậy mới có lợi cho việc hứng sáng và thông gió. Căn nhà có dương khí và khí lưu hanh thông, vượng phát, người sống ở đó có thể giữ sức khỏe tốt, an cư lạc nghiệp. Ánh sáng trong phong thủy nếu sử dụng hợp lý sẽ đón tài lộc miễn phí.  

4. Bố trí phòng ốc, nội thất

  Thư phòng, phòng làm việc tốt nhất nên đặt ở vị trí có đầy đủ ánh sáng nhất trong nhà, vì đó là nơi mà mọi người học tập và làm việc, nếu có đủ ánh sáng phản chiếu và thông gió tốt thì sẽ có tác dụng rất lớn, không chỉ nâng cao hiệu quả làm việc mà còn rất tốt cho sức khỏe. Phòng làm việc đạt được hiệu quả như vậy sẽ khiến cho gia chủ có tinh thần học tập và làm việc sảng khoái, không bị cảm giác nặng nề xâm chiếm, dễ gặt hái được thành công. 

phong lam viec nhieu anh sang
 
  Ngoài ra, khi bài trí nội thất, nên xếp đặt nhiều đồ trang trí có lợi cho việc tích tụ dương khí. Như vậy chẳng những có thể tăng tính thẩm mĩ cho căn nhà mà còn có thể nâng cao vận thế của cả căn nhà, có lợi cho vận trình của gia chủ. Ví dụ, có thể bài trí nhiều cây cảnh theo phong thủy nhà ở, ngoài việc khai vận chiêu tài mà cây xanh còn có tác dụng quang hợp, khiến cho nồng độ oxi trong nhà tăng lên và ổn định độ ẩm trong nhà. Cây xanh có thể hút cả những khí có hại cho sức khỏe ở trong căn nhà, cải thiện chất lượng không khí, tất nhiên sẽ có rất nhiều ích lợi cho sức khỏe con người.   Sức khỏe chính là vốn sống của chúng ta. Con người sống trên đời có rất nhiều khao khát, ước mơ, có nhiều điều muốn theo đuổi, song nếu không có sức khỏe thì dù cơ hội có lớn đến đâu cũng chẳng thể nắm bắt, tiền bạc có nhiều đến đâu cũng chẳng được hưởng lộc. Nhà ở là tài sản theo chúng ta đến hết cuộc đời, nếu có thể khiến cho căn nhà hợp phong thủy, tích tụ đầy đủ dương khí thì chắc chắn sẽ có tác dụng rất lớn cho sức khỏe và vận thế của gia chủ.
Hy Vũ

Phòng khách bày vật phẩm phong thủy chiêu tài, cả nhà tha hồ hưởng lộc Sai lầm phong thủy nhà ở xua đuổi tài lộc Mua nhà phải biết: Nhà hướng Tây Nam có tốt không?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà ở có lợi cho sức khỏe gia chủ

Mơ thấy ân ái –

Những giấc mơ khiến bạn cảm thấy xấu hổ, nhưng nó lại chỉ là hình thức phản ánh tâm lý chứ không phải sinh lý. Người phụ nữ giấu mặt Bạn mơ thấy mình ái ân với một phụ nữ vô danh không có khuôn mặt cụ thể. Nàng vô cùng sexy, thông minh, nhạy cảm, đầy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những giấc mơ khiến bạn cảm thấy xấu hổ, nhưng nó lại chỉ là hình thức phản ánh tâm lý chứ không phải sinh lý.

Người phụ nữ giấu mặt

Bạn mơ thấy mình ái ân với một phụ nữ vô danh không có khuôn mặt cụ thể. Nàng vô cùng sexy, thông minh, nhạy cảm, đầy sáng tạo và thân thuộc. Nhưng dù cố gắng thế nào, bạn cũng không thể nhận ra nét mặt hay danh tính của nàng.

image_40755_mosex_ND

Giấc mơ đó giải mã, bạn mong muốn một cuộc ái ân không phiền toái dưới hình thức bản năng nhất. Thực chất, trong tiềm thức bạn muốn sử dụng phụ nữ để thỏa mãn ham muốn mà không phải lo lắng về cảm xúc hay thân phận của cô ta. Một lý giải khác bắt nguồn từ nhà tâm lý học Carl Jung. Ông cho rằng, giấc mơ về những người tình tuyệt vời giấu mặt là cách tâm trí bảo với bạn, hãy bắt đầu quá trình cải thiện bản thân. Người tình giấu mặt chính là bạn và lời giải cho giấc mơ này là, hãy trau dồi những phẩm chất mà người tình giấu mặt này đang sở hữu. Người tình biến mất

Giấc mơ của bạn là người tình tan biến ngay trong lúc làm tình hoặc sau khi cuộc giao hoan kết thúc. Bên cạnh ý nghĩa hiển hiện bạn lo sợ bị người ấy bỏ rơi hoặc ngán ngẩm họ, giấc mơ này còn có nghĩa, bạn không tự tin vào bản thân.
89Trình diễn sex

Bạn mơ thấy mình làm tình tại nơi công cộng trước cặp mắt của bao người lạ. Giấc mơ này có thể ám chỉ nỗi sợ về sự thân mật thể xác, hoặc lo lắng về cảm giác bị tổn thương hay bị bắt gặp. Chẳng hạn, bạn có giấc mơ này sau khi nói chuyện với bạn tình về một kiểu quan hệ kỳ quái và nó cho thấy cảm giác tội lỗi trong bạn.Giấc mơ cũng muốn nói lên rằng, bạn đang cố làm mới mình. Quần áo là một ẩn dụ về hình ảnh cá nhân của bạn trước công chúng. Việc mất đi những thứ đó chứng tỏ, bạn đang lo sợ người khác biết về phân thận của mình.
Tình dục đồng tính

Giấc mơ này bao gồm việc thực hiện một hành vi tình dục với người đồng giới khác. Bạn đang muốn người tình của mình hành động nam tính hơn một chút. Một số nhà tâm lý học lý giải, đó là sự khao khát người phụ nữ của mình thể hiện những phẩm chất của đàn ông như sự logic, lý trí và mạnh mẽ.Vì vậy, bạn không nên lo lắng về vấn đề giới tính. Các chuyên gia cũng khẳng định, nếu một giấc mơ đồng tính làm bạn lo lắng, chắc hẳn, bạn không phải là người đồng tính.27

Bạn bị rối loạn cương

Bạn đang ở giữa cuộc vui nhưng lại không thể điều khiển “nó” theo ý muốn. Điều đó tương tự như giấc mơ “bại liệt” khi bạn thấy mình không thể cử động. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, nó có nghĩa là bạn cảm thấy bất lực hay mất hết khả năng trong cuộc sống. Chẳng hạn, khi đang tìm việc mới hay cố gắng thăng tiến, bạn sẽ có giấc mơ này. Nó có thể ám chỉ sự bực bội của bạn khi không thể phát triển trong một lĩnh vực nào đó.

Giấc mơ ngoại tình

Có hai trường hợp xảy ra: Người ngoại tình trong giấc mơ có thể là bạn hoặc người yêu, người bạn đời của bạn. Giấc mơ này cho thấy mối quan hệ tình cảm của hai người đang có vấn đề, bạn đang có cảm giác bị đối phương bỏ rơi hoặc quá thờ ơ. Chính vì thế bạn cần được lấp đầy khoảng trống này bằng một người khác.
Giấc mơ tình dục với người bạn thân

Bình thường, người này đối với bạn chỉ như một người bạn tốt (không hơn, không kém), nhưng trong giấc ngủ họ lại vô tình biến thành người tình của bạn. Và điều này phần nào khiến cho bạn cảm thấy thật xấu hổ.

Ý nghĩa của giấc mơ: đây là một người bạn có ý nghĩa vô cùng đặc biệt với bạn, có thể bạn dành tình cảm đặc biệt cho người ta nhưng lại không dám thừa nhận.

30

Giấc mơ “gần gũi” với một người xa lạ

Có những lúc bạn sẽ có những giấc mơ hết sức kì lạ – nơi mà bạn cảm giác rõ mồn một rằng mình đang “âu yếm” một người nào đó (không rõ là ai), nhưng cảm xúc cũng rất thăng hoa.

Đừng vội đánh giá mình là một con người bệnh hoạn hay có vấn đề về tâm lý. Đơn giản là bạn đang mong muốn nhận được tình yêu, sự quan tâm, và chăm sóc của một người đàn ông mà thôi.

Giấc mơ “yêu” theo kiểu tra tấn

Đây không phải là một giấc mơ, mà thực chất là một cơn ác mộng. Bạn có thể mơ mình bị cưỡng hiếp hoặc bị tấn công tình dục… Thường là những giấc mơ này nhằm tái hiện một câu chuyện kinh khủng nào đó mà bạn đã gặp trong quá khứ, chứ không phải sự thật sẽ xảy ra trong tương lai. Nếu bạn từng bị một người nào đó kiểm soát, hay đe dọa, thì rất có thể họ sẽ biến thành một kẻ hiếp dâm trong giấc mơ của bạn.

4

Giấc mơ tình dục với người yêu cũ

Nhiều người vẫn thường xuyên có giấc mơ ân ái với người tình cũ, ngay cả khi đã kết hôn với người khác, và giấc mơ này cũng lặp đi lặp lại nhiều lần. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bạn vẫn còn tình cảm, hay muốn quay lại với họ đâu nhé.

Bộ nhớ của chúng ta lưu trữ lại tất cả những mối quan hệ cũ, và những kỉ niệm đẹp mà chúng ta từng trải qua. Và những kỉ niệm này cũng chỉ vô tình tái hiện lại tùy theo tâm trạng vui, buồn hàng ngày của chúng ta mà thôi.

Các con số liên quan đến giấc mơ:

Ân ái: 25 – 75


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ân ái –

Hàm nghĩa của tiết lệnh

Tháng giêng Lập xuân. “Lập” có nghĩa là bắt đầu, biểu thị vạn vật gặp mùa xuân là bắtđầu một chu kỳ mới. Khí trời trở lại ấm áp , vạn vật đổi mới, là tiêu chí đểbắt đầu mọi hoạt động nông nghiệp. Lập xuân vào ngày 4 hoặc 5 tháng 2 dươnglịch.
Hàm nghĩa của tiết lệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 2  Kinh trập.  Sấm mùa xuân bắt đầu kêu vang, thức tỉnh côn trùng và các động vật nhỏ qua giấc ngủ đông. Những loại côn trùng qua mùa  đông sắp nở thành bướm. Tiết khí trời đã ấm áp, cỏ cây nảy mầm, trời đất xuất hiện cảnh tượng trong sanh, sáng sủa. Thanh minh là ngày 5 hoặc ngày 6 tháng 4 dương lịch.

 Tháng 4 Lập hạ. Tiết khí này biểu thị mùa hạ bắt đầu, khí trời sắp sửa nóng bức. Công việc nghề nông đã bận rộn. Lập hạ là ngày 6  hoặc ngày 7 tháng 5 dương lịch.

 Tháng 5 Mang chủng. “Mang” là chỉ lớp lông nhỏ đầu vỏ nhọn các hạt ngũ cốc. Ở phương Bắc là lúc thu hoạch lúa mì, cũng là mùa cày bừa bận rộn nhất. Mang chủng là ngày 6 hoặc ngày 7 tháng 6 dương lịch.

 Tháng 6 Tiểu thử. Tiết khí này biểu thị đã vào sâu mùa hạ, trời nóng bức cực độ. Tiểu thử là ngày 7 hoặ ngày 8 tháng 7 dương lịch.

 Tháng 7 Lập thu.  Tiết khí này biểu thị nóng bức mùa hạ sắp trôi qua, trời cao, khí trời tươi sáng, mùa thu bắt đầu . Lập thu là ngày 8 hoặc 9 tháng 8 dương lịch.

 Tháng 8 Bạch lộ.  Tiết khí này biểu thị trời đã mát hơn. Ban đêm hơi nước trong không khí thường đọng thành giọt sương như hạt ngọc màu trắng treo đầu lá cây, ngọn cỏ. Bạch lộ là ngày 8 hoặc 9 tháng 9 dương lịch.

 Tháng 9 Hàn lộ. Tiết khí này biểu thị mùa đông bắt đầu. Mức độ mát lạnh của khí trời bắt đầu. Lập đông là ngày 7 hoặc 8 tháng 11 dương lịch.

 Tháng 10 Lập đông.  Tiết khí này biểu thị sự mát mẻ của mùa thu sắp hết , mùa đông lạnh lẽo đã bắt đầu. Lập đông là ngày 7 hoặc ngày 8 tháng 11 dương lịch.

 Tháng 11 Đại tuyết. Tiết khí này biểu thị đã vào mùa đông, trời lạnh buốt, có băng. Tiểu hàn là ngày 5 hoặc ngày 6 tháng 12 dương lịch.

Tháng 12 Tiểu hàn. Tiết khí này biểu thị đã vào sâu mùa đông, trời lạnh buốt, có băng. Tiểu hàn là ngày 5 hoặc 6 tháng giêng dương lịch.

Trong Tứ trụ, thiên can của mỗi tháng khác nhau, còn địa chi mỗi tháng là cố định. Nhưng ta vẫn có thể tìm được thiên can theo quy luật. Tên thiên can của tháng đầu năm được quyết định bởi tên  can của năm đó (xem bảng lấy tháng theo năm). Nguồn gốc lí lẽ của nó là vì khí chất âm dương liên quan với can chi của tháng.





Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hàm nghĩa của tiết lệnh

Chùa Long Huê - Thành Phố Hồ Chí Minh

Chùa Long Huê còn được biết đến với tên gọi khác: Sắc Tứ Long Hoa Tự, Sắc Tứ Huệ Long Tự, Ngự Tứ Quan Long Tự; là một ngôi chùa cổ thuộc hệ phái Bắc tông
Chùa Long Huê - Thành Phố Hồ Chí Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Long Huê còn được biết đến với tên gọi khác: Sắc Tứ Long Hoa Tự, Sắc Tứ Huệ Long Tự, Ngự Tứ Quan Long Tự; là một ngôi chùa cổ thuộc hệ phái Bắc tông (Đại thừa) tọa lạc ở số 131/27 đường Nguyễn Thái Sơn, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Theo tấm bảng bằng gỗ do ông Thiện Ngọc khắc ghi vào năm 1912 còn lưu giữ ở chùa, thì chùa do Thiền sư Đạo Thông, người Quảng Nam, vào xã Cai Hạt lập một am nhỏ để tu hành vào năm 1798. Chùa đã được vua Gia Long ban tấm biển “Sắc tứ Long Huê Tự”. Dưới đời Vua Thành Thái, Hòa thượng Từ Huệ đã tổ chức trùng kiến ngôi chùa trang nghiêm.

Chùa được đại trùng tu vào năm 1966, 1972. Chánh điện được bài trí tôn nghiêm. Ở đây có bộ tượng cổ Di Đà Tam Tôn bằng gỗ và Đại hồng chung nặng hơn 1000kg, cao 1,70m, được đúc ở chùa vào năm 1987. Chùa còn giữ một con dấu bằng ngà, mặt trên có chạm hình kỳ lân, mặt dấu khắc 4 chữ triện “Phật Pháp Tăng Bảo” (1871).

Hiện chùa Long Huê còn gìn giữ được khá nhiều hiện vật quý, đáng chú có: Tấm biển “Sắc tứ Long Huê tự” do vua Gia Long ban tặng. Bộ tượng cổ Di Đà Tam Tôn (A Di Đà, Quán Thế âm, Đại Thế Chí) được tạc bằng gỗ mít. Một con dấu bằng ngà, mặt trên có chạm hình kỳ lân, mặt dấu khắc 4 chữ Hán (theo lối chữ triện) “Phật Pháp Tăng Bảo”, được làm vào năm Tự Đức thứ 24 (Tân Mùi, 1871). Đại hồng chung nặng khoảng 1000 kg, cao 1.70 m, đường kính 0.95 m; được đúc năm 1987, v.v…

bien ten
Tên biển chùa “Sắc tứ Long Huê Tự”

Sách Danh mục tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường Thành phố Hồ Chí Minh của Thành hội Phật giáo TP. HCM (NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001) cho biết chư vị trụ trì tiền nhiệm là Thiền sư Đạo Thông, HT Thích Từ Huệ, TT Thích Bổn Viên. ĐĐ Thích Nhật Hiếu trụ trì hiện nay.

Ngày 23 tháng 2 âm lịch, chùa tổ chức giỗ chư Tổ khai sơn. Chùa có phòng khám bệnh từ thiện và lớp học tình thương. Đây là ngôi chùa cổ nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Long Huê - Thành Phố Hồ Chí Minh

Người tuổi Tị mệnh gì theo ngũ hành nạp âm

Mệnh ngũ hành nạp âm của mỗi người tiết lộ khá nhiều điều về cuộc đời người đó. Cùng xem người tuổi Tị mệnh gì theo ngũ hành nạp âm nhé.
Người tuổi Tị mệnh gì theo ngũ hành nạp âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mệnh ngũ hành nạp âm của mỗi người tiết lộ khá nhiều điều về cuộc đời người đó. Cùng xem người tuổi Tị mệnh gì theo ngũ hành nạp âm để biết rõ hơn về vận trình của họ nhé.
Những người thuộc cùng một con giáp nhưng năm sinh khác nhau thì vận mệnh cũng sẽ không giống nhau. Hãy thử tìm hiểu xem người tuổi Tị mệnh gì theo ngũ hành nạp âm nhé.
 

1. Người tuổi Tị mệnh gì?

  Tùy theo năm sinh mà mỗi người lại có một mệnh nạp âm riêng, để biết người tuổi Tị mạng gì, bạn có thể xem qua thông tin chúng tôi tổng kết lại dưới đây.


nguoi tuoi ti menh gi
 
  Người tuổi Tị sinh năm 1929, 1989 là năm Kỷ Tị, mệnh Đại Lâm Mộc. Người tuổi Tị sinh năm 1941, 2001 là năm Tân Tị, mệnh Bạch Lạp Kim. Người tuổi Tị sinh năm 1953, 2013 là năm Quý Tị, mệnh Trường Lưu Thủy. Người tuổi Tị sinh năm 1965, 2025 là năm Ất Tị, mệnh Phúc Đăng Hỏa. Người tuổi Tị sinh năm 1977, 2037 là năm Đinh Tị, mệnh Sa Trung Thổ.   Bạn cũng có thể tham khảo thêm Tử vi trọn đời của người tuổi Tị trên Lịch ngày tốt.  

2. Vận mệnh của người sinh năm Tị theo ngũ hành nạp âm

  Theo năm sinh, ta có thể biết được người tuổi Tị mệnh ngũ hành nạp âm là gì, từ đó đoán định được nhiều điều về cuộc đời của người này.  

Người tuổi Tị mệnh Đại Lâm Mộc (1929, 1989)

  Đại Lâm Mộc tức Gỗ rừng lớn, người tuổi Tị sinh năm Kỷ Tị mệnh Đại Lâm Mộc là Phúc khí chi xà.


tuoi ti menh dai lam moc
 
  Người này tư chất thông minh hơn người, lại có số mệnh may mắn, có thể làm nên công danh sự nghiệp, vận thế cuộc đời bình an như ý. Nếu là nam giới thì là nhân tài túc trí đa mưu, phúc lộc cực kì tốt. Nếu là nữ giới thì hiền thục đảm đang, giỏi tề gia nội trợ, có số phú quý, sống cuộc đời sung túc đủ đầy.   Kỷ Tị đế vượng, vận trình vượng phát, song dễ nảy sinh tranh chấp với người khác. Khi còn thơ bé người này trải qua khá nhiều cơn hoạn nạn, trung vận trở đi mọi sự bình an thuận lợi. Họ là những người ham học, cũng có tiềm năng học tập rất tốt, có nghề nghiệp ổn định. Sức ảnh hưởng của bố mẹ đối với người tuổi Tị mệnh Đại Lâm Mộc là rất lớn. Nam mệnh được vợ giúp sức nhiều trong việc quản lý, không có họa đào hoa. Nữ mệnh tính tình hiếu thắng, nên cẩn trọng đề phòng chồng có chuyện trăng hoa tuyết nguyệt bên ngoài, hôn nhân dễ bị đổ vỡ.  

Người tuổi Tị mệnh Bạch Lạp Kim (1941, 2001)

  Bạch Lạp Kim tức Vàng trong nến. Người sinh năm Tân Tị mệnh Bạch Lạp Kim là Đông tàng chi xà, tức Rắn ngủ đông.


tuoi ti menh bach lap kim
 
  Người này có khả năng ứng biến rất tốt, túc trí đa mưu, có ý chí và tham vọng vô cùng lớn. Họ may mắn được quý nhân nâng đỡ, cả đời không phải lo lắng chuyện cơm áo gạo tiền. Trung vận và hậu vận vô cùng tốt đẹp, vận trình tăng tiến không ngừng, là người có số hưởng phúc trường thọ.   Người tuổi Tị mệnh Bạch Lạp Kim có trí tuệ, có năng lực, khả năng hành động và giải quyết công việc rất tốt. Họ có tinh thần độc lập, là người có chủ kiến, cũng rất sáng tạo và luôn có khao khát phát triển năng lực bản thân. Tuy nhiên người này nên cẩn trọng gia đạo bất an, gia vận kém an yên.   Người sinh năm Tân Tị tính tình hay thay đổi, nóng nảy bốc đồng, đôi khi có chút thiếu quyết đoán. Thời trẻ không được ổn định, công việc thường xuyên thay đổi. Từ trung vận trở đi, người này nên xem xét theo nghiệp kinh doanh thì sẽ có khả năng thành công khá lớn. Có điều, nếu làm kinh doanh thì phải giữ cho đầu óc tỉnh táo, bởi người này có thể gặp họa tiểu nhân hãm hại, mà nhất là kẻ tiểu nhân lại là người kề cận bên mình, có thể là người thân thích trong gia tộc, cũng có thể là bạn bè thân thiết. 

Mời bạn đọc thêm: Các mẹo phong thủy đơn giản giúp tránh tiểu nhân.
  Tiền vận sức khỏe kém, khi còn nhỏ dễ mắc bệnh trọng, sau về sau khi trưởng thành thì sức khỏe dần ổn định. Nam mệnh kết hôn khá muộn, thê thất có thể trợ giúp chồng, vượng phu ích tử. Nếu nam mệnh mà kết hôn sớm thì có thể sẽ phải trải qua đổ vỡ hôn nhân. Nữ mệnh có thể gặp được người chồng tốt, song gia vận không được tốt đẹp cho lắm. Người này chịu nhiều vất vả về gia đình, trung vận nên đề phòng chồng lâm bệnh trọng qua đời.  

Người tuổi Tị mệnh Trường Lưu Thủy (1953, 2013)

  Trường Lưu Thủy tức Nước sông lớn. Người sinh năm Quý Tị mệnh Trường Lưu Thủy là Tảo trung chi xà, tức Rắn nấp trong cỏ.


tuoi ti menh truong luu thuy
 
  Đây là người thông minh tài trí, tài lộc dồi dào. Họ gặp rất nhiều may mắn trong cuộc sống, khi nguy cấp được quý nhân nâng đỡ mở lối thoát thân. Thời trẻ phải chịu khó làm việc để tích lũy nhiều kinh nghiệm, sau trung vận thì thời cơ đến, có khả năng thành công cao, công danh sự nghiệp đủ đầy. Nữ mệnh là người hiền lương, hậu vận phú quý vinh hoa vô thường.   Người tuổi Tị mệnh Trường Lưu Thủy trong nóng ngoài lạnh, không giỏi biểu đạt cảm xúc. Họ có tiềm lực vô cùng phong phú, cũng có tài năng về văn học nghệ thuật. Phúc khí sâu dày, tâm tính nhạy cảm. Người này có số an yên, được nhiều người trọng vọng, có vận quý nhân bên mình. Chăm chỉ học hành tất sẽ thành đạt, tuyệt đối không được bỏ cuộc giữa chừng. Sức khỏe có phần không được tốt, khi phú quý hưởng thì phải nhớ không được sa đà tửu sắc, bệnh tật sẽ đến lúc nào không hay.   Nam mệnh có số 2 vợ, có thể sẽ trải qua hai cuộc hôn nhân trong đời. Phải ghi nhớ trong lòng tránh xa tửu sắc, bởi người này có họa từ tửu sắc. Nữ mệnh thông minh, hiền thục, song lại không được lòng nhà chồng, khoảng 40 tuổi dễ có họa sát phu, cần đề phòng giữ gìn sức khỏe cho chồng. Nữ mệnh là người có số hạnh phúc, chồng đa phần là người làm kinh doanh. Cần giữ cho mình tinh thần thoải mái, đừng nên ấm ức, không hài lòng với chồng, sẽ là mầm mống dẫn đến hôn nhân tan vỡ.

Có thể bạn quan tâm: Người tuổi Tị hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân để gia đình hạnh phúc bền lâu.
 

Người tuổi Tị mệnh Phúc Đăng Hỏa (1965, 2025)

  Phúc Đăng Hỏa tức Lửa đèn lớn. Người sinh năm Ất Tị mệnh Phúc Đăng Hỏa là Xuất huyệt chi xà, tức Rắn bò khỏi hang. 


tuoi ti menh phuc dang hoa
 
  Người này tâm địa thiện lương, hay giúp đỡ người khác, ngũ quan đoan chính, dung mạo xuất chúng. Thời trẻ phải trải qua nhiều vất vả gian lao song thu hoạch chẳng đáng là bao, tới hậu vận thì vận trình tốt đẹp hơn, được hưởng phúc an bình. Nữ mệnh có số vượng phu ích tử, dễ phát tài phát lộc.   Người mệnh Phúc Đăng Hỏa trí tuệ hơn người, gia sản dồi dào, có lòng tự trọng cao, có khả năng độc lập, cũng thích tự dựa vào sức mình. Đây là người khá cố chấp, không dễ để có quan hệ hài hòa tốt đẹp với người khác, luôn sợ mình mắc nợ ai.   Họ là người sống vui vẻ hoạt bát, lạc quan yêu đời, được người khác giới giúp đỡ khá nhiều. Nếu chăm chỉ học hành thì có khả năng thành đạt rất cao, hành sự tuân thủ quy tắc, đi đường chính đạo thì tất được cát khánh. Tuy nhiên phải luôn ghi nhớ, trong chuyện đối nhân xử thế cũng như công việc, chớ nên quá mức độc đoán sẽ dễ dẫn đến thất bại, hao tài phá tài.   Người mệnh Phúc Đăng Hỏa sinh năm Tị là người đa tình, sau khi kết hôn vẫn có thể thay lòng đổi dạ. Họ cũng khó được như ý hoàn toàn trong chuyện tình cảm, vợ chồng dễ xảy ra mâu thuẫn, tranh cãi, vận thế gia đình cực kì kém. Đường hôn nhân trục trặc bất ổn, vợ chồng dễ quay lưng với nhau. Duyên phận con cái phúc mỏng, đặc biệt cha và con trai không hợp nhau, nên kết hôn muộn, sinh con muộn thì dễ được an yên.   Nữ mệnh vượng phu ích tử, nam mệnh được vợ trợ giúp nhiều. Người này trưởng thành sớm, bản tính đào hoa, thậm chí có thể gọi là trăng hoa, nên tránh xa tửu sắc kẻo gặp họa phá tài. Nên chú ý đến sức khỏe, đề phòng các bệnh về gan, về già sức khỏe khá kém. Nữ mệnh nói nhiều, hay cự cãi với chồng, nếu có thể giữ được tâm tính hiền hòa thì cả đời sẽ được an lạc.  

Người tuổi Tị mệnh Sa Trung Thổ (1977, 2037)

  Sa Trung Thổ tức Đất trong cát. Người sinh năm Đinh Tị mệnh Sa Trung Thổ là Đường nội hồng tà, tức Rắn đỏ ở bờ đê.


tuoi ti menh sa trung tho
 
  Người này tính cách mạnh mẽ, cương liệt, chẳng màng đến nghĩa tình, có phần mưu cầu tư lợi. Họ không có được sự giúp đỡ, nương tựa của gia đình và bạn bè song vẫn có thể một tay làm nên cơ nghiệp, gia tài sung túc khó ai bằng. Nữ mệnh có dung mạo xuất chúng, là người phụ nữ của gia đình.   Đinh Tị mệnh Sa Trung Thổ thông minh hơn người, khéo léo sắc sảo, miệng chuyên nói lời ngọt ngào, giỏi xã giao. Họ có bề ngoài ôn hòa nhưng kì thực nội tâm đa nghi, thích nổi bật, hay thể hiện. Người này không nên hợp tác làm ăn với người khác bởi dễ dẫn đến thất bại. Đừng quá khôn lỏi bởi thông minh quá dễ bị thông minh hại.

Bạn có biết: Người tuổi Tị tuyệt đối không nên hợp tác với con giáp nào?
  Người này đường tình duyên không được như ý, gia đình không được hài hòa, hôn nhân kém hạnh phúc. Nam mệnh không nên theo nghiệp kinh doanh, lấy vợ không phải là người hòa hợp với mình nên dễ có tư tình ngoài hôn nhân. Nữ mệnh đa tài đa nghệ, có tham vọng lớn. Nếu đã kết hôn thì đề phòng chồng ngoại tình, giữa hai vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn và tranh cãi.    Thiên Thiên

Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Tị Tính cách người tuổi Tị nhóm máu O: khéo léo, chín chắn Yêu ai thì yêu nhưng lấy thì phải lấy con gái tuổi Tỵ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Tị mệnh gì theo ngũ hành nạp âm

6 Loại cây tuyệt đối không trồng trong nhà, nếu muốn hút tài lộc, may mắn

Trong phong thủy một số loại cây có thể mang tới vận xui cho người sở hữu chúng. Chính vì vậy để hút tài lộc trong năm 2016 bạn nên tuyệt đối không nên trồng những cây sau:
6 Loại cây tuyệt đối không trồng trong nhà, nếu muốn hút tài lộc, may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Trong phong thủy một số loại cây có thể mang tới vận xui cho người sở hữu chúng. Chính vì vậy để hút tài lộc trong năm 2016 bạn nên tuyệt đối không nên trồng những cây sau:

1:/ Cây dâu

Sách “Sưu thần ký” chép rằng có một người tên là Bào Viên vốn nhà nghèo khổ, ốm lên ốm xuống bèn mời thầy về bói quát. Sau khi gieo quẻ, thầy phán rằng ngôi nhà của Bào Viên có vấn đề, phía Đông Bắc. Nó cây dâu lớn, phải chặt cây dâu này đi mới khỏi được bệnh.

Từ xưa đến nay dân gian vẫn lưu truyền quan niệm kiêng trồng dâu trước cửa nhà. Thực ra, dâu là cây hữu ích, từ lâu đã gắn bó với con người. Từ thời xa xưa, người ta đã biết trồng dâu nuôi tằm lấy tơ dệt lụa. Ngay cả trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, lụa tơ tằm vẫn là một chất liệu giá trị trong lĩnh vực may mặc. Vậy tại sao người ta lại kiêng trồng dâu trước cửa? Có lẽ mấu chốt vấn đề ở chỗ, trong tiếng Hán, cây dâu đọc là “tang” cùng âm với “tang ma” là biểu hiện của chết chóc.

Vì vậy, trồng dâu trước cửa chẳng hóa ra là ngóng tang ma sao? Bởi vì hung thần chủ trì việc chết chóc, tang ma khóc lóc còn gọi là “tang môn thần”.

Còn theo sách “Hán thư” thì ở nước Vệ có bãi dâu ven sông Bộc, trai gái thường tới đó tụ tập hát gợi chuyện không đứng đắn. Vì vậy, người đời còn coi cây dâu là biểu hiện của quan hệ bất chính giữa trai gái.

“Ra tuồng trên bộc trong dâu

Thì con người ấy ai cầu làm chi”

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Vì vậy, cây dâu người ta chỉ có thể trồng sau nhà mà không trồng trước cửa

Ngoài ra, trong dân gian cây dâu còn được dùng để trừ tà ma. Muốn thịnh vượng, gia đình gặp nhiều may mắn thì tuyệt đối không nên trồng cây dâu trước cổng nhà.

2./ Xương rồng

Xương rồng là biểu tượng cho một điềm xui, chuyện gở. Nhờ vào sức sống mãnh liệt mà xương rồng được trồng để xua đuổi âm khí và tà ma. Nó không thích hợp cho những ai muốn có tài lộc ngõ cửa.

Trong phong thủy, hình dáng của cây xương rồng thuộc vào loại đặc biệt, thân phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng với ý nghĩa mang đến sức mạnh, có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài. Vì thế nó là một trong những cây có tác dụng hóa hung cao nhưng lại cực kỳ cấm kỵ khi bài trí trong nhà. Bạn chỉ nên đặt xương rồng ở ngoài cửa, như vai trò của người canh gác, bảo vệ bạn khỏi những năng lượng xấu, ngăn không cho chúng xâm nhập vào nhà.

Xương rồng là cây nhiều gai nhọn, những mũi nhọn của nó chĩa vào người thì sẽ tạo ra khí xấu, ảnh hưởng tới sức khỏe của gia chủ. Chưa kể việc tập trung quá nhiều gai nhọn trên thân cây khiến nó luôn bị bao bọc bởi sát khí. Đôi khi, xương rồng nở hoa (nếu trồng xương rồng mà nở hoa, được coi là điềm lành vì hoa của nó mang năng lượng tốt) nhưng không đủ sức để át đi năng lượng xấu của những chiếc gai nhọn.

Bày xương rồng trong nhà gia chủ dễ bị bệnh tật, mất mát tài sản, tình cảm trục trặc, cô đơn.

Nếu bày trong văn phòng công ty, công ty sẽ khó phát triển, người đứng đầu cũng không sáng suốt, thường bệnh tật và tài sản công ty dễ mất mát.

Tuyệt đối không để xương rồng trong phòng tân hôn: Các loại thực vật có gai chủ yếu là hoa hồng, xương rồng… thường được trang trí trong phòng tân hôn. Tuy nhiên, theo phong thủy, những chiếc gai nhọn mang hàm ý đối đầu, ăn miếng trả miếng. Điều này khiến cho vợ chồng dễ gây tổn thương cho nhau (ở mức độ nhẹ), không bao dung, nhẫn nhịn và rất nhiều điều bất lợi khác liên quan đến cảm xúc.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

3./ Cây liễu

Xét về quan điểm hình thế, phần trước của ngôi nhà (minh đường) luôn cần sự quang đãng, sáng sủa, tránh bị che chắn làm giảm tầm nhìn, ngăn cản sự lưu thông của sinh khí vào đại môn (cửa chính).

Cây lá lòa xòa trước nhà, theo phong thủy như vậy tức là Mộc khắc Thổ. Nếu cây to sẽ có rễ lớn ăn vào đất ảnh hưởng đến nền nhà, đi lại dễ bị va vấp. Loại cây nhiều lá thì lá rụng đầy sân, bóng râm che khuất khiến nhà thiếu ánh sáng mặt trời. Như vậy, gia chủ gặp nhiều điều bất lợi.

Cây liễu được trồng nhiều bên bờ hồ nhưng khi trồng vào khuôn viên nhà với diện tích đất nhỏ, không đủ độ thoáng, thiếu mặt nước rộng tạo độ ẩm để cây phát triển tốt... thì từ liễu rủ nó sẽ dễ trở thành lòa xòa, rũ rượi không đẹp mắt.

Đa phần nhà ở truyền thống của cha ông ta đều quay về hướng Nam hoặc Đông Nam là hướng gió chủ đạo. Cây có nhiều lá trồng trước nhà sẽ cản trở gió lành. Vì thế trước nhà chỉ nên trồng cây kiểng hoặc cây mảnh, dáng cao, lá sáng (cau, dừa cảnh). Sau nhà là những cây lá dày rậm (như chuối, bàng…) để che bớt gió lạnh phương Bắc và Đông Bắc.

Ngoài ra trong dân gian cây liễu trồng trong nhà sẽ mang tới nhiều điềm gở, khiến cho tiền của hao hụt đường con cái khó khăn. Đó là do liễu thuộc phần âm, nó dẫn dụ khí âm tới nhà, làm cho âm thịnh dương suy. Từ liễu nghe gần giống từ lưu tức là đổ đi, chảy đi. Vì vậy nếu không muốn tài sản đổ xuống song, xuống bể thì chớ trồng cây liễu trong nhà.

4./ Cây dương

Cây dương thường được người chơi cây cảnh thích và lá cây xanh tán rất đẹp. Tuy nhiên. Cây dương là loài cây cành lá xum xuê rậm rạp. Vì thế khi gió thổi sẽ khiến cây kêu lên từng trận ào ào như thế nên người ta cũng cho rằng cây dương dễ dẫn dụ ma quỷ đến nhà.  Nó được cho mà không may mắn cho gia chủ.

5./ Cây bách

Cây bách bốn mùa xanh tốt và có sức sống mãnh liệt vì thế loài cây này vốn dĩ là loài cây rất may mắn. Tuy nhiên, điều không ổn là người ta thường trồng loài cây này ở các mộ phần và còn gọi là cây nấm mộ.

Chính vì lẽ đó nên người ta cho rằng đây là loài cây không tốt lành và là một loài cây đặc biệt phải kiêng kỵ.

6./ Cây đa

Cây đa được coi là loài cây không dung nạp con người. Gốc và rễ loài cây này thường to và thô, dễ khiến cho địa hình đất đai lồi lõm, gây ra sự mất cân bằng cho ngôi nhà.

Đa thường được trồng ở đền thờ, miếu những nơi mang ý nghĩa tâm linh. Trong dân gian gốc đa được cho là nơi cư trú của mà quỷ.

Loại cây này được biệt kiêng trồng trong nhà vì nó được cho là dẫn dụ ma quỷ về nhà và làm cho mất cân bằng của ngôi nhà.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 Loại cây tuyệt đối không trồng trong nhà, nếu muốn hút tài lộc, may mắn

Đường trí tuệ bộc lộ cá tính

Đường trí tuệ phản ánh khả năng suy nghĩ, tài năng và cá tính của một người rất rõ đấy bạn nhé.
Đường trí tuệ bộc lộ cá tính

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đường trí tuệ hướng lên trên

Họ làm việc có tinh thần cầu thị, cư xử hợp lý, không phóng đại, chú trọng cuộc sống tinh thần.

2. Đường trí tuệ hướng xuống dưới

Họ đi theo chủ nghĩa lý tưởng, coi trọng cuộc sống vật chất.

0-9930-1425358352.jpg

3. Đường trí tuệ hỗn loạn, phân nhánh

Những người này có suy nghĩ phức tạp, đối nhân xử thế không có nguyên tắc, tâm tình không ổn định. Đối với tương lai thiếu mục tiêu và lý tưởng, thường buồn rầu vô cớ.

4. Đường trí tuệ đứt đoạn ở giữa

Chúng biểu hiện độ tuổi trung niên dễ gặp bệnh hiểm nghèo, sự cố ngoài ý muốn, sự nghiệp gặp trắc trở hoặc đả kích về mặt tâm lý.

Chocopie (theo OMG)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đường trí tuệ bộc lộ cá tính

Huyệt bệnh là gì?

Huyệt bệnh tuy có hình chân huyệt nhưng không phải là chân huyệt, là loại huyệt phạm kỵ sát (xấu).
Huyệt bệnh là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyệt bệnh tuy có hình chân huyệt nhưng không phải là chân huyệt, là loại huyệt phạm kỵ sát (xấu).

Huyet benh la gi hinh anh
Ảnh minh họa

Các nhà phong thủy học cho rằng, điểm huyệt thì phải xét tinh thô, hướng bối, can chi, chủ khách. Xung quanh thấy sa thủy phải hữu tình, thủy phải bao, thế phải tụ, sơn giao thủy hội, tiểu minh đường phân hợp rõ ràng. Nếu sai sót nhỏ thì họa mấy đời.

Mậu Hy Ung trong “Táng kinh dực” nói: “Huyệt có huyệt chân, huyệt bệnh. Huyệt bệnh giống như người tàn tật, tuy có hình cốt nhưng thần khí thương tổn, bại khuyết. Huyệt này không thể táng”.

Huyệt bệnh được phân thành những loại sau

- Huyệt quán đỉnh: đỉnh huyệt lõm, khuyết, méo, vênh…
- Huyệt triết bí: tay huyệt bị gãy, cụt…
- Huyệt phá diện: mặt huyệt nham nhở, méo mó…
- Huyệt trụy túc: chân huyệt lõm, khuyết…
- Huyệt bắng diện: mặt huyệt giống như mặt người cáu giận.
- Huyệt bão đỗ: bụng huyệt to phình, phệ…
- Huyệt lâm đầu: nước xối vào đầu huyệt do thế thấp.
- Huyệt cát cước: huyệt bị cưa chân
- Huyệt lậu tai: hai má huyệt lõm, khuyết, chảy…
- Huyệt hổ tôn: Bạch Hổ sa như con hổ ngồi rình thây mộ, vẻ hung ác.
- Huyệt long cư: gò Thanh Long như con rồng ác nhìn vào huyệt mộ (không có ý triều thuận).
- Huyệt Huyền Vũ cự thi: núi Huyền Vũ sau mộ đầu không cúi, chống lại mộ.
- Huyệt Huyền Vũ nhô đầu: nhìn vào huyệt mộ như đang rình thây ma trong đó.
- Huyệt Chu Tước đằng khứ: gò Chu Tước có hình thế như muốn bay đi.
- Huyệt Chu Tước bi khấp: nước trước mộ chảy có tiếng như than khóc.
- Huyệt tiền hoa hậu giả: mặt trước vẻ hoa hòe hoa sói, mặt sau mộ hình ác, lõm, khuyết, lở, phá…
- Huyệt tả hữu quy lạc: gò Long Hổ đều bị quỵ ngã.

Những huyệt bệnh đều có hình đầu long không rõ, gò Long Hổ lõm khuyết, núi bị phá, đất đá ngổn ngang, các núi lạ ở thế bức bách; mạch khí đứt ngang, phân mạch ngưng tụ không rõ... Minh đường chật hẹp, chúng thủy xung huyệt. Những loại hình đó đều kị, sát.

Khi đặt mộ ở loại hình trên đều bị tam hại: gió, kiến, mối và nước. Nếu an táng tại đây, chẳng những xương cốt bị mục nát mà con cháu gia chủ nghèo khó, bệnh tật thậm chí tan cửa nát nhà, mất người.

Theo Bí ẩn thời vận

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Huyệt bệnh là gì?

Những vật phẩm phong thủy trừ tà, hóa sát (P4) –

34. Thập Nhị Hoa Giáp Là biểu tượng của 12 con giáp. Có khi nó gồm đủ 12 con giáp, nhưng có 1 con lớn làm chủ đạo, các con kia xung quanh, khi đó sẽ là vật Áp Tuế, chuyên Hóa Giải cho những người bị hạn Thái Tuế, hay làm nhà mà phạm Hướng Thái Tuế Kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

34. Thập Nhị Hoa Giáp

Là biểu tượng của 12 con giáp. Có khi nó gồm đủ 12 con giáp, nhưng có 1 con lớn làm chủ đạo, các con kia xung quanh, khi đó sẽ là vật Áp Tuế, chuyên Hóa Giải cho những người bị hạn Thái Tuế, hay làm nhà mà phạm Hướng Thái Tuế

12-con-giap-1

Khi đứng riêng rời thì nó dùng để kích hoạt cho những trường hợp Tam Hạp: Ví như người tuổi Thân Tý Thìn thì chọn các con vật trong bộ ba Thân (Khỉ) – Tý (Chuột) – Thìn (Rồng) đặt ở các vị trí tương ứng.

Trong các trường hợp các Vật Khí này được làm kèm với các thỏi vàng, đồng tiền vàng thì chuyên để kích hoạt Tài Lộc cho các tuổi trong bộ Tam Hạp.

Riêng với trường hợp con giáp là Hổ, thì hình tượng Hổ trong Vật Khí luôn là biểu tượng của sức mạnh, uy quyền, nên nó là vật dùng thích hợp nhất với các người lãnh đạo, người làm sếp trong các cơ quan, công ty trong các tuổi Dần – Ngọ – Giáp – Tân (nhưng không là Giáp Thân).

35. Kỳ Lân Tống Tử

Đây là do điển tích ngày xưa khi mẹ Khổng Tử trước khi mang thai Ngài, thì nằm mộng thấy 1 đứa bé cởi trên lưng con Kỳ Lân, sau đó thụ thai sinh ra Ngài, nên sau đó người ta xem như đây là biểu tượng tốt để báo hiệu có con, và dùng nó như 1 vật kích hoạt về đường Tử Tức. Thường là biểu tượng này bằng đồng, cũng có bằng tranh nhưng rất ít thấy.

36. Tháp Văn Xương

Đây là hình tượng tháp 7 tầng hay 9 tầng tại Hồng Kông, Bình Sơn nguyên lãng, chuyên dùng để kích hoạt cho việc học vấn, tri thức. Tháp Văn Xương có nhiều chất liệu, có loại bằng đồng, có loại bằng Thạch Anh, có loại bằng Pha Lê. Đúng ra trong Phong Thủy, Tháp Văn Xương không quan trọng việc chọn số tầng, bởi Tháp Văn Xương bên Hồng Kông có nơi làm 7 tầng, có nơi làm 9 tầng. Do đó, các bạn nào đã mua về nhà mà nghe mọi người kháo nhau phải đủ 9 tầng hay 7 tầng mới tốt thì cũng đừng lo ngại hay băn khoăn.

37. Pháp Trượng

Đây là biểu tượng tối cao tượng trưng cho quyền lực trong Tôn Giáo. Pháp Trượng có thể làm bằng nhiều chất liệu khác nhau: đồng sáng, gỗ quý, ngọc quý. Nó thường dùng cho những người có chức sắc trong các cơ quan nhà nước, các vị lãnh đạo công ty tượng trưng cho uy quyền, ngăn ngừa tiểu nhân, đem lại quyền lực.

38. Tam Đa

Hầu như ai cũng biết Tam Đa chính là: Phúc Lộc Thọ. Bộ Tam Đa có thể bằng gốm sứ, bằng đồng, bằng đá quý, bằng hình tượng Phong Thủy Luân, bằng tranh Phúc Lộc Thọ toàn đồ. Biểu tượng Tam Đa tượng trưng cho 3 vị Thần đem lại may mắn, sức khỏe, hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà nên thường người ta hay trưng bày trong nhà.

39. Pha Lê

Pha Lê có 2 loại: thiên nhiên và nhân tạo. Loại thiên nhiên tốt hơn loại nhân tạo rất nhiều, nhưng cũng đắt hơn rất nhiều. Pha Lê tuy trong tiếng Hoa gọi là “shui jing” (Thủy Tinh) nhưng nó thực ra lại mang Hành Thổ, vì bản chất Thủy Tinh vốn dĩ là loại đá ở dưới biển sâu hàng trăm ngàn năm.

Trong Phong Thủy, Pha Lê có công dụng giải trừ vận rủi, đem lại may mắn cho người dùng nó, nên Pha Lê trở thành vật trang sức được nhiều người ưa chuộng (phần vì nó rất đẹp, ra ánh nắng nó tỏa đủ 7 màu như 7 sắc cầu vồng). Pha Lê ngoài việc làm đồ trang sức ra, nó còn được dùng làm Tháp Văn Xương, Kim Tự Tháp để kích hoạt, Hóa Giải trong Phong Thủy.

40. Tam Dương Khai Thái

Đây là biểu tượng 3 con dê đứng chung với nhau, thường được làm bằng đồng. Đó là lấy ý nghĩa từ trong Kinh Dịch mà ra:

* Kinh Dịch nói về quẻ Thái: Thái, tiểu vãng, đại lai, cát hanh. Hàm ý quẻ Thái tượng kẻ tiểu nhân lánh xa, người quân tử đến gần, tượng thông thuận, hanh thông, cát tường.
* Đại tượng truyện quẻ Địa Thiên Thái nói “Thiện Địa giao thái, hậu dĩ tài thành Thiên Địa chi đạo”. Ta thấy tượng của quẻ là Càn 3 vạch dương liền dưới quẻ Khôn 3 hào Âm đứt đoạn, 2 quẻ trên dưới mâu thuẫn nhau, tượng khí trời thì giáng xuống, khí đất từ dưới xông lên, 2 khí giao nhau nhờ đó mà vũ trụ giao hòa, các vật, sự việc đối nghịch nhau trở thành vuông tròn, thành tựu.

Quẻ Thái nói chung là biểu hiện điều tốt lành, cho nên mới có câu “hết cơn Bĩ cực tới hồi Thái lai” (Bĩ là quẻ Thiên Địa Bĩ, Thái tức là Thái của quẻ Địa Thiên Thái) để chỉ khi ta qua hết cơn khốn đốn đến vận hanh thông trở lại. Quẻ Thái tốt là nhờ sự nghịch đảo của quẻ Càn bên dưới, mà Càn có 3 hào Dương. Người ta lấy sự đồng âm trong Hán Ngữ mà chọn chữ Dương là dê, 3 hào Dương trở thành hình tượng 3 con dê là thế. Thay vì 3 hào Dương khai mở ra quẻ Thái lại trở thành 3 con dê đem lại quẻ Thái, đem lại sự thông thuận.

Tóm lại, người đang gặp vận rủi cần chuyển hóa thời vận thì nên đặt biểu tượng này, để cầu mong đem lại sự thông thuận như ý quẻ Thái.

41. Chiêu Tài Kim Tiền

cay kim tien_brca

Là các đồng tiền có khắc bốn chữ “Chiêu Tài Tiến Bảo” hoặc “Kim Ngọc Mãn Đường” xâu kết lại với nhau, chuyên dùng kích hoạt Tài Lộc. Có thể là 3 đồng tiền kết với nhau bằng dây ruy băng đỏ để treo trên tay nắm cửa hay bỏ trong bóp, hoặc dán trên bìa cuốn số ghi doanh thu để giúp tăng thu nhập. Có khi là xâu 8 đồng tượng trưng cho Bát Bạch Vượng khí của Vận Tám, mà chữ Bát cũng đồng âm như chữ Phát trong tiếng Hoa. Cũng có khi là một xâu gồm 10 đồng tiền, hàm ý Thập toàn Thập mỹ.

42. Bình An Kim Tiền

Là tiền đồng lớn có khắc bốn chữ “Xuất nhập bình an”. Nó có công dụng hoá giải Khai Khẩu Sát, hoặc ngăn ngừa đàn bà trong nhà lắm lời. Mặt khác, nếu dùng 2 đồng tiền này dưới gối sẽ giúp cho mối quan hệ vợ chồng được tốt đẹp hơn.

43. Tiên Nữ Hoa Đào

Thường gặp nhất là bằng tranh với hình vẽ Tiên nữ tay cầm cành hoa đào. Đôi khi hình tượng này cũng có trong các đĩa kiểu Hồng Kông, có giá để trưng bày. Đây là vật mang lại tài lộc, công danh và hỷ tín cho người nữ, nhưng phải là người nữ chưa có chồng mới dùng được (nam giới thì vô hiệu quả).

44. Phong Chuỷ Điểu

Đây là vật khí hoá sát dùng hình tượng một loài thú thượng cổ, thân như mình chuột, có mỏ như mỏ chim, ức dưới có vảy như vảy rồng, có 2 sừng trên đầu. Mỏ con thú này có ngậm một cái vòng tròn, hai bên có 2 cái giá để thắp đèn cầy đỏ (phải là màu đỏ mới được), bên trong chỗ cắm đèn cầy đó có 2 mảnh kim loại đính bên trong có biểu tượng ngọn lửa.

Đây là vật Chuyên Trị sao Tam Bích Si Vưu tinh gây chuyện thị phi, tiểu nhân, quan phi cực kỳ hay và hiệu quả.

45. Thập Bát Chiêu Tài

Đây là một hình thái hơi lạ của Cóc ba chân (thiềm thừ). Thường được làm bằng chất liệu đồng, có hình dáng một con cóc ba chân miệng ngậm đồng tiền, nhưng phía thân sau của nó gác lên trên một nải chuối có 18 quả, có sợi xích vòng quanh một quả chuối dính vào trên đầu cóc ba chân và nối với một miếng ngọc bội, một sợi xích khác dính liền dưới ức cóc ba chân nối với đồng tiền trong miệng nó, và một miếng ngọc bội.

Cóc ba chân là biểu tượng Chiêu Tài, Chuối (ba tiêu) cũng là Chiêu Tài, số 18 khi phát âm lên theo tiếng Hoa đồng âm với hai chữ Thật Phát. Nên khi đi chung với nhau, chúng là một biểu tượng Chiêu Tài rất mạnh. Vật khí này thích hợp nhất với sao Lục Bạch, đặc biệt khi Lục Bạch ở phương Bắc càng tuyệt vời.

46. Lăng Giác Bảo

Thường được làm bằng chất liệu gốm sứ, với các hoa văn xung quanh. Nó có hình dạng như một cái thố có nắp chụp bên trên, có ba chân đế bên dưới, hai bên tay cầm thì lại nhọn, màu vàng kim, và có hình dáng như hai cái sừng gọi là Hoàng kim giác. Các hoa văn xung quanh có hình hoa Mẫu đơn gọi là Phú Quý hoa. Trên nắp có biểu tượng Tam Đa (quả thạch lựu tượng trưng cho Đa Lộc, quả đào tiên tượng trưng cho Đa Thọ, quả Phật thủ tượng trưng cho Đa Phúc).

Cho nên, vật khí này là vật Chiêu Tài Nạp Phúc rất hay, rất thích hợp với sao Nhất Bạch, đặc biệt khi Nhất Bạch tại Trung Cung.

47. Đại Chú Tiệp

Có hình dáng là một bó những đoạn trúc ngắn. Vì chữ Chú và chữ Trúc đồng âm, bản thân cây trúc có rất nhiều Tiết (đốt, mắt), chữ Tiết lại đồng âm với chữ Tiệp, hàm ý thi cử đỗ đạt, công tác thành công. Xung quanh bó trúc, ở đoạn ống giửa hai đốt có ghi bốn chữ “Tiết tiết cao thăng” hàm ý chiêu Quý nhân đến. Cả bó trúc đó có rất nhiều đốt, gọi là “Đa tiết Văn Xương trúc”. Trên bó trúc là những thỏi vàng xếp thành bệ. Trên bệ là một con Đại ngao Ngư với đầu giống đầu Rồng, với hàm ý “Độc chiếm ngao đầu” – chiếm đầu bảng.

Vật khí này còn có tên là “Đại Văn Xương”, “Vạn ý tiết tiết cao thăng”. Nó là vật kích hoạt cho sao Văn Xương Tứ Lục rất hay, nhất là khi sao Tứ Lục đóng tại Cấn phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy trừ tà, hóa sát (P4) –

Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng, tu vi Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng

Nếu có nốt ruồi ở sau lưng, hãy vui vì điều đó bởi lẽ chúng thể hiện sự tài vận thành đạt, phú quý và trường thọ.

Chính giữa cột sống: Sự nghiệp tươi sáng 

Vận mệnh của những ai có nốt ruồi ở chính giữa cột sống sẽ tươi sáng ngay từ nhỏ. Dù là nam hay nữ, đặc biệt nếu là con trai, bạn càng được bố mẹ, gia đình bao bọc, chiều chuộng. Mọi người sẽ dồn mọi điều tốt đẹp cho bạn, thậm chí để bạn thừa kế cả gia tài. Khi trưởng thành, dù có khởi đầu không mấy suôn sẻ, nhưng bạn sẽ sớm gặp nhiều quý nhân phù trợ trong sự nghiệp. Cùng với tài ăn nói khéo léo, sống tình cảm, bạn càng được nhiều người quý mến và giúp đỡ.

Cuối xương cụt: Học vấn rộng 

Nốt ruồi ở xương cụt chứng tỏ học vấn của bạn khiến nhiều người đáng ngưỡng mộ. Ngay từ nhỏ, bạn đã có đam mê học hành. Bạn được thửa hưởng tinh thần đó chủ yếu từ bố, bồi dưỡng lòng hiếu học để đi theo con đường học vấn. Sau này, nhờ học rộng, biết nhiều, bạn sẽ có số xuất ngoại, thực hiện mơ ước nghiên cứu. Người yêu cũng là một trong nhiều người hâm mộ tài năng học thức của bạn, từ đó nảy sinh tình cảm lứa đôi.

Sống lưng, đối diện là rốn: Sức khỏe trường thọ 

Dù bạn là boy hay girl, sở hữu nốt ruồi này thì sẽ có sức khỏe dồi dào và sống trường thọ. Bạn có lối sống tích cực, để ý tới sức khỏe một cách chủ động. Đôi lúc, bạn bè gán cho mác “ông già, bà già” vì kiểu chăm chút thái quá. Ngoài ra, bạn thể hiện tâm hồn lương thiện, phóng khoáng, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp trở ngại.

Cuối xương bả vai: Vận may tràn trề 

Nốt ruồi ở vị trí dưới cùng xương bả vai, càng gần xương sống thì chủ nhân của nó càng gặp nhiều vận may. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tưởng chừng như đứng trước bờ vực thẳm, bạn vẫn được thần may mắn gõ cửa và đưa ra lối thoát. Hơn nữa, bạn còn biết cách nắm bắt cơ hội, nên sẽ phát cả về tài chính, lẫn danh vọng. Bù lại, con đường tình duyên sẽ phải trải qua nhiều thử thách mới đến được điểm đích hạnh phúc cuối cùng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Các ngày “Ly sào” tránh ăn hỏi, cưới xin –

Đó là các ngày: Tân Mão Mậu Thìn Mậu Ngọ Kỷ Dậu Tân Dậu Mậu Thân Mậu Dần Mậu Tý Nhâm Thân Kỷ Sửu Quý Sửu Bính Tuất Nhâm Ngọ Mậu Tuất Nhâm Tuất Quý Hợi Tân Sửu Kỷ Hợi Quý Tị Tân Hợi   Tân Tị Kỷ Tị   Bài diễn ca ngày “Ly sào” Tân Mão ngày ấy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đó là các ngày:

le_an_hoi_8

Tân Mão

Mậu Thìn

Mậu Ngọ

Kỷ Dậu

Tân Dậu

Mậu Thân

Mậu Dần

Mậu Tý

Nhâm Thân

Kỷ Sửu

Quý Sửu

Bính Tuất

Nhâm Ngọ

Mậu Tuất

Nhâm Tuất

Quý Hợi

Tân Sửu

Kỷ Hợi

Quý Tị

Tân Hợi

 

Tân Tị

Kỷ Tị

 

Bài diễn ca ngày “Ly sào”

Tân Mão ngày ấy dữ sao
Mậu Thìn, Kỷ Tị chớ mà hôn nhân
Mậu Tý với ngày Mậu Dần
Mậu Tuất, Nhâm Tuất lưu tâm chớ dùng
Mậu Ngọ, Nhâm Ngọ không ưng
Kỷ Dậu, Kỷ Sửu đừng dùng làm chi
Tân Sửu, Quý Sửu nhớ ghi
Quý Tị, Kỷ Hợi, Tân Tị cùng thì Mậu Thân
Ly sào ấy chớ phân vân
Tránh xa, khỏi vạ phải cần nhớ lâu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngày “Ly sào” tránh ăn hỏi, cưới xin –

Các sao cản trở khoa bảng

Triệt: sao này có hiệu lực chế khắc rất mạnh, cụ thể như làm cho khoa bảng bất thành, không cao, chật vật, thi rớt, đậu thấp hay đậu vớt.
Các sao cản trở khoa bảng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuần: cũng có hiệu lực khắc chế khá mạnh nhưng kém hơn sao Triệt. Văn tinh mà gặp Tuần đồng cung báo hiệu sự thi rớt, thi khó, thi nhiều keo ...

Tuy nhiên, nếu cung hạn vô chính diệu gặp Tuần, Triệt thì lại tốt.

Hóa Kỵ: báo hiệu việc thi rớt, thi khó, khoa bảng lận đận, dở dang. Hóa Kỵ chỉ sự nông nổi hay thay đổi chí hướng, sự bất mãn vì thất bại. Hiệu lực của Hóa Kỵ khá mạnh vì có thể làm lu mờ cả Khôi, Việt, Xương, Khúc, Hóa Khoa. Người có Khôi Việt gặp Kỵ thì chỉ là kẻ ẩn dật, bất đắc chí. Hóa Kỵ chỉ tốt khi gặp Thanh Long đồng cung mà thôi.

Kình Dương, Đà La hãm: đều chỉ sự cản trở, sự gian nan, sự chậm lụt trong khoa trường. Nếu Kình Dương miếu địa, đối với hai tuổi ất, Tân thì lại là người có tài văn chương từ đó có nghĩa thi đỗ.

Địa Không, Địa Kiếp hãm: Đi với văn tinh thì rất bất lợi: không thể thi được, thi rớt, bị tai họa lúc thi (cóp bài bị đuổi ...)

Thiên Không hãm (ở Tý, Sửu, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi, Dậu, Tuất, Hợi): gặp phải khoa tinh, Thiên Không làm cho khoa trường lận đận.

Đại Hao, Tiểu Hao: chủ sự thay đổi, hao tán, ứng dụng vào khoa bảng có thể có nghĩa: thi rớt keo đầu, thi hai ngành trong đó rớt một, có thể tốn tiền về thi cử.

Thiên Khốc, Thiên Hư: chỉ sự lo âu, nước mắt, xui xẻo, do đó có thể báo hiệu việc thi rớt hoặc học mà không chịu thi. Nếu đăc địa ở Tý Ngọ thì có thể đỗ ở kỳ hai vì hai sao này đắc địa lợi về hậu vận hơn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các sao cản trở khoa bảng

Bố cục căn nhà tọa Dậu hướng Mão và tọa Tân hướng Ất –

Bố cục căn nhà toạ Dậu hướng Mão và tọa Tân hướng Ất: Căn nhà này toạ Tây hướng Đông, tài vị ở hướng Đông Bắc. Xét về mặt đại thái cực, tài vị ở vị trí bệ cửa sổ của phòng khách còn theo tiểu thái cực, tài vị ở chính diện với cửa chính cũng gầ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

n với bệ cửa sổ.

 

 

 

p47

 

Tài  vận: Đại tiểu thái cực đều nằm ở Đông Bắc, là sinh khí thần tài, lại gặp Diên Niên nên đại cát đại lợi. Đặt đồng tiền ngũ đế hoặc tỳ hưu ở đó thì vượng càng vượng thêm.

Sức khoẻ nhân đinh: hướng Tây và Tây Bắc đều là đinh thần vượng vị, cho nên đặt bếp lò tại hướng Tây của nhà bếp là tốt nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục căn nhà tọa Dậu hướng Mão và tọa Tân hướng Ất –

Giải mã những bí ẩn kinh hoàng xung quanh vụ đắm tàu "Titanic"

Tuy nhiên đến tối, khi người thợ ảnh tráng cuộn phim đã chụp, thì một kiểu ảnh đã khiến anh ta phải chú ý. Để nhìn rõ trong khuôn hình đó có hình gì, anh ta quyết định in đoạn phim ấy ra giấy
Giải mã những bí ẩn kinh hoàng xung quanh vụ đắm tàu "Titanic"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vụ đắm tàu “Titanic” năm 1912 đến nay vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Gần đây nhất, có ý kiến cho rằng, do các đinh vít của tàu chưa đủ chuẩn, nên khi va vào núi băng trôi, tàu nhanh chóng bị vỡ và chìm dần. Thuyết này cũng ngay lập tức bị hãng tàu thuyền The White Star Line bác bỏ.

Câu chuyện dưới đây do Lê Sơn - nhà nghiên cứu văn học Nga sưu tầm, có lẽ cũng chỉ là câu chuyện giải trí thú vị… chứ chưa có một cơ sở khoa học nào. Hồn Việt đăng để bạn đọc thưởng lãm và biết thêm một cách người ta nhìn sự việc.

Câu chuyện này bắt đầu từ năm 1886 bằng một truyện ngắn của nhà báo Anh rồi tiếp diễn vào năm 1889 ở gần Cairo - Ai Cập, trong một khu khai quật khảo cổ học và kết thúc năm 1912 trên Đại Tây Dương bằng vụ đắm con tàu thế kỷ mang tên “Titanic” làm khoảng 1.500 người thiệt mạng.


Tàu Titanic lâm nạn.

Trong một cuộc khai quật khảo cổ học tại Thung lũng các đức vua ở Ai Cập vào mùa hè năm 1889, đoàn khảo cổ học nước Anh do huân tước Carvanon dẫn đầu, đã phát hiện ra hầm mộ nữ tư tế của thần Mặt trời là nhà chiêm tinh nổi tiếng Amen-Out. Thật may mắn, chiếc quách vẫn còn nguyên vẹn. Trên nắp quách có hình vẽ khuôn mặt một phụ nữ Ai Cập trẻ đẹp. Và sau đó, hầu như mọi người đều nhận ra rằng trong vẻ đẹp đó có cái gì ma quái. Nằm trong quách có một xác ướp ở trạng thái thật thê thảm. Đó chính là Amen-Out. Có lẽ hầm mộ đã bị cướp phá: trong đó không còn bất cứ một món trang sức nàocó giá trị.

Tuy thế, đối với các nhà khảo cổ học, vật phát hiện thật tuyệt vời, bởi lẽ xác ướp của nữ tư tế tuy ở trong trạng thái tồi tệ nhưng vẫn được bảo quản. Những truyền thuyết của các cư dân sống ở gần nơi khai quật nói rằng, kẻ nào khuấy động sự yên tĩnh vĩnh hằng của Amen-Out thì sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Có lẽ, không phải vô cớ mà trên quách còn ghi rõ dòng chữ: “Sau khi lai tỉnh, chỉ riêng ánh mắt của Người cũng đủ để tiêu diệt kẻ nào dám án ngữ trên con đường của Người”.

Sau đó ít lâu, dường như để xác nhận lời sấm truyền ghê gớm, huân tước Carvanon đã qua đời vì bệnh sốt rét. Những người khác trong đoàn khảo sát cũng lần lượt đi theo vị trưởng đoàn. Nguyên nhân của những cái chết rất khác nhau, song không ai có thể thoát khỏi sự trừng phạt của nữ tư tế cổ Ai Cập. Những nạn nhân tiếp theo của vụ trả thù được báo trước là những người sở hữu chiếc quách để xác ướp của Amen-Out. Có những người bỏ mình do tai nạn, có những người chết vì mắc một căn bệnh bí hiểm mà các bác sĩ không hiểu nổi, có một vài người tự nhiên mất trí. Một nữ chủ nhân cuối cùng của cỗ quách kinh dị đã thoát chết bằng cách đem hiến nó cho Viện bảo tàng nước Anh.

Tại Viện bảo tàng, một nhân viên nhiếp ảnh có nhiệm vụ chụp ảnh cỗ quách để đưa hiện vật mới tìm được vào danh sách các vật trưng bày. Việc chụp ảnh đã diễn ra suôn sẻ, máy móc hoạt động tốt, không thấy có hiện tượng nào đáng chú ý.

Tuy nhiên đến tối, khi người thợ ảnh tráng cuộn phim đã chụp, thì một kiểu ảnh đã khiến anh ta phải chú ý. Để nhìn rõ trong khuôn hình đó có hình gì, anh ta quyết định in đoạn phim ấy ra giấy. Theo trí nhớ của người thợ ảnh thì trên khuôn này phải hiện lên bức chân dung nữ tư tế được vẽ trên quách. Nhưng chiếu lên trên giấy là một hình lờ mờ khó hiểu. Người thợ ảnh liền nhúng tờ giấy ảnh vào khay thuốc hiện. Trên tờ giấy dần dần hiện lên… một khuôn mặt phụ nữ sống động, xinh đẹp với mái tóc đen dày và nụ cười bí hiểm dữ dằn trên môi. Người thợ ảnh cho rằng mình bị mất trí và chuyện lạ đó anh chỉ kể riêng cho vợ nghe. Ít lâu sau, anh đột ngột qua đời vì một cơn nhồi máu cơ tim ở tuổi sung sức nhất và hầu như không có bệnh tật gì.

Nhờ bản danh mục mới mà càng ngày càng có nhiều du khách đến thăm Viện bảo tàng. Nhiều người muốn tận mắt thấy xác ướp và cỗ quách của nữ tư tế cổ Ai Cập. Hai năm trôi qua và các nhân viên bảo tàng nhận thấy số tử vong của những người trông coi phòng trưng bày thứ nhất – phòng Ai Cập – đã tăng đáng kể, còn các vị khách nữ sau khi chiêm ngưỡng chiếc quách tuyệt đẹp thường bị bất tỉnh nhân sự. Thế là người ta quyết định đưa xác ướp cùng với chiếc quách vào buồng kho, còn một phiên bản giống hệt thì được đặt vào chỗ bỏ trống, có điều, không có xác ướp.

Năm 1912, Ban giám đốc Viện bảo tàng nước Anh quyết định bán cỗ quách chứa xác ướp cho một nhà sưu tập Mỹ với một số tiền lớn. Cỗ quách nọ được đựng trong một chiếc hòm gỗ bình thường, bí mật đặt sau phòng thuyền trưởng trên con tàu chắc chắn nhất thời đó – tàu “Titanic” – để vượt qua Đại Tây Dương sang Mỹ.
Tàu Titanic

Các hành khách của con tàu “Titanic” còn sống sót sau tai họa khủng khiếp kể lại rằng, trước khi xảy ra sự cố, thuyền trưởng đã có những hành động kỳ quặc đến khó hiểu. Chẳng hạn, ông ra lệnh thu hết tất cả ống nhòm của những người đứng trực gác trên tàu đưa về buồng mình khóa lại.

Lại nữa, không hiểu vì lý do gì mà hướng đi của con tàu nhiều lần bị thay đổi, rồi sau khi va phải núi băng trôi, tín hiệu cấp cứu được phát ra quá chậm. Có thể nguyên nhân gây ra những chuyện đó là do tác động mang tính chất định mệnh của xác ướp Ai Cập chăng? Nền văn minh dám làm náo động sự yên tĩnh linh thiêng của Amen-Otu và đã bị vị nữ tư tế trả thù.

Liệu còn có thể giải thích cách ứng xử lạ lùng của thuyền trưởng bằng cách nào đây?

Cũng cần phải nói thêm rằng, một viên chức hai mươi tuổi chịu trách nhiệm về việc đưa chiếc quách có xác ướp lên tàu “Titanic” sau đó ít lâu đã chết vì chứng suy tim cấp. Còn người đi theo xác ướp là huân tước Kentervil đã chết ngày 14/4/1912 trong làn nước lạnh giá của Đại Tây Dương cùng với phần lớn hành khách của con tàu.

Việc hạ thủy con tàu lớn nhất, sang trọng nhất thế kỷ diễn ra rất trọng thể và chính xác. Không hề có bất cứ một sự trục trặc nào, nếu như không kể đến việc bỏ trốn của một người thợ đốt lò là một chức vụ nhỏ bé và việc tìm người thay thế không lấy gì làm phức tạp. Hơn nữa, việc đi chuyến đi đầu tiên trên con tàu “Titanic” được coi là niềm vinh dự lớn.

Chuyện gì đã khiến cho người thợ đốt lò trốn khỏi con tàu “Titanic”? Mới đây, với việc người ta trục vớt con tàu “Titanic” thì câu hỏi ấy mới tìm được lời giải đáp. Nơi buồng ngủ của những người thợ đốt lò, trong chiếc tủ riêng của kẻ đào tẩu, người ta tìm thấy một cuốn sách xuất bản trước khi con tàu “Titanic” bị lâm nạn mười bốn năm.
Nội thất tàu Titanic

Cuốn sách có tên “Futility or The Wreck of the Titan” (Sự phù phiếm hay vụ chìm tàu của Titan) của nhà văn Morgan Robertson viết năm 1898 có rất nhiều điểm tương đồng với vụ đắm tàu Titanic một cách đáng ngạc nhiên. Chỉ riêng một điều là cuốn sách đã bị ngâm trong nước từng ấy năm mà không mục nát và vẫn còn có thể đọc rõ.

Tác giả của cuốn sách vốn là một nhà văn vô danh tiểu tốt. Do bị thất bại trong tiểu thuyết huyễn tưởng chuyên miêu tả những cuộc kịch chiến của những người ở hành tinh khác với loài quái vật khủng long vốn không có mấy độc giả. Morgan Robertson bèn chuyển sang viết truyện về người thực việc thực, nói về một con tàu lộng lẫy vượt đại dương đã bị đắm do va phải núi băng trôi. Hành khách đi trên con tàu thượng hạng ấy toàn là các nhà triệu phú, tỷ phú và họ cảm thấy hết sức an toàn. Nhưng khi con tàu bắt đầu chìm thì mới vỡ lẽ ra rằng số thuyền cấp cứu không đủ cho tất cả mọi người.

Nói chung, phần kết thúc cuốn sách khá bi thảm. Tác giả đã đặt cho con tàu bị nạn cái tên “Titan”, trước khi con tàu “Titanic” bắt đầu đóng được mười năm. Một loạt sự trùng khớp. Nhưng chưa hết. Sự khác biệt giữa những tính năng kỹ thuật của con tàu hư cấu “Titan” và con tàu có thực “Titanic” rất không đáng kể: chẳng hạn chiều dài cả “Titanic” là 882 fut, còn chiều dài của “Titan” là 880 fut, trọng tải của “Titanic” là 66 nghìn tấn, còn của “Titan” là 70 nghìn tấn. Số lượng hành khách hư và thực trên hai con tàu cũng gần trùng khớp: “Titanic” có 2.200 người, còn “Titan” có chẵn 2.000 người. Số thuyền cấp cứu kiểu mới trên “Titanic” là 20, chỉ hơn số thuyền cấp cứu trên con tàu hư cấu vẻn vẹn có bốn chiếc. Công suất máy của “Titanic” là 55.000 mã lực, còn của “Titan” là 50.000.

Còn một vài tính năng khác thì trùng khớp hoàn toàn. Chẳng hạn, tốc độ tối đa của cả hai con tàu là 24 hải lý. Cả hai con tàu đều có bốn ống khói và 3 chân vịt. Cuối cùng cả hai con tàu đều lâm nạn trong một tháng định mệnh – tháng Tư.
Xác tàu Titanic dưới đáy đại dương.

Niềm tin vào điềm gở đã cứu người thợ đốt lò thoát chết. Còn tấn thảm kịch thực sự đang chờ đợi các hành khách còn lại trên con tàu hiện đại nhất mà những người sáng tạo ra nó đã ngạo mạn đưa ra khẩu hiệu: “Đến thượng đế cũng không thể nhận chìm được con tàu này”.

… Con tàu từ từ chìm xuống nước. Trong số các hành khách hạng nhì ở trên boong có một người đàn ông đứng tựa lan can, mắt chăm chú nhìn xuống biển. Trên khuôn mặt ông ta không có biểu hiện gì của sự hoảng hốt. Ông không bổ nhào đến chỗ những chiếc thuyền cấp cứu, thậm chí không buồn mặc áo phao. Đôi môi tái xanh vì lạnh của ông ta luôn luôn thì thầm đọc một câu: “Chính ma quỷ đã viết cái truyện ngắn này và nó đã trừng phạt tôi!”. Đó là nhà báo người Anh nổi tiếng Ervard Wiliam Sted. Năm 1886, ông ta viết một truyện ngắn kể về một con tàu bị đắm do va phải núi băng trôi trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Tất nhiên, trong lịch sử hàng hải những trường hợp như thế này không phải là hiếm.

Tên con tàu cũng là hư cấu. Sted gọi nó là “Majestic”. Nhưng có một điểm nhà báo phỏng đoán hoàn toàn chính xác: Thuyền trưởng tàu “Majestic” là người trùng tên với thuyền trưởng tàu “Titanic”. Hai người đều có tên là Edvard John Smith. Một điều đáng ngạc nhiên nữa là nhà báo này vốn suốt đời quan tâm đến những hiện tượng tâm lý khác nhau, lại không nhận thấy lời cảnh báo nằm ngay trong chính truyện ngắn của mình. Sted giã từ cuộc sống khi con tàu “Titanic” bị chìm cũng như hàng trăm hành khách khác không mảy may nghi ngờ về tai họa đang đến gần.

Những sự cố trên đây đã bổ sung những tư liệu mới để cùng với những giả thuyết, những truyền thuyết khác nhau góp phần vén màn bí ẩn về cái chết bất đắc kỳ tử của con tàu thế kỷ “Titanic”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã những bí ẩn kinh hoàng xung quanh vụ đắm tàu "Titanic"

Hóa giải phong thủy căn hộ chung cư

Những người có sao bản mệnh giống nhau được cho là có những nét tương đồng về tính cách. Việc xem xét một cá nhân có phù hợp với một yếu tố nào đó về phong thủy vì thế cũng được căn cứ theo địa chi. Đối với nhà chung cư vốn có thiết kế hàng loạt thì việc chọn một căn hộ có hướng phù hợp với tuổi chủ nhà chỉ mang tính tương đối và có thể dựa theo địa chi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những hướng căn hộ tốt đối với các nhóm tuổi cụ thể:

Chủ nhà tuổi Tý: 

Hướng Bắc được cho là có vị trí quan trọng cũng như có tác dụng rất lớn với người tuổi Tý. Trong nhà mà để khu vực hướng Bắc bị ô nhiễm (chẳng hạn nhà vệ sinh, bể nước ẩm ướt...) sẽ gây ảnh hưởng xấu đến người tuổi Tý.

Hóa giải: Hãy đặt một số cây xanh ở khu vực phía Bắc để làm sạch và tạo không khí trong lành.

Ngoài hướng Bắc, hướng Đông Nam và Tây Nam cũng có ảnh hưởng nhất định với gia chủ tuổi Tý. Như vậy, người tuổi Tý cần lưu ý luôn giữ gìn vệ sinh 3 hướng là Bắc, Đông Nam và Tây Nam để có sự thuận lợi về tài vận.

hướng căn hộ
Nếu khu vực chức năng trong căn hộ không hợp với hướng tốt hãy dùng các cách đơn giản để
hóa giải như đặt chậu cây, tạo bình phong...và luôn giữ cho không gian sạch sẽ, thoáng mát

Chủ nhà tuổi Sửu:

Đối với những người tuổi Sửu, hướng quỉ môn ở Đông Bắc có vai trò vô cùng quan trọng. Nếu khu vực này đặt nhà vệ sinh, phòng tắm, hoặc có nguồn nước ô nhiễm sẽ gây tác động xấu đến tuổi Sửu. Nếu chẳng may căn hộ đã bố trí cố định như trên thì cần khắc phục kịp thời để giảm tác hại.

Hóa giải: Nhanh chóng đánh bay những thứ mùi hôi trong nhà vệ sinh của bạn đồng thời giữ gìn cho các không gian ở khu vực Đông Bắc luôn luôn sạch sẽ, thoáng đãng.

Chủ nhà tuổi Sửu cũng cần giữ cho khu vực hướng Tây và Đông thật sạch sẽ để giúp khí vận tốt.

Chủ nhà tuổi Dần:

Tương tự như tuổi Sửu, với người tuổi Dần, hướng Đông Bắc cũng rất quan trọng. Đông Bắc được gọi là hướng quỷ môn, vì thế khi bố trí khu chức năng, nội thất ở hướng này cần đặc biệt cẩn trọng.

Hóa giải: Rất may là khu vực này chỉ cần chú ý giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không khí trong lành là đủ. Chủ nhà cần chú ý, không đặt nhà bếp hoặc phòng tắm, nhà vệ sinh ở đây vì có thể gây ra sự xáo trộn trong cuộc sống, hoặc những tác động không tốt.

Với người tuổi Dần, hướng Tây và Tây Nam cũng có mối quan hệ sâu sắc, nên hãy chú ý giữ vệ sinh khu vực này.

Chủ nhà tuổi Mão

Các gia chủ tuổi Mão nên đặc biệt chú ý đến hướng Đông, đây là hướng quan trọng nhất với họ. Thế vận người tuổi Mão sẽ không tốt nếu chẳng may hướng này bị ô uế, ẩm ướt, thậm chí những vết lõm, khuyết góc cũng không tốt.

Hóa giải: Hãy luôn giữ cho không gian chức năng tại khu vực này sạch sẽ, thoáng đãng.

Tây Nam và Tây Bắc cũng là hai hướng khá quan trọng với những chủ nhà tuổi Mão. Trường hợp hướng Đông gặp bất lợi mà không thể khắc phục thì hai hướng này sẽ giúp bổ khuyết cho hướng Đông.

Chủ nhà tuổi Thìn:

Đông Nam được cho là hướng có ảnh hướng nhiều nhất với gia chủ tuổi Thìn. Nếu hướng Đông Nam được xử lý tốt thì chủ nhà tuổi Thìn sẽ gặp nhiều may mắn, vạn sự như ý. Ngược lại, mọi việc sẽ trắc trở, khó thành.

Hóa giải: Không bao giờ để không gian ở phía Đông Nam bị ô nhiễm, đồng thời chủ nhà cũng nên lưu ý hướng Tây Nam và Bắc.

Chủ nhà tuổi Tỵ:

Tương tự người tuổi Thìn, những người sinh năm Tỵ cũng rất nên chú ý đến hướng Đông Nam. Khu vực Đông Nam của căn hộ không được đặt nhà vệ sinh, nhà tắm hoặc để những nguồn nước ô nhiễm, nếu không nhẹ thì ảnh hưởng đến tài vận, nặng có thể gặp tai họa lớn.

Hóa giải: Nếu không thể thay đổi vị trí công năng các phòng, bạn hãy cố gắng giữ gìn cho không khí khu vực này luôn thuần khiết, khô ráo. Nếu đặt nguồn nước tại đây thì phải giữ cho nó luôn trong sạch.

Với người tuổi Tỵ, hai hướng khác là Tây và Đông Bắc cũng rất quan trọng, có thể được dùng để bổ khuyết trong trường hợp hướng Đông Nam có điểm dữ không thể khắc phục.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải phong thủy căn hộ chung cư

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Đặt giường ngủ về phương cát nạp sinh khí

Ngôi nhà nên chọn hướng cát để thu nạp sinh khí, con người cũng vậy. Theo phong thủy, ngủ là lúc nạp sinh khí nhiều nhất, vì thế cần định hướng giường ngủ về
Đặt giường ngủ về phương cát nạp sinh khí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phương cát để tăng may mắn và sức khỏe cho bản mệnh của chủ nhân. 

Dat giuong ngu ve phuong cat nap sinh khi hinh anh
 
Hướng cát khí là sự phối hợp giữa mệnh cung của người nằm với hướng giường để được các du tinh tốt. Tốt nhất gặp Sinh Khí, Thiên Y, tốt nhì là Phục Vị, Diên Niên. Hướng giường được xác định từ đầu giường đến cuối giường, tức là khi nằm hay dậy mặt đều quay về hướng đó. Dưới đây là một số gợi ý hướng kê giường sao cho thích hợp nhất.
 
Người mệnh Khôn nên đặt giường hướng Tây Bắc hoặc chính Tây để mặt luôn nhìn về Sinh Khí hay Thiên Y.
 
Người mệnh Cấn nên kê giường hướng Tây Bắc gặp Thiên Y, Tây Nam gặp Sinh Khí.
 
Người mệnh Càn kê giường hướng Đông Bắc gặp Thiên Y, Tây gặp Sinh Khí. 
 
Người mệnh Đoài nên kê giường hướng Tây Bắc hoặc Tây Nam.
 
Người mệnh Ly nên kê giường hướng Đông.
 
Người mệnh Chấn kê giường hướng Nam hay Bắc đều hợp.
 
Người mệnh Tốn nên kê giường hướng Bắc hoặc Nam.
 
Giường ngủ nên kê vuông góc với lối đi và đầu giường không hướng về phía cửa.
 
Bạn có thể tra bảng Bát trạch cho quẻ mệnh để xác định xem mình thuộc cung nào rồi kê giường theo hướng dẫn.    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt giường ngủ về phương cát nạp sinh khí

Thiên Mã

Thiên Mã là sao chủ về sự biến hóa, năng động, dịch chuyển. Thiên Mã báo hiệu có hỷ sự, nhiều nhất là có tin mừng thăng quan, tiến chức, ít nhất cũng là thu
Thiên Mã

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Mã là sao chủ về sự biến hóa, năng động, dịch chuyển. Thiên Mã báo hiệu có hỷ sự, nhiều nhất là có tin mừng thăng quan, tiến chức, ít nhất cũng là thu được lợi trong sự vận động. Tuy nhiên, Thiên Mã cũng giống như Đào Hoa, tùy thuộc vào tổ hợp tứ trụ để xét mức độ tốt hay xấu.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Cách tra Thiên Mã là lấy chi ngày (hoặc chi năm) làm cơ sở để tra các địa chi khác trong tứ trụ. Nếu tứ trụ nào ở vào một trong các trường hợp dưới đây là có sao Thiên Mã nhập mệnh.

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Dần, Ngọ, Tuất thấy chi Thân

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Thân, Tý, Thìn thấy chi Dần

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Tỵ, Dậu, Sửu thấy chi Hợi

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Hợi, Mão, Mùi thấy chi Tỵ

Ví dụ: Người sinh vào 16 giờ ngày 14/9/1990 (âm lịch) có tổ hợp tứ trụ là: giờ Canh Thân, ngày Quý Hợi, tháng Bính Tuất, năm Canh Ngọ.

Theo trường hợp 1, chi năm Ngọ (Canh Ngọ) gặp chi Thân của giờ (Canh Thân), do vậy tổ hợp này xuất hiện Thiên Mã.

(Theo Dự đoán theo tứ trụ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiên Mã

Lật tẩy những con giáp thực dụng trong tình yêu

Có người bàn ra tán vào cho rằng đây là con giáp thực dụng trong tình yêu, điều đó không hẳn là sai, nhưng khi kết thân với họ, bạn sẽ thay đổi cách nghĩ.
Lật tẩy những con giáp thực dụng trong tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tình yêu thường khiến con người ta mù quáng, lu mờ lý trí. Ấy vậy mà với những con giáp dưới đây điều đó dường như không thể xảy ra vì họ quá tỉnh táo và thực dụng.


Tóm nhanh 4 con giáp nam mang lại một đời vinh hoa cho phái nữ Không cần làm gì, 4 con giáp này cũng bị tiền rơi vỡ đầu trong 3 năm tới Bí kíp bỏ túi cho 12 con giáp giữ lửa yêu nồng cháy
1. Người tuổi Dậu   Sở hữu con mắt tinh tường, trí tuệ thông minh hơn người, nên những ai cầm tinh con Gà thường sáng suốt trong mọi chuyện, bao gồm cả phương diện tình cảm.   
Lat tay nhung con giap thuc dung trong tinh yeu hinh anh
 
Kể cả trong công việc và tình yêu, người tuổi Dậu luôn giữ cho mình cái đầu sắc lạnh, nhìn nhận mọi việc từ góc độ thực tế, không mơ mộng hão huyền nên mọi việc diễn ra khá trôi chảy, họ cứ việc thẳng tiến tới đích.   Con giáp thực dụng trong tình yêu này “tập xác định” ngay từ đầu rằng, yêu là đối phương cần lệ thuộc mình chứ không phải bản thân. Họ “kén cá chọn canh” kỹ càng, chứ không có kiểu qua loa đại khái, kể cả khi tuổi tác đã lớn.    Thêm nữa, họ ý thức được sức ảnh hưởng của tiền bạc trong cuộc sống, nên rất tỉnh táo khi lựa chọn đối tượng để có thể cùng nhau đi hết quãng đời còn lại. Đôi khi có người bàn ra tán vào cho rằng đây là con giáp thực dụng trong tình yêu, điều đó không hẳn là sai, nhưng khi kết thân với họ, bạn sẽ thay đổi cách nghĩ ấy, thậm chí còn học theo để luôn được ở thế chủ động.   Top 3 con giáp bị mắc bẫy tình vì số đào hoa trong tháng 7 Top 3 con giáp nam khiến chị em đổ xiêu đổ vẹo Những 'ông bà tám' siêu bựa trong 12 con giáp
2. Người tuổi Ngọ
  Nếu không hiểu cá tính người tuổi Ngọ, giai đoạn đầu khi yêu, bạn sẽ cho rằng con giáp thực dụng này bất chấp tất cả, chỉ nghĩ đến lợi ích vật chất, chỉ quan tâm tới điều kiện kinh tế để “chọn gấu”.   Vì sao như vậy? Vì họ quá thẳng thắn, không hề che giấu quan điểm của mình, yêu ghét rõ ràng, cân nhắc chuyện kinh tế cũng là lẽ đương nhiên.   Thực ra, cá tính con giáp này rất mạnh, quan điểm sống của họ cũng khá thực tế, lối tư duy hiện thực chứ không mơ hồ xa vời. Họ cân nhắc tới mọi điều kiện của đối phương để có thể chọn ra người phù hợp, điều đó là cần thiết, không hề sai. Nhưng cái cách họ thể hiện có phần thái quá, dễ bị người khác nghĩ xấu.  
Lat tay nhung con giap thuc dung trong tinh yeu hinh anh
 
3. Người tuổi Tuất   Trong suy nghĩ của người tuổi Tuất, yêu và lấy là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Yêu thì có thể bị cảm xúc điều khiển, lấn át, nhưng khi chọn người để lấy, họ sẽ vận dụng triệt để bộ não thông thái của mình, lấy lý chí để chấn an tất cả.   Vốn không được sinh ra trong gia đình có điều kiện kinh tế tốt, ngay từ nhỏ, con giáp thực dụng trong tình yêu này đã phải tự lực cánh sinh, nên họ rất hiểu giá trị vật chất cũng như sức ảnh hưởng của nó tới đời sống hôn nhân, gia đình.   Vì thế, họ luôn cố gắng làm việc, phấn đấu, mong ngày đổi đời, cải thiện chất lượng cuộc sống. Tất nhiên, khi chọn “gấu”, họ sẽ tìm những ai có điều kiện kinh tế tốt một chút để sau này khỏi phải lo lắng quá nhiều về vật chất. Đó cũng là lý do chính đáng.  
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Việt Hoàng

Người tuổi nào không ngừng tìm kiếm cảm giác an toàn?
Nhìn người tuổi Mùi bề ngoài vui vẻ hát ca thế thôi, nhưng thực chất con giáp này có lối suy nghĩ khá bi quan, lúc nào cũng tìm kiếm cảm giác an toàn trong

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lật tẩy những con giáp thực dụng trong tình yêu

Mơ thấy trán của mình: Tiền đồ sự nghiệp rộng mở –

Trán là một bộ phận nằm ở vị trí trên chân mày và dưới tóc. Mơ thấy trán của mình, càng sáng rõ càng tốt, cho thấy tiền đồ sự nghiệp bạn lựa chọn luôn rộng mở đón chờ; mơ thấy trán của mình nhưng tăm tối, một là nên đến bệnh viện kiểm tra sức khỏe,
Mơ thấy trán của mình: Tiền đồ sự nghiệp rộng mở –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy trán của mình: Tiền đồ sự nghiệp rộng mở –

Mẹo hay chọn ngay tầng chung cư phát lộc

Mọi người thường thích những con số 3, 8, 23, 28… mà kị số 4 vì cho rằng đây là số tử. Nhưng kì thực chưa chắc những người ở tầng 3 hay tầng 8 có thể dễ “phát”
Mẹo hay chọn ngay tầng chung cư phát lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hơn.


Vậy nên chọn tầng chung cư như thế nào để vừa hợp mệnh với gia chủ lại còn mang tới những điều tốt lành, vận may về tài lộc, sự nghiệp là điều mà bất cứ gia chủ nào cũng cần phải cân nhắc kĩ càng. Dưới đây là một vài mẹo nhỏ giúp bạn dễ dàng lựa chọn tầng chung cư để “thông tiền đạt vận”.

Meo hay chon ngay tang chung cu phat loc hinh anh
Ảnh minh họa

Theo quan điểm phong thủy, tất cả những sự vật trên trái đất này đều có thuộc tính âm dương ngũ hành. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, con người và kiến trúc có thể đi sâu phân tích chi tiết thông qua âm dương ngũ hành. Thông thường, âm dương ngũ hành của số tầng của căn hộ chung cư chia làm: tầng có số lẻ thuộc Dương, tầng có số chẵn thuộc Âm.

Số tầng được coi là hợp với gia chủ khi ngũ hành của tầng đó và ngũ hành của chủ nhà tương đồng hoặc tương sinh. Ngược lại, nếu hai yếu tố này tương khắc nghĩa là không hợp.

Số tầng theo ngũ hành như sau:

Tầng 1 và 6 thuộc Thủy.
Tầng 2 và 7 thuộc Hỏa.
Tầng 3 và 8 thuộc Mộc.
Tầng 4 và 9 thuộc Kim.
Tầng 5 và 10 thuộc Thổ
Từ tầng thứ 11 trở đi cứ tính theo quy luật như trên.

Số tầng tương ứng với bản mệnh gia chủ:

Gia chủ thuộc các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nên chọn tầng số 5, 10 (tầng bản mệnh), tầng 2,7 (tầng quý nhân).
Gia chủ tuổi Dần, Mão nên chọn tầng 3, 8 (tầng bản mệnh), tầng 1, 6 (tầng quý nhân).
Gia chủ tuổi Tỵ, Ngọ nên chọn tầng 2, 7 (tầng bản mệnh), tầng 3,8 (tầng quý nhân).
Gia chủ tuổi Thân, Dậu nên chọn tầng 4, 9 (tầng bản mệnh), tầng 5, 10 (tầng quý nhân).
Gia chủ tuổi Tý, Hợi nên chọn tầng 1, 6 (tầng bản mệnh), tầng 4, 9 (tầng quý nhân).

Cụ thể từng tuổi như sau:

Tuổi Tý: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 1, 4, 6, 9, 11, 14…, không thuận là tầng số 3, 5, 8, 10, 13, 15…

Tuổi Sửu: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 2, 5, 7, 10, 12, 15…, không thuận là tầng số 3, 4, 8, 9, 13, 14…

Tuổi Dần: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 1, 3, 6, 8, 11, 13…, không thuận là tầng số 2, 4, 7, 9, 12, 14…

Tuổi Mão: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 1, 3, 6, 8, 11, 13…, không thuận là tầng số 2, 4, 7, 9, 12, 14…

Tuổi Thìn: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 2, 5, 7, 10, 12, 15…, không thuận là tầng số 3, 4, 8, 9, 13, 14…

Tuổi Tỵ: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 2, 3, 7, 8, 12, 13…, không thuận là tầng số 1, 5, 6, 10, 11, 15…

Tuổi Ngọ: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 2, 3, 7, 8, 12, 13…, không thuận là tầng số 1, 5, 6, 10, 11, 15…

Tuổi Mùi: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 2, 5, 7, 10, 12, 15…, không thuận là tầng số 3, 4, 8, 9, 13, 14…

Tuổi Thân: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 4, 5, 9, 10, 14, 15…, không thuận là tầng số 1, 2, 6, 7, 11, 12…

Tuổi Dậu: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 4, 5, 9, 10, 14, 15…, không thuận là tầng số 1, 2, 6, 7, 11, 12…

Tuổi Tuất: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 2, 5, 7, 10, 12, 15…, không thuận là tầng số 3, 4, 8, 9, 13, 14…

Tuổi Hợi: tầng đại cát đại lợi nên là tầng số 1, 4, 6, 9, 11, 14…, không thuận là tầng số 3, 5, 8, 10, 13, 15…

► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Theo Khám phá



 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo hay chọn ngay tầng chung cư phát lộc
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd