Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Loại đá mắt hổ kỵ tà khí hàng đầu –

Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc Thạch anh. Nó hàm chứa nhiều chất amiăng xếp thành những dãy song song, thành phần cấu tạo hóa học của đá mắt hổ (cọp) là Silicon dioxidie, trong đó có oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng, dễ p

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc Thạch anh. Nó hàm chứa nhiều chất amiăng xếp thành những dãy song song, thành phần cấu tạo hóa học của đá mắt hổ (cọp) là Silicon dioxidie, trong đó có oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng, dễ phản ứng với ánh sáng, tạo nên những vệt sáng lấp lánh, tạo hiệu ứng mắt cọp, cho nên có tên gọi là đá mắt hổ (cọp). Từ trường của nó rất lớn và mạnh mẽ, phù hợp với nam giới.

Đá mắt hổ (cọp) có vẻ đẹp thu hút nhờ ánh vàng óng ánh, vân sáng rực rỡ khi đặt chúng ngoài ánh sáng mặt trời hoặc dưới ánh đèn huỳnh quang (nhờ các chất gây hiệu ứng ánh sáng).

Đá mắt hổ là một trong những loại thạch anh có cấu trúc độc đáo trong thiên nhiên, cấu trúc dạng sợi khiến đá có các ánh phản quang đẹp lung linh như mắt của loài mèo. Với những công dụng đặc biệt của nó trong đó có trừ tà, chữa bệnh… khiến cho loại đá này rất được ưa chuộng. Tuy nhiên rất nhiều người không biết loại đá mắt hổ nào kỵ tà nhất? loại đá nó có công hiệu nhất. Hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn về loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu để chúng ta có một sự lựa chọn hợp lý.

Nội dung

  • 1 Loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu
    • 1.1 Mục đích chính khi sử dụng đá mắt hổ
      • 1.1.1 Nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên
      • 1.1.2 Mắt hổ tự nhiên có 3 màu
    • 1.2 Tác dụng khác của đá Mắt Hổ
      • 1.2.1 Về phong thủy
      • 1.2.2 Về mặt sinh lý
  • 2 Chú ý khi sử dụng

Loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu

Mục đích chính khi sử dụng đá mắt hổ

Đá mắt hổ được sử dụng ở khắp nơi trên thế giới với cùng một mục đích đó là trục trừ ma quỷ, không phải ngẫu nhiên khi loại đá này được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới với 1 mục đích chính như vậy.

Nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên

Những nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên: Nam Phi, Trung Quốc, Brasil, Nam Mỹ đều sử dụng trong trang sức hoặc treo những mặt đá trong nhà ( có hoặc không điêu khắc) với mục đích xua đuổi tà ma và đem may mắn đến.

Đá mắt hổ là một loại thánh thạch ( đá thần) của người Ấn Độ, họ quan niệm đá mắt hổ đem lại sự tự kiểm soát, ý chí vượt qua mọi khó khăn đạt đến thành công, những ánh sáng lấp lánh của đá thần mang lại sinh lực thần thánh cho họ.

 

Ngoài ra thạch anh mắt hổ còn có tác dụng nâng cao khí chất và sự tự tin ở người sử dụng, do có ánh Kim (Kim sinh Thủy) nên có tác dụng khai mở trí tuệ và năng lực tự thân.

Mắt hổ tự nhiên có 3 màu

Mắt Hổ tự nhiên các bạn chú ý là chỉ có 3 màu chính: Vàng/ Xanh Đỏ( ít thấy hơn) mắt hổ nhiều màu như màu hồng, xanh lá mạ, tím vv tuyệt đại đa số là do sử dụng các công nghệ xử lý để đạt được hiệu quả màu sắc.

Tác dụng khác của đá Mắt Hổ

Về phong thủy

Về mặt Phong Thủy tác dụng đặc biệt của đá Mắt Hổ là khiến mọi việc diễn ra với tốc độ nhanh hơn, giúp chúng ta đạt được kết quả sớm hơn. Sử dụng đá mắt hổ hình tròn đeo bên mình để nhập Thiền có thể thực hiện điều này.

Về mặt sinh lý

Tác dụng sinh lý: màu xanh lam tác động đến Luân Xa cổ họng, Đỏ tác dụng đến luân xa vùng ngực, đen tác dụng luân xa tầng đáy biển ( bàng quang), vàng tác động đến luân xa vùng bụng.

Chú ý khi sử dụng

Khi đeo đá mắt hổ không sử dụng các hình tượng đeo trên người sau:
Không đeo Phật
Không đeo gương Bát Quái
Long Quy
Thần Tài
Ưng
Bắp Cải tài lộc
Tháp Văn Xương
Bồn tụ tài
Đá Thái Sơn

Do ngũ hành nên khi đeo đá mắt hổ tác dụng của các vật trang sức ở trên sẽ bị giảm đi đáng kể

Ngoài ra trong nhà không nên có Ngà Voi, răng hổ, da cá sấu, xương hổ, báo, sói, khỉ vv vì Thú Tính trong các vật trên một khi cảm nhiễm vào đá sẽ có tác dụng giảm đi.

Chúc các bạn sử dụng đá mắt hổ hiệu quả đem lại bình an và may mắn cho gia đình và bản thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Loại đá mắt hổ kỵ tà khí hàng đầu –

Tính cách ảnh hưởng đến sự nghiệp của người tuổi Sửu

Đặc trưng tính cách nổi bật và quan trọng nhất của người tuổi Sửu là trầm tĩnh và có thể tin tưởng được. Họ có thể giành được sự tín nhiệm của cấp trên và sẽ
Tính cách ảnh hưởng đến sự nghiệp của người tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tuoi ty (2)
 
luôn được phân công những nhiệm vụ trọng yếu nhất. Tuy nhiên, lời khuyên dành cho họ là phải thật cẩn trọng, không nên để sự thắng lợi làm cho mờ mắt.

Tính cách thẳng thắn và một cái đầu biết tính toán logic của họ thường được ẩn giấu dưới vẻ ngoài trong sáng thuần phác. Còn sự thông minh, sắc sảo lại bị che khuất bởi sự lãnh đạm, đôi khi có phần lạnh lùng.

Tuy có vẻ là người hướng nội nhưng bản tính mạnh mẽ vốn có sẽ biến họ trở thành những nhà diễn thuyết hùng hồn và uy nghiêm khi đứng trước những cơ hội đang đến gần. Sự tự tin và tỉnh táo của họ cũng có thể giúp mọi việc đang rối loạn trở về đúng với trình tự vốn có của nó.

Thông thường, người tuổi Sửu thường dùng sự ngây thơ, trong sáng của mình để tìm hiểu những bí mật trong thâm tâm người khác. Tuy nhiên, họ không hoàn toàn hiểu được tình cảm của mọi người và cũng ít khi có được giây phút tình cảm lãng mạn. Thậm chí, quà tặng dành cho người yêu cũng là những vật dụng thiết thực trong đời sống hàng ngày. Từ đó, có thể thấy rằng, tính cách của họ đã quyết định việc họ chỉ nên theo đuổi một sự nghiệp mang tính thực tế, ít phù hoa và cám dỗ.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách ảnh hưởng đến sự nghiệp của người tuổi Sửu

Nốt ruồi của nam giới mọc ở đâu thì giàu

Trong nhân tướng học, tài vận của nam giới thường được thể hiện qua tướng mũi, cằm, gò má, trán... bao gồm cả vị trí xuất hiện nốt ruồi.
Nốt ruồi của nam giới mọc ở đâu thì giàu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nốt ruồi trên mũi


Mũi còn gọi là cung Tài Bạch, 1 trong 12 cung trên mặt. Theo nhân tướng học, nếu chóp mũi (Chuẩn Đầu) càng đầy đặn thể hiện nguồn thu nhập của chủ nhân càng dồi dào; cánh mũi càng dày ám chỉ sự tích lũy của cải càng tăng. Tương tự, chóp mũi có nốt ruồi thể hiện tài vận rất tốt.

Nếu trên chóp mũi đột nhiên xuất hiện nốt ruồi là biểu hiện của sự phát tài. Nhưng nếu cánh mũi có nốt ruồi thì lại là biểu hiện của sự rò rỉ tài lộc (lậu tài), có tiền của nhưng không giữ được. Điều này thể hiện rõ nhất ở giai đoạn chủ nhân 44, 45 hoặc 49, 50 tuổi.

2. Nốt ruồi ở cằm


Theo nhân tướng học, nốt ruồi trên cằm chủ nhân về ruộng vườn, nhà cửa... là nốt ruồi tốt. Chủ nhân dễ trở nên giàu có.

3. Nốt ruồi ở gò má


Nốt ruồi này rất có lợi cho sự nghiệp, thể hiện chủ nhân dễ có được địa vị xã hội cao. Họ cũng là người có chí tiến thủ, có được nhiều cơ hội trong công việc và cuộc sống, có khả năng trở thành nhân vật lãnh đạo.

4. Nốt ruồi trên trán


Trán thể hiện cho sự phúc đức của con người. Theo hình trên, từ trái sang phải thứ tự các nốt ruồi bao gồm: nốt ruồi Điền Trạch, nốt ruồi Phú Quý, nốt ruồi Cát Tường, nốt ruồi Cát Tường, nốt ruồi Điền Trạch, nốt ruồi Quan Lộc, nốt ruồi Phú Quý.

Nếu như trên trán phía gần chân tóc xuất hiện nốt ruồi đen bóng đồng thời Thiên Đình đầy đặn thì rất tốt. Thực tế, nó cũng thể hiện chủ nhân xuất thân trong gia đình tương đối sung túc. Thế nhưng, nốt ruồi màu đen nâu thì lại không tốt.

5. Nốt ruồi phú quý


Đây là nốt ruồi thể hiện chủ nhân xuất thân từ gia đình giàu có hoặc dễ dàng có được chức vị nhất định. Điều đó làm cơ sở cho việc tiến thân hoặc gây dựng kinh tế.

6. Nốt ruồi kinh doanh


Nốt ruồi này xuất hiện ở phía mắt bên trái, gần đuôi mắt. Nó cho thấy chủ nhân là người thông minh, cẩn trọng, có tư tưởng táo bạo, giỏi đối nhân xử thế, biết nắm bắt cơ hội. Đây là điển hình của người tự lập mà trở nên giàu có.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi của nam giới mọc ở đâu thì giàu

Top những con giáp chung tình nhất thế gian

Trong 12 con giáp, có những con giáp nổi danh là người chung tình và kiên định trong tình yêu. Có được tình yêu ấy là niềm hạnh phúc và may mắn khó gì sánh nổi.
Top những con giáp chung tình nhất thế gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 con giáp, có những con giáp nổi danh là người chung tình và kiên định trong tình yêu. Có được tình yêu của họ là niềm hạnh phúc lớn lao, cũng là sự may mắn khó có gì so sánh được. Cùng điểm danh những con giáp nếu yêu thì nhớ luôn trân trọng này nhé.   Tình yêu là điều đẹp đẽ nhất trên thế giới này. Ai yêu mà chẳng mong mình gặp được người chung thủy, hai người chung sống hạnh phúc tới đầu bạc răng long. Song ở đời người chung tình quả thực không nhiều, nhất là ở thời đại mà tình yêu được ví như những món ăn nhanh được bán nhan nhản ngoài đường thì lại càng hiếm hoi hơn.

comment left Không có gì thật cao quý và đáng kính trọng bằng lòng chung thủy.
Cicero
comment right
  Bạn có biết xem bói tử vi thì trong số 12 con giáp, ai là người có tiếng chung tình, một lòng một dạ với người mình yêu không? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá xem với những con giáp nào thì chung tình là đức trời sinh nhé.


Top nhung con giap chung tinh nhat the gian hinh anh
 
 

Tuổi Sửu

  Những người sinh năm Sửu có thể bị cho là hơi khô khan và không mấy tình cảm. Họ không dễ động lòng, mà ngay cả khi đã bị tình yêu làm cho rung động thì có lẽ cũng mất khá nhiều thời gian để họ hoàn toàn thoải mái thả mình vào đám mây hồng bồng bềnh của tình yêu.   Sự thực không phải họ là người lạnh lùng mà chỉ là vì họ quá cẩn trọng và tỉ mỉ. Họ biết mình là người yêu say đắm, hết lòng hết dạ với người mình yêu. Họ e sợ bản thân vì quá yêu mà suy nghĩ được mất, vì trao trái tim cho người không biết nâng niu mà sẽ bị tổn thương.   Người tuổi Sửu không dễ yêu, nhưng yêu ai là sẽ toàn tâm toàn ý, chung thủy với người đó đến tận cuối cuộc tình. Có thể nhiều người không tài nào hiểu nổi triết lý tình yêu của họ, khi họ quyết thu mình trong vỏ bọc để bảo vệ bản thân, mặc cho tình yêu vẫy gọi bên ngoài. 
 
Nếu bạn yêu một người tuổi Sửu, hãy kiên nhẫn và thể hiện tình cảm nồng nàn, cháy bỏng nhưng cũng rất mực chân thành với họ. Nhất định sẽ có ngày họ cảm động và dành cả trái tim cho bạn. Ngày đó và những ngày tháng về sau, bạn sẽ cảm nhận được niềm hạnh phúc xứng đáng cho tất cả những vất vả ngày trước đó.

Bạn có biết Những nàng giáp nào chung thủy trong tình yêu nhất không?

 

Top nhung con giap chung tinh nhat the gian hinh anh 2
 

Tuổi Thìn

  Vốn là những đứa con của Rồng, người tuổi Thìn cũng có nét cao ngạo như vậy trong tình yêu. Họ thể hiện tham vọng mãnh liệt trong công việc và khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp, nhưng lại tỏ vẻ không quan tâm đến chuyện tình cảm.   Song bạn đừng để vẻ bề ngoài lạnh lùng đó của họ đánh lừa, bởi trong thâm tâm, họ luôn coi trọng tình cảm. Cũng chính vì coi trọng nên họ không quá vồ vập hay thể hiện tình cảm ra ngoài mặt, bởi người tuổi Thìn cho rằng cái gì đến nhanh thì đi cũng nhanh.   Thích một người, họ sẽ không dễ dàng thay lòng đổi dạ. Ngay cả khi chưa từng mở lời, họ vẫn nhất mực chung tình với hình bóng trong trái tim mình. Chỉ cần đã nhận ra người mình có tình cảm thì họ sẽ giữ mối tình đó rất lâu dài, đồng thời lên kế hoạch để giành được trái tim người đó.   Khi đã có được người mình yêu, họ sẽ trân trọng người ấy và nâng niu trong bàn tay mình. Dù có phải trải qua bao nhiêu khó khăn, khổ cực, thậm chí là đau khổ tới mức nào, họ cũng quyết nắm tay người ấy đi tới tận cuối con đường.   Chữ yêu không dễ nói ra, nhưng nếu bạn đã được nghe điều đó từ người tuổi Thìn dù chỉ một lần thôi, vậy thì chúc mừng, bạn đã là người vô cùng quan trọng trong trái tim họ. Dù không hay nói lời tình cảm, nhưng những hành động của họ chính là thước đo tình cảm rõ rệt nhất đó.
 

Top nhung con giap chung tinh nhat the gian hinh anh 3
 

Tuổi Ngọ

  Người tuổi Ngọ có tiếng là ngay thẳng, trung thực. Trong tình yêu, họ cũng là người rất mực chung tình, không bao giờ có suy nghĩ lăng nhăng, bất trung với người mình yêu. Lòng tự tôn rất lớn khiến họ luôn ý thức được mình là ai, đâu mới là người mình yêu và trao trọn tình cảm suốt cuộc đời này.   Dù đứng trước dụ dỗ lớn tới thế nào, họ cũng quyết không để bị dao động. Bản thân họ cũng rất ghét bị phản bội, không chịu được việc người khác tùy ý chà đạp lên trái tim mình. Rút ra từ chính cảm giác của bản thân, họ không cho phép mình làm tổn thương người mình yêu.   Chọn con tim hay là nghe lý trí, nếu rơi vào hoàn cảnh đáng tiếc nhất, khi người yêu không chung tình với mình thì người tuổi Ngọ sẽ sẵn sàng từ bỏ con người bội bạc ấy, song phải mất rất nhiều thời gian mới có thể quên đi người đó. 

Mẹo phong thủy hôn nhân giúp chồng luôn chung thủy, bạn đã biết chưa?
  Họ rất khó khăn mới có thể cho phép một người bước vào trái tim mình, vì thế mà khi chia tay, biết bao kỉ niệm sẽ còn sống mãi trong trái tim họ. Thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, nhưng hành trình ấy là khá dài với người tuổi Ngọ. Đoạn tình cảm thất bại ấy sẽ để lại bóng đen trong tâm trí họ cả đời.   Yêu một người tuổi Ngọ, đừng bao giờ làm tổn thương họ nghe bạn. Đến bên nhau đã khó, ở cạnh nhau lại càng khó hơn, nhưng có tình yêu thì mọi chuyện đều có thể. Đừng buông tay để lỡ một người chung tình quý giá đến vậy bên mình.

 

Top nhung con giap chung tinh nhat the gian hinh anh 4
 

Tuổi Tuất

  Con giáp này là người quảng giao, có duyên ăn nói, cũng có vô số bè bạn chung quanh. Gặp một người mình có cảm tình, họ thường mong muốn trở thành bạn bè với người đó chứ hiếm khi nghĩ tới chuyện tình cảm mà giữ ai đó cho riêng mình.   Nhưng ai rồi cũng sẽ gặp được tình yêu của cuộc đời, người tuổi Tuất cũng vậy. Đến một ngày nọ, họ gặp được một người mà họ sẽ rơi vào lưới tình từ ánh mắt đầu tiên. Một người tìm đủ mọi cách để ở bên một người khác, thậm chí là phải từ bỏ tất cả những gì mình có, bạn nói người đó có chung tình hay không?   Yêu một người chỉ cần một cái chớp mắt, nhưng quên một người lại cần tới cả cuộc đời. Người tuổi Tuất là một người như vậy. Đã yêu ai là họ sẽ dành tất cả trái tim mình cho người đó, cả nguồn sống thu bé lại chỉ bằng người trong trái tim họ.   Một người ngay thẳng, vui vẻ và chính trực như người tuổi Tuất, chẳng ai nghĩ họ sẽ có ngày say đắm vì tình. Nhưng khi ngày đó tới, họ sẵn sàng tung hê tất cả để có được người mình yêu. Họ sẽ làm hết sức mình có thể để dành cho người đó những điều tốt đẹp nhất. Ở bên người mình yêu là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đối với người tuổi Tuất “đệ nhất chung tình”.

An An

Top 3 con giáp Nam lọt vào hàng quý hiếm vừa chung thủy lại siêu kiếm tiền Vạch mặt anh chàng lăng nhăng khiến chị em chạy mất dép Top 3 chàng giáp “thiên hạ đệ nhất chung tình”

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top những con giáp chung tình nhất thế gian

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Chùa Từ Đàm - Huế

Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế. Chùa nằm trên một khoảnh đất cao, rộng, bằng phẳng thuộc địa phận phường Trường An
Chùa Từ Đàm - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế. Chùa nằm trên một khoảnh đất cao, rộng, bằng phẳng thuộc địa phận phường Trường An, cách trung tâm thành phố Huế 2 km về hướng nam. Mặt chùa hướng đông nam, trước có núi Kim Phụng làm án, bên phải giáp đường Điện Biên Phủ, bên trái có chùa Linh Quang và nhà thờ cụ Phan Bội Châu, phía sau có chùa Thiên Minh.

Chùa Từ Đàm được khai sơ vào khoảng năm 1690, tức vào cuối thế kỷ thứ XVII, đến nay đã trên 300 năm vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ngài Minh Hoằng Tử Dung – một vị thiền sư Trung Hoa sang Thuận Hóa thời bấy giờ sáng lập chùa này. Đầu tiên, ngài đặt tên là Ấn Tông Tự – ấn tông nghĩa là “dĩ tâm ấn vi tông”, tức lấy sự truyền tâm làm tông chỉ.

Năm 1703, chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong cho chùa là Sắc Tứ Ấn Tông Tự. Đến thời Thiệu Trị, vua đặt thêm một tên khác là “Từ Đàm Tự”. Từ đàm là đám mây lành, có ý tượng trưng cho đức Phật, cho hình ảnh ngôi chùa Việt Nam như đám mây lành che mát cho chúng sanh.

Chùa Từ Đàm lúc sơ khai chỉ là tịnh thất nhỏ làm bằng tranh tre nứa lá. Từ đó đến nay chùa đã tồn tại lâu dài trên dãi đất Cố đô Huế. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử thì năm 1932, khi Phật giáo Việt Nam phục hưng sau bao năm bị phân hóa dưới thời Pháp thuộc, năm 1935 sơn môn tăng già Thừa Thiên chuyển giao Chùa Từ Đàm cho Hội An Nam Phật học làm trụ sở chính của hội.

Năm 1938, Hội An Nam Phật học đại trùng tu Chùa Từ Đàm và đúc pho tượng bổn sư cùng các pháp khí để tôn trí trong chánh điện. Hiện nay, tại chùa có đặt Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên-Huế.

Cấu trúc của chùa theo kiểu “chùa Hội” kết hợp giữa nét nghệ thuật kiến trúc mới và cũ với yêu cầu rộng rãi, cao ráo, cổ kính nhưng đơn giản. Chùa Từ Đàm có ba bộ phận quan trọng là tam quan, chùa chính và nhà Hội.

Cổng tam quan chùa cao, rộng, có mái ngói thanh nhã. Phía sau cổng có cây bồ đề quanh năm tỏa bóng mát. Đây là cây bồ đề được chiết ra từ cây bồ đề nơi Phật đắc đạo do bà Karpeies hội trưởng hội Phật học Pháp thỉnh từ ấn Độ qua Việt Nam tặng và được trồng vào năm 1936. Sân chùa rộng, bằng phẳng, thoáng mát, đủ chỗ để tập trung hàng nghìn người về dự lễ.

Chùa chính gồm tiền đường, chính điện và nhà Tổ. Tiền đường được xây trên một nền móng bằng đá hoa cương chạy chỉ, cao 1,5 m, mái xây kiểu cổ lầu nên chùa vốn đã cao trông lại càng cao hơn. ở các bờ mái và trên nóc chùa là những cặp rồng uốn cong, mềm mại đối xứng nổi lên trên những dãy ngói âm dương chạy dọc trông thật cân đối, hài hòa, đẹp mắt. Dưới mái cổ lầu có những bức đắp nổi sự tích đức Phật, bố cục trọn vẹn trên các khung đúc. Dọc theo các cột trụ tiền đường là các bức câu đối dài nét chữ sắc sảo. Tả hữu sát với tiền đường có hai lầu chuông trống.

tháp
Tháp chùa Từ Đàm

Trong điện có pho tượng đức Thế tôn Thích ca mâu ni ngồi trên tòa sen. Chùa Từ Đàm thờ độc tôn nên cách bài trí và thờ tự trong điện có phần đơn giản so với các ngôi chùa khác ở Huế. Phía sau chính điện có nhà Tổ, nhà Tăng. Từ Đàm là ngôi chùa Hội cho nên Hội quán được xây dựng lớn, rộng 10 căn, cao hai tầng ở sân dưới chùa cạnh đường Phan Bội Châu.

Từ Đàm đã được nhiều người ở khắp đất nước biết đến do vai trò quan trọng của chùa trong công cuộc chấn hưng và phát triển của Phật giáo Việt Nam thời kỳ cận đại và cuộc đấu tranh vì hòa bình và tự do tín ngưỡng. Chùa Từ Đàm là trụ sở hoạt động của An Nam Phật học hội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Từ Đàm - Huế

Việc đặt tên cho một hậu duệ –

Đặt tên cho một hậu duệ vừa mang tính trách nhiệm của ông bà cha mẹ. Nó vừa là niềm vinh hạnh, niềm vui sướng... Nó chứa đựng những ước muốn thầm kín, những hy vọng ấp ủ vào hậu duệ của mình v.v... Như vậy rõ ràng ai cũng muốn tìm một cái “tên đẹp”,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên cho một hậu duệ vừa mang tính trách nhiệm của ông bà cha mẹ. Nó vừa là niềm vinh hạnh, niềm vui sướng… Nó chứa đựng những ước muốn thầm kín, những hy vọng ấp ủ vào hậu duệ của mình v.v…

Như vậy rõ ràng ai cũng muốn tìm một cái “tên đẹp”, “tên hay” để đặt cho hậu duệ. Người có chữ cũng như người không có kiến thức ngôn ngữ ai cũng cố tìm một cái tên mang ý nghĩa thực sự với họ.

doi-ten-cho-con-la-chuyen-bat-dac-di

–   Ngày xưa, những bậc danh nho thường đặt tên cho con cháu hết sức cẩn thận. Họ nghiên cứu, phân tích họ và tên liên quan tới “lý”, “khí” thế nào (có thuận nghĩa, hợp đạo hay không). Họ nghiên cứu quan hệ ngũ hành tương sinh, tương khắc ra sao giữa tên và họ, đệm họ. Họ nghiên cứu ý nghĩa của chữ (thường theo nghĩa chữ Hán vì các nhà nho rất giỏi chữ Hán). Họ đối chiếu với “tứ trụ” giờ, ngày, tháng, năm sinh để đặt một cái tên hợp “lý”. Ngoài ra những người thông hiểu “tín danh dư đoạn”, họ còn tìm cho con cháu họ một cái tên cùng với tên họ mà có được “ba biểu thế” “Âm dương Ngũ Hành” thuộc loại “đại cát” (rất tốt) hay “cát” (tốt) và tránh xa sự phối hợp họ tên mà “hung hãm” (xấu, tồi).

Họ mong muốn với cái tên đẹp sẽ là biểu thị những đức tính tốt, nhân cách tốt (Tên ảnh hưởng lớn đến nhân tính).

Những người dân thường cũng cố đặt cho hậu duệ mình một cái tên hay. Họ không biết quá nhiều triết lý mà chỉ là ý thích

–    Song trong thực tế ngày xưa những người hiếm muộn lại cố tình đặt một cái tên xấu xí. Bởi họ muốn con họ không bị thế lực huyền bí “bắt” đi…! Khi lớn lên đứa trẻ ấy lại phải xin đổi tên dễ nghe, hợp lý hơn.

Như vậy thì ai cũng muốn đặt một cái tên đẹp và ai cũng muốn có một cái tên hay. Vì tên “chính tắc” là dùng suốt đời nên cần thận trọng. Tên là một thứ quyền lực hợp pháp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Việc đặt tên cho một hậu duệ –

Phong thủy phòng làm việc –

Trong phong thủy, việc đặt cái bàn, cái ghế trong nhà, văn phòng… cũng hết sức quan trọng. Vì tất cả những yếu tố này đều tác động đến khí và vận của gia chủ. Để có một phong thủy tốt cho khu vực văn phòng cũng như đặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bàn làm việc đúng hướng của cung tuổi, gia chủ cần hội đủ một số điều kiện về ngoại thất, nội thất

file.392840

Hài hòa ngoại thất

1. Tìm vị trí khu vực chọn nơi làm chỗ đặt văn phòng phải thông thoáng, có lối đi thuận tiện cho nhân viên và khách hàng.

2. Bên ngoài văn phòng nên tránh có những nhánh cây to đâm trực tiếp vào cửa chính của văn phòng. Cửa văn phòng tối kỵ đối diện cột điện và bình điện hoặc gốc cây to.

3. Cửa văn phòng không được đối diện cửa toilet vì rất ảnh hưởng sức khỏe vận may và sự nghiệp hoặc đối diện song song với cửa phòng dễ bị thị phi.

4. Cửa văn phòng không nên đối diện với cầu thang. Vì cầu thang đâm thẳng vào được ví như là một xe ủi đất. Văn phòng nơi làm việc sẽ không tồn tại lâu dài.

5. Tránh góc cạnh của các căn nhà đối diện đâm thẳng vào cửa văn phòng. Theo phong thủy cho là lưỡi gươm hoặc cây đao phủ vô hình đâm thẳng vào gia chủ làm cho thân thể ể oải, bất lực, suy nhược hệ thống thần kinh.

6. Nền nhà của văn phòng phải cao ráo và bố trí các bậc tam cấp phải hợp lý (nếu có) nếu nền nhà của văn phòng quá thấp thì công việc của gia chủ sẽ bị hãm về tài năng chiến lược trong kinh doanh cũng như sự quyết định không dứt khoát rõ ràng làm cho đối tác không tin cậy về mình.

7. Chọn hướng văn phòng theo cung tuổi thuộc mệnh Đông tứ hay Tây tứ trạch. (Điều này rất quan trọng cho sự nghiệp của gia chủ, được ví như là một căn nhà ở của gia chủ)

Nội thất hợp trạch mệnh

1. Tìm hướng tốt nhất cho cung mệnh tuổi, để đặt bàn làm việc.

2. Tránh bàn làm việc đối diện với cửa ra vào

3. Tránh đối diện song song với người ngồi làm việc

4. Tránh đặt bàn làm việc xéo. Nếu phương hướng không đúng cũng nên để ngay ngắn. Khi gia chủ tiếp khách hàng chỉ cần ngồi xéo góc 1 chút nhưng với điều kiện là gia chủ phải biết được phương hướng tốt mà điều chỉnh ghế ngồi cho hợp lý để dể tiếp khách. Bàn làm việc thuộc về tịnh, ghế ngồi thuộc về động.

5. Bàn hội họp hoặc bàn tiếp khách không được đặt đâm thẳng trực xung với bàn làm việc.

6. Không đặt bàn làm việc đối diện với cửa toilet. Rất ảnh hưởng trí tuệ và sự minh mẫn, có cảm giác lúc nào cũng muốn đi toilet. Nên đặt toilet ở phía ngoài công ty trong phạm vi cho phép.

7. Phía sau chỗ ngồi làm việc không nên có cửa sổ. Cảm giác bị bất an, được ví như có kẻ trộm đang rình rập. Cửa sổ nên đặt bên hông văn phòng là tốt nhất.

8. Phía sau bàn làm việc nên có tranh ảnh về núi non. Tượng trưng cho điểm tựa vững chắc, lưng dựa vào núi được ví như phòng thủ, nhưng hình núi non phải có màu sắc thích hợp theo ngũ hành.

9. Phía trên không được có xà ngang hay đèn trang trí treo, sẽ ảnh hưởng đến đầu óc cũng như sự thăng quan tiến chức.

10. Trước mặt bàn làm việc nên có một bức tranh vui có ý nghĩa, trường hợp này dùng khi các bạn làm việc quá căng thẳng, sẽ nhìn vào bức tranh đó tạo cảm giác nhẹ nhàng sẽ giãm bớt áp lực trong công việc.

11. Trên bàn làm việc bố trí giấy tờ cũng như máy vi tính gọn gàng. Các bạn cần lưu ý máy vi tính cũng xếp cho đúng hướng.

12. Phải có ánh sáng tự nhiên hợp lý, khí thông… tránh trường hợp trong văn phòng tối tăm âm u, đầu óc dễ bị lú lẫn u muội.

13. Màu sắc trong văn phòng cũng không nên đặt vấn đề trong phong thủy nặng quá, chủ yếu có màu sắc thanh mát có tác dụng kiềm hãm áp lực trong công việc.

14. Trong phòng làm việc nếu có các vết nứt nẻ sâu trên tường, lập tức sửa chửa ngay.

15. Tránh hút thuốc trong văn phòng là một tác nhân gây căng thẳng đầu óc và dễ nhiễm khí độc, phiền phức cho người xung quanh.

16. Trên bàn làm việc phải có những vật khí phong thủy mang biểu tượng sự quyền lực cũng như tăng trí, thiêu tai, trừ mạn…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng làm việc –

Chiến lược cả đời Khổng Minh thực ra đã thất bại từ trứng nước?

Toàn bộ giai đoạn "Tam Quốc" chỉ là con đường đi tới diệt vong của Thục Hán, mà căn nguyên thực sự được cho là đã xảy ra từ khi chiến lược của Khổng Minh mới "ra lò".

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cốt lõi của "tam phân thiên hạ"

Ngày này, có nhiều ý kiến cho rằng sự sụp đổ của Thục Hán xuất phát từ sự kiện Quan Vũ để mất Kinh Châu về tay Đông Ngô, khiến Thục gần như bị "bế quan tỏa cảng", không còn cách đột phá ra khỏi lãnh thổ của mình.

Sự kiện này có thể coi là điểm mấu chốt trong sự sụp đổ của toàn bộ "Long Trung đối sách" nhằm duy trì thế "tam phân thiên hạ" của Gia Cát Lượng.

Tuy nhiên, có quan điểm nói rằng, sự thất bại thực sự của Khổng Minh đã đến từ trước đó rất lâu, khi ông không thể thuyết phục Lưu Bị đoạt lấy Kinh Châu khi khu vực này còn nằm trong tay Lưu Biểu, chứ chưa sáp nhập vào Đông Ngô.

"Long Trung đối sách" là chiến lược căn bản mà Gia Cát Lượng vạch ra cho Lưu Bị từ khi ông còn ở "lều cỏ". Mục tiêu của chiến lược này là "liên Ngô kháng Tào".

Trong khi đó, Khổng Minh cũng chỉ ra, điều kiện tiên quyết để đạt được mục tiêu nói trên là phải có được Kinh Châu trong tay.

Long Trung đối của Khổng Minh đã bị ông thực hiện thất bại từ đầu?

"Long Trung đối" của Khổng Minh đã bị ông thực hiện thất bại từ đầu?

Dù sau đại chiến Xích Bích, Lưu Bị cũng "mượn" được Kinh Châu từ Tôn Quyền, song thời thế đã không còn như trước. Khổng Minh hiểu rõ, cùng là một miếng đất, nhưng đoạt lấy khi nào và từ tay ai lại mang ý nghĩa chiến lược hoàn toàn khác biệt.

Đương thời, Tào Tháo còn mải bình định phương Bắc, chưa thể xua quân Nam hạ, trong khi Tôn Quyền và Lưu Biểu diễn ra tranh chấp.

Nếu tại thời điểm này, Lưu Bị đoạt lấy Kinh Châu từ tay Biểu thì ông có thể dễ dàng sở hữu một địa bàn độc lập mà không phát sinh vấn đề chủ quyền, dẫn đến xung đột với Đông Ngô như sau này.

Như vậy, với việc Tào Tháo tấn công Giang Đông, sự liên kết của Tôn Quyền và Lưu Bị cũng sẽ được hiện thực hóa trong vai vế bình đẳng hơn.

Ngược lại, trên thực tế, quân đội Lưu Bị đã bị Tào Tháo đè bẹp ở Tân Dã, buộc ông phải cử Khổng Minh làm thuyết khách đến cầu viện Đông Ngô. Về lý thuyết, Lưu Bị luôn ở "chiếu dưới" trong quan hệ đồng minh với Tôn Quyền.

Ngay trong chiến dịch Xích Bích, quân đội chủ đạo đem lại thế thắng cho "liên quân" thực chất cũng là thủy quân của Chu Du.

Qua các điểm này, có thể thấy được ý nghĩa lớn nhất của việc "không bỏ lỡ thời cơ đoạt Kinh Châu" chính là Lưu Bị sẽ được "danh chính ngôn thuận" sử dụng Kinh Châu mà không vấp phải sự chất vấn chủ quyền từ Giang Đông. Có như vậy, "Long Trung đối" mới được thực thi triệt để.

nếu đoạt sớm kinh châu, có thể diễn biến lịch sử đã khác đối với lưu bị.

Nếu đoạt sớm Kinh Châu, có thể diễn biến lịch sử đã khác đối với Lưu Bị.

"Sớm muộn cũng để chủ công ngồi cao trên thành Nam Đô"

Khi "cơ hội vàng" trôi qua, lịch sử Tam Quốc đã ghi nhận tranh chấp chủ quyền cực lớn giữa Thục và Ngô tại Kinh Châu.

Việc Gia Cát Lượng buộc dựa vào mưu lược để "mượn sức" Đông Ngô đoạt lấy Kinh Tương vô hình trung đã thừa nhận sự góp phần và ăn chia hợp lý của Giang Đông tại khu vực này.

Kinh Châu được Thục tận dụng hiệu quả trong suốt 10 năm trời, nhờ đó thôn tính địa bàn chiến lược thứ 2 là Ích Châu, đủ thấy giá trị địa - chính trị của Kinh Châu không gì thay thế được.

Nhưng mối ẩn họa đối với Thục Hán là sự ổn định khu vực này chỉ là tạm thời. Đông Ngô nhiều lần dùng các biện pháp ngoại giao yêu cầu hoàn trả Kinh Châu, trong khi Khổng Minh chỉ có thể "khất lần" để nuôi dưỡng thực lực với mục đích nuốt trọn được địa bàn này.

Có quan điểm nói rằng điều Khổng Minh lo ngại nhất mà không thể ngăn được chính là Quan Vũ trở thành đại tướng trấn thủ Kinh Châu.

Việc Quan Vũ "đổ thêm dầu vào lửa" dẫn tới xung đột bùng phát và ông để mất Kinh Châu là thực tế, nhưng chỉ là hệ quả cuối cùng của những mâu thuẫn âm ỉ trong suốt 10 năm trời.

Nguyên nhân rất đơn giản, Lưu Bị là phe được lợi và đương nhiên muốn duy trì hiện trạng Kinh Châu, đồng thời "hợp tác hòa bình" với Đông Ngô.

Trong khi đó, Giang Đông là phe chịu thiệt và thậm chí còn bị lợi dụng. Do đó, việc Tôn Quyền phát binh lấy Kinh Châu chỉ là vấn đề thời gian, Thục Hán hy vọng dùng các chính sách ngoại giao để "lần lữa" chỉ là phương án câu giờ, hoàn toàn không xử lý được vấn đề.

Chính vì vậy, có quan điểm bênh vực Quan Vũ nói rằng, việc đoạt lại Kinh Châu từ Thục đã là chiến lược tất yếu của Đông Ngô, cho nên việc Quan Vân Trường có thủ Kinh Châu hay thậm chí là Khổng Minh trực tiếp trấn giữ cũng không thay đổi được gì.

Cho dù Quan Vân Trường không thua trước Lữ Mông, Lục Tốn năm 219 và Kinh Châu chưa mất, thì những năm sau đó, đây vẫn sẽ là khu vực "nóng" nhất trong mâu thuẫn Ngô - Thục.

Để thua trước Lữ Mông là thất bại của Quan Vũ, song để dẫn đến mâu thuẫn Ngô - Thục lại là sai sót của Khổng Minh và Lưu Bị.

Để thua trước Lữ Mông là thất bại của Quan Vũ, song để dẫn đến mâu thuẫn Ngô - Thục lại là sai sót của Khổng Minh và Lưu Bị.

Cũng có ý kiến nói rằng, không phải Gia Cát Lượng không muốn sớm đoạt Kinh Châu. Ông từng nhiều lần thuyết phục Lưu Bị ra tay nhưng không được nghe theo.

Nhiều sự kiện về sau đã chứng minh, Lưu Bị chắc chắn là người sẵn sàng đi ngược lại đạo đức để hành sự. Điều mà Khổng Minh thất bại chính là không đưa ra được một cái cớ hợp lý để Bị thực hiện việc đó với Lưu Biểu.

Trong một hoàn cảnh tương tự, Bàng Thống - nhân vật tề danh cùng Khổng Minh - đã giúp Bị tìm được một lý do "danh chính ngôn thuân", giúp ông ta vượt qua "trở ngại đạo đức" mà đoạt lấy Tây Xuyên.

Câu nói "sớm muộn cũng để chủ công ngồi cao trên thành Nam Đô (Kinh Châu)" mà Khổng Minh nói với Lưu Bị xem ra đã trở thành trò cười, bởi thất bại của họ rất có khả năng xuất phát từ chính thời điểm "sớm muộn" đó mà thôi.

Theo Trí Thức Trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiến lược cả đời Khổng Minh thực ra đã thất bại từ trứng nước?

Người tuổi Thân nên kiêng kị và lựa chọn công việc gì?

Trong năm 2016 này, những người tuổi Thân cần kiêng kị và thay đổi gì để đi qua năm tuổi của mình một cách bình an nhất? Dưới đây là những điều mà người tuổi
Người tuổi Thân nên kiêng kị và lựa chọn công việc gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thân cần phải chú ý.

Nguoi tuoi Than nen kieng ki va lua chon cong viec gi hinh anh
 
1. Những kiêng kị cần chú ý   Người tuổi Thân nên tránh đeo biểu tượng của "Dần" dù cho đó chỉ là đồ trang sức hay vật trang trí. Thân và Dần sẽ tạo ra trường khí bất lợi cho bạn.   Trong địa chi, hướng Đông Bắc thuộc Sửu, Dần tương xung với tuổi Thân. Đồng thời, Sửu còn nằm trong tứ mộ trong ngũ hành "Thìn, Tuất, Sửu, Mùi". Vì vậy mà hướng phong thủy này rất bất lợi.   Bên cạnh đó, người tuổi Thân năm nay cần phải giữ cho nơi làm việc gọn gàng ngăn nắp, tránh việc bày bừa trên bàn hay xung quanh chỗ ngồi. Nơi làm việc phải tránh xà ngang áp đỉnh hoặc đèn treo. Tuyệt đối không ngồi đối diện với cửa ra vào và và không có cửa sổ phía sau.   Trong năm nay, bạn nên tránh hợp tác làm ăn, đầu tư hay yêu đương với những người có tuổi Hợi, Dần. Nếu không, mọi việc khó được như ý và gặp nhiều khó khăn, trắc trở.  
Nguoi tuoi Than nen kieng ki va lua chon cong viec gi hinh anh 2
 
2. Công việc phù hợp với người tuổi Thân   Người tuổi Thân bản chất có tình hiếu kì, ham học hỏi, thích thử thách và tiếp xúc những cái mới nên họ thường hợp với công việc mang tính khiêu chiến. Bạn có thể chọn những công việc như vận động viên chuyên nghiệp, chứng khoán, thám tử hay cảnh sát.   Bình sinh, người tuổi này phù hợp với công việc mang tính logic bởi họ điềm tĩnh và lí trí. Những công việc như thám tử, thiết kế, luật sư, chiến lược gia rất hợp với bạn.   Ngoài những công việc có thể phát huy năng lực cá nhân, người tuổi Thân còn cần sự tự do trong việc giải quyết vấn đề. Chính vì vậy, trở thành nhà văn, phóng viên cũng là một ý kiến hay cho bạn.  
Nguoi tuoi Than nen kieng ki va lua chon cong viec gi hinh anh 3
 
3. Những điều cần cải thiện   Trong năm tuổi, bạn nên học cách kiềm nén cảm xúc và làm việc độc lập để tạo lòng tin ở mọi người. Bạn cũng nên tránh những hiểu lầm không đáng có trong giao tiếp.   Nhược điểm của người tuổi Thân là không có mục tiêu rõ ràng và dễ thay đổi lập trường. Điều này làm cho bạn tốn nhiều thời gian để có thể thăng tiến trong công việc cũng như tình cảm. Ngoài ra, bạn cũng nên rèn tính nhẫn nại và kiên định trong mọi vấn đề.   Tuổi Thân sinh vào năm 1956, 1968, 1980, 1992, 2004, 2016   Ngũ hành con giáp: Kim   Quý nhân tam hợp: Tý, Thìn   Quý nhân lục hợp: Tỵ   Kết hôn tốt nhất với: Tý, Thìn   Không hợp kết hôn với: Dần, Hợi   Hướng chính tài: Đông   Hướng phụ tài: Đông Bắc   Hướng đào hoa: Tây   Hướng văn xương: Đông Bắc   Hi vọng những điều trên đây có thể giúp bạn có một năm tuổi trọn vẹn và như ý hơn!
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Thân nên kiêng kị và lựa chọn công việc gì?

Mơ thấy gương mặt: Được và mất trên phương diện bạn bè, kinh nghiệm, nguồn thu nhập –

Mơ thấy gương mặt tươi cười, dự báo bạn sẽ có bạn mới, kinh nghiệm mới hay nguồn lợi kinh tế mới. Mơ thấy gương mặt âu sầu hay quái dị (trừ trường hợp đang diễn hề), kết quả sẽ ngược lại. Mơ thấy mình đang rửa mặt, tốt nhất bạn hãy lấy công chuộc tộ
Mơ thấy gương mặt: Được và mất trên phương diện bạn bè, kinh nghiệm, nguồn thu nhập –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy gương mặt: Được và mất trên phương diện bạn bè, kinh nghiệm, nguồn thu nhập –

Top những chòm sao nữ dễ bị “ế” nhất –

Bạn thắc mắc những chòm sao nữ nào dễ bị ế nhất. Có thể vì họ quá nghiêm túc, quá tự lập, hoặc đơn giản chỉ vì họ yêu cầu quá cao ở nửa kia của mình. Củ thể như thế nào? Chúng ta hãy cùng khám phá trong bài viết dưới đây. Top những chòm sao nữ nào dễ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn thắc mắc những chòm sao nữ nào dễ bị ế nhất. Có thể vì họ quá nghiêm túc, quá tự lập, hoặc đơn giản chỉ vì họ yêu cầu quá cao ở nửa kia của mình. Củ thể như thế nào? Chúng ta hãy cùng khám phá trong bài viết dưới đây.

Nội dung

  • 1 Top những chòm sao nữ nào dễ bị ế nhất
    • 1.1 Thứ 1. Ma Kết – quá nghiêm túc
    • 1.2 Thứ 2. Bò Cạp – quá tự lập
    • 1.3 Thứ 3. Xử Nữ – quá cầu toàn
    • 1.4 Thứ 4. Cự Giải – quá khép mình
    • 1.5 Thứ 5. Thiên Bình – quá thiếu niềm tin vào con trai

Top những chòm sao nữ nào dễ bị ế nhất

Thứ 1. Ma Kết – quá nghiêm túc

Ma Kết luôn muốn chứng tỏ năng lực của mình bằng những hành động cụ thể để khẳng định bản thân và được ghi nhận trong mắt mọi người. Hơn thế, những cô gái Ma Kết cực kỳ nghiêm túc trong mọi chuyện, từ công việc đến học hành và tình yêu cũng không phải là ngoại lệ.

cung-hoang-dao-vua-tre-con-vua-7289-2448-1400231725

Dù trong hoàn cảnh nào, với ai, đùa vui hay là không, mỗi lời mà Ma Kết nói ra đều rất cẩn thận, không chút vui đùa. Chính sự nghiêm túc quá mức ấy khiến nhiều anh chàng không dám đến gần làm quen và tấn công Ma Kết bởi họ rất sợ nếu chẳng may bị “hớ” hoặc trêu đùa cô ấy một chút để gây ấn tượng thì không biết cô ấy sẽ phản ứng như thế nào.

Thứ 2. Bò Cạp – quá tự lập

2-6947-1400230341

Bò Cạp rất tự lập, luôn tự cho rằng bản thân đủ năng lực để không phải dựa dẫm hay nhờ vả bất kỳ chàng trai nào. Thậm chí, họ còn thích cạnh tranh với cánh mày râu để chứng tỏ sự mạnh mẽ của bản thân, và rằng chẳng có đàn ông thì cuộc sống của các cô nàng Bò Cạp vẫn vô cùng tốt đẹp.

Điều đó không hề xấu, nhưng nó cũng chính là nguyên nhân khiến các chàng trai ngại ngần, chỉ dám làm bạn chứ không dám mạnh dạn “tiến xa hơn” với Bò Cạp. Chàng trai luôn muốn được là chỗ dựa, che chở, bao bọc cho người con gái họ yêu; vậy nên hãy tiết chế bản thân một chút để các chàng trai có cơ hội thể hiện và giúp đỡ bạn nhé!

Thứ 3. Xử Nữ – quá cầu toàn

1-7009-1400230341

Dù luôn miệng nói không có tiêu chuẩn gì cao xa, không “kén cá chọn canh” nhưng Xử Nữ lại luôn ngấm ngầm đặt ra những yêu cầu, tiêu chuẩn để thử thách những chàng trai xung quanh mình. Với bản tính cầu toàn của Xử Nữ thì có lẽ rất khó nếu như ai đó muốn làm cho các cô nàng hài lòng. Nếu như bạn chẳng may làm họ thất vọng hoặc cụt hứng chỉ một lần nhỏ xíu thôi, thì có lẽ không có cơ hội thứ hai dành cho bạn đâu!

Thứ 4. Cự Giải – quá khép mình

Những cô gái Cự Giải thuộc tuýp người sống nội tâm, thích ẩn mình và ngại giao du với thế giới bên ngoài. Có thể nói, họ là những cô gái của gia đình, và tương lai sẽ là những người vợ, người mẹ tuyệt vời, nhưng để chinh phục được họ thì hầu như rất khó.

nam-2013-cua-cu-giai-2-131692-6901-7607-1400231725

Đơn giản chỉ vì họ không thích tham gia giao lưu, mở rộng các mối quan hệ nên các chàng trai sẽ có rất ít cơ hội để tiếp cận họ. Càng lớn dần lên, Cự Giải càng thích tận hưởng và chia sẻ cuộc sống với những người thân trong gia đình. Bởi thế, xung quanh cô ấy sẽ chỉ còn một vài mối quan hệ thân cận nhất định, và khả năng bị “ế” sẽ ngày càng tăng lên.

Thứ 5. Thiên Bình – quá thiếu niềm tin vào con trai

Thiên Bình có thể tin tưởng bất cứ ai, nhưng sẽ không bao giờ họ đặt niềm tin vào con trai. Dù đã trải qua nhiều hay ít, thậm chí chưa một mảnh tình vắt vai, sự khôn khéo của những cô gái ấy khiến họ nghĩ về khía cạnh tiêu cực cuả tình yêu nhiều hơn.

nam-2013-cua-thien-binh-2-8207-9308-3573-1400231725

Thiên Bình thường có cảm giác không an toàn khi ở bên các bạn trai, và họ cũng không bao giờ muốn lãng phí thời gian bên những người không thể khiến họ cảm thấy hứng thú. Muốn họ thay đổi quan điểm rất khó, các chàng trai sẽ phải cố gắng rất nhiều, trong khi kết quả lại rất mong manh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top những chòm sao nữ dễ bị “ế” nhất –

Đền Bà - Vĩnh Phúc

Đền Bà hay có tên gọi khác là đền Vị Thanh. Đền Bà được xây dựng trên một khu đất cao, rộng và thoáng đãng ven đầm Vạc, nay thuộc Vị Thanh, Vĩnh Phúc
Đền Bà - Vĩnh Phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Bà hay có tên gọi khác là Đền Vị Thanh. Đền được xây dựng trên một khu đất cao, rộng và thoáng đãng ven đầm Vạc, nay thuộc thôn Vị Thanh, xã Thanh Trù, thị xã Vĩnh Yên.

Trước đền là mặt đầm rộng mênh mông, những tán cây rợp bóng trên mặt nước, những góc đao cong và mái ngói phủ đầy rêu phong ẩn hiện khiến ta dễ liên tưởng đến hình ảnh một bến nước, sân dình quen thuộc của làng Việt. Giữa bình yên của ruộng đồng và làng xóm, ngôi đền hiện lên thâm nghiêm, cổ kính.

Lịch Sử: Đền Bà được xây dựng vào thời Nguyễn, khoảng cuối thế kỷ XIX. Tương truyền, có vị nữ tướng tài giỏi là Thanh Nương đã có công phò giúp Trưng Nữ Vương đánh giặc cứu nước, nhân dân cảm kích lập đền thờ và gọi là đền Bà.

Kiến Trúc: Đền gồm 3 toà kiến trúc bố cục thoe kiểu chữ “công”: tiền tế 5 gian, hai mái bít đốc có cửa gỗ bức bàn, 1 gian ống và 3 gian hậu cung, có tạo gác lửng làm khám thờ thần. Kết cấu 6 bộ vì chồng rường giá chiêng, kỹ thuật mộng sàm đạt đến trình độ cao toàn đền có 32 cột gỗ chắc khỏe, chân cột kê đá chống ẩm và mối mọt. Bộ mái của tòa ống muống và hậu cung làm theo kiểu chồng diêm và được lợp ngói mũi truyền thống.

Ở đền Bà, những mảng chạm khắc tuy không nhiều nhưng đường nét chạm khắc lại khá sắc nét, điêu luyện. Những đầu dư những bức cốn đã được các nghệ nhân thời xưa tạo thành hình rồng ở những tư thế khác nhau(rồng uốn, rồng chầu mặt trời) rất sinh động. Chạm trổ ở đền Bà đã góp phần tô điểm cho kiến trúc và tăng thêm vẻ uy nghiêm của chốn thần linh. Đền còn có 4 bộ long ngai và các bức hoành phi, câu đối chữ Hán, là những cổ vật quý, được gia cố công phu, trang trí cầu kỳ.

Lễ hội: Đền Bà còn lưu giữ được những giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu, trong đó độc đáo nhất là lễ hội tế trâu diễn ra vào ngày 13, 14, 15/10 âm lịch.

Lễ hội tế trâu chính thức diễn ra từ trưa ngày 13 tháng 10 âm lịch với các nghi thức theo trình tự là: Lễ cáo, rước ban thờ bộ hạ, dẫn trâu ra sân đình.

Đêm 13 tháng10 tổ chức tế ở đình làng rồi rước trâu ra đền. Đoàn rước đi đầu là trâu lễ, người nuôi trâu trong trang phục quần áo đỏ, chạc trâu tết bằng dây đỏ, kiệu bát cống rồi kiệu quan bộ hạ, tiếp theo là các đội tế, phường bát âm, chiêng, trống, đi sau cùng là dân làng hồ hởi reo hò với hàng trăm bó đuốc tỏa sáng rực rỡ.

Cuộc lễ được tiếp diễn ở đền với một loạt các nghi thức nữa: tắm trâu, làm lễ nghinh thánh, dắt trâu vào đền làm lễ hiến tế trâu. Phần hội còn tiếp diễn thêm với những trò chơi vui khỏe đến hết ngày 15 mới làm lễ tạ.

Đến với đền Bà vào mùa lễ hội, khách tham quan không chỉ có cơ hội chiêm ngưỡng cảnh quan thanh bình, đẹp đẽ của di tích mà còn được tham dự một trong những lễ hội nông nghiệp mang những giá trị văn hóa tiêu biểu của vùng đồng bằng Bắc Bộ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Bà - Vĩnh Phúc

Sao Thiên Đức

Hành: Thổ Loại: Thiện tinh Đặc Tính: Phúc hậu, từ thiện, nhân đạo, có đức hạnh, giải trừ được bệnh tật, tai nạn nhỏ
Sao Thiên Đức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThổLoại: Thiện tinhĐặc Tính: Phúc hậu, từ thiện, nhân đạo, có đức hạnh, giải trừ được bệnh tật, tai nạn nhỏ

Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Mệnh
Tính Tình

  • Ôn hòa, nhân hậu, đức hạnh, đẹp nết.
  • Từ bi, từ thiện hay giúp đỡ, làm phúc.
Phúc Thọ Tai Họa
Sao Thiên Đức có thể giải trừ được những bệnh tật nhỏ và tai họa nhỏ, mang lại một số may mắn, hỷ sự. Do đó, sao này giống như các sao Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Quang Quý, Tả Hữu, Sinh, Vượng. Sự kết hợp càng nhiều giải tinh càng làm tăng hiệu lực cứu giải.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ nhân hậu, từ thiện, có nghề khéo.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Phúc Đức
  • Thiên Đức, Nguyệt Đức đồng cung thì họ hàng phúc hậu, mồ mã thuận vị.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Điền Trạch
  • Đi đâu cũng có người giúp đỡ về nhà cửa, nơi ăn chốn ở.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh hay gặp may, có lương tâm nghề nghiệp.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, người làm, người giúp việc, nhân hậu.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài khiêm tốn, hay gặp quý nhân.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được tai nạn, bệnh tật nhỏ.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Tài Bạch
  • Kiếm tiền chính đáng, có lòng từ thiện.
  • Được giúp đỡ hoặc gặp may về tiền bạc.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Tử Tức
  • Con cái hòa thuận, hiếu thảo.
  • Thiên Đồng, Nguyệt Đức: Vợ chồng có con sớm.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Phu Thê
  • Người hôn phối có nhan sắc, đứng đắn.
  • Có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Đào Hoa thì vợ chồng tốt đôi, tương đắc.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em hòa thuận.
Thiên Đức Khi Vào Các Hạn
  • Thiên Đức, Đào, Hồng: Gặp giai nhân giúp đỡ nên tình duyên (có phụ nữ làm mai mối được vợ chồng).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Đức

4 chòm sao nữ mê tới tấp các anh chàng thể thao

Những anh chàng đam mê vận động luôn rất hấp dẫn bởi sự năng động và khỏe mạnh. 4 chòm sao nữ mê trai dưới đây luôn mơ mộng về một chàng người yêu như thế.
4 chòm sao nữ mê tới tấp các anh chàng thể thao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những anh chàng đam mê vận động luôn rất hấp dẫn bởi sự năng động, dẻo dai và khỏe mạnh. 4 chòm sao nữ mê trai dưới đây lúc nào cũng mơ mộng về một chàng người yêu như thế.


4 chom sao nu me toi tap cac anh chang the thao hinh anh
 
Song Tử   Song Tử là chòm sao nữ mê trai số 1 vòng tròn hoàng đạo đấy. Cô ấy tinh nghịch, thích nổi bật, luôn vui nhộn và quậy phá người khác. Vẻ đáng yêu và sự ham vận động khiến nàng ấy bị hấp dẫn bởi một anh chàng mê thể thao. Với cô nàng này thì chàng trai đẹp đẽ nhất là khi đang chạy những bước thật mạnh mẽ dưới ánh mặt trời rực rỡ, trông anh ấy tràn đầy sức sống và dồi dào năng lượng.   Xử Nữ   Chòm sao nữ hiền hòa như Xử Nữ lại thích một anh chàng cơ bắp cuồn cuộn cơ đấy. Tính cách trầm tĩnh, không mê chạy nhảy nhưng Xử Nữ lại thích ngắm nhìn chàng trai của mình đang dốc sức tập luyện. Cảm giác chờ đợi một người thật là tuyệt, tuyệt hơn nữa là anh ấy đầy sinh khí, đầy hấp dẫn, có thể trở thành thần tượng trong lòng cô nàng với hình ảnh thật nam tính.   3 cô nàng hoàng đạo càng lớn tuổi càng hấp dẫn 4 chòm sao che giấu cô đơn bằng sự bất cần Điểm danh 4 chòm sao có chết cũng không chịu sửa tật xấu
Ma Kết
  Ma Kết lười vận động nhất quả đất nhưng lại mê trai thể thao cũng nhất quả đất luôn. Vì khi chơi thể thao, các chàng ấy thật nhiệt tình, thật thẳng thắn, thật nhiệt huyết, giống với tính cách của Ma Kết. Dốc lòng vì chiến thắng, đấu tranh hết mình vì kết quả thật là tuyệt. Sức khỏe của những chàng trai này cũng rất tốt, có thể khiến các nàng Ma Kết cảm thấy nhỏ bé trong vòng tay, trở thành chỗ dựa vững chắc cho cô nàng.
Nhân Mã
4 chom sao nu me toi tap cac anh chang the thao hinh anh
 
Cô nàng mê vận động như Nhân Mã tất nhiên sẽ không thích một chàng trai ù lì, chậm chạp rồi. Nàng ấy chỉ phải lòng những anh chàng thể thao năng động, lôi cuốn, cá tính mạnh mẽ thôi. Những cú lên rổ bứt phá, những cuộc leo núi thử thách hay một cú sút bóng thần sầu có thể làm nghiêng ngả trái tim Nhân Mã chỉ trong tích tắc thôi.
 
► Xem thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất
Top 3 chòm sao đắm chìm quá khứ mà quên đi hiện tại Chỉ số sợ hãi của 12 chòm sao khi yêu xa Điểm danh 3 chòm sao càng yêu lâu càng mặn nồng Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao nữ mê tới tấp các anh chàng thể thao

Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi

Hay hờn giận và dễ bực bội là điều dễ thấy từ mối quan hệ giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi. Tính khí của 2 người hoàn toàn không giống nhau.
Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hay hờn giận và dễ bực bội là điều dễ thấy từ mối quan hệ giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi. Tính khí của 2 người hoàn toàn không giống nhau.

Sửu là người thẳng thắn, không lãng phí thì giờ vào chuyện tình cảm. Trong khi đó, Mùi lại thiên về tình cảm. Họ dễ cho nhau là sai lầm và đi không đúng hướng. Cả 2 đều có tham vọng và động lực phấn đấu cao, nhưng do tính khí khác nhau nên họ khó có thể đồng hành cùng nhau.

(Ảnh minh họa)

Thường thì người tuổi Sửu thích sử dụng tư duy logic của mình và muốn tự mình phán đoán. Trong khi đó, Mùi thích được tư vấn và lắng nghe ý kiến người khác. Tính bướng bỉnh của cả 2 ngăn trở quan hệ giữa họ, bởi vậy mối quan hệ này thiên về tính chất đối đầu.

Sửu và Mùi đều thuộc hành Thổ, vì vậy khi họ kết hợp sẽ tạo ra quá nhiều năng lượng Thổ, đồng thời sẽ nảy sinh những bất lợi ở nhiều hướng khác nhau.

Biện pháp hóa giải

Trong hôn nhân, 2 tuổi này thật khó kết hợp với nhau. Tuy nhiên, nếu họ quyết tâm đi đến hôn nhân, hoặc đã lấy nhau, phong thủy vẫn có những giải pháp giúp cả 2 giảm bớt xung đột trong cuộc sống.

Chẳng hạn, khi 1 người tuổi Sửu mệnh Thủy và 1 người tuổi Mùi mệnh Thổ kết hôn với nhau, giữa họ sẽ nảy sinh rất nhiều năng lượng Thổ. Bạn có thể làm tiêu hao bớt năng lượng này bằng cách treo chuông gió bằng kim loại ở trong nhà, đặc biệt ở 2 khu vực tương ứng với Sửu và Mùi.

(Theo Phong thủy trong tình yêu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi

Mơ thấy bị rụng răng là điềm gì?

Theo thống kê, mơ thấy răng bạn bị rụng là loại giấc mơ phổ biến nhất.Kịch bản chung là răng bạn bị vỡ vụn trong lòng bàn tay bạn hoặc răng bạn rơi từng chiếc
Mơ thấy bị rụng răng là điềm gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chỉ sau một cái tát nhẹ. Tuy không gây khủng hoảng hay phiền não cho người nằm mơ như khi gặp ác mộng nhưng nó cũng khiến tinh thần bạn bất an.


Mo thay bi rung rang la diem gi hinh anh
Ảnh minh họa

Giấc mơ về rụng răng thường phản ánh nỗi lo sợ về ngoại hình, sự lúng túng hoặc những lo âu quá mức trong con người bạn. Việc mất răng trong giấc mơ có thể xuất phát từ những bế tắc trong cuộc sống. Có thể bạn đang gặp khó khăn trong việc bộc lộ bản thân hoặc một công việc quan trọng của bạn bị gián đoạn? Bạn cảm thấy nản lòng khi tiếng nói của mình không được người khác lắng nghe. Có thể bạn đang trải qua cảm giác tự ti và thiếu tự tin trong hoàn cảnh hay mối quan hệ nào đó. Giấc mơ này biểu thị rằng bạn nên tự tin và quyết đoán hơn.

Theo quan niệm của người Hy Lạp, khi nằm mơ thấy răng bị rụng, bị hỏng hoặc thiếu răng, điều này ám chỉ rằng có một thành viên trong gia đình bạn hoặc một người bạn thân đang bị bệnh nặng, thậm chí có thể sắp tử vong. Ngược lại, người Trung Quốc cho rằng nếu mơ thấy răng rụng thì đó là điềm báo tốt lành về tiền bạc.

Tuy nhiên theo quan niệm cổ xưa trong dân gian, chiêm bao thấy răng phần lớn là điềm không may: Thấy mình nhổ một cái răng là gặp xui xẻo buồn bực. Thấy mình nhờ người nhổ một cái răng thì người nhổ cho mình là người sắp chết. Thấy mình nhổ răng cho người là có người làm nhục mình.

Thấy mình rụng một cái răng là có một người thân bị nguy hiểm. Thấy rụng nhiều răng một lúc thì chính người nằm chiêm bao sẽ có nguy cơ bị chết. Thấy răng lung lay là sẽ mất hết cảm tình của những người từ lâu gần gũi với mình. Mơ thấy hàm răng của bạn thối rữa hoặc mục nát, có nghĩa là sức khỏe hoặc công việc của bạn đang lâm nguy.  

Theo Bí ẩn điềm chiêm bao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bị rụng răng là điềm gì?

Xem ngấn cổ tay tiên đoán vận mệnh giàu sang của bạn

Ngấn cổ tay là gì? Ý nghĩa của việc xem ngấn cổ tay hay xem bói ngấn cổ tay tiên đoán vận mệnh giàu sang của bạn. Bài viết sau đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn về ý nghĩa của việc xem bói ngấn cổ tay:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngấn cổ tay là gì? Ý nghĩa của việc xem ngấn cổ tay hay xem bói ngấn cổ tay tiên đoán vận mệnh giàu sang của bạn. Bài viết sau đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn về ý nghĩa của việc xem bói ngấn cổ tay:

Xem ngấn cổ tay tiên đoán vận mệnh giàu sang của bạn

Chắc hẳn bạn không lạ lẫm gì với những hình thức xem bói đường chỉ tay ở trong lòng bàn tay. Nhưng bạn có biết rằng những ngấn ở cổ tay hay các đường ở cổ tay cũng mang những ý nghĩa quan trọng.

Ý nghĩa của việc xem ngấn cổ tay:

Xem ngấn cổ tay có thể đoán biết được tuổi thọ của bạn. Thông thường trên cổ tay mỗi người có ít nhất 2 đường ngấn cổ tay và có những người có tới 3 hoặc 4 đường ngấn cổ tay.

Với đường ngấn cổ tay đầu tiên, nếu đường này rõ ràng và không bị gián đoạn thì bạn thường sống thọ đến năm 23 đến 28 tuổi. Trong khi các ngấn tiếp theo lầm lượt ứng với các năm tuổi thọ là 46 đến 56 tuổi, đường ngấn cổ tay thứ 3 là từ 69 - 84 năm và đường ngấn thứ 4 là 84 năm.

Trên thực tế rất hiến người có ngấn cổ tay tay thứ 4, những người này thường có số trường thọ. Ngoài ý nghĩa về tuổi thọ của mỗi người thì các đường ngấn cổ tay còn có ý nghĩa như sau:

Ngấn đầu tiên: Đây là ngấn biểu hiện cho những người có sức khỏe tốt khi ngấn này rõ ràng, sắc nét. Ngược lại, nếu ngấn cổ tay này mờ và bị đứt đoạn thì  chứng tỏ chủ nhân thường xuyên đau ốm.

Đối với người phụ nữ, nếu ngấn cổ tay đầu tiên hướng vào phía lòng bàn tay hoặc không rõ ràng thì là biểu hiện của những người có bệnh phụ khóa, có thể gây khó khăn cho việc sinh nở sau này. Còn đối với đàn ông cung vậy, thường mắc những vấn đề về sinh sản.

Ngấn thứ hai: hầu hết mọi người đều có ngấn cổ tay thứ hai. Không những tượng trưng cho tuổi thọ từ 46 -56 tuổi mà còn biểu hiện cho sự giàu sang sung túc của chủ nhân nếu đường này rõ ràng, sắc nét và không bị rẽ nhánh, không có nhiều ngấn phụ.

Ngấn cổ tay thứ ba: Những người có ngấn cổ tay thứ 3 rõ ràng và sắc nét thường là một người nốt tiếng và có sự ảnh hưởng đến những người xung quanh.

Ngấn cổ tay thứ tư: Ngấy cổ tay này thường song song với ngấn thứ bà là cũng đại diện cho mức độ nổi tiếng của người sở hữu nó, ngoài ra nó cũng tượng trưng cho tuổi thọ hiếm có của người này.

Trên đây là những ý nghĩa về việc xem bói ngấn cổ tay. Để tham khảo thêm những bài viết khác, bạn có thể xem thêm tại đây:

+ Xem bói đường chỉ tay đoán vận mệnh của bạn

6 đường chỉ tay đặc biệt ảnh hưởng đến vận mệnh của bạn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngấn cổ tay tiên đoán vận mệnh giàu sang của bạn

Mơ thấy mã não phát sáng: Không nên gây bất hòa giữa bạn bè –

Mã não là đá quý có vân màu khác nhau, màu sắc xinh đẹp, rất cứng, có thể làm cối giã trong phòng thí nghiệm, hoặc dùng làm đồ trang sức v.v. Mơ thấy mã não phát sáng, hay có hình dạng của trang sức quý, ngầm nhắc nhở người nằm mơ không nên gây bất h
Mơ thấy mã não phát sáng: Không nên gây bất hòa giữa bạn bè –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mã não phát sáng: Không nên gây bất hòa giữa bạn bè –

Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

Vị trí đầu bảng thuộc về tuổi Tý, tiếp theo là tuổi Dần, Thìn, Tỵ và Hợi.
Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Tý

Người tuổi Tý giỏi xã giao nhưng lại khá ích kỷ, luôn coi bản thân mình là nhất, mọi người hoặc những thứ khác chỉ là điều thứ yếu.

tuoi-ty-6087-1400021785.jpg

Hơn thế, người tuổi này rất giỏi "diễn xuất", trước mặt mọi người ra vẻ là anh hùng hiệp nghĩa, nếu không động chạm đến lợi ích cá nhân thì sẵn sàng giúp đỡ người khác. Để biết được con người thật của tuổi Tý, chỉ có căn cứ vào những thời khắc thực sự quan trọng, bản tính của họ sẽ lộ rõ như ban ngày mà thôi.

Á quân: Tuổi Dần

Người tuổi Dần thường cho rằng sinh mạng bản thân mới là điều đáng quý nhất, vì thế yêu bản thân mình là điều tất nhiên, không có gì phải che giấu. Vậy nên, họ hiếm khi biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để suy nghĩ mà chỉ quan tâm đến cảm xúc của mình thế nào mà thôi.

tuoi-dan-6294-1400021786.jpg

Nói như vậy không có nghĩa là người tuổi Dần không biết yêu hay quý trọng người khác. Họ sẽ dành tình cảm chân thành của mình cho người mình yêu, chỉ có điều, tình cảm ấy cũng chỉ đứng sau tình yêu bản thân của họ.

No3: Tuổi Thìn

Vốn tính kiêu ngạo, luôn nghĩ rằng bản thân mình là độc nhất vô nhị trên cõi đời này, nên việc yêu bản thân mình đối với người tuổi Thìn là điều tất nhiên.

tuoi-thin-8665-1400021786.jpg

Ngoài ra, người tuổi này có bộ não thông minh, con mắt tinh tường và khả năng xử lý tình huống nhạy bén. Họ thường coi đó là điểm đáng tự hào và kiêu ngạo trước mặt mọi người.

No4: Tuổi Tỵ

Trong 12 con giáp, người tuổi Tỵ thường mang lại cảm giác bí ẩn, khó tính và khó gần cho mọi người. Họ rất chăm chút cho bản thân, sống có phần hơi ích kỷ và có thể lợi dụng người khác để đạt được mục tiêu của mình miễn sao không làm tổn hại đến lợi ích của họ.

tuoi-ti-7656-1400021786.jpg

Người tuổi Tỵ thích cảm giác độc quyền sở hữu thứ gì đó, không muốn phải "đụng hàng" với bất kỳ ai. Họ thường đưa ra lý do để giải thích cho việc chỉ yêu bản thân mình, đó là phải biết yêu chính mình thì mới có tư cách để yêu người khác.

No5: Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi tính tình điềm tĩnh, hài hòa, thích làm việc nhẹ nhàng vì khá lười nhác. Với họ, việc ăn uống, ngủ nghỉ là vấn đề quan tâm hàng đầu, vì có như vậy mới đảm bảo sức khỏe và quý trọng bản thân cũng như cuộc sống của chính mình.

47b3d92b-e639-4cea-b4eb-0265ae-6775-1598

Ấn tượng để lại trong mắt mọi người là tuổi Hợi theo chủ nghĩa vật chất, chứ thế giới nội tâm và tinh thần khá nông cạn, không nhạy bén hay sâu sắc. Vậy nên, khi nghe thấy lời nói xấu hoặc chê bai, họ vẫn có thể mỉm cười, lạc quan nghĩ rằng mọi chuyện rồi sẽ qua hết.

Mr.Bull

64364e9325c34654b43ed043349ae9-3979-7142

Những con giáp dễ bị 'đứt gánh' tình yêu

Vị trí quán quân trong “lĩnh vực” này thuộc về tuổi Thìn. Theo sát nút là tuổi Tuất, tuổi Sửu, tuổi Ngọ và tuổi Dần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp yêu bản thân mình nhất

Các vị trí phòng tắm đặt ra thử thách –

Phòng tắm dù được đặt ở đâu đều không thật thích hợp, nhưng có một số vị trí gây phiền phức hơn các vị trí khác. Cần chú ý là hệ thống ống nước phòng tắm (vòi nước, bồn toilet, vòi hoa sen...) có tác động “tiêu hao” dù nó được bố trí bất cứ vị trí nà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng tắm dù được đặt ở đâu đều không thật thích hợp, nhưng có một số vị trí gây phiền phức hơn các vị trí khác. Cần chú ý là hệ thống ống nước phòng tắm (vòi nước, bồn toilet, vòi hoa sen…) có tác động “tiêu hao” dù nó được bố trí bất cứ vị trí nào. Có thể xem xét vị trí phòng tắm trong ngôi nhà theo cung bát quái đồ để biết lĩnh vực nào đang bị suy yếu. Ví dụ:

nha_dep_qua_thien_duong_cung_phai_ghen_9

– Phòng tắm ở cung Phú quý có thể làm tiêu hao tài chính của bạn.

– Phòng tắm ở cung Danh vọng có thể báo hiệu danh tiếng của bạn nằm “trong nhà vệ sinh”.

– Ở cung Hôn nhân, phòng tắm có thể “dội trôi” hạnh phúc của bạn.

– Nếu phòng tắm ở cung Sự nghiệp, các cơ hội dường như trôi tuột trước khi bạn có thể được lợi từ chúng.

Để đánh giá các vị trí của phòng tắm trong ngôi nhà, hãy chú ý là năng lượng hành thủy – vốn gần với phòng tắm – thích hợp ở cung Sự nghiệp, nuôi dưỡng năng lượng hành mộc của cung Gia đình và Phú quý. Trong những trường hợp này, tác động “tiêu hao” của hệ thống ống nước phòng tắm có thể là vấn đề nhưng sự tương hợp về ngũ hành của hành thủy với cung bát quái đó có tác dụng trợ giúp.

Do phòng tắm là nơi chúng ta tự chăm sóc và “buông thả” mình, nên về mặt năng lượng, phòng tắm cũng liên quan tới các đặc điểm chăm sóc và nuôi dưỡng của cung Hôn nhân.

Vị trí đặt phòng tắm ít gây hại nhất nằm giữa hai cung bát quái; vì như vậỵ, khả năng làm tiêu hao không tập trung ở một cung bát quái, tác động tiêu cực sẽ giảm.

Phòng tắm nằm ngoài phần chính của ngôi nhà cũng mang lại ít vấn đề hơn, nhưng nó bù đắp một vài lợi ích rõ ràng của “phần mở rộng” của sơ đồ mặt bằng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các vị trí phòng tắm đặt ra thử thách –

Hợp cục thiên biến vạn hóa

Phương pháp tìm dụng thần chi tiết có thể khái quát lại thành những quy luật dưới đây:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thứ nhất, trước tiên bắt đầu từ tháng sinh, lấy thứ tương xung với tháng sinh là dụng thần, tức là ngũ hành của địa chi tương xung với địa chi của tháng sinh.

Thứ hai, tìm ra thiên can của nhật nguyên, dựa vào yêu cầu khác nhau của nó để tìm ra ngũ hành còn thiếu, ngũ hành đó là dụng thần.

Thứ ba, phân biệt nhật nguyên âm và dương, ví dụ trong tình huống nào dùng Nhâm Thủy, trong tình huống nào dùng Quý Thủy. Thời điểm nào cần Bính Hỏa, thời điểm nào cần Đinh Hỏa.

Thứ tư, tháng sinh khống chế sức mạnh của toàn bộ Bát tự, vì vậy tháng sinh khống chế tất cả các cục tam hợp, lục hợp.

Địa chi có lý luận tam hợp, tam hội và lục hợp, thiên can cũng sẽ phát sinh hợp cục. Điều này tượng trưng cho điều gì? Địa chi của tháng sinh thường xuyên ngấm ngầm cấu kết với mật mã của đại vận hoặc Bát tự, khiến Bát tự bị thay đổi.

Trong ví dụ phía trên, tháng sinh Mão sẽ hội hợp với Tuất ở bên cạnh tạo thành Hỏa, khiến Bát tự này rất giàu tính Hỏa.

Hợp cục được ứng dụng rất rộng rãi trong Bát tự, nhất định phải ghi nhớ kỹ. Vận dụng vào trong cuộc sống thường ngày, nếu năm nào phạm Thái Tuế, có thể dùng hợp cục để cứu vãn. Phương pháp là dùng lục hợp để cân bằng và giảm bớt hình khắc do lục xung gây ra. Hợp cục cũng khiến ngũ hành thay đổi, khiến vận trình xuất hiện tình trạng lên xuống thất thường. Hợp cục có thể đem lại thành công trong hai tình huống sau:

Tình huống thứ nhất: Chi tháng trong Bát tự là ngũ hành của hợp cục.

Tình huống thứ hai: Ngũ hành của hợp cục rất vượng trong Bát tự.

Ví dụ sinh tại tháng Tý, tất cả hợp cục Thủy đều có thể thành công. Tức trong tháng Tý, Bính Tân có thể hợp Thủy, Thân Tý Thìn có thể hợp Thủy, Hợi Tý Sửu có thể hợp hóa thành Thủy. Cũng suy như vậy, nếu chi tháng là Ngọ, hợp cục Hỏa có thể thành công, chi tháng là Dậu, hợp cục Kim thành công. Tháng Mão, hợp cục Mộc thành công. Đây là nguyên lý của hợp cục.

Địa chi của tháng sinh khống chế toàn bộ Bát tự, chữ này và tất cả những hợp cục, xung cục khác trong Bát tự sẽ quyết định vận mệnh của toàn bộ Bát tự đó. Sự biến đổi của chữ này là quan trọng nhất, sự biến đổi của những chữ khác chỉ đóng vai trò thứ yếu. Mọi người phải thuộc lòng các hợp cục của thiên can địa chi, mới có thể tính toán một cách trôi chảy, thuận lợi.

 

ĐỊA CHI LỤC HỢP

thien can, thien can la gi, xem thien ca, thap thien can, thien can va dia chi, thien can dia chi

ĐỊA CHI TAM HỢP

ĐỊA CHI TAM HỘI

 

ĐỊA CHI TƯỢNG HÌNH

ĐỊA CHI TƯƠNG HẠI

 

ĐỊA CHI TƯƠNG PHÁ

BẢNG TRA QUAN HỆ CỦA CÁC ĐỊA CHI

Nguồn: Lý Cư Minh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hợp cục thiên biến vạn hóa

12 con giáp đọ may mắn đường tình duyên tháng 3

Tháng cuối của quý 1 khiến nhiều người phải bận tâm suy nghĩ nhiều hơn, do đó mà ảnh hưởng ít nhiều đến tình cảm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý:

Tình cảm tháng này bình thường, có lúc vui có lúc buồn, chủ yếu là do những chuyện vụn vặt hằng ngày mà ra. Khi tâm trạng không được tốt hãy tâm sự với đối phương về điều đó. Nửa kia sẽ cảm nhận được bạn đang cần gì thay vì cứ im lặng việc ai nấy làm.

Nam giới nên chủ động trong mọi tình huống, hãy cảm ơn người bạn đời của mình khi người ấy giúp mình bất kỳ việc gì. Nữ giới thì nên làm chỗ dựa vững chắc trong gia đình, để đối phương cảm nhận được sự yên tâm. Còn những bạn đang độc thân thì tháng này tạm thời chưa nên thổ lộ tình cảm của mình với đối phương.

Mức độ chủ động làm quen: ★★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★★

Tuổi Sửu:

Chuyện tình cảm trong tháng 3 khá tốt, đôi bên tương đối hiểu nhau. Đối phương luôn dành cho bạn sự cổ vũ, động viên trong mọi tình huống. Có những lúc bạn có thể chọn họ là nơi tin tưởng để chia sẻ những vấn đề xảy ra trong cuộc sống thường nhật để đôi bên cảm thấy cần nhau hơn.

Nam giới cần chủ động vun đắp tình cảm. Nữ giới thì chủ động tiếp xúc với đối phương nhiều hơn để rút ngắn khoảng cách của hai bên. Những bạn còn đang độc thân hãy chọn thời cơ tốt để gián tiếp bày tỏ tình cảm của mình chứ không nên biểu lộ trực tiếp.

Mức độ chủ động làm quen: ★★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★★★

 12 con giap do may man duong tinh duyen thang 3 - 1

Tuổi Dần:

Tình cảm tháng này lúc lên lúc xuống, đôi bên chưa thực sự hiểu nhau lắm. Bản thân người tuổi Dần do quá nhiều khía cạnh xuất hiện tình trạng lúc xấu, lúc tốt nên tình cảm cũng không được ổn định. Lúc thì họ nhiệt tình, vui vẻ, lúc lại trầm ngâm, im bặt nên khiến đối phương có cảm giác khó lòng giữ chặt. Nếu hai bên hiểu nhau thì không sao, nếu không hiểu nhau bạn rất dễ đẩy đối phương dần xa mình hơn, vậy nên cần điều chỉnh suy nghĩ, tình cảm của mình cho hợp lý.

Mức độ chủ động làm quen: ★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★★

Tuổi Mão:

Vận thế tình cảm tháng này khá tốt. Hai bên rất hiểu nhau, nhưng những vấn đề rối ren xảy ra xung quanh cuộc sống của tuổi Mão hay suy nghĩ của đối phương ít nhiều có ảnh hưởng đến tình cảm của cả hai. Do vậy trong tình yêu không nên chỉ dừng lại ở việc tạo nên sự lãng mạn khi gặp nhau mà có thể đi du lịch, dành những kỳ nghỉ dài ngày cùng nhau để vun đắp thêm cho tình cảm hai bên.

Nam giới thì hãy quan tâm nhiều hơn đến đối phương. Nữ giới thì thể hiện sự chăm sóc của mình trong chính cuộc sống sinh hoạt thường nhật. Những bạn còn độc thân tạm thời chưa nên thổ lộ tình cảm với đối phương tránh trường hợp đối phương từ chối.

Mức độ chủ động làm quen: ★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★

 12 con giap do may man duong tinh duyen thang 3 - 2

Tuổi Thìn:

Tình cảm tháng này theo chiều hướng tốt. Đối phương đã cảm thấy tin tưởng bạn hơn. Nếu muốn tình cảm mặn nồng hơn nữa thì bản thân cần chủ động gặp gỡ nhiều hơn. Mọi nỗ lực trong thời điểm này đều có tác dụng gia tăng tình cảm. Với những bạn còn đang độc thân mặc dù đôi bên đã khá hiểu nhau nhiều nhưng thời gian này cũng chưa nên tính chuyện lâu dài đề phòng xảy ra mâu thuẫn.

Mức độ chủ động làm quen: ★★★★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★★★

Tuổi Tỵ:

Tình cảm tháng này khá tốt. Những mâu thuẫn nhỏ cũng không khiến bạn quá lo lắng, dần dần mọi việc đều sẽ được thu xếp ổn thỏa. Nên vun đắp tình cảm nhiều hơn nữa không nên để mọi thứ quá ảm đạm. Có thời gian hãy thu xếp đi du lịch cùng nhau để gia tăng tình cảm cũng như hoài niệm về khoảng thời gian đẹp đã từng có trước đây.

Mức độ chủ động làm quen: ★★★

Mức độ chủ động thổ lộ tình cảm: ★★

Chỉ số tình cảm đôi bên: ★★

Cầu hôn, hôn nhân: ★★

Tình cảm vợ chồng: ★★★★

Vận đào hoa của bản thân: ★★


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 con giáp đọ may mắn đường tình duyên tháng 3

Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Người xưa cho rằng, nếu một người có đủ cả 5 yếu tố của ngũ hành (về mặt tính cách) đồng thời phát triển đồng đều thì người đó sẽ rất hoàn thiện. Trên thực tế
Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

thì điều này là không thể có.

Tuy nhiên bạn vẫn có thể cải thiện, bù đắp cho bát tự của mình theo các bước sau:

Bước 1: Đầu tiên tra thiên can và địa chi của tuổi mình trong cuốn lịch vạn niên. Ví dụ bạn sinh năm 1987 thì tuổi của bạn là Đinh Mão (can Đinh và chi Mão). Chú ý là phải căn cứ theo lịch âm.

Bước 2: Theo quy luật âm dương ngũ hành của can chi để tìm ra thuộc tính âm hay dương của thiên can và địa chi.

Can Giáp và Ất theo ngũ hành thuộc hành Mộc nhưng phân chia tiếp theo âm dương thì Giáp là dương Mộc còn Ất là âm Mộc; Bính thuộc âm Hỏa, Đinh thuộc dương Hỏa; Mậu thuộc dương Thổ, Kỷ thuộc âm Thổ; Canh thuộc dương Kim, Tân thuộc âm Kim; Nhâm thuộc dương Thủy, Quý thuộc âm Thủy.

Bước 3: Nắm vững quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Trước tiên, cần nắm vững các quy luật sinh, khắc, chế, hóa của các hành với nhau xem sự thúc đẩy phát triển và kìm hãm lẫn nhau như thế nào để phán đoán và bổ khuyết cho mình.

Bước 4: Tìm hành có quan hệ tương sinh, tương khắc với mình. Nếu thiên can của bạn thuộc Mộc, theo ngũ hành thì Thủy sinh Mộc và Kim khắc Mộc. Bạn nên học tập những ưu thế của người thuộc hành Thủy đó là những đức tính linh hoạt, khiêm tốn; nên học hỏi người hành Kim phẩm chất quả cảm, quyết đoán và kiên định. Bởi vì những đức tính đó là chỗ mạnh của người khác, nhưng là cái mà bạn thiếu.

(Theo Tử Bình nhập môn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Rồng và tác dụng gì trong phong thủy ? –

Từ thời xa xưa đến giờ,Rồng là linh vật thần thoại, tượng trưng Thiên mệnh cao cả và tối thượng, nhân vật cao cả và tối thượng như Vua, thời xưa Vua thường mặc áo có thêu hình con rồng(Long bào), kể cả giường ngũ và nơi làm việc của Vua cũng đều khắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chạm hình rồng…

rong-phong-thuy-03

Còn trong phong thủy, ”Long khí” là sinh lực của vũ trụ,nó ẩn hiện trong lòng đất,vận chuyển thành “Long mạch”, mà từ xưa các đại sư phong thủy đã dày công tìm kiếm…

Nguồn sinh khí vĩ đại ấy xuất phát từ hướng ĐÔNG, nên các đại sư phong thủy đã tìm nhiều cách vận dụng và kích thích sinh khí ở hướng này :

– Treo tranh rồng, hoặc tượng rồng ở hướng Đông.

– Rồng cực dương, không nên đặt trong phòng ngủ.

– Đặt tượng rồng xanh bằng đá trong khuôn viên vườn ở của nhà mình.

– Còn trong công việc làm ăn,ta không “sống ác” với ai, nhưng thường bị kẻ tiểu nhân ám hại, gây không biết bao nhiêu chuyện phiền toái…

Chuyện tưởng nhỏ, nhưng hậu quả… thì không nhỏ chút nào… Thế là “đau chân há miệng” ta lại tìm đến nơi này, nơi kia để tìm sự giúp đỡ, nhưng “tiền mất tật mang”, thế là nỗi khổ không biết tỏ cùng ai ?…

Vậy sao ta không vận dụng kinh nghiệm của các đại sư phong thủy vào cuộc sống, để thấy rằng con linh vật thần thoại nhưng đầy quyền năng này sẽ giúp cho ta trở lại vui vẻ và yên lành biết bao…

Trước tiên ta phải xác định được “hướng thanh long”:

Từ trong phòng khách của nhà ta đang ở, hoặc từ trong phòng làm việc của ta ở cơ quan, ta nhìn ra phía trước là cửa chính, thì phía trước cửa chính là CHU TƯỚC, phía bên tay phải là BẠCH HỔ, phía sau là HUYỀN VŨ, còn phía bên tay trái là THANH LONG.

Trên bờ tường bên trái phòng khách, và bờ tường bên trái phòng làm việc tại cơ quan, ta treo một bức tranh hình con rồng màu xanh hoặc đặt một tượng rồng màu xanh (Thanh long), đầu rồng quay ra cửa chính.

rong-phong-thuy-04

Còn trên bàn làm việc: Phía trước mặt ta là CHU TƯỚC, phía bên tay phải ta là BẠCH HỔ, sau lưng chổ ta ngồi là HUYỀN VŨ, phía tay trái trên bàn làm việc của ta là THANH LONG. Tại đây ta đặt một con rồng xanh bằng đá, hoặc bột đá, đầu rồng nhìn tới phía trước (CHU TƯỚC): Sẽ hóa giải được nạn tiểu nhân ám hại một cách hiệu quả !

Trong thực tế vận dụng, trên bờ tường bên trái treo hình một con rồng xanh chưa đủ sức tiêu trừ triệt để tiểu nhân ám hại, thì ta phải treo đến ba con, vì trong phi tinh, hướng ĐÔNG là con số ba.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rồng và tác dụng gì trong phong thủy ? –

Soi tướng phái nữ sẽ gặp nhiều vận may

Phái nữ chân to thường có phúc lớn, tiền bạc nhiều không đếm xuể; hay đôi mắt linh hoạt là người nhạy cảm, có trí nhớ tốt.
Soi tướng phái nữ sẽ gặp nhiều vận may

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đôi mắt linh hoạt

Phái nữ tướng này thường nhạy cảm, trí nhớ tốt.

2. Mũi to

Trong dân gian, mũi này được xem là mũi giàu. Theo tử vi, mũi to đại diện cho khả năng tài chính tốt.

3. Mũi khoằm

Ý chí kiên cường, nữ giới mũi khoằm khi gặp thất bại thường không dễ chấp nhận.

4. Tai vừa to vừa dày

Phái nữ có tai này là người khoẻ mạnh, sống thọ và thông minh.

mui-5220-1408683293.jpg

5. Mông mẩy, hông to

Tướng này đại diện cho phái nữ có tiền và có khả năng tạo phúc cho chồng con.

6. Tay nhỏ

Phái nữ có tay nhỏ, thon dài là người có mệnh phu nhân, tốt số.

7. Chân dài

Phái nữ chân dài thường có khả năng giao tiếp tốt.

8. Ngực hơi xệ

Đây là những nữ giới có khái niệm đơn giản về tiền bạn, cuộc sống ít âu lo, nghĩ ngợi.

chan-5041-1408683294.jpg

9. Cổ dài

Phái nữ cổ dài có tham vọng trong sự nghiệp. Người này hoang phí, không có khả năng tiết kiệm tiền bạc.

10. Bụng phẳng

Những người này trở nên giàu có nhờ các tài lẻ của bản thân.

11. Ngón tay thô

Họ có sức chống chọi mạnh mẽ với sự khắc nghiệt của cuộc sống.

12. Chân to

Phái nữ chân to thường có phúc lớn, mạng lớn, tiền bạc nhiều không đếm xuể.

Hạnh Yunnie (theo Meiguo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi tướng phái nữ sẽ gặp nhiều vận may

Giường ngủ đối cửa gây đau đầu, hại dạ dày,...

Trong phong thủy, vị trí giường ngủ có chuẩn mới góp phần hạn chế được những điểm xấu do hướng nhà chưa tốt gây ra.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ là một không gian tối quan trọng trong ngôi nhà. Mỗi chúng ta đều giành một phần ba cuộc đời cho giấc ngủ. Giấc ngủ có vai trò rất quan trọng giúp mỗi người nghỉ ngơi, thư giãn và lấy lại năng lượng sau một ngày lao động vất vả. Vì thế, trong nhà ở, phong thủy phòng ngủ luôn là một nơi cần chú ý nhiều nhất để tạo ra các khí trường phù hợp, đưa mọi người vào giấc ngủ ngon.

Nhắc đến phòng ngủ, không thể quên đồ vật quan trọng nhất - giường ngủ, Trong phong thủy, cấm kị không bao giờ được để bất kỳ phần nào của giường đối diện với cửa bởi vì nó sẽ gây ra vấn đề sức khỏe đến các bộ phận khác nhau của cơ thể.

 phong thuy: giuong ngu doi cua gay dau dau, hai da day,... - 1

Các tác động gây ra khi cửa đối diện giường ngủ

- Cửa đối diện với đầu: Nó sẽ gây ra đau đầu, đau nửa đầu hoặc thậm chí dẫn đến những cơn ác mộng

- Cửa đối diện với dạ dày: Nó sẽ gây ra vấn đề về dạ dày và hệ tiêu hóa

- Cánh cửa đối diện bên phải của cơ thể của bạn: Nó sẽ gây ra đau ngực phải và vấn đề gan

- Cánh cửa đối diện bên phải của cơ thể của bạn: Nó sẽ gây ra đau ngực trái và vấn đề dạ dày

- Cửa đối diện với chân: Nó sẽ gây ra vấn đề liên quan đến phần cơ thể dưới, ví dụ như đau chân, thấp khớp hoặc thậm chí tai nạn.

 phong thuy: giuong ngu doi cua gay dau dau, hai da day,... - 2

Lưu ý: Vị trí giường ngủ phạm cấm kị nếu giường trực tiếp đối diện với cửa. Nếu chỉ là do nhìn thấy cánh cửa từ giường của bạn thì không có vấn đề gì.

Cách hóa giải khi giường ngủ đối diện cửa

Đầu tiên, các chuyên gia phong thủy luôn luôn khuyến khích di chuyển giường của bạn đến một vị trí khác không đối diện trực tiếp với cửa. Nhưng thông thường, giải pháp đầu tiên này là không thể vì hạn chế các không gian trong phòng.

Tiếp theo, bạn có thể cân nhắc việc đặt một tấm bình phong giữa giường và cửa để chặn các luồng sát khí.

 phong thuy: giuong ngu doi cua gay dau dau, hai da day,... - 3

Cuối cùng, nếu tất cả các giải pháp nêu trên là không khả thi, bạn có thể treo một dải xu ngũ đế trên khung cửa.

 phong thuy: giuong ngu doi cua gay dau dau, hai da day,... - 4
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giường ngủ đối cửa gây đau đầu, hại dạ dày,...
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd