Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách bố trí tủ lạnh hợp phong thủy –

Chiếc tủ lạnh được bố trí gọn gàng sẽ có lợi cho sức khỏe, sự phát triển của gia chủ. Trong phong thủy, căn bếp là không gian đại diện cho dinh dưỡng và sự thịnh vượng. Hãy lưu ý những đặc điểm dưới đây để chiếc tủ lạnh không đơn thuần là vật gia dụn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chiếc tủ lạnh được bố trí gọn gàng sẽ có lợi cho sức khỏe, sự phát triển của gia chủ.

Trong phong thủy, căn bếp là không gian đại diện cho dinh dưỡng và sự thịnh vượng. Hãy lưu ý những đặc điểm dưới đây để chiếc tủ lạnh không đơn thuần là vật gia dụng mà còn là nơi thu hút vượng khí và bổ trợ cho cả gia đình.

tu-lanh-phong-thuy

Đồ trong tủ lạnh cần sắp xếp gọn gàng để đảm bảo chất lượng thực phẩm.

1. Có nhiều đồ nhưng vẫn gọn gàng

Tủ lạnh đại diện cho năng lượng thủy và năng lượng kim. Hai nguồn năng lượng này liên kết với năng lượng thổ thông qua nguồn thực phẩm phong phú chứa trong tủ lạnh. Một tủ lạnh đầy dưỡng chất và nguồn thực phẩm dồi dào là biểu hiện của sự thịnh vượng, no đủ. Bởi vậy, tủ lạnh cần được sắp xếp theo một trật tự nhất định và gọn gàng để mang đến sức khỏe và năng lượng tích cực cho cả gia đình.

2. Giữ thức ăn tươi ngon

Bạn hãy bỏ đi những thức ăn đã hỏng để tránh gây trì trệ vượng khí và mang về những nguồn khí không tốt cho căn bếp và gia đình. Tuyệt đối không để thức ăn sống và chín trong cùng một ngăn. Luôn đựng đồ ăn trong hộp hoặc túi bóng kín. Nên tránh việc để thức ăn hở trong tủ lạnh bởi điều này không những khiến tủ lạnh có mùi mà còn gây ảnh hưởng đến chất lượng của các thực phẩm khác.

3. Nơi kê tủ lạnh

Nhà bếp nên được giữ cho thoáng mát, sạch sẽ và rộng rãi. Bạn có thể tiết kiệm không gian bằng một chiếc tủ lạnh nhỏ gọn, đủ dùng cho gia đình. Không đặt tủ lạnh hay bồn rửa (đại diện cho năng lượng kim và thủy) gần các nguồn năng lượng hỏa như bếp gas, lò vi sóng, lò nướng… nhằm tránh các nguồn khí xung khắc nhau.

4. Giữ tủ sạch sẽ, không có mùi

Hạn chế gắn các tờ giấy nhớ, các bức ảnh lên cửa ngoài tủ lạnh bằng nam châm. Tốt nhất là bạn nên giữ cửa tủ bên ngoài sạch sẽ, trơn láng. Bạn có thể dùng vài lát chanh tươi, bã cà phê đen, vỏ cam hoặc vỏ bưởi để hút mùi và giữ cho tủ lạnh luôn thơm mát. Bạn có thể đặt trên nóc tủ lạnh một chậu cảnh nhỏ xinh sẽ khiến cho tủ lạnh có sinh khí hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí tủ lạnh hợp phong thủy –

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Các lễ hội được tổ chức vào ngày 19 tháng 3 âm lịch gồm có Hội Trấn Đông tổ chức tại 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

1. Hội Trấn Đông -  Đền Bạch Mã

Thời gian: tổ chức từ ngày 19 tới ngày 20 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thần Long đỗ - vị thần gốc của Hà Nội cổ.

Nội dung: Đền Bạch Mã là một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long. Mở đầu lễ hội là những nghi thức thông thường như:ca trù, hát văn, ngâm thơ... Ngoài ra còn có trương trình riêng: nói về lịch sữ của đền Bạch Mã.

2. Hội Xã Dương Liễu

Thời gian: tổ chức vào ngày 11 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn tướng quân Lý Phục Man - vị tướng tài có nhiều công lao phò vua, giúp nước dưới thời Lý (người dân phong cho bà là Thành Hoàng Làng).

Nội dung: Từ sáng sớm, người dân trong xã và khu vực lân cận đã háo hức tập trung tại sân Đình chờ xem hội. Đình làng Dương Liễu hôm nay được trang hoàng rực rỡ với rất nhiều cờ, hoa, kiệu, lọng... Từ các cụ cao niên, thanh niên đến các em thiếu nhi tham gia lễ rước đều mặc trang phục lễ cổ, nhằm tái hiện khung cảnh và không khí lễ hội thuở xưa.

Theo sử sách để lại, cách đây 1.500 năm, tại ngôi Quán thờ (nay là Đình làng Dương Liễu), Tướng công Lý Phục Man trên đường đi đánh giặc đã tổ chức “nghiềm quân” tại Quán. Đoàn quân dưới lá cờ do Tướng công chỉ huy sau đó đã đánh thắng giặc ngoại xâm dưới thời nhà Lý. Nhớ công lao to lớn của vị tướng tài, người dân nơi đây phong tướng là Thành Hoàng làng. Từ đó, cứ mỗi dịp đầu xuân, người dân làng Dương Liễu lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của Tướng công Lý Phục Man- vị Thành Hoàng làng và đội quân tinh nhuệ đã có công xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước.

Cứ 5 năm mộ lần người dân Dương Liễu lại tổ chức hội chính. Ngày đầu tiên của hội chính là lễ dâng hương của đại biểu khách thập phương và các cụ phụ lão, nhân dân trong làng. Đoàn nhạc lễ theo suốt chương trình lễ hội, từ rước Văn, rước Nghinh tới rước Hoàng cung. Phần Lễ luôn thu hút nhân dân và khách thập phương đông nhất, vì yếu tố tâm linh của người dân đất Việt cầu mong một năm mới nhiều tài, lộc, sức khỏe, an lành…

Phần hấp dẫn nhất trong lễ hội chính là hoạt cảnh “nghiềm quân” của gần 500 trai làng. Từ sân Đình làng, 500 chàng trai tráng kiện, ăn mặc rực rỡ, đầu quấn khăn đỏ, miệng ngậm còi, tay cầm cờ diễu hành quanh làng, và cuối cùng tập trung “nghiềm quân” ở sân bóng của xã. Đây chính là phần tái hiện lại cảnh luyện quân, bài binh bố trận và tài thao lược chiến đấu của Tướng công Lý Phục Man đang thời giúp nước. 

Trong suốt 3 ngày hội, dân trong làng và các xã lân cận tạm gác việc đồng áng, làm nghề, mặc quần áo mới, rực rỡ với mâm oản quả, hoa tươi đi lễ và xem hội. Sau phần “nghiềm quân” là một chuỗi các hoạt động như hát thờ (vào đêm đầu tiên của lễ hội), hát chèo đò (vào đêm thứ hai của lễ hội), các hoạt động vui chơi như: Cờ tướng, kéo co, chọi gà, bắt dê, bắt vịt, trồng cây chuối…

Đêm hội là một trong những cảnh sắc đẹp và đáng nhớ nhất của hội. Khắp các ngả đường thôn xóm là những đèn lồng đỏ trang trí rực rỡ làm lộng lẫy cho đêm hội...

Lễ hội kết thúc sau lễ rước Hoàn cung và văn nghệ, để rồi hứa hẹn những mùa lễ hội đáng nhớ khác.

Lễ hội truyền thống xã Dương Liễu là hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, tưởng nhớ và tôn vinh truyền thống anh hùng dựng nước và giữ nước của cha ông ta.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 19 tháng 3 Âm Lịch - Hội Xã Dương Liễu

Bói vui: Đường tình duyên hé lộ tính cách, nội tâm và tình cảm

Chọn bức hình có chỉ tay màu xanh giống hoặc gần giống nhất với đường chỉ tay tình duyên ở bên TAY PHẢI của bạn! Bấm vào hình để xem đáp án!
Bói vui: Đường tình duyên hé lộ tính cách, nội tâm và tình cảm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-1
boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-2 boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-3
boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-4 boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-5
boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-6 boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-7
boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-8 boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-9
boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-10 boi-vui-duong-tinh-duyen-he-lo-tinh-cach-noi-tam-va-tinh-cam-11

Alexandra V (theo vonvon)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói vui: Đường tình duyên hé lộ tính cách, nội tâm và tình cảm

Tên gọi mang ý nghĩa hạnh phúc cho Con

Là cha mẹ, ai cũng mong muốn cho con mình được hạnh phúc, thành công. Hãy tham khảo một số tên mang ý nghĩa hạnh phúc và xem có phù hợp với con không nhé?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong muôn vàn ước muốn trên cuộc đời của con người, có lẽ điều mà ai cũng muốn hướng tới chính là được hạnh phúc. Cha mẹ có thể tham khảo những cái tên đẹp, ý nghĩa cho cả bé trai và bé gái, gửi gắm những ước muốn về một cuộc sống hạnh phúc cho con. Nhưng quan trọng hơn cả khi lựa chọn tên cho con hãy xem tên có phù hợp với con mình hay không?

ten-hanh-phuc

Đối với tên con trai:

Tên "Đăng Phúc" mong con sẽ có cuộc đời tươi sáng, nhiều phúc lộc.

Tên "Tuấn Lộc" mang ý nghĩa là chàng trai khôi ngô, sống hạnh phúc và gặp nhiều tài lộc.

Tên "Cát An" mong con cuộc sống may mắn, bình an.

Tên "Hoàng Long" sẽ là một chàng trai có tinh thần mạnh mẽ, cuộc sống vẻ vang và sung túc.

Tên "Đăng Khánh" là ước mong con có cuộc sống với nhiều niềm vui và vinh quang.

Tên "Hoài Phúc" để con sẽ có cuộc sống luôn luôn hạnh phúc.

Tên "Khải Minh" là tương lai của con sẽ luôn sáng sủa, gặp nhiều thuận lợi.

Tên "Duy Tuấn" là chàng trai có dung mạo tuấn tú, tính cách tài giỏi.

Tên "Bảo Khang" cho con một tương lai có cuộc sống hưng vượng, phú quý, ấm no.

Tên "Tuấn Khải" là mong muốn con có cuộc sống nhiều niềm vui, vạn sự như ý.

Đối với tên con gái:

Tên "Hồng Hạnh" mang ý nghĩa hạnh phúc màu hồng, chỉ niềm vui và điều tốt lành

Tên "Cát Tiên" là mong ước một cô gái nhanh nhẹn, tài năng, gặp nhiều may mắn.

Tên "Hạnh Ngân" mang ý nghĩa cuộc sống của con tràn ngập hạnh phúc, sung túc.

Tên "Bảo Vy" là mong muốn cuộc đời của con nhiều vinh hoa, phú quý, tốt lành.

Tên "Khả Hân" là mong con cuộc sống đầy niềm vui.

Tên "Cát Thảo" sẽ là một cô gái mạnh mẽ, phóng khoáng, gặp nhiều may mắn.

Tên " Diệu Tú" để con trở thành cô gái xinh đẹp, khéo léo, tinh anh.

Tên "Diệu Khánh" là con sẽ có cuộc sống luôn vui tươi, và nhiều điều kỳ diệu.

Tên "Hân Nhiên" ước muốn con sẽ là cô gái luôn vui vẻ, và vô tư.

Tên "Uyên Thư" một cô gái xinh đẹp, học thức cao, có tài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên gọi mang ý nghĩa hạnh phúc cho Con

Vì sao lại không nên quây kín ban công? –

Để tăng thêm diện tích sử dụng, ngăn chặn bụi bặm và khí bẩn từ ngoài xộc vào trong nhà, nhiều gia đình đã quây kín ban công lại. Theo phong thuỷ thì đây là điều tối ki vì như vậy là bạn đã vô tình bịt chặt cửa nạp khí, không có lợi cho sức khỏe mọi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

người cư trú trong nhà.

cay-xanh-phong-thuy-9

Khi quây kín ban công, cũng có thể coi là bạn đã quây kín một cửa chính của nhà, khiến không khí trong nhà tù hãm, hàm lượng oxy trong không khí giảm thiểu. Mặt khác, mọi khí xú uế sinh ra trong nhà như người ho, thở, khí, hơi đun nấu thải ra các khí độc hại lan tỏa khắp nhà không phát tán trao đổi kịp thời, lâu dần người sống trong nhà sẽ có các triệu chứng bệnh tật như váng đầu, lợm giọng, buồn nôn, mệt mỏi.

Tia cực tím trong ánh nắng mặt trời có tác dụng sát khuẩn, làm giảm thiểu nồng độ khuẩn bệnh trong phòng ốc. Khi quây kín ban công, ánh sáng mặt trời sẽ không lọt vào nhà được, khiến cho khuẩn bệnh sinh sôi nảy nở, đôi với trẻ nhỏ có thể bị suy dinh dưỡng, còi xương, chậm lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao lại không nên quây kín ban công? –

Cách tính tháng âm lịch ứng với 12 địa chi

Địa chi là kiến thức tử vi cơ bản, thông qua 12 địa chi có thể đưa ra cách tính tháng âm lịch, tất cả đều tuân theo quy luật, có lý lẽ riêng.
Cách tính tháng âm lịch ứng với 12 địa chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa chi là kiến thức tử vi cơ bản, được sử dụng khá nhiều trong các lĩnh vực đời sống. Thông qua 12 địa chi ứng đối với 12 tháng trong năm để tính thời gian, tất cả đều tuân theo quy luật, có lý lẽ riêng.


Cach tinh thang am lich ung voi 12 dia chi hinh anh
 
12 địa chi bao gồm Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Cùng với thiên can, địa chi là khái niệm tử vi hết sức cơ bản, quen thuộc và có tính ứng dụng cao. Người xưa lấy địa chi xứng đôi cùng thiên can tạo thành năm, tháng và giờ pháp kỷ. Quen thuộc nhất là dùng để xem bát tự, bát tự hợp hôn, tính tuổi vợ chồng, tính tuổi sinh, xem ngày tốt tháng lành.
  Phương pháp dùng can chi vào cách tính tháng âm lịch được ứng dụng để xem bát tự đời người. Bát tự tháng là dựa theo 24 tiết phân chia. Thực chất chính là 12 địa chi ứng với 12 tháng nông lịch. Phương pháp phân chia bát tự tháng khá đơn giản, dựa theo tháng dương lịch, một tháng có hai tiết, trước là lễ, sau là khí. Bát tự tháng sinh dựa vào trước lễ để phân kì.    Con số tương đương với tháng dương lịch giảm đi một chứ không phải là sắp xếp theo thứ tự giống như 12 địa chi. Tháng âm lịch bắt đầu từ Dần chứ không phải từ Tý. Lập Xuân là năm, dấu hiệu phân chia tháng giêng. 12 địa chi và bát tự tháng có quan hệ như sau: tháng giêng – Dần, tháng 2 – Mão, tháng 3 – Thìn, tháng 4 – Tỵ, tháng 5 – Ngọ, tháng 6 – Mùi, tháng 7 – Thân, tháng 8 – Dậu, tháng 9 – Tuất, tháng 10 – Hợi, tháng 11 – Tý, tháng 12 – Sửu.
Cach tinh thang am lich ung voi 12 dia chi hinh anh
 
Dần, Mão, Thìn theo lịch âm là tháng một, hai, ba mùa xuân, vạn vật nảy mầm sinh sôi nên là Tam hợp Mộc cục.
  Tỵ, Ngọ, Mùi theo âm lịch là tháng bốn, năm, sáu mùa hạ vạn vật nở hoa tươi tốt, thời tiết nóng bức, tức Tam hợp Hỏa cục.   Thân, Dậu, Tuất theo âm lịch là tháng bảy, tám, chín mùa thu vạn vật thành thục, xơ xác tiêu điều, tức Tam hợp Kim cục.   Hợi, Tý, Sửu theo cách tính tháng âm lịch là tháng mười, mười một, tháng chạp mùa đông, vạn vật cất chứa, quy về ngầm, băng tuyết bao trùm mặt đất, tức Tam hợp Thủy cục.
Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4) Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 1)
Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tính tháng âm lịch ứng với 12 địa chi

Bí quyết "bán nghèo" để trở nên giàu có

Tôn giả Ca Chiên Diên tiếp nhận bình nước sạch tự tay bà lão múc đem về dâng. Ngài chú nguyện cho bà, dạy bà ăn chay, niệm Phật, làm các công đức bán nghèo
Bí quyết "bán nghèo" để trở nên giàu có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nghe xong, năm trăm vị trời ấy tâm được xa lìa trần cấu, chứng nhãn thanh tịnh, đồng bay về thiên cung. Bấy giờ những người trần có mặt tại đó thảy đều tỉnh ngộ, ông Trưởng giả bấy giờ mới sáng mắt và mới nhận được cái giá trị của con người.

Thuở xưa, ở nước Ấn Ðộ, có một trưởng giả giàu nứt đố đổ vách nhưng hết sức keo kiệt, thường cắt cổ, lột da thiên hạ với cách cho vay nặng lời. Tánh ông lại còn hung tợn, tàn ác nữa. Thật đúng với câu “Vi phú bất nhân” ông không có chút từ tâm.

Mỗi khi có những kẻ mang công thiếu nợ không lo trả nổi theo lời hứa hẹn, thì ông sai lũ gia nhân đánh đập một cách tàn nhẫn, thậm chí ông còn đối đãi với kẻ ăn, người ở trong nhà một cách hết sức tệ bạc, xem họ như loài thú vật không hơn không kém. Trong nhà có một bà lão bộc, làm công việc nhà quần quật suốt ngày không có một lúc hở tay

Nhưng không phải chỉ vậy mà thôi đâu, mỗi khi có sơ sót, hay lỡ tay làm hư hỏng việc gì, thì ông chủ miệng chửi, tay đánh không mảy may thương xót. Áo quần không đủ để che kín tấm thân gầy, cháo cơm không đủ làm no dạ dày lép xẹp. Lại còn tuổi già sức yếu mà phải chịu bao nổi nhọc nhằn, vất vả, vì sức chịu đựng của con người có hạn, cho nên bà thường bị đau yếu luôn. Có lẽ vì đau khổ quá, cực nhọc quá, nên nhiều khi bỗng không bà rơi nước mắt, rồi bà khóc thực sự, khóc cho thân thế bị dày vò, khóc cho tình đời đen bạc, trọng phú khinh bần.

Có một hôm nọ, nhân lúc mang bình ra mé sông múc nước, được ít phút rảnh rang khỏi cặp mắt gầm gừ của ông chủ, bà yên tâm tạm ngồi nghỉ chân dưới cội cây bàng. Trong đầu óc bà lúc ấy lại thoáng hiện ra những sự hành hạ, đập đánh, chửi rủa, tàn nhẫn vô lương tâm của ông chủ. Trong một phút suy ngẫm về giá trị đời sống, bà bỗng rùng mình. Tội nghiệp bấy giờ bà chán sự sống lắm, một ý nghĩ đen tối thoáng hiện trong óc bà, bà muốn quyên sinh.

Bà nghĩ bà phải chết đi, chết để giải quyết tất cả mọi nổi đau khổ loài người đen bạc đã cố ý đày đọa bà. Bà nghĩ những nỗi nọ niềm kia, nghĩ đủ thứ, nước mắt hai bên khóe tự nhiên ràn rụa tràn ra, lăn dài xuống hai má hóp. Bà để mặc cho hai dòng lệ tự do tuôn chảy không buồn chậm lau. Bà vẫn cố muốn khóc cho thật nhiều, khóc cho hết nưóc mắt để rồi bà chết, phải rũ hết nợ đời, chớ sống mà thân xác cũng như linh hồn bị dày vò đày ải quá sức, thì thà chết đi còn hơn.

Bà khóc mùi mẫn cho đến đỗi Tôn giả Ca Chiên Diên đi đến tận bên, bà cũng không hay biết gì. Mãi đến lúc Tôn giả cất tiếng hỏi bà mới giật mình

– Sao thế? Sao bà khóc lóc quá như thế? Ai ăn hiếp bà, ai hành hạ đánh đập bà? Bà lao vẫn còn nghẹn ngào, không nói được ra lời để đáp lại những câu hỏi của Tôn giả. Bà chỉ giương đôi mắt mờ lệ nhìn Ngài.

– Tội nghiệp quá, xem bà nghèo khổ, gian truân quá, nhưng tình cảnh nhà bà ra sao? tại sao bà lại ngồi đây một mình mà khóc, bà cho tôi biết đi, bà nói hết nỗi khổ của bà cho tôi nghe đi, may ra tôi có phương chước gì để giúp ích phần nào cho bà.

– Bạch Ngài, Ngài xem tôi từng này tuổi mà vẫn phải làm tôi mọi cho người ta, công việc làm việc vất vả suốt ngày thâu đêm, lại còn bị chủ nhà ác nghiệt, bó buộc, đánh đập hành hạ khổ sở.

– Tội nghiệp bà nghèo từng này tuổi mà còn phải làm tôi tớ cho người để bị nhiều điều cơ cực, đau đớn, sao bà không bán quách cái nghèo đi, để đeo nó theo làm gì cho thêm khổ sở?

– Trời ơi! Sao Ngài bảo lạ thế? Ai thèm mua nghèo mà hòng bán?

– Bà ạ! Tôi nói thật đấy, nghèo có thể bán được như thường tôi thấy bà khổ sở, tôi khuyên bà bán ngay nó đi, tôi thương bà, tôi bảo thật đấy. Tôi nói gạt bà có ích lợi gì cho tôi đâu?

Nghe giọng nói quả quyết và trông gương mặt hiền từ, thành thật của Tôn giả, bà già hết sức ngạc nhiên, nhìn Tôn giả trân trân, hồi lâu mới thốt được lời:

– Nếu Ngài có phương kế gì bán được cái nghèo, mong Ngài thương xót chỉ cho, tôi xin ngậm vành kết cỏ, cảm đội ơn đức suốt đời, không lúc nào quên được.

– Ðược, tôi xin hứa chắc với bà và nếu bà thật tình muốn bán, thì tôi bảo thế này, bà phải làm đúng y như vậy mới có kết quả tốt đẹp được. Bây giờ bà hãy xuống sông tắm cho thật sạch sẽ, thân thể bẩn thỉu quá có thể sinh ra nhiều bệnh tật, lại ai cũng chán mà chẳng dám đến gần.
Bà già vâng lời tôn giả xuống sông tắm rửa sạch sẽ xong xuôi, bà liền đến bên bạch rằng:

– Bây giờ Ngài dạy tôi cách nào để bán?

– Bây giờ bà phải bố thí. Vì Phật đã dạy, pháp bố thí là để cho người vượt khỏi lòng tham lam, mà tham lam là cái nhân bần cùng khổ sở. Tôi đã dùng huệ nhãn quán sát thấy bà nhiều kiếp về trước tánh tình tham lam keo kiệt, nên kiếp này bà phải chịu quả báo cơ cực nghèo cùn. Vì vậy muốn hết nghèo cùng bà phải dứt lòng tham lam, còn phải thật hành phương pháp bố thí. Nhân nào thì quả nấy, chắc chắn không sai.

– Ðất ơi! Ngài bảo tôi bố thí, bố thí để dứt lòng tham, nhưng tôi có tham hồi nào đâu? Tại tôi nghèo cùng đến nỗi giơ xương, lòi da như thế này, tôi phải đào đâu ra của để mà bố thí. Thưa Ngài, Ngài bảo cách nào dù thiên lao vạn khổ gì, già này cũng có thể cố gắng làm được, chớ còn điều này thì xin chịu. Tôi không biết làm cách nào để làm cho được vừa lòng Ngài. Đây hiện giờ trong tay chỉ có cái bình này của chủ thôi, tôi mang đi để múc nước về, nếu có thể bố thí được thì tôi xin bố thí ngay, bất quá về nhà chủ đánh chút thôi, không đến nổi gì, quen rồi chả sợ. Miễn giờ đây có thể làm đủ theo ý muốn của Ngài là tôi vui lắm rồi.

– Ấy chết! Của chủ bà đem cho đi, về nhà mất bình chủ bà đánh chửi chịu sao nổi?

– Không sao, thưa Ngài! Già đã chịu đựng quen rồi, không đến nổi gì, mà già cũng nghĩ liều mạng bất quá chết là cùng.

– Cũng được, miễn có lòng thành kính là được, không luận ít nhiều. Bà hãy đem bình tìm chỗ nước thật trong và thật sạch múc đầy bình đem về đây cho tôi.

Tôn giả Ca Chiên Diên tiếp nhận bình nước sạch do tự tay bà lão múc đem về dâng. Ngài chú nguyện cho bà, lại dạy bà lão nên ăn chay, niệm Phật, làm các công đức…đoạn Ngài hỏi:

– Bà có chỗ ở nào thật sạch sẽ không?

– Tội nghiệp quá nhưng bà về nên cố gắng giữ lòng, lo trọn bổn phận, không nên hiềm hận điều gì cả. Tối đến, đợi khi trong nhà ngủ hết, bà hãy lén mở cửa lên nhà trên, vào trong ngồi xếp bằng ngay ngắn niệm Phật, tâm đừng nghĩ gì khác chỉ nên nhất tâm tưởng Phật mà thôi. Bà nên nhớ thế.

Bọn đầy tớ nhà ông Trưởng giả rạng ngày mở cửa, cả sợ, tri hô lên. Ông Trưởng giả hốt hoảng ba chân bốn cẳng vừa chạy vừa quát:

– Mẹ tớ này sao hôm nay lại trốn lên được đây ngồi chết? Từ trước đến giờ không bao giờ mụ được lên đây cả, thế sao hôm nay… Bây đâu, hãy đến gần rờ xem bà ta chết đã lâu chưa? Nếu thiệt chết, bây cột chân kéo xác bỏ vào rừng cho quạ kên ăn quách đi là xong chuyện. Mau lên! Không tao đập chết cả lũ bay nữa bây giờ. Mau lên, mau lên.

Bọn đầy tớ lúi húi tìm dây cột chân làm theo lời ông chủ, nhưng ra khỏi ngõ chúng lại lôi tấm bố đã giấu được đem ra đắp điệm cho bà, xong rồi chúng ráp nhau khiêng xác đem bỏ trong rừng lạnh. Có ai ngờ đâu, lúc bấy giờ bà lão tuy tồi tàn thế, nhưng thần thức của bà đã được sanh lên cõi trời Ðao Lợi, do nhờ sự chú nguyện của Tôn giả Ca Chiên Diên và nhờ sự cố gắng niệm Phật của bà.

Bấy giờ ở trên cõi Ðao Lợi có một vị Thiên tử vì hết phước báo nên phải hoàn sanh nhân gian, bà lão nhờ sức trì giới, niệm Phật và công đức bố thí mà được thế vào địa vị ấy. Nhưng vì ham vui chơi theo khoái lạc của thiên báo mà quên nguyên do gì mình được sanh làm Thiên tử. Song vị Thiên tử này (bà lão bộc) trước đã gây phước lành, kết duyên Phật pháp, nên cảm đến lòng từ của Tôn giả Xá Lợi Phất, Ngài bèn đến lân la dọ hỏi để kích thích đạo tâm sẵn có của vị Thiên tử.

– Phàm việc gì có ra đều có nguyên nhân cả, hẳn Ngài đã biết mình từ đâu đến và do nhân duyên gì mà được cảm quả báo làm Thiên tử như hôm nay chứ?

Vị Thiên tử cùng các quyến thuộc còn đang ngơ ngác chưa hiểu ra làm sao cả, thì Ngài Xá Lợi Phất liền truyền đạo nhãn cho vị Thiên tử xem. Như chiêm bao chợt tỉnh, vị Thiên tử rối rít tỏ lời cảm tạ ơn Ngài Xá Lợi Phất đã khai thị cho, đồng thời họp cả năm trăm quyến thuộc lễ Ngài, rồi cùng nhau mang hương hoa sang ngay hàn lâm, xông hương, rải hoa cúng dường tử thi.

Ánh sáng của Chư Thiên chiếu khắp cả khu rừng có tử thi của bà lão bộc làm cho mọi người hết sức kinh dị, nhà ông Trưởng giả cũng hay, cùng kéo nhau đến xem. Lấy làm lạ, có người đến gần hỏi:

– Ðây là người tớ già của nhà chúng tôi vừa chết, thân thể đã sình trương dơ nhớp, khi bà còn sống người ta còn ghê tởm ít dám đến gần thay, phương chi nay bả đã chết rồi có gì quý lạ mà quý vị đến đây rải hoa cúng dường?

Nghe hỏi vị Thiên tử bèn ứng tiếp đáp lời thuật rõ ngọn ngành, vì nhân duyên gì mình được bỏ thân tôi tớ, sanh làm trời hưởng phước báo vô lượng. Ðoạn vị Thiên tử xây mặt về phía tịnh xá tưởng nghĩ đến Tôn giả Ca Chiên Diên, rồi vì Chư Thiên quyến thuộc của mình và một số người trần có mặt hôm đó giảng pháp mầu đã lãnh thọ được cho nghe, nào là Luận về pháp bố thí, giữ giới, niệm Phật, lìa dục…

Nghe xong, năm trăm vị trời ấy tâm được xa lìa trần cấu, chứng nhãn thanh tịnh, đồng bay về thiên cung. Bấy giờ những người trần có mặt tại đó thảy đều tỉnh ngộ, ông Trưởng giả bấy giờ mới sáng mắt và mới nhận được cái giá trị của con người không phải ở vật chất mà chính ở tinh thần vậy. Thế là bà lão đã bán được cái nghèo với một giá cao hết sức tưởng tượng, làm thân trời.

SUY NGẪM

Tôn giả Ca Chiên Diên tiếp nhận bình nước sạch do tự tay bà lão múc đem về dâng. Ngài chú nguyện cho bà, lại dạy bà lão nên ăn chay, niệm Phật, làm các công đức, dạy cách bán nghèo, xa rời hiềm hận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết "bán nghèo" để trở nên giàu có

Xem tướng đại phú quý

Có hình tướng đại quý, tướng trung quý, tướng tiểu quý và tướng giàu sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng đại quý: Người có hình tướng đại phú đại quý

tuong-quy

Người có hình tướng như sau: Đầu giống như đầu con hổ già, miệng giống như miệng chim sẻ, xương trán nhô lên ánh mắt an định, 2 tay dài tới đầu gối, miệng lớn có thể đút vừa nắm tay. Lưỡi dài, khi bước đi giống như hố già, sải bước mạnh mẽ như rồng mà thân không chuyển động, mắt giống như mắt phượng, đó là người có mệnh đại quý.

Tướng trung quý: Hình tướng của người có mệnh trung quý

Nếu người có hình tướng như sau sẽ là mệnh trung quý: Râu mọc ở cằm giống như sợi sắt cứng nhọn, màu da ở tai không trắng như ở mặt. Tam đình ở trên mặt trên dài dưới ngắn, miệng giống hình chữ “tứ” (29) , có 36 chiếc răng, ngón tay dài như chụp được miệng hổ, người như thế cũng coi là mệnh phú quý.

Tướng tiểu quý: cằm vuông vức là tướng tiểu quý

Người có hình tướng như sau sẽ là mệnh tiểu quý: Vị trí Thiên đình cao, cằm vuông tròn, nhỏ giống như châu ngọc, to thì vuông vắn và mịn, răng trắng lại to, lông mày thưa, mắt thanh tú, môi cong, có màu hồng tươi.

Tướng giàu sang: Lưng dày là tướng giàu sang

Nếu có lưng đầy đặn, eo tròn thì người đó có thể sẽ được hưởng phú quý lại giữ chức vụ cao, là điềm báo đại quý. Nếu như xương gò má cao, miệng rộng, cằm vuông, 4 bộ vị này đều hướng vào thì người đó có tướng phú.

Nếu như khí sắc sáng tươi, thân thể đẹp, khuôn mặt vuông vức là mệnh giàu có.

Nếu tay, lưng to dày, dáng vẻ đoan chính thì đó là mệnh phú quý.

Nếu như tinh thần minh mẫn, làm việc cẩn thận thì đó cũng là người phú quý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đại phú quý

Chú ý đến âm dương và tụ tán như thế nào khi bố cục và trang trí phong khách? –

Phong thủy phòng khách phải cát tường, không được đảo lộn âm dương. Chú ý vấn đề tụ, tán và thông, tắc, trời đất và con người hoà hợp. Theo Kinh dịch thì phòng khách phải ở dương vị, nó phải được đặt ở mặt trước của nhà, có vậy mới bảo đảm yên tĩnh v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

à kín đáo cho phòng ngủ và phòng sách.

Phòng khách là bộ mặt gia đình, bài trí bên trong có tao nhã hay không thể hiện phẩm cách của chủ. về trang trí, số lượng ít nhưng tinh tế là tao nhã, nhiều mà ô tạp ngợp mắt là thô tục; về đồ dùng, gọn sạch là dẹp, lộn xộn do bẩn là thô tục; về màu sắc, trang nhã là đẹp, nhiều màu loè loẹt là thô tục; về dùng tranh, tranh sơn thuỷ là trang nhã, cố gắng tránh treo tranh ảnh người đẹp.

thiet-ke-noi-that-phong-khach-biet-thu-anh-hao_sofa-phong-khach_2-470x353
Thiết kế nhà ở hiện đại nên theo phong cách đa năng tổng thể, biến tủ tường và các tổ hợp thành các đơn nguyên chính trong thiết kế nội thất Xử lý không gian phòng khách lấy nền nhà làm bề mặt kê đặt đồ đạc. Phương pháp xử lý đối với một không gian 3 chiều chủ yếu lấy việc sử dụng mặt tường làm chính.
Trần phòng khách không nên quá rực rỡ, màu nền nhà không nên quá tối, ví dụ màu xi măng, màu đen, nếu không sẽ đảo lộn âm dương. Màu sắc trần nhà nên dùng màu xanh da trời, màu trắng. Trần nhà tốt nhất không nên dùng trần treo, vì nếu dùng trên trần nhà sẽ như có ‘Thiên la địa võng”, tầng tầng lớp lớp, góc cạnh rườm rà làm tăng giác sát về phong thuỷ. Trong phòng thấp mà treo đèn to sẽ làm tăng cảm giác bị đè nén. Con người hiện đại thông minh đần lên, trần nhà được trang trí bằng các đường chỉ làm cho không gian phòng như rộng thêm, đẹp mắt và thực dụng. Ngoài ra, ở những chỗ tối trong phòng thì trang trí tranh hoặc kính nghệ thuật, đây cũng là một cách làm cho không gian phòng thêm rộng hơn. Tuy nhiên, không nên trang trí toàn bộ không gian phòng bằng kính, người sống trong môi trường nhiều gương kính (gương kính trong ngủ hành thuộc hoả) theo phong thuỷ là hung sát, tim và thần kinh sẽ bị ảnh hưởng.
Chú ý đến vấn đề tụ và tán của phòng khách. Chỗ nào tụ, chỗ nào tán; chỗ nào đóng, chỗ nào cách; chỗ nào thông, chỗ nào chắn; chỗ nào sáng, chỗ nào tối đều phải chú ý đến phong thuỷ.
Trung tâm phòng khách là tụ, các khu chức năng là tán. Các hướng Tây Bắc, Tây và hướng Bắc cần đóng; phòng tắm, bếp cần phải cách; gió Đông Nam, gió Nam, đường cứu hoả, nhà vệ sinh, rãnh nước, ống khói cần phải thông; phòng khách, phỏng sách phái sáng; phỏng ngủ, phòng chứa đồ phải tối.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chú ý đến âm dương và tụ tán như thế nào khi bố cục và trang trí phong khách? –

Tìm hiểu tính tình phụ nữ qua Tử vi

Phong Nguyên (KHHB 45)
Tìm hiểu tính tình phụ nữ qua Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Những cách xấu

1/ Tham Lang- Địa kiếp
Đa số các nhà tử vi không khen phụ nữ nào có 2 sao này hay 1 trong 2 sao tọa thủ tại mệnh thân (nhất là mệnh).

Câu phú “Trai bất nhân Phá quân thìn tuất, gái bạc tình Tham Sát dần thân” chỉ chê phụ nữ có Tham, Sát dần thân là bạc tình, nhưng tôi nghiệm thấy còn tệ hơn nữa vì người đó ngoài tính bạc tình còn có tâm địa ích kỉ, tham vọng vô bờ bến về mọi phương diện nhất là về tình và tiền (gặp ai mà ưa là say mê liền hoặc đang yêu mà thấy người đó hết tiền là bỏ luôn).

Về câu phú trên tôi thấy ứng nhiều với sao Tham Lang chứ ít đúng với sao Thất Sát nếu không có sao tăng cường. Thực tế khi mạng cư dần thân có Sát thì cung xung chiếu bao giờ cũng là Tử Phủ là 2 sao trung hậu, gây ảnh hưởng ko ít cho Thất sát, nhất là khi mạng ko có ngũ hành hợp sao này, hơn nữa chính sao Thất sát là sao chủ về khắc khổ, khắc khe, u buồn, ít tình cảm, thì khó thể quyết đoán là đương số bạc tình. Phải chăng là có những tính này nên không yêu đương đằm thắm được, chứ làm gì có lòng dâm tà.

Nhưng khi có Tham Lang thủ mạng, nhất là ở tí ngọ, dần thân, thìn tuất thì khó thể níu kéo cung xung chiếu để chế hóa mạnh mẽ sao này.
Có nhà tử vi đã không lầm khi cho rằng Tham Lang còn tệ hơn Đào, Hồng, Riêu, Mộc vì Tham Lang vừa dâm vừa gian tà ích kỉ trong khi Đào, Hồng, Riêu, Mộc chỉ có đam mê về nhục dục chứ chưa hẳn thiếu tâm hồn cao thượng, vị tha. Nếu chẳng may có Tham Lang thủ mạng lại gặp đủ bộ sao lả lướt trên đây thì thực là quá sức dâm dật hoặc vô luân; những người phụ nữ đó không thể chấp nhận làm người bạn đời được. Riêng Tham Vũ và Liêm Tham thì ít bị ảnh hưởng của Tham Lang vì thuộc về cách khác

Còn sao Địa Kiếp tuy ko chủ về tình ái nhục dục nhưng có đặc tính mạnh mẽ về gian tà, thủ đoạn, tàn nhẫn, bần tiện, ác độc. Chỉ 1 sao này cũng đủ làm cho tâm hồn người phụ nữ xấu xa và cũng đủ làm hỏng gần hết các cách hay khác. Nếu xui có thêm Tham Lang thì người đó hết làm bạn được với ai. Nếu có Đào Hồng Binh Tướng hội chiếu thường hay bị hãm hiếp; hoặc làm gái điếm khi có thêm Riêu, Mộc, Cái, Hỏa, Linh và 1 vài cách bổ túc khác.

Tôi cho rằng thà có Địa Không lâm mệnh thân còn hơn có Địa Kiếp, vì Địa Không thường chủ về vất vả, thất bại, hôn nhân trắc trở chứ ít khi chủ về gian trá, ích kỉ mạnh mẽ như địa kiếp. Mặc dù có câu phú “Không kiếp lâm Tài Phúc chỉ hương sinh lai bần tiện” tôi cho rằng chỉ ứng với Kiếp. Riêng về Không Kiếp đắc địa Tị Hợi thì ko liên quan gì đến cách đoán trên vì cách này cũng là 1 cách tốt cho nam lẫn nữ, nhất là Âm Nam, Dương Nữ (tôi đã bàn kĩ về điểm này trong bài đầu tiên của tôi trên KHHB)

2/ Đào, Hồng, Riêu, Mộc, Cái
Sau sao Tham Lang tôi chê người phụ nữ nào có các sao này, dù họ có cả Tử Phủ, Khôi Việt, Quan Phúc chiếu mệnh chăng nữa. Thực tế các sao đó có năng lực rất mạnh về tình ái, nhục dục cho nên bộ sao đứng đắn khó làm mất hiệu lực của chúng, nhất là khi có cả Không Kiếp, Hỏa Linh, Phục, Tả Hữu thì thuộc về hạng gái làm tiền.

Chỉ có 2 sao Đào Riêu vẫn là loại gái lăng loàn, trắc nết, dễ cắm sừng vào đầu chồng, chẳng thế mà có câu “Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa dắt trai vào”.

Hơn nữa, nguyên sao Đào Hoa hoặc Hồng Loan thủ mệnh cũng bát lợi cho người chồng vì 2 sao này chủ về 2 đời chồng hoặc ít khi sống gần chồng. Tôi ko cho 2 sao này nói về tình ái liên tục mà thực ra là “trăm mối tối nằm không”, như vậy có hay gì cho hạnh phúc vợ chồng. Đấy là chưa kể về vấn đề yểu tướng khi có Không Kiếp giao hội, vì có câu “Đào, Hồng hội Kiếp Không lâm thủ, sá bàn chi những lũ yểu vong”

3/ Vũ khúc, Cô quả, Lộc tồn
Những sao này khi thủ mạng nữ chẳng bao giờ có nghĩa xấu xa, nhưng tôi vẫn ko cho là tốt vì các sao đó chủ về cô đơn, góa bụa, hoặc lạnh lùng, khắc khe, là những yếu tố ko lợi cho hạnh phúc lứa đôi. Nhưng bù lại, người đó có tay làm ra tiền và càng nhiều tiền càng dễ bị sống xa cách chồng. Cách này hay dở tùy thuộc cảm nghĩ hoặc í thích của người chọn vợ, vì có ông chỉ nghĩ đến tiền nên khi vợ làm ra nhiều tiền thì đương nhiên được coi là hay, nhưng có ông chỉ ưa sống gần vợ mà cứ phải nay đây mai đó hoặc phải chia ly xa cách vì hoàn cảnh sự nghiệp thì đương nhiên cách này thành xấu

4/ Phá quân, Đại Tiểu hao
1 phụ nữ không dâm tà độc địa ích kỉ, không lạnh lùng khắc khe cũng chưa đủ làm người vợ tốt: người đó còn cần có tính cẩn thận, tằn tiện, ngăn nắp nữa mới có thể thành người nội trợ giỏi, đảm đang. Như vậy phải tránh Phá quân hội Đại Tiểu hao (trừ khi Đại Tiểu hao cư Mão, Dậu) dù cho Phá quân đắc cách ở tí, ngọ vì các sao này chủ về bừa bãi, ngông cuồng, hoang phí, phóng khoáng ăn chơi, cờ bạc, nghiện ngập. Dù mình là tỉ phú cũng chẳng nên lựa người phụ nữ kiểu này, vì chẳng mấy chốc mà sự nghiệp tan tành vì bị phá của rất mạnh mẽ.

Trên đây là những điều tôi cho rằng tối kị với phụ nữ, vì thực ra còn nhiều cách xấu khác không tai hại lắm và cũng khó thể tránh được. Nhân vô thập toàn mà

Những cách tốt

1/ Tử Phủ Dần Thân
Cách này ít nhà tử vi dám chê và riêng tôi, tôi coi cách này hay nhất đối với phụ nữ. Mỗi khi coi lá số 1 người phụ nữ có cách này là tôi có thiện cảm và kính trọng liền, vì gần như chắc chắn người đó đoan trang, tiết hạnh và thông minh.

Nhất là khi có thêm Hóa Khoa đồng cung hoặc Khôi Việt giao hội thì thực hết chỗ chê. Riêng Hóa Khoa có điềm hay đặc biệt là vừa thông minh lại vừa nhân hậu từ trong lòng đến bề ngoài (như thế là nhân hậu thật sự chứ không phải đạo đức giả). Phải chăng vì thế mà theo cách bố cục các sao, Đào Hoa không bao giờ đồng cung Tử Phủ dần thân, vì đào hoa chủ về đa tình, lãng mạn lẳng lơ. Còn Hồng Loan tuy cũng có khi đồng cung (khi tuổi Sửu Mùi) nhưng không đáng ngại vì Hồng Loan thường chủ về 2 đời chồng hoặc trắc trở hôn nhân chứ ít khi có nghĩa đa tình như Đào Hoa, nhất là khi có Tử Phủ chế hóa nhiều

Có người thắc mắc sao không coi Tử vi cư ngọ là tốt nhất đối với người phụ nữ. Thật ra cách đó chỉ tốt về công danh uy quyền chứ không hẳn tiêu biểu cho nết hạnh phụ nữ. Chẳng thế mà cung Ngọ cũng là 1 trong 4 vị trí của đào hoa, và khi sao này cư Ngọ thì đương nhiên người phụ nữ đó coi tình ái như “pha” nghĩa là họ có thể trở thành bạc tình, dù có Tử Vi đóng ở đó nữa. và có khi chính vì có Tử Vi mà thành ngang tang trong vấn đề tình ái vì Tử vi cư ngọ được coi là “vua” trong các sao thì coi ai ra gì. Tuy nhiên khi có Tử vi mà không có đào hoa thì vẫn cho là tốt về tính tình nhưng nhất định có tính kiêu kì quá đáng, là 1 điều làm phái nam bực mình và thiệt thòi

2/ Tử Sát Tị Hợi
Cách “Tử Sát đồng lâm tị hợi nhất triều phú quí song toàn” là cách tốt thứ 2 đối với phụ nữ, theo ý kiến của riêng tôi. Tuy nhiên, cách này cũng có khía cạnh đáng chê là người phụ nữ đó thường nghiêm nghị quá, thành ra mất vẻ nữ tính, nhất là gặp ông nào nhiều tình cảm thì thực là giảm nhiều khắng khít. Nhưng bù lại người phụ nữ đó rất vượng phu ích tử hoặc có tay làm ra tiền như thế cũng là hay lắm rồi.

Còn những cách liên hệ với tử vi như Tử Tham,Tử Tướng, Tử Phá … tôi không dám cho là tốt được, vì như Tử tham thì cũng tệ như những cách xấu nêu trên, nhất là có thêm đào hoa (mão hoặc dậu), Tử Tướng lại phạm vào câu “Đế tọa La Võng, hoàn vi phi nghĩa chi nhân”, còn Tử Phá tuy khá hơn nhưng hay có tính ngang bướng, bất cần đời mặc dù cũng đứng đắn

3/ Đồng Lương Dần Thân
Cách “Đồng Lương tối hỉ dần thân hội” cũng đáng gọi là hay vì người phụ nữ nào có cách này tính tình nhẹ nhàng, dịu dàng và nhất là có sắc đẹp mĩ miều (nhưng ở đây tôi không bàn về nhan sắc mà chỉ nói về tính tình). Tuy nhiên, cách này vẫn thua kém 2 cách trên về sự đứng đắn, đoan trang và quí phái, vì khi đã dính tới Thiên Đồng là chủ về thay đổi, canh cải, không giữ vững lập trường tức là không thể chung tình tuyệt đối được, nhất là khi Hồng Loan đồng cung.

4/ Vũ Tướng Dần Thân
Cách này hay ở chỗ là người đảm đang, đứng đắn, biết xoay xở quán xuyến, nhưng vì liên hệ tới Vũ Khúc nên tính thích cô đơn, lạnh lùng và quả quyết như đàn ông (do đó cần tránh Cô quả, lộc tồn), còn Thiên Tướng chủ về chỉ huy nên dễ bắt nạt chồng. Nếu ai chịu được những điều trên thì rất nên lựa người bạn đời có Vũ Tướng để khỏi bị gánh nặng gia đình trút hết vào mình, nhất là trong giai đonạ mưu sinh khó khăn hiện nay

5/ Vũ Sát mão dậu
Cách này chỉ hay ở phương diện đứng đắn, đoan trang vì 2 sao này cũng ghét tình ái bậy bạ, nhưng về tình vợ chồng thì vẫn xem trọng mặc dù không lả lướt lắm. vậy ai thích có vợ chỉ lo toan nội trợ hoặc tần tảo bán buôn thì hãy chọn cách này, nhưng cần phải tránh được Lộc tồn đồng cung và cô quả tại “thân” (vì không bao giờ cô quả tại Mão dậu) cư hợi hoặc mùi, để khỏi gặp người khắc chồng trở thành góa bụa

6/ Nhật Nguyệt đắc địa
Cách này có thêm Tả Hữu hoặc Song Lộc là người phụ nữ đảm đam nhất về phương diện kinh doanh lớn, nhưng có điểm kẹt khi gặp đào hồng hay riêu, mộc, cái thường hay thích ăn chơi ngoài xã hội dù vẫn lo chuyện làm ăn, vì Nhật Nguyệt bao giờ cũng chủ về mơ mộng vẩn vơ, có tâm hồn, “là thi sĩ nghĩa là du với gió”

7/ Cơ Lương thìn tuất
Cách này thường hay cho phái nam nhiều hơn nữ, vì rất hợp về mưu trí, kế hoạch, cho nên phụ nữ có cách này thì khôn quá có thể lừa dối, qua mặt chồng dễ dàng. Lẽ tất nhiên nếu không có các sao xấu hội hợp thì chẳng đáng ngại, nhưng lỡ có 1 vài điểm “mờ ám” nào là phải nên dè dặt đối với người bạn đời của mình

8/ Phủ Tướng triều viên
Đây là cách trung bình, nghĩa là chỉ chăm chỉ làm ăn, không có gì xuất sắc mà cũng không có gi đáng chê trách. Thường những người phụ nữ có cách này hay làm công chức, sống cuộc đời nề nếp

Các trung tinh tốt
Cũng cần nhìn vào Các trung tinh như thai tọa, khôi việt, quan phúc, tràng sinh đế vượng quang quí, long phượng, khoa, lộc (tôi không đề cập Hóa Quyền vì sao này không chủ về tính tình tốt của phụ nữ, có sao đó chỉ người kiêu căng, hách dịch, hay bắt nạt chồng) để cho điểm cao thêm vì những sao phụ trên đóng góp khá nhiều vào tính đọa đức, đứng đắn, đảm đang.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu tính tình phụ nữ qua Tử vi

Con giáp nào 'xui' nhất năm 2015?

Dù không muốn xuất hiện trong danh sách này, người tuổi Tý, Tuất, Sửu... nên cẩn trọng trước những xui xẻo không lường trước trong năm 2015.
Con giáp nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Sửu

Sự nghiệp và tình duyên của người tuổi Sửu trong năm Mùi khá bình thường, thậm chí còn gặp phải những điều không may. Trong công việc, bạn cần thận trọng đề phòng có kẻ tiểu nhân "chơi xấu". Do đó, thay vì đặt niềm tin quá nhiều vào người khác, bạn nên tin tưởng vào sự lựa chọn của chính mình.

suu-4489-1419916485.jpg

Đặc biệt, người tuổi Sửu nên hết sức cẩn trọng trong những tháng 6 và 7 âm lịch. Nhiều khả năng, chuyện tình cảm của bạn sẽ gặp rắc rối, thậm chí xuất hiện những dấu hiệu rạn nứt. Nếu không khéo léo và bình tĩnh xử lý, mọi chuyện sẽ thêm rắc rối. Những rạn nứt ấy ngày càng lớn và khó có thể “phục hồi” như xưa.

No2: Tuổi Tý

Đối với người tuổi Tý, năm Mùi sẽ không lý tưởng để thực hiện các kế hoạch lớn về công việc và tình cảm. Do đó, bạn cần thận trọng, đặc biệt là tháng 7 âm lịch và 3 tháng cuối năm. Bởi nhiều khả năng bạn sẽ gặp rắc rối về kiện tụng hoặc vấn đề về sức khỏe trong thời gian đó. 

No3: Tuổi Tuất

Nếu có dự định đầu tư hoặc kinh doanh, người tuổi Tuất nên đợi đến sang năm, bởi năm 2015 bạn sẽ gặp không ít xui xẻo, ảnh hưởng xấu tới những dự định đó. Bạn nên đề phòng có người sẽ lợi dụng lòng tốt và khả năng chuyên môn của bạn để làm những việc bất chính.

tuat-4488-1419916485.jpg

Lúc đầu, họ ngon ngọt dụ dỗ bạn, nếu thàng công, họ sẽ “hẫng tay trên” của bạn, còn nếu thất bại, bạn sẽ là người duy nhất lãnh hậu quả. Ngoài ra, bạn cần cẩn trọng trong vấn đề đi lại. Có khả năng bạn sẽ bị ngoại thương nghiêm trọng.

No4: Tuổi Mùi

Năm 2015 chính là năm tuổi của con giáp này. Theo quan niệm dân gian, năm tuổi của mỗi người cũng mang lại không ít xui xẻo cho người đó. Về công việc, sẽ có kẻ xấu lợi dụng sự tin tưởng của bạn để làm việc không hay. Về tình cảm, có kẻ thứ ba “phá đám” tình yêu đang nhen nhóm hoặc đã mặn nồng của bạn.

Mr.Bull (theo TX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào 'xui' nhất năm 2015?

Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tỵ

Người tuổi Tỵ sinh vào giờ Dần có tiền đồ rộng mở, trí dũng song toàn, tay trắng lập nên đại nghiệp...
Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Giờ Tý (23h – 1h)   Do Tý Thủy khắc chế Tỵ Hỏa nên người tuổi Tỵ sinh vào giờ Tý có cuộc sống khó khăn. Tuy nhiên được sao Long Đức chiếu mệnh nên tai qua nạn khỏi, không phải trải qua tình huống hung hiểm hay nguy hiểm tới tính mạng. Người này tuy có cuộc đời nhiều sóng gió nhưng sự nghiệp vẫn phát triển và thành công.   Giờ Sửu (1h – 3h)   Người tuổi Tỵ sinh vào giờ Sửu có Tỵ Hỏa sinh Sửu Thổ nên mưu sự tất thành, tuy bị hao tốn tiền của nhưng cuối cùng vẫn thành công. Người này có sự nghiệp phát triển thuận lợi, được người thân bạn bè giúp đỡ, cuộc đời hạnh phúc bình an.   Giờ Dần (3h – 5h)   Do Dần Mộc sinh Tỵ Hỏa nên người này có tiền đồ rộng mở. Ngoài ra, do Phúc tinh chiếu mệnh nên thành sự tại thiên, được nhiều người trợ giúp. Ngoài ra, người tuổi Tỵ sinh giờ Dần có ý chí kiên cường, trí dũng song toàn, tay trắng lập đại nghiệp. Nhưng, cần đề phòng họa khẩu thiệt thị phi ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Xem gio sinh phu quy cho nguoi tuoi Ty hinh anh
Ảnh minh họa

Giờ Mão (5h – 7h)   Mão Mộc sinh Tỵ Hỏa nên suốt đời người tuổi Tỵ đều gặp may mắn, được bạn bè giúp đỡ, cuộc sống sung túc. Tuy nhiên, bản mệnh người này có sao Thiên Cẩu chiếu rọi nên công danh sự nghiệp tuy ít sóng gió lớn nhưng khá lận đận và phải bôn ba khắp nơi để cầu tài.   Giờ Thìn (7h – 9h)   Người này có Tỵ Hỏa sinh Thìn Thổ nên mọi sự thuận lợi, liên tiếp gặp may mắn. Người này nhã nhặn lịch sự, phong thái đường hoàng, được quý nhân trợ giúp nên sự nghiệp phát triển tốt đẹp, cuộc sống yên vui và sung túc.   Giờ Tỵ (9h – 11h)   Người tuổi Tỵ sinh giờ bản mệnh hình thành cục diện Tỉ kiếp Thái Tuế nên cuộc đời thăng trầm, khi lên voi lúc xuống chó bất ổn. Lại thêm sao Chỉ Bối chiếu mệnh nên cuộc sống không yên ổn, sức khỏe không tốt, dễ mắc bệnh tật.   Giờ Ngọ (11h – 13h)   Do Ngọ Hỏa và Tỵ Hỏa cùng đồng hành nên các mối quan hệ giao thiệp của người này rộng, lại có sao Thái Dương chiếu mệnh dù có lúc gặp vận xấu nhưng cũng tai qua nạn khỏi. Bên cạnh đó, người này có vận đào hoa rất vượng nên nhiều khả năng sẽ xuất hiện tình trạng ngoại tình.
Giờ Mùi (13h – 15h)   Tỵ Hỏa sinh đới Mộc Thổ nên dù bị sao Nguyệt Sát chiếu mệnh nhưng sức khỏe vẫn ổn định. Tuy nhiên cuộc đời người tuổi Tỵ sinh giờ Mùi vất vả, nhiều sóng gió, đời sống hôn nhân nhiều chuyện muộn phiền.    Giờ Thân (15h – 17h)   Bản mệnh người tuổi Tỵ sinh giờ Thân có Tỵ Hỏa khắc chế Thân Kim, lại có sao Quý Nhân chiếu mệnh nên sự nghiệp thuận lợi, được quý nhân giúp đỡ, gặp hung hóa cát, cuộc sống sung túc, đầy đủ. Tuy nhiên đôi khi bị kẻ xấu gây phiền nhiễu thậm chí là hãm hại.   Giờ Dậu (17h – 19h)   Tỵ Hỏa khắc chế Dậu Kim, sao Thiên Tướng chiếu mệnh nên người này có số giàu sang, công danh sự nghiệp phát triển tốt đẹp. Tuy nhiên, cần đề phòng kẻ tiểu nhân quấy phá, ảnh hưởng đến tiền đồ.   Giờ Tuất (19h – 21)    Tỵ Hỏa sinh Tuất Thổ nhưng có sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên người tuổi Tỵ sinh giờ Tuất có số đi xa, được quý nhân giúp đỡ, gặp hung hóa cát. Nhưng đôi khi bị phá tài và mắc bệnh nhẹ.    Giờ Hợi (21h – 23h)   Hợi Thủy khắc chế Tỵ Hỏa, cộng thêm sao Dịch Mã chiếu mệnh nên số phải bôn ba khắp nơi, lăn lộn xứ người để mưu sinh lập nghiệp.    Kết luận: Giờ sinh phú quý của người tuổi Tỵ là giờ Thìn và Dần   Anh Khánh (Theo XZ)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tỵ

Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn, tu vi Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn

Bạn sinh tháng mấy? Mỗi tháng sinh sẽ hé lộ nhiều điều ẩn chứa bên trong con người bạn cả về tính cách lẫn thái độ sống…

Sinh tháng 1: Công việc tích cực, yêu thương gia đình

Trong công việc, bạn có tinh thần cầu tiến và chăm chỉ. Làm việc khôn khéo, có năng lực, suy nghĩ chu đáo, bạn thường được cấp trên khen ngợi. Bên cạnh đó, bạn cũng thích phê bình người khác, mối quan hệ với đồng nghiệp không suôn sẻ cho lắm. Bạn yêu gia đình, quý trẻ con, đối với tình yêu rất chân thành nhưng lại không biết cách bày tỏ.

Sinh tháng 2: Có lý tưởng, giỏi bày tỏ nội tâm

Bạn có tư chất thông minh,  xem boi ngay sinh khả năng thích ứng nhanh, làm việc có mục tiêu, có ước mơ nhưng tự tin không đủ, dễ gây trở ngại cho sự phát triển của bạn. Đối với gia đình, bạn trung thực và đáng tin cậy. Trong tình yêu, bạn nhạy cảm và dễ bị tổn thương, may mắn là bạn biết cách bày tỏ nội tâm của mình nên đối phương cũng phần nào hiểu rõ về bạn.

Sinh tháng 3: Cảm xúc tình cảm mãnh liệt

Trong công việc, bạn là một nhân viên chăm chỉ và đáng tin cậy. Đối với bạn bè, bạn thích giúp đỡ họ, vì thế trong lớp ai cũng yêu mến bạn. Trong gia đình, bạn giỏi quan sát và đáp ứng nhu cầu của mọi người và thường trao sự hỗ trợ đúng lúc.

Tình cảm rất mãnh liệt nhưng bạn thường che đậy để đối phương tự suy đoán, nên cảm xúc dễ thay đổi.

Sinh tháng 4: Quyết đoán mạnh mẽ, có chủ kiến

Có chủ kiến, khả năng quyết đoán mạnh mẽ chính là ưu điểm nổi trội của bạn trong công việc. Bạn dễ kích động, nhưng có thể vì mọi người mà giải quyết nhiều rắc rối. Bạn chăm sóc người thân và người yêu rất chu đáo. Trong tình yêu, bạn dễ ghen tỵ và có tâm lý báo thù lớn, điều này khiến bạn cảm thấy khổ sở và người yêu cảm thấy bối rối.

Sinh tháng 5: Tính cách cố chấp, thích phân tích

Niềm tin và động lực của bạn rất mạnh mẽ, bạn giỏi phân tích nên đạt nhiều thành công hơn là thất bại. Nhưng bạn cố chấp, không chịu nghe lời người khác nói. Bạn thấu hiểu lòng người, đối với người thân và người yêu thường bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc, mang lại cho họ sự ủng hộ lớn nhất.

Sinh tháng 6: Che đậy bản thân, khó yêu

 Bạn có tầm nhìn xa trông rộng và nhiều ý tưởng, nhưng trong thời gian ngắn, bạn khó hoàn thành công việc, điều này khiến cấp trên thường đau đầu vì bạn. Bạn ít khi bày tỏ cảm xúc trước mặt người thân, đối với tình yêu, bạn thường “kén cá chọn canh”, không dễ yêu. Vẻ ngoài của bạn tuy bình tĩnh nhưng nội tâm lại dễ tổn thương, một khi thất bại, bạn cần thời gian dài để hồi phục.

Sinh tháng 7: Say mê công việc, có lòng khoan dung

Bạn có óc quan sát, đối với công việc rất chăm chỉ, có kỹ năng làm việc và ứng xử trong các mối quan hệ. Nhưng bạn không dễ được người khác thấu hiểu vì dễ căng thẳng. Trong tình yêu, bạn rất độ lượng, có lòng bao dung với người yêu. Bạn khát vọng được yêu thương nên không ít lần khiến người yêu cảm thấy áp lực.

Sinh tháng 8: Tự tin, hành động theo cảm tính

Bạn tự tin và có năng lực lãnh đạo.Trong gia đình, bạn rất tự lập, không cần người thân chăm sóc. Trong tình yêu, bạn muốn cả hai có không gian riêng tư, không thích suốt ngày bị quấn lấy nhau.

Điểm yếu của bạn là làm việc không cẩn thận, thiếu sự kiên nhẫn, thường hành động theo cảm tính khiến tình hình thêm phức tạp.

Sinh tháng 9: Bình tĩnh, đầu óc tỉnh táo

Sở trường của bạn là làm việc cẩn thận, tỉ mỉ, đầu óc tỉnh táo, tư duy thông suốt, nhưng lại thích trách móc sai lầm của người khác. Bạn thường lý trí giải quyết khó khăn cho gia đình nhưng lại ít khi bày tỏ cảm nhận của bản thân.

Đối với tình yêu, bạn hay bắt bẻ, vì mong muốn chọn một người tốt nhất để chăm sóc cho mình.

Sinh tháng 10: Yêu gia đình, có tinh thần trách nhiệm

Bạn làm việc rất quyết đoán, có chủ kiến nhưng lại cố chấp, không chịu tiếp thu ý kiến của người khác. Nói cách khác, bạn thường nghĩ cách bày tỏ quan điểm của mình nên tạo cho người đối diện cảm giác bạn bướng bỉnh. Đối với người thân, bạn có lòng yêu thương và nhẫn nại; đối với người yêu, bạn rất coi trọng, dễ cảm động và dễ hài lòng, bản tính chiếm hữu không cao.

Sinh tháng 11: Nguyện trả giá vì tình yêu

Bạn thông minh, có cách nhìn mới lạ, làm việc cẩn thận và tỉ mỉ, tốc độ tiến về phía trước thường nhanh hơn so với người khác. Tuy bạn rất tự lập, nhưng đối với việc trong gia đình thì không hề thoái thác trách nhiệm. Đối với tình yêu, bạn thiếu sự tin tưởng nhưng rất nhanh chìm đắm và nguyện trả giá vì tình yêu. Bạn không dễ kiểm soát tình cảm của chính mình.

Sinh tháng 12: Dẻo miệng, giỏi giao tiếp

Bạn có kỹ năng nói chuyện và ứng xử trong các mối quan hệ, sách lược của bạn thường có khuynh hướng ảnh hưởng đến cả một tập thể. Đối với người thân và người yêu, bạn có sự tận tâm hết mình khiến họ hoàn toàn tin cậy và bạn cũng mong muốn nhận được sự quan tâm tương tự từ họ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tháng sinh nói nên gì về con người bạn - Xem bói - Xem Tử Vi

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Phong thủy phòng khách cho ngày Tết

Theo phong thuỷ, vị trí vượng khí của ngôi nhà nằm ở phòng khách, tập trung nhiều tại vị trí góc đối chéo cửa chính. Để tăng thêm vận khí, nên đặt cây cảnh để hỗ trợ cho vận thế của ngôi nhà, đặc biệt vào dịp Tết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong bố cục ngôi nhà, phòng khách có vị trí quan trọng nhất. Phòng khách cũng là không gian đáng quan tâm nhất trong những ngày lễ Tết. Khi bố trí bàn ghế trong căn phòng này, ngoài yếu tố hình dáng hay kích thước, bạn còn phải chú ý đến những yếu tố phong thủy.

khacht-630741-1388974716.jpg
Không nên treo hình thú dữ, trưng bày binh khí (gươm đao) trong phòng khách, nhất là dịp Tết. Ảnh: A Cộng

Cần lưu ý ghế trong phòng không nên bố trí quay lưng ra hướng cửa chính, mà ngược lại, nên đặt vị trí người ngồi hướng ra cửa để khách đến nhà cảm nhận được sự chào đón. Người ngồi ở vị trí này còn không bị giật mình khi có người đột ngột bước vào nhà. Phòng khách nhất thiết phải tạo không khí thân mật, hoà thuận và đoàn kết. Hình tròn trong phong thuỷ tượng trưng cho sự hài hoà, thống nhất, cho nên khi trang trí bằng các vật dụng có kiểu dáng hình tròn sẽ có tác dụng hỗ trợ thêm hòa khí. Nếu bàn ghế không "tròn", hãy cố gắng làm mềm những góc nhọn bằng cách trải khăn hay đặt chậu cây cảnh xung quanh...

Nên chọn ghế ngồi có chỗ dựa lưng hoặc dạng ghế bành êm ái. Những kiểu ghế này mang lại tính che chở, nâng đỡ cho người ngồi. Tránh kê bàn ghế quá gần nhau để luồng khí có thể lưu thông dễ dàng. Nên chọn bàn ghế có màu sắc tươi sáng, mang lại cảm giác dồi dào sinh khí cho năm mới.

Không nên treo hình thú dữ, trưng bày binh khí (gươm đao) trong phòng khách, nhất là dịp Tết. Tranh để treo trong phòng khách tốt nhất là các bức hoạ sơn thuỷ, hoa cỏ xanh tươi, hạc, phượng hoàng... là những biểu tượng cho sự cát tường, thịnh vượng. Nếu trưng bình binh khí trong phòng khách sẽ khiến ngôi nhà mang nặng sát khí. Nếu gia chủ muốn treo hình của cọp beo, chim ưng... để bảo vệ gia trạch thì phải chú ý hướng đầu của chúng ra phía cửa. Không để đầu của chúng quay vào trong để đề phòng chúng quay lại uy hiếp chính người nhà của mình.

Trần của phòng khách nên có màu nhạt vì theo phong thuỷ trần nhà phòng khách tượng trưng cho trời, nền nhà tượng trưng cho đất. Màu sắc của trần nên nhạt còn nền nhà lại có màu sắc đậm hơn để phù hợp với ý nghĩa "trời nhẹ, đất nặng". Màu sắc trong phòng khách mang ý nghĩa chủ đạo, có tác dụng điều hoà tất cả màu sắc trong ngôi nhà. Màu sắc của phòng khách phải phù hợp với phương hướng của phòng. Màu sơn vách tường trong phòng khách phải khéo léo hết hợp được với ánh sáng đèn làm phòng khách trở nên sáng sủa mới có thể đem lại thịnh vượng may mắn cho gia đình.

Bố cục của phòng khách với cửa phòng nhìn về hướng đông là lý tưởng nhất. Những vật gia dụng to lớn nặng nề đặt ở phía nam, khoảng trống ở phía tây là hợp lý nhất.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng khách cho ngày Tết

Thấy cha mẹ xuất hiện trong giấc mơ là điềm báo gì?

Mơ thấy cha mẹ rời xa mình, thực tế giấc mơ này không đáng buồn như bạn nghĩ, nó ngụ ý bạn sẽ gặp nhiều may mắn trong tình yêu.
Thấy cha mẹ xuất hiện trong giấc mơ là điềm báo gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mơ thấy cha mẹ rời xa mình, bạn giật mình tỉnh giấc và khóc nức nở, thế nhưng giấc mơ này không đáng buồn như bạn nghĩ, nó ngụ ý bạn sẽ gặp nhiều may mắn trong tình yêu.


giai ma giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
 
  Mơ thấy rời xa cha mẹ mà trở thành trẻ mồ côi ngụ ý mặt tình yêu sẽ có nhiều vận may tốt đẹp. Nếu bạn đã có người trong mộng thì đừng trì hoãn hãy nhanh chóng tấn công, bạn sẽ không bị từ chối nữa đâu.

 
Giải mã giấc mơ thấy mình biến thành trẻ con tương phùng với cha mẹ ngụ ý việc may mắn sắp xảy ra. Bạn có thể thử hưởng thụ cảm giác nhàn nhã như uống cafe, xem phim hay mua xổ số.

 
Mơ thấy bị cha mẹ la mắng một trận là mặt sức khoẻ có điềm không lành, trong đó cần chú ý những sự cố bất ngờ, lúc lên xuống xe hay đi qua đường thì cần chú ý.

 
Mơ thấy cha mẹ ly hôn ngụ ý chuyện tình cảm bạn bè không được như ý, bạn vô ý mà nói lời tổn thương gây hiểu nhầm với chúng bạn. Nếu bạn không giải quyết thì bạn bè sẽ xa lánh bạn ngay đó.

 
Mơ thấy được mẹ yêu chiều ngụ ý chuyện tình cảm gặp điềm tốt đẹp. Nơi hẹn hò tốt nhất nên chọn những địa điểm yên tĩnh như thư viện, bảo tàng hay công viên trong ánh hoàng hôn.

 
Mơ thấy cha mẹ nói cười vui vẻ ngụ ý trong nhà sắp có gió bão. Bạn sắp có tình cảm chán ghét cha mẹ, sẽ bỏ nhà ra đi. Bạn vẫn chưa trưởng thành, không nên vì chút tức giận bồng bột mà hối hận cả cuộc đời.

giai ma giac mo hinh anh 2
Ảnh minh họa
Mơ thấy sắc mặt mẹ mình rất đáng sợ và còn đuổi theo mình hoặc nắm cổ mình ngụ ý bạn có cảm giác tội lỗi với mẹ bạn, có thể cảm giác về đạo đức, cảm giác giày vò nếu được hãy thành thật với mẹ những việc sai lầm và sửa chữa nó.

 
Mơ thấy mẹ mình thành cô dâu mặc váy cưới và tổ chức hôn lễ ngụ ý mẹ bạn sắp đối diện với nguy hiểm, có thể là bệnh nặng hoặc tử vong.

 
Mơ thấy mình nghe thấy mẹ gọi ngụ ý bạn là một đứa con vô trách nhiệm, và con đường sự nghiệp bạn đang theo đuổi không hề chính đáng.

 
Mơ thấy được mẹ quan tâm chăm sóc ngụ ý mặt tình yêu sẽ có tiến triển.

 
Mơ thấy mình cảm giác được sự bất an của mẹ ngụ ý nhắc nhở bạn sắp đối diện với nguy hiểm, có thể tiền đồ không có tương lai.
 
Mơ thấy mẹ khóc có thể không phải là chuyện xấu, ngụ ý bạn đang bước đi độc lập hoặc rơi vào lưới tình.

 
Mơ thấy mẹ đang ôm mình trong lòng ngụ ý chuyện đau khổ sắp qua đi, bạn sắp thoát khỏi khó khăn gia đình hạnh phúc, cuộc sống an định.

 
Người trưởng thành mơ thấy mẹ của mình ngụ ý học tập và công việc thuộc trạng thái hài hoà, có cảm giác hạnh phúc.

 
Nam đã kết hôn mơ thấy có một người con gái đang đi bộ với mẹ ngụ ý bạn đang mong mỏi chuyện ngoại tình.

 
Người già mơ thấy người mẹ đã đi xa ngụ ý sức khoẻ chuyển xấu, biểu hiện người mơ giấc mơ này có tâm lý phòng ngự và khống chế đang đi xuống.

giai ma giac mo hinh anh 3
Ảnh minh họa
Mơ thấy cha có bệnh cần chú ý tới sức khoẻ của bản thân và vợ.

 
Mơ thấy người cha đã qua đời sắp thoát khỏi khó khăn.

 
Mơ thấy cha mình đi xa ngụ ý bạn đang chìm đắm trong một cuộc sống dễ dãi và cha mẹ sẽ gặp khó khăn.

 
Mơ thấy mình được đi du lịch với cha mẹ là điềm báo gia tộc có khó khăn, rơi vào tình trạng phá sản.

 
Mơ thấy mình làm bố dự báo sự nghiệp sẽ thành công.

 
Mơ thấy mình cãi nhau với bố phản ánh tâm lý phản kháng mạnh mẽ của bạn đang tiềm tàng và bạn có chút bất mãn với những trói buộc về đạo đức hiện thời.

 
Mơ thấy mình bị bố mắng nhắc nhở bạn đề phòng những sự cố bất ngờ, có thể là bệnh tật, thương vong… 
 
Mơ thấy cha hoặc mẹ mắc bệnh hoặc qua đời ám chỉ sắp gặp khó khăn về sự nghiệp hoặc địa vị.

 
Mơ thấy cha mẹ đi du lịch, ra khỏi nhà hoặc vẫy tay với người nhà phải để ý sức khoẻ của cha mẹ, điềm báo về những biến cố lớn trong cuộc sống.

 
Mơ thấy người cha đã mất dắt một con bò đi vào núi sâu, hoặc bị mất tích nơi xa ngụ ý cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn.

 
Mơ thấy người cha đã mất cười với mình ngụ ý bạn gặp điềm tốt.

 
Mơ thấy người cha đã mất đi trên đường hoặc bản thân bị họ đem đi ngụ ý những biến cố liên quan tới sinh mệnh, có những biến cố đột nhiên xảy ra hoặc bệnh tật tạo thành tổn thất về tài sản.

 
Nữ chưa kết hôn mơ thấy cha mẹ và cảm thấy rất gần gũi với cha là bạn sắp được gặp một chàng trai mà mình thích, nhưng nếu như trong giấc mơ khiến bạn cảm thấy nguy hiểm.

 
Nữ mơ thấy người cha đã mất thì nên cẩn thận, bạn trai hiện tại đang muốn lừa bạn.
 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thấy cha mẹ xuất hiện trong giấc mơ là điềm báo gì?

Mệnh chủ - Thân chủ

Một tìm tòi, khám phá về Mệnh chủ và Thân chủ ở giữa thiên bàn của tác giả Ma Y Cung. Mời các bạn cùng đọc.
Mệnh chủ - Thân chủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ tài liệu quyển thượng Số Tử vi kinh nghiệm của Quản Xuân Thịnh

1- Thân chủ

  • Tuổi Tý - Thân chủ LINH TINH
  • Tuổi Ngọ - Thân chủ HỎA TINH
  • Tuổi Sửu - Mùi Thân chủ THIÊN TƯỚNG
  • Tuổi Dần - Thân Thân chủ THIÊN LƯƠNG
  • Tuổi Mão - Dậu Thân chủ THIÊN ĐỒNG
  • Tuổi Tỵ - Hợi Thân chủ THIÊN CƠ
  • Tuổi Thìn - Tuất Thân chủ VĂN XƯƠNG

2- Mệnh chủ

  • Tuổi Tý Mệnh chủ THAM LANG
  • Tuổi Sửu - Hợi Mệnh chủ CỰ MÔN
  • Tuổi Dần - Tuất Mệnh chủ LỘC TỒN
  • Tuổi Mão - Dậu Mệnh chủ VĂN KHÚC
  • Tuổi Tỵ - Mùi Mệnh chủ VŨ KHÚC
  • Tuổi Thìn - Thân Mệnh chủ LIÊM TRINH
  • Tuổi Ngọ - Mệnh chủ PHÁ QUÂN

Ví dụ: Người tuổi Hợi, mệnh chủ CỰ MÔN và Thân chủ THIÊN CƠ. Tìm sao CỰ MÔN và THIÊN CƠ đóng đâu, biên chữ Mệnh chủ và Thân chủ vào (ngày nay, các nhà Tử vi thường ghi vào giữa cung trung tâm của lá số đê dễ theo dõi). Hai sao này can hệ ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc đời mình

Và ở 1 bài viết khác trên mạng, ngoài phần chỉ cách an, họ có nói ý nghĩa trong việc luận giải.

  1. Mệnh / Thân chủ tinh nhập Mệnh / Thân cung: 
Là cách Long quy đại hải bên trên.
  2. Nhập BÀO CUNG: 
Thường là được Anh em trợ lực, nếu Cát (có Cát tinh / Cách cục tốt) = Anh em hòa thuận, giúp nhau. Hung = Bất hòa, thiếu trợ giúp.
  3. Nhập NÔ:
 Nô bộc thường là Cung thấp kém, dù có Cát tinh, mỹ Cách cũng lao tâm phí lực
  4. Nhập DI: 
Di chuyển, biến động thường xuyên. Cát = Tăng lợi, Hung = giảm lợi.
  5. Nhập ĐIỀN:
 Là Tài khố, cho nên Cát = Tăng gia sự tích tập của Tài sản, Hung = Giảm thiểu, mất mát, ưu lo về Tài sản.
  6. Nhập TỬ: 
Cát = Tăng điều Tốt, Con cháu hiếu thuận, hưng vượng, có thể nhờ vã con cháu khi lớn tuổi. 
Hung = Giảm Hung.
  7. Nhập PHỐI: Phu xướng phụ tùy, vợ chồng hòa hảo. 
Cát = Tăng Cát. Hung = giảm Hung.
  8. Nhập ÁCH: 
Hung = Tật bệnh. Cát = Hoàn cảnh làm việc và thể lực tốt, thiếu niên có thể phát Tài lộc.
  9. Nhập TÀI:
 Cát = có cơ hội / khả năng kiếm tiền và dễ phát Tài. 
Hung = giảm Hung, khó có cơ hội kiếm tiền, thu nhập không cao …
  10. Nhập QUAN:
 Cũng tựa như nhập Tài cung, dễ có cơ hội Thăng quan tiến chức, có Tài năng, có thể dựa vào sự nghiệp để phát triển. Hung = giảm Hung, công danh thấp kém, khó thành công hoặc muốn thành công phải trầy trật.
  11. Nhập PHÚC:
 Mệnh chủ nhập Phúc = về phương diện tinh thần, cuộc sống khá thoải mái, hạnh phúc.
 Thân chủ nhập Phúc = Hưởng phước, an nhàn, lười lao động hoặc ít dịp được lao động. Nếu Cát = Nhập Quý cách.
  12. Nhập PHỤ:
 Mệnh chủ nhập Phụ = Lúc nhỏ được Cha / Mẹ chăm sóc, ưu ái một cách đặc biệt.
 Thân chủ nhập Phụ: Khi lớn vẫn tiếp tục được Cha Mẹ chăm sóc, có khả năng chung sống với Cha Mẹ sau khi lập gia đình … Hoặc thường lo lắng, chăm sóc cho Cha Mẹ

Khi Thân / Mệnh chủ đồng cư một Cung thì coi như Tâm hồn (tinh thần) và thể lực của mình đều đặt trọng tâm vào Cung đó, Cung này biến thành Cung có thể nói là tối quan trọng trong việc truy cầu suốt đời mình (có truy cầu được hay không là chuyện khác, là do Cát Hung của Cung này ra sao và Thân / Mệnh chủ có ngộ Sát tinh, Không – Kiếp … Không vong … gì hay không).

Nếu cung đó là Mệnh / Thân cung thì lúc này Thân / Mệnh chủ có thể trực tiếp đứng ra quản trị lá số (Trên quyền lực của cả Chính tinh), nhưng điều này chỉ là lý thuyết, chưa được kiểm chứng rộng rãi.

Đối với Chính tinh Thì kết hợp với TC/ MC để xét đoán về Tư tưởng / Hình dáng / Tính tình..

Đối với TRUNG/ TIỂU TINH thì xét đoán theo Tổ hợp (Bộ sao / Công thức).

Ví dụ: Mệnh cư Tý có Riêu – Kỵ hợp chiếu, MC là Cự môn (Mệnh cung không có Chính tinh là Cự môn), thì thưở nhỏ có lần (hoặc 2,3 lần) bị té sông, té biển gần chết. Vì đã vô tình hình thành cách Riêu Cự Kỵ = bị Thủy nạn, nếu hội tại cung Sửu thì có thể té xuống chỗ nước có bùn, đá, hay ao hồ hoang vu (Sửu cung = vu đàm, chỗ đất bùn, lầy lội).

3- Mệnh cung thiên can

MỆNH CUNG có Địa chi và Thiên Can, xưa nay chúng ta thường sử dụng Địa chi để luận đoán mà nhiều khi quên mất Tính cách của Thiên can. Nay xin phụ bổ một ít Tính chất của Thiên Can của Mệnh cung (MC).

Như vậy, chỉ cần biết MC Thiên can của một người là ta có thể đoán sơ được vài cá tình căn bản của họ mà chưa cần phải nhìn vào lá số.

Làm thế nào để biết Mệnh cung Thiên can là gì?

Dùng Lịch của Năm sinh mà truy, ví dụ sinh năm 1980, Mệnh cung tại THÌN thì Mệnh Can (Mệnh cung Thiên Can) là CANH.

Can Chi của Mệnh cung như vậy là Canh Thìn, Canh Thìn có Nạp Âm là KIM, và Kim ở đây chính là CỤC số.

Nếu không thì dùng Ngủ Hồ độn:

  • GIÁP KỶ chi niên BÍNH tác đầu. (BÍNH là Thiên can Tháng Giêng)
  • ẤT CANH = MẬU (Mậu là Thiên can của Tháng Giêng, từ đó suy ra những tháng tiếp theo)
  • BÍNH TÂN = CANH
  • ĐINH NHÂM = NHÂM
  • MẬU QUÝ = GIÁP.

Mệnh Can còn có những đặc tính sau:

MỆNH CUNG là

  • GIÁP = Là người có cá tính độc lập, độc lai độc vãng, không thích ai bao che cho mình, giúp ai thì giúp nhưng cũng không muốn vướng bận.
  • ẤT = Thường được phái nữ chung quanh bao che và ủng hộ, nhưng vẫn thích tính cách độc lập, cuộc sống thường dễ chịu, có thể khắc Mẹ/ Vợ.
  • BÍNH = Đàn ông thường được Mẹ/ Vợ / Tình nhân / bạn bè nữ giới / nữ chủ nhân giúp đỡ.Nhưng dễ bị hiềm khích.
  • ĐINH = Có tính cách độc lập, dám làm dám chịu, không sộ hậu quả cũng như hậu hối.
  • MẬU = Giúp đỡ, che chở cho người thì nhiều, mà thọ lãnh sự giúp đỡ của người thì ít,hay nể/sợ đàn bà, cá tính ổn trọng thâm trầm, nhiều cao vọng.
  • KỶ = Cũng thường bao che người khác, người khác thường làm hao phí tiền bạc củamình.hoặc dễ bị lường quịt tiền bạc.
  • CANH = Thích tư thế độc lập, giúp người mà không mong người giúp.
  • TÂN = Thích thể diện, trọng tình cảm, có tâm hồn nghệ thuật.
  • NHÂM = Tính cách độc lập và tự phụ rất cao, nắm được Thiên thời nên dễ chiếm tiện nghi.
  • QUÝ = Dễ bị hao tổn, thích biến động, bỡi Quý là Can duy nhất không muốn dựa vào thế lực của Thiên / Địa / Nhân mà chỉ trông mong vào sư nổ lực của chính mình, cho nên ưa thích những ngành nghề tự do, khởi phục cao độ.

*** TAM TÀI phối với MC THIÊN CAN

Các Lý Thuyết về TAM TÀI lâu nay bị bưng bít, một vài Trưởng lão thủ đắc được chiêu Tam Tài cứ lâu lâu đem ra HÙ 1 tiếng làm bọn hậu bối giựt mình, chơi như vậy là không công bằng, nên hôm nay tui xin được công bố, vì thế Quý vị không nên xem thường Chiêu này, nếu không có chỗ dùng tại sao người ta lại dấu kỹ như vậy???

  • GIÁP ẤT BÍNH = Thiên.
  • ĐINH MẬU KỶ = Địa
  • CANH TÂN NHÂM = Nhân.

Thiên Địa Nhân

QUÝ là chỗ Vị trí không dựa vào thế lực của THIÊN / ĐỊA / NHÂN (TAM TÀI).

Ví dụ muốn biết GIÁP là gì, ta thấy theo chiều NGANG thì GIÁP = Thiên.

Từ chữ GIÁP nhìn theo chiều DỌC xuống dưới cùng ta thấy chữ Thiên.

Như vậy GIÁP = Thiên chi Thiên.

KỶ, theo chiều Ngang = Địa / theo chiều Dọc = Nhân.

Vậy:

  • KỶ = Địa chi Nhân.
  • THIÊN = Thiên thời
  • ĐỊA = Địa lợi
  • NHÂN = Nhân hòa

Cứ dựa theo ý của 3 chữ trên mà diễn đạt.

HÀNG NGANG LÀ CẤP SỐ.

HÀNG DỌC LÀ BẢN VỊ

* HÀNG DỌC = BẢN VI:

  1. GIÁP ĐINH CANH = THIÊN THỜI
  2. ẤT MẬU TÂN = ĐỊA LỢI
  3. BÍNH KỶ NHÂM = NHÂN HÒA

GIÁP ĐINH CANH nắm được THIÊN THỜI vì có BẢN VỊ là chữ THIÊN.

ẤT MẬU TÂN nắm được ĐỊA LỢI vì BẢN VỊ là chữ ĐỊA.

BÍNH KỶ NHÂM nắm được NHÂN HÒA vì BẢN VI là chữ NHÂN.

* HÀNG NGANG = CẤP SỐ.

Chữ THIÊN/ ĐỊA / NHÂN theo hàng NGANG có thể hiểu là THƯỢNG / TRUNG / HẠ, VÌĐỂ CHỈ CẤP SỐ.

*** ĐIỂM CHÍNH YẾU LÀ HÀNG DỌC / HÀNG NGANG CHỈ LÀ CẤP SỐ.

Như chữ ĐINH, Bản vị là THIÊN cho nên nắm được THIÊN THỜI, và có Cấp số là ĐỊA (TRUNG) Nên gọi là ĐỊA chi THIÊN = Có được Thiên thời, nhưng chỉ ở mức TRUNG ĐẲNG. Chưa phải là Cao nhất vì cao nhất là Thiên chi Thiên.

Như chữ TÂN = ĐỊA LỢI,

Nhưng Địa lợi ở CẤP ĐỘ nào thì xem HÀNG NGANG = NHÂN (HẠ ĐẲNG).

Ví dụ MC TC có NHÂM = Nhân,

Có nghĩa là người này nắm được, sở hữu được tính Nhân hòa, tức là được lòng người chung quanh (Bà con, hàng xóm.. tuy rằng ở Mức độ không cao vì chỉ cóCấp số là NHÂN (HẠ đẳng).

Nếu QUAN có chữ NHÂM = Được cấp trên đề bạt / đồng nghiệp giúp đỡ..v.v

TÀI có chữ NHÂM = Tiền bạc làm ra là nhờ yếu tố nhân sự, nhân hòa, chẳng hạn như mở Quán Phở, tài nghệ nấu nướng thì dưới trung bình,quán lại ở trong hẻm nhưng vẫn sống được vì cả xóm đa số đều ủng hộ.

Như vậy khi MC TC = NHÂM, tức đương sự nắm được yếu tồ Nhân hòa.

NHÂN chi THIÊN = Nắm được THIÊN THỜI, nhưng ở Mức THẤP NHẤT (chữ NHÂN).

TAM TÀI ỨNG DỤNG TRONG ĐẠI/ TIỂU HẠN:

Ví dụ:

LƯU ĐẠI HẠN QUAN có TC = ĐINH, Tức L.QUAN được hưởng Thiên thời, nhưng nếuTiểu Hạn là các năm NHÂM / QUÝ thì Thủy sẽ khắc Hỏa của ĐINH làm cho GIẢM /hoặc MẤT Thiên thời.

Như LƯU ĐẠI HẠN TÀI có TC = ẤT, tức L.TÀI hưởng được Địa lợi, nếu Tiểu hạn là năm TÂN, Kim khắc Mộc, làm giảm mất phần Địa lợi trong Cung Tài.

Cũng vậy, Tiểu Hạn tại Cung Dần có chữ BÍNH, tức được Nhân Hòa, nhưng nếu đó là năm 1992 = Nhâm Thân, thì Nhâm sẽ khắc Bính làm mất đi lợi thế Nhân hòa. (Phải an Thiên Can theo Năm sinh, bắt đầu từ Cung Dần chạy Thuận vòng cho đến cung Sửu)

Ngược lại, những năm nào SINH cho Tam Tài thì Tốt, cứ theo lý Ngũ Hành sinh khắc mà suy.

NGUỒN GỐC CỦA TAM TÀI

  • THIÊN Khai tại TÝ
  • ĐỊA Khai tại SỬU
  • NHÂN Khai tại DẦN

Tý Sửu Dần 3 Cung là nơi khai thủy của Tam Tài, Tử vi là môn nghiên cứu về Nhân sự, mà Dần là cung khởi thủy của Nhân, do đó lấy Dần làm Chính cung để định Thân/ Mệnh.

CHỖ SỞ CƯ CỦA TAM TÀI

  • THIÊN cư tại TÝ NGỌ MÃO DẬU = ứng với Thượng Hào.
  • NHÂN cư tại DẦN THÂN TỴ HỢI = Ứng với Trung Hào.
  • ĐỊA cư tại THÌN TUẤT SỬU MÙI = Ứng với Hạ Hào

Do vậy, cứ theo Đia chi mà nói thì nói thì cứ mỗi TAM HỢP đều có đủ Tam Tài.

ỨNG DỤNG CỦA TAM TÀI

MC Tam Tài dùng xem xét số phận 1 người được hưởng Thiên thời / Địa lợi /Nhân hòa như thế nào, cao thấp ra sao, nhằm giúp quyết đoán Cách cục của 1lá số.

Tại Vận trình (Đại / Tiểu Hạn) Tam Tài dùng để xem xét Thời Thế như thế nào, có nên lộ mặt ra (làm ăn, hoạt động..) hay không hay nên ẩn nhẫn, nên làm gì trong Đại/ Tiểu Hạn này, mức độ thành công cao thấp như thế nào.v.v

Tác giả: Ma Y Cung
Nguồn: tuvilyso.net


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh chủ - Thân chủ

Lễ hội tiêu biểu ngày mùng 4 tháng2 - Hội Chùa Nành

Hội Chùa Nành được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch tại làng Nành (tên chữ là Phù Ninh), xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội tiêu biểu ngày mùng 4 tháng2 - Hội Chùa Nành

Lễ hội tiêu biểu ngày mùng 4 tháng2 - Hội Chùa Nành

Hội Chùa Nành

Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: làng Nành (tên chữ là Phù Ninh), xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Phật Mẫu Man Nương, Pháp Vân (Bà Nành), đức phật Thích Ca, đức Trần Hưng Đạo.

Nội dung: Lễ hội chùa Nành gồm có lễ Tế, rước kiệu bà Nành ra Thạch Bàn (bãi cây vông). Lễ kéo ngựa, rước hương, rước hoa từ nhà tổ lên Chùa. Trong lễ hội còn diễn ra nhiều trò chơi dan gian vô cùng đặc sắc như: đấu vật, cờ người, thi nấu cơm, thi hát, chọi gà, bơi thuyền, rối nước. Tuy nhiên, độc đáo nhất vẫn là trò nâng cây phan. Cây phan là một bó khoảng 60 cây tre để bó nguyên cả thân và ngọn. Mọi người luôn tin rằng, nghệ thuật nâng cây phan thể hiện cuộc sống ấm no của cả dân làng. Các trò chơi trong hội đều nhằm ý nghĩa thể hiện sự cầu mưa, cầu nước, cầu phần thực của cả dân với nền nông nghiệp lúa nước ở đồng bằng sông Hồng. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội tiêu biểu ngày mùng 4 tháng2 - Hội Chùa Nành

Cách xem mệnh nữ theo tứ trụ

Học thuyết âm dương trong triết học Trung Quốc cho rằng đàn bà thụ khí âm nhu của trời đất, đàn ông thụ khí dương cương của trời đất, cho nên nói đàn bà thuộc âm, đàn ông thuộc dương, âm và dương là hai mặt đối lập trong một thể thống nhất. Tư tưởng này phản ánh trong mệnh lý là, nam nữ không những hoàn toàn trái ngược nhau trong khỏi vận số tuổi và sắp xếp đại vận mà nó còn có những chỗ khác nhau rất rõ rệt.
Cách xem mệnh nữ theo tứ trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những chương tiết phía trên của cuốn sách này, chúng ta đã biết, bát tự của nam giới lấy chính tài ta khắc hoặc thiên tài là vợ, nhưng chồng trong bát tứ của vợ, lại phải triệt để ngược lại, lấy quan (chính quan) sát (thiên quan) khắc ta là chồng. Cũng vậy, khi xem cho con cái, nam mệnh lấy thiên quan (thất sát) khắc ta là con trai, Chính quan là nữ, còn nữ mệnh thì lấy thực thần ta sinh là con trai, thương quan là con gái.

Do trong xã hội phong kiến, đàn bà mọi việc đều phải dựa vào chồng “chồng lợi thì vợ cũng lợi, chồng khổ thì vợ cũng khổ”, cho nên mệnh cho nữ xấu hay tốt, trước hết phải xem vị trí quan sát của chồng thịnh hay suy để định sang hèn. Tiếp đến phải xem sao của con, vì rằng nuôi con để dựa lúc về già, bởi vì người đàn bà bản thân không có thu nhập, do đó cuối đời vinh hay nhục, toàn dựa vào sao của con xấu hay tốt.

Trong tình hình chung, quan, sát, tài đắc địa, có lợi cho chồng, thực thần đắc địa, có lợi cho con. Chồng có lợi thì xuất thân giàu sang, cả đời hưởng phúc. Con có lợi thì cuối đời được nuôi dưỡng tốt. Do thực thần có thể sinh tài, lại có thể sinh quan. Ví dụ có người chồng can ngày bát tự Ất Mộc sinh ra là Đinh Hoả, sau đó lại do thực thần Đinh Hoả sinh Thổ, Mộc có thể khắc Thổ, cho nên Thổ là tài của Ất Mộc. Tiếp đó lại do Thổ sinh Kim, Kim là quan khắc Ất Mộc. Vì duyên cớ ấy cho nên nữ mệnh phần lớn lấy thực thần, tài, quan làm dụng thần của bát tự. Nếu như quan, sát, tài, thực trong bát tự sinh ra không đắc địa, lại không sinh vượng hoặc là khuyết hàm, khi hành vận lại không bổ sung được, thê thì suôt đời khốn khổ, chẳng nói làm gì.

Lễ giáo phong kiến lại tôn sùng phụ nữ trinh tiết, trưóc sau như một, cho nên trong bát tự nếu thấy quan thì không được sát, nếu thấy sát thì không được thấy quan, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ cần không có sát lẫn vào trong đó, hoặc trong tứ trụ thuần là sát, không có quan tinh lẫn vào, thì đều có thể gọi là con gái nhà lành.

Trong Tam mệnh thông hội của Dục Ngô Sơn nhân đòi Minh soạn, có nói rất kỹ về bát pháp, bát cách của nữ mệnh, xin dẫn giải như sau;

I. Bát pháp

1. Thuần: gọi là thuần có nghĩa là thuần nhất. Ví như quan tinh thuần nhất, sát tinh thuần nhất, có tài (tài có thể sinh quan) có ấn (ấn thụ hộ thân), lại không gặp hình xung như vậy là thuần. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh dưới đây.

Năm Quý Tỵ Tháng Mậu Ngọ

Ngày Tân Dậu Giờ Bính Thân

Tân Dậu trong bát tự là bản thân, mà Dậu với Tân mà nói, do ư chính ở lộc địa của lâm quan, cho nên bản thân sinh vượng. Ngưòi xưa nói: vượng không theo hoá theo Lý thì thiên can hợp cục, Bính Tân cần phải hoá Thuỷ, bây giờ bản thân duyên lộc, cũng phải hoá mà không hoá. Ở đây sao chồng Tân Kim là chính quan Bính Hoả khắc ta, liên hệ với mệnh này sinh vào tháng Mậu Ngọ đúng vào thời hoà vượng của tháng 5 nông lịch, cho nên sao chồng kiện vượng. Lại liên hệ với can năm Quý Thuỷ, rất khéo hình thành mỗi quan hệ chính quan vói Bính Hoả sao chồng. Trong dụng thần, chính quan là một cát tinh, cho nên rất có lợi cho chồng. Nếu lại liên hệ với can tháng Mậu Thổ lại là cát thần thực thần của sao chồng Bính Hoả, và Bính Hoả cũng Mậu Thổ cùng quy lộc (Lâm quan) đên địa chi Tỵ của trụ năm, có thể nói là khó có được.

Sau khi xem sao chồng lại đến sao con. Tân Kim sinh Nhâm Thuỷ là con, mà thân trong cung con ở chi giờ lại khéo hàm chứa Nhâm Thuỷ mà mối quan hệ của Nhâm Thuỷ với Thân trong 12 cung lại đúng ở vào đất trưòng sinh vạn vật hướng sinh. Hơn nữa thiên can Quý Mậu hợp hoà, Bính Tân hợp Thuỷ, Thuỷ Hoả có tượng ky tế, địa chi Tỵ, Ngọ, Dậu, Thân, Canh Kim trong kỷ, Canh Kim trong than, Tan Kim trong Dậu đều là tài khcí của Bính Hoả sao chồng và Đinh Hoả trong chi tháng Ngọ, cho nên tự nhiên lấy chồng được làm quan mà ăn lộc trời, thuộc về mệnh chồng vinh con sang.

2. Hoà: gọi là Hoà có nghĩa là điềm tĩnh. Ví như trong bát tự bản thân nhu nhược, chỉ có một ngôi sao chồng khắc ta mà tứ chi lại không có thần công phá xung kích, nó liễm được khí trung hoà nên “Hoà” vậy. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh.

Năm Nhâm Thìn Tháng Tân Hợi

Ngày Kỷ Mão Giờ Kỷ Tỵ

Thiên can Kỷ Thổ của trụ ngày trong mệnh là bản thân, Giáp Mộc trong trụ thang hội là sao chồng. Hợi đối với Giáp Mộc mà nói, ở chỗ đất trường sinh vạn vật hưởng vinh. Những điều nói trên gọi là chồng được quan tinh, con đường trường sinh, cho nên chồng vượng, con lợi, còn như Ất Mộc trong chi ngày Mão, tuy là thất sát của bản thân Kỷ Thổ nhưng có Canh Kim trong chi giờ tỵ chế ước, cho nên “lấy sát lưu quan”, là quý tượng trong nữ mệnh.

3. Thanh: gọi la “thanh” có nghĩa là thanh khiết. Trong nữ mệnh, hoặc chỉ có một quan, hoặc chỉ có một sao chồng đắc thời, trong trụ có tài có quan, có ấn trợ thân, không có khí hỗn đục, mới có thể đắc thanh quý. Lấy một ví dụ nữ mệnh như thế này:

Năm Kỷ Mùi Tháng Nhâm Thân

Ngày Ất Mùi Giờ Giáp Thân

Trụ ngày bản thân Ất Mộc, lấy chi ngày chi giờ trong đó thân chinh Canh Kim làm sao của chồng. Thân với Canh mà nói, ở vào lộc địa của lâm quan, cho nên sao chồng đắc thời mà Ất Mộc lấy thực thần Đinh Hoả ta sinh làm sao con, mà trong chi ngày Mùi bản thân lại hàm chứa Đinh Hoả, mà Mùi với Đinh mà nói lại cũng ở vào Vượng địa của lâm quan, cho nên sao con đắc địa. Ất Mộc lấy Nhâm Thuỷ làm chính ấn, mà trị tháng Nhâm Thuỷ lại toạ ở Trung Kim, nguồn thuỷ không thiếu, hơn nữa kỷ Thổ trong chi ngày Mùi lại là thiên

tài do Ất Mộc đưa đến. Như vậy tài vượng sinh quan, tứ trụ lại không có hình xung phá hại.

Thơ rằng:

Tài cung ấn thụ tam ban vật

Nữ mệnh phùng chi tất vượng phu

Cho nên người đàn bà có mệnh là phu nhân, được hai nước phong chức.

4. Quý : gọi là “Quý” là danh hiệu tôn vinh. Trong mệnh có quan tinh và được tài khí trợ sinh, trong tứ chi lại không có hình cung phá bại, đó gọi là nghiêu vũ trong nữ mệnh quý vậy. Sách nói: mệnh mà nhân không sát (thiên quan), quý được làm phu nhân. Lại nói: “nữ mệnh vô sát phùng nhị đức, khả nhị quốc chi phong”. Gọi là Nhị Đức, không chỉ riêng Thiên Đức, Nguyệt Đức, với nữ mệnh mà nói, tài cũng là Đức, quan cũng là Đức nếu lại có ấn thụ, thực thần, như vậy càng thêm tôn quý. Nêu một nữ mệnh dưới đây.

Năm Ất Dậu Tháng Bính Tuất

Ngày Quý Mão Giờ Quý Tỵ

Thiên can trụ ngày Tân Kim, không chỉ lấy can năm Ất Mộc ta khắc làm thiên tài, trước tiên được một đức và lấy Bính Hoả của Canh Kim khắc ta trong can tháng làm quan nhân, mà quan nhân này lại toạ ở một khố tàng vạn vật và Tỵ trong chỉ giờ lại kéo tháng đến làm lộc địa của lâm quan, cho nên lại được thêm một đức. Ngoài hai đức ra, can giờ Quý Thuỷ quý là quan của Bính Hoả chồng. Bản thân Tâm Kim sinh ra Quý Thuỷ là con, mà Thuỷ của con lại toạ ở Tỵ lâm quan, có thể nói “phu lộc đồng vị” hơn nữa can giờ Quý lai gặp chi ngày Mão, được gọi là Thiên Ất quý nhân. Như vậy vừa là quý nhân, lại là tài quan song mỹ, cho nên chồng và con đều phát, cả hai được phong.

5. Trọc: gọi là “trọc” tức là đục mà không trong. Bát tự nữ mệnh nếu xuất hiện ngũ hành mất vị trí, Thuỷ Thổ làm tổn thương nhau, bản thân rất nguy hiểm, ngôi sao đại biểu cho chồng không hiện ra, mà thiên quan lại rối tạp, trong tứ chi lại không có Tài, Quan, An, Thực, những người này phân lớn là kỹ nữ, tỳ thiếp, dâm đãng, ở đây xin nêu lên một nữ mệnh như thế này.

Năm Ất Hợi Tháng Ất Hợi

Ngày Quý Sửu Giờ Kỷ Mùi

Bản thân Quỷ Thuỷ sinh vào tháng 10 tháng Hợi, quá nhiều Thuỷ. Quý Thuỷ lấy Mậu Thổ làm chính quan xem ở chính quan không hiện rõ mà dẫn can giờ Kỷ Thổ làm Thiên phu nhưng mà trong chi ngày Sửu và chi giờ Mùi Kỷ Thổ đều có thiên phu ở hỗn tạp với nhau, hơn nữa trong trụ ngày không có tài, Ất Mộc vốn là thực thần của Quý Thuỷ nhưng Ất Mộc sinh ở can tháng rất khoẻ, Kỷ Thổ bị khắc, như vậy ngũ hành mất vị trí, khó tránh khỏi ma quỷ đến người, trước trong sau đục, không thể hưởng phúc.

6. Lạm: gọi là “lạm” có nghĩa là tham lam, tức là nói trong thiên can tứ trụ có nhiều phu tinh (sao chồng) trong địa chi lại ngầm có tài vượng đái sát. Như vậy khó tránh khỏi tửu sắc vô độ, tư túi đắc tài. Gặp phải mệnh này, nếu không khắc phu tái giá thì thân làm nô tì, vì rằng thái quá hoặc bất cập sẽ đi theo hướng phản diện. Ví dụ mệnh như thế này:

Năm Canh Dần Tháng Bính Tuất

Ngày Canh Thân Giờ Đinh Hợi

Bản thân Canh Kim sinh vào tháng thu, chi ngày lại gặp lâm quan lộc địa, bản thân tự vượng. Trong đó trụ tháng nặng hơn trụ giờ, đáng lẽ Bính Hoả là chồng nhưng chi năm Dần và chi tháng hội thành Hoả cục, ở can giờ lại thấu xuất Đinh Hoả, không tránh khỏi rất yêu Hỏa. Lại như bản thân Canh trong Kim lại ngầm khắc vói chi năm chi tháng Dần Hợi Mộc là tài mà Nhâm Thuỷ trong Hợi lại là cát thần thực thần của Canh Kim, thực thần có thể sinh tài. Vì vậy tuy nói người đàn bà này lớn lên xinh đẹp có phúc, nhưng lại không thiếu lạm dâm mà đắc tài.

7. Xướng: gọi là “xướng” tức là xướng ca vô loài Trong bát tự nếu xuất hiện thân vượng phu tuyệt, quan suy thực thịnh, hoặc trong tứ trụ không thấy quan sát, hoặc có mà bị coi là hung thần thương quan, thương tận, hoặc quan sát hỗn tạp mà thực thần thịnh vượng, những người này nếu không là mệnh kỹ nữ, cũng là ni cô tì thiếp, khắc phu dâm bổn, chỉ ở một mình. Xem mệnh như thê này:

Năm Đinh Hợi Tháng Canh Tuất

Ngày Mậu Thìn Giờ Canh Thân

Can ngày bản thân Mậu Thổ, lẽ ra là phu tinh (sao chồng) khắc ta Giáp Mộc trong chi năm Hợi, nhưng do Mộc này ở vào tháng 9 tháng tuất của mình thu, trong vượng tướng hưu tù tử, ở vào tử thất thời nguyên khí, giờ đây lại gặp can tháng Canh Kim giám lâm, cho nên rõ ràng là khắc tuyệt, lại xem Canh Kim trong chi giờ Thân, lẽ ra thuộc về thực thần của Mậu Thổ, nhưng Thân với Canh mà nói lại là lộc định của lâm quan, cho nên thực thần có lực, hơn nữa Mậu Thìn vốn thuộc sao khôi cương, có lợi cho đàn ông, không lợi cho đàn bà, giờ đây khôi cương chiếu lâm, lại có thể sinh thực, nêu lại kết hợp với Canh Kim của can tháng can giờ thì không tránh khỏi thực thần vượng quá mức. Tuy nói Ất Mộc trong Thìn cũng là sao chồng khắc ta nhưng toạ ở bên dưới Mậu Thổ, không thể thấu xuất, nên không thể lấy để dùng. Ngoài ra Nhâm Thuỷ trong chi năm Hợi, Quý Thuỷ trong chi ngày Thìn, Nhâm Thuỷ trong chi giờ Thân đều là tài của bản thân Mậu Thổ, Mậu Thìn vốn thuộc khôi ải, bản thân cường vượng, bây giờ phu tinh khắc ta đã tử tuyệt mà xung quanh lại đầy những thực thần sinh ta, cho nên gọi là Thân vượng phùng sinh, tham thực tham tài, là một ca nữ xinh đẹp không có chồng.

8. Dâm: gọi là dâm là dâm ô quá mức. Bát tự của loại người này, bản thân tuy nhiên đắc địa nhưng phu tinh (sao chồng) thái quá, tối sáng giao nhau, người mà can ngày thân vượng, trong tứ trụ đều là quan sát thì đúng như vậy. Phu tinh xuất hiện ỏ thiên can gọi là minh, xuất hiện ở địa chi gọi là ám. Ví dụ 1 Đinh 3 Nhâm, hoặc Đinh Hoả đồng thời gặp phải thiên can Nhâm Thuỷ, Quý Thuỷ trong địa chi thìn, Quý Thuỷ trong địa chi Thìn, Quý Thuỷ trong Tý đều là những điền hình về tứ trụ thái quá hoặc minh ám giao nhau. Loại đàn bà đối với đàn ông quả là không thể dung nạp được, nêu một ví dụ:

Năm Mậu Thìn Tháng Nhâm thìn

Ngày Nhâm Tuất Giờ Quý Hợi

Nhâm Tuất trong mệnh và Quý Hợi, một trụ ở vào lộc địa của lâm quan, một trụ ở vào trạng thái đế vượng vạn vật trưởng thành, có thể gọi là bản thân đắc địa. Nhưng ở phu tinh, minh có trụ năm Mậu Thể là chính phu, ám có 3 Mậu Thổ (gồm 2 Thìn một Mậu) thành ám phu của Mậu Thổ, như vậy phu tinh giao tập, dâm hết chỗ nói

II. Bát cách

1. An tỉnh giữ phận: gọi là an tỉnh giữ phận tức là mệnh nữ phụ tinh trong bát tự có khí, can ngày tự vượng. Tài thực được đất, không có hình xung. Hãy xem một mệnh này.

Năm Quý Tỵ Tháng quan Canh Thân

Ngày Ất Mão Lộc Giờ Đinh Hợi

Canh ngày bản thân Ất Mộc, toạ ở chi ngày Mão là lộc địa lâm quan của Ất Mộc mà chi giờ Hợi cũng chi ngày Mão lại phùng hợp cục, cho nên can ngày tự vượng. Lại xem phu tinh, At Mộc lấy Canh Kim khắc ta làm chính quan hay ở chỗ, chi tháng thân ở nơi phu tinh toạ lại thuộc lộc địa lâm quan của Canh Kim mà chi năm Tỵ lại là đất trường sinh của Canh Kim, hơn nữa Nhâm Thuỷ trong chi giờ Hợi là thực thần thiên trù của Canh Kim, nên gọi (chồng) ăn thiên lộc, quan tinh mỹ vượng. Như vậy bản thân, quan tinh đều hưởng vượng khí, hai bên không xâm lấn nhau, tứ trụ lại không có thất sát lẫn vào, vì thế có thể thấy đó là mệnh của một phu nhân an tĩnh giữa phần, hoà nhã lịch thiệp.

2. Phúc thọ đểu đủ: đây là một loại cách cục thân toạ đất vượng, thông với ngụyên khí, can chi phò nhau, tổ hợp hữu tinh, mà Tài Quan Ân thụ đều đắc vị, không làm thóat tài hoại Ân, Thương quan, quả là cách cục thuần tuý. Nếu thân vượng mà vận hành vào đất tài, thực, cũng thuộc mệnh phúc thọ đều đủ. Nêu một ví dụ về nữ mệnh này:

Năm Bính Ngọ Tháng Canh Tý

Ngày Tân Dậu Giờ Quý Tỵ

Can ngày Tân toạ đất Dậu, chuyên lộc tự vượng. Tân Kim lấy Bính Hoả làm quan, mà quan tinh quy lộc ở chi giờ Tỵ, phu tinh đắc địa. Tân Kim lấy Quý Thuỷ là con, can giờ thực thần Quý Thuỷ quy lộc ở can tháng Tý Thuỷ, cho nên tử tinh (sao con) cũng đắc địa. Hơn nữa can chi phò nhau, không làm hại nhau, lại sinh vào Quý thuỷ tháng 11 dương lệch, trở thành tượng Kim Bạch Thuỷ thanh. Như vậy mệnh chủ xinh đẹp đoan chính, phu vượng tử quý, cho nên có thể đoán là một mệnh phúc thọ đều đủ.

3. Vượng phu thương tử: xem nữ mệnh ở vượng phu thương tử, mấu chốt là phải xem trụ ngày, vì rằng giờ là đất quy súc lại. Cách xem: hai sao ca con, dần quy về giờ, phu tinh sinh vượng, tử tinh suy bại vậy lấy một nữ mệnh là ví dụ:

Năm Bính Tuất Tháng Bính Thân

Ngày Đinh Tỵ Giờ Tân Hợi

Ngày sinh Đinh Hoả, toạ ở đế vượng Tỵ, bản thân đắc địa. Đinh Hoả lấy Nhâm Thuỷ chế ta trong chi tháng thân làm quan tinh mà chi giờ Hợi là lộc địa lâm quan của quan tinh Nhâm Thuỷ, chi tháng Thân Kim lại là đất trường sinh của Nhâm Thuỷ. Hơn nữa tháng 7 Kim vượng , Canh Kim trong thân và Tân Kim can giờ cùng với hai thiên can Bính Hoả của can giờ, can tháng là ấn thụ, tài thần của Nhâm Thuỷ quan tinh, cho nên đoán biết ông chồng thông minh phú quý. Đinh Hoả lấy thực thần kỷ Thổ làm chỗ dựa cho con cái bản thân, bây giờ trong trụ kia thấy Kỷ Thổ, cho nên lấy quyền đem Mậu Thổ tàng trong chi là tử tinh. Nhưng đem Mậu Thổ tàng trong chi Quý dẫn về cung chi giờ Hợi, Giáp Mộc trong Hợi là thất sát khắc phạt Mậu Thổ, thế đem Mậu Thổ đặt vào tuyệt địa. Vì rằng tử tinh bị khắc, cho nên trong mệnh khó có con, hoặc có thì cũng khó nuôi.

4. Vượng tử thương phu: về mệnh vượng tử thương phu, có thể từ trụ tháng, trụ giờ mà đoán biết. Quan tinh có khí đắc thời, chồng có thể thanh quư phát phúc; nếu không đắc nguyệt khí, ở trụ giờ lại không có vượng khí, thế thì chồng có thể vì mất khí mất thời mà nguy đến tính mệnh. Lại như tử tinh quy dẫn về giờ, nếu gặp đất trường sinh, lâm quan, đế vượng mà không hình khắc, chứng tỏ tử tinh đắc địa mà sinh vượng, phần lớn có thể làm nên. Xin nêu một ví dụ.

Năm Kỷ Mão Tháng Giáp Tuất

Ngày Ất Mão Giờ Mậu Dần

Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm chính quan. Sinh vào tháng Tuất, Canh Kim phùng Tuất, ở vào đất suy của nguyên khí, lúc dẫn quy về giờ, chi giờ Dần lại là đất trường sinh của Bính Hoả, mà Thìn Tuát hội cục, đều thuộc Hoả, nên đoán tử tinh hưởng vượng.

5. Thương phu khắc tử: nữ mệnh này, quan tinh và tử tinh mất tháng mất giờ, lại bị khắc tiết, cho nên không đẹp. Xem một nữ mệnh.

Năm Bính Tý Tháng quan Canh Tý

Ngày Ất Hợi Giờ Bính Tý

Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm quan tinh. Bây giờ tháng Tý Kim hàn Thuỷ Lạnh, thực là Tử địa của Canh Kim

khí, trong tứ trụ không có Thổ đến sinh Kim. Cho nên đức ông chồng không lâu bền. Ất Mộc lấy Bính Hoả làm con, dẫn đến Tý cung ở giờ, thuộc về Thuỷ Hoả xung kích, là đất thuỷ vượng Hoả diệt, tuy nhiên năm đến can giờ đều có hai Bính Hoả, làm thế nào chịu nổi Thuỷ ở địa chi tứ trụ tuôn ra, cho nên con cái khó lòng tránh khỏi nguy nan.

6. Thiếu niên chết yểu: sách đoán mệnh cho rằng trong nữ mệnh vốn có quan tinh bị thương, hành vận lại thông đến đất quan, hoặc vô quan kiến thương, hành vận lại lâm đất quan và thân nhược quan sát quá nặng, sát nặng khắc thân, như thế nếu không chết thì cũng dâm ồ làm tràn. Ngoài ra nếu mang theo nhận không bị chế, hành vận lại phù hợp ở đất nhận, cũng không phải điềm lành.

Ví dụ:

Năm Đinh Mão Tháng Quý Sửu

Ngày Canh Thìn Giờ Bính Tý

Bản thân Canh Kim, Đinh Hoả là quan, bây giờ địa chi Tý Thìn và Quý Thuỷ trong Sửu củng là thương quan của quan tỉnh bị khắc chế nên bị hại vì chết đuối.

Lại như:

Năm Ất Dậu Tháng Mậu Tý

Ngày Bính Dần Giờ Kỷ Hợi

Ngày sinh Bính Hoả toạ chi Dần là đất trường sinh của Bính Hoả, đáng tiếc sinh vào tháng Tý giờ Hợi, quan sát quá nặng, giống như vượng Hoả gieo vào Thuỷ Thịnh, cho nên lo lắng sẽ chết khi sinh đẻ Lại xem một bát tự

Năm Nhâm Tý Tháng Quý Mão

Ngày Giáp Tuất Giờ Đinh Mão

Bản thân Giáp Mộc, cho tháng Mão là Dương nhận, trụ Đinh Mão lại thương quan, Dương nhận, đồng thời địa chi Tý Mão dụng hình, Mão Tuất tương hợp, phu tinh. Tài tinh trong trụ yếu sức, vì vậy ngày Kỷ Mão, tháng Ất Sửu năm Quý Dậu phạm gian dâm mà chết.

7. Chính thiền tự xử: tam mệnh thông hội cũng rất thích thú về cách nói chính thiên tự xử. Sách nói: chính thiên tự xử là gì? là vợ chồng tương hợp, lại gặp Tỷ kiên phân tranh. Nếu một ngôi phù tinh có hai ngôi thể tinh tương hợp, gọi là tranh hợp. Nếu bản thân tự vượng, thân kia lại suy, tứ trụ không xung thì ta chính mà là thiên, nếu thân kia vượng mà ta suy, tứ trụ xung ta thì thân kia vượng mà ta thiên, nêu thân ta vượng hửu khí thì phu theo ta là chính, ta thân suy mà có ngôi vượng khác thì theo ngôi khác, ta ngược lại là thiên. Bảo rằng thân kia vượng, tranh đoạt chồng ta, ta đành phải là thiên, hoặc tự vượng thái quá, trụ không có phu tinh, cũng là thiên, hoặc quan sát hỗn tạp, hoặc thương quan quá nặng, cùng là thiên, càng dâm ô. Hãy xem:

Năm Nhâm Tý Tháng Bính Ngọ

Ngày Tân Dậu Giờ Tân Mão

Bản thân Tân Kim, lấy can tháng Bính là quan tinh. Nhưng Bính lại hợp với can giờ Tân, thì lấy đây là mệnh hai đàn bà tranh một chồng, hay ở bản thân toạ tại lộc địa lâm quan chi Dậu, thân vượng có lực, mà can giờ Tân Kim lại toạ ở tuyệt địa Mão, suy nhược không chịu nổi công kích. Vì vậy kết quả tranh giành ta làm chính thê, còn kẻ kia làm thiếp. Lại như:

Năm Quý Mùi Tháng Nhâm Tuất

Ngày Quý Tỵ Giờ Nhâm Tý

Bản thân Quý Thuỷ, Mậu Thổ là quan. Đáng tiếc Nhâm Tý dựa Thân Thuỷ vượng. Quý Thuỷ Thuỷ nhược, do nhược không thắng vượng, cho nên kê kia thắng ta suy, đành phải làm thứ phòng. Nhưng trụ giờ Nhâm Thuỷ nặng mà tràn trề, toạ chi Tý dưới Nhâm gặp chi năm Mùi, kèm theo đào hoa cho nên kê kia tuy là chính thất (vợ cả) nhưng lại khó tự xử.

8. Chiêu giá bất định: sao lại gọi ,là chiêu giá bất định? Nghĩa là: trong nguyệt lệnh có phu tinh thấu can, tương hợp với kỷ, bản thân Tỵ tòng phục, phu tinh lại là nguyên khí, giờ dần phu tinh, hoặc sát tinh lại thích hưởng vượng địa đê khắc bản thân kỷ, lại tòng phục thiên phu, nên gọi là chiêu giá bất định (gả cưới không khẳng định) nếu phu tinh không vượng, hoặc bị khắc chế, hẳn gã chồng chậm, hoặc lấy chồng không minh bạch, hoặc chồng chẳng giúp được gì, hoặc có ngoại tình. Lại như:

Năm Quý Dậu Tháng Giáp Tý

Ngày Kỷ Mùi Giờ Ất Hợi

Bản thân Kỷ Thổ, Giáp Mộc là quan, sinh vào tháng Tý mất thời không vượng. Nhưng chi giờ phùng hợi, hợi là đất trường sinh của Giáp Mộc, quan tinh đương vượng, nhưng can giờ Ất Mộc lại chế bản thân là sát, can ngày toạ Mùi, lại là đất thương khố (kho tàng) của ất Mộc, dẫn đến sát tinh cũng vượng. Như vậỵ, mệnh chủ ở vào trạng thái gả cho Giáp mà biến Ất, gả cho Ất mà biến Giáp, do dự không quyết nên gọi là “chiêu giá bất định”. Bát pháp, bát canh mà sách cổ nói ở trên, ý thức phong kiến nặng nề, mà còn có những lời nói chủ để mua vui, cho nên hy vọng độc giả có con mắt phê phán trong khi nghiên cứu phân tích.

9. Được phong nhất phẩm

Năm tài Đinh Tỵ tài quan ấn

Tháng quan Mậu Thân quan ấn kiếp

Giờ Thực ất mão thực

ơ mệnh này, quan tinh thực thần toạ lộc, ấn thụ đương lệnh phùng sinh, tài sinh quan vượng, không thương ấn thụ, ấn thụ đương lệnh, đủ để phù thân, thực thần đắc địa, nhất khí tương sinh, nhìn xem toàn cục ngũ hành dừng đều, an tường thuần thuý, biết là phu vinh tử quý, là phu nhân nhất phẩm hai đời.

10. Phu quý tử quý

Năm quan Kỷ Tỵ tài sát ấn

Tháng kiếp Quý Dậu ấn

Ngày Nhâm Thìn

Giờ thực Giáp Thìn thương sát kiếp

Thu thuỷ thông nguồn, ấn tinh thừa lệnh, quan sát tuy vượng, chê hoá hợp nghi, hay là giờ can thấu xuất Giáp Mộc, chết sát Thổ thú, một khí thuần tuý, cho nên nhân phẩm đoan trang, giỏi thi thử. Kết hợp hành vận không Hoả, cơ quan không trợ giúp, ấn không bị thương, nên có phu tinh hiển quý, con nối dõi giỏi giang, được vinh hạnh phong hàm nhị phẩm.

11. Nữ trung tài tử

Năm Canh Thìn Tháng Nhâm Ngọ

Ngày Ất Hợi Giờ Quý Mùi

Ất Mộc sinh vào tháng Ngọ, Hoả thế mạnh mà can năm Canh quan nhu nhược, tốt ở chỗ can tháng Nhâm Thuỷ, can giờ Quý Thuỷ thông căn chế Hoả, chi năm Thìn Thổ tiết Hoả sinh Kim, hơn nữa chi tháng Ngọ Hoả sinh chi năm Thìn Thổ, chi năm Thìn Thổ sinh can năm Canh Kim, can năm Canh Kim sinh can tháng Nhâm Thuỷ, Can tháng Nhâm Thuỷ sinh can ngày Ất Mộc, như vậy tiếp tục tương sinh, khiến Hoả trong trụ không mãnh liệt Thổ không táo, Thuỷ không cạn, Mộc không Thổ, cho nên thuần tuý trung hoà, là nữ trung tài tử.

12. Dĩ ân vĩ phu

Ví dụ

Năm Bính Dần Tháng Tân Mão

Ngày Quý Dậu Giờ Mậu Ngọ

Can ngày Quý Thuỷ sinh vào tháng Mão là tháng tiết khí, trong trụ tài quan đều vượng, can ngày nhu nhược, cho nên lấy Ấn tinh phù ta làm phù tinh. Nhìn thấy khắp toàn cục, phù tinh thanh mà đắc nguyệt nên hành vận đến sửu vận, mấy năm liền cung Kim tiết Hoả, sinh liền hai con, về sau vận hành đến Mậu Tý, vì Tý Thuỷ xùng đẫy Đinh Hoả trong chi giờ Ngọ khiến Dậu Kim không bị thương, chồng có tin mừng thi cử đỗ đạt. Nhưng một khi giao vào Đinh Hợi, tài tinh ngược đãi, nên buông tay mà chết. Phân tích mệnh này, bệnh ở tài khí quá vượng, lấy Bính Hoả can năm hợp với Tân Kim can tháng, lấy Đinh Hoả can giờ khắc phá chi ngày Dậu Kim, hơn nữa Dần, Mão dương quyền sinh Hoả, cho nên hành vận một khi đi vào Đinh Hợi, Hợi với chi năm Dần hợp hoá Mộc, giúp dựng lên vượng thần mà Đinh Hoả lại khắc Tân Kim nên không có lộc.

13. Dĩ tài vi tử

Ví dụ:

Năm Bính Thìn Tháng Quý Tỵ

Ngày Đinh Sửu Giờ Giáp Thìn

Đinh Hoả sinh vào tháng Tỵ, Quý Thuỷ phu tinh thanh thấu, Giáp Mộc ấn thụ đẹp đứng một mình, cho nên phẩm cách đoan trang, trinh khiết. Tiếc là Bính Hoả ở can năm chi tháng quá vượng, sinh trợ thiên quan, để bị phá vỡ. Nhưng may lớn trong không may là chi tháng Tỵ cùng chi ngày Sửu hợp thành Kim cục, tài t́nh đắc dụng. Người xưa có câu nói: “Thân vượng tài vi tử, thể suy ấn tác nhi” cho nên lấy tài làm con, dạy con thành danh, về sau do hai con đều quý, được phong tam phẩm.

14. Hình phu nan thủ

Ví dụ:

Năm Đinh Mùi Tháng Ất Tỵ

Ngày Giáp Ngọ Giờ Đinh Mão

Bản thân Giáp Mộc, sinh vào tháng Tỵ, chi thuộc nam phương, can thấu lưỡng Đinh, tương như hoà thế mãnh liệt, khiến cho Giáp Mộc tiết khí thái quá. Trong cục lại không ấn thụ sinh thân. Cho nên chỉ có thể lấy chi giờ Mão Mộc làm dụng thần. Kết hợp đại vận, lúc trẻ nhập Hoả địa. Cho nên chồng chết sớm. Do người này thông minh xinh đẹp, mà lại nông nổi khác thường, về sau một khi vận đến Mậu Thân, tranh chiến cùng Mộc Hoả, nên không thư tiết được.

15. Phu tử tự vằn

Ví dụ:

Năm Mậu Tuất Tháng Kỷ Mùi

Ngày Bính Thìn Giờ Mậu Tuất

Khắp cục thương quan, ngũ hành khuyết Mộc, ấn tinh không thấy, cách thành thuận cục. Người này thông minh xinh đẹp tiếc tứ trụ Kim Thuỷ ít quá, Thổ của thương quan quá khô và dày, mà phu tinh Tân Kim lại mộ ở Tuất, cho nên dâm loạn cực kỳ, chồng gặp hung tai mà chết, về sau theo người khác, không được 2-3 năm lại khắc, chờ đến Ất Mão Mộc vận, phạm vượng của Thổ, tự vẫn mà chết.

16. Khi phu dâm tiện

Ví dụ

Năm Mậu Ngọ Tháng Ất Sửu

Ngày Mậu Tuất Giờ Bính Thìn

Can ngày Mậu Thổ, sinh vào tháng Sửu Kim tàng Thổ vượng, khiến cho can tháng quan tinh Ất Mộc không thể dựa vào gốc, nếu lấy Ất Mộc thông vối chi giờ Thìn khố. Thì Ất Mộc trong Thìn lại gặp Tân Kim trong Mậu khắc phạt, hơn nữa chi năm, chi ngày, can giờ ấn thụ sinh thân, cho nên bản thân cường vượng, đủ để dối gian, đặt phu quân ra bên ngoài. Kết hợp ở tuổi trung niên hành nhập tây phương Kim vận, biết đó là loại đàn bà dâm tiện.

17. Thuỷ tính dương hoa

Ví dụ

Năm Đinh Mùi Tháng Quý Sửu

Ngày Cánh Tý Giờ Đinh Hợi

Hàn Kim hỉ Hoả, đáng tiếc địa chi Hợi Tý Sửu hội thành Thuỷ cục, can tháng Quý Thuỷ khắc can năm Đinh Hoả, Quý Thuỷ trong chi tháng Sửu xung diệt dư khí Đinh Hoả trong Mùi, mà can giờ Đinh Hoả lại do hư thoát vô căn nên không đủ để dùng, hơn nữa ngũ hành tứ trụ thiếu Mộc, cho nên Mùi đủ sức làm sống lại Đinh Hoả mà quản chế Canh Kim. Do vậy, ngày sinh Canh Kim tự hành sự một mình, không đếm xỉa bị Đinh Hoả quản thúc thuộc loại đàn bà thuỷ tính dương hoa.

18. Hợp đa dâm lạm

Ví dụ

Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý

Ngày Tân Tỵ Giờ Bính Thân

Mệnh này, can tháng Nhâm Thuỷ hợp với can năm Đinh sát, can giờ Bính Hỏa đắc lộc ở Tỵ cho nên thân gia đình dòng dõi, đẹp mà khéo, người ta đều gọi bà là “Thái Dương Phi”. Xem cả cuộc đời bà khi 4-5 tuổi xinh đẹp khác thường, cho đến 13-14 tuổi đẹp như người trong tranh, năm 18 tuổi kết vợ chồng với một thư sinh, anh chàng này bình thưòng chăm chỉ học hành nhưng sau khi kết hôn yêu đương đắm đuôi, một năm sau bỏ học, mà cuối cùng mắc bệnh lao mà chết. Sau khi chồng chết, người đàn bà này càng tự do phóng khoáng, cuối cùng thân bại danh liệt, không nơi nương tựa mà đi đến bước đường cùng tự vẫn. Phân tích nữ mệnh này, trong mệnh cục này thiên can địa chi hợp lại quá nhiều, cho nên Nhậm Thiết Tiêu nói: trong thập can của chồng, duy Bính Tân hợp dùng quan hoá thương quan, gọi là tham hợp vong Quan và Tỵ Thân hợp cũng hoá Thương quan, Đinh Nhâm hợp thì ngầm hoá tài tinh, ý là đem Bính Nhâm Hoả đặt ra ngoài muôn đứng về bên cạnh Đinh Nhâm, huống hồ can chi đều hợp, nên không phải là ý trung nhân. Nhà mệnh lý học cận đại, Viên Thụ Sách là người nổi tiếng đã soạn ra cuốn mệnh lý tham nguyên. Trong quyển 7 bộ sách có ghi hai nữ mệnh mà ông đã đoán, có thể dùng để nghiên cứu nhằm phê phán.

19. Đoán cho bà X

Năm Ất Hợi Tháng Bính Tuất

Ngày Mậu Ngọ Giờ Nhâm Tuất

An mệnh Ất Mậu

5 Đinh Hợi 15 Mậu Tý

25 Kỷ Sửu 35 Canh Dần

45 Tân Mão 55 Nhâm Thìn

65 Quý Tỵ 75 Giáp Ngọ

Ngày sinh Mậu Thổ, lấy can năm Ất Mộc làm phù tinh, lây chi Tuất Canh Kim là Tử tinh. Đang vào mùa thu, Mộc rụng Kim tàng nên phu tinh không vượng, tử tinh không nhiều, nhưng được mệnh cung Ât Dậu trợ giúp cho hai tinh cha con, vẫn làm cho bố con cùng thịnh, huống hồ can giờ Nhâm Thuỷ lại sinh ra Ất Mộc sao? Nếu mệnh mà phu tinh phối với Thuỷ Mộc tương đối nhiều thì nhuần hoà, 3-4 con nối dõi, chỉ hiềm dương nhận hội hợp, không tránh được lao tâm vất vả. Trước 30 tuổi, bực dọc không yên. 10 năm gần đây, hỉ khí đầy nhà, con cái vây quanh. 41 tuổi giao Dần vận, tam hợp hóa Hoả, không thể không táo Thổ, huyết bệnh ở phế gan, cần phải đề phòng, về sau ngoài 44 tuổi Mậu Ngọ, 47 tuổi Tân Dậu bị tổn thương ra, đến 60 tuổi đều mạnh khoẻ như ý, thọ ngoài lục thập hoa giáp.

20. Đoán cho người đàn bà đẹp

Năm Đinh Sửu Tháng Tỵ Dậu

Ngày Mậu Tý Giờ Bính Thìn

An mệnh Giáp Thìn

9 Canh Tuất 19 Tân Hợi

29 Nhâm Tý 39 Quý Sửu

49 Giáp Dần 59 Ất Mão

69 Bính Thìn 79 Đinh Tỵ

Mậu Thổ lấy chi Thìn Ất Mộc làm phù tinh, lấy Tân Kim của Dậu làm tử tinh, giờ Mộc ở mộ địa mà đắc mệnh quan Giáp Thìn trợ giúp, Kim được hợp với năm sửu, tựa như phu vinh tử thịnh vây, nào biết Giáp ở mệnh cùng cũng Kỷ của can tháng hoá Thổ, Tỵ mất tác dụng của Mộc, Sửu Dậu hợp Kim, là kẻ thù của Mộc, không thể coi là con được. Vì vậy chồng khó thọ đến già, con khó thành đạt, trước 23 tuổi còn được, 24 tuổi được đại vận Tân Kim, lưu niên Canh Kim cùng đến đánh phá Giáp Ất, làm Mộc khô mục, chồng bị chết, con không ngăn mà đến. May là ngày sinh Thổ dày, thắng được Thuỷ vận, con người vững như vàng đá, chịu mọi phong sương. Đức hạnh được truyền tụng trong làng xóm, danh nêu trong ấp, đáng trọng đáng kính, thọ ngoài sáu mươi.

Khi xem nữ mệnh thì khác với nam, kẻ phú quý một đời quan tụ, kể thuần tuý tứ trụ hưu tù, nếu đục tràn ngũ hành xung vượng, kẻ mỵ dâm quan sát đan nhau, không quan đa hợp đó là bất lương. Các trụ sát nhiều, không là khắc chế. Ấn thụ nhiều thì già không con, thương quan vượng còn trẻ mất chồng, tứ trụ không thấy phu tinh, không là trinh khiết, ngũ hành nhiều gặp Tý chiếu (chỉ thực thần nhiều) khó tránh hoang dâm, thực thần một ngôi phùng sinh vượng, bảo con đến bái thánh minh, quan sát không tạp gặp ấn phù, lấy chồng sẽ gặp hội thanh vân. Giữ phòng lạnh mà trinh khiết, Kim Trư Mộc hổ (chỉ ngày Tân Hợi, Giáp Dần) tương phùng (hai ngày này tuy khắc phu mà thủ chính), nhà không ngủ một mình, Thổ hầu Hoả Xà (chỉ ngày Mậu Thân, Đinh Tỵ) gặp nhau (hai ngày này khắc phu bất chính). Tài vượng sinh quan, phù thực vô thương mà phu vinh tử quý, quan thực lộc vượng nhất ấn hữu trợ mà sau được sủng ái. Thương quan lặp lại không tài ấn, nhà bại hình phu, quan sát trùng phùng gặp tam hợp, hoang dâm vô sỉ. Hợp nhiều, quan nặng là người tham dâm hiếu sắc. Quan tạp khí suy, thê thiếp ham dục tội chồng. Thân vượng quan hung, không ni cô thì là con hát tôi đòi, thực thần biến đức, trước nghèo hèn mà sau vinh hoa, ngoài ra, lúc xem đoán mệnh còn có một cách nói khắc phu nhảm khí. Dầu tiên, phàm nữ mệnh, ngày sinh ở quan, quỷ, tử, mộ, tuyệt, chủ khắc phu, ví như nữ mệnh sinh ngày Bính Tuất, Canh Tý, tra thiên Ngũ hành Vượng, Tưóng, Hưu, Tù, Tử và 12 cung nói ở trên, Bính gặp Tuất ở trạng thái đúng vào chỗ cuối của đời người mà quy mộ, mà Canh gặp Tý lại ở vào trạng thái đúng vào lúc vạn vật chết, vì vậy đều có thể tìm chồng. Nhưng cũng có người cho rằng, nữ mệnh sinh ngày Tân Mão, tuy phùng tuyệt địa, thì lại đẹp nhiều xấu ít, như vậy khó lòng mà nói khái quát được.

Hơn nữa, nữ mệnh, năm sinh ngày sinh cùng một ngôi thì khắc phu. Năm sinh ngày sinh đái lục Giáp, gọi là đái Giáp, chủ khắc phu, ngày và tháng cùng đái Giáp cũng vậy. Lấy ví dụ nói, nếu nữ mệnh sinh vào năm Giáp Ngọ lại gặp ngày sinh cũng là Giáp Ngọ, thế thì không thể không khắc phu. Dĩ nhiên, đây đều là cách nói không có căn cứ, không đứng vững được, không cần tin.

Điều thú vị là, trong sách đoán mệnh còn có nhiêu ca quyết đoán phụ nữ mang thai, sinh con trai hoặc sinh con gái trong tam mệnh thông hội ghi.

Bảy bảy bốn chín hỏi cô ngày nào có

Trừ năm sinh của mẹ, lẻ là nam chẵn là nữ

Chẵn là nam không bình thường

Thọ mệnh chẳng lâu dài.

Căn cứ bài ca quyết này, lấy 49 làm cơ số, nếu tuổi mẹ là 31 (theo tuổi mụ), tháng mang thai theo âm lịch là tháng giêng, thế thì lúc tính 49+1 (tháng giêng) bằng 50-31 bằng 19, 19 thuộc số lẻ, cho nên con trai. Nếu tính ra số lẻ sinh con trai, số chẵn sinh con gái, nhưng kết quả sinh ra, số lẻ sinh con gái, số chẵn sinh con trai, như vậy trái ngược, thọ mệnh không dài mà chết yểu. Nhưng có điều làm người ta nghi hoặc không hiểu được là, có sách lại đem tuổi mẹ cộng với 19 thế thì ngược hẳn với cách tính mang thai của tam mệnh thông hội.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem mệnh nữ theo tứ trụ

Chùa Bồ Đề - Hà Nội

Chùa Bồ Đề tên chữ là Thiên Sơn tự nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng. Chùa xưa được kiến tạo vào cuối đời nhà Trần trên gò đất cao nên gọi là Núi Trời
Chùa Bồ Đề - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa Điểm: Chùa Bồ Đề nằm ở phố Phú Viên, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội (trước thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Từ trung tâm Hà Nội chỉ cần đi qua cầu Chương Dương rẽ xuống một đoạn 500m là tới chùa..

Ngày lễ chính:
Ngày 24, 25 tháng Giêng Âm lịch: ĐẠI LỄ HÚY NHẬT ĐẠI ĐỨC HÒA THƯỢNG
Ngày mùng 8 &9 tháng 4 Âm lịch: ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN
Ngày mùng 5 tháng 7 Âm lịch: LỄ VU LAN
Ngày mùng 1 & 2 tháng 10 Âm lịch: ĐẠI LỄ HÚY NHẬT CỦA CHƯ VỊ TỔ SƯ

Chùa Bồ Đề tên chữ là Thiên Sơn tự nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng. Chùa xưa được kiến tạo vào cuối đời nhà Trần (khoảng 1427) trên gò đất cao nên gọi là Núi Trời, nhờ vậy có tên chữ là Thiên Sơn. Nơi chùa chính thờ Phật pháp, vương triều nhà Trần, tam toà thánh Mẫu. Đây là một ngôi chùa nữ và cũng là mái ấm tình thương đùm bọc, cưu mang trẻ mồ côi.

Lịch sử: Chùa Bồ Đề được xây trên đất dinh Bồ Đề của Lê Lợi khi vua bao vây thành Đông Quan năm 1472. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại là: “Vua làm lầu nhiều tầng ở dinh Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày ngự trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc làm gì”. Dinh được gọi tên là dinh Bồ Đề vì lúc ấy trong khuôn viên có hai cây bồ đề to. Tấm bia cổ dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông có chép lại việc dựng lại chùa và ghi rõ “Đại công đức Bồ Đề” của vua Lê Thái Tổ.

Năm Giáp Tuất đời Tự Đức 27 (1874), đại sư Thích Nguyên Biểu, tự hiệu Nhất Thiết đại sư (1835 – 1906) đến trụ trì và ngài đã trùng tu, tôn tạo trên nền chùa cũ gồm thượng điện rộng 5 gian, cho thỉnh thêm tượng Phật mới, chùa Hộ, nhà Thiêu hương, nhà Pháp bảo và cửa Tam quan.Trong chùa còn có khắc án văn Hoa Nghiêm kinh và Pháp Hoa kinh. Công đức Đại sư rất to lớn trong việc xiển dương đạo pháp.

Đầu thế kỉ XX, chùa Bồ Đề trở thành trung tâm đào tạo tăng ni của thành phố Hà Nội, trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Hoà thượng Thích Trí Hải đảm trách. Năm 1946, Pháp trở lại gây chiến, trung tâm đã dời đi nơi khác. Năm 1951, thành phố bị lũ lụt lớn, chùa bị sạt lở, chỉ còn lại toà thượng điện. Năm 1971, chùa một lần nữa được trùng tu như kê kích lại toàn bộ thượng điện và xây dựng lại hậu cung phía sau, nâng cao nền chùa. Năm 1986, chùa được trùng tu nhà Tổ, hậu liêu, nhà khách, nhà Tăng, nhà bếp cũng như khu vực nhà ở của hơn 50 cô nhi đang được nuôi dạy tại chùa. Năm 1999, chùa tiếp tục xây lầu bát giác và tôn trí tượng Bồ Tát Quan Thế Âm cao 3,2m.

tượng bồ tát
Tượng Bồ Tát Quan Thế Âm

Hiện nay, chùa là mái ấm tình thương dành cho các em bé mồ côi, cơ nhỡ, đồng thời cũng là điểm tham quan thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.

Tới Chùa Bồ Đề ta không chỉ cảm nhận được cái không khí linh thiêng của xứ phật mà còn cảm nhận được cái ấm áp của tình thương và lòng người. Hãy 1 lần ghé thăm ngôi chùa này… Để cảm nhận một không gian thanh bình giữa cuộc sống tấp nập nơi phồn hoa đô thị… Ở nơi đó, các bạn sẽ gặp những tấm lòng vàng, những tấm lòng vẫn ngày đêm trăn trở, mang đến cho các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn này 1 cuộc sống tràn ngập yêu thương….. Hãy đến và chia sẻ tình yêu thương của mình, để thấy cuộc sống này thật ý nghĩa!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bồ Đề - Hà Nội

Mẹo hay giúp hóa giải hướng nhà không hợp tuổi

Sử dụng một cánh cửa khác thường xuyên hơn cửa chính, treo gương bát quái là những cách giúp hóa giải hướng nhà không hợp tuổi hiệu quả.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm phong thủy về hướng nhà, cửa chính của ngôi nhà hợp với tuổi của chủ nhân ngôi nhà sẽ mang đến nguồn năng lượng tốt nhất. Tuy nhiên, khi xây cất nhà cửa, đôi khi bất đắc dĩ mà hướng cửa này không thuận với tuổi của gia chủ.

Chuyên gia phong thủy Phạm Cương nhận định: "Đối với những căn nhà không hợp tuổi phong thủy với gia chủ có thể chỉnh sửa được 70 – 80%". Để khắc phục, mời bạn tham khảo một số cách đơn giản dưới đây, theo gợi ý của nhóm nhà nghiên cứu phong thủy Trần Đức Thịnh, Nguyễn Văn Trình:

Sử dụng một cửa khác thường xuyên hơn

Một cách đơn giản và điển hình để đối phó với hướng phong thủy xấu hoặc không thuận là làm suy yếu yếu tố phong thủy của nó. Nếu cửa chính là bạn có hướng phong thủy không may mắn, các kiến trúc sư thường đưa ra lời khuyên xây thêm một cửa phụ ở hướng khác.

Lúc này cửa chính chỉ mang tính chất tượng trưng, việc sử dụng cửa phụ thường xuyên hơn sẽ có tác dụng phong thủy ngăn nguồn năng lượng tiêu cực không có cơ hội lọt sâu vào nhà bạn. Giải pháp này không quá phức tạp và dễ thực hiện.

Meo hay giup hoa giai huong nha khong hop tuoi
 
Sử dụng vật phẩm phong thủy Vật phẩm phong thủy được xem là giải pháp để tạo ra nguồn năng lượng tích cực nhằm xua đi nguồn năng lượng tiêu cực xung quanh cửa ra vào của ngôi nhà. Bạn có thể dùng tranh, ảnh in hình Phật để treo trước cửa hoặc đặt các bức tượng, điêu khắc chất liệu thạch anh phù hợp trên kệ để đồ ngay lối ra vào.

Giải pháp phong thủy này hạn chế phần nào ảnh hưởng tiêu cực của hướng nhà xấu. Tuy nhiên, bạn vẫn phải tinh tế để khi đặt một vật phẩm phong thủy bất kỳ để không phá vỡ sự cân bằng giữa 5 yếu tố phong thủy cơ bản.

Làm thêm một cửa phụ bên trong ngôi nhà Nếu diện tích nhà bạn đủ lớn, bạn cũng có thể nghĩ đến phương án hóa giải bằng cách làm thêm một cửa phụ phía trong ngôi nhà. Điều này dễ dàng hơn việc thay đổi thiết kế của cửa chính. Bạn chỉ cần nghiên cứu kỹ hướng tốt và đặt thêm một cửa phụ ở đó.

Dùng gương bát quái

Meo hay giup hoa giai huong nha khong hop tuoi-Hinh-2
 
Ngoài tác dụng trừ tà ma, gương bát quái cũng phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh hướng cửa sai. Gương bát quái gồm 8 cạnh khắc các chữ: Càn, chấn, cấn, khảm, tốn, ly, khôn, đoài. Tùy theo mệnh của gia chủ mà treo chữ nào ở vị trí trên cùng. Tốt nhất bạn nên mời một thầy phong thủy đến khai quang giúp rồi mới treo thì mới linh nghiệm.

Thảm Thảm chùi chân đặt ngay dưới cửa ra vào, nơi mọi người phải bước qua mới vào được nhà nên có ảnh hưởng phong thủy không nhỏ trong việc hóa giải tà khí ở cửa chính. Để phát huy tác dụng của thảm chùi chân, cần đặt thảm phía trong nhà của cửa chính.

Màu sắc và hình dáng thảm sẽ giúp ích cho gia chủ trong việc biến đổi nguyên lý tương sinh tương khắc của ngũ hành, giúp hóa giải nguồn năng lượng xấu để phù hợp với quy luật phong thủy.

Meo hay giup hoa giai huong nha khong hop tuoi-Hinh-3
 
Ví dụ với cửa chính mở hướng Tây và Tây Bắc sẽ khắc với người mệnh Mộc, Hỏa, Thủy vì bắt gặp tà khí của Kim. Để khắc phục, người thuộc mệnh Thủy, Mộc cần trải thảm màu đen, xám, xanh hoặc lam để hóa giải, còn người mệnh Hỏa cần trải thảm màu đỏ, cam, hồng, tím.

Theo Em Đẹp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo hay giúp hóa giải hướng nhà không hợp tuổi

Vì sao đàn ông lấy vợ xấu là đàn ông khôn?

Đàn ông thích yêu gái xinh, nhưng thường lấy vợ nhan sắc "thường thường bậc trung", vì sao vậy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đàn ông thích phụ nữ đẹp là chuyện đương nhiên. Nhưng đàn ông cũng thích cả phụ nữ xấu, nếu không phải như vậy sao dân gian lại có câu: “Đàn bà không xấu đàn ông không yêu”. Xem ra những phụ nữ “xấu” vẫn có nhiều lợi thế trong chuyện tình cảm. Phụ nữ xấu có những "nét đẹp ngầm" mà phụ nữ đẹp không bao giờ có.

Không lo mất vợ Trong một xã hội xảy ra nhiều vụ ngoại tình, đánh ghen như hiện nay, một người đàn ông chắc chắn không hy vọng có ngày trên đầu mình mọc thêm sừng. Với họ, ở một phương diện nào đó, khi vợ mình có người đàn ông khác cũng có nghĩa là họ đã kém tài hoặc thiếu sót về khoản nào đó như khả năng kiếm tiền hay giường chiếu. Đàn ông nghĩ, cưới một người vợ xấu nguy cơ họ ngoại tình sẽ ít hơn.

Phụ nữ xấu cũng có hương vị riêng Phụ nữ xấu có nét duyên ngầm mà nhiều cô gái xinh đẹp không có. Ở họ có nét duyên đằm thắm, dịu dàng, đảm đang khiến đàn ông cực kỳ thích.

Không khổ sở vì ghen tuông Những người đàn ông có vợ/bạn gái xinh đẹp thường hay phải ghen tuông. Thật khổ sở khi luôn lo lắng về “thằng cha” nào đó đang rình rập hòng cuỗm nàng đi. Mỗi khi nàng đi chơi xa, đi công tác, bạn đều thấp thỏm lo sợ, gọi điện, nhắn tin không ngơi tay bởi bạn biết gã đàn ông nào chẳng thích nàng. Và có thể đến một lúc nào đó, nàng sẽ yếu lòng mà ngã vào những cám dỗ. Đàn ông sẽ ít phải lo lắng hơn nếu vợ có nhan sắc trung bình/ trung bình khá.

Cùng chia sẻ cuộc sống Những cô gái xinh đẹp thường dành nhiều thời gian, công sức, và tiền bạc vào công cuộc làm đẹp. Những từ luôn xuất hiện trong đầu họ là “mua sắm, mĩ phẩm, quần áo, làm tóc...”. Những cô gái giản dị đương nhiên không cầu kỳ về vẻ bề ngoài. Họ dành thời gian và tiền bạc để đầu tư vào học tập, sự nghiệp, và gia đình... Cách chi tiêu phù của họ cũng hợp lý hơn, với tư cách là một người vợ, người mẹ, họ sẽ biết quan tâm tới nhu cầu của các thành viên khác trong gia đình.



Được là chính mình nhiều hơn Đi cùng người đẹp, trang phục không chỉn chu hay một phút không “lịch lãm, ga lăng, lãng mạn” của đàn ông có thể khiến cô nàng hờn dỗi, ngán ngẩm. Điều này cũng dễ hiểu bởi một người đẹp bao giờ cũng muốn cặp với một người tương xứng với mình. Bởi vậy, người đàn ông trong trường hợp này sẽ phải hao tâm tổn sức, đầu tư thời gian trau chuốt và thậm chí có lúc sẽ cảm thấy mất đi con người thật của mình.

Phụ nữ xấu thường thích không khí gia đình Thực tế cho thấy, những cô vợ đẹp thường ít quan quâm tới gia đình hơn phụ nữ xấu. Những phụ nữ nhan sắc bậc trung thường có xu hướng vì gia đình, chồng con hơn. Theo Phunutoday

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao đàn ông lấy vợ xấu là đàn ông khôn?

Khoảng cách giữa hai đầu lông mày tiết lộ điểm mạnh của bạn

Khoảng cách giữa hai đầu lông mày của bạn dài bằng độ rộng bao nhiêu ngón tay (theo bề dọc ngón tay)?
Khoảng cách giữa hai đầu lông mày tiết lộ điểm mạnh của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khoang-cach-giua-hai-dau-long-may-tiet-lo-diem-manh-cua-ban

Bấm vào hình hoặc chữ để xem đáp án

khoang-cach-giua-hai-dau-long-may-tiet-lo-diem-manh-cua-ban-1 khoang-cach-giua-hai-dau-long-may-tiet-lo-diem-manh-cua-ban-2 khoang-cach-giua-hai-dau-long-may-tiet-lo-diem-manh-cua-ban-3
1 ngón (không tính ngón cái) 2 ngón  3 ngón trở lên

Alexandra V (theo vonvon)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khoảng cách giữa hai đầu lông mày tiết lộ điểm mạnh của bạn

Phong thủy để người yêu luôn chung thủy với mình

Chúng ta thường nghe một số phụ nữ than phiền rằng chồng hoặc bạn trai không còn quan tâm tới mình, chỉ để ý đến người phụ nữ khác. Vậy làm thế nào để người ấy
Phong thủy để người yêu luôn chung thủy với mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

luôn một lòng chung thủy?

Trước hết, hãy kiểm tra phòng của anh ấy. Nguyên nhân khiến chàng không còn quan tâm tới bạn và để ý tới người phụ nữ khác là do “có quá nhiều Thủy khí không tốt trong phòng”. Đó cũng có thể là sự hiện diện  của quá nhiều đồ vật màu đen. Điều này sẽ làm suy yếu vận thế của người đàn ông và khiến cho toàn bộ Thủy khí không tốt chạy sang người phụ nữ.

Hãy mở cửa phòng thông thoáng để ánh nắng chiếu vào, sẽ làm giảm tính “trăng hoa” của anh ấy. Bạn cũng có thể cùng anh ấy đi tắm biển, tắm suối nước nóng để gột rửa Thủy khí xấu trên người, như vậy vận may tự nhiên sẽ quay trở lại.

Căn phòng có quá nhiều màu đen (Thủy khí) nuôi dưỡng tính trăng hoa

Ngoài ra, tính trăng hoa của anh ấy rất có thể xuất phát từ bạn. Bạn nên xem lại cách ăn mặc, trang điểm và thói quen vệ sinh của mình. Liệu bạn có phải là người cẩu thả, lôi thôi không? Nếu đúng vậy thì hãy chăm chút cho bản thân để tạo sự quyến rũ và gợi cảm trong mắt anh ấy.   Bên cạnh đó, bạn nên chăm chỉ quét dọn nhà cửa, trong nhà lúc nào cũng cắm hoa tươi; ghế ngồi tốt nhất nên có đệm kê, tạo môi trường thư giãn thoải mái. Nói chung, hãy biến ngôi nhà thành nơi giữ chân anh ấy. Như thế sẽ giảm đi rất nhiều tính trăng hoa của chàng.   Bạn cũng có thể mua thêm 1 bộ ghế sofa đẹp và trang nhã, có màu sắc tươi trẻ để trung hòa Thủy khí quá vượng. Đồ dùng trong nhà bằng nhung cũng có thể hút bớt Thủy khí từ người đàn ông của bạn. Thảm, vải bọc ghế, dép đi trong nhà đều có thể chọn chất liệu bằng nhung, len. Bên cạnh đó, bạn có thể dùng khung ảnh gỗ, lồng ảnh chụp 2 người để tăng vượng khí. Phải chú ý, màu của khung ảnh không nên quá đậm, nên chọn màu nhạt tự nhiên.
Cả 2 nên ăn nhiều đồ hầm cũng là 1 cách để tăng cường Thổ khí và có được năng lượng “trấn an tinh thần”.  Âm nhạc du dương có thể làm yên lặng tâm tư đang xao động của anh ấy. Tóm lại, bạn hãy tìm mọi cách để anh ấy thích không khí ở nhà, từ đó bỏ quên ý định ra ngoài tìm niềm vui thú.
  (Theo Phong thủy ứng dụng Tình yêu nồng thắm)
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy để người yêu luôn chung thủy với mình

Đoán tính cách qua đôi mắt (2) –

Đôi mắt to hay bé và vị trí của nó có thể phản ánh rất rõ cá tính của một người. Mắt một mí Người mắt một mí thường trầm tính, chắc chắn, tỷ mỷ, luôn suy nghĩ tích cực. Họ không giỏi biểu đạt cảm nhận nội tâm, nhưng có nghị lực kiên cường, không dễ d
Đoán tính cách qua đôi mắt (2) –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách qua đôi mắt (2) –

Sao Thiên Phủ - Nhân hậu, từ thiện và gia tăng tài lộc

Sao Thiên Phủ dù năm ở vị trí nào cũng đều chỉ sự nhân hậu, từ thiện, gia tăng quyền, lộc. Cứu giải bệnh tật giải trừ tai ương.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thiên Phủ - Nhân hậu, từ thiện và gia tăng tài lộc

Sao Thiên Phủ - Nhân hậu, từ thiện và gia tăng tài lộc

Sao Thiên Phủ là một Nam Đẩu tinh (thuộc hành thổ - tính âm).

Thiên Phủ thuộc loại quyền tinh, tài tinh chủ sự tài lộc và uy quyền.

Vị trí Miếu địa của sao Thiên Phủ: Dần, Thân, Tỵ, Ngọ.

Vượng địa tại Thìn, Tuất.

Đắc địa tại Tỵ, Hợi, Mùi.

Bình hòa tại Mão, Dậu, Sửu.

Sao Thiên Phủ dù năm ở vị trí nào cũng đều chỉ sự nhân hậu, từ thiện, gia tăng quyền, lộc. Cứu giải bệnh tật giải trừ tai ương.

Khắc chế được tính hung ác của Kình, Đà, Hỏa, Linh nhưng nếu gặp đủ bộ của bốn sao này uy quyền và tài lộc lại bị triết giảm.

Thiên Phủ gặp Tuần, Triệt án ngữ và Thiên Không, Không kiếp thì ví như kho tàng bị phá vỡ, thường gây ra sự hao tán, bại hoại.

Sao Thiên Phủ ở mệnh nên thân hình đẫy đà, da trắng, vẻ mặt thanh tú, răng đều và đẹp, tính khoan hòa, nhân hậu, ưa việc thiện, biết suy tính và có nhiều mưu cơ để giải quyết những việc khó khăn. Suốt đời được hưởng phúc, giàu sang và sống lâu.

Thiên Phủ gặp Tuần, Triệt án ngữ hay không, kiếp hội họp thì thân hình lại cao và hơi gầy, da dẻ kém vẻ tươi nhuận, tính tình ương ngạnh, thích ăn hoang tiêu rộng chơi bời phóng túng, thích phiêu lưu mai đây mai đó, hay mưu toan những chuyện viển vông vậy cho nên suốt đời túng thiếu và chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, tuổi thọ cũng bị triết giảm.

Cung mệnh có sao Thiên Phủ tọa thủ gặp nhiều sát tinh hội họp là một người dối trá, hay đánh lừa, nói dối.

Sao Thiên Phủ rất cần gặp sao Tử vi, Tướng, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu cùng với Khoa, Quyền, Lộc. Và rất kỵ gặp Tuần, triệt án ngữ, hay thiên không, không kiếp hội họp.

Thiên Phủ ôn lương: Cung mệnh có sao thiên phủ là người khoan hòa, nhân hậu, có lòng từ thiện.

Đàn ông có Thiên phủ thủ mệnh: Là người cẩn thận, chín chắn, biết suy nghĩ sâu xa, ví như con thuồng luồng qua khu vực.

Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù, phú quý song toàn: Cung mệnh an tại tuất có sao Thiên Phủ tọa thủ gặp thêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp sẽ được hưởng phú quý giàu sang tới trọn đời.

Thiên Phủ Tuất-Cung vô Sát tấu, Giáp Kỷ nhân hoạnh phát danh tài: Cũng như trên cung mệnh không bị sát tinh xâm phạm. Cách này hợp với tuổi Giáp Kỷ. Vậy cho nên nếu tuổi giáp kỷ có cách này tất hoạn phát công danh, và được hưởng phú quý tới tột bậc.

Dần mộc, Phủ, Vi hữu hội tam kì, Kình, Bật, Cư lai thân mệnh xuất võ do văn, uy quyền quy phụ chung nhân, mạc phùng không, kiếp hư vô:  Cung mệnh hay cung thân an tại Dần có sao Thiên Phủ tọa thủ và Tử Vi đồng cung lại gặp Khoa, Quyền, Lộc hội họp cùng với Kình, Bật là người có văn chức, nhưng gặp thời loạn, nhưng kiêm nhiếp cả quản sự, có uy quyền lớn, khiến mọi người phải phục tùng kính nể. Nhưng nếu gặp cách này mà gặp Tuần, triệt án ngữ hay thiên không, địa không, địa kiếp thì sẽ không được kể đến.

Phủ, Vũ Tý cung, Giáp, Đinh-nhân tọa, phúc vượng danh ba, hung lai Tuần, Triệt, danh sú nhân khi ư Canh Nhâm-tuế, tìa phúc trường hành: Tuổi Giáp, Đinh có cung mệnh an tại Tý, có Phủ, Vũ tọa thủ đồng cung, nên được hưởng phúc giàu sang và có danh tiếng lẫy lừng. Nhưng nếu gặp Tuần, triệt án ngữ thì lại mang tiếng xấu và bị nhiều người khinh bỉ, công danh cũng trắc trở, tài lộc cũng suy kém. Những tuổi khắc nếu có cách này, thường được luận đoán như trên. Nhưng riêng hai tuổi Canh và Nhâm mà có cung mệnh an tại Tý, có Phủ, Vũ tọa thủ đồng cung, dù gặp tuần, triệt án ngữ cũng không bị mang tiếng xấu, vẫn có tài lộc và hưởng phúc.

Thiên Phủ cư Ngọ, Tuất, Thiên Tướng lai triều Giáp-nhân nhất hẩm chi quý: Cung mệnh an tại cung ngọ và Tuất có Thiên Phủ tọa thủ lại gặp Thiên Tướng hợp chiếu, tất có quan chức và được hưởng giàu sang. Riêng tuổi Giáp, nếu có cách này lại rất nguy hiểm.

 Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Đồng, Quân thần khánh hội: Cung mệnh có sao Thiên Phủ tọa thủ gặp Thiên Tướng hợp chiếu, nhị hợp có Thiên Lương thì rất rực rỡ và tốt đẹp được ví như vua tôi khánh hội ở trốn triều đình. Nếu có cách này chắc chắn sẽ đưởng hưởng giàu sang.

Thiên Phủ, Văn Xương, Văn khúc, Tả, Hữu, cao đệ ân vinh: Cung mệnh có Phủ tọa thủ, gặp xương, khúc, tả, hữu hội họp thì người được vinh hiển, có danh giá hơn người.

Thiên Phủ, Thiên Tướng đồng lai hội mệnh-cung: Cung mệnh có Thiên Phủ tọa thủ, có Thiên Tướng hội chiếu nên rất sung túc, thừa cơm ăn áo mặc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Phủ - Nhân hậu, từ thiện và gia tăng tài lộc

Đón năm mới kiểu kỳ quặc để mong được may mắn

Ra nghĩa trang hoặc đốt hình nộm, mặc nội y rực rỡ… đều là những phong tục đón năm mới lạ lùng trên thế giới.
Đón năm mới kiểu kỳ quặc để mong được may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ra nghĩa trang hoặc đốt hình nộm, mặc nội y rực rỡ… đều là những phong tục đón năm mới lạ lùng trên thế giới, thế nhưng tất cả cùng có chung một mục đích là mong muốn một năm mới tràn đầy may mắn và hạnh phúc.


► Tra cứu Lịch vạn niên 2017 đã có tại Lichngaytot.com

1. Không được phơi đồ lót
 
Tục lệ đón năm mới của người dân Cộng Hòa Séc vô cùng cấm kỵ việc phơi đồ lót vào những ngày đầu năm. Nếu phạm phải điều này thì trong năm gia đình đó sẽ có tang, một thành viên trong gia đình sẽ qua đời. Ngoài ra, người dân nơi đây cũng kiêng việc quét và đổ rác vào thời điểm linh thiêng này.   2. Ném lựu vào tướng

Người dân Hy Lạp có tục lệ ném lựu vào tường để chào đón năm mới. Vào thời khắc giao thừa, người mẹ trong gia đình sẽ cầm lựu và ném vào tường, nếu quả lựu vỡ ra, hạt lựu bắn tung tóe khắp nơi thì năm đó gia đình sẽ gặp nhiều may mắn. Người Hy Lạp còn cho rằng việc ôm đá đặt trước cửa nhà cũng là một hành động rước lộc vào nhà.

6 điềm lành báo hiệu năm mới may mắn, tốt lành
Người Việt có câu: “Có thờ có thiêng có kiêng có lành”. Vì thế, trong những ngày Tết, người Việt đặc biệt cẩn trọng trong mọi việc. Nếu năm mới gặp những điều
  3. Ăn nho xanh và mặc nội y đỏ

Ăn nho xanh và mặc nội y đỏ là cách mà người dân Venezuela hay Tây Ban Nha chào đón năm mới. Vào đên giao thừa, người ta sẽ ăn 12 quả nho tượng trưng cho 12 điều ước và mặc nội y đỏ để mong muốn một năm mới tràn ngập may mắn.

4. Tắm sông

Theo quan niệm của người Argentina thì nước là thứ tinh khiết nhất. Bởi vậy vào ngày Tết, họ rắc đầy cánh hoa hồng lên mặt nước sông và rủ nhau cùng xuống sông tắm. Họ dùng cánh hoa tươi để chà lên da với mong muốn loại bỏ hết xui xẻo của năm cũ và mong một năm mới tốt lành.

Don nam moi kieu ky quac de mong duoc may man hinh anh
Đốt hình nộm để rũ bỏ muộn phiền năm cũ

5. Đốt hình nộm

Người dân Colombia và Ecuador vào thời khắc giao thừa sẽ mang hình nộm ra đốt, với mong muốn đốt bỏ hết những xui xẻo của năm cũ.    Riêng hình nộm của người Colombia thì có tên là “Mr Old Year” – Ngài Năm Cũ, bên trong hình nộm có chứa những đồ cũ, đồ bỏ đi hoặc những đồ gợi nhớ về kỷ niệm buồn của năm cũ . Việc này có ý nghĩa rằng rũ bỏ mọi muộn phiền của năm đã qua.   6. Ăn 12 bữa vào đêm giao thừa

Đất nước Estonia có tục lệ ăn 12 bữa vào đêm giao thừa để chào đón năm mới. Họ tin rằng việc ăn 7, 9 hay 12 bữa sẽ tiếp thêm cho họ sức mạnh, nếu họ không ăn hết thì linh hồn của người đã khuất sẽ thưởng thức nốt phần còn lại.

8 món không nên ăn ngày đầu tháng để tránh vận đen đủi
Đôi khi, gặp phải vận hạn quá xấu, người ta thường đổ lỗi cho việc tháng ăn mình ăn món xyz nên bị đen. Vậy để tránh gặp vận xui thì vào những ngày đầu năm mới

7. Mặc nội y sắc màu

Các quốc gia khu vực Nam Mỹ như Mexico hay Brasil lại có phong tục đón Tết khá lạ lùng, đó là mặc nội y thật rực rỡ. Màu vàng và đỏ là 2 màu được ưa chuộng nhất vì nó mang lại nhiều may mắn. Còn với những người còn FA thì sẽ tìm được một nửa của mình trong năm mới.   8. Ra nghĩa trang để đón Giao thừa

Nghĩa trang tại khắp nơi trên đất nước Chile sẽ sáng rực vào đêm Giao thừa, do người dân sẽ tới đây và cùng người thân đã mất của mình cùng đón khoảnh khắc thiêng liêng này, việc này còn sưởi ấm những ngôi mộ lạnh lẽo.    Người dân sẽ mang nến thơm, hoa, mở nhạc nhẹ… và cùng nhau ngồi ôn lại kỷ niệm về người đã khuất cũng như là kỷ niệm về một năm cũ đã qua.

Don nam moi kieu ky quac de mong duoc may man hinh anh 2
Càng vỡ nhiều bát đĩa thì càng may mắn

9. Bát đĩa vỡ càng nhiều càng tốt

Với người Việt cũng như một số dân tộc khác thì việc bát đĩa vỡ là vô cùng xui xẻo, lại càng kiêng kỵ việc vỡ bát đĩa vào ngày mùng 1 hàng tháng hay ngày đầu năm mới. Thế nhưng, với người dân Đan Mạch thì bát đĩa vỡ càng nhiều thì lại càng may mắn.    Người Đan Mạch sẽ giữ lại những bát đĩa cũ trong năm và chờ tới đêm Giao thừa thì … ném sang nhà người khác. Trước cửa nhà nào có nhiều bát thì chứng tỏ nhà đó có nhiều bạn bè và năm mới sẽ gặp nhiều may mắn.
 
10. Mặc quần áo chấm bi Chấm bi vẫn là “mốt” thời trang được chị em phụ nữ ưa chuộng, và người dân Philippin đặc biệt ưa chuộng “mốt” này vào ngày đầu năm mới. Người dân Philippin quan niệm rằng hình tròn tượng trưng cho sự may mắn và thịnh vượng, chính vì vậy, vào ngày Tết, người dân sẽ mặc đồ có hình tròn để mong một năm được viên mãn, đường phố cũng tràn ngập các biểu tượng, hoa văn hình tròn.   P.T (Tổng hợp)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đón năm mới kiểu kỳ quặc để mong được may mắn
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd