Mơ thấy mã não phát sáng: Không nên gây bất hòa giữa bạn bè –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Sau đây là những lưu ý cơ bản và đơn giản khi bạn muốn trang trí phòng ngủ hợp phong thủy mà còn mang lại cuộc sống an yên hơn cho bản thân. Không như những phòng khác trong nhà, phòng ngủ tuy quan trọng nhưng không cần thiết phải trang trí quá cầu kỳ. Tiêu chí cho việc trang trí phòng ngủ đẹp, hợp phong thủy là để đồ đạc tối giản nhất có thể. Và chúng tôi đã rút ra 3 bước nhanh gọn để giúp bạn có thể hình dung ra cách trang trí phòng ngủ hợp lý:
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
1. Lỗ mũi to nhưng không hếch
Người có sống mũi cao, lỗ mũi to nhưng không hếch làm việc có trách nhiệm, biết cân nhắc việc nào nên làm việc nào không, tác phong thoải mái, không thích “nước đến chân mới nhảy”. Họ nắm bắt thời cơ và hành sự quyết đoán, bởi vậy dễ thành công, làm nên nghiệp lớn, không thỏa hiệp với thất bại, có thể đứng dậy sau nỗi đau, đạt được vinh quang xứng đáng.
2. Lỗ mũi to, không hếch sống mũi thấp
Người sở hữu chiếc mũi không hếch, lỗ mũi to thường dũng cảm, bình thản đối mặt với biến cố, không dễ dàng bị hạ gục bởi khó khăn trở ngại. Tuy nhiên do sống mũi thấp nên họ dễ làm hỏng việc lớn, thất bại nhiều hơn thành công, khó bảo toàn sự nghiệp, thường hay bỏ lỡ thời cơ.
3. Lỗ mũi lớn, khuôn mặt dài
Lỗ mũi lớn là người không cứng nhắc, không câu nệ tiểu tiết, nhưng khuôn mặt dài lại là người hay suy tư, chuyện gì cũng phải lên kế hoạch cẩn thận, không có sự chuẩn bị trước thì họ sẽ không làm. Nhìn chung, những người này thuộc tuýp thận trọng nhưng cũng rất to gan.
4. Lỗ mũi lớn, khuôn mặt ngắn
Lỗ mũi lớn thường là người tiêu tiền hào phóng, cho nên họ đi đến nơi nào cũng được hoan nghênh, nhưng khuôn mặt ngắn thì khi làm việc ít suy nghĩ, dễ để tình cảm ảnh hưởng đến công việc.
Nam giới và nữ giới có khác biệt rất lớn, nếu là nam giới có lỗ mũi to thì sẽ không có ảnh hưởng quá lớn nhưng nếu là phụ nữ có lỗ mũi to sẽ ảnh hưởng đến dung mạo, nữ thì nên có mũi nhỏ một chút, vận số mới tốt. Từ góc độ của xem tướng mặt mà nói, nữ có lỗ mũi to vận số rất xấu, cần phối hợp quan sát với hình dáng môi, nếu là XX có đôi môi dày, đỏ và lỗ mũi hơi hếch lên thì lỗ mũi to cũng không mang lại nhiều trở ngại, nhưng tính cách sẽ có phần hơi “nam tính”, ví dụ: hào sảng, không chi ly tính toán, rất trọng tình nghĩa.
XX có lỗ mũi to nhưng môi mỏng, khóe môi rũ xuống thường tiêu hoang không biết tính toán, coi thường người khác, họ thấy vui vẻ khi dùng tiền hạ thấp người khác. Những người này nếu không biết thay đổi thì khi về già họ có thể rơi vào hoàn cảnh cô đơn không nơi nương tựa.
Bài viết của tác giả Anh Việt
Chúng tôi đã nêu các bảng lập thành để các bạn an sao.
Chúng tôi đã nêu lên luật Âm Dương và luật sinh, khắc chế hóa giữa các Hành của Sao với Hành của Cung (để có sao miếu địa, đắc địa hay hãm địa), và giữa các Hành của Sao và Hành của Mạng. Chúng tôi đã có một bản về các Sao, Hành, Phương, Âm Dương của các sao đó, cùng với vị trí miếu, đắc địa hay hãm địa của các sao. Chắc các bạn đã sử dụng tất cả các nguyên tắc đó.
Trong kỳ này, chúng tôi xin tiếp sang một nhận xét khác, tuy vẫn là nhận xét đại cương, về tánh chất các sao, thay đổi tánh chất tốt xấu và ý nghĩa tùy tên của Cung (cung Mạng, cung Phúc Đức) và tùy theo những sao khác gặp phải.
Khi theo dõi cuộc kiểm điểm đại cương này, các bạn nên có trong đầu óc phương hướng, Âm Dương và Hành của mỗi sao, cùng với những cung miếu địa, đắc địa hay hãm địa của mỗi sao (theo như kỳ trước). Các bạn cũng nên luôn luôn nhớ lại rằng sao tốt, nhưng nếu Hành của sao lại khắc Mạng của con người, thì cái hay của sao lại dùng để khắc Mạng, sẽ có hại. Đối với sao Hung cũng vậy, tuy là xấu trong bản chất, nhưng ở nơi miếu địa, đắc địa, thì cũng có ảnh hưởng tốt, ảnh hưởng đó thường là bộc phát bất ngờ, nhưng các hung tinh miếu địa đó cũng phải có Hành nuôi dưỡng cho Mạng mới được.
Tử Vi là đế tinh, đứng đầu các sao. Tại Mạng là biểu hiện của sự thông minh, uy nghi, trung hậu nếu là miếu địa. Nếu còn đắc địa, cũng biểu hiện sự thông minh, thao lược. Ở đất bình hòa, chỉ là sự nhân hậu.
Nhưng đấy là kể Tử Vi không bị chặn. Nếu gặp Tuần-Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp thì lại hỏng, đó là Đế ngộ hung đồ, ảnh hưởng tốt của Tử Vi bị phá hết.
Tử Vi mà không gặp hung đồ, lại được thêm các trung tinh phò tá như Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu thì không khác gì vua giỏi có đủ quần thần, hiển hách, cao sang lắm. Tử Vi gặp thêm Thiên Tướng, hoặc Thất Sát, hoặc Lộc, Mã cũng rất tốt.
Tử Vi gặp thêm Thiên Phủ càng thêm trọng hậu, con người tốt và thêm sự giầu có.
Tử Vi không sợ Hỏa, Linh. Tử Vi còn chế ngự được Hỏa, Linh.
Gặp hạn, mà thấy Tử Vi tốt đẹp, là không những được hay, mà còn giải trừ được các họa hại. Nhưng nếu Tử Vi có xấu (tức là gặp Tuần, Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp) thì lại gặp những không may, hoặc Tử Vi ở các nhàn cung (Hợi, Tí, Mão, Dậu), thì Tử Vi không còn cứu được các họa hại nữa.
Tử Vi chủ về quan lộc, tiền tài, phúc đức, ở vào các cung mang tên đó và cung Mạng mới hay (nếu đất tốt).
Liêm Trinh là thứ sao võ tướng, chỉ công danh lớn, sự thẳng thắn, nóng nảy, sự liêm khiết. Đó là Liêm Trinh ở đất tốt và hợp Mạng. Liêm Trinh ở đất xấu, con người thành khắc nghiệt. Liêm Trinh cũng có đặc tánh như một thứ sao Đào Hoa, còn gọi là Đào Hoa thứ hai (nếu thủ Mạng).
Nếu Liêm Trinh ở đất xấu, thì chủ về sự kiện cáo, tù tội (như người mà Mạng có Liêm, Tham ở Tị, Hợi, thời cuộc đời thường bị tù hay bị kiện cáo). Liêm Trinh, dù có ở đất tốt mà gặp Xương, Quan, Phủ đồng cung, cũng có ảnh hưởng đó. Nếu ở đất xấu, lại thêm Kị, Hình và sát tinh (Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh) thì Liêm Trinh còn tác hại mạnh.
Liêm Trinh chủ về quan lộc, ở Mạng và Quan Lộc và có đất tốt, mới hay, chứ ở các cung khác như Tài Bạch, chẳng giúp ích gì).
Chủ về Phúc, Thọ, nên ở Phúc Đức, Mạng, mới hay, ở các cung khác kém hay.
Người có Thiên Đồng tại đất tốt là người trung hậu, từ thiện, vui vẻ, nhưng cũng hay canh cải hay thay đổi. Nếu Thiên Đồng tại Mạng mà bị đất xấu, con người cũng hay canh cải, thay đổi, hay gặp chuyện kiện cáo, thị phi bực mình, nhưng bản chất cũng nhân hậu.
Chủ về công danh và tài lộc, nên ở cung Mạng, Thân và Tài Bạch, Điền Trạch, lại được đất tốt, là tốt. Ở các cung khác kém hay, không đúng cung.
Người được Vũ Khúc tại Mạng, nơi đất tốt, là người cương nghị, có công danh, có tài lộc. Nhưng nếu Vũ Khúc ở hãm địa, thì con người lại tham lam, ương ngạnh, hay thất tài.
Vũ Khúc là sao mạnh, nên không sợ các sát tinh phá. Có gặp các sát tinh đồng cung, Vũ Khúc cũng át đi được. (Sát tinh là Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh).
Tức là mặt trời. Sao này chủ về quan lộc, công danh. Về phần Mặt trời, lại còn thêm yếu tố giờ giấc. Như người Mạng có Thái Dương, mà sanh ban ngày (tức là giờ có mặt trời trên bầu trời) là tốt đẹp.
Có Thái Dương tại Mạng, ở đất tốt, là người thông minh, nhân hậu, có công danh, có tài lộc, có uy quyền. Ở đất xấu kém thông minh, ít uy quyền, nhưng cũng nhân hậu.
Thái Dương gặp Đào, Hồng, Hỉ hay Hỏa, Linh đắc địa càng tốt hơn. Thái Dương gặp Riêu, Đà, Kị, hoặc Kình, Không Kiếp thì giảm đi. Ở Miếu địa gặp Tuần Triệt thì bị chế bớt. Nhưng nếu Thái Dương ở hãm địa gặp Tuần, Triệt lại tốt thêm. Thái Dương có thêm Kị (biểu tượng mây che), không khác nào mặt trời thêm mây ngũ sắc, càng tốt hơn.
Mạng của đàn bà mà có Thái Dương thì kém hơn.
Đây là sao Thiện, chủ về phúc thọ và huynh đệ. Được Thiên Cơ tại Mạng ở đất tốt, là người khéo léo, có mưu lược, từ thiện, nhân hậu. Nhưng hãm địa, các đức tánh trên kém đi.
Là tài tinh và quyền tinh, cũng có khả năng cứu giải khỏi các tai nạn, bệnh tật nếu ở đất tốt và không bị tiết giảm.
Ở đất tốt, Phủ làm cho Mạng thêm quyền lộc, làm cho bản chất con người từ thiện, nhân hậu.
Gặp những sao Kình, Đà, Hỏa, Linh, không sợ. Nhưng gặp Tuần, Triệt ngay tại cung đó và Không, Kiếp, Thiên Không thì bị ngăn trở nặng, lại bị ảnh hưởng xấu.
Được Thiên Phủ ở Tài Bạch mà không bị các cách xấu ngăn trở thì giầu to.
Chủ về công danh cũng như về điền trạch, tài sản, thiên về tài sản nhiều hơn.
Thái Âm là mặt trăng, nếu người sanh ban đêm thì tốt hơn, nhất là những người sanh từ 1 đến 15 (trăng thượng huyền).
Gặp Đào, Hồng, Hỉ, tốt.
Gặp Kị đồng cung: tốt hơn (thêm mây ngũ sắc).
Gặp Riêu, Đà, Kị hay Kình, Không, Kiếp, bị cản trở.
Ở đất tốt miếu địa mà gặp Tuần, Triệt thì bị che lấp, xấu.
Ở đắc địa, thêm Tuần Triệt lại tốt lên.
Hãm địa, gặp Tuần Triệt, sáng lên.
Mạng có Thái Âm thì con người khoan hòa, từ thiện, và có nhiều may mắn, nhiều tài sản. Nhưng phải ở đất tốt. Nếu Thái Âm ở đất xấu, cũng nhân hậu nhưng suy bại.
Được Thái Âm tốt ở Điền Trạch, Tài Bạch là tốt.
Tham Lang là sao chủ về uy quyền và họa phúc, vừa là hung tinh vừa là dâm tinh. Cho nên người gặp Tham Lang đất tốt tại Mạng, thì có uy quyền, tài lộc, thọ, nhưng thích sắc dục, nếu không có cách kiềm chế. Nếu Tham Lang hãm địa thì dâm tham vô độ và quyền thế giảm kém.
Cự Môn chủ về các tai nạn thị phi, công môn; nhưng được những cách tốt thì cũng có công danh tiền bạc.
Ở đất tốt, Cự Môn tại Mạng làm cho có uy quyền, tài, lộc, làm cho thuần hậu, vui vẻ. Ở đất xấu, Cự Môn làm cho kém sáng, thành gian trá, hay có chuyện thị phu, kiện cáo.
Tại Tý-Ngọ, Cự Môn là ngọc quý giấu trong đá, cần có song Hao, hay Tuần, Triệt đồng cung, hoặc Hóa Lộc, thì mới phá vỡ được đá làm cho giầu có.
Cự Môn hãm địa hay có tai họa, nhưng gặp Hóa Khoa đồng cung lại chẳng có gì đáng sợ.
Tướng nhà trời dũng mãnh, chủ về uy quyền, tài lộc, và phúc thiện.
Tại Mạng, ở đất hay đất xấu, đều làm cho con người uy dũng có uy quyền; có tài lộc, nhân hậu, nhưng dễ đam mê.
Đi với Liêm Trinh, trừ được tánh xấu của Liêm.
Sao Thiên Tướng không sợ các sát tinh (Hỏa, Linh, Không Kiếp). Các sao này không giảm chế được Thiên Tướng, nhất là Thiên Tướng ở đất tốt. Trái lại Thiên Tướng ngộ Kình lại hay gây tai họa. Thiên Tướng ngộ Triệt, Tuần cũng không hay, ở Quan Lộc làm công danh gián đoạn, ở Mạng thì mất quyền và làm cho họa hại.
Thiên Lương chủ về sự hiền hòa, phúc thọ. Người được Thiên Lương đất tốt tại mạng, là người hiền lành, nhân hậu, biết quyền biến, tránh được các tai họa. Nhưng ở đất xấu, Thiên Lương vẫn làm cho con người hiền lành nhưng hay nhầm lẫn, đổi thay bất thường.
Là quyền tinh dũng tinh, chủ về uy lực và sự sát phạt. Tại Mạng, ở đất tốt là người có uy quyền, dũng mãnh, nóng nảy. Ở đất xấu thì hung bạo, hay bị tai họa. Nếu Thất Sát gặp Kình đồng cung thì hay có những họa lớn.
Phá Quân là hung tinh, chủ về quyền uy, nếu ở đất tốt tại Mạng thì thêm tánh can đảm và gian hiểm. Ở hãm địa, thì hung bạo, gian ác, sẵn sàng hại người và hay bị tai họa.
Phá Quân tại Mạng ở Thìn Tuất, con người dũng mãnh mà không tình nghĩa.
Gặp Hao, Phá Quân càng tác hại
Được thêm Lương, Hỉ, Lộc thì Phá Quân bị chế ngự về các ảnh hưởng xấu.
(Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí)
Hàng năm, vào ngày 23 tháng Chạp (Âm lịch) các gia đình thường làm cơm cúng, tiễn đưa Táo quân về trời. Tục lệ này đã có từ xa xưa dựa theo những truyền thuyết được dân gian lưu truyền. Táo Quân có nguồn gốc từ 3 vị thần: Thần Đất, thần Nhà và thần Bếp. Vì sao ngày 23 tháng Chạp lại cúng Táo quân, cùng tìm hiểu nhé!
Sự tích ông Công ông Táo kể rằng ngày xưa có hai vợ chồng rất nghèo khổ, người chồng tên là Trọng Cao, người vợ tên là Thị Nhi. Hai người lấy nhau đã lâu mà không có con, chính vì vậy cuộc sống hai vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, tranh cãi.![]() |
Trọng Cao hành khất tới xin nhà giàu - gặp lại Thị Nhi |
![]() |
Phạm Lang đốt rơm vô tình thiêu cháy Trọng Cao |
![]() |
3 người được phong làm Táo Quân |
► Mời các bạn: Xem lịch âm và giờ hoàng đạo chuẩn xác tại Lichngaytot.com |
=> Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
![]() |
![]() |
![]() |
Tên sao | Đẩu phận | Âm dương | Hóa | Chủ | Công năng | Tứ hóa |
Tử vi | Bắc đẩu - Đế tọa | Âm thổ | Tôn quý | QUan lộc | Giải ách, tuổi thọ, chế hóa | Ất: khoa - Nhâm: Quyền |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Tử Vi là âm Thổ, Thuộc hệ thống bắc đẩu đế tọa, là một bộ phận quan trọng của các sao, hóa khí là tôn quý, làm chủ cung quan lộc. Trong số chuyên quản về tước lộc, có khả năng giải ách (tiêu trừ tai ách, biến hung thành cát), tuổi thọ (trong hạn mà gặp sao tử Vi, có thể giữ được bình an), chế hóa (có công năng để chế phục và giải hóa hung tính của các sát tinh), có sức bao dung, che chở, ở các cung đều có thể dáng phúc tiêu tai.
Sao Tử Vi là sao đế tinh, địa vị tôn quý, nhưng lại không thích đứng một mình, khi bị đứng một mình chẳng khác gì một vi vua bị cô độc, thiếu hiền thần phụ tá, dễ trở nên độc đoán chuyên quyền, khiến gian thần tiểu nhân thừa cơ, kẻ dưới phạm thượng, khó phát huy được uy nghiêm, mà rơi vào đơn độc, mang tâm trạng có trí mà khó thực hiện, và hay dùng kiến giải nghiệp dư để chỉ đạo người chuyên nghiệp.
Sao Tử Vi ưa gặp sao Tả Phù, Hữu Bật làm phò tá; gặp Thiên Tướng, Văn Xương, Vũ Khúc làm bộ tòng; gặp Thiên Khôi và Thiên Việt làm kẻ truyền lệnh; gặp Thái Dương và Thái Âm làm các ti; gặp Thiên Phủ làm thủ khố, chủ kho hàng. Nếu được các sao cát tinh này đồng cung hay tam hợp chiếu thì gọi là cách cục "Quân thần khánh hội", một cách rất tốt. Uy lực của sao Tử Vi có thể khống chế được các sao hỏa tinh, Linh Tinh thành thiện, có thể giáng Thất Sát thành chủ về quyền lực. Sao Tử Vi mà gặp hung tinh, tuy hóa cát nhưng vô đạo.
Sao Tử Vi nằm tại cung Ly "Ngọ", không bị sát tinh xung phá, là cách "Cực hướng li minh", địa phú quý đến hàng công khanh. Hai đế tinh Tử Vi và Thiên Phủ nếu đồng cung hoặc ở đối cung đến chầu chiếu cung mệnh, tam phương tứ chính lại gặp cát tinh, là cách cục "Tử phủ triều viên", tước lộc dồi dào.
Ca quyết:
Tử Vi nguyên thuộc Thổ; quan lộc cung chính tinh;
Hữu tướng vi hữu dụng; vô tướng vi cô quân;
Chư cung giai giáng phúc; phù hung phúc tự thân;
Văn Xương phát khoa giáp; Văn Khúc thụ hoàng ân;
Tăng đạo hữu sư hiệu; khoái lạc độ xuân thu;
Chúng tinh giai vây chiếu; vi lại hiệp công bình;
Nữ nhân hội Đế Tọa; ngộ cát sự quý nhân;
Nhược dữ Đào Hoa hội; Phiêu đãng lạc phong trần;
Kình Dương Hỏa Linh tụ; thử thiết cẩu thâu quân;
Tam phương hữu cát củng; phương tác quý nhân luận;
Nhược hoàn vô phụ bật; Chư ác cộng khi lăng;
Đế vi vô đảo chủ; khảo cứu yếu tri nhân;
Nghĩa là:
Tử Vi vốn thuộc thổ; làm chính tinh cung quan lộc;
Có tướng thì hữu dụng; không tướng là vua côi;
Mọi cung đều giáng phúc; gặp hung phúc sự tinh;
Văn Xương lợi khoa giáp; Văn Khúc lợi ơn vua;
Tăng, đạo có chân sư; vui vẻ qua năm tháng;
Các sao đều đến chầu, làm quan rất công bình;
Nữ nhân gặp Đế Tọa; gặp quý nhân mà nên duyên;
Nếu gặp gỡ Đào Hoa; Phiêu bạt chốn phong trần;
Gặp Kình Dương, Linh, Hỏa; Thảy là phường trộm cắp;
Ba phương cát tinh chiếu; mới luận là quý nhân;
Nếu không gặp Phụ, Bật; bị kẻ ác khinh nhờn;
Vua thành kẻ vô đạo; phải xét rõ nguyên nhân.
Tháng Hai
Người xưa có câu "gái tháng Hai, trai tháng Tám", con gái sinh tháng Hai được xem là được mùa sinh, cuộc sống sẽ thuận buồm xuôi gió. Không những thế, họ còn biết cách chăm lo cho gia đình, luôn là hậu phương vững chắc cho chồng, giúp chồng không ngừng thăng tiến trong sự nghiệp.
Tháng Tư
Tháng Tư là thời điểm cuối xuân, đầu hạ - cây cối căng tràn nhựa sống, vạn vật sinh sôi - mùa đẹp nhất trong năm. Con gái sinh vào tháng này thường thông minh, dịu dàng mà quyết đoán. Khi trưởng thành, họ năng nổ, hoạt bát, luôn sát cánh bên chồng để cùng nhau lập nghiệp làm giàu. Họ cũng rất được chồng cưng chiều, và có cuộc sống sung túc, hạnh phúc. Có thể nói, ai lấy được cô nàng tháng Tư, người ấy thật may mắn ^^.
![]() |
Tháng Tám
Tháng Tám, thời tiết vào thu, không khí trong lành mát mẻ, nên những cô gái sinh thời điểm này, tính cách khá dễ chịu, ôn hòa và ít khi giận dỗi. Sau khi kết hôn, cuộc sống của họ như bước sang trang mới với nhiều may mắn. Họ cũng rất giỏi tiết kiệm, biết cách chi tiêu nên gia đình không bao giờ phải rơi vào cảnh túng thiếu.
Tháng Chín
Những cô nàng tháng Chín thường có tính cách lạc quan, yêu đời, đáng tin cậy. Họ giỏi giang, kiến thức uyên sâu, nên được xem là trợ thủ đắc lực cho chồng, giúp chồng ngày một tiến xa, gia đình khá giả, cuộc sống viên mãn.
Tháng Mười Một
Những cô nàng sinh tháng Mười Một luôn có cá tính mạnh, thông minh, sắc sảo. Mặc dù họ không trực tiếp tham gia vào công cuộc kiếm tiền, nhưng ai lấy được họ, sẽ giống như con diều gặp gió, phất lên trông thấy.
Maruko (theo d1xz)
Để tránh hiện tượng 3 cửa thẳng khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá. |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Lịch trong xã hội xưa:
Lịch giữ một vị trí đặc biệt trong quan niệm của người á đông thời xưa, ở Trung Hoa lịch được xem là lệnh trời bày cho dân để theo đó mà làm nông vụ cũng như tế lễ, còn vua là thiên tử, thay trời trị vì thiên hạ và hàng năm ban lịch cho thần dân và các nước phiên bang. ở Việt Nam mỗi năm lễ ban lịch gọi là Ban Sóc cũng được tổ chức rất long trọng có nhà vua và hàng trăm văn võ bá quan tham dự. Các cơ quan làm lịch ở nước ta trước đây rất quy củ, Thời Lý có Lầu chính Dương, Thời Trần có Thái sử Cục, thời Lê có Thái Sử Viện, thời Lê Trung Hưng có Tư Thiên Giám, thời Nguyễn có Khâm Thiên Giám…Các cơ quan này không chỉ làm lịch mà còn "Coi các việc": suy lượng độ số của trời, làm lịch, báo thời tiết, như thấy việc tai dị hay điềm lành, được suy luận làm khải trình lên’
Trích từ Nguyên sử và Đại việt sử ký toàn thư” thì vào thời trần (1301), Đặng Nhữ Lâm khi đi sứ sang Nguyên đã bí mật vẽ đại đồ Cung Uyển, thành Bắc Kinh, mang sách cấm về, sự việc lộ ra và bị vua Nguyên trách cứ. Có thể trong các sách cấm đó có thư tịch về lịch pháp nên sau này con cháu ông là đặng Lộ ra làm quan Thái sử cục lệnh Nghi hậu lang đã chế ra Lung linh nghi để khảo sát hiên tượng tỏ ra rất đúng và vào năm 1339 đặng Lộ trình vua Trần Hiến Tông xin đổi lịch thụ thời sang lịch Hiệp kỷ đã được vua chấp thuận.
Như vậy các cơ quan làm lịch bao gồm cả chức năng dự báo thời tiết, thiên văn và chiêm tinh học. Tuy nhiên, hiện nay tư liệu về lịch Việt Nam còn lại rất ít nguyên nhân một phần do khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chiến tranh liên miên tàn phá, một phần do lịch pháp gần như là một thứ bí thuật không phổ biến, cộng với việc khoa học nhất là khoa học tự nhiên không được chú trọng phát triển trong thời phong kiến. Điều này gây trở ngại cho việc tìm hiểu về lịch Việt Nam trong quá khứ và đó cũng là lý do khiến các nghiên cứu về lịch ở nước ta rất hiếm hoi.
Các nhân vật nổi tiếng trong lịch pháp thời xưa có Đặng Lộ, Trần Nguyên Đán vào cuối thời Trần (1325-1390) và Trần Hữu Thận (1754-1831), Nguyễn Hữu Hồ (1783-1844) ở thời Nguyễn … Trần Nguyên Đán là người thông hiểu thiên văn , lịch pháp và đã viết sách Bách thế Thông kỷ tiếc rằng đến nay không còn, ông chính là cháu tằng tôn Trần Quang Khải là ngoại tổ Nguyễn Trãi.
Liên quan đến nguồn sử liệu còn có các cuốn lịch cổ đáng chú ý sau: Khâm định vạn niên thư (lưu trữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) in lịch từ năm 1544 đến năm 1903, trong đó các năm từ 1850 trở đi là lịch dự soạn cho thời gian tới, Bách Trúng kinh ( lưu giữ tại Viện hán nôm) in lịch thời Lê Trung HƯng ( Lê - Trịnh) từ năm 1624 đến năm 1785, Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (lưu giữ tại Viện hán nôm ) in lịch từ năm 1740 đến năm 1883, ngoài ra còn cuốn Bách trúng kinh khác thấy ở Hà nội năm 1944, sách này chép lịch từ năm 1624 đến năm 1799 nhưng nay không còn.
Lịch Việt cổ và nguồn gốc Lịch Âm Dương Á Đông:
Lịch âm Dương Á Đông mà Trung Quốc và Việt Nam đang sử dụng hiện nay được xem là lịch nhà Hạ (2140 trước c.n -1711 trước c.n , tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng Lịch Âm Dương là kết quả của sự giao thoa văn hoá giữa hai vùng Hoa Bắc và Hoa NAm của Bách Việt hay Việt cổ. Vùng Hoa Bắc trồng kê mạch và chăn nuôi còn vùng hoa Nam tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước. Lịch với chức năng chính là phục vụ nông nghiệp (tục gọi là lịch nhà nông) nên phải phù hợp với thời tiết khí hậu của vùng hoa Nam là vựa thóc chính của trung Hoa. Mặt khác sử sách cũng ghi lại một số tư liệu về sự tồn tại lịch của người Việt cổ như truyền thuyết về lịch rùa mà Việt Thường thị khi sang chầu đã dâng lên vua Nghiêu đời Đào đường ( Sách Việt sử thông giám cương mục) hoặc theo thư của Hoài Nam Vương Lưu An gửi vua nhà Hán (Thế kỷ 2 trước c.n) thì “ từ thời Tam đại thịnh trị đất Hồ đất Việt không tuân theo lịch của Trung Quốc” (Đại việt sử ký toàn thư).Ngoài ra cũng có những bằng cớ chứng tỏ là từ lâu trước thời kỳ Bắc thuộc cư dân nước Văn Lang đã sử dụng một thứ lịch riêng, chẳng hạn các tư liệu về lịch của dân tộc Mường và nhứng điều được miêu tả trong Đại Nam thống nhất chí: “ Thổ dân ở huyện Bất Bạt và Mỹ Lương, hàng năm lấy tháng 11 làm đầu năm, hàng tháng lấy ngày 2 làm đầu tháng, gọi là ngày lui tháng tiến, lại gọi là ngày nội, dùng trong dân gian, còn ngày quan lịch, thì gọi là ngày ngoại, chỉ dùng khi có việc quan”.
Lịch Việt Nam trong các giai đoạn khác nhau
Các sự kiện lịch sử ở nước ta vốn được ghi chép theo theo Lịch âm Dương Á Đông và để có một niên biểu lịch sử chính xác cần biết rõ loại lịch nào đã được sử dụng trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. tuỳ thuộc vào quan hệ bang giao giữa hai nước trong từng thời kỳ mà lịch Việt Nam có lúc trùng có lúc lại lại khác với lịch Trung Quốc. Mặt khác bản thân lịch Trung Quốc đã trải qua nhiều lần thay đổi, cải cách (tính từ Thế kỷ 14 trước c.n là năm bắt đầu xuất hiện đến nay riêng lịch Trung Quốc đã trải qua hơn 50 cải cách khác nhau), điều này làm cho việc so sánh đối chiếu niên đại lịch sử giữa hai nước thêm phức tạp. Các kết quả khảo cứu của Gs. Hoàng Xuân hãn và pgs. Lê Thành Lân cho biết:
Trong 1000 năm Bắc thuộc (từ khi Triệu Đà đánh bại nhà Thục và xâm chiếm nước ta đến lúc Đinh Bộ Lĩnh lập nên Đại Cồ Việt) lịch dùng chính thức ở nước ta là lịch Trung Quốc hoặc thuộc phần phía nam Trung Quốc bị phân chia (Việt sử ở thời kỳ này được ghi chép rất sơ sài gây khó khăn cho việc khảo cứu).Trong thời kỳ đầu của nền độc lập từ đời Đinh (969) đến hết thời Lý Thái Tông (1054) nước ta vẫn tiếp tục sử dụng lịch nhà Tống ( như lịch Ung Thiên hoặc lịch Sùng Thiên).
Từ đời Lý Thánh tông lên ngôi cuối năm 1054 Việt Nam có lẽ bắt đầu tự soạn lịch riêng, Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt, chấn hưng việc nhà nông, việc học. Lý Nhân Tông nối ngôi năm 1072 và 3 năm sau chiến tranh bùng nổ giữa Đại Việt và Tống ( Lý Thường Kiệt xuất quân đánh Tống đẻ ngăn chặn), bang giao gián đoạn giữa hai nước cho đến năm 1078,trong thời gian này chắc chắn nước ta đã dùng lịch riêng.
Các đời Lý và Trần từ 1080 đến năm 1399; lúc đầu nước ta dùng lịch được soạn theo phép lịch đời tống , sau chuyển sang sử dụng lịch Thụ Thời ( có từ năm 1281 đời Nguyên) và năm 1339 vua Trần Hiến Tông đổi tên lịch Thụ Thpì thành lịch Hiệp kỷ.
Năm 1401 nhà Hồ ( thay nhà Trần tè năm 1399 đổi lịch Hiệp kỷ sang lịch Thuận thiên, không rõ chỉ đổi tên hay phép làm lịch cũng thay đổi.
Năm 1407 nhà Hồ bị mất, nhà Minh đô hộ nước ta và dùng lịch Đại Thống ( nhà Minh lên thay nhà Nguyên năm 1368 và dến năm 1384 thì đổi tên lịch Thụ thời thành lịch Đại Thống, nhưng phép lịch vẫn như cũ. Năm 1428 nước ta được giải phóng nhưng triều Lê tiếp tục sử dụng phép lịch Đại thống cho đến năm 1644 và theo Gs. Hoàng Xuân hãn thì phép lịch này còn tiếp tục được sử dụng cho đến năm 1812 (Gia Long thứ 11 đời Nguyễn) mặc dù từ năm 1644 nhà Thanh đã thay thế nhà Minh và khoảng 3 năm sau thì chuyển sang dùng lịch Thời Hiến.
Gs. Hoàng Xuân hãn rút ra kết luận trên dựa vào sự phục tính lịch Đại Thống từ đời nhà Hồ đến năm 1812 và đem so sánh với quyển Bách trúng kinh do ông sưu tầm được, quyển này in lịch từ năm Lê Thần Tông Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) đến năm Tây Sơn Cảnh Thịnh thứ 7 (1799). Theo một số tư liệu thì vào thời Lê Trịnh( từ năm 1593 đến năm 1788) lịch nước ta có tên là lịch Khâm thụ và Gs. Hoàng Xuân Hãn đồ rằng tên này có từ đầu triều Lê, tên khác nhưng phép lịch có thể vẫn là phép lịch Đại thống nếu như kết quả phục tính của Gs. Hoàng Xuân Hãn ở trên là đúng. Nhà Mạc từ năm 1527-1592 nằm trong khoảng thời gian giữa đầu triều Lê và thời Lê- Trịnh có lễ đã dùng lịch Đại thống do nhà MInh phát hành ít nhất cũng là từ năm 1540.
Về giai đọan từ thời Lê - Trịnh đến năm 1802 có một số ý kiến khác:
Qua khảo cứu cuốn Khâm định vạn niên thư (hiện lưu giữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) Pgs. Lê Thành Lân cho biết trong vòng 100 năm từ năm Giáp thìn 1544 đến năm 1643 lịch Việt Nam và Trung Quốc khác nhau 12 lần, trong đó có 11 ngày Sóc , 1 ngày nhuận và tết. Điều này khác với nhận định của Gs. Hoàng Xuân hãn cho rằng trước năm 1644 vào thời Lê Trinh lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc cùng dùng theo phép lịch Đại thống nên Giống nhau. Cũng theo Pgs. Lê Thành Lân từ năm Tân Mùi (1631)đến năm Tân Dậu (1801)lịch ở đàng trong trong cuốn Khâm Định vạn niên thư khác với lịch Trung Quốc 92 lần. lịch ở đàng trong tồn tại song hành với lịch Lê- Trịnh (hai lịch khác nhau 45 lần) và lịch Tây Sơn ( hai lịch khác nha 5 lần), mặt khác lịch thời Tây Sơn từ năm Kỷ dậu (1789) đến năm Tân Dậu (1801) khác với lịch nhà Thanh nhưng chưa có sử liệu chứng minh điều này. Lịch đàng trong lúc này có tên là lịch Vạn Toàn (hay Vạn Tuyền, phải đổi tên kị huý).
Từ năm 1813 đến năm 1945: Nhà Nguyễn dùng phép lịch thời Hiến ( giống như nhà Thanh)và gọi là lịch Hiệp Kỷ. Sau khi Pháp cai trị nước ta họ cũng lập các bảng đối chiếu Lịch Dương với Lịch âm Dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhã Nguyễn vẫn soạn và ban lịch của mình ở Trung Kỳ.
Việc chuyển sang dùng phép lịch thời Hiến là do công của Nguyễn Hữu Thuận, khi đi sứ sang Trung Quốc ông đã mang về bộ sách có tên là lịch tượng khảo thành và dâng lên vua Gia Long, sau đó vua sai Khâm Thiên Giám dựa vào đấy để soạn lịch mới. Bộ sách về thiên văn và lịch pháp này do vua Khang Hy sai các lịch quan Trung Hoa cùng với các giáo sỹ Tây phương kết hợp biên soạn và vua Ung Chính sai đem khắc vào năm 1723. Vào tháng chạp năm 1812 lịch Vạn Toàn được đổi tên thành Hiệp Kỷ.
Từ năm 1946 đến năm 1967: Trong giai đọan này Việt Nam không biên soạn Lịch âm Dương mà các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.
Từ năm 1968 đến năm 2010: vào năm 1967 Nha khí tượng công bố Lịch âm Dương Việt Nam soạn theo múi giờ 7 cho các năm từ 1968 đến năm 2000 (Sách lịch Thế kỷ XX). Trước đó vào năm 1959 Trung Quốc cũng công bố Lịch âm Dương mới soạn theo múi giờ 8. Sau đó BAn lịch do K.s Nguyễn Mậu Tùng phụ trách tiếp tục biên soạn l Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010 in trong cuốn lịch n 1901-2010 (xuất bản năm 1992).
(Tổ biên soạn Nha khí tượng được chuẩn bị Thành lập từ năm 1959 dưới sự chỉ đạo cuẩ Gs. Nguyễn Xiển là giám đốc Nha khí tượng. Tổ làm nhiệm vụ quản lý lịch nhà nước và biên soạn, dịch thuật lịch Thiên văn Hàng hải cung cấp cho Hải quân. Đến năm 1967 tổ soạn được 33 năm Âm lịch, thi hành ở miền Bắc từ 1968. Lịch Thiên văn Hàng hải xuất bản đến năm 1989,1990 thì kết thúc. Năm 1979 theo quyết định của Chính Phủ, phòng Vật lý khí quyển và Thiên văn cùng bộ phận tính lịch chuyển từ tổng cục Khí tượng thuỷ văn sang viện khoa học Việt Nam. Bộ phận quản lý lịch nhà nước được đặt trụ sở thuộc Uỷ ban nghiên cứu vũ trụ Việt Nam. Trong các năm từ 1968-1992 Ban lịch đã soạn thêm được một số năm Âm lịch và kết quả thành bảng lịch Việt Nam (1901-2010). từ năm 1993-1997 do thay đổi về tổ chức hành chính (Uỷ ban vũ trụ giải tán ) nên Ban lịch (thực tế chỉ còn một vài người) chuyển về văn phòng thuộc trung tâm KHTN&CNQG. Ngày 16/4/1998 Giám đốc Trung tâm KHTN&CNQG (gọi tắt là ban lịch nhà nước) trực thuộc Trung tâm thông tin Tư liệu.)
Để thống nhất việc tính giờ và tính lịch dùng trong các cơ quan nhà nước và giao dịch dân sự trong xã hội, ngày 8-8-1967 chính phủ đã ra quyết định số 121/CP do cố thủ tướng Phạm Văn Đồng ký (ngày 14-10-2002 Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã ký quyết định số 134/2002/QĐ-TTg sửa một vài câu chữ trong Điều 1 của QĐ 121/Cp cho chính xác hơn nhưng về cơ bản tinh thần của QĐ 121/CP không có gì thay đổi). Theo QĐ 121/Cp giờ chính thức của nước ta là múi giờ thứ 7 bên cạnh Dương lịch (lịch Gregorius) được dùng trong các cơ quan với nhân dân thì Âm lịch vẫn dùng để tính năm tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ tết cổ truyền. QĐ 121/Cp cũng nêu rõ Âm lịch dùng ở Việt Nam là Âm lịch được tính theo giờ chính thức của nước ta chư Chỉ thị số 354/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thông tư liên bộ số 88-TT/LB ngày 23-11-1970 của Bộ Văn Hoá và Nha Khí tượng, Quyết định 129-CP ngày 26-3-1979 của Hội đồng Chính phủ…
Những thay đổi về giờ pháp định trong Thế kỷ 20 ở Việt Nam:
Mặc dù hầu hết đát liền nước ta nằm dọc theo múi giờ 7 (kinh tuyến 105 độ đông đi qua gần Hà Nội) nhưng trong Thế kỷ 20 này giờ pháp định của nước ta đã bị nhiều lần thay đổi) theo ý định của chính quyền thực dân và hà đương cục. sự biến động chính trị trong Thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến cho giờ pháp định trong cả nước hay từng miền bị thay đổi tới 10lần. Sau đây là các mốc thay đổi giờ pháp định trong 100 năm qua ở nước ta kể từ khi hình thành khái niệm này:
Ngày 1/7/1906
Khi xây dựng xong Đài thiên văn Phủ Liễn, Chính quyền Đông dương ra Nghị định ngày 9/6/1906 (Công báo Đông Dương ngày 18/6/1906)ấn định giờ pháp định cho tất cả các nước Đông Dương theo kinh tuyến đi qua Phủ Liễn (104°17’17” đông Paris) kể từ 0 giờ ngày 1/7/1906
Ngày 1/5/1911
Sau khi nước Pháp ký Hiệp ước quốc tế về múi giờ, theo nghị định ngày 6/4/1911 (Công báo Đông Dương ngày 13/4/1911-trang 803) quy định giờ mới lấy theo múi giờ 7 (tính từ kinh tuyến đi qua Greenwich) cho tất cả các nước Đông Dương bắt đầu từ 0 giờ ngày 1/5/1911.
Ngày 1/1/1943
Chính phủ Pháp ra nghị định ngày 23/12/1942 (Công báo Đông Dương ngày 30/12/1942)liên kết Đông Dương vào múi giờ 8 và do vậy đồng hồ được vặn nahnh lên 60 phút vào lúc 23 giờ ngày 31/12/1942.
Ngày 14/3/1945
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp và buộc các nước Đông Dương theo múi giờ của Tokyo (Nhật Bản) tức là múi giờ 9 nên giờ chính thức lại được vặn nhanh lên 1 giờ vào 23 giờ ngày 14/3/1945.
Ngày 2/9/1945
Sau cách mạng tháng Tám Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lấy múi giờ 7 làm giờ chính thức (Sắc lệnh số năm/SL Của Bộ nội vụ).
Ngày 1/4/1947
Theo nghị định ngày 28/3/1947 của chính quyền thực dân (Công báo Đông Dương ngày 14/10/1947) thì trong các vùng bị tạm chiếm ở Việt Nam, ở Lào và Campuchia giờ chính thức là múi giờ 8 kể từ ngày 1/4/1947. Tuy nhiên trong các vùng giải phóng vẫn giữ múi giờ 7 và sau Hiệp định giơnevơ các vùng giải phóng ở miền bắc cũng theo múi giờ 7 (Hà nội từ 10/1954 và Hải phòng cuối tháng 5/1955); riêng Lào trở lại múi giờ 7 vào ngày 15/4/1955.
Ngày 1/7/1955
Miền Nam Việt Nam trở lại múi giờ 7 từ 0 giờ ngày 1/7/1955.
Ngày 1/1/1960
Chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 362-TtP ngày 30/12/1959 quy định giờ chính thức của Nam Việt Nam là múi giờ 8, đồng hồ phải vặn nhanh lên 1 giờ kể từ 23 giờ đêm ngày 31/12/1959 (tức 0 giờ ngày 1/1/1960)
Ngày 31/12/1967
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Quyết đinh 121/CP ngày 8/8/1967 khẳng định giờ chính thức của nước ta là múi giờ 7 kể từ 0 giờ ngày 1/1/1968.
Ngày 13/6/1975
Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng, chính phủ cách mạng Lâm thời đã ra quyết định chính thức trở lại múi giờ 7 và giờ Sài Gòn được vặn chậm lại 1 giờ.
Sự tích suy nguyên về bánh chưng và bánh dày mà ngày nay chúng ta đều biết và xác tín là do Tiết Liêu/ Lang Liêu - một trong các người con của vua Hùng - làm ra là câu chuyện được ghi chép trong Lĩnh Nam Chích Quái (thế kỷ XV).
Truyện kể rằng: Sau khi vua Hùng Vương phá được giặc Ân, nhân quốc gia vô sự, muốn truyền ngôi cho con, bèn triệu hai mươi vị quan lang và công tử lại mà phán rằng: “Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay mang trân cam mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi”.
Thế là các con đều đua nhau đi tìm của ngon vật lạ khắp trên cạn dưới bể, nhiều không sao kể xiết. Duy có vị công tử thứ 18 là Tiết Liêu, bà mẹ trước kia vốn bị vua ghẻ lạnh, mắc bệnh mà chết, tả hữu ít người giúp đỡ, khó xoay xở, nên đêm ngày lo lắng, mộng mị bất an. Một đêm kia mộng thấy thần nhân tới nói rằng: “Các vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe mạnh và ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng hình đất và trời rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ”. Tiết Liêu tỉnh dậy, mừng rỡ mà nói rằng: “Thần nhân giúp ta vậy!”.
Nói rồi bèn theo lời dặn trong mộng mà làm, chọn thứ gạo nếp trắng tinh, lặt lấy những hạt tròn mẩy không bị vỡ, vo cho sạch, lấy lá xanh bọc chung quanh làm hình vuông, cho trân cam mỹ vị vào bên trong để tượng trưng cho việc đại địa chứa chất vạn vật rồi nấu chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy gạo nếp nấu chín, giã cho nát, nặn thành hình tròn, tượng trưng cho trời gọi là bánh dày.
Đến kỳ, vua vui vẻ truyền các con bày vật dâng tiến. Xem qua khắp lượt, thấy không thiếu thức gì. Duy có Tiết Liêu chỉ tiến dâng bánh chưng và bánh dày. Vua kinh ngạc mà hỏi, Tiết Liêu đem giấc mộng thuật lại. Vua đem nếm, thấy ngon miệng không chán, hơn hẳn các thức của các con khác, tấm tắc khen hồi lâu rồi cho Tiết Liêu được nhất.
Đến ngày Tết, vua lấy bánh này dâng cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt chước (1).
Câu chuyện này có một số chi tiết cần phải xem xét:
1. Trước hết, khái niệm “trời tròn đất vuông” vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc (2). Từ thế kỷ thứ X, An Nam dần dần thoát ly khỏi uy quyền phương Bắc, và đến triều Lý (1009-1225), nước Đại Việt mới thực sự là một quốc gia độc lập. Phật giáo được coi là quốc giáo, Tăng lữ tham gia vào hàng ngũ quan lại, và một số vị vua thời Lý, Trần đã tự mình đứng ra thành lập các tông phái, thiền phái (Lý Thánh Tông mở phái Thảo Đường, Lý Cao Tông tự xưng là Phật, Trần Nhân Tông là sơ Tổ Trúc Lâm yên Tử, được tôn là Điều Ngự Giác Hoàng). Tuy vậy, về mặt quản lý nhà nước, do tiếp nhận văn hoá phương Bắc, nước Đại Việt độc lập vẫn tổ chức theo quan niệm vương quyền Nho giáo. Ngoài các khái niệm Thiên Vương, Phật-Vua, vẫn còn thừa nhận khái niệm Thiên Tử (Ông vua Con Trời). Như vậy, vua vẫn phải lưu tâm đến việc tế cáo "Cha Trời, Mẹ Đất" cũng như phong thần các xứ (Thiên Tử phong bách thần) để tỏ rõ uy quyền với các thần linh trong nước. Đàn Xã Tắc lập năm 1048 và đàn Viên Khâu (Gò đất hình tròn, theo nguyên tắc đàn xây ở phía Nam kinh thành để tế trời, gọi là đàn Nam Giao), đàn Vu ở phía Nam kinh thành được nhắc tới vào các năm 1137-1138 (3). Nói chung, việc tế Trời-Đất đến thời Lê mới thực sự hoàn bị theo nghi lễ Nho giáo. Song kể từ thế kỷ XI, việc dựng đàn tròn, đàn vuông để tế "Cha Trời, Mẹ Đất" đã cho thấy khái niệm “trời tròn đất vuông” đã tồn tại trong nếp nghĩ của người dân nước ta từ lâu
2. Các tác giả Lĩnh Nam Chích Quái sau đó đã khuôn công năng của hai loại bánh này vào việc cúng tổ tiên, tôn vinh chuẩn mực hiếu đạo, một giá trị luân lý cốt lõi của Nho giáo; để vua Hùng nói: “Tiến cúng tiên vương cho ta tròn đạo hiếu”, và cuối truyện xác định: “Đến ngày Tết vua lấy bánh này dâng cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt chước…”. Tục cúng bánh chưng, bánh dày vào ngày Tết được mô tả từ câu truyện này, về sau được xác tín là tập tục ra đời từ thời Hùng Vương.
Nhưng Tết, xét từ nguyên uỷ là lễ thức, lễ hội được tiến hành sau mùa gặt hàng năm hay bắt đầu mùa gieo cấy. Thời điểm này tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và tập quán canh tác của mỗi tộc người. Tết như vậy có chức năng kép: tạ ơn thần linh và tổ tiên về kết quả vụ mùa đã qua và cầu mong kết quả cho vụ mùa năm tới. Nói chung, các cư dân nông nghiệp luôn tiến hành một loạt nghi lễ theo các tiến trình phát triển của cây lúa. Với những lễ vật tương ứng.
- Lúa vừa chín tới: lễ cúng ăn cốm.
- Lúa chín gặt: lễ cúng cơm mới.
- Gặt xong đưa vào kho: lễ mừng lúa mới, với lễ vật là các thứ chế biến từ gạo tẻ và nếp như: cơm, xôi, bánh…
Cốm là lễ vật phổ biến trong lễ cúng mừng lúa lúc đã cứng hạt. Cốm là sản phẩm chế biến bằng cách rang lúa nếp, giã cho dẹp lại và sàng sảy để bỏ trấu đi. Dữ liệu của nhà dân tộc học Từ Chi viết về loại cơm chul (cơm chùn), lễ vật trong dịp Ăn cơm mới của người Mường, tuồng như đã hé mở cho chúng ta biết về nguyên ủy của cốm: lúa gặt về còn ướt sũng, không có thời gian phơi khô, mới được làm thành lễ vật dâng cúng ngay để mọi người bắt tay vào gặt. Chỉ còn một cách là đem “rang” (có hạt bung ra) rồi giã nhẹ để tách vỏ. Gạo đó chế thành cơm chul (4). Lúa nếp rang nở bung ra mà người miền Bắc gọi là bỏng thì ở Trung Bộ (kể cả Nam Bộ) gọi là nổ. Bánh nổ là lễ vật truyền thống vào dịp Tết ở Trung Bộ, và nổ là lễ vật bắt buộc trong nhiều đám cúng việc lề ở Nam Bộ. Phải chăng đó là di duệ của cốm, và xa xưa hơn là cơm chul?
Cơm là lễ vật bắt buộc trong lễ cúng cơm mới của nhiều tộc người, và cũng là lễ vật của nhiều lễ cúng khác. Tuy nhiên, vì sự bình dị của nó mà cơm không được người ta coi là lễ vật thực sự như xôi. Rõ ràng trong nếp nghĩ phổ biến của nhiều tộc người, xôi là lễ vật bởi nó phải có trong các cuộc lễ mà hiếm hoi trong bữa ăn thường ngày. Gạo nếp quý hiếm hơn gạo tẻ, và vì có hương thơm nên được chọn làm lễ vật dâng cúng. Nói chung, gạo là thức ăn chính của con người nên nó có ý nghĩa thuộc về nghi lễ. Lúa gạo luôn được coi là có nguồn gốc thiêng liêng, là hạt ngọc trời; nó biểu trưng cho sự sung túc, sự sinh sản dồi dào, nhờ trời mới có và sự thanh khiết nguyên sơ. Người Thái đồ, nấu xôi có nhuộm màu: xôi đỏ tượng trưng cho Mặt Trời, xôi vàng tượng trưng cho Mặt Trăng (Tết Cầu mùa: Xíp Xì)(5). Người Nùng làm xôi bảy màu để “tượng trưng cho chặng đường lịch sử bảy tháng đầy ý nghĩa trong một năm đất trời xoay chuyển, nhưng gắn liền với lịch sử dân tộc” (mỗi màu tượng trưng một tháng, từ tháng Giêng đến tháng Bảy)(6). Cơm cúng đơm vào chén, bát, thậm chí còn nèn, gọi “chén cơm in”. Còn xôi đơm ra đĩa hay mâm, phổ biến từ “mâm xôi”, luôn gợi cho ta hình ảnh của một sự vun cao lên tròn trịa và sung mãn, biểu thị cho sự phồn thực.
Từ xôi đến bánh dày chỉ là một bước ngắn: lấy xôi nếp giã nát ra và vun lên thành mâm bánh dày. Loại bánh làm bằng nếp như vậy vẫn là lễ vật “thanh khiết nguyên sơ” như xôi. Với người Chăm, lễ vật trong Tết Rija Nưga của họ có xôi, bỏng (nổ) và bánh đúc(7). Với người Dao, trong Tết nhảy của họ có lễ vật không thể thiếu là bánh bằng bột gạo nắn tròn, treo tòng teng trên những cây mía đặt ở gian giữa bàn thờ Bàn Vương(8). Đó là hai ví dụ về hai loại bánh “tròn đầy”, thuộc thứ lễ vật được chế biến bằng bột gạo có phần kỳ công hơn bánh dày. Bánh dày không chỉ là đặc sản của người Việt, mà nó còn là thứ lễ vật bắt buộc, đã thành tục lệ trong văn hóa của nhiều tộc người. Tết của người H'mông là một ví dụ: “Bánh dày là hương vị không thể thiếu, một biểu tượng trên bàn thờ tổ tiên trong ngày Tết của người H'mông”(9). Ở người H'mông Hang Kia, Pà Cò cũng có truyền thuyết suy nguyên về bánh dày của dân tộc mình. Nội dung truyền thuyết hoàn toàn khác với sự tích bánh chưng bánh dày của người Việt, mà chủ ý là nói về nguồn gốc lúa nếp: ông Tổ người Hmông lấy được từ xứ sở của người tí hon dưới lòng đất, và hàng năm, người Hmông làm bánh dày để tưởng nhớ tổ tiên và tạ ơn con chim đại bàng đã cứu ông Tổ mình ngày xưa(10). Một tập tục liên quan đến loại bánh dày này là trong mấy ngày đầu năm phải ăn bánh dày trắng, tuyệt đối không được nướng bánh dày. Nếu nướng, người H'mông cho rằng năm đó nương rẫy sẽ bị hạn hán(11). Điều này cho chúng ta thấy: bánh dày theo quan niệm của người H'mông là biểu thị nương rẫy, là đất, nói rộng ra là “không gian sinh tồn” .
3. Nói chung, bánh dày là một lễ vật được hình thành trong một quá trình nhất định, khuôn theo một tâm thức thuần khiết từ quan niệm thiêng về gạo (tẻ và nếp) của cộng đồng các cư dân trồng / tỉa lúa. Nó vừa là nhân vừa là quả của nền văn hóa lúa; ở đó, nó là biểu tượng của tín lý phồn thực hơn là tín lý tư biện về vũ trụ. Điều này cũng có phần tương tự đối với cái bánh chưng.
Tu không cần đi chùa nhiều, đọc kinh nhiều, ăn chay giỏi, làm công quả chuyên cần, xây chùa cất miếu…nếu làm được những điều này thì tốt. Nhưng vấn đề chính yếu của tu là thấu hiểu và “quyết tâm” ứng dụng những điều Phật dạy vô đời sống hằng ngày của mình.
Lâu không gặp tôi ở mấy đám tiệc tùng, nhảy nhót, ca hát bạn bè hỏi thăm tôi đi đâu mà vắng bóng lâu vậy? Tôi trả lời: “Đi chùa, bây giờ tôi tu rồi!”.
Nghe tôi trả lời như vậy bạn bè thất vọng kêu trời “Đời sống ba vạn sáu ngàn ngày có là mấy, sao đang làm ăn thành công như vậy mà lại bỏ ngang, lo tu?”. Mấy người trong bàn tiệc bắt đầu xoay qua đề tài “Tu và Đạo Phật”. Người thì bàn bây giờ còn trẻ để hưởng cho hết cuộc đời trước, khi nào già rồi hãy tu. Người thì lý luận sống là tranh đấu, tu là bi quan yếm thế. Có người tiếc rẻ cho mấy người tu, được sống ở Mỹ có nhiều thịt cá không ăn cho khoái khẩu mà ăn chay, kiếp sau sinh ra ở Ấn Độ hay Phi châu không có thịt cá để ăn, sẽ hối tiếc! Hồi trước nếu nghe người nào nói trái ý, xúc phạm đến tôn giáo của tôi là tôi nhào vô cãi lẫy, hùng biện, tranh luận, phải trái hơn thua, có khi nổi nóng tôi nói nặng làm mất bạn bè vì những chuyện không đâu. Nay nhờ đi chùa và nghiền ngẫm kinh sách tôi không phản ứng ngay, mà trầm tĩnh quan sát người ta thảo thuận. Tôi thấy người nào cũng giành phần đúng về mình, người nào không đồng ý với mình thì cho người đó dốt, không hiểu vấn đề… Thấy mấy ông bạn bàn về triết lý cao siêu của tôi nghĩ đến chuyện những người mù xem voi.
Không riêng gì những người không đi chùa nên không hiểu đạo, mà ngay cả người đi chùa thường xuyên cũng hiểu đạo sai lầm. Phần đông người đi chùa là ngững người đàn bà lớn tuổi, nhiều bà cầm nhang lạy tứ phương rất mềm dẻo, thiện nghệ. Nhưng họ đi chùa không mong gì hơn là để “được phước kiếp này và kiếp sau”. Kiếp này được Trời Phật phù hộ cho có được đời sống an lành, con cái ăn học nên người, gia đình yên vui hạnh phúc. Kiếp sau được sinh ra ở cõi Trời, hay có làm người thì được sinh ra trong gia đình khá giả hơn…
Rất nhiều người đi chùa, cúng dường nhiều chỉ để cầu xin Trời Phật phù hộ cho mình, cho gia đình mình (ngã) có đời sống tốt đẹp hơn (tham). Đi chùa với tâm ý trao đổi tiền bạc với phước đức như vậy thì chẳng khác nào bỏ tiền ra “hối lộ” Trời Phật, bỏ tiền ra “mua” phước đức. Đi chùa như vậy, có đi suốt đời cũng không giúp ích gì cho mình và cho người bao nhiêu. Có người nói ” Bữa nay tôi ăn chay, nếu không tôi cào nhà nó rồi”. Ca dao mình cũng có nhiều câu châm biếm mấy người đi chùa mà tâm không tu là “Miệng tụng Nam mô mà bụng chứa một bồ dao găm”.
Các bà chị của tôi rất thích đi hành hương, nhất cử mà lưỡng tiện, vừa du ngoạn cảnh lạ đường xa, vừa được thăm viếng, lễ bái nhiều chùa được nhiều phước đức. Có lúc các chị không thích đi hành hương nữa, tôi hỏi tại sao thì các chị cho biết, không thích đi từ hồi nghe thầy Thanh Từ giảng. Thầy nói các bà đi chùa cúng có mấy trái chuối, mấy trái cam mà cầu xin Phật cho nhiều thứ , xin cho mình, cho con mình rồi cho cháu mình nữa. Phật dạy tu thì không tu mà chỉ muốn cầu xin, nếu ai xin cũng được Phật cho như ý thì trên đời này đâu có ai khổ, ai nghèo? Các chị nghe thầy Thanh Từ nói Phật không phải là thần linh, có bùa phép ban cho Phật tử điều này điều nọ, các chị chán quá ở nhà luôn.
Không riêng gì người bình dân ít học mà đôi khi ngay cả người trí thức phụ trách việc giảng dạy Phật pháp cũng có người không hiểu đạo. Một cư sĩ kia có bằng cấp cao nên rất được quý trọng, trọng dụng trong hàng lãnh đạo Phật giáo. Ông được mời giảng dạy đạo pháp và hướng dẫn Phật tử trong các lớp tu học. Một bữa kia một Phật tử có ý kiến, theo tôi bài giảng của ông không đúng ở điểm này , điểm nọ. Ông cư sĩ có vẻ khó chịu và từ đó giữ trong lòng “ác cảm” lâu dài với Phật tử này.
Sự thật là vậy, là ít người chịu khó suy ngẫm để thấu hiểu được rằng Phật bỏ cung vàng điện ngọc, bỏ cả vợ con chỉ vì thấy “Đời Là Bể Khổ”. Phật vào rừng sâu, sống khổ hạnh chỉ để tìm cách Cứu Khổ. Và hầu hết kinh sách Phật được lưu truyền lại ngày nay là để dẫn dắt chúng ta con đường Thoát Khổ.
Không đặt niềm tin ở Thượng Đế và Phật không tự cho mình là con của Ngọc Hoàng, là Đấng Tạo Hóa toàn năng tạo ra vạn vật, có khả năng ban phước hay giáng họa cho ai. Luật Nhân Quả không phải do Ngài đặt ra, và Niết Bàn cũng không phải là nơi do Ngài tạo nên, do Ngài kiểm soát cho phép ai ra, ai vào.
Phật là người đã tìm ra chân lý, tìm ra Con Đường đi đến sự giải thoát, an vui, tự tại (chấm dứt khổ đau). Con đường đó Phật giảng giải, chỉ vẽ dựa theo kinh nghiệm “Ngộ” mà Ngài đã chứng nghiệm được sau sáu năm khổ hạnh tu tập và 49 ngày nhập định dưới cây bồ đề. Sau thời gian tu tập này Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, đạt đến Niết Bàn và Phật đã bình đẳng tuyên bố “Ta là Phật đã thàønh, các người là Phật sẽ thành nếu các người tu theo con đường (đạo) ta chỉ dạy “.
Tham là muốn chiếm đoạt vật gì làm của riêng của mình, có một muốn hai, có hai muốn bốn. Lòng tham thúc đẩy con người hành động, tạo nghiệp ác, gây khổ cho mình và cho người khác.
Ngã là mình, những gì thuộc về mình, cái Tôi vị kỷ, kiêu mạn…
Thôi thì có trăm ngàn nguyên nhân làm mình khổ. Muốn chấm dứt khổ đau, được an lạc, tự tại, kinh Phật dạy muôn ngàn pháp môn. Đểà cho bớt rườm rà khó hiểu, tôi đơn giản hóa vấn đề, muốn tu theo Phật cho thân tâm được an lạc, một là chuyển hóa Tham Sân Si, hai là gạt bỏ Chấp và Ngã.
Con đường tu của tôi ngắn và gọn như vậy. Khi có một điều bất đắc ý xảy ra làm tôi buồn phiền đau khổ, bình tĩnh suy xét tôi thấy đúng như lời Phật dạy, căn nguyên khổ đó là do tham, sân, si, chấp và ngã đã huân tập, tiềm ẩn trong tôi từ kiếp nào mà ra. Cái chủng tử hung dữ, nóng nảy do cha mẹ di truyền lại đã sống khỏe mạnh trong tôi bấy lâu nay. Nay biết tu tập, với thời gian tôi sẽ cố gắng “bứng gốc” các chủng tử xấu đi, rồi tôi sẽ tưới tẩm những “chủng tử tốt” (từ bi, hỷ xả, bao dung) bằng những trận mưa Pháp, những chủng tử tốt này sẽ nảy mầm vươn lên.
Làm việc gì muốn có kết quả nhanh chóng mình cũng phải có phương pháp, phân tích và có kế hoạch đàng hoàng. Sau khi phân tích thấy được nguyên nhân nguồn cội khổ đau là tham sân si, chấp và ngã, bây giờ làm sao diệt tham sân si, chấp và ngã?
Muốn diệt Tam Độc tham sân si, thì phải giữ Thân Khẩu ý thanh tịnh, trong sạch. Trên lý thuyết thì không khó, nhưng trên thực tế tiêu diệt ba con rắn độc này là cả một cuộc chiến gay go với nội tâm, mà chính Phật cũng phải nhìn nhận “thắng một vạn quân dễ hơn chiến thắng chính mình”.
Bản tính của người phàm phu là ăn miếng trả miếng, nhất định không thua ai. Người “biết tu” gặp nghịch cảnh phải nhịn nhục, nếu cứ chơi “xả láng” tới đâu hay tới đó, là tự biết mình đã “thua” trên mặt trận “tu tập”. Nếu nhịn nhục là thân không làm điều ác, miệng không nói lời ác thì tôi cố gắng làm được, nhưng giữ tâm ý thanh tịnh, không giận hờn, buồn phiền, bất mãn, điều này tôi thấy khó quá. Làm sao vui vẻ chấp nhận sự thiệt thòi về phần mình, làm sao chuyển hóa lấy khó khăn làm thú vị, lấy nghịch cảnh làm thắng duyên để đo lường sự tu tập của mình?
Kinh sách dạy, muốn tu chúng ta phải Học Kinh, và ứng dụng bát chính đạo. Có chính kiến (nhìn thấy đúng), có tư duy ( suy xét đúng), có tinh tấn (cố gắng trui luyện), nước chảy đá sẽ mòn, rồi có ngày tâm ta sẽ không còn vướng mắc, chướng ngại, phiền não.
Trong kinh , Phật dạy…vạn vật Vô Thường. Với thời gian vận vật đổi thay, không thường hằng bất biến, cho nên trong đời sống, chúng ta “nay lên voi, mai xuống chó”, nay được yêu chiều, mai bị ruồng rẫy nên coi là sự thường. Đã thấu đáo lý Vô Thường thì dù cuộc đời có lúc lên hương như “diều gặp gió” chúng ta cũng không nên hả hê vui mừng đắc thắng, vì gió không bền lâu, lúc gió ngừng diều sẽ đâm đầu xuống đất, càng cao danh vọng, càng dày gian nan. Khi thành công cũng như lúc thất bại chúng ta phải cố giữ tâm thăng bằng như người làm xiệc đi trên sợi dây nhỏ.
Vạn vật đều Vô Ngã. Khi chấp nhận vạn vật vô ngã, không có tự tính (sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắùc) thì ý thức ích kỷ, vị kỷ, chấp ngã kiêu mạn, ý niệm về “Cái Tôi” vô cùng quan trọng sẽ tan biến.
Phật cũng dạy lý Duyên Sinh. Vạn vật do duyên họp mà thành. Đủ duyên thì vạn vật tồn tại, mất duyên thì vạn vật tiêu tan. Do nhân duyên tác hợp nên vạn vật chỉ là hư ảo (huyễn). Khi thấu được lý nhân duyên thì tâm mình sẽ rộng mở, dễ cảm thông, tha thứ, chấp nhận thế giới muôn sai, nghìn khác. Từ “cảm thông” trong ta sẽ phát khởi lòng từ bi bao la, dễ hỷ xả, tha thứ những lỗi lầm của người khác.
Cho nên trong vấn đề tu tập, Thiền Định là một phương cách đưa con người đến giải thoát. Những giây phút yên lặng, suy nghĩ sâu sắc sẽ cho ta Thấy Được Cái Bản Chất Chân Thật Của Mọi Việc.
Nhận thức được bản thể chân thật đó, con người mới có thể phát khởi đại trí, đại bi, trải rộng tình thương vô bờ tới muôn người và muôn loài. Trong đời sống hằng ngày chúng ta bận rộn làm ăn sinh sống, không có nhiều thì giờ để ngồi thiền như những người xuấàt gia, nên Sư cô Thanh Lương khuyên chúng ta cố gắng Dừng Lại, cố giữ phản ứng chậm lại. Chỉ cần chậm lại một chút để có thì giờ suy nghĩ kỹ chúng ta sẽ tránh được nhiều lỗi lầm đáng tiếc, gây phiền phức cho mình và những người chung quanh, nhờ đó cuộc sống của mình được tươi đẹp , thoải mái dễ chịu hơn.
Đối với đàn bà chuyện thường xảy ra là bà này nói xấu bà kia. Phản ứng tự nhiên khi bị người khác đặt điều nói xấu là mình nổi giận. Người “biết tu” sẽ không trả thù nói xấu lại và người tu giỏi sẽ không giữ trong lòng ác cảm, phiền muộn ai .
Mục đích tối thượng của người tu theo Phật là đạt đến Niết Bàn.
Niết Bàn không phải là một nơi tốt đẹp như Thiên đàng của các tôn giáo khác, khi nào chết con người mới có thể tới Thiên đàng được. Niết Bàn trong đạo Phật không chiếm không gian, không là nơi chốn nào trong vũ trụ, mà là một đạo quả, một trạng thái bình yên tối thượng.
Ở ngay trong kiếp sống này nếu chúng ta không bị tham sân si, chấp và ngã điều khiển, tâm ta sẽ có được thanh tịnh, an lạc, đạt đến Niết Bàn.
Những danh từ Duyên Sinh, Vô Thường, Vô Ngã hình như Phật tử nào cũng hiểu vì nó là nền tảng giải thoát của Đạo Phật. Nhưng hiểu là một chuyện mà có ứng dụng những điều hiểu biết này vô đời sống của mình để có được đời sống an lành yên vui hay không là chuyện khác.
Một bạn đạo của tôi luôn chạy theo Sư cô Thanh Lương, cô giảng ở đâu là có mặt chị ở đó. Chị đọc kinh nhiều đến nỗi thuộc làu cả “Chú Đại Bi”. Chị đang vận động với bạn bè mua cho Sư cô Thanh Lương một căn nhà làm chùa. Chị mê nghe Sư cô giảng lắm. Tôi hỏi thăm, chị A còn trong hội của chị không? Hỏi câu này là bắt trúng tần số. Tôi chỉ hỏi một câu ngắn như vậy mà chị trả lời tôi tới nửa đêm, tuông ra bao nỗi hằn học, oán hận, căm thù. Tôi an ủi, thôi chị đi chùa nhiều, nên “hỷ xả”. Chị ấy trả lời: “Cái hạng người đó không đáng cho tôi hỷ xả!”.
Một bà khác đi chùa, công quả chuyên cần từ ngày qua Mỹ đến nay là mấy chục năm, nên được giử chức Phó Hội trưởng trong Ban Chấp hành của một chùa trong vùng. Bà mẹ chồng của chị đang hấp hối ở VN, tha thiết mong mỏi tất cả con cháu , dâu rể điện thoạị về một lần chót trước khi nhắm mắt ra đi. Măïc cho em chồng khóc lóc năn nỉ, chị này nhật định không gọi về, nhất định trả thù bà mẹ chồng cho đến giờ phút chót cuộc đời bà.
Tu không cần đi chùa nhiều, đọc kinh nhiều, ăn chay giỏi, làm công quả chuyên cần, xây chùa cất miếu…nếu làm được những điều này thì tốt. Nhưng vấn đề chính yếu của tu là thấu hiểu và “quyết tâm” ứng dụng những điều Phật dạy vô đời sống hằng ngày của mình.
Nên Từ Bi Hỷ Xả. Chỉ một chữ “xả” thôi , nếu thực hiện được là chúng ta cũng đến gần Niết Bàn rồi. Đi chùa, tham gia Phật sự là điều tốt, nhưng đó là bước đầu, nếu chúng ta bước xuống thuyền rồi đứng đó, không tự chèo thuyền đi , không ứng dụng những điều học hỏi ở kinh sách, ở chùa vô đời sống hằng ngày thì mãi mãi không bao giờ có thể đến được bến bờ giải thoát an lạc bên kia.
Thầy Thanh Từ giảng, căn phòng dù tăm tối đến đâu, bật đèn lên căn phòng cũng sáng. Chúng ta đứng ở cửa nhìn ra ngoài sẽ thấy đen tối, xoay đầu vô thì thấy sáng. Giữa tối và sáng chẳng cách nhau bao xa. Chỉ cần biết xoay đầu. Nhìn ra ngoài là bến mê, xoay đầu lại là bờ giác. Mê và giác chỉ có một cái xoay đầu. Tu dễ như vậy. Tu là hồi đầu, là xoay đầu lại. Từ bao lâu chúng ta mê nên đi trong đau khổ tử sanh, khi tỉnh chúng ta trở về sẽ hết khổ đau. Nếu chúng ta thả trôi theo giòng tăm tối thì tối mãi, biết xoay ngược lại tìm về ánh sáng thì sẽ được sáng. Một đứa con đi hoang, càng đi xa nhà càng khổ, khi biết lỗi lầm quay về với mẹ cha thì được sống trong gia đình hạnh phúc.
Hiểu như vậy thì tu không khó khăn gì cả, không cần ép xác khổ hạnh, tu luyện lâu dài hay học cao hiểu rộng, cũng không cần xuất gia. Phật tức tâm, tâm tức Phật, tu tại gia cũng được. Chỉ cần cố chuyển hóa tham sân si , chấp và ngã.
Vạn vật đồng nhất ở bản thể, khi chúng ta dẹp được cái Tôi vị kỷ, ranh giới giữa ta và người sẽ tan biến. Từ đó lòng Từ Bi Hỷ Xả sẽ bừng nở dâng tràn, đưa ta đến bến bờ giải thoát an lạc tự tại.
Tu là sửa đổi cho được tốt hơn, là dừng lại, là chuyển hóa cái tri thức sai lầm về thực tại. Vì tri thức sai lầm, chúng ta phát sinh tham, sân, si rồi hành động tạo nghiệp. Có chính kiến chúng ta sẽ thay đổi thái độ với vạn vật, nhờ đó thế giới trở nên an lành, vui tươi , hạnh phúc hơn.
Khi tâm ta không còn bị tham sân si điều khiển, khi tâm ta không còn vướng mắc với những cảm thọ chấp, ngã, chúng ta sẽ đạt đến Niết Bàn. Đó là một trạng thái yên bình tối thượng, thanh tịnh, tự tại, giải thoát ở kiếp này, nhờ đó Nghiệp Lực chấm dứt, không còn sức lôi dẫn chúng ta luân hồi trong lục đạo ở kiếp sau.
Đây là mục tiêu tối thượng của việc Tu Hành theo Phật.
![]() |
![]() |
► Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc |
Đây là điển cố thứ Hai tư trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Ân Giao Ngộ Sư (còn gọi là Ân Giao Gặp Thầy). Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Ân Giao Ngộ Sư có bắt nguồn như sau:
Ân Giao là con trai của Trụ Vương nhà Thương, do Khương hoàng hậu sinh ra. Sau bị Đát Kỷ bức hại, nhờ có Quảng Thành Tử cứu mới trốn thoát, liền bái Quảng Thành Tử làm thầy, sau ba năm đã học thông phép thuật. Quảng Thành Tử nói với Ân Giao rằng: “Nay nếu ta sai ngươi đi làm quân tiên phong giúp nhà Chu, ngươi có đi không?”
Ân Giao nghe lời thầy, đến vách Sư Tử đằng sau động Đào Nguyên để tìm binh khí. Chưa tìm được binh khí, nhưng phát hiện ra bên kia cây cầu đá trắng có một sơn động, là nơi mình chưa từng đi đến. Ân Giao đi vào sơn động, phát hiện có một cái mâm đựng bảy tám hạt đậu đã nấu chín, bèn bỏ vào miệng ăn. Vừa ăn xong, chợt thấy toàn thân nóng bừng, trong nháy mắt đã mọc ra ba đầu sáu tay. Quảng Thành Tử thấy bộ dạng Ân Giao thành ra như vậy thì không hề kinh ngạc, ngược lại còn vỗ tay cười lớn: “Tuyệt quá! Tuyệt quá!” Nói xong, Quảng Thành Tử bèn dạy cho Ân Giao phép biến hóa dành cho ba đầu sáu tay. Sau khi phép thuật đã học xong, Quảng Thành Tử lại lấy ra cây Phương thiên họa kích, truyền thụ võ nghệ cho Ân Giao.
Nhờ sự chỉ dạy của Quảng Thành Tử, Ân Giao nhanh chóng luyện tập võ nghệ thành thạo. Sau đó, Quảng Thành Tử lại lấy ra ba báu vật là Phan thiên ấn, Lạc hồn chung, Thư hùng kiếm giao cho Ân Giao, và nói rằng: “Thầy giao ba báu vật này cho con, là mong sau khi con xuống núi sẽ một lòng phò tá cho Khương sư thúc của con, diệt vua Trụ nhà Thương, chớ có làm việc sai lầm!” Ân Giao vội quỳ xuống nói: “Đệ tử sau khi xuống núi nhất định sẽ làm theo lời dạy của sư phụ, nếu có lòng dạ nào khác, đệ tử sẽ phải chết dưới lưỡi cuốc lưỡi cày.”
Quảng Thành Tử nghe Ân Giao thề độc như vậy, liền nói: “Ta đã hiểu ý của con, hãy mau xuống núi đi!”
Trên đường dẫn người ngựa đến núi Kỳ Sơn, Ân Giao gặp Thân Công Báo. Lúc đầu, Thân Công Báo không thể lừa được Ân Giao, nhưng sau đó Thân Công Báo bịa ra chuyện Ân Hồng (trong tiểu thuyết, Ân Hồng là con trai thứ dòng đích của Trụ Vương nhà Thương, là em trai của Ân Giao) bị Khương Tử Nha hại chết, để lừa Ân Giao đứng về phía đối lập với Tây Kỳ.
Đế báo thù cho Ân Hồng, Ân Giao bèn đi gặp Trương Sơn. Trương Sơn rất kinh ngạc, sau khi đã xác nhận đúng người, Trương Sơn liền đem người ngựa giao cho Ân Giao. Ngày hôm sau, Ân Giao đích thân cưỡi ngựa, đánh bị thương Na Tra, bắt cha con Hoàng Phi Hóa, Hoàng Phi Hố về doanh trại. Khương Tử Nha vội vàng lệnh cho quân sĩ vào thành, còn mình ngồi trong điện mà lo lắng. Dương Tiễn bèn nói: Đệ tử thấy vũ khí mà Ân Giao dùng để đánh Na Tra là Phan thiên ấn, bảo bối này là của sư bá Quảng Thành Tử, tại sao lại giao cho Ân Giao?” Tử Nha nói: “Lẽ nào Quảng Thành Tử lại sai hắn đến tìm ta?”
Dương Tiễn bèn mời Nhiên Đăng và Quảng Thành Tử đến, Quảng Thành Tử lập tức ra trận. Ân Giao vươn người trên ngựa mà nói: “Sư phụ, đệ tử mặc giáp trụ trên người, không dám cúi lạy!” Quảng Thành Tử mặc y phục vương thất trên người, quát lớn: “Đồ súc sinh! Ngươi không nhớ đã nói thế nào ở trên núi sao? Bây giờ tại sao ngươi lại đổi lời?”
Ân Giao khóc mà nói rằng: “Đệ tử không dám làm trái mệnh trời. Chỉ là em trai của đệ tử mắc tội gì, mà lại dùng Thái cực đồ đế biến nó thành tro bụi. Nó và ông có thù oán gì, mà lại phải chết thảm ở đây!” Ân Giao nói xong, liền khóc lớn.
Quảng Thành Tử nói: “Ân Giao, ngươi không biết rằng Thân Công Báo có mối hiềm khích với Khương Tử Nha hay sao? Hắn đã lừa dối ngươi, ngươi không được tin theo. Chuyện này là do em trai ngươi tự chuốc lấy, đó là số trời!” Nhưng Ân Giao không nghe lời khuyên giải của sư phụ, lại càng không chú ý đến lời thề của mình trước đây, vẫn cố chấp coi Khương Tử Nha là kẻ thù, sau bị Đạo sĩ Nhiên Đăng dùng kế dụ vào núi Kỳ Sơn, kẹp giữa hai vách núi, bị Quảng Thành Tử dùng cày đánh chết.
Nhiều người quan niệm, tay búp măng thì sướng, tay dùi trống thì khổ có đúng không? Dựa vào cơ sở nào mà có thể phán đoán như vậy được. Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn ý nghĩa của tay búp măng và tay dùi trống.
Hình dáng chung của bàn tay búp măng là những ngón tay tựa như hình búp măng, thon, dài trắng trẻo và mền mại. Những người có bàn tay búp măng thường là những người tính tình dịu dàng, được nhiều người yêu mến. Họ rất khéo léo trong cả hành động và lời nói, những người này thường sẽ thành đạt trong lĩnh vực giao tiếp, nghệ thuật và y học.
Ngón tay dùi trống có phải là người mệnh nghèo khổ
Bạn muốn biết tay dùi trống có ý nghĩa gì? Bàn tay dùi trống có ảnh hưởng gì tới vận mệnh của bạn hay không?
Bàn tay dùi trống hay còn gọi là tay dùi đục là bàn tay thô. Những đầu ngón tay to hợp các đốt khác, phần móng tay mọc lồi ra. Có phần đầu ngóng tay dày lên.
Theo các nhà khoa học thì dấu hiệu của ngón tay dùi trống là sự giãn tình mạch, nguyên nhân là do các mô xa như ở các đầu chi thường không được cung cấp đủ oxy nên những mạch máu ở đây phản ứng lại với cơ thể bằng cách tăng lượng tuần hoàn, nhằm tăng oxy cung cấp cho các mô.
Còn theo Nhân tướng học thì, những người có ngón tay dùi trống thường là những người nghèo khổ, vì học phải làm lũ, làm nhiều việc tay chân nên tay chân thường to hơn những người khác.
Bài viết trên đây chúng tôi giới thiệu tới bạn những đặc điểm của bàn tay búp măng và bàn tay dùi trống ( hay còn gọi là dùi đục). Để tham khảo thêm những bài viết khác, bạn có thể xem thêm tại đây:
+ Xem bói đường chỉ tay đoán vận mệnh của bạn + Xem chỉ tay đường con cái để biết bạn sinh con trai hay con gái + Xem bói chỉ tay đường tình duyên của bạn : Bàn tay đẹp là bàn tay như thế nào
– Trong tâm tưởng mỗi người đều có sự hiện hữu của Đức Phật từ bi, đức độ. Tu Phật chính là tu tâm, người hữu duyên với nhà Phật ắt hiểu được điều này. Dưới đây là những con giáp có mối thâm duyên với nhà Phật.
![]() |
![]() |
Ấy thế mà Reiko vẫn còn độc thân giữa London, sau hơn một năm dọn đến đây từ Tokyo. Thế là cô quyết định lên mạng tìm tình yêu cho mình.
Reiko không phải là trường hợp ngoại lệ. Theo số liệu của công ty theo dõi thông tin internet comScore, hiện trên thế giới có gần 10% công dân mạng, tương đương với khoảng 136,642,986 người, đang tích cực sử dụng dịch vụ hẹn hò trên mạng với mong mỏi tìm được tình yêu.
Tại Việt Nam, dù còn mới nhưng đã có hơn 7% công dân mạng, tương đương với hơn một triệu người, đang sử dụng dịch vụ tình ảo này.
Tôi tự hỏi, giữa biển người bao la kia và với hơn 1000 trang hẹn hò đủ chủng loại thượng vàng hạ cám có chi nhánh lan rộng toàn cầu, làm sao mà cô bạn Reiko của tôi tìm được tình yêu của mình?
Trang nào trong số đó đáng tin cậy, hiệu quả nhất trong việc cung cấp dịch vụ giới thiệu – mai mối? Liệu trong tương lai, việc lên mạng tìm tình yêu có trở thành một trào lưu không thể đảo ngược không?
Tôi phỏng vấn cô Dawn Shepherd, chuyên gia nghiên cứu về đề tài công nghệ giới thiệu – mai mối trên các trang mạng hẹn hò, đồng thời là giáo sư trợ giảng tại trường đại học Boise, bang Idaho, Hoa Kỳ.
Để phục vụ cho dự án nghiên cứu của mình, cô Dawn đã ‘xâm nhập thực tế’ bằng cách đăng ký tài khoản cá nhân trên các trang mạng hẹn hò nổi tiếng của Mỹ: Match.com, eHarmony, và OKCupid. Cô giải thích:
“Sở dĩ có tình trạng trăm hoa đua nở trên các trang mạng hẹn hò như hiện nay là vì đây là lĩnh vực kinh doanh béo bở trị giá cả tỷ đô la mà vẫn còn khá mới mẻ. Kể từ khi Match.com được thành lập từ năm 1995 đến nay, các trang mạng hẹn hò vẫn chưa tìm được công thức mai mối ‘thần kỳ’ có thể ghép đôi khá chính xác các khách hàng độc thân với nhau.
Vì vậy mỗi công ty vẫn đang tìm cách phát triển công thức ghép đôi riêng cho mình, và quảng cáo rầm rộ về tính khoa học, siêu việt của nó để chiêu dụ khách hàng.”
Cô Dawn cho biết hiện có hai cách làm mai chính trên các trang hẹn hò trên mạng. Một là ghép đôi theo kiểu Match.com, nghĩa là thu thập thật nhiều dữ liệu về hành vi hẹn hò trên mạng của khách hàng, ngầm theo dõi xem họ nhấp chuột vào những dạng hồ sơ nào, tán gẫu với ai, và dựa trên cơ sở thông tin đó sẽ gợi ý một vài mối tiềm năng phù hợp.
Theo đó, Match.com hoạt động giống như mô hình mua sắm trên mạng của Amazon.com.
eHarmony thì có vẻ ‘chuyên chế’ hơn. Họ làm mai bằng cách yêu cầu khách hàng phải điền vào hơn 200 câu hỏi đã được các chuyên gia tâm lý thiết kế nhằm xác định chi tiết cá tính, sở thích cá nhân, v.v. của khách hàng. Sau đó, trang này sẽ phân tích dữ liệu khách hàng trả lời để làm mai họ với nhau.
Giáo sư tâm lý Eli Finkel thuộc đại học Northwestern, bang Illinois, Hoa Kỳ cũng đồng ý với cách so sánh trên.
Ông nói Match.com giống như ‘siêu thị tình yêu’ cho phép người sử dụng ‘rà xem’ hồ sơ của nhau rồi tự quyết định xem ai phù hợp với mình. eHarmony thì giống như ‘cò nhà đất’, tự nhận là họ biết khá rõ hồ sơ của khách hàng và sẽ gợi ý vài mối họ cho là phù hợp.
Tôi hoang mang. Giữa hai hình thức mai mối tinh vi kể trên, làm thế nào một người sử dụng bình thường không sành công nghệ như cô bạn Reiko của tôi biết được cách nào hiệu quả hơn chứ?
Tiến sĩ Anders Sandberg, hiện đang làm việc tại Viện nghiên cứu về tương lai nhân loại tại trường đại học Oxford có câu trả lời:
“Thật ra các công ty kinh doanh dịch vụ hẹn hò trên mạng không nhất thiết phải bận tâm nhiều đến việc tìm cho ra công thức toán học hay khoa học nhằm giúp người ta tìm được tình yêu hoàn hảo đâu. Điều họ quan tâm là có được và giữ chân được càng nhiều khách hàng càng tốt trên trang của mình.”
Với đặc thù kinh doanh buôn mai bán mối, tôi thiết nghĩ các trang hẹn hò trên mạng cũng sẽ không đi xa hơn việc cung cấp một vài mối lái cho khách hàng của mình hẹn hò, gặp gỡ, rồi sau đó tự họ quyết định lấy cho mình người nào là phù hợp nhất.
Cô Dawn khẳng định: “Miễn sao người ta chịu hẹn hò, gặp gỡ nhau thì tất cả các trang mạng hẹn hò đều hiệu quả cả. Nói một cách ví von, hẹn hò trên mạng giống như đi mua sắm vậy đó. Có cả một kho hàng rất nhiều người độc thân trên đó. Người ta lướt mạng, xem xét hồ sơ cá nhân đăng tải, tán tỉnh, rồi gặp nhau ngoài đời nếu thích”.
Giáo sư Eli Finkel đưa ra lời khuyên: “Nếu bạn vẫn còn độc thân thì nên sử dụng dịch vụ hẹn hò trên mạng để tăng cường quy mô tìm bạn của mình. Tuy nhiên, đừng quá tin tưởng vào các công thức ghép đôi mầu nhiệm mà các trang web này quảng cáo để câu khách.
Vả lại, bạn cũng đừng ngồi đó ‘rà xem’ hồ sơ ảo của những người độc thân khác mà không chịu gặp mặt họ. Trên thực tế, các công ty hẹn hò trên mạng đang chuyển hướng từ việc ghép đôi trên mạng sang việc tổ chức các buổi gặp mặt trực tiếp cho khách hàng độc thân của mình”.
Ông Eli nói tiếp: “Suy cho cùng, không có công thức toán học nào có thể tốt hơn cái công thức bạn có trong đầu của bạn cả.
Ngay cả trong tương lai, dù khoa học công nghệ có phát triển cao siêu tới đâu thì nó cũng khó có thể thay thế được phán đoán của con người trong chuyện tình cảm được”.
Theo dự đoán của Tiến sĩ Anders Sandberg, chừng 50 năm nữa thôi, người ta sẽ sử dụng công nghệ không chỉ để tìm tình yêu mà cònđể giữ lấy tình yêu nữa.Trong tương lai, người ta đi lại nhiều hơn, tình yêu sẽ trở nên toàn cầu hơn, sẽ có nhiều người quen nhau mà phải sống và làm việc xa nhau một thời gian.
Tình ảo trong tương lai sẽ được thiết kế sao cho người ta có thể tích hợp được cả cảm xúc, tương tác của mình vào trong đó. Công nghệ sẽ trở nên chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày.
Nhưng đó là chuyện tương lai.
Tối nay, sau giờ làm việc, cô bạn Reiko của tôi sẽ đi gặp người bạn trai quen trên mạng bấy lâu nay.
Cô chia sẻ với tôi: “Mình chỉ sử dụng các trang hẹn hò trên mạng này để rà tìm người thôi, nhưng chưa tin vội đâu. Phải gặp mặt ngoài đời xác minh thông tin đã. Để xem nhé”.
Vâng, để xem. Tôi đang chờ Reiko cập nhật tình hình sau ngày lễ Valentine này.
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật |
Phong thủy cũng như những bộ môn khoa học khác đều có những quy luật được đúc kết qua thời gian dài của cuộc sống. Vì thế, có những yếu tố dù đã lâu đời nhưng vẫn được chú trọng trong thời hiện đại, cụ thể ở đây là ba yếu tố Chủ - Môn - Táo, tức phòng ngủ chủ nhà, bếp và cửa ra vào.
Những yếu tố này không chỉ được thừa nhận như những yếu tố tiên quyết trong trường phái Dương Trạch Tam Yếu mà trong Huyền không học hay Bát trạch phong thủy đều dựa vào và coi đó là yếu tố then chốt để luận đoán cát hung trong một căn nhà, hay một đối tượng xem xét của khoa phong thủy.
Trong kiến trúc hiện đại, Chủ - Môn - Táo đã có nhiều thay đổi khác trước. Vì vậy mà những quan niệm về Chủ - Môn - Táo trong Phong thủy xưa cũng nên nhìn nhận thấu đáo hơn trước khi ứng dụng cụ thể vào thực tiễn cuộc sống.
Cụ thể, đối với phòng ngủ chủ nhà được xem xét là có mối quan hệ mật thiết đến sức khoẻ của chủ nhân. Bởi một phần ba cuộc đời của con người là ở trong phòng ngủ. Do vậy, việc sắp đặt không gian phòng ngủ luôn được coi trọng để tạo nên một môi trường cho sự thư giãn tối ưu.
Bếp trong phong thủy tượng trưng cho tài lộc và cũng là nơi mang dưỡng khí cho gia đình. Vì thế, hướng bếp và vị trí bếp là những yếu tố then chốt để cấu thành nên tính phong thủy của một gian bếp.
Cửa nhà có vai trò dẫn khí phân bổ tới từng khu vực của ngôi nhà đó, là nơi giao tiếp đầu tiên, giữ liên hệ giữa hai yếu tố nội và ngoại... Ngoài cửa chính, các hành lang cầu thang và các cửa phòng, cửa hậu chính cũng là những nơi có nhiệm vụ giúp điều tiết luồng năng lượng trong căn nhà. Vì thế, không thể xem xét một yếu tố cửa trong căn nhà. Ngoài ra, cửa là một trong những yếu tố giúp định vị hướng nhà, một yếu tố tối quan trọng theo phong thủy cổ truyền.
Chuyên gia phong thủy Phạm Cương
(Theo Kienthuc)
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
![]() |
Thời gian khiến cho ngôi nhà của bạn trở nên cũ kĩ, chỉ cần dành chút thời gian bạn có thể biến không gian sống mang một diện mạo hoàn toàn mới. Mặt tiền là ấn tượng đầu tiên khiến những người qua đường, những vị khách phải chú ý. Hàng rào góp phần tăng thêm sự thu hút cho ngôi nhà nếu chúng được thiết kế phù hợp theo mong muốn và sở thích của gia chủ. Nếu bạn có hàng rào đẹp mắt và độc đáo sẽ kích thích cảm giác tìm tòi, khám phá bên trong.
Hàng rào của những ngôi nhà nhỏ không nên thiết kế quá cầu kỳ và sặc sỡ. Những kiểu dáng đơn giản sẽ hài hòa với ngôi nhà hơn. Đối với những ngôi nhà lớn, thì hàng rào nên có kích thước lớn một chút về chiều cao, độ rộng sẽ tạo ra sự chắc chắn. Tầm nhìn của ngôi nhà không bị ảnh hưởng mặc dù hàng rào có chiều cao khá lớn. Nhưng hàng rào cao sẽ khiến ta có cảm giác bức bối khi ở trong một ngôi nhà nhỏ do tầm nhìn bị che khuất.
Vườn vừa là khuôn viên đồng thời cũng là một điểm nhấn của ngôi nhà. Vườn có thể ở vị trí phía trước, phía sau hay bên cạnh ngôi nhà tùy theo sự bố trí của bạn. Bạn nên trồng những loại cây dễ chăm sóc
Bạn cũng nên chú ý tới điều kiện tự nhiên như ánh sáng mặt trời, nước, không khí để cây trồng có sự phát triển tốt nhất. Nếu bạn quá bận rộn thì việc thuê một người làm vườn giàu kinh nghiệm sẽ đảm bảo cho khu vườn của bạn luôn xanh mát.
Những khung cửa đã “tàn phai” theo năm tháng cũng cần phải được tút lại. Kiểu dáng của khung cửa sẽ phản ánh tính cách của chủ nhà. Bạn muốn có cảm giác thân thiện và gần gũi thì khung cửa màu trắng với họa tiết hay ô cửa kính trong suốt sẽ là một gợi ý.
Ngược lại, khung cửa làm bằng thép đen, không để lọt một khe sáng sẽ khiến ta có cảm giác cứng nhắc và khó gần. Cửa chính được đặt giữa bức tường đá hoặc granit tự nhiên sẽ khiến ta an tâm bởi sự kiên cố, vững chắc.
Màu sắc là một yếu tố quan trọng trong cuộc sống bởi nó ảnh hưởng đến tâm trạng, cảm xúc của chúng ta. Màu sắc cũng tạo ra không gian say mê, hứng thú với công việc, từ đó hiệu quả làm việc tăng lên đáng kể. Thông thường đó là những màu sắc có trong tự nhiên, nói chung chúng ta sử dụng màu sắc để đạt được hai điều.
Thứ nhất là để ngụy trang, thứ hai là để thu hút sự chú ý, hoặc làm nổi bật màu sắc tự nhiên đó. Vì vậy, để tạo ra một bầu không khí dễ chịu, cách đơn giản và kinh tế nhất là thay “áo” cho tường nhà bạn. Nếu bạn không hài lòng với diện mạo này bạn có thể đổi sang diện mạo khác một cách dễ dàng mà không cần tốn quá nhiều chi phí.
Bề mặt bên ngoài của ngôi nhà, tốt nhất bạn nên sử dụng những vật liệu có khả năng chịu đựng sự thay đổi của thời tiết. Những loại đá tự nhiên cứng, xốp như đá andexit, granite. Loại đá này sẽ làm giảm sự phóng xạ cũng như rêu mốc. Bạn cũng đừng quên lớp sơn phủ đặc biệt các loại đá này để giữ màu tự nhiên và không bị phai mờ do độ ẩm không khí và sức nóng của mặt trời.
Bê tông, gạch, vữa tạo sự liên kết bên ngoài cần được chọn lựa cẩn thận hơn loại gạch bình thường. Với bức tường kiểu này, bạn nên sơn chống thấm để tránh liên kết bị xói mòn. Đừng quên, không để nước dính vào khi bức tường vẫn còn chưa khô sơn chống thấm.
Việc sử dụng gốm, đá hoa hay đá granit, bạn có thể chọn bề mặt thô ráp nhưng không quá mịn để tiện cho việc lau chùi. Bạn cũng nên nhớ kỹ chất lượng luôn đi đôi với thời gian sử dụng, vì vậy nên chọn vật liệu tốt một chút sẽ giảm thời gian hao mòn.Tốt hơn thì bạn nên sử dụng đồng nhất gạch, đá hoa hay đá granit vì chúng tương đối bền.
Cá chép Koi là một biểu tượng phổ biến ở cả văn hóa Trung Quốc nói chung và phong thủy nói riêng. Hình ảnh cá Koi hay xuất hiện trên các tác phẩm nghệ thuật, quần áo, hình xăm và được nuôi trong nhiều gia đình. Vậy tại sao cá chép Koi lại được yêu thích đến vậy?
Truyền thuyết về cá chép Koi
Trong khi nhiều người biết về cá Koi tại Nhật Bản nhưng thật ra cá Koi được nhập khẩu đến Nhật Bản từ Trung Quốc và một số quốc gia khác ở châu Á và châu Âu. Người Nhật đã thu thập và lai tạo ra nhiều loại cá Koi đẹp như hiện nay.
Có rất nhiều truyền thuyết cổ xưa liên quan đến cá chép.. Huyền thoại lâu đời nhất là câu chuyện về nhà triết học Trung Quốc - Khổng Tử. Vào năm 533 Trước Công nguyên, khi Khổng Tử sinh được con trai, hoàng đế đã tặng cho ông một món quà - con cá trắm đen. Tương truyền rằng, tất cả cá chép Koi hiện đại ngày nay, đều có nguồn gốc từ con cá của nhà vua.
Ban đầu, cá chép Koi được nuôi như một loại thực phẩm trong gia đình, chứ không phải để làm cảnh. Việc nuôi cá chép trong hồ được bắt đầu mãi sau này ở Niigata, Nhật Bản. Trong suốt một mùa đông khắc nghiệt, các nông dân Nhật Bản ở Niigata không thể câu cá và duy trì bất kỳ cây trồng nào. Bởi vậy họ làm ao để nuôi cá koi nhằm cung cấp thức ăn cho gia đình. Trong thời gian này, nhiều nông dân bắt đầu nhận thấy màu sắc đột biến khác nhau trên da của những con koi mới lớn lên. Vì vậy, họ chọn cẩn thận những con cá có màu sắc đẹp và nuôi trong ao riêng biệt để giữ như là vật nuôi gia đình. Koi tiếp tục được lai tạo để có nhiều màu sắc đẹp tuyệt vời. Ngày nay, cá koi có hơn 100 loại màu sắc khác nhau.
Biểu trưng của cá Koi
Các chú cá chép có một sức sống mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng, chứng minh bằng khả năng bơi ngược dòng chảy. Sức mạnh thần kì của cá Koi đã trở thành sự tích "Cá chép hóa rồng" trong điển tích Trung Quốc.
- Vận may
- Sự thành công
- Sự phồn thịnh
- Trường thọ
- Lòng can đảm
- Tham vọng
- Sự bền bỉ
Cá Koi bền bỉ có thể bơi ngược dòng
Biểu trưng màu sắc
Mỗi một loại cá Koi với màu sắc khác nhau mang đến ý nghĩa nhất định thể hiện mong ước của gia chủ.
- Kohaku - thân trắng, đốm đỏ: Thành công trong sự nghiệp.
- Kumonryu - thân trắng, đốm đen hoặc đen toàn bộ: Cuộc sống luôn thay đổi và biến đổi.
Với những gia chủ yêu "xê dịch thì Kymonryu sẽ mang đến sự bình an
- Ogon - thân bạc: Thành công trong kinh doanh và sự giàu có.
- Kuchibeni - màu trắng, đốm đỏ quanh môi : Tình yêu và các mối quan hệ lâu dài.
- Yamabuki - màu vàng: Sự giàu có.
Yamabuki với màu vàng óng ả giúp thu hút nhiều tiền bạc
Âm Dương và cá chép Koi
Trong phong thủy, cá chép koi được gắn với các biểu tượng âm dương. Cá đực và cá cái biểu trưng cho hai nửa đen - trắng đối lập mà hòa hợp trong vòng tròn âm dương. Trên thực tế, một cặp cá koi thường được sử dụng như một biểu tượng may mắn, chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ mới cưới về một cuộc hôn nhân viên mãn.
Cá chép Koi thường được nuôi theo cặp tượng trưng cho Âm - Dương hòa hợp
Cá chép Koi trong bài trí nhà cửa
Nếu trong nhà không có điều kiện để xây ao hoặc có một bế cả trong nhà, những bức tranh hoặc các tác phẩm điêu khắc hình cá Koi cũng giúp thu hút tài lộc vào nhà.
Nếu nuôi cá Koi trong nhà, bạn phải đảm bảo nguồn nước luôn được giữ gìn sạch sẽ. Trong điều kiện hoàn hảo, những chú cá chép có thể sống từ 50 đến 75 năm, có những con sống gần 200 năm. Không có gì ngạc nhiên khi cá Koi còn đại diện cho sự trường tồn, chúc ông bà bách niên giai lão.
Vậy “tầm long” là gì? Tầm long là phép tìm kiếm long mạch ngoài đất trống, như cụ Tả Ao chỉ rõ: “Chẳng qua ra đến ngoài đồng/ Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường” và được học giả Cao Trung qua hằng chục năm nghiên cứu sách địa lý của Tả Ao giải thích rõ đại ý dưới đây:
Long mạch là mạch đất bên trong có chứa khí mạch, giống như trong cành cây có chứa nhựa cây, nó có thể chạy qua những dãy đồi núi cao, cũng có thể đi rất thấp, luồn qua sông qua suối, thậm chí qua biển, rồi đột ngột nhô lên với những thớ đất lắm khi uốn lượn sà sà trên mặt ruộng như hình con rồng đang cuộn mình vươn tới để ôm chầu vào một huyệt đất nào đó (gọi là long nhập thủ).
Nơi đó có thể hạ huyệt chôn cất, hoặc cải táng mồ mả cha ông để con cháu đời sau phát vương, phát tướng, phát trạng, phát tài lộc phú quý. Trước huyệt kết có đất nổi lên cao che chắn (gọi là án), hoặc có gò bao quanh kết hình ấn kiếm, ngựa voi, chiêng trống (gọi là sa).
“Tả Ao địa lý toàn thư” ghi rõ muốn tầm long cần phải biết: Thái tổ sơn của toàn thể các cuộc đất xuất phát từ dãy Himalaya, phải biết Minh đường là nơi nước tụ trước huyệt để nuôi khí lành, biết Thanh long là thớ đất bên trái huyệt và Bạch hổ là thớ đất bên phải huyệt, cả hai ôm chầu vào huyệt kết, biết về long sinh (mạch sống động như mãng xà vương đang phóng tới), long tử (mạch nằm ngay đơ như chiếc đũa tre), long cường (mạch nổi to như sóng lớn), long nhược (mạch lặng lờ như sóng nhỏ lăn tăn).
Những điều trên chắc hẳn Cao Biền đã ứng dụng trong cuộc “tầm long” trên toàn cõi nước ta để trấn yểm, nhưng đất phát vương của 12 đời vua Trần (chưa kể thêm đời hậu Trần) đã tồn tại vượt lên ý đồ của Cao Biền. Đó là vùng đất ở nguồn sông Phổ Đà, tức sông Luộc, nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay).
Phát vương trên đất kết
Đến với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ Lưu, gồm: Lưu Khánh Đàm, Lưu Ba, Lưu Lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó Lưu Khánh Đàm được vua Lý Nhân Tông trọng dụng (khi vua sắp mất vào tháng chạp năm Đinh Mùi 1127 đã cho gọi Đàm vào nhận di chiếu để cùng Lê Bá Ngọc đưa hoàng thái tử là Lý Thần Tông lên ngôi trước linh cữu). Tên tuổi của Lưu Khánh Đàm (và Lưu Ba) đều được Ngô Sĩ Liên nhắc đến trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.
Đó là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy ở nguồn sông Luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ Tô chuyên buôn tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ Lưu và họ Tô cũng chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà phải đợi đến họ Trần xuất hiện thì “đất kết” mới ứng lên một dòng vương giả mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương Tức Mặc, xứ Hải Thanh, đó là Trần Hấp.
Trần Hấp sinh được 2 con trai là Trần Lý (lý là cá chép) và Trần Thiện. Trần Lý lớn lên kết hôn với Tô Thị Hiền 15 tuổi, thế là hai họ Trần và Tô kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần Lý có người bạn họ Phùng rất giỏi về khoa địa lý, được dân chúng kính nể, thường gọi là “thầy Phùng”.
Ông là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” ở thôn Lưu Gia, mà tiến sĩ Đinh Công Vĩ đã ghi lại trong cuốn “Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam” khá thuyết phục như sau: “Ba mũi nhọn chồng lên nhau này là núi Tam Đảo với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đấy là Tổ sơn, long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác.
Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường, kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là Tam thai, phía sau có bảy gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.
Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải táng mộ ông bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không thể dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy khác, người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng đúng mệnh số nữa.
Thầy Phùng biết họ Trần sắp phát và đã kể lại chi tiết bí mật liên quan đến câu chuyện phong thủy ở gò Sao cho con mình là Phùng Tá Chu (cũng là một nhân vật lịch sử) được biết: Vào ngày lập thu, mộ hiển thủy tổ khảo ở Tức Mặc và hiển thủy tổ tỷ ở Lưu Gia của dòng họ Trần đã dời chuyển đến gò Sao song táng, công việc hoàn tất đúng giờ chính Hợi.
Những người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng biết chuyện. Xong việc, bên trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết.
Sau cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông sau này) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia đã tình cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của Trần Lý là Trần Thị Dung, lúc ấy mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với Trần Thủ Độ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố tiếp đó để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần.