Các cửa hàng phía trước mở rộng nhiều ngành nghề như lông cừu, kinh doanh nhà đất... tốc độ làm mới sản phẩm trong cửa hàng khiến cho các nhà đầu tư cũng phải hoa mắt chóng mặt, rốt cuộc thì những cửa hàng mở rộng nào đáng để tin cậy, đáng để đầu tư,
Các cửa hàng phía trước mở rộng nhiều ngành nghề như lông cừu, kinh doanh nhà đất… tốc độ làm mới sản phẩm trong cửa hàng khiến cho các nhà đầu tư cũng phải hoa mắt chóng mặt, rốt cuộc thì những cửa hàng mở rộng nào đáng để tin cậy, đáng để đầu tư, điều này luôn khiến cho dân đầu tư cảm thấy hoang mang. Có một số nhà đầu tư đã áp dụng những biện pháp đơn giản, duy trì cách nghĩ “dựa vào cây to mà hưởng bóng mát”, “để người ta mang đồ đến”, cho rằng chỉ cần có thực lực, uy tin tốt bảo đảm cửa hàng sẽ có thắng lợi, đáng để đầu tư. Biện pháp này suy luận theo logic thì không sai, trong trường hợp bình thường cũng có thể làm được, nhưng không phải trường hợp nào cũng đúng.
Đầu tiên, những khu vực mở rộng thương mại trong nước hiện nay đang tồn tại những khoảng cách rất rõ ràng, rất nhiều cửa hàng được khai thác mở rộng từ những khu nhà được “chuyển nghiệp” mà thành. Họ là do bị sức cuốn của lợi nhuận cao của việc mở rộng thị trường thương mại để bước vào giai đoạn thị trường này, gọi là “trụ nhi ưu tắc thương” (ở chán rồi cũng làm thành cửa hàng), thực ra những người này rất thiếu những kinh nghiệm mở rộng thương mại và kinh nghiệm quản lý kinh doanh. Rất nhiều cửa hàng có cái tên thu hút khách hàng thực chất chỉ là những khu nhà thay đổi diện mạo thành mà thôi, thiếu đi khả năng kinh doanh phát triển dài lâu này.
Tiếp theo là những cửa hàng bán lẻ, tự doanh, phát triển đăng ký kinh doanh hoạt động như công ty. Khi đăng ký kinh doanh, hạng mục kinh doanh hoàn toàn ngẫu hứng, hoặc sao chép từ những bộ hồ sơ thành lập công ty khác trước đó do các văn phòng luật sư cung cấp. Nhưng với bản chất là kinh doanh nhỏ lẻ, thiếu tính chuyên nghiệp, nên sau khi hoạt động kinh doanh mới phát hiện ra bản thân còn thiếu nhiều kinh nghiệm ở tầm hoạt động mới. Những mơ ước nông dân trở thành doanh nghiệp đã nhanh tróng tiêu tan. Nguyên nhân cơ bản của sự thất bại này là hình thức hoạt động kinh doanh như kiểu bình mới rượu cũ. Tuy tư cách pháp nhân là một doanh nghiệp nhưng bản chất hoạt động kinh doanh và điều hành quản lý vẫn là kiểu kinh doanh nhỏ lẻ, tự phát. Như vậy, chúng ta có thể thấy, việc thay đổi hình thức không phải vấn đề quan trọng quyết định sự phát triển. Việc kinh doanh phải phù hợp với loại hình kinh doanh, phù hụp với năng lực quản lý, không nên vì cái lợi nhỏ mà khiến cho vốn liếng tiêu tan.
Người mà trong tứ trụ có Quốc Ấn quý nhân thì hầu hết đều thành đạt và có địa vị cao trong xã hội. Người này chủ về tính cách trung thực, nghiêm túc, nhân
Người mà trong tứ trụ có Quốc Ấn quý nhân thì hầu hết đều thành đạt và có địa vị cao trong xã hội. Người này chủ về tính cách trung thực, nghiêm túc, nhân hậu.
Chữ "Phúc"
Cách tra Quốc Ấn quý nhân là lấy can ngày hoặc can năm sinh làm cơ sở để tra các địa chi khác trong tứ trụ. Nếu tổ hợp tứ trụ nào ở vào một trong các trường hợp dưới đây là có Quốc Ấn quý nhân nhập mệnh.
1. Can ngày (hoặc can năm) là Giáp gặp chi Tuất trong tứ trụ.
2. Can ngày (hoặc can năm) là Ất gặp chi Hợi trong tứ trụ.
3. Can ngày (hoặc can năm) là Bính gặp chi Sửu trong tứ trụ.
4. Can ngày (hoặc can năm) là Đinh, Kỷ gặp chi Dần trong tứ trụ.
5. Can ngày (hoặc can năm) là Mậu gặp chi Sửu trong tứ trụ.
6. Can ngày (hoặc can năm) là Kỷ gặp chi Dần trong tứ trụ.
7. Can ngày (hoặc can năm) là Canh gặp chi Thìn trong tứ trụ.
8. Can ngày (hoặc can năm) là Tân gặp chi Tỵ trong tứ trụ.
9. Can ngày (hoặc can năm) là Nhâm gặp chi Mùi trong tứ trụ.
10. Can ngày (hoặc can năm) là Quý gặp chi Thân trong tứ trụ.
(Theo Dự đoán theo tứ trụ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Một ngôi nhà có cấu trúc "cửa đối cửa" sẽ sinh ra sát khí gây bất hòa, tranh chấp trong gia đình. Thế nào là cấu trúc “cửa đối cửa”? Từ xưa dân gian đã quan niệm rằng: “Trong một ngôi nhà, cửa sổ đại diện cho con mắt còn cửa chính đại diện cho cái mi
Một ngôi nhà có cấu trúc “cửa đối cửa” sẽ sinh ra sát khí gây bất hòa, tranh chấp trong gia đình.
Thế nào là cấu trúc “cửa đối cửa”?
Từ xưa dân gian đã quan niệm rằng: “Trong một ngôi nhà, cửa sổ đại diện cho con mắt còn cửa chính đại diện cho cái miệng của con người”.
Vì thế, nếu một ngôi nhà nào đó có cấu trúc “cửa đối cửa” thì điều đó ám chỉ trong gia đình ấy mà nhất là giữa hai vợ chồng chủ nhà khó tránh khỏi tình trạng thường xuyên bất hòa, tranh cãi với nhau.
Phong thủy học gọi đây là tình trạng “đấu khẩu sát”, tức là do loại khí trường xấu (còn gọi là sát khí) gây ra. Sát khí gây nên cảnh bất hòa, tranh chấp, đôi co, mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là giữa hai vợ chồng chủ nhà.
Tác hại của cấu trúc “cửa đối cửa”
Sát khí lớn nhất mà cấu trúc “cửa đối cửa” gây nên là làm ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ tình cảm giữa chủ nhân của hai gian phòng ấy.
Nếu như đối diện với phòng ngủ là phòng kho, phòng thay đồ… tức là những không gian không thường xuyên có người sống trong đó thì sát khí sẽ ảnh hưởng đến chủ nhân của phòng ngủ ấy.
Còn nếu như đối diện với phòng ngủ là phòng vệ sinh, phòng bếp hoặc thậm chí là cửa chính của ngôi nhà thì ngoài việc xảy ra những ảnh hưởng thường gặp do “sát khí cửa đối cửa” gây nên như nêu trên thì nó còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sức khỏe của chủ nhân ngôi nhà ấy.
Những ảnh hưởng xấu có thể xảy ra đối với chủ nhân khi phòng ngủ đối diện với các loại không gian chức năng khác:
– Đối diện cửa phòng ngủ của cha mẹ hoặc thư phòng: Ảnh hưởng dến mối quan hệ giữa hai vợ chồng hoặc với cha mẹ phía vợ hoặc có những bất hòa về mặt tình cảm với cha mẹ ruột của mình.
– Đối diện cửa phòng ngủ của con cái hoặc thư phòng: Có những bất hòa trong quan hệ tình cảm với con cái. Con cái hay cãi lại, không chịu nghe lời, khó dạy bảo, quản lý.
– Đối diện cửa phòng kho hoặc phòng thay quần áo: Xích mích xảy ra trong quan hệ tình cảm vợ chồng, hay cãi vã, đôi co không ai nhường ai, chiến tranh lạnh.
– Đối diện cửa phòng bếp: Bất hòa, xích mích xảy giữa hai vợ chồng, tình cảm sứt mẻ, sức khỏe bị ảnh hưởng.
– Đối diện cửa phòng vệ sinh: Bất hòa, xích mích dễ xảy ra làm ảnh hưởng xấu đến tình cảm vợ chồng, có hại cho sức khỏe.
– Đối diện cửa chính: Ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của hai vợ chồng. Xảy ra tình trạng rò rỉ, thất thoát tiền bạc của cải trong gia đình. Nam chủ nhân chịu ảnh hưởng xấu nhiều nhất.
Biện pháp hóa giải
Để hóa giải sát khí do cấu trúc “cửa đối cửa” gây nên thì biện pháp cơ bản nhất là chỉnh sửa vị trí của một trong hai cánh cửa ấy để chúng không còn đối diện với nhau nữa. Chú ý là cánh cửa mở ở vị trí mới cần có kích thước đúng tiêu chuẩn và không trùng với kích thước của cánh cửa kia.
Nếu vì một lý do nào đó mà biện pháp hóa giải căn bản ấy chưa thể thực hiện được thì có thể dùng biện pháp hóa giải tạm thời bằng cách treo ở hai cánh cửa đối diện nhau ấy những bức rèm vải hoặc những bức mành sáo bằng các vật liệu nhẹ, trang nhã và không gây tiếng động ồn ào.
Tuy là tạm thời nhưng những biện pháp này cũng phát huy được tác dụng hóa giải, ngăn cản sát khí do hiện tượng “cửa đối cửa” gây nên, ít nhất là về mặt tâm lý.
Nếu chọn giải pháp lâu dài, thì cách tốt nhất là trên đầu mỗi cửa nên treo kim bài “Thiên Quan Tứ Phước” hoặc “Thiên Quan Thí Phước” để hóa giải.
Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên 118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh. Những sao này được phân bố trên 12 cung của một lá số theo các quy tắc đã định dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người. Chính tinh có những đặc tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho nên những cung quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh tọa thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà Mệnh không có chính tinh nào tọa thủ, hay chúng ta thường gọi là Mệnh Vô Chính Diệu (VCD).
Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh VCD phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh VCD chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi. Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoạt ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của người VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh. Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người VCD thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, và tuổi đời không được thọ. Một đặc điểm quan trọng khác mà người VCD phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như đoàn quân không có tướng cho nên người VCD khi ra đời dù là làm công hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại.
Người VCD chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành. Người VCD tính tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Henry Kissinger ngày nay. Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người VCD. Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoảng tiền vận của cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.
Người VCD thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn. Là mẫu người có tài, có trí, họ có thể đạt được những công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh”. Cho nên người VCD ít ai có được tuổi thọ cao.
Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm con nuôi của người khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất khách quê người. Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người VCD vẫn được hai cách tốt:
1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì sách có nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi.”. Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như sấm chớp.
Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản chất của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi. Trường hợp Mệnh VCD gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt-xấu lẫn lộn cho nên không được trọn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt, trường hợp nào xấu. Trường hợp đắc tam không: Mệnh VCD có một sao không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt nhất.
Có câu: “Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ”. Cách này rất ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên đây cũng là một trong những cách hoạch phát. Trường hợp kiến tam không: Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di). Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ. Trường hợp ngộ tam không: Mệnh VCD có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung chiếu có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh.
Cách này là “Mệnh VCD ngộ tam không phi yểu tắc bần”, có nghĩa là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá tán.
2. Mệnh VCD được hai sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rỡ. Khoa Tử Vi gọi là “Mệnh VCD Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa”. Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không”. Điều đó xét ra không cần thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh. Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu.
Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện”. Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà thôi. Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh VCD, chiu dưới chỉ 1 người mà trên muôn vạn người. Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp với người Mệnh VCD.
Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời, ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không thành. Đó là đặc tính đáng chú ý của người có Mệnh VCD: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì khó. Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD ?
Phương pháp xem bát tự hợp hôn cực chuẩn cho người muốn lập gia đình
Khi dựng vợ gả chồng người ta thường có xu hướng xem hợp tuổi để xem tuổi đó có hợp nhau hay không, cùng xem 6 phương pháp dưới đây để có một cái nhìn tổng quát.
Phương pháp bát tự hợp hôn phổ biến nhất mà hầu như ai cũng biết là xem trụ năm của người nam và người nữ. Nếu trụ năm thiên hợp địa hợp thì hôn nhân tất cát, nếu tương sinh thì cũng là tốt, còn thiên khắc địa xung là hung.
2. Phương pháp thần sát
Căn cứ vào thần sát trong bát tự mệnh cục của người nam và người nữ để tiến hành hợp hôn. Nam mệnh mà bát tự có thần sát khắc thê thì lấy người chồng này cuộc sống sẽ không dễ dàng. Nữ mệnh mà trong bát tự có thần sát khắc phu thì người đàn ông nhất định phải thận trọng khi quyết định kết hôn. Phương pháp xem tử vi hôn nhân này có tính chiêm nghiệm rất cao.
(Ảnh minh họa)
3. Phương pháp dụng thần
Nếu nam nữ trong bát tự đều có dụng thần giúp đỡ cho nhau thì hôn nhân rất tốt, tương khắc thì xấu.
4. Phương pháp cầm tinh
Bát tự của người nam và người nữ có quan hệ đến luận định, nếu năm tương hại, tương xung hoặc tương hình thì rất không thích hợp để kết hôn.
5. Phương pháp tứ trụ hợp hôn
Đem bát tự của người nam và người nữ xếp hàng, trụ năm đối trụ năm, trụ tháng đối trụ tháng, trụ ngày đối trụ ngày, trụ giờ đối trụ giờ. Nếu tình huống tương hợp, tương sinh nhiều thì hôn nhân may mắn, nhưng tương xung, tương hình nhiều thì là tương khắc, đại hung.
6. Phương pháp nạp âm trụ năm
Xem bát tự, hai người có nạp âm của tuổi tương sinh hoặc tương hợp thì là đại cát, tương khắc là đại hung cho việc kết hôn.
Chùa Quan Âm tự còn có tên gọi khác là chùa Đức Trạch. Đi dọc theo quốc lộ 1A, từ Bắc vào hay từ trong Nam ra, đến phía Nam cầu Lý Hòa, rẽ về phía Đông khoảng 2 km là tới chùa Quan Âm Tự. Chùa tọa lạc tại xã Đức Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Vào tháng 7/1802, đời vua Gia Long, một ngư dân tên là Hồ Lương Đường, trong một lần đi đánh cá ngoài biển, đã kéo lên được một pho tượng bằng đá. Ngày hôm sau, ông lại kéo được 1 bệ đá và 2 chiếc cối, 2 chiếc chày bằng đá (theo các nhà khảo cổ học thì đây là đồ dùng của người Chăm). Nhân dân cho đây là điểm lành nên dân làng đã dựng một ngôi nhà bằng tranh tre thờ vị quan âm đó để cầu phúc cầu tài.
Trước đây vùng đất này không yên ổn, làm ăn thiếu may mắn. Nhưng từ ngày dựng “chùa” dân làng làm ăn phát đạt, làng xóm yên vui. Tiếng lành đồn xa, nhân dân trong vùng đến lễ chùa rất đông. Ngôi chùa trở nên chật hẹp, không đáp ứng được nhu cầu tâm linh của thiện nam tín nữ. Thể theo nguyện vọng của nhân dân, một ban vận động xây dựng chùa với quy mô lớn được thành lập.
Chùa được khởi công xây dựng năm 1843. Chùa Quan Âm Tự tọa lạc trên một khu đất cao khoảng 15m, rộng 10.000m2 trông giống như một bông sen khổng lồ, sát bờ biển và ngã ba sông Lý Hòa rất thuận tiện cho khách tham quan cả bằng đường thủy lẫn đường bộ.
Năm 1845, chùa hoàn thành. Đây là ngôi chùa có quy mô khá lớn. Chùa làm bằng gỗ lim, theo phong cách kiến trúc Phương Đông, có hàng rào xung quanh. Chùa có tiền đường, thượng điện, nhà thờ tổ, tam quan, gác chuông. Khác với chùa khác của Việt Nam, phần nhiều do giai cấp quý tộc hay đồng minh của nó xây dựng, nên thể thức kiến trúc không có tính chất dân gian.
Chùa Quan Âm Tự do nhiều cánh thợ ở các nơi đến làm. Mỗi cánh thợ làm một bộ phận. Vì thế các nhóm thợ thi nhau làm cho đẹp để lấy tiếng. Thợ làm chùa Quan Âm Tự là những người tự do, không bị quyền lực nào khống chế gò bó, câu thúc. Bởi thế những tác phẩm điêu khắc ở chùa trang trí đầy óc sáng tạo. Hình rồng, phượng ở chùa mỗi con mỗi vẻ. Xung quanh chùa là vườn cây trái, một không gian thoáng đãng yên tĩnh.
Buổi đầu chùa chỉ thờ tượng quan âm vớt được ở dưới biển. Về sau, do có nơi thờ phụng trang nghiêm nên tăng ni, phật tử trong chùa đã thỉnh về và nhiều vị cao tăng phật tử các nơi đã tiến cúng nhiều tượng cho chùa. Phật điện dần đông lên.
Hiện nay, trong chùa có tượng Hộ Pháp, bộ tượng Tam Thế Phật, tượng Phật A Di Đà, Quan Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Dược Sư Lưu Ly, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Phật Thích Ca sơ sinh, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Hộ Pháp Long Thiên, Đạt Ma Tổ Sư… tất cả có 30 pho tượng.
Các tượng được làm bằng chất liệu khác nhau như đá, đồng, gỗ và có niên đại từ thế kỷ 18 đến 19. Các hoành phi, câu đối sơn son thiếp vàng đa phần nói về phật pháp nhiệm màu và có nhiều bức đại tự. Chùa Quan Âm Tự có một số hiện vật rất quý như: Hai chiếc cối đá và 2 chiếc chày đá, có, niên đại khoảng thế kỷ thứ 7, thứ 8. Hai chiếc đại hồng dung được đúc vào thời Tự Đức, chuông nặng 200 kg, tăng ni, phật tử ở đây coi như một báu vật. Trên chuông khắc một bài văn bia ca ngợi chốn danh lam thắng tích, nhắc lại truyền thuyết vớt được tượng quan âm.
Chính điện Chùa Quan Âm Tự
Năm 1991, Với tinh thần trở về cội nguồn, giữ gìn một di sản văn hóa quý báu, các tín đồ trung thành với đức phật Thích Ca, đã góp công góp của xây dựng lại ngôi chùa khang trang như hiện nay.
Chùa đã có những đóng góp đáng kể trong việc phục vụ lợi ích xã hội.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chùa là nơi hội họp của chi bộ Đảng lãnh đạo nhân dân chống trả các cuộc càn quét của địch, bí mật đưa đón cán bộ cấp trên về chỉ đạo chiến đấu. Một số cán bộ trong số ấy đã nhiều lần bị địch vây giáp, truy kích nhưng do hóa trang thành phật tử đến hành hương nên đã thoát khỏi sự truy lùng của địch. Có pho tượng được đục thủng ở dưới đế để cất giấu tài liệu. Nhiều đồng chí hoạt động ở đây sau này đã trở thành những cán bộ chủ chất của tỉnh. Đặc biệt, có đồng chí Đặng Gia Tất sau này trở thành thư ký của đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư nổi tiếng của Đảng ta.
Chùa Quan Âm Tự nằm cạnh cửa sông Lý Hòa, sát bờ biển, trên một vùng đất rộng, không có gì che chắn, mùa đông thì ấm áp, mùa hè thì mát mẻ. Từ đây, nhìn ra xa là rừng phi lao, thông trãi dài tít tắp. Ở độ cao 15m, trước không gian rộng mở bao la, dường như không khí ở đây thoáng nhẹ hơn hẳn những nơi khác, chỉ cần bước vào khu vực nhà chùa ta đã cảm thấy như là sự yên tỉnh, trong sạch của chùa đã lọc đi trong lòng người những bụi bặm của đời thường, khiến ta cảm thấy thanh cao hơn, càng làm ta cảm cái ân tình của thiên nhiên mà người xưa đã chọn nơi đây để tạo dựng nên chùa.
Lễ hội ở đây cũng thật đa dạng. Hầu hết các lễ, vía của phật đều được nhà chùa tổ chức. Nhưng hàng năm, cứ vào ngày rằm tháng 4 (Âm Lịch) – ngày phật đản, nơi đây lại diễn ra hội lớn. Dòng người thiện nam tín nữ tấp nập từ các vùng xung quanh đỗ về chùa Quan Âm Tự dâng hương.
Đến dâng hương chùa Quan Âm Tự mà chưa ra biển thì chuyến đi chưa phải đã trọn vẹn. Sát chùa Đức Trạch là bãi biển rất đẹp với bãi cát dài thoai thoải. Cát ở đây rất trắng nên nước biển trong và sạch không khác gì nước trong bể kính. Ai đến đây cũng cảm thấy khoan khoái dễ chịu và được hít thở bầu không khí trong lành.
HÓA KHOA VŨ KHÚC Vũ Khúc là tài tinh chủ về hành động tìm đến với tiền bạc cho nên khi gặp Khoa để hóa với hai đặc điểm: a. Nổi danh về ngành nghề, khả năng nào đó rồi qua sự nổi danh ấy mà kiếm tiền. Tỉ dụ một nhà kinh tế gia được mời cai quản, tính thị trường cho hãng sản xuất.
b. Nếu tự tay kinh doanh thì đã nổi tiếng với một hai vụ làm ăn rồi từ đấy có đà phát triển.
Nói tóm lại Vũ Khúc Hóa Khoa kể là cách danh lợi song thâu. Nhưng danh ở Vũ Khoa khác với danh ở Thiên Cơ Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Khoa hay Tử Vi Hóa Khoa không phải danh trên văn chương, trên thế lực mà là cái danh của thực tế kiếm tiền.
Nếu Vũ Khoa gặp Liêm Lộc thường qua danh mà thâu lợi bất ngờ. Đã Vũ Khúc Hóa Khoa thì đương nhiên Thái Dương đứng với Hóa Kị (như người tuổi Giáp tứ Hóa an theo tuần tự: Liêm Phá Vũ Dương. Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái Dương Hóa Kị, danh cao bổng hậu cho người oán ghét ắt tai họa cũng gần chứ không xa.
Vũ Khúc Tham Lang đồng cung mà Vũ Khúc đứng bên Hóa Khoa cùng lúc lại có cả Linh hay Hỏa Tinh thì hoạnh phát mau hơn nhưng cũng lại vì dương danh vô lối mà thất bại chóng hơn.
Các nhà Tử Vi Trung Quốc chủ trương Vũ Khúc Hóa Khoa nên thành công qua nghề chuyên môn hơn là xông vào doanh thương, đỡ kẻ thù đỡ kẻ ghét.
Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Thê, vợ đoạt quyền chồng nhưng đồng thời cũng phù trợ chồng chứ không đoạt quyền để lăng loàn. Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Tử Tức không đông con và có nhiều khả năng con hai dòng nhưng con cái đa năng.
Vũ Khúc đơn độc đóng Phụ Mẫu dễ xung khắc với cha mẹ. Nhưng có Hóa Khoa không những bớt khắc mà còn sinh trưởng từ một gia đình uy danh. Cung Tật gặp Vũ Khúc Hóa Khoa gặp Hỏa Tinh phải coi chừng phổi nhiệt, khí quản viêm.
HÓA KHOA TỬ VI
Tử Vi rất hợp với Hóa Khoa, nếu cả Thiên Phủ đứng cùng càng hay vì khi có Thiên Phủ tất nhiên phải kèm Thiên Tướng như vậy kể là tạm đủ văn võ triều đình.
Ở trường hợp không Phủ Tướng mà lại thấy tứ Sát Hình Hao hội tụ thì Hóa Khoa vô dụng. Tuy nhiên về mặt học vấn vẫn xem là con người có học, ít nhiều đến được với khoa bảng.
Tử Vi Hóa Kị đứng với Xương Khúc Khôi Việt, Long Phượng thì đa tài đa nghệ theo đuổi một ngành nghề khả dĩ thành công.
Tử Vi Hóa Khoa có một điểm dở là bạn hữu, phần lớn Tử Vi Hóa Khoa đi với nhau ở cung Nô thường xấu. Tỉ dụ Tử Vi Hóa Khoa đóng Tí, cung Nô Bộc Thái Âm ở Tỵ đứng cùng Hóa Kị không bao giờ được sự đắc lực của thủ hạ hay bạn bè. Cung Nô cũng gây ảnh hưởng luôn với cung Bào Huynh. Như vậy Tử Khoa không có thể cộng tác với ai, cộng tác chỉ bị thiệt. Trường hợp sinh ban đêm hay Thái Âm đắc địa sẽ giảm những khó khăn trên. Tỉ dụ số nữ mà Tử Vi đóng Ngọ cung, Thái Âm ở Hợi đứng với Hóa Kị mà lại sinh ban đêm thì thuộc hạ bằng hữu thật hữu dụng.
Tử Vi Hóa Khoa tính tình khoan hậu, nhưng tính cách này lại rất dễ biến thành chủ quan, yêu ghét giận mừng một cách chủ quan khiến cho lòng khoan hậu vì thiện từ mà đâm phiền, có khi lại thành đố kị.
Cho nên Tử Khoa nếu vào vận Hình Sát ắt đưa đến tình trạng hoài tài bất ngộ, vào vận hanh thông lại dễ bị đố kị. Thà đừng Hóa Khoa thì cuộc sống yên hơn.
Các cung lục thân mà Tử Vi Hóa Khoa đều kể làm tốt. Tỉ dụ cung Huynh đệ Tử Khoa, anh em ruột thịt nâng đỡ, vào Phụ Mẫu được cha mẹ che chở, vào Thê cung dễ gặp vợ hơn tuổi nhưng đảm đang, vào cung Nô Bộc mà thấy cả văn tinh thì tài năng kém thuộc hạ, cần phải biết sử dụng khéo thì tình thế này mới hay. Tử Khoa đóng Tật Ách phải săn sóc hệ thống bài tiết nhất là nhiếp hộ tuyết.
HÓA KHOA THÁI DƯƠNG
Thái Dương bản chất là tán phát nên không thật thoải mái với Hóa Khoa. Hóa Khoa làm tăng thêm tính phát tán ấy cho nên dễ thành ra tiếng nhiều mà miếng ít. Bị người chú ý quá mức dù là ngưỡng vọng thì cũng phiền. Như quẻ dịch gọi bằng “Khang long hữu hối” là thế.
Thái Dương miếu địa đứng với Khoa không bằng đứng với Lộc, Quyền trên thực tế thâu hoạch tốt. Thái Dương Hóa Khoa cũng cần bách quan tề tựu mới thành đại sự, nếu chỉ gặp Sát Hình thì là hư danh hư lợi thôi, có khi còn bị thiên hạ lợi dụng nữa.
Nói về bách quan tề tựu cũng có hai hình thái khác biệt. Thái Dương Hóa Khoa nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến lời nói, nếu được văn tinh Xương Khúc chế giàm tục khí ngôn hành văn nhã, thiếu văn tinh sẽ thô lỗ, ẩu tả cho người đời đàm tiếu. Thái Dương hãm địa hoặc bị Tuần Triệt sự ẩu tả đậm nét hơn.
Có Xương Khúc rồi thêm Lộc Tồn càng đẹp. Cách Dương Lương Xương Lộc đóng vào Mão tốt nhất, trường hợp này Hóa Khoa sẽ đắc lực hơn Quyền Lộc nếu vào học thuật văn chương, nhưng lại không thành giàu có.
Thái Dương Hóa Khoa chỉ thành phú cách nếu xung chiếu bởi Hóa Quyền và cung Quan có Hóa Lộc. Được Thiên Mã Tả Hữu sẽ rất sớm thành công nếu như không bị Hỏa Linh Không Kiếp.
Dương Khoa có Cự Môn đứng cùng hay chiếu, ăn nói lý luận cứng cỏi vào ngành ngoại giao hay pháp luật hợp cách. Thái Dương Hóa Khoa ở hãm cung mà bị Không Kiếp sẽ vì danh vọng hão mà mang họa vào thân.
Dương Khoa đóng cung lục thân đều hay trừ cung Nô Bộc. Dương Khoa đóng Bào Huynh, Phu Thê, Phụ Mẫu những người thân ấy đều có danh vọng. Đóng vào Nô Bộc, thuộc hạ sẽ lợi dụng danh mình hoặc tựa vào mình mà vượt trội lên hơn mình. Dương Khoa vào lục thân cung nếu bị Đà La Không Kiếp lại thành ra bị lục thân bóc lột. Thái Dương Hóa Khoa đóng Tật Ách dễ bị bệnh ở buồng gan, can khí nhiệt uất bốc lên mặt làm thành bệnh mắt.
HÓA KHOA THIÊN CƠ
Thiên Cơ bản tính phù động, đứng với Hóa Khoa tính năng động ấy sẽ thành kế hoạch, giỏi về giao tế, thuyết phục thiên hạ. Khoa đi với Cơ tốt hơn Lộc đi với Cơ.
Khoa Cơ luôn luôn đeo đẳng một điểm phiền là gặp Hóa Kị đứng với Cự Môn (người tuổi Đinh tứ Hóa an theo thứ tự Âm Đồng Cơ Cự). Cự Kị đương nhiên này không tuyệt đối thành cặp hung thần nếu không bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để trợ giúp Cự Kị lập tức sinh phiền nhiễu do vạ miệng, do những lời phê bình sắc bén mà gây thù oán ảnh hưởng cho công việc làm.
Thiên Cơ Hóa Khoa càng thông tuệ, có điều Thiên Cơ đa học nhưng lại bất chuyên. Bởi vậy Cơ Khoa ít hy vọng thành một chuyên gia thật giỏi. Cơ Khoa sẽ chịu ảnh hưởng nhiều từ Cự Kị khi vận đi xuống. Bởi thế Cơ Khoa lúc đắc thời đắc thế cần thận trọng.
Ông Vương Đình Chi đưa ra lập luận sau đây: “Thiên Cơ đóng Mệnh rất ngại sao Thiên Lương đóng Phúc Đức (đó là cách Cự Cơ Mão Dậu đấy) sẽ đưa đến tình trạng tự thị thông minh mà rơi vào lầm lẫn to tát, khiến cho khả năng quyền biến thành hư ngụy, hoặc ra con người khinh bạc khó thành đại sự”
Cơ Khoa đóng Huynh Đệ, anh em bất hòa thường trực, hoặc bằng mặt mà chẳng bằng lòng, anh em cộng tác với nhau mà mỗi người lại tính toán riêng. Thà không Hóa Khoa còn hơn, có Hóa Khoa vào Huynh Đệ không chỉ ảnh hưởng đến anh em mà còn ảnh hưởng đến cả bè bạn. Có Hóa Khoa tóm lại khó lòng gặp được người cộng tác trung thực.
Cung Tật Ách thấy Cơ Khoa can hỏa vượng thịnh, khó ngủ vì tâm thần bất giao do sự hun nóng của lá gan đưa đến thần kinh suy nhược.
HÓA KHOA VĂN XƯƠNG Xương Khúc tuy là phụ tinh nhưng cũng dự phần vào chuyện an tứ Hóa. Một phụ tinh nữa dự phần tứ Hóa là sao Hữu Bật. Xương Khúc chủ văn chương nên gặp Hóa Khoa kể như hữu lý.
Một phái hệ Tử Vi bên Trung Quốc không chấp nhận Hữu Bật đứng với Hóa Khoa, nhưng đấy chỉ đặt vấn đề thôi, không được giải quyết.
Thời xưa do khoa cử mà nên công danh (dĩ nhiên cũng không thiếu gì người qua dị lộ mà có công danh). Bởi vậy khi chuyển vào số mà chủ trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương Khoa rất đáng mừng. Vận gặp Xương Khúc Hóa Khoa cũng thuận lợi cho công danh.
Đời bây giờ Xương Khoa không còn sức mạnh để đạt công danh như ngày trước, chỉ xem là giành được phần khoa bảng thôi.
Văn Xương chủ về văn thư khế ước, viết sách nổi tiếng, hoặc có văn bằng mà thành danh giá. Xương Khoa Hóa Lộc đi cùng khả dĩ nhờ một khế ước mà có tiền. Xương Khoa cần có thêm Tấu Thư càng dễ nêu cao danh vọng. Xương Khoa cũng là dấu báo của một tin vui. Xương Khoa là một con người giỏi thích ứng với cuộc sống, yêu đời.
Xương Khoa vào vận hạn hay các cung lục thân mà gặp nhiều hung sát tinh thì lại không tiếp tục mang tính chất mừng vui hỉ khánh nữa mà có thể ra tang lễ. Tại sao? Vì Xương Khoa chủ về lễ nhạc kèn trống tế lễ.
Thê cung thấy Xương Khoa đi cùng Đào Hoa vào cổ thời là con người ưa lấy vợ lẽ thiếp hầu, ở thời này thường xảy ra những cuộc tình ngoại hôn. Xương Khoa vào cung Tật Ách mà có Hỏa hay Linh thì bệnh tật để lại vết sẹo, như giải phẩu hoặc nám da.
HÓA KHOA THIÊN LƯƠNG
Thiên Lương chủ quí nên cần gặp Hóa Khoa để mà danh dự. Cơ Lương đi cặp đứng cùng Hóa Khoa là con người quản trị giỏi. Thiên Lương Hóa Lộc dễ được người tin cậy.
Cách Cơ Cự Đồng Lương được Hóa Khoa là một cán bộ hành chánh cừ khôi, hoặc là loại chuyên viên có hạng. Cao thấp còn tùy sao bản mệnh.
Lương Khoa trên tính tình là con người từ ái, chuộng nghĩa khinh tài. Lương Khoa mà gặp Văn Khúc Hóa Kị đối xung thì sức lực bị giảm hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết xét nét tiểu tiết nhỏ nhặt.
Lương Khoa có Tấu Thư học vào ngành viết diễn văn, làm đổng lý phụ tá đắc lực.
Lương Khoa đi cùng Thiên Đức Giải Thần học thuốc dễ thành công.
Thiên Lương Thiên Đồng hễ có Hóa Khoa thì không sợ thấy Thiên Mã, không Khoa chỉ có Thiên Mã thôi Đồng Lương sẽ ra lãng đãng, bông lông.
Đồng Lương Hóa Khoa có Thiên Mã thành ra con người giao du rộng rãi “tứ hải văn danh”. Ngay cả Thiên Lương Tỵ Hợi mà được Khoa cũng giảm bớt chất phiêu bồng thêm Khôi Việt nữa thì qua cơn phiêu lãng trải nhiều kinh hiểm khả dĩ nên công. Lương Tỵ Hợi vào Thê cung dù có Khoa cũng vẫn không đẹp.
Lương Khoa đóng Phụ Mẫu hay Tử Tức đều tốt, được ân đức cha mẹ và con cái thành đạt. Thiên Lương đóng Tật Ách gặp Không Kiếp dễ bị tê thấp đau nhức, có Hóa Khoa càng nặng.
Nữ mệnh Thiên Lương Hóa Khoa đóng Tật Ách gặp Linh Hỏa bị lưu sản, bệnh lộn xộn đường kinh. Từ trước tới giờ người ta nghĩ Hóa Khoa vào Tật Ách là giải hết bệnh hoạn, điều này qua kinh nghiệm không đúng
HÓA KHOA THÁI ÂM
Thái Âm là tài tinh, khi đã hóa thành Khoa khiến cho tài nguyên thuận lợi. Thái Âm Hóa Khoa vào kinh doanh hợp cách, dễ tạo thanh danh cho công việc kinh doanh mà sinh lợi. Tỉ dụ một tiệm ăn nổi tiếng, tiệm quần áo nổi tiếng….
Thái Âm khác Thái Dương ở điểm: Thái Dương trải ánh sáng đi, tán quang trong khi Thái Âm lại liễm ánh sáng tới. Bởi thế nên sự thành danh cũng khác với thành danh của Thái Dương. Thái Dương mở rộng ra quần chúng, Thái Âm lại cần hạn hẹp với lợi ích bản thân.
Thái Âm Hóa Khoa tạo tính lạc quan, dễ sống, thích nghi hưởng thụ. Thái Âm Hóa Khoa đóng Phúc Đức quan niệm sống thoải mái với hưởng thụ nhân sinh. Do đó mới có luận cứ rằng: Âm Khoa đóng Mệnh đắc địa không hay bằng đóng Phúc Đức trên mặt nhàn nhã hưởng thụ. Vì Âm Khoa ở Mệnh thì cung Phúc Đức có Cự Môn thường đưa đến tình trạng đam tâm thái quá dễ mệt mỏi tinh thần.
Âm Khoa vào Tài Bạch cung thì cung Mệnh sẽ là sao Thiên Lương thủ. Tiền bạc không do tự tay mình tung hoành mà nhờ thanh vọng chức tước sẵn có để hưởng bổng lộc. Thái Âm đóng hãm cung mà có Hóa Khoa càng vô duyên với những vụ đầu tư, hãy theo đuổi chức nghiệp thì hơn.
Thái Âm hãm đứng với Hóa Khoa ở Tật Ách chủ về bệnh âm hư. Âm Khoa đắc địa vào cung lục thân Phụ Mẫu Tử Tức xem là tốt đẹp kể luôn cả Thê cung, nhưng nếu lạc hãm thì ngược lại.
HÓA KHOA VĂN KHÚC
Xương hay Khúc đều là văn tinh cho nên đương nhiên cần Hóa Khoa. Thời xưa cho rằng Văn Khúc không bằng Văn Xương vì Văn Khúc mang khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Khúc Hóa Khoa cùng với Ấn Quang Thiên Quí tốt hơn Văn Khúc chỉ với một Hóa Khoa, như vậy mới thành cách “Ân Khoa”. Cách này dễ được đề bạt vào chức vị.
Văn Khúc sao có tài ăn nói nếu gặp Cự Môn Hóa Lộc thì nói ra tiền, hoặc vì giỏi ngôn từ mà được người đời tin cậy. Văn Khúc cũng chủ về thuật số đứng với Khoa và Cơ Âm học về thuật số khả dĩ nổi danh.
Văn Khúc Hóa Khoa chịu ảnh hưởng nhiều từ các sao mà chúng đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi Thất Sát không ưa Văn Khúc Hóa Khoa lắm. Tử Sát chủ về quyền lực, Khúc Khoa không làm tăng tấn quyền lực, đôi khi còn làm trở ngại cho khả năng quyết đoán.
Vũ Khúc có thể cần Văn Khúc thôi, nhưng không cần Văn Khúc với Hóa Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham, quyết định thì là dùng dằng mà hỏng việc. Nhưng Thiên Cơ Thiên Lương thì tuyệt đối cần Văn Khúc Hóa Khoa. Cơ Lương có được Khúc Khoa thanh vọng tăng lên, nhưng đồng thời cũng mang một khuyết điểm là nhiều lý thuyết hơn hành động.
Cự Môn Hóa Lộc đứng với Văn Khúc Hóa Khoa tài ăn nói hơn người với điều kiện đừng có Sát Kị tinh. Gặp Sát Kị sẽ bị họa do ngôn từ. So Xương với Khúc thì Văn Xương thiên về tư tưởng, Văn Khúc lại ngả về hành động. Văn Xương khi suy tư rất sáng nhưng vào hành động lại vụng về, trong khi Văn Khúc suy tính không tinh sảo nhưng hành động đắc lực.
Khúc Khoa vào cung Phúc Đức ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời. Khúc Khoa đóng Mệnh mà Thê cung lại thấy Văn Xương Hóa Kị thì trước khi có vợ đã có thiếp. Nữ mệnh mà như thế lúc lấy chồng không còn là con gái nữa. Nó không rõ rệt như Tham Đào nhưng là ngấm ngầm.
HÓA KHOA THIÊN PHỦ
Thiên Phủ ưa nhất Lộc. Khoa đối với Phủ chỉ là thứ yếu. Thiên Phủ thiếu Lộc mà gặp cả Sát tinh như Triệt Tuần, Linh Hỏa, Không Kiếp sách gọi bằng: “Phủ khố không lộ” (kho thủng, kho không cửa ngõ). Khoa vào chẳng giúp ích được gì.
Thiên Phủ Hóa Khoa không bị sát tinh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Thiên Phủ Hóa Khoa gặp Sát tinh nên học một nghề cho tinh để vinh thân.
Phủ Khoa thành một cách đặc biệt nếu gặp Thiên Riêu đứng bên. Hễ có Riêu thì không sợ các sát tinh. Thêm Sát tinh càng tốt, biến ra con người nhiều mưu chước kinh doanh tài chánh, hoàn cảnh càng biến hóa càng lên cao. Phủ Khoa Riêu không Sát tinh thì chỉ là con người gây được tín nhiệm của thiên hạ nhưng coi chừng tâm tư người này quá lớn.
Tử Vi Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ Hóa Khoa kể làm tốt nhất là với người tuổi Nhâm vì còn hội thêm với Quyền Lộc. Phủ Khoa trong trường hợp trên đem lại khả năng lãnh đạo và được người tin cậy miễn đừng thấy Hóa Kị đứng bên Vũ Khúc. Có Vũ Kị biến ra lý tưởng quá mức mà đưa đến không tưởng.
Phủ Khoa đóng lục thân, có thể tin cậy trong mọi công việc làm ăn. Tỉ dụ vào cung Bào hãy cộng tác với anh em ruột thịt. Phủ Khoa đóng Thê cung hay Phu cung luận đoán phức tạp hơn. Vì Phủ ở Thê thì Mệnh là Tham Lang. Phủ Khoa như vậy người phối ngẫu sẽ chỉ phúc hậu với điều kiện hơn tuổi (vợ già hay chồng già). Phủ Khoa gặp Sát tinh đóng Tật Ách thường bị bệnh ở bộ phận tiêu hóa: dạ dày, ruột.
Xem mức độ giàu có của bạn qua đường chỉ tay Thái Dương |
Bạn có thể dể dàng tìm thấy đường Thái Dương của mình, chính là đường chỉ từ gốc ngón áp út kéo thẳng xuống. Khi cung Tài Bạch của bạn phát triển không tốt nhưng đường Thái Dương thì đường tiền tài của bạn cũng khả quan hơn. Hôm nay chúng tôi sẽ hướn
Tục xăm hình lên người có từ nghìn xưa ở Việt Nam mà sử sách đã ghi chép rõ ràng - mục đích nhằm để xua đuổi loài thủy quái khi phải bơi lội dưới nước... Đến thời các vua Trần, quân Đại Việt nước ta đã xăm hai chữ “Sát Thát” lên hai cánh tay để hiển
Tục xăm hình lên người có từ nghìn xưa ở Việt Nam mà sử sách đã ghi chép rõ ràng – mục đích nhằm để xua đuổi loài thủy quái khi phải bơi lội dưới nước…
Đến thời các vua Trần, quân Đại Việt nước ta đã xăm hai chữ “Sát Thát” lên hai cánh tay để hiển thị lời thề tử chiến đến cùng với quân Mông Nguyên để bảo vệ tổ quốc. Ngày nay xăm hình lên người phần đông nhằm mục đích thẩm mỹ, hoặc ghi sâu một kỷ niệm, hoặc nhằm để tạo dấu ấn “cát tường” nào đó.
Chẳng hạn để biểu lộ vẻ oai vệ, hùng mạnh và uyển chuyển, hiện có nhiều bạn đã xăm hình Rồng khá đẹp lên ngực, lên lưng và tràn lên cả hai vai nữa. Theo các nhà Đông phương học và nghiên cứu lá số tử vi gia truyền, thì hình Rồng xăm cho các bạn có tuổi Thân (khỉ) và tuổi Tý (chuột) là tốt nhất. Vì Rồng là con vật cầm tinh của tuổi Thìn, mà tuổi Thìn, tuổi Thân và tuổi Tý là 3 tuổi tam hạp (rồng, khỉ, chuột) trong hệ thống tuổi đời 12 con giáp. Các tuổi khác cũng xăm hình Rồng được và đều mang lại “vùng ảnh hưởng” tinh thần đối với người chung quanh.
Riêng người tuổi Mùi (dê) đi xăm hình con vật cầm tinh tuổi Thìn (rồng) sẽ không được may mắn lắm vì hai con vật này (dê và rồng) nằm trong 6 cặp đối lập xung khắc dữ dội với nhau (gọi là lục hình xung và kỵ) gồm: 1. Thìn – mùi 2. Tý – mẹo 3. Dần – tỵ 4. Thân – hợi, 5. Tuất – sửu 6. Ngọ – dậu. Sáu cặp “lục hình” này khá quan trọng nên dùng xem xét luôn trên các lĩnh vực khác chứ không chỉ riêng việc chọn hình để xăm.
Trong nam giới, hình cọp (Dần) cũng được nhiều bạn chọn xăm, nhất là các bạn có tuổi cầm tinh con ngựa (Ngọ) và chó (Tuất). Vì 3 tuổi Dần – Ngọ – Tuất (cọp – ngựa – chó) hợp nhau – gọi là tam hợp. Tam hợp còn có: Tỵ – Dậu – Sửu và Hợi – Mẹo – Mùi. Riêng người tuổi Tỵ (rắn) nên tránh xăm hình cọp lên người vì tuổi Dần (cọp) và tuổi Tỵ (rắn) không hợp nhau. Đó là một cặp xung khắc, đặc biệt là khắc khẩu cãi vả nhau…
Ngoài hình các loài vật thường được xăm như rồng cọp nêu trên, hoặc chim bướm, ngựa voi, hoặc các đồ vật như mũi tên, tháp vàng, kim cương, hoặc các biểu tượng tình yêu như trái tim, nốt nhạc trầm, người ta còn xăm các dòng chữ, hoặc một số mẫu tự nói lên tính cách, sở thích, kỷ niệm của họ. Như khi thấy người nào đó xăm chữ A có thể là viết tắt tên của người mình yêu như Ngọc Ánh, Hoàng Anh…
Nhưng đối với rất nhiều người ở Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Mayanmar và cả Việt Nam đã xăm chữ A lên người với một ý nghĩa thiêng liêng và cao đẹp. Vì chữ A được nhiều dân tộc và các tôn giáo trên thế giới xem là “mẹ của tất cả các tiếng nói”. Mới sinh ra ai nấy đều mở miệng phát âm chữ A rồi. Lớn lên khi cầm bút để viết, các nhà ngôn ngữ học uyên bác của nền văn minh phương Đông đều bắt đầu hạ một dấu chấm (.) biểu thị cho chữ A là “mẹ của tất cả các chữ”.
Ở Việt Nam, Tây Tạng, từ xưa đến nay – những người theo Mật giáo và trì chân ngôn (Phật chú) tập trung quan sát chữ A là phép quán quan trọng nhất của họ vì theo họ chữ ấy “như một tiếng sét đánh vỡ cánh cửa của kho tàng kim cương đại giác”. Từ quan niệm đó người xăm chữ A trước ngực hoặc trên cánh tay biểu lộ đời sống tâm linh mà mình đang hội nhập. Về nghĩa thông thường trong xã hội người xăm chữ A muốn có những điều “bắt đầu” thuận lợi với sự phù hộ của tổ tiên ông bà và những người khuất mặt đang nắm giữ các quyền năng siêu hình.
Một chữ khác cũng khá phổ biến trong hình xăm ở Việt Nam hiện nay là chữ Vạn, có người xâm chữ Vạn lên trán, hoặc xăm rất lớn giữa ngực mình. Chữ này phổ biến từ xa xưa thời cổ đại ở Ấn Độ, Ba Tư, Hy Lạp, trong Bà-la-môn giáo, Kỳ-na-giáo với ý nghĩa là ánh sáng mặt trời (soi đường thành công), là dòng nước đang chảy (biểu thị sự luân chuyển hanh thông, may mắn), là ánh chớp đêm ngày (biểu thị sự lanh lẹ thông minh). Chữ Vạn tiếng Phạn (Sanskrit) cũng là dấu hiệu biểu thị sức mạnh công đức của Phật và chư Bồ Tát gia trì và gia hộ cho mọi người. Người ta tin rằng xăm chữ Vạn sẽ trừ được tà khí, đem lại sức sống và bình an.
Các hình chữ A và chữ Vạn nói trên được phép xăm với bất cứ màu gì, nhất là hai màu xanh và đen. Hai màu này rất hợp với các bạn mạng Mộc như ở tuổi Nhâm Tý, Quý Sửu (cây dâu tằm), tuổi Tân Mẹo, Canh Dần (cây tùng bách), tuổi Kỷ Tỵ, Mậu Thìn (cây rừng đại ngàn), tuổi Quý Mùi, Nhâm Ngọ (cây dương liễu), tuổi Tân Dậu, Canh Thân (cây thạch lựu), tuổi Kỷ Hợi, Mậu Tuất (cây bình địa sát mặt đất). Cần biết theo những nhà nghiên cứu nhân tướng học, những bạn có mạng Kim nêu trên không phù hợp lắm với hai màu xanh và đen, vì thế khi xăm hình các bạn nên chọn những màu khác.
Đối với các bạn nữ, thường thích xăm hình các loài hoa nhiều màu là điều tự nhiên và dễ hiểu. Nếu bạn nữ nào thuộc mạng Kim ở tuổi Giáp Tý nên xăm hình loài hoa có hai màu trắng và vàng – bởi hai màu ấy hạp với tuổi bạn, như hoa mai trắng (bạch mai) hoặc hoa mai vàng (hoàng mai) có 5 cánh, 10 cánh hoặc nhiều cánh hơn nữa thường nở rộ vào Tết Nguyên đán để đời luôn tươi và vui như ngày Tết.
Đó là lấy hoa mai làm ví dụ chứ bạn có thể xăm nhiều loài hoa khác với các giống hoa đủ hai màu như hoa hồng trắng, hoa hồng vàng – thược dược trắng, thược dược vàng, cũng tốt. Những điều trên của tuổi Giáp Tý đồng thời cũng ứng dụng với các bạn có mạng Kim ở tuổi Giáp Ngọ (vàng pha trong cát), tuổi Tân Tỵ và tuổi Canh Thìn (vàng đỡ chân đèn), tuổi Quý Mẹo (vàng trắng), tuổi Ất Sửu (vàng giữa biển), tuổi Ất Mùi (vàng trong cát), tuổi Nhâm Thân và Quý Dậu (vàng trong kiếm), tuổi Canh Tuất và Tân Hợi (vàng trang sức). Các bạn “tuổi vàng” như trên ngoài hợp hai màu xanh, đen, không hợp với màu đỏ. Màu đỏ (và xanh) hợp với các bạn mạng Hỏa. Màu đỏ (và vàng) hợp với các bạn mạng Thổ. Màu đen (và trắng) hợp với các bạn mạng Thủy.
Nhưng nếu bạn là người dễ chịu, rộng thoáng, không muốn phải đi vào khuôn khổ của khoa học siêu hình nào hết, ắt bạn tự quyền chọn lựa bất cứ loại hình nào, loại hoa nào, loại sắc màu nào để xăm cũng được.
Trong trường hợp này cả một thế giới hoa mở ra để bạn tự chọn như hoa mơ, hoa tử đinh hương, hoa kim ngân, hoa kim châm, hoa sứ, hoa mặt trời, hoa pensée, hoa chuỗi ngọc và hàng trăm tên gọi quyến rũ của những tóc tiên, đỗ quyên, hướng dương, trạng nguyên, uất kim hương, tường vi, ngọc nữ, ngọc lan, hải đường, mimosa, bạch hạc, hoàng thảo, thủy tiên…
1. Tính thực tế Ở một nước trong thực tế có nhiều người cùng thời trùng tên, trùng họ thậm chí trùng cả đệm Họ hay phụ tên. Song rất hãn hữu có trường hợp trùng cả giờ, ngày, tháng, năm sinh. Vì thế mà “khí lực” họ và tên sẽ khác biệt. Họ và tên có “
Ở một nước trong thực tế có nhiều người cùng thời trùng tên, trùng họ thậm chí trùng cả đệm Họ hay phụ tên. Song rất hãn hữu có trường hợp trùng cả giờ, ngày, tháng, năm sinh. Vì thế mà “khí lực” họ và tên sẽ khác biệt. Họ và tên có “khí lực” song nó khác nhau ở tuổi tác và thời đại. Nó khác nhau về gia cảnh. Một phần khí lực vì cùng tên có giống nhau về năng khiếu, bản chất. Nhưng không bao giờ có các điều kiện “hậu thiên” giống hệt nhau. Thời vận và Mệnh vận hoàn toàn khác nhau cho nên dù có đặt tên giống y hệt các vĩ nhân, trí sỹ, học giả v.v… thì không thể sẽ trở nên giống họ. Đó là bí ẩn của “Thiên khí” và “nhân lực” tác động qua họ và tên. Họ và tên chỉ cho ta một phần thông tin cơ bản về một cá nhân chứ không phải là toàn bộ, là tất cả.
2. Tên và các quan hệ nội sinh
Mệnh vận một con người lệ thuộc nhiều mối quan hệ nội sinh (năng lực trí tuệ v.v…) và ngoại lực (gia cảnh, quan hệ, pháp luật, điều kiện, xã hội, đất nước v.về..) tác động vào con người cụ thể trong một không gian và thời gian nhất định. Ta không nên nghĩ rằng thông tin mà ta có được từ số hóa họ và tên và thông qua các số biểu lý cụ thể là thông tin toàn bộ. Người nào cũng vậy đều có một phần lớn các điều kiện “Hậu thiên” giống nhau. Đó là hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh đất nước; được hưởng một phần giáo dục và những lợi ích công cộng mà xã hội dành cho. Ở đây nói là “một phần” vì có người có thời gian được đến trường ít hơn thời gian của người kia. Người sống ở thành phố thì được hưởng các điều kiện phúc lợi công cộng nhiều hơn người sống ở nông thôn hay ở miền núi. Do vậy, tuy cùng tên họ và tên gọi, đệm họ hay phụ tên, có cùng số biểu lý và số biểu thế âm dương Ngũ Hành nhưng phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể của bản thân mà đối chiếu để tìm thông tin ở phần định tính biểu lý (phần sau) một cách thận trọng. Bởi vì trong phần định tính biểu lý đưa ra nhiều thông tin riêng biệt chứ không cho một cá nhân tất cả các thông tin đó.
– Ví dụ định tính chỉ ra ba biểu thế là: Thủy – Mộc – Mộc: Có định tính là: Được giúp đỡ, thành đạt, thành công lớn, giàu có, vinh hoa, hạnh phúc, sống thọ…
Tuy có trùng tên họ song ta cần phải hiểu qua các định tính trên thì:
+ Người học hành theo con đường công danh sẽ thành đạt lớn, quan to, lộc hậu.
+ Người làm thương mại thì sẽ thành công lớn, tức buôn bán phát đạt, gặp nhiều may mắn…
+ Người thành danh thì sẽ giàu có vinh hoa, chức to.
+ Người sẽ có gia đình hạnh phúc yên vui.
+ Người khỏe mạnh sẽ thọ trường…
Như thế nhiều người có họ tên giống hệt nhau sẽ có số lý, số biểu lý, biểu Thế Âm Dương Ngũ Hành giống nhau và sẽ không có cùng định tính. Song ta phải tuỳ vào từng người với từng điều kiện sống của mình mà thấy thông tin nào ứng vào mình là hợp. Có nhiều người phù hợp phần lớn các thông tin đã cho mà thôi. Ví dụ một người làm nông nghiệp sống ở nông thôn thì người đó sẽ không thành danh, vinh hoa phú quý được. Song người đó sẽ thành công lớn trong chăn nuôi, trong trang trại. Và đương nhiên người đó cũng giàu có nhưng không vinh hoa. Và lại có người chỉ có một gia đình hạnh phúc mà thôi.
– Lý giải điều này để trả lời cho các trường hợp có tên họ và tên gọi giống hệt nhau thì không phải cứ giống hệt nhau cả về các định tính đã cho. Và vì thế mà phép dự đoán qua số hóa họ tên là tin cậy.
Điều cần thiết là nhận thức sâu những suy biện mà vận dụng để tìm thông tin bổ ích cho bản thân
Bếp là vị trí phong thủy rất quan trọng trong ngôi nhà của bạn. Trong dân gian có khá nhiều cẩn trọng và kiêng kỵ đối với vị trí và không gian bếp, cũng như các vận dụng trong nhà bếp
- Trích từ ĐIỀM BÁO VÀ KIÊNG KỴ TRONG DÂN GIAN / Đặng Xuân Xuyến
1. KIÊNG ĐẶT BẾP Ở VỊ TRÍ “TỌA CÁT HƯỚNG HUNG”
Theo quan niệm của phong thủy, bếp ăn nên đặt ở vị trí “tọa hung hướng cát”, có nghĩa là nên đặt bếp nằm ở hướng dữ nhưng (núm, cửa bếp) nhìn về phương lành để bếp nấu có thể hỗ trợ việc áp chế những luồng khí gây bất lợi cho gia chủ. Khí dương mà lửa bếp sinh ra có thể điều hòa các loại khí bất lợi khác giúp cải thiện được phong thủy của căn nhà một cách hiệu quả.
2. KIÊNG ĐẶT BẾP Ở HƯỚNG TÂY
Cổ nhân cho rằng, không nên đặt bếp ở hướng Tây vì hướng Tây thuộc hành Kim sẽ khắc với bếp thuộc hành Hỏa. Hơn nữa, khi chiều mặt trời lặn về hướng tây với ánh nắng gay gắt sẽ chiếu xiên thẳng vào bếp (là điều cực độc về phong thủy) không những làm không khí oi bức, ngột ngạt trong gian bếp, gây khó khăn, bất tiện cho việc nấu nướng, còn làm cho thức ăn dễ ôi thiu, nhanh bị hư hại.
Phong thủy cho rằng nếu đặt bếp ở hướng tây, những người sống trong căn nhà đều bị ảnh hưởng không tốt về sức khỏe, dễ sinh bệnh tật. Vì vậy, tốt nhất nên tránh đặt bếp ở hướng tây.
Nếu chẳng may phòng bếp nằm ở hướng Tây, có thể khắc phục bằng cách bày trí hoa thủy tiên hoặc các loại hoa màu vàng, đặt cạnh cửa sổ phòng bếp để ngăn chặn khí độc, ngăn cản sát khí và hút vượng khí vào nhà.
3. KIÊNG ĐẶT BẾP Ở HƯỚNG NAM
Người xưa khuyên không nên đặt bếp ở hướng Nam vì theo quan niệm phong thủy, hướng Nam thuộc hành hỏa và hỏa khí của hướng Nam rất mạnh. Nếu đặt ở hướng Nam thì hai hỏa gặp nhau sẽ hết sức nóng, không có lợi cho gia chủ. Trường hợp đặt bếp ở hướng nam, phạm vào thế “Lưỡng hỏa hỏa kiệt”, sẽ làm bất lợi về sức khỏe, lộc tài cho gia chủ, vì thế rất cần kiêng kỵ.
Ngoài ra, quan niệm phong thủy thì phòng bếp hướng Nam sẽ khiến chủ nhân có xu hướng tiêu nhiều, tán lộc. Để khắc phục trường hợp phòng bếp toạ ở hướng nam, kinh nghiệm dân gian khuyên nên trồng ở phía ngoài gian bếp những loại cây có nhiều lá hoặc cây có lá to, để làm giảm ánh nắng của mặt trời vào phòng bếp, và giảm bớt xu hướng tiêu tán tài lộc của gia chủ.
4. KIÊNG ĐẶT BẾP Ở HƯỚNG BẮC
Quan niệm phong thủy cho rằng việc đặt phòng bếp nằm ở hướng Bắc là hướng không tốt, vì bếp thuộc lửa (hỏa), kỵ nhất với khí mát lạnh của nước (hướng Bắc có ngũ hành là Thủy), vì thế, khi làm nhà nên kiêng thiết kế phòng bếp quay về hướng Bắc.
Nếu chẳng may nhà có phòng bếp ở hướng Bắc, gia chủ nên khắc phục bằng cách tăng độ nóng của hỏa để giảm bớt sự lạnh giá của thủy, như: bày trí những cây hoa màu hồng, màu cam trên bàn hoặc trên tủ bếp, bởi những loại cây hoa này có thể tăng thêm sức sống cho phòng bếp. Ngoài ra, cần đảm bảo đầy đủ ánh sáng trong phòng bếp. Các vật dụng trong bếp như tạp dề, dép lê, khăn lau, khăn trải bàn... nên chọn màu ấm áp, giúp tăng sinh khí cho nhà bếp.
5. BẾP Ở HƯỚNG ĐÔNG NÊN KIÊNG BÀI TRÍ CÂY CẢNH
Sách phong thủy cho rằng, phòng bếp nằm ở hướng Đông được xem là hướng cát, hướng đại lợi, vì thế không nên bày trí cây cảnh ở hướng này vì như thế dễ làm ngăn chặn luồng khí tốt di chuyển vào trong nhà bếp, tạo ra những bất lợi cho những người cư ngụ trong ngôi nhà..
Nếu muốn tạo thêm vận khí tốt cho gia đình, có thể bày trí trên bàn hoặc tủ lạnh những loại cây hoặc hoa màu đỏ để góp phần bảo vệ sức khỏe cho gia đình.
6. KIÊNG ĐẶT BẾP NGƯỢC VỚI HƯỚNG NHÀ
Bếp đặt ngược với hướng nhà là bếp ngoảnh lưng về hướng cửa nhà, ví dụ nhà tọa nam hướng về bắc mà bếp lại tọa bắc hướng về nam, như vậy sẽ không đem lại may mắn, an lành cho gia chủ.
Đây cũng là một trong những điều kiêng kỵ cho gian bếp cần được gia chủ cẩn trọng.
7. KIÊNG ĐẶT BẾP Ở VỊ TRÍ TRUNG TÂM CỦA NHÀ
Theo quan niệm của phong thủy, đặt bếp ở vị trí Trung Cung hoặc Thượng Tâm của ngôi nhà là điều cực kỳ tối kỵ. Bởi vì Trung Cung là một cung bị động, nơi mà mạch Khí phải được ổn định và bình an, nếu đặt nhà bếp ở cung này sẽ mang lại sự xáo trộn về sức khỏe và những khó khăn liên tục, triền miên cho những người cư ngụ. Vì thế, ở vị trí Trung Cung hoặc Thượng Tâm của ngôi nhà không nên đặt bếp.
Vị trí tốt nhất để đặt gian bếp là thật sâu trong căn nhà.
Nếu có điều kiện về không gian, diện tích thì nên bố trí một phòng phía sâu sau nhà để làm gian bếp, một mặt của nhà bếp nên nhìn về chỗ thoáng của ngôi nhà như sân sau nhà, ban công, khoảng trống bên hông nhà… sẽ mang lại may mắn, phúc lộc cho gia chủ.
8. KIÊNG ĐẶT BẾP Ở CHỖ LỘ LIỄU, DỄ THẤY
Bếp không nên đặt lộ liễu và cũng rất kỵ đặt ngay cửa chính hoặc đối diện với cửa chính, đặt bếp như vậy dân gian gọi là “khai môn kiến táo, tài phú đa hao”, còn phong thuỷ gọi ngắn gọn là “Lộ Khẩu Táo”, sẽ không tốt cho gia chủ.
Cửa chính của ngôi nhà tuyệt đối không được nhìn thẳng vào miệng bếp. Chỉ cần xét về mặt công năng thì điều này cũng rất không hợp lý, người đứng bếp sẽ gặp khó khăn trong việc quan sát không gian bên ngoài, nhất là việc quan sát những người ra vào ngôi nhà.
Về phong thủy, đặt bếp hướng thẳng ra cửa chính không chỉ làm tiền nong trong nhà luôn thiếu hụt, mà còn tổn hại đến sức khỏe của những người cư ngụ.
Nếu vì điều kiện bất khả kháng, không thể có khoảng không gian khác để đặt bếp thì chỉ cần sắp xếp lại vị trí của phần bếp nấu sao cho tránh thẳng hàng với cửa ra vào, dễ quan sát và thuận tiện cho việc nấu nướng là ổn.
9. KIÊNG ĐẶT NHÀ BẾP ĐỐI DIỆN VỚI NHÀ VỆ SINH
Bếp là nơi nấu nướng đồ ăn thức uống cho cả gia đình, vì vậy không gian nhà bếp cần phải giữ vệ sinh, nếu không thì bệnh tật sẽ vào người qua đường ăn uống, làm hại đến sức khỏe, thậm chí còn có thể gây nguy hiểm đên tính mạng.
Nhà vệ sinh có rất nhiều thứ bẩn và vi trùng vì vậy bếp nấu không nên đặt gần nhà vệ sinh. Đặc biệt cửa bếp không đặt đối diện với nhà vệ sinh.
10. KIÊNG ĐẶT BẾP ĐỐI DIỆN VỚI PHÒNG NGỦ
Bếp là nơi nấu nướng nên thường nóng bức, sẽ không có lợi cho sức khỏe, hơn nữa, khi đun nấu khói dầu mỡ bay vào phòng ngủ, không có lợi cho sức khỏe, vì vậy nếu đặt bếp thẳng hướng với cửa phòng ngủ sẽ không tốt cho sức khỏe. Càng không tốt khi bếp đặt sát phòng ngủ, đặc biệt là với giường ngủ, sẽ làm cho người cư ngụ cảm thấy nóng bức, ngột ngạt, tâm trạng bất ổn, dễ sinh bệnh.
11. KIÊNG ĐỂ SAU BẾP LÀ KHOẢNG TRỐNG
Phong thủy cho rằng, bếp nên tựa vào tường, sau bếp không nên là khoảng không (không có tường kín) thì lộc tài của gia chủ mới giữ vững được.
Nếu như ở phía sau bếp là cửa chính, để cho ánh sang mặt trời chiếu qua cũng không tốt, như vậy sẽ bất lợi cho phúc lộc của gia chủ. Sách xưa đã nói: “Cửa bếp nấu nướng nên kiêng cho ánh sáng chiếu vào”. Vì thế không nên đặt bếp ở vị trí trống trải, không có tường ở phía sau lưng bếp.
12. KIÊNG ĐẶT BẾP TRÊN RÃNH MƯƠNG, ỐNG NƯỚC
Bếp thuộc hành hỏa, còn nước thuộc hành thủy, mà trong tương quan ngũ hành, hỏa vốn kỵ thủy, nước và lửa không thể dung hòa, vì vậy lửa không nên để gần nước quá. Nếu đặt bếp trên đường nước là không thích hợp, sẽ đem lại những “xui xẻo”, bất ổn cho gia chủ. Vì thế, nếu muốn gia đình được yên ổn, tránh được những rủi ro thì khi thiết kế phòng bếp nên tránh đặt bếp trên rãnh mương, ống nước.
13. KIÊNG ĐẶT BẾP Ở VỊ TRÍ NHIỀU GIÓ
Nhà bếp phải được đặt ở vị trí tránh gió, phong thuỷ gọi là “tàng phong tụ khí”, nghĩa là nơi đặt bếp lửa nên tránh gió để được tụ khí. Nếu nhà bếp mà nhìn thẳng ra cửa chính hoặc phía sau bếp có cửa sổ là nơi lộng gió, rất không tốt về mặt phong thủy.
Tuy nhiên, nhà bếp là nơi rất quan trọng trong một gia đình do đó không khí gian bếp rất cần sự thoáng đãng, vì thế trong gian bếp nên đặt quạt thông gió hoặc máy hút khói dầu để làm sạch không khí sau khi nấu ăn, tạo không khí thoáng đãng, sạch sẽ cho gian bếp.
14. KIÊNG ĐỂ NƯỚC LỬA ĐỤNG NHAU
Bếp thuộc hành hỏa, còn chậu rửa bát thì chứa nước (thủy), trong tương quan ngũ hành là xung khắc, cái này (thủy) hủy diệt cái kia (hỏa), vì thế hỏa và thủy không nên để quá gần nhau; đặc biệt là càng không nên đặt bếp kẹt giữa hai bên là nước, ví dụ đặt bếp ở giữa, còn một bên là máy giặt, một bên là chậu rửa.
Theo quan niệm phong thủy, bếp nấu, chậu rửa và tủ lạnh không nên để trực diện mà phải cách xa nhau ít nhất khoảng 20 - 30cm để tránh cho lửa không có sự giao thoa gặp gỡ với nước, như thế là có thể yên tâm không phải lo gì về sự xung đột giữa Thủy và Hỏa.
Cách bố trí bếp phổ biến nhất dân gian là theo nguyên tắc hình tam giác, nghĩa là bếp - bồn rửa - tủ lạnh.
Trong trường hợp do vô tình thiết kế chậu rửa đối diện với bếp, có thể khắc phục bằng cách đặt một cây xanh hoặc một chiếc thảm có hoa văn cây cỏ ở giữa bếp và chậu rửa, để tránh sự xung đột giữa lửa và nước.
15. KIÊNG DÙNG ÁNH SÁNG MỜ ẢO CHO GIAN BẾP
Nhà bếp là nơi rất quan trọng trong cuộc sống gia đình do đó khi thiết kế gian bếp cần đặc biết lưu ý đến độ sáng và không gian thoáng đãng của gian bếp. Nếu không tận dụng được ánh sáng tự nhiên, thì nên sử dụng các loại đèn phổ quang để có ánh sáng mạnh và rõ.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nên hạn chế sử dụng đèn huỳnh quang vì loại ánh sáng này rất mờ, yếu và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của gia chủ, do vậy cách tốt nhất là nên lắp đèn tuýp hoặc đèn chùm.
16. KIÊNG CÓ XÀ NGANG ĐÈ LÊN TRÊN
Theo quan niệm của phong thủy thì giường ngủ hoặc ghế ngồi mà ở phía trên có xà ngang là không tốt, rất bất lợi cho chủ nhân.
Sách phong thủy có câu: “Xà ngang đè lên trên tất bất lơi”, vì thế, khi đặt vị trí của bếp nên cần tránh để xà ngang đè lên trên bếp. Nếu không tránh được, người nhà sẽ bị ốm đau bệnh tật, tổn hại cho sức khỏe vợ chồng, đặc biệt bất lợi cho nữ nhân, bởi sách phong thủy còn có câu: “Dưới xà có bếp, nữ chủ nhà tổn hao”.
17. KIÊNG ĐỂ GÓC NHỌN CHIẾU THẲNG VÀO BẾP
Phong thủy cho rằng góc nhọn sắc, rất dễ gây thương tổn, vì vậy nên kiêng có góc nhọn chiếu thẳng vào bếp!
Bếp là nơi nấu ăn nuôi sống cả nhà, đem lại sức khỏe cho cả nhà, vì thế nếu bếp bị góc nhọn chiếu thẳng vào sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người trong gia đình.
18. KIÊNG ĐỂ KHÍ THẢI CỦA NHÀ BẾP TRUYỀN SANG PHÒNG KHÁC
Không nên để khí thải từ bếp như hơi dầu mỡ, khói, mùi vị thức ăn truyền sang các phòng khác. Bởi khí thải từ bếp luôn mang theo những nguy cơ tiềm ẩn, bất lợi đối với sức khỏe con người.
Hơn nữa phong thuỷ cho rằng, một ngôi nhà cần phải được đảm bảo thông thoáng, luôn có khí tươi luân chuyển nên tuyệt đối không để khí thải ở gian bếp truyền sang phòng khác.
Nếu bếp chật chội, nên sắp xếp sao cho hợp lý, tạo không gian thoáng đãng hơn, đồng thời bố trí quạt thông gió, hút mùi… để tạo ra không khí tươi sạch. Còn nếu bếp nằm ở đầu hướng gió thì nên bố trí vách ngăn, hoặc bình phong để làm chuyển hướng luồng khí thổi từ bếp lan sang các phòng khác.
19. KIÊNG ĐẶT BẾP CHÉO GÓC
Các nhà phong thủy khuyến cáo không nên đặt bếp tọa chéo góc, vì theo quan niệm của phong thủy, bếp cần được đặt ngay ngắn, vững chắc, kín gió và nhìn về hướng cát. Có thể vì lý do không hợp hướng nên có gia đình đã đặt bếp toạ chéo góc để khắc phục nhưng nếu đặt không cẩn thận, không ngay ngắn sẽ rất dể gây ra bệnh về máu huyết… Vì thế nên tránh đặt bếp chéo góc.
20. KIÊNG ĐẶT BẾP ĐỐI DIỆN VỚI BAN CÔNG
Theo quan niệm của phong thủy thì ban công cũng không thể đối diện trực tiếp với phòng bếp, vì đây cũng có thể coi là một loại Xuyên Tâm, tuy không làm xấu đi về tình trạng sức khỏe của các thành viên trong gia đình nhưng sẽ phá vỡ mối đoàn kết, tương hỗ cần có. Hơn nữa, nếu phòng bếp, nhất là hướng bếp đối diện trực tiếp với ban công thì con cháu trong gia đình thường bỏ nhà đi hoang, thích “đèo bong”, “ăn phở ăn nem”...
Nếu bếp rơi vào trường hợp này, nên khắc phục bằng cách đặt chậu hoa hoặc trồng cây leo ngăn cách, sao cho trong ngoài không thông nhau là ổn. Hoặc có thể dùng rèm che, hay đặt huyền quan ngăn cách không cho ban công không thông thẳng với bếp là được.
21. KIÊNG ĐẶT BÀN THỜ TÁO QUÂN Ở HƯỚNG BẮC
Theo văn hóa dân gian thì bàn thờ Táo Quân đặt trong bếp là thể hiện tín ngưỡng của dân gian với mong muốn vị thần cai quản chuyện bếp núc sẽ phù hộ cho bếp lửa gia đình luôn được ấm cúng, nhà cửa được êm đẹp, gia đạo được thuận hòa, sung túc.
Việc thờ cúng Táo Quân ở mỗi gia đình cũng khác nhau, có gia đình chỉ đặt ngay bên cạnh bếp một lư hương nhỏ (thờ ông Táo) để thắp nhang mỗi ngày là đủ, nhưng có gia đình đặt bàn thờ ông Táo bằng cách làm một bệ thờ đơn giản, tiện dụng, cao hơn so với mặt bếp, tại góc ít sử dụng để tránh va chạm. Có gia đình cẩn thận hơn còn gắn phía dưới đáy tủ treo một tấm kính để ngăn khói nhang không làm ố vàng, khi cần tháo ra lau chùi dễ dàng.
Dù đặt ban thờ ông Táo ở đâu thì hướng của bàn thờ cũng nên trùng với hướng của bếp (hoặc song song với hướng của bếp) và không quá xa bếp nấu, cũng không được nằm trên bồn rửa vì bồn rửa thuộc hành Thủy khắc với ông Táo thuộc hành Hỏa.
Nếu phía trên bếp nấu ăn không đủ chỗ để đặt ban thờ các vị thần (Táo Quân) thì đặt ở góc nhà bếp phía Nam, vì ngũ hành Táo quân thuộc "Hoả", nên ban thờ Táo quân cần được đặt ở phía Nam "Hỏa" vượng.
Còn các phương vị thuộc Thủy, nhất là hướng Bắc, tuyệt đối kiêng kỵ đặt ban thờ ông Táo ở đó, vì nếu đặt ban thờ Táo Quân ở vị trí đó sẽ bất lợi cho gia chủ do xung khắc ngũ hành (Thủy khắc Hỏa) gây ra.
22. KIÊNG ĐẶT TỦ LẠNH Ở HƯỚNG DỮ TRONG GIAN BẾP
Theo quan điểm của nhiều nhà phong thủy học hiện đại thì tủ lạnh nên đặt ở hướng lành (Bắc, Đông Nam) mới đem lại may mắn cho gia chủ. Bởi vì tủ lạnh là loại máy móc vận hành liên tục cả 24h/ngày, nếu như đặt ở hướng dữ sẽ làm chấn động đến các sao dữ, và kích động các sao dữ gây rối, phá hoại sự ấm cúng, hòa thuận và sung túc của gia đình.
23. KIÊNG ĐẶT HŨ GẠO Ở HƯỚNG ĐÔNG
Hũ (thùng, tủ) gạo trong bếp được xem như là kho gạo, kho tài sản và sự hưng thịnh về tài vật, hạnh phúc của gia đình.
Gạo từ lúa trồng từ đất mà ra nên thuộc “Thổ”, vì thế nếu đặt hũ gạo ở phương vị thổ (Tây Nam và Đông Bắc) là tốt nhất, được gọi là vị trí Đại lợi, còn các hướng khác như Đông và Đông Nam đều thuộc hành Mộc nên không đặt hũ gạo ở đó, vì nếu đặt hũ gạo ở đó sẽ làm cho kinh tế gia đình bị sa sút bởi phương vị (Mộc) khắc với hũ gạo (Thổ).
Vì là kho gạo, kho quân lương cần được bảo mật nên hũ gạo phải đặt ở nơi thật kín đáo trong khu bếp và phải được kê lên để chống ẩm. Tuy vậy, hũ gạo cũng không nên đặt quá cao so với nền bếp
(Trích trong ĐIỀM BÁO VÀ KIÊNG KỴ TRONG DÂN GIAN của Đặng Xuân Xuyến, nxb Văn Hóa Thông Tin)
Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015
Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:
Tử Vi Kiến Giải - nxb Thanh Hóa
Tử Vi Vấn Đáp - nxb Thanh Hóa
Vào chùa lễ Phật, những điều cần biết - nxb Văn Hóa Thông Tin
Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng trong dân gian - nxb Thanh Hóa
Điềm báo và kiêng kỵ trong dân gian - nxb Lao Động - Xã Hội
Khám phá bí ẩn con người qua bàn tay - nxb Thanh Hóa
Bày tượng con cóc ba chân ngậm đồng xu đúng vị trí để thu hút sự giàu có, thịnh vượng
Theo quan niệm dân gian, con cóc ba chân ngồi trên đống vàng, miệng ngậm đồng tiền xu xuất hiện ở nhà nào thì đem lại giàu có, thịnh vượng cho gia đình đó.
Theo tín ngưỡng dân gian có nhiều vật dụng phong thủy đem lại sự may mắn, giàu có. Trong đó, tượng con cóc ba chân ngậm đồng tiền xu chính là một trong những vật phẩm được nhiều gia đình sử dụng. Đây là vật phẩm phong thủy đứng thứ hai, sau Tỳ Hưu, được cho là mang lại điềm lành và tài lộc.
Nếu để ý kĩ những tượng con cóc ba chân này, bạn sẽ thấy trên đầu cóc có hình “Lưỡng nghi” (hình tròn), phía bên trong hình tựa như hai con cá quay đầu lại với nhau. Đặc biệt, trên lưng cóc có những nốt sần gọi là chòm sao Đại Hùng.
Con cóc ba chân ngồi trên giá tài lộc là một đống tiền, miệng ngậm một đồng tiền và hai bên sườn đeo hai xâu tiền cổ.
Tượng con cóc ba chân gắn liền với một truyền thuyết. Con vật vốn là yêu tinh xấu được thu phục, cải tà quy chính và tỏa đi muôn nơi giúp đỡ người nghèo bằng cách nhả tiền cho họ. Vì thế vào những đêm trăng tròn con vật này ở gần nhà ai thì đó là sự báo tin gia chủ nhà ấy sẽ nhận được sự giàu có, phú quý. Từ đó nó được tôn xưng là con vật quý, biểu tượng cho vượng tài.
Con cóc ngậm tiền như được mô tả trong truyền thuyết thì nó có thể "phun ra của cải" và chỉ sống ở những nơi có sự giàu có. Nó rất nhạy cảm với các "mùi" của sự giàu có. "Thực phẩm" chủ yếu của nó bao gồm vàng, bạc, đá quý. Vì thế, ý nghĩa của con cóc trong phong thủy mà dân gian tin rằng nó xuất hiện ở nơi nào thì nơi đó sẽ có nhiều vàng bạc, trở nên giàu có.
Vị trí chính xác của cóc ba chân
Cách thức đặt cóc phụ thuộc rất nhiều vào thiết kế của nó.
(1) Con cóc ngậm một đồng xu trong miệng
Trong suốt cả năm, vị trí đặt con cóc nên quay mặt vào bên trong nhà để biểu thị rằng nó "nhổ nước bọt, nhổ tiền bạc" vào nhà. Đừng để nó trong phòng ngủ, nhà bếp hoặc phòng tắm. Ngoài ra, đừng bao giờ để nó quay mặt vào nhà vệ sinh, điều đó thể hiện sự bẩn thỉu, ô uế, thiếu tôn trọng đối với vật phẩm phong thủy.
Bên cạnh đó, không đặt con cóc cạnh bể cá, hồ bơi, ao vì khi đối diện với nước nó sẽ có nghĩa là "cơ hội kiếm tiền bị trôi đi".
Nếu bạn không ngại rắc rối, buổi sáng trước khi ra khỏi nhà hãy quay mặt con cóc hướng ra ngoài và buổi tối thì quay mặt con cóc hướng vào trong để biểu thị sự tích lũy của cải. Điều này không nhất thiết phải được thực hiện mỗi ngày, có thể làm khi nào bạn nhớ.
(2) Con cóc không ngậm một đồng xu trong miệng
Các cóc vàng thiết kế kiểu này giúp xua đuổi tà ma và rắc rối hơn là đem lại sự giàu có.
Nếu ngôi nhà của bạn đang sống gần khu vực bệnh viện, nghĩa trang, tang lễ có khí âm nặng thì nên đặt một con cóc trong miệng không ngậm đồng xu. Hướng con cóc ngồi nên được đặt ra ngoài.
Trong văn phòng, bạn có thể đặt con cóc ở phía trên bên trái bàn làm việc để làm giảm sự ghen tị, ghen ghét (nếu có) từ đồng nghiệp.
Đồ trang trí cóc vàng
Sau đây là khuyến cáo khi sử dụng đồ trang trí hay những bức tượng hình con cóc vàng:
- Đối với vòng cổ hình con cóc vàng, đầu của con cóc tốt nên được hướng lên trên, như vậy là để thu hút sự giàu có.
- Đối với vòng đeo tay, đeo nó ở bên tay trái vì theo quan niệm dân gian, sự giàu có đi vào từ bàn tay trái và ra tay phải.
- Treo một số đồ trang trí hình cóc vàng trong xe ô tô để tiêu tan năng lượng tiêu cực.
- Con cóc rất thích nuốt bảo vật, vì thế có thể đeo đồ trang sức hình con cóc vàng khi đi đến những nơi có rất nhiều của cải, ví dụ như ngân hàng hay cửa hàng đồ trang sức.
- Đừng để người ngoài chạm vào bức tượng cóc vàng của bạn. Nếu ai đó vô tình chạm phải thì hãy rửa lại bằng nước sạch và lau khô bằng vải mới.
Mẹ thường ôm con và thủ thỉ rằng, mẹ lúc nào cũng vui lắm vì có con trên đời. Con thỏ thẻ: "Là do con được sinh đúng vào hôm nay, ngày Quốc tế Hạnh phúc hả mẹ?". Mẹ chỉ mỉm cười....
Cái ngày con sinh ra, thế giới còn chưa công nhận đó là ngày Quốc tế Hạnh phúc đâu. Chỉ là, mẹ đặt tên con giống như ngày này, bởi mẹ đã ngập tràn hân hoan khi được đón tia nắng nhỏ của mẹ. Và cũng bởi vì, mẹ mong những niềm vui, những ngọt ngào sẽ vây lấy để vơi đi hết những thiệt thòi của con...
Mẹ nhớ, có lần một người bạn của mẹ đã khóc nấc và nói rằng, giống như có một con quỷ xấu xí và độc ác đã bám víu vào con - một nàng tiên xinh đẹp vậy. Đó là lý do vì sao trên làn da trắng mịn như sứ của con lại xuất hiện những vết bớt đen xấu xí, là đôi tay con co rúm khiến cử động rất khó khăn, là đôi chân bước đi một bước cũng thấy mệt nhọc, và cơ thể vô cùng yếu ớt. Dù khuôn mặt con thực sự xinh đẹp, nhưng vẫn chẳng ai muốn (dám) lại gần, còn lũ trẻ luôn gọi con là "quỷ nhỏ".
Mẹ cũng đã từng khóc, từng đau đến thắt tim vì thương con. Mẹ từng trở nên cộc cằn, đáng sợ với bọn trẻ để xua chúng tránh khỏi con càng xa càng tốt. Mẹ gồng mình để bảo vệ con khỏi bị tổn thương bởi con mắt người đời, và đôi khi, mẹ sợ hãi đến kiệt sức khi có ai đến gần con. Mẹ rất sợ họ sẽ làm con buồn, con khóc; mẹ chỉ muốn chúng ta có thể đi đến một nơi thật xa, nơi không có ai hết và sống thật vui vẻ bên nhau. Thế rồi...
Con càng lớn lên, mẹ dần nhận ra nỗi lo của mẹ hóa ra là... thừa! Những sợ hãi, thấp thỏm trong mẹ trước giờ chỉ khiến bản thân mẹ thấy mệt chứ chẳng có ý nghĩa gì với con hết. Thì, mẹ nhận ra rằng, thực sự mẹ đã sai rồi, chính những suy nghĩ trong mẹ mới "tật nguyền", chính mẹ cứ áp đặt một suy nghĩ độc ác rằng "con không bình thường như người khác" rồi cứ đi hờn trách người ta đã xa lánh, đã đối xử không công bằng với con. Trong khi, con của mẹ thực sự là cô bé hoàn hảo nhất.
Con lúc nào cũng hồn nhiên như một cái cây, dù có chỗ xù xì, có nơi xanh mướt nhưng luôn biết đung đưa trước gió và khiến cuộc đời mát lành. Mẹ nhận ra rằng cuộc sống đã chẳng bất công với con, vì đã trả lại cho con nụ cười, ánh mắt của thiên thần, và những gì thánh thiện nhất. Con chưa từng biết hờn giận, trách cứ ai. Ngày còn bé, con cứ ăn ngoan ngủ ngon, chẳng mấy khi khóc nhè. Lớn lên, con cười nhiều hơn, vui nhiều hơn, con dành cả nụ cười thân thiện cho bọn trẻ thường hay trêu chọc mình. Để dần dần, mọi người dành tình cảm cho con nhiều hơn, từ người lớn đến tụi trẻ nhỏ, ai cũng yêu mến và muốn ở cạnh con, nghe con nói thỏ thẻ và cười rạng rỡ. Và mẹ, mỗi khi thấy mệt mỏi, chỉ cần nhìn vào khuôn mặt ấy là mọi lo âu tan biến hết.
Phải rồi con nhỉ, mỗi chúng ta đều sinh ra với một hình hài, một tâm hồn khác nhau. Có người xinh đẹp, có người xấu xí, có người vui vẻ, kẻ cộc cằn,... Đó là cuộc sống nên chẳng có gì đáng phàn nàn hết. Miễn sao ta cứ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt vui tươi, luôn nở nụ cười với tất cả mọi người, chỉ cần thế thôi là đời đã đẹp hơn biết mấy. Và con, dù thế nào vẫn là một cô bé đáng yêu nhất, chỉ những kẻ khó ưa, luôn hằn học, chê bai, cáu bẳn và xấu tính, mới là những kẻ đáng ghét phải không con?
( Hy Truong ) Âm Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân vẫn tưởng mà lại rất tương đối. Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là Âm, cứng là Dương, mềm là Âm …….Nói một cách tổng quát thì Trời có Âm Dương. Đàn ông được xem là Dương, đàn bà là Âm, nhưng chỉ là điều khái lược. Trong mỗi con người lại cũng có phân biệt Âm và Dương nữa.
Toàn thể thân thể đàn ông là Âm, nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có tên là dương vật. Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lại là Âm nên mới có danh là âm hộ. Xương được coi là Dương, thịt được coi là Âm Phía mặt bên trái là Dương, phía mặt bên phải là Âm Phía trên của khuôn mặt ( kể từ chính giữa thần mũi ) thuộc Dương, phía dưới thuộc Âm.Phần thân trước là Dương, phần thân sau là Âm Trong khu vực thuộc mắt, phần trên là Dương, phần dưới coi là Âm, mắt trái là Dương, mắt phải là ÂmNhững phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương, những phần trũng xuống coi là Âm.Dương thì lộ liễu và hướng lên. Âm thì ẩn tàng và hướng xuống. Dương cốt ở an hoà, Âm cốt ngay ngắn, Dương chủ về cứng rắn, Âm chủ về mềm mại. Âm Dương trong mỗi con người cần phải Hòa, phải Thuận, Hoà có nghĩa là xương ngay ngắn, không lệch, không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là thịt phải được phân bố đều đặn khắp châu thân. Âm Dương thuận hoà chủ về phúc thọ. Nếu như xương lộ mà không ngay ngắn, thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự nhiên ( chẳng hạn bộ phận này quá nhiều thịt, bộ phận kia lại quá cằn cỗi ) thì gọi là Âm Dương không thuận hoà. Hoặc Âm thịnh Dương suy ( thịt nhiều mà bệu, xương lại nhỏ và yếu, không cân xứng ) hoặc Dương cường Âm nhược ( cốt lộ, thịt ít ) đều là các tướng phản lại nguyên tắc Âm Dương thuận hoà: chủ về hung hiểm bất tường. Nói một cách tổng quát, vô luận nam nữ, trong mỗi con người ( hình tướng, tính cách, khí sắc, thanh âm, phần vô hình cũng như phần hữu hình ) đều bị nguyên lý Âm Dương chi phối. Đàn ông bản chất vốn Dương nhưng cần phải có Âm thích nghi điều hoà. Đàn bà vốn thuộc Âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu khống thế, đàn ông chỉ có thể Dương thuần mà không có Âm chất thì sẽ mất sự khống chế cần thiết, đàn bà chỉ có Âm nhung mà không có Dương chất thêm vào thì trở thành quá mềm yếu và không tự tiến triển được. Tuy nhiên dù Dương thuận phải có Âm chất để điều hoà cho thích nghi nhưng Âm không được lấn át phần Dương. Nếu Âm chất thái quá người ta gọi là Dương sai. Âm nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt nhưng nếu phần Dương lấn át hẳn phần Âm ( vốn là phần căn bản ) thì trường hợp đó mệnh danh là Âm thác. Nguyên tắc tổng quát trên áp dụng cho tất cả các bộ vị trọng yếu trong con người. Nghĩa là các bộ vị không được vi phạm các điều cấm kỵ của nguyên lý Âm Dương thích nghi. Nói khác đi, không được phạm vào Âm thác hoặc Dương sai. Đi sâu vào phần chi tiết ta phân biệt : a ) Dương hoà : Tính cách Dương mạnh mẽ nhưng được tiết chế đúng mức cần thiết thì gọi là Dương hoà, Dương hoà bao gồm : -Đầu tròn, đỉnh đầu bằng phẳng -Đầu hơi có góc cạnh, mặt hơi vuông vức, trán có xương tròn nổi lên rất rõ -Ngũ nhạc nổi nhưng không quá lộ liễu, Sơn căn nổi khá cao gần ăn thẳng lên Aán đường -Lông mày mọc xếch lên cao và có uy lực, lông mày hơi có góc cạnh ( hình thù lông mày gập cong lại như hình chữ, chứ không cong như hình bán nguyệt hoặc thẳng như chữ ) -Sợi lông mày hơi hướng về phía trên -Mắt có chiều dài rõ rệt và có tụ thần -Sắc diện hoà ái, chẳng cần phải lập uy mà vẫn có vẻ oai nghiêm tự nhiên -Nói năng mau chậm thích nghi với từng câu chuyện, tư tưởng khoáng đạt, lâm sự quyết đoán chuẩn xác, xử trí quang minh, đi đứng thung dung . b ) Âm thuận Tính cách Âm rất rõ ràng nhưng không quá ủy mị hèn yếu thì gọi là Âm thuận. Được coi là Âm thuận khi : -Đầu tròn, mặt hơi vuông nhưng vẫn không xoá hẳn được những nét tròn trịa -Ngũ nhạc đều có dáng phảng phất hình tròn ( nhưng không nổi bật các nét tròn đó )-Sơn căn mạnh mẽ có thế. Aán đướng bằng phẳng, rộng -Lông mày hơi cong mà mắt lại hơi dài ( không được quá dài )-Tiếng nói hơi nhỏ nhưng âm thanh rổn rản trong trẻo -Nói năng từ tốn, nhưng không chậm, phản ứng không nhanh nhưng không quá trễ hoặc lỳ lợm -Sắc diện hoà nhã khiến người ngoài dễ sinh thiện cả -Xử sự ôn hoà c ) Kháng Dương Tính cách Dương quá mạnh không có sự tiết chế đúng mức thì gọi là Kháng Dương. Các chỉ dấu của Kháng Dương bao gồm : -Đầu tròn nhưng đỉnh đầu nhọn -Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục -Ngũ nhạc nổi tròn mà đầu có dạng nhọn, nhỏ -Lông mày ngắn mà cong vòng hoặc ngắn mà thế của mày lại hướng lên -Mắt lồi và tia mắt long lanh -Tai nhọn và dựng đứng -Tiếng nói lớn nhưng giọng điệu quê kệch hoặc giọng rè -Tính tình nóng nảy thô bạo, xử sự sơ xuất, không nghĩ trước, không lo sau khiến người quan sát thoáng qua đã nhận được ngay sự thô lỗ . d ) Cô Âm Chỉ có những cách Âm thuần túy mà không có Dương tính để hỗ trợ thì gọi là Cô Âm. Đặc tính này được phát hiện ra ngoài qua các dấu hiệu sau đây : -Toàn thể đầu và khuôn mặt đều chỉ có hình vuông, hoặc thiên về hình vuông, hoặc đầu lớn mà khuôn mặt lại quá nhỏ không tương xứng -Chính diện thì nhìn thấy bằng phẳng mà trắc diện lại thấy ở phần giữa lõm xuống -Mắt sâu mà lông mày mọc lan xuống tận bờ mắt hoặc mắt sâu mà xương lông mày thô, hoặc lông mày quá đậm mà ngắn -Râu ria quá râm rạp, không thích nghi với tóc -Tiếng nói như có vẻ khò khè ở cuống họng, điệu nói chậm rãi mà trong đó lại xen kẽ âm thanh chói tai hoặc thanh mà đứt đoạn -Sắc diện lúc nào cũng có vẻ u uất, xử sự quá tính toán, cân nhắc khiến người ngoài thoáng thấy đã nhận ra ngay là con người ác hiểm. e ) Âm thác, Dương sai Bản chất căn bản là Âm nhưng pha trộn quá nhiều Dương tính khiến phần Âm trở thành thứ yếu thì gọi là Âm thác. Ngược lạ , bản chất căn bản là Dương mà Dương tính quá yếu khiến Âm chất lấn át rõ rệt thì gọi là Dương sai. Dưới đây là các dấu hiệu bề ngoài cảu các hiện tượng trên -Đầu tròn thuộc Dương, mặt vuông thuộc Âm, phía trước mặt thuộc Dương, phía sau gáy ( ót ) thuộc Âm cho nên đầu lớn mặt nhỏ, phía trước lớn mà phía sau nhỏ thì gọi là Dương sai -Đầu vuông thuộc Âm, mặt tròn thuộc Dương, nếu như hai phần đó quá sai lệch thì gọi là Âm thác -Phần lồi trên khuôn mặt thuộc Dương, phần lõm trên khuôn mặt thuộc Âm . Do đó, nếu Đông Tây Nam Bắc Nhạc nảy nở, cao ráo mà Trung nhạc lại trũng xuống thì gọi là Dương sa . Trái lạ , bốn Nhạc phụ tuỳ đều trũng xuống hoặc bị phá hãm chỉ có Trung nhạc nổi cao một mình thì gọi là Âm thác -Chỉ có xương mà không có thịt, mắt lộ mà không có lông mày người lớn, tiếng nhỏ gọi là Dương sai-Có quá nhiều thịt mà thiếu xương, lông mày rậm rạp lam xuống bờ mắt, chân tóc mọc thấp, Thiên thương hẹp, nhiều râu ria mà giọng nói khô khan ……đều được mệnh danh là Âm thác -Mặt tuy lớn, nhưng sắc ảm đạm, thân hình tuy có vẻ nam tính mà bước chân lệch lạc ẻo lả như con gái thì gọi là Dương sa . Thân hình nữ mà cử chỉ mạnh bạo cứng cỏi như nam giới thì gọi là Âm thác Tóm lại, vấn đề Âm thác, Dương sai rất phức tạp, khó mà lĩnh hội toàn vẹn nếu không có kiến giải sâu rộng, quan sát tinh tế. Chương này chú trọng đặc biệt đến hai nguyên tắc căn bản của Dương sai, Âm thác như sau : 1 - Đàn ông được gọi là thuần Dương mà lẫn lộn cá tính phụ nữ ( bất kể về phương diện gì : đi, đứng, ăn, nói …..) khá rõ thì gọi là Chính Dương sai 2 - Đàn bà được coi là thuần Âm nếu, pha trộn nam tính ( dù về phương diện gì cũng vậy ) quá lộ liễu thì gọi là Chính Âm thác Từ hai nguyên tắc căn bản trên, ta đi đến bốn hệ luận : a ) Bất kể nam, nữ đều lấy đầu, âm thanh, cốt cách tượng trưng cho Dương chất. Cho nên, không cần biết thân hình lớn hay nhỏ, điểm căn bản là phải lấy cốt cách trầm ổn, vững chãi, tiếng nói trong trẻo, rõ ràng có tiếng vang làm chính. Được như thế là cát tướng Tiếng khô khan, âm vận không có hoặc ngắn ngủi thì dầu thân hình lớn hay nhỏ đều không đáng kể gì tới vì đó là hung tướng, tượng trưng cho Dương sai. b ) Bất kể nam nữ, đếu lấy khuôn mặt tượng trưng cho Dương, cho nên Ngũ nhạc nổi rõ nhưng không quá lộ liễu thô bỉ, râu tóc và lông mày thích nghi tương xứng là dấu hiệu cát tướng. Ngũ nhạc phá hãm, râu ria và lông mày quá đậm là hung tướng vì đó bị gọi là Âm thác c ) Thân hình to lớn khôi ngô mà khí phách nhỏ hẹp, xử sự thô lỗ, âm hiểm tàn nhẫn, chấp nể tiểu tiết, không biết quyền biến, đó là Dương không khống chế được Âm nên gọi là Dương sai d ) Người nhỏ mà xử sự xô bồ không có giới hạn, khí phách cuồng ngạo chỉ biết tiến mà không biết thoái lui khi cần thiết thì đó là Âm không kiềm chế được Dương nên gọi là âm thác.
1) Nhân tướng học & tiên liệu vận mạng 2) Ứng dụng Nhân tướng học vào việc xử thế 3) Tướng Phát Đạt 4) Tướng Phá Bại 5) Thọ, Yểu qua tướng người 6) Đoán tướng tiểu nhi 7) Phu Luân về tướng Phụ nữ 8) 36 tướng hình khắc 9) Những tướng cách phụ nữ 10) Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành 11) Ứng dụng của Âm Dương trong Tướng Học 12) Tương quan giữa Sắc và con người 13) Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông 14) Bàn tay và tính tình 15) Quan điểm của Phật giáo về vấn đề xem Tử Vi - Bói Toán
(Trích Lược Tử Vi : Tuổi Mùi, năm nay số mệnh ra sao ? 12 Con Giáp và những đặc tính)
Cận thị có liên quan đến thói quen xấu, nhưng cận thị ở một số người là do di truyền. Có một số em bé khi sắp bị bệnh thì nằm mơ thây bệnh nhưng không biết cách đề phòng, cũng không nói cho bố mẹ biết. Có một bé trai tên là Lâm Phong ở Trung Quốc khi
Cận thị có liên quan đến thói quen xấu, nhưng cận thị ở một số người là do di truyền.
Có một số em bé khi sắp bị bệnh thì nằm mơ thây bệnh nhưng không biết cách đề phòng, cũng không nói cho bố mẹ biết.
Có một bé trai tên là Lâm Phong ở Trung Quốc khi lên 9 tuổi nằm mơ thây một đóa hoa lớn, màu hồng, nở rộng nhưng héo ngay; trên đóa hoa có mây mù, giống như buổi sáng mùa đông. Do còn bé nên em không nói cho ai biết về giấc mơ. về sau em cảm thây mắt có chút mờ đi, xem sách phải để gần. Đến tuổi hiểu biết em cảm thây đau khổ, sau đó đi khám em mới biết thị lực hạ thấp khá nghiêm trọng.
Lâm Phong có một em trai tên là Lâm Nguyên theo cha sông ở Paris. Khi Lâm Phong nằm mơ thấy đóa hoa thì Lâm Nguyên ở xa hàng chục nghìn cây số cũng nằm mơ thấy những vật tương tự như thế. Lâm Nguyên kinh ngạc kể với cha. Cha của Lâm Phong và Lâm Nguyên là một nhà thiên văn học, hiểu biết về mơ không nhiều, nhưng ở Paris ông có một người bạn, một chuyên gia tâm lý, ông này sau khi biết nội dung giấc mơ của Lâm Nguyên đã dự đoán có thể em bị cận thị, ông hỏi về tình hình bệnh tật của toàn gia đình rồi kết luận đây là do di truyền. Ông đề nghị đưa Lâm Nguyên đi bệnh viện kiểm tra mắt. Kết quả là bệnh khá nặng nhưng nhờ kịp thời điều trị nên có chuyển biến tốt.
Trong giấc mơ của Lâm Phong và Lâm Nguyên, đóa hoa tượng trưng cho đôi mắt của hai em. Hiện tượng này cho thấy: Không được xem thường giấc mơ.
Những em bé mới một tuổi không thể dùng ngôn ngữ để biểu đạt một vấn đề gì. Khi gặp điều gì không thỏa ý thì các bé dùng tiếng khóc để biểu đạt nguyện vọng và kháng nghị. Theo y học, trẻ con khóc do những nguyên nhân sau: - Khóc do khát: Tiếng kh
Những em bé mới một tuổi không thể dùng ngôn ngữ để biểu đạt một vấn đề gì. Khi gặp điều gì không thỏa ý thì các bé dùng tiếng khóc để biểu đạt nguyện vọng và kháng nghị.
Theo y học, trẻ con khóc do những nguyên nhân sau:
– Khóc do khát: Tiếng khóc lanh lảnh, gấp gáp, khóc rồi ngừng, rồi khóc, chỉ cần cho ăn là lại ngủ ngay.
– Khóc như bỡn: Chẳng có bệnh gì, khóc lúc cao lúc thấp, lại không có nước mắt, có lúc như vừa khóc vừa cười, tay chân đập tứ tung, chỉ cần ghẹo cho vui đùa là thôi ngay.
– Khóc do sợ hãi: Do có con trùng nhỏ bay vào mũi, hoặc bị muỗi đốt, hoặc thấy một con vật rất lớn hoặc chân tay như bị trói. Tiếng khóc to, nhọn sắc. Chỉ cần vỗ về an ủi là thôi khóc ngay.
– Khóc do ngủ không yên: cần ru mới ngủ.
– Khóc do bị bệnh dạ đề. Bệnh này do thiếu vitamin D, do đại não bị bệnh.
– Khóc do bị bệnh phổi: cần đưa đi khám bệnh.
Mọi thứ bệnh khóc đều phải để tâm chữa trị, không được xem nhẹ.
Sao thứ 8 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Ý Nghĩa Của Sao Tử:
Thâm trầm, kín đáo.
Hay suy nghĩ sâu xa, tính toán kỹ lưỡng, có kế hoạch.
Đa sầu đa cảm, bi quan.
Làm giảm phúc thọ, chủ sự chết chóc, tang thương, sầu thảm.
Ý Nghĩa Sao Tử Ở Các Cung Tài Bạch, Điền Trạch
Có tiền của bí mật.
Có quí vật chôn giấu.
Có khả năng giữ của, tính cẩn thận khi xài, cần kiệm nếu không nói là hà tiện.
Ý Nghĩa Sao Tử Ở Các Cung Phúc Đức, Tử Tức
Tử, Tuyệt, Tường, Binh: Trong họ có người chết trận hay bị ám sát.
Bạn vẫn thường ao ước một ngày nào đó mình trở thành tỷ phú, sở hữu một tài sản kếch xù, có nhà lầu, xe hơi và một đám hậu vệ thân cận hộ tống mình. Nếu trong
Bạn vẫn thường ao ước một ngày nào đó mình trở thành tỷ phú, sở hữu một tài sản kếch xù, có nhà lầu, xe hơi và một đám hậu vệ thân cận hộ tống mình. Nếu trong giấc mơ bạn thấy mình trở thành tỷ phú thì đó là điềm báo may mắn sắp mỉm cười với bạn đó nhé.
Bill Gates
Nếu bạn mơ thấy mình trở thành tỷ phú bậc nhất thiên hạ như Bill Gates hay Mark Zuckerberg chẳng hạn thì đây là điềm báo rất may mắn. Bạn sắp được người khác đền đáp và giúp đỡ vì một nghĩa cử cao đẹp hay việc làm tốt bụng nào đó trước đây của bạn. Trong giấc mơ, nếu sau khi trở thành tỷ phú, bạn vẫn tốt bụng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người cả về tinh thần và vật chất thì điều này mang nghĩa là bạn sẽ gặp may mắn trong thời gian sắp tới.
Ngược lại, nếu chỉ mơ thấy mình gặp tỷ phú thì thường là điềm không may cho lắm. Có khả năng bạn sẽ gặp những tổn thất về tiền bạc. Nếu làm kinh doanh thì bạn cần phải cẩn trọng hơn đối với giấc mơ này. Nên tham khảo ý kiến của người am hiểu về lĩnh vực này và cẩn trọng trước khi quyết định tham gia vào một công việc mới hoặc một dự án nào đó.
Đây là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Luôn tư duy và nuôi dưỡng ý niệm kính lễ Tăng bảo chứ không hẳn là lạy lục cá nhân một vị Tỳ-kheo.
Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật. Kính lễ Phật là đương nhiên vì Ngài là bậc Giác ngộ, phước trí vẹn toàn. Kính lễ Pháp là tất nhiên vì đó là những lời dạy vàng ngọc của Phật. Nhưng kính lễ Tăng một cách như nhiên thì không phải ai cũng làm được bởi nhiều lẽ khác nhau.
Vấn đề ở chỗ cần phân biệt giữa Tăng (Sangha, Tăng-già) và cá nhân một vị Tỳ-kheo. Tăng hay chúng Tăng là một đoàn thể gồm ít nhất bốn vị Tỳ-kheo trở lên, sống chung hòa hợp và thanh tịnh. Một hay hai hoặc ba vị Tỳ-kheo dù giới đức, phạm hạnh đến mấy thì không phải chúng Tăng. Đông nhiều các vị Tỳ-kheo mà không hòa hợp và thanh tịnh thì cũng không phải là chúng Tăng. Cho nên, chúng Tăng thì luôn luôn thanh tịnh, tốt đẹp nhưng vị Tỳ-kheo thì có thể thế này hay thế khác. Do vậy, khi đảnh lễ chúng ta luôn quán niệm là lễ lạy chúng Tăng, mà chúng Tăng thì luôn thanh tịnh trang nghiêm nên thành tựu vô lượng phước đức. Đức Thế Tôn đã dạy, “nên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng Tăng” như sau:
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu hành lễ chúng Tăng, nên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng Tăng. Thế nào là mười một? Chúng của Như Lai thành tựu Chánh pháp;
Thánh chúng của Như Lai trên dưới hòa hợp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu các pháp;
Thánh chúng của Như Lai thành tựu giới;
Thánh chúng của Như Lai thành tựu chánh định;
Thánh chúng của Như Lai thành tựu trí tuệ;
Thánh chúng của Như Lai thành tựu tuệ giải thoát;
Thánh chúng của Như Lai thành tựu giải thoát tri kiến;
Thánh chúng của Như Lai hay hộ trì Tam bảo;
Thánh chúng của Như Lai hay hàng phục ngoại đạo dị học;
Thánh chúng của Như Lai là bạn tốt, ruộng phước cho tất cả chúng sanh.
– Thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ chúng Tăng, nên tư duy về mười một pháp này, được phước lâu dài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ các hàng Tỳ-kheo, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Trời Ma-hưu-lặc và Người nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm Lễ Tam bảo, VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.478)
Một người Phật tử bình thường, có cảm tình tốt đẹp với các vị Tỳ-kheo, Phật dạy “muốn lễ chúng Tăng, nên tư duy về mười một pháp này”. Trong trường hợp một số ít Phật tử, chưa có hoặc không có cảm tình tốt đẹp với các vị Tỳ-kheo, thiết nghĩ “nên tư duy về mười một pháp này” sâu sắc và bền bỉ hơn. Phật cũng không “bênh” các đệ tử xuất gia và cũng không “ép” các đệ tử tại gia của Ngài trong việc kính lễ này. Các pháp vốn như vậy! Chúng Tăng thì hòa hợp và thanh tịnh nên kính lễ Tăng-già thì phước đức vô lượng.
Thế nên, luôn tư duy và nuôi dưỡng ý niệm kính lễ Tăng bảo chứ không hẳn là lạy lục cá nhân một vị Tỳ-kheo. Nhờ quán niệm như vậy nên mình luôn kính lễ chúng Tăng một cách nhiệt thành mà lòng không một mảy may phân biệt, xét đoán. Và cho dù, trên con đường học đạo, chúng ta có nghe hoặc từng gặp một vài vị Tỳ-kheo chưa xứng danh, mình vẫn vẹn nguyên lòng tin tưởng và kính trọng với Tăng bảo.
Nhờ “tư duy về mười một pháp này” mà hàng Phật tử, cũng như Tăng Ni luôn tin tưởng vào chúng Tăng, một lòng hướng về Tăng-già để trọn đời quy mạng. Nhờ đó, công đức và phước báo của mình ngày một đong đầy. Đó là chánh tư duy.
Dẫu cho có những vị Tỳ-kheo danh chưa xứng với thực, dẫu cho có những người giả làm Tỳ-kheo để trà trộn vào Tăng đoàn với ý đồ riêng thì niềm tin thanh tịnh của chúng ta vào Tăng-già vẫn bất hoại, kiên cố như kim cương, không bao giờ thay đổi.
Dự báo tình duyên, quan hệ xã giao và sức khỏe 12 con giáp năm 2017
Người tuổi Sửu sẽ có một năm ngọt ngào và may mắn về tình duyên, người tuổi Mão sẽ gặp phải giai đoạn khó khăn trong cả tình duyên lẫn các mối quan hệ xã giao của mình.
Trong nhân tướng học gọi đây là kiểu tướng chân Hy Lạp. Từ xa xưa, các vị vua chúa cổ đại hay những người nắm giữa vị trí cao trong xã hội đa phần đều có kiểu chân với ngón chân thứ hai nổi trội, dài hơn tất cả những ngón chân khác. Chủ nhân của tướng chân này là người quyết đoán, có khả năng lãnh đạo tốt, tinh thần trách nhiệm cao, kể cả trong công việc và cuộc sống.
Hơn thế, người này tính tình sôi nổi, lúc nào cũng căng tràn sức sống nên dỡ trở thành trung tâm của mọi sự chú ý. Nhờ những mối quan hệ hài hòa, họ dễ dàng đạt được thành công hơn so với người khác.
2. Ngón chân cái, ngón thứ hai và ba bằng nhau
Độ dài ba ngón chân cái, thứ hai và thứ ba bằng nhau được gọi là kiểu chân La Mã. Người có tướng chân này tính tình hài hòa, hướng ngoại, dễ được mọi người yêu mến. Ngoài ra, người này có tính cách độc lập, tự tin vào bản thân, ghét phải phụ thuộc vào người khác nên lúc nào cũng cố gắng để tìm kiếm con đường phát triển của riêng mình.
Bên cạnh đó, người này còn có số khởi nghiệp sớm, ban đầu gặp không ít khó khăn, trở ngại nhưng cuối cùng thành công rực rỡ, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý.
3. Ngón chân cái dài nhất
Kiểu chân này còn được gọi là chân Ai Cập. 5 ngón của bàn chân hình thành một cái dốc với đỉnh dốc là ngón chân cái.
Chủ nhân kiểu chân này có cá tính mạnh mẽ, tự tin vào bản thân nhưng đôi khi thái quá trở thành kiêu căng, ngạo mạn. Tuy nhiên, khi đã quyết tâm làm việc gì họ sẽ nỗ lực tới cùng. Do đó, đây cũng là một trong tướng chân của người giàu có, không phải lo lắng nhiều về vật chất.
4. Đặc điểm móng chân
Những người có móng chân hình tròn, trơn bóng, sắc hồng hào thường có số giàu sang phú quý. Đặc biệt nếu là nữ giới thì có mệnh làm phu nhân, không những được hưởng tiền bạc từ chồng mà còn có kẻ hầu người hạ để sai khiến. Nếu cộng thêm đặc điểm móng chân cụp xuống dưới càng chứng tỏ người này giàu sang, có thể trở thành tỉ phú.
Theo Nguoiduatin
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
Nhận biết tướng tai tốt và xấu theo nhân tướng học –
Tai đại diện cho sự may mắn, sự giàu có và sức khỏe. Người tai lớn, dái tai chảy xệ thường có cuộc sống giàu sang... 1. Người có một đôi tai vừa dày vừa hồng hào sẽ khỏe mạnh và sống thọ. 2. Tai lớn là người thông minh và may mắn. 3. Dái tai phẳng là
Cỏ khô trong mơ là hình ảnh tượng trưng cho sự gian khó. Mơ thấy cỏ khô, cho thấy lòng bạn đang cảm thấy cô quạnh. Nếu mơ thấy vài ngọn cỏ khô trên mặt đất, chứng tỏ bạn không hài lòng lắm về sự nghiệp và đời sống hiện tại. Nếu mơ thấy cỏ khô phủ kh
Ý nghĩa của việc treo gương bát quái và cách treo gương hợp phong thủy
Gương bát quái là một trong những công cụ nổi tiếng và phổ biến nhất được sử dụng trong phong thủy để bảo vệ, khắc phục, hoặc hóa giải cho các ngôi nhà có hướng xấu – hướng nhà có thể thu hút may mắn (cát) hoặc dẫn đến nỗi buồn hay bệnh tật (hung).
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Ý nghĩa của việc treo gương bát quái
Gương bát quái là một loại pháp khí trong phong thủy có thể hội tụ năng lượng của vũ trụ để bảo vệ, khắc phục, hoặc hóa giải cho các ngôi nhà có hướng xấu.
Gương bát quái là một trong những công cụ nổi tiếng và phổ biến nhất được sử dụng trong phong thủy để bảo vệ, khắc phục, hoặc hóa giải cho các ngôi nhà có hướng xấu – hướng nhà có thể thu hút may mắn (cát) hoặc dẫn đến nỗi buồn hay bệnh tật (hung).
Thực tế hiện nay có khá nhiều người không am hiểu về phong thủy. Do vậy khi xây nhà, họ thường xây theo sở thích với nhiều phong cách thiết kế khác nhau dẫn đến những công trình ấy xuất hiện nhiều góc cạnh.
Mặt khác, khi tình trạng đất chật người đông thì đối diện với ngôi nhà là những cột điện, nhà cao tầng, máy biến áp… là điều khó tránh khỏi. Xây nhà ở những vị trí đó càng khó tránh khỏi sát khí, nếu không hóa giải được thì những người sống trong nhà thường gặp những chuyện không thuận lợi trong công việc, sức khỏe kém, đau ốm nhiều…
Gương bát quái là một tấm biển trên đó vẽ hình bát quái (8 quẻ) gồm càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn với các nét vẽ dễ nhận biết.
Càn: 3 gạch liền. Khôn: 6 gạch ngắt quãng. Khảm: ở giữ liền. Ly: ở giữa hở. Chấn: Như chiếc ống lật ngửa. Cấn: Như bát úp. Đoài: khuyết ở trên. Tốn: đứt ở dưới.
Gương bát quái là công cụ bị lạm dụng nhất trong việc thực hành phong thủy. Gương này không được treo trong nhà hay văn phòng vì làm như vậy có thể dẫn đến thảm họa và tác hại không lường trước đước. Để gương bát quái hoạt động chính xác, nó phải được đặt đúng chỗ, từng loại gương cũng cần đặt theo từng vị trí khác nhau, vị trí không đúng có thể gây tổn hại cho các nhà hàng xóm và cả gia chủ.
Lưu ý treo gương bát quái cho hợp phong thủy
Dẫu là một vật dụng phong thủy rất phổ biến hiện nay nhưng rất nhiều hộ gia đình đã phạm phải những lỗi cực kì nghiêm trọng. Một trong những lỗi mà mọi người hay mắc phải đó là việc đặt sai vị trí gương bát quái. Để có được sự hiểu biết đúng nhất, chọn đúng loại gương bát quái phù hợp với gia đình mình, mọi người nên phân biệt theo từng loại vận dụng vào thực tế với ngôi nhà của mình đang ở.
Không bao giờ đặt hình bát quái trong nhà hoặc văn phòng của bạn, điều này có thể thu hút những điều có hại và đôi khi thậm chí có thể gây tử vong.
Để bát quái tại các điểm ra vào của nhà hoặc văn phòng của bạn – trước cửa hoặc cửa sổ sẽ làm hung khí không thể xâm nhập vào bên trong nhà. Dưới đây là những lưu ý khi đặt gương bát quái:
1) Nếu nhà bạn có một lối vào chính đối diện với một nghĩa trang, bệnh viện, cảnh sát, nhà thờ và trường học, một gương bát quái sẽ giúp sát khí dội ngược ra khi bay vào nhà của bạn, ngăn chặn không cho sát khí xâm nhập.
2) Cửa sổ đối diện với đường đi, đối diện với góc cạnh, sân nhà, máy biến áp, cột điện, sông có nước bị ôi nhiễm, ống khói, nhà cao tầng…, cửa phòng đối diện với nhà vệ sinh, nhà bếp…
Cách hóa giải là treo gương bát quái trên cửa sổ hoặc cửa sẽ có hiệu quả thay đổi khí trường, loại trừ những ảnh hưởng xấu.
3) Nếu nhà của bạn là nơi giao nhau của một ngã ba, với xe ô tô liên tục lái xe hướng đầu vào nhà, một gương bát quái sẽ ngăn chặn bất kỳ sát khí tốc độ nào đến gần và bạn sẽ cảm thấy bớt áp lực trong cuộc sống.
4) Khi một hình bát quái được để trên một lối vào chính, nó sẽ phục vụ để xua đi tà khí, những người có ý định xấu hoặc những người mang theo điềm rủi.
5) Để loại bỏ các mối đe dọa của “mũi tên độc” từ đèn đường, cột thẳng, cây to hoặc các tòa nhà sẽ ảnh hưởng đến bạn và gia đình của bạn, đặt gương bát quái ở tường sao cho gương chiếu thẳng vào các vật trở ngại này.
6) Các hình bát quái cũng khuếch tán những ảnh hưởng của “mũi tên độc” có nguồn gốc từ các góc của tòa nhà hay góc độ khác hướng chỉ về phía nhà của bạn.
7) Nếu nhà bạn đối diện với các đình, miếu , những địa điểm tín ngưỡng....Những địa điểm mang tính chất tôn giáo, tín ngưỡng như nhà thờ, chùa, đình, miếu… thường là nơi có linh khí. Theo phong thủy, những ngôi nhà nằm đối diện với nơi thờ phụng linh thiêng là ở vào thế cô dương sát.
Cách hóa giải như sau:
Khi ở vào thế cô dương sát, vượng khí của ngôi nhà sẽ bị cuốn hết đi. Dưới đây là một số cách giải trừ thế cô dương sát.
- Cũng giống như cách giải trừ thế cắt cước sát cho ngôi nhà gần bờ biển, trong trường hợp nhà bạn ở vào thế cô dương sát, bạn hãy dựng hàng rào colourbond. Màu sắc của hàng rào cần tuân theo ngũ hành tương khắc đối với màu của nhà thờ (đền, chùa…) và tương sinh với mệnh gia chủ.
- Tại cửa chính của ngôi nhà, bạn hãy treo gương Bát quái Hổ phù để giữ vượng khí lại và không cho âm khí xâm phập vào nhà. Nếu ngôi nhà không ở vào thế đối diện với nơi thờ phụng mà nằm lệch một bên, bạn chỉ cần dùng gương lồi là đủ.
- Bạn hãy trồng một cây hoa giấy phía trước nhà, cách cửa chính hơn 5m.
- Tại góc dưới mái nhà phía trước, bạn hãy treo 2 chiếc chuông gió ở 2 bên.
8) Lưu ý: Bất kỳ may mắn, sinh khí nào đi vào từ nơi có treo gương bát quái cũng đều bị phân tán nếu treo gương bát quái ở cửa chính.
Bát quái ngăn chặn nhiều việc nguy hiểm, ngăn ngừa bệnh tật, tai nạn, trầm cảm và cái chết của các thành viên trong một gia đình, nếu được sử dụng một cách chính xác trong những cách nêu trên.
Bên cạnh đó, treo gương bát quái tích phúc trong phòng và để trên bàn có thể giúp điều tiết khí trường và từ trường trong phòng khiến tâm trạng bình tĩnh, thoải mái, điều tiết sự cân bằng của cơ thể, dần dần phục hồi sức khỏe khi bị những căn bệnh mãn tính…
Có một điều cần phải chú ý thêm, thông thường bát quái chỉ là biểu tượng của vũ trụ và chỉ có tác dụng hóa giải, không có hại. Tuy nhiên, nếu phía trên bát quái có khắc thần tướng cưỡi hổ trong tay cầm binh khí hoặc hổ phụ ngậm binh khí thì sẽ dễ gây bất lợi cho ngôi nhà, bởi thần tướng tay cầm binh khí hoặc hổ phụ đều có sát khí. Loại gương này nếu treo bên ngoài đối diện với nhà người khác cũng sẽ gây ảnh hưởng đến nhà họ.
Chính từ việc nhiều người không hiểu cặn kẽ về nguyên tắc hay các quy định phong thủy nên cứ có nhà là mua gương bát quái về treo, thậm chí là mua gương thông thường. Khi mà những gương này chiếu vào nhà đối diện sẽ tạo ra sự xung khắc nhất định, đây là một đại kỵ trong thuyết phong thủy. Nếu như cả hai nhà cùng treo gương thì sẽ chẳng bao giờ tốt vì lúc này nó sẽ tạo ra một cuộc chiến giữa các luồng sinh khí. Cách tốt nhất để giải quyết chuyện này là trồng cây giữa hai nhà, bụi cây sẽ hóa giải mọi xung khắc và cũng giúp cho hai gia đình tìm được hòa khí chung.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
Các loại gương bát quái phổ biến
Sự phổ biến của gương bát quái hiện nay đã nói lên được việc người dân càng ngày càng quan tâm đến vấn đề phong thủy và coi đó như là một “biện pháp” có công năng thực sự. Giá của những chiếc gương bát quái có giá từ vài chục nghìn cho tới vài triệu tùy vào chất liệu, kích thước và cách chế tác. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu phong thủy thì dù gương to hay gương nhỏ thì ý nghĩa của chiếc gương bát quái chỉ có một chứ không phải gương đắt tiền thì sẽ có hiệu quả cao hơn gương rẻ tiền. Nhưng phải biết phân biệt từng loại gương bát quái chứ không phải là “mua bừa” rồi về treo trước cửa nhà là có thể trấn áp tà khí, biến hung thành cát.
1) Gương bát quái lõm
Tác dụng của gương lõm lại trái ngược so với gương lồi: gương lồi dùng để “phân tán”, còn gương lõm dùng để “tích tụ” năng lượng. Nếu phương vị phong thủy nào có hiện tượng thất tán khí hoặc các vật thể được coi là tốt đẹp lại cách nhà quá xa, có thể treo gương lõm để thu hút năng lượng tốt.
Ví dụ, khi cửa chính đối diện cầu thang đi xuống, khí đất trong nhà sẽ thất tán. Lúc này nên treo 1 gương lõm trước cửa. Hoặc trong trường hợp từ cửa sổ có thể nhìn thấy 1 ngọn núi với hình dạng đẹp, thuộc loại núi Văn Xương (có lợi cho đường học vấn), nhưng lại cách nhà quá xa, hãy treo 1 tấm gương lõm trước cửa sổ để thu nạp khí tốt của núi.
Gương lõm hấp thụ các khí xấu, nó cong lõm vào trong. Tác dụng của gương lõm lại trái ngược so với gương lồi: gương lồi dùng để “phân tán”, còn gương lõm dùng để “tích tụ” năng lượng. Nếu phương vị phong thủy nào có hiện tượng thất tán khí hoặc các vật thể được coi là tốt đẹp lại cách nhà quá xa, có thể treo gương lõm để thu hút năng lượng tốt.
2) Gương bát quái lồi
Gương lồi có một đường cong hướng ra ngoài cạnh của nó, phản xạ và làm đổi hướng những sát khí có hại. Gương lồi giống như mai rùa, có hình cầu lồi lên, là 1 công cụ hóa giải sát khí.
Có rất nhiều vật thể mang sát khí trong phong thủy như cột đèn, các vật thể có hình dáng nhọn sắc, con đường chạy thẳng vào nhà, nhà thờ, cột cờ, khoảng không gian giữa 2 tòa nhà cao, biển báo giao thông, ống khói…
Khi nhà ở bị các vật thể mang sát khí xung chiếu, gương lồi sẽ có tác dụng rất hữu hiệu. Nếu cửa chính hoặc cửa sổ bị các vật mang sát khí chiếu thẳng vào, có thể treo gương lồi trước cửa để hóa giải.
3) Gương bát quái phẳng
Đối với gương phẳng, nếu đặt trong nhà cũng có tác dụng thu hút, thâu tóm năng lượng tốt trong phong thủy. Nếu treo ngoài cửa chính hoặc cửa sổ sẽ có tác dụng phản xạ.
Không ít người cho rằng treo gương phẳng tại phương vị cát lợi sẽ có tác dụng thu hút khí tốt; đồng thời, khi treo gương phẳng tại phương vị bị xung sát lại có tác dụng ngăn cản, hóa giải khí xấu.
Một gương phẳng được coi là trung lập. Đối với gương phẳng, nếu đặt trong nhà cũng có tác dụng thu hút, thâu tóm năng lượng tốt trong phong thủy. Nếu treo ngoài cửa chính hoặc cửa sổ sẽ có tác dụng phản xạ.
Treo gương phẳng tại phương vị cát lợi sẽ có tác dụng thu hút khí tốt; đồng thời, khi treo gương phẳng tại phương vị bị xung sát lại có tác dụng ngăn cản, hóa giải khí xấu.
Những ảnh hưởng xấu của căn nhà có thể tạo ra từ mũi nhọn của chóp mái nhà, xà nhà dôi ra, góc cạnh của ngôi nhà…khi những nét kiến trúc này chĩa thẳng đến mặt tiền nhà của người khác.
Đặc biệt, khi bạn sử dụng gương bát quái, hãy cẩn thận chú ý đến từng vấn đề nhỏ của phong thủy. Bởi vì, gương bát quái là một biểu tượng rất mạnh và nó có thể gây ra những tác dụng làm tổn thương người khác.
Tuy nhiên nếu bạn gặp phải một hàng xóm không được tốt tính thì vẫn có cách khắc chế như sau:
Khi căn nhà của bạn bị ảnh hưởng xấu từ bên ngoài mà bạn không thể treo gương bát quái vì không muốn ảnh hưởng đến nhà hàng xóm, thì tốt nhất bạn nên sử dụng chuông gió hoặc trồng cây để ngăn cản những tác hại đó.
Bằng cách này, bạn đã góp phần tạo ra năng lượng tốt đẹp cho cuộc sống của những người xung quanh, đồng thời duy trì mối quan hệ hàng xóm của bạn luôn tốt đẹp.
Ngoài ra, bạn có thể lắp đặt những ngọn đèn trước cổng nhà để tạo ra năng lượng tốt đẹp cho hàng xóm. Đây là hành động thể hiện sự hòa hiếu và giao lưu mật thiết giữa bạn với những người hàng xóm, thì hãy bảo đảm những kiểu thiết kế của hàng rào ngăn cách với hàng xóm, không gây ảnh hưởng đến nhà họ. Khi ấy, bạn không chỉ tạo ra một môi trường sống hài hòa, tích cực, lành mạnh cho mình, mà còn những người sống xung quanh nữa.
Những sai lầm thường mắc phải khi treo gương bát quái
Sai lầm 1: Treo một chiếc gương đối diện với cửa ra vào để mang lại năng lượng tốt
Điều này có thể gây ra sự suy giảm về tài chính và các cơ hội kinh doanh liên quan. Cho dù là văn phòng hay nhà ở, một chiếc gương treo ở phía đối diện với cửa ra vào sẽ đẩy năng lượng ra ngoài.
Về cơ bản là chặn đứng nguồn năng lượng đi vào nhà khi gặp chiếc gương. Bởi vì cửa ra vào là miệng của các chi, nhà ở hoặc văn phòng sẽ trở nên “nghèo đói” hoặc cạn kiệt năng lượng. Do đó, không nên treo một chiếc gương đối diện cửa ra vào.
Sai lầm 2: Treo một tấm gương phía sau bếp nấu
Bếp nấu là một phần của yếu tố Hỏa và khi có quá nhiều lửa thì nó sẽ thiêu rụi ngôi nhà. Sai lầm này xuất phát từ việc vị trí đặt bếp nấu khiến bạn không thể quan sát phía sau lưng, không biết được mọi người đang làm gì, ra vào như thế nào sau lưng mình.
Cũng có một số ý kiến cho rằng việc đặt gương sau bếp nấu sẽ tăng gấp đôi sự giàu có của bạn vì gương nhân đôi số thức ăn bạn nấu trên bếp. Sự thật thì việc khuếch đại năng lượng của lửa quá mức là rất có hại.
Nếu bạn muốn tăng sự sung túc, dư dả bằng cách sử dụng gương, tốt nhất bạn nên treo nó ở phòng ăn hoặc khu vực bố trí bàn ăn. Thức ăn bày trên bàn được nhân đôi tốt hơn là những ngọn lửa trên bếp.
Sai lầm 3: Sử dụng gương bát quái hoặc gương phong thủy để đẩy năng lượng tiêu cực đi
Gương bát quái thường được sử dụng để xua đuổi năng lượng tiêu cực, tạo ra một ngã ba ở cửa ra vào hoặc ngôi nhà hoặc chống lại năng lượng xấu đến từ các hướng không mong muốn.
Những chiếc gương này sử dụng bát quái âm dương, phát ra nguồn năng lượng rất mạnh và có hại nên không được tùy tiện sử dụng.
>>Đã có VẬN HẠN 2016mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!
Trong các dịp xuân, mọi người thường chọn những loại cây cảnh để trưng trong nhà. Không đơn giản là làm đẹp nhà, mà những loại cây này đều có ý nghĩa may mắn riêng về mặt phong thủy. Cây quất (cây quýt) Mang ý nghĩa ttượng trưng cho sự thu hoạch và c
Trong các dịp xuân, mọi người thường chọn những loại cây cảnh để trưng trong nhà. Không đơn giản là làm đẹp nhà, mà những loại cây này đều có ý nghĩa may mắn riêng về mặt phong thủy.
Cây quất (cây quýt) Mang ý nghĩa ttượng trưng cho sự thu hoạch và cũng là một khởi đầu tốt đẹp, vì thế, vào đầu năm mới, ta thường thấy mỗi gia đình mua một cây quất (quýt) quả vàng xum xuê, lá xanh tốt với mong muốn khởi đầu một năm mới tốt đẹp, giúp gia tăng tiền tài và vận may cho các thành viên trong gia đình.
Cây quất tượng trưng cho khởi đầu một năm mới tốt đẹp, no ấm.
Cây hoa đào Nếu miền Nam chuộng hoa mai trong ngày Tết thì miền Bắc nước ta lại thường mua những cành đào để trang trí cho căn nhà vào những ngày đầu xuân. Hoa đào không chỉ có tác dụng xua đuổi tà ma mà còn có thể mang đến nguồn sinh khí mới, giúp mọi người trong nhà luôn khỏe mạnh và bình an trong năm mới.
Cành đào với ý nghĩa mang nguồn sinh khí mới, giúp mọi thành viên khỏe mạnh trong năm mới.
Cây tre Theo các quan niệm phong thuỷ truyền thống, tre được dùng sẽ mang lại sức khoẻ, hạnh phúc, tình yêu và sự thịnh vượng. Ngày nay, tre không chỉ được dùng để trang trí trong gia đình, mà còn được sử dụng tại công sở, văn phòng làm việc… Bạn có thể treo tranh cây tre trong nhà, văn phòng để tăng cường ý nghĩa tốt đẹp trên. Đối với công việc buôn bán, khi có sự hiện hữu của cây tre trong cửa hàng thì nó sẽ tạo năng lượng rất tốt cho chủ về sự bảo vệ và may mắn. Việc làm ăn của bạn sẽ vượt qua những giai đoạn khó khăn và ngày càng phát đạt.
Nụ tầm xuân
Mặc dù không nở hoa khoe sắc như các loại hoa khác nhưng nụ tầm xuân vẫn được nhiều người dân chọn mua về chưng trong những ngày tết, bởi nụ tầm xuân mang ý nghĩa may mắn và thịnh vượng.
Thường nụ tầm xuân “nguyên thủy” có màu trắng. Sau khi nhập về, các chủ hoa ngâm nước màu cho nụ thêm “xuân”. Ngày tết hai màu đỏ và vàng được ưa chuộng nhất.
Cây kim tiền Cây kim tiền có lá kép dạng to, lá dày, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹp, có tuổi thọ khoảng 2 – 3 năm và được thay thế không ngừng. Chính vì vậy Kim Tiền được coi là cây “phát” – Kim phát tài.
Nếu cột lên cây vài sợi chỉ đỏ hoặc vài đồng tiền vàng (tượng trưng) thì sẽ trở thành cây phát tài, có ý nghĩa về mặt phong thủy và rất đẹp mắt.
Được coi là loại cây “phú quý”, có tác dụng chiêu tài nên Kim tiền rất thích hợp làm quà tặng trong những dịp mừng lễ, tết, thăng chức, khai trương.
Cây kim tiền nở hoa sẽ mang lại nhiều lộc và may mắn nhất. Nên bày cây ở hướng Đông, Đông-nam trong nhà ở, phòng hội họp, văn phòng, nhà hàng, khách sạn.
Hành: MộcLoại: Cát TinhĐặc Tính: Sự thanh tịnh, thanh nhàn, lợi ích cho việc cầu công danh, điền sản, tài lộc.
Ý Nghĩa Đường Phù Ở Cung Mệnh Người điềm đạm, khiêm nhường, ưa thích sự thanh nhàn, yên tĩnh. Sao này gặp nhiều sao tốt thì tốt thêm, gặp nhiều sao xấu thì xấu lắm. Gặp sao Thiên Tướng, Tấu Thư, Long Trì, Phượng Các, Quan Phù thì đi tu thành đạt, có danh vị, làm thầy cúng cũng có tiếng.