Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Ý nghĩa của 12 con Giáp và các con số liên quan

Ý nghĩa của 12 con Giáp và các con số liên quan, ai là người nghĩ ra 12 con vật tượng trưng cho 12 con giáp, giờ tính theo can chi có liên quan gì tới 12 con vật?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa của 12 con Giáp và các con số liên quan

Ý nghĩa của 12 con Giáp và các con số liên quan

Ý nghĩa tượng trưng về 12 con giáp

Người xưa quan niệm Thiên là căn bản gốc, Địa là ngọn ngành. Lập ra Thiên can người xưa lấy số Dương của Hà Đồ (số lẻ) là 1, 3, 5, 7, 9, lấy số 5 ở giữa gấp đôi lên để bao hàm cả âm can (Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý) và cả dương can (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm), tất cả 10 can theo thứ tự Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Địa chi lấy số âm (số chẵn) là 2, 4, 6, 8, 10. Lấy số 6 ở giữa nhân gấp đôi để tạo thành 12 chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi bao gồm cả dương chi (Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất) và âm chi (Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi).

Thời xa xưa lấy Mặt Trời làm gốc: "Mặt Trời mọc thì đi làm, Mặt Trời lặn thì nghỉ." Gặp hôm trời u ám không thấy Mặt Trời, thật chả biết dựa vào đâu. Tương truyền có một người tên là Đại Nhiêu đã lập ra Thập can và Thập nhi chi để tính thời gian.

Thập can và Thập nhi chi phối hợp với nhau để sinh ra Lục thập hoa giáp (chu kỳ 60 năm gọi là Nguyên).

Việc tính giờ theo can chi cũng phần nào liên quan đến tập tính của các con vật.

Tý (23-1 giờ): Lúc chuột đang hoạt động mạnh.

Sửu (1-3 giờ): Lúc trâu đang nhai lại, chuẩn bị đi cày.

Dần (3-5 giờ): Lúc hổ hung hãn nhất.

Mão (5-7 giờ): Việt Nam gọi mèo, nhưng Trung Quốc gọi là thỏ, lúc trăng (thỏ ngọc) vẫn còn chiếu sáng.

Thìn (7-9 giờ): Lúc đàn rồng quây mưa (quần long hành vũ). Rồng chỉ là con vật do con người tưởng tượng ra, chứ không có thực.

Tỵ (9-11 giờ): Lúc rắn không hại người.

Ngọ (11-13 giờ): Ngựa có dương tính cao.

Mùi (13-15 giờ): Lúc dê ăn cỏ không ảnh hưởng tới việc cây cỏ mọc lại.

Thân (15-17 giờ): Lúc khỉ thích hú.

Dậu (17-19 giờ): Lúc gà bắt đầu lên chuồng.

Tuất (19-21 giờ): Lúc chó phải tỉnh táo để trông nhà.

Hợi (21-23 giờ): Lúc lợn ngủ say nhất.

Ý nghĩa tượng trưng của “12 con giáp

Tại Việt Nam, lịch được lập theo các chu kỳ thay đổi đều đặn của Mặt Trăng. Vì sử dụng theo lịch âm nên các ngày chính xác của một năm mới luôn thay đổi theo từng năm. Mỗi năm đều được "hộ trì" bởi một trong số mười hai con vật.

Theo cung Hoàng đạo của người Việt, con đầu tiên là con Chuột (Tý), sau đó là con Trâu (Sửu) và tiếp đến theo thứ tự là con Hổ (Dần), Mèo (Mão), Rồng (Thìn), Rắn (Tỵ), Ngựa (Ngọ), Dê (Mùi), Khỉ (Thân), Gà (Dậu), Chó (Tuất) và cuối cùng là con Lợn (Hợi). Trong số các con giáp này thì con Rồng là con vật thần thoại và Tý, Dần, Tỵ và Thân là những con vật sống hoang dã và thường tránh gặp con người. Bảy con còn lại là những vật nuôi trong nhà. Cứ mỗi chu kỳ 12 năm, lại mang tên con vật cũ.

Ngoài ra, người Việt còn tính theo chu kỳ 60 năm. Chu kỳ này được lập theo sự kết hợp của mười hai con vật là các biểu tượng cụ thể theo cung hoàng đạo của người Việt và 10 dấu hiệu của bầu trời. Lịch của người châu Á được lập theo chu kỳ 60 năm tương đương với chu kỳ một thế kỷ 100 năm của người châu Âu. Mỗi năm ảnh hưởng đối với con người tùy theo những biểu tượng của họ là hội tụ hay phân kỳ.

Sau đây là 12 con vật đại diện 2 giờ đồng hồ trong một ngày 24 tiếng.

Tý (Chuột): Người mang tuổi Tý rất duyên dáng và hấp dẫn người khác phái. Tuy nhiên, họ rất sợ ánh sáng và tiếng động. Người mang tuổi này rất tích cực và năng động nhưng họ cũng thường gặp lắm chuyện vặt vãnh. Người mang tuổi Tý cũng có mặt mạnh vì nếu Chuột xuất hiện có nghĩa là phải có lúa trong bồ.

Sửu (Con Trâu): Trâu tượng trưng cho sự siêng năng và lòng kiên nhẫn. Năm này có tiến triển vững vàng nhưng chậm và một sức mạnh bền bỉ; người mang tuổi Sửu thường có tính cách thích hợp để trở thành một nhà khoa học. Trâu biểu tượng cho mùa Xuân và nông nghiệp vì gắn liền với cái cày và thích đầm mình trong bùn. Người mang tuổi này thường điềm tĩnh và rất kiên định nhưng rất bướng bỉnh.

Dần (Hổ): Những người mang tuổi hổ thường rất dễ nổi giận, thiếu lập trường nhưng họ có thể rất mềm mỏng và xoay chuyển cá tính cho thích nghi với hoàn cảnh. Hổ là chúa tể rừng xanh, thường sống về đêm và gợi lên những hình ảnh về bóng đen và giông tố. Giờ Dần bắt đầu từ 3 giờ đến 5 giờ khi cọp trở về hang sau khi đi rình mò trong đêm.

Mão (Mèo): Mèo tượng trưng cho những người ăn nói nhẹ nhàng, nhiều tài năng, nhiều tham vọng và sẽ thành công trên con đường học vấn. Họ rất xung khắc với người tuổi Tý. Người tuổi Mão có tinh thần mềm dẻo, tính kiên nhẫn và biết chờ thời cơ trước khi hành động.

Thìn (Rồng): Con rồng trong huyền thoại của người phương Đông là tính Dương của vũ trụ, biểu tượng uy quyền hoàng gia. Theo đó, rồng hiện diện ở khắp mọi nơi, dưới nước, trên mặt đất và không trung. Rồng là biểu tượng của nước và là dấu hiệu thuận lợi cho nông nghiệp. Người tuổi Rồng rất trung thực, năng nổ nhưng rất nóng tính và bướng bỉnh. Họ là biểu tượng của quyền lực, sự giàu có, thịnh vượng và của hoàng tộc.

Tỵ (Rắn): Người tuổi rắn nói ít nhưng rất thông thái. Họ thích hợp với vùng đất ẩm ướt. Rắn tượng trưng cho sự tiến hóa vĩnh cửu của tuổi tác và sự kế vị, sự phân hủy và sự nối tiếp các thế hệ của nhân loại. Người tuổi rắn rất điềm tĩnh, hiền lành, sâu sắc và cảm thông nhưng thỉnh thoảng cũng hay nổi giận. Họ rất kiên quyết và cố chấp.

Ngọ (Ngựa): Người tuổi Ngọ thường ăn nói dịu dàng, thoải mái và rộng lượng. Do đó, họ dễ được nhiều người mến chuộng nhưng họ ít khi nghe lời khuyên can. Người tuổi này thường có tính khí rất nóng nảy. Tốc độ chạy của ngựa làm người ta liên tưởng đến mặt trời rọi đến trái đất hàng ngày. Trong thần thoại, mặt trời được cho là liên quan đến những con ngựa đang nổi cơn cuồng nộ. Tuổi này thường được cho là có tính thanh sạch, cao quý và thông thái. Người tuổi này thường được quý trọng do thông minh, mạnh mẽ và đầy thân ái tình người.

Mùi (Dê): Người mang tuổi Mùi thường rất điềm tĩnh nhưng nhút nhát, rất khiêm tốn nhưng không có lập trường. Họ ăn nói rất vụng về, vì thế họ không thể là người bán hàng giỏi nhưng họ rất cảm thương người hoạn nạn và thường hay giúp đỡ mọi người. Họ thường có lợi thế vì tính tốt bụng và nhút nhát tự nhiên của họ.

Thân (Khỉ): Người tuổi Thân thường là một nhân tài có tính cách thất thường. Họ rất tài ba và khéo léo trong các vụ giao dịch tiền bạc. Người tuổi này thường rất vui vẻ, khéo tay, tò mò và nhiều sáng kiến, nhưng họ lại nói quá nhiều nên dễ bị người khác xem thường và khinh ghét. Khuyết điểm của họ nằm trong tính khí thất thường và không nhất quán.

Dậu (Gà): Năm Dậu tượng trưng cho một giai đoạn hoạt động lao động cần cù siêng năng vì gà phải bận rộn từ sáng đến tối. Cái mào của nó là một dấu hiệu của sự cực kỳ thông minh và một trí tuệ bác học. Người sinh vào năm Dậu được xem là người có tư duy sâu sắc. Đồng thời, gà được coi là sự bảo vệ chống lại lửa. Người sinh vào năm Dậu thường kiếm sống nhờ kinh doanh nhỏ, làm ăn cần cù như "một chú gà bới đất tìm sâu."

Tuất (Chó): Năm Tuất cho biết một tương lai thịnh vượng. Trên khắp thế giới, chó được dùng để giữ nhà chống lại những kẻ xâm nhập. Những cặp chó đá thường được đặt hai bên cổng làng để bảo vệ. Năm Tuất được tin là năm rất an toàn.

Hợi (Lợn): Lợn tượng trưng cho sự giàu có vì loài lợn rừng thường làm hang trong những khu rừng. Người tuổi Hợi rất hào hiệp, galăng, tốt bụng và dũng cảm nhưng thường rất bướng bỉnh, nóng tính nhưng siêng năng và chịu lắng nghe..


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của 12 con Giáp và các con số liên quan

Thấm nhuần chữ Đạo, phải có Đức mới tìm thấy Đạo

Chữ Đạo thể hiện dạng chữ viết tiếng Hán: 道, có nhiều ý nghĩa khác nhau, không phải ai cũng lĩnh hội hết. Dưới góc nhìn Phật giáo, Đạo là rất cao siêu.
Thấm nhuần chữ Đạo, phải có Đức mới tìm thấy Đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Chữ Đạo (thể hiện dạng chữ viết tiếng Hán: 道), có nhiều ý nghĩa khác nhau, không phải ai cũng lĩnh hội hết. Dưới góc nhìn Phật giáo, Đạo là rất cao siêu, khó mà giải rõ nghĩa được vì Đạo không có hình trạng như các sự vật ở thế gian.

 

 

1. Chữ Đạo dưới góc nhìn Phật giáo

  Nghĩa lý chữ Đạo ((道) rất cao siêu, khó mà giải rõ được, vì Đạo không có hình trạng như các sự vật ở thế gian.
 
Đức Thích Ca gọi Đạo là Chân Nhân, là Phật Tính, là Bồ Đề.
 
Đức Lão Tử gọi Đạo là Cốc Thần, là nguồn sinh ra Vũ Trụ vạn vật.
 
Đức Khổng Tử gọi Đạo là Thái Cực, là Thiên lý.
 
Danh từ tuy khác nhau, chớ tựu trung điều chỉ cái nguồn cội của Càn Khôn Vũ Trụ và Vạn Vật. Cái nguồn cội ấy khi còn bất động gọi là Đạo. Còn khi đã động mà chuyển hóa thì gọi là Đấng Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Trời vậy.
 
Đức Lão Tử lại nói:
 
“Đạo mà nói ra được thì chẳng phải Chân Đạo, Danh mà gọi là được thì không phải thật danh”.
 
Kinh Phật lại nói:
 
“Đạo khó mà nói ra. Học giả phải tự mình tỏ ngộ lấy”.
 
Tham nhuan chu Dao, phai co Duc moi tim thay Dao hinh anh
 
Ví dụ một người câm thấy cảnh chiêm bao như thế nào rồi mà mô tả lại cho người khác biết. Chúng ta muốn giải lý cho rõ cái Đạo thì chẳng khác nào người câm muốn giải rõ chuyện chiêm bao kia vậy.
 
Bởi vì Đạo là chân lý tuyệt đối, bổn tánh của Đạo là Hư-không lặng lẽ, xem chẳng thấy, lóng chẳng nghe, rờ không đụng, không lớn, không nhỏ, không trước, không sau, không thể dùng lời nói mà diễn tả được, hoặc đem ra mà so sánh. Đạo sinh ra Trời Đất vạn vật, lưu hành trong Vũ Trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu bên trong để điều hòa, trưởng dưỡng cho nó. Đạo là tinh thần của Trời, Đất, Vạn vật mà Trời, Đất, Vạn vật là bản thể của Đạo.
 
Nhưng Đạo vốn vô hình, cho nên muốn trình bày cái Đạo ra, tất phải mượn hữu hình để phô bày cái “Dụng” mà thiệt hành cái “Thể”. Ví dụ ta có một tư tưởng nào, cái tư tưởng ấy vốn vô hình, mà muốn trình bày nó ra cho người ta biết, cần phải mượn văn chương là vật hữu tình.
 
Vì lẽ đó mới phát sinh nhiều tôn giáo là những cái “Dụng” của Đạo như Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo...
 
Các tôn giáo vốn một gốc mà ra vẫn tôn thờ Đấng Chúa Tể, Càn Khôn Thế giới, chỉ vì khác ngôn ngữ mà xưng tụng bằng danh hiệu khác nhau. Như Phật giáo gọi Đấng ấy là A Di Đà, Do Thái giáo gọi là Jéhovah, Hồi giáo gọi là Allah, Ấn Độ giáo gọi là Brahma, Ai Cập gọi là Osiris, Công giáo gọi là Đức Chúa Trời, người Việt Nam gọi là Thượng Đế (Ông Trời), ngày nay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Cao Đài.
 
Mặc dầu các tôn giáo khác nhau về cách tổ chức và Lễ nghi tế tự, nhưng vẫn giống nhau ở chỗ lấy từ bi bác ái mà dạy chúng sanh, lấy sự “Chuyển mê khải ngộ” làm tôn chỉ, lấy sự giải thoát luân hồi làm cứu cánh.  

2. Giải nghĩa chữ “Đạo”


Tham nhuan chu Dao, phai co Duc moi tim thay Dao hinh anh
 
 
 
Chữ “Đạo” (道) mà chúng ta bàn luận ở đây có ở trong từ “Đạo Đức”với nghĩa ban đầu là cái đường thẳng, là cái lẽ mà nhất định ai nấy đều phải tuân theo mới duy trì được tầng Pháp thấp nhất của vũ trụ này.   Đạo (道) còn là trường phái Đạo Gia đi theo Lão Tử, người đã rời khỏi thế gian này một cách bí hiểm và vội vàng để lại 5000 chữ trong cuốn ĐẠO ĐỨC KINH.
 
Hiểu đạo, ta không thể dùng các thứ lý luận thông thường, mà hãy tu luyện để “đạt Ngộ”. Những chân lý mà người đời vẫn còn thấy bí hiểm sẽ triển hiện xuất lai. Sự khác nhau giữa duy vật và duy tâm đã là câu chuyện hài về con gà mái và quả trứng. Sự khác nhau giữa một hệ quy chiếu mà chúng ta đang sống với ức tỷ các hệ quy chiếu khác rất uyên áo của đại khung vũ trụ mênh mang quả là không thể nghĩ bàn.   Chữ Đạo có cấu trúc do 2 chữ hợp lại:
 
1. Bên phải là chữ THỦ (首) 2. Bên trái là bộ SƯỚC (辶)
 
Bản thân chữ THỦ này ngoài cái nghĩa quan trọng, cần thiết, trí tuệ thì cấu trúc của nó còn ẩn giấu những nội hàm văn hóa Thần truyền.   Trên cùng có dấu huyền và dấu sắc. Nam tả, nữ hữu, biểu tượng cho âm dương tương sinh tương khắc, hóa diễn mà thành vũ trụ muôn loài; để có Sinh Lão Bệnh Tử ở trong cõi bể dâu, để có “Thành Trụ Hoại Diệt” ở những đại khung, vũ trụ to lớn hơn…   Chữ thứ 2 trên xuống là chữ NHẤT. Kết hợp lại là Âm Dương thống nhất, hòa hợp, viên dung.   Ký hiệu thứ ba là dấu phẩy. Nó nối toàn bộ khối tương sinh tương khắc, Âm Dương nhất thống ở trên với chữ MỤC (目) là con mắt ở dưới. Như vậy dùng con mắt duy nhất, con mắt Thiên Mục, con mắt thứ ba (cái mà người tu luyện thường gọi một cách trang nghiêm là Đệ Tam Nhãn) của mình để câu thông với bản nguyên của vũ trụ, của sinh mệnh thì đó là cái đầu của trí huệ, cái đầu được khai sáng không phụ thuộc vào những nhận thức hậu thiên sai lạc, mê lầm của con người.
 
Đạo gia và Phật gia gặp nhau ở chỗ khẳng định tròng mắt thịt và tư tưởng con người khi nhìn và tư duy về thế giới chỉ thấy được ở cái tầng thấp nhất của vũ trụ với những gì bề ngoài hời hợt, nông cạn nhất mà thôi. Vì vậy Phật Thích Ca Mâu Ni nói nhân loại sống trong mê. Tất cả những gì họ cảm thụ, nhận thức được chỉ là huyễn tưởng, không thật là vì vậy!   Chữ bên trái là SƯỚC, chỉ bước đi chậm rãi, chắc chắn, có lựa chọn khi chuyển dời cơ thể hay tư tưởng của mình từ không gian, thời gian này đến một hệ thời – không khác.
 
Tóm lại Đạo chính là đường để trở về. Và người hạnh phúc nhất chính là người đã tìm thấy Đạo. Hãy trao cho mọi người tình thương và sự từ bi. Đó là khuyến thiện để mọi người tích Đức, giữ Đức. Có Đức, chúng ta hãy lên đường đến với Đạo, Đạo chỉ có được khi ta tích đủ Đức.  
T.H
Học một điều thôi, có thể sinh trăm phúc, nghênh vạn lành
Trong cuộc sống, bất cứ ai cũng có lần nổi nóng, thô bạo, nổi cơn thịnh nộ. Có người mặt mũi hiền lành, lương thiện nhưng khi đụng chuyện lại mất kiểm soát,

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thấm nhuần chữ Đạo, phải có Đức mới tìm thấy Đạo

Cách bố trí đường vào nhà, lối đi và cửa trước hợp phong thủy

Phong thủy quan niệm lối đi và đường vào nhà là vấn đề rất quan trọng. Theo phong thủy, lối đi là phần đầu tiên của ngôi nhà, đón những vận may đến cho gia đình.
Cách bố trí đường vào nhà, lối đi và cửa trước hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi trở về ngôi nhà, chúng ta phải cảm thấy bị cuốn hút vào không gian sống của riêng mình khi bước qua khung cảnh dễ thương dù nó chật hẹp.

Nếu gia đình bạn sống ở chung cư, chúng ta cần tạo ra sự khác biệt cho không gian sống, biến nó thành một nơi mang vẻ độc đáo riêng: Chỉ với một tấm thảm chùi chân có màu sặc sỡ, một vài chậu kiểng, hay vài chi tiết trang trí nào đó.

Khu vực dẫn vào nhà

Nếu không cẩn thận, mảnh vườn trước nhà rất có thể trở thành nơi tích giữ năng lượng ứ đọng. Ở những khu nhà ở tạm thời, khi phần sân chung không được ai quan tâm, điều này có thể trở nên khó giải quyết vì không ai chịu chăm sóc khu vườn. Kết quả là các loại đồ đạc, vật dụng cũ và vô số các thứ rác rưởi khác đều được dồn hết ra đây. Các thùng rác được đặt ở vườn phía trước nên việc không dọn dẹp có thể ảnh hưởng nặng nề đến cảm xúc của chúng ta khi trở về nhà.

Do đó, thùng rác cần phải được đặt xa đường dẫn vào nhà, cách tốt nhất là nên giấu chúng sau hàng rào hay bờ giậu. Nếu một người có ý thức và làm việc đó thì những người khác cũng có thể bắt chước làm theo.

Lối đi vào nhà

Lối đi cần được thiết kế uốn lượn qua khu vườn để khi về nhà, chúng ta có thể xả bớt sự căng thẳng sau ngày dài làm việc hoặc cảm thấy được nghênh đón sau một chuyến đi xa.

Lối đi nếu được thiết kế chạy thẳng tắp từ ngoài đường vào đến cửa trước sẽ dẫn khí đi quá nhanh, vì vậy, chúng ta không có thời gian để chuyển đổi tâm trạng.

Một lối đi hoàn hảo là lối đi có một khoảng rộng thoáng ngay đầu ngõ để khí có thể ngưng tụ. Tuy nhiên, đây thường lại là nơi người ta đậu xe nên chẳng phân biệt được đây là nhà ở hay văn phòng làm việc.

Khi phải ép người để lách qua cái xe mới vào được nhà sẽ gây ra cảm giác ức chế, khó chịu như bị nhốt vào trong một không gian nhỏ bé và những hàng hiên chật hẹp bị vây kín cũng như tạo ra cảm giác bị kìm hãm. Tâm trạng này có thể được phản chiếu vào trong cách sống của chúng ta.

Cửa trước nhà

Cửa trước phải được giữ sạch sẽ và chăm sóc kỹ lưỡng. Các chậu cảnh nên đặt hai bên cửa nhưng không được lấn chiếm đường ra vào. Số nhà phải rõ ràng để có thể nhìn thấy vào ban ngày cũng như ban đêm, chuông cửa cần phải hoạt động tốt để giữ giao hảo với người gọi.

Màu sắc của cửa ra vào nên tuân theo màu của hướng la bàn mà cửa hướng đến và phải được cân bằng theo quy luật ngũ hành.

Ra khỏi nhà

Những gì chúng ta thấy khi bước chân ra khỏi nhà cũng có thể tác động đến chúng ta suốt một ngày. Những vật lớn thẳng hàng với cửa ra vào như cột điện và cây xanh là những xạ thủ bắn “khí độc” vào nhà chúng ta.

Góc của những tòa nhà kế cận cũng vậy. Nếu từ nhà nhìn ra ngoài mà tầm nhìn bị cản lại bởi bờ giậu hay tường rào cao, chúng ta có thể trở nên hẹp hòi, ích kỷ và cảm thấy chán chường.

Nếu sống trong môi trường hợp lý, chúng ta sẽ khỏe mạnh, vui vẻ, làm ăn phát đạt. Còn sống ở nơi luộm thuộm, thiếu hòa hợp thì sẽ dễ cáu gắt, khó chịu …

(Theo Báo Xây dựng Online)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí đường vào nhà, lối đi và cửa trước hợp phong thủy

Xem rốn đoán bạn là người thành công hay thất bại

Bạn sẽ là người có rốn tròn lạc quan, may mắn, rốn lồi bướng bỉnh, hay rốn lớn hướng lên trên là người thành công...
Xem rốn đoán bạn là người thành công hay thất bại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-1 xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-2 xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-3
Rốn tròn Rốn to Rốn nông Rốn lồi
xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-4 xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-5 xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-6 xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-7
Rốn hướng lên trên Rốn hướng xuống dưới Rốn hình trái xoan Rốn bè ngang
xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-8 xem-ron-doan-ban-la-nguoi-thanh-cong-hay-that-bai-9
 Rốn xoáy tròn Rốn hình 人

Mộc Trà (theo Avenue)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem rốn đoán bạn là người thành công hay thất bại

Tài lộc của người tuổi Dần theo từng tháng (P1)

Tài lộc của người tuổi Dần trong tháng Mão có chiều hướng tốt lên, thuận lợi, may mắn đã tìm đến với họ. Người này có thể vượt qua trở ngại trong công việc để
Tài lộc của người tuổi Dần theo từng tháng (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 1

Trong tháng Dần (tháng 1 âm lịch), tài lộc của người tuổi Dần không tốt, công việc gặp nhiều trở ngại, kinh doanh ít thu được lợi nhuận. Họ nên cảnh giác trong mọi hoàn cảnh, luôn giữ bình tĩnh để xử lý công việc một cách sáng suốt. Có như vậy, họ mới thu được kết quả tốt khi thực hiện kế hoạch mà mình đặt ra.

Tháng 2

mở ra một "vùng đất mới". Tuy nhiên, họ gặp phải sự đố kỵ của một vài đồng nghiệp. Người tuổi Dần nên hết sức thận trọng và nâng cao tinh thần cảnh giác, có sáng kiến mới phải làm việc nghiêm túc hết mình.

Tháng 3

Người tuổi Dần được sao tốt chiếu mệnh nên gặp nhiều may mắn trong tháng Thìn. Công việc không những đạt được kết quả tốt mà còn thu được nhiều lợi lộc "một công đôi việc". Họ được quý nhân phù trợ nên có khả năng tăng quan, tiến chức. Tài lộc của người này có nhiều khởi sắc, thu nhập tăng cao. Nếu biết nắm chắc cơ hội, thành công sẽ đến với họ. Tuy nhiên, vào cuối tháng, họ nên cẩn trọng, đề phòng mất cắp.

 

Tuoi Ty (4)
 

Tháng 4

Vận thế trong tháng Tỵ của người tuổi Dần có chiều hướng đi xuống. Nếu không giữ vững lập trường, họ sẽ gặp phải nhiều trở ngại trong công việc. Tháng này, người tuổi Dần cần cân nhắc thật kỹ trước khi hành động bất cứ việc gì. Hơn nữa, họ cũng nên bỏ đi những thành kiến không tốt để tập trung cho phát triển công việc nội bộ. Họ nên mở rộng các mối quan hệ với đồng nghiệp để mọi việc thuận lợi hơn.

Tháng 5

Vào tháng Ngọ, cung mệnh của người tuổi Dần có nhiều sao dữ chiếu mệnh nên tài lộc không được tốt lắm. Mọi công việc thường "giậm chân tại chỗ", không thể phát triển mạnh lên được. Lúc này, họ nên bình tĩnh ứng phó với mọi trở ngại đó. Hơn nữa, người này không nên đầu tư vào bất cứ việc gì để tránh tổn thất. Nếu nỗ lực cố gắng và chấp nhận khó khăn, họ có thể vượt lên nhanh chóng.

Tháng 6

Tháng Mùi, tài lộc của người tuổi Dần chuyển biến theo chiều hướng tốt lên. Họ nâng cao thu nhập từ bên ngoài một cách dễ dàng. Tuy nhiên, người này cũng cần chú ý đến những xu thế phát triển kinh tế xã hội, luôn dự phòng một khoản tiền bên mình. Đây là thời gian để họ bù đắp lại thiếu hụt về tài chính của những tháng trước.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài lộc của người tuổi Dần theo từng tháng (P1)

Tài lộc của người tuổi Sửu theo từng tháng (P2)

Vận thế tháng Dậu của người tuổi Sửu có chiều hướng đi xuống. Những nguy cơ tiềm ẩn từ trước dần hiện rõ ra.
Tài lộc của người tuổi Sửu theo từng tháng (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 7

Trong tháng Thân, người tuổi Sửu không nên nhờ cậy nhiều vào người khác trong tháng này mà cần tìm một hướng đi riêng theo khả năng của mình. Họ có nhiều tài lộc trong tháng này. Với sự nỗ lực của bản thân, người này sẽ thu được khá nhiều lợi nhuận vào đầu tháng. Tuy nhiên, họ phải biết dừng lại đúng lúc bởi trong cái may vẫn còn một số trở ngại.

Tháng 8

Vận thế tháng Dậu của người tuổi Sửu có chiều hướng đi xuống. Những nguy cơ tiềm ẩn từ trước dần hiện rõ ra. Họ nên sớm nhận biết để có biện pháp phòng tránh. Đặc biệt, người này nên chú ý đến công văn, giấy tờ, sổ sách để giảm thiểu sai sót không đáng mắc. Họ cũng cần quản lý tài chính cho tốt bởi tháng này phát sinh nhiều khoản chi ngoài dự kiến.

Tháng 9

Tháng Tuất, tài lộc của người tuổi Sửu không tốt, có thể gặp phải nhiều chuyện ngoài ý muốn. Bởi vậy, người tuổi Sửu nên đề cao cảnh giác, đề phòng tình trạng khó khăn về kinh tế. Trong tháng này, họ phải nhanh chóng có biện pháp ứng phó kịp thời với những biến đổi về môi trường làm việc và nhân sự; không nên can thiệp quá nhiều vào chuyện của đồng nghiệp hay những người xung quanh kẻo lại mang thêm khó khăn vào mình.

 

tuoi ty (7)
 

Tháng 10

Tài lộc trong tháng Hợi của người tuổi Sửu cũng không tốt. Họ gặp phải những trở ngại trong công việc, phải đối mặt với nhiều thách thức. Lời khuyên cho họ trong tháng này là luôn bình tĩnh, giữ vững vị trí của mình và kiên quyết trong mọi việc. Họ cũng nên cẩn trọng trong quản lý tài chính để tránh thâm hụt ngân sách. 

Tháng 11

Tài lộc trong tháng Tý của người tuổi Sửu có chiều hướng tốt lên, mọi vận xấu dần mất đi, khó khăn công việc cũng không còn. Cuộc sống của người này dần đi vào "quỹ đạo chính". Họ nên kết bạn với những người cùng chí hướng để có thể giúp đỡ nhau trong công việc. Đồng thời, người này phải tránh xa chuyện thị phi; không nên quá kín kẽ trong mọi vấn đề để có thể nhận được nhiều tài lộc hơn. 

Tháng 12

Tháng Sửu cuối năm, người tuổi Sửu có sao tốt chiếu mệnh nên vận thế đi lên, công việc phát triển thuận lợi, có nhiều tài lộc. Trong tháng này, họ nên chú ý nắm vững thời cơ để phát triển sự nghiệp; lên kế hoạch cụ thể cho từng dự án lớn. Họ sẽ thu được nhiều lợi nhuận trong đầu tư, chuyện hợp tác làm ăn đạt được "một công đôi việc".

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài lộc của người tuổi Sửu theo từng tháng (P2)

Tướng Học Mục Lục

Tổng Quát về Tướng Học
Tướng Học Mục Lục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1) Nhân tướng học & tiên liệu vận mạng
2) Ứng dụng Nhân tướng học vào việc xử thế
3) Tướng Phát  Đạt
4) Tướng Phá Bại
5) Thọ, Yểu qua tướng  người
6) Đoán tướng tiểu nhi
7) Phu Luân về tướng Phụ nữ
8) 36 tướng hình khắc
9) Những tướng cách phụ nữ
10) Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành
11) Ứng dụng của Âm Dương tron Tướng Học
12) Tương quan giữa Sắc và con người
13) Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông
14) Bàn tay và tính tình
15) Quan điểm của  Phật giáo về vấn đề xem Tử Vi - Bói Toán

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng Học Mục Lục

Vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 11

Người tuổi Tý được vận đào hoa, trong khi người tuổi Dần lại gặp vận đỏ về tiền bạc.
Vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 11

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-1
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-2
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-3
Sửu Dần Mão
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-4
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-5
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-6
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-7
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-8
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-9
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-10
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-11
Thân Dậu Tuất Hợi

Mr.Bull (Theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 11

Lựa chọn ghế ngồi trong văn phòng cần chú ý những vấn đề gì? –

Ghế ngồi trong văn phòng có rất nhiều loại, một bộ bàn ghế của người chủ quản công ty có tồn tại quan hệ tương ứng với việc phát triển sự nghiệp của công ty đó hay không? Ghế ngồi của chủ quản công ty phải có chỗ tựa lưng và kê tay, tuyệt đối không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ghế ngồi trong văn phòng có rất nhiều loại, một bộ bàn ghế của người chủ quản công ty có tồn tại quan hệ tương ứng với việc phát triển sự nghiệp của công ty đó hay không? Ghế ngồi của chủ quản công ty phải có chỗ tựa lưng và kê tay, tuyệt đối không thể dùng loại ghế không có tựa và tay cầm, nếu không sẽ không có sự đột phá nào, sự nghiệp ngày càng nhiều khúc mắc. Ngoài thì không được quý nhân biết tiếng, không được trợ giúp, nhân viên trong công ty cũng đèu làm việc không hbết khả năng của mình, nếu không thì cũng chẳng có cách nào giữ được lâu.

executive-offices-furniture-and-home-office-by-bb-italia533-x-302-26-kb-jpeg-x

Chính vì vậy, không nên coi thường bàn và ghế cảa văn phòng, nó chính là bộ nạp điện cho trường khí của bạn, cho nên tuyệt đối cần phải phối hợp với điểm thời gian phát triển sự nghiệp của công ty, lại có thể có cơ hội thành công.

Nói tóm lại, vị trí môi trường của văn phòng có quan hệ đến sự thành bại của một công ty, mà vị trí bàn làm việc cũng đủ để ảnh hường đến tài vận và quyền thế của một cơ quan.

Môi trường xung quanh của bàn làm việc cũng trực tiếp có quan hệ mật thiết đến người sử dụng, như: Cở thể của bạn có vấn đề sức khỏe, vấn đề tình cảm, có vấn đế về cát hung trong xử lý công việc.

Ngoài ra, hình dáng của bàn làm việc cũng ảnh hưởng đến sinh mệnh của cả một công ty. Cho nên chúng ta cần phải quan tâm, dự phòng đến chúng, dùng một số những biến hóa huyền diệu khiến cho bản thân bạn đạt được điểm cao nhất của sinh mệnh cơ quan, chiêu tài tiến bảo, mọi việc như ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa chọn ghế ngồi trong văn phòng cần chú ý những vấn đề gì? –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Trắc nghiệm: Bạn thuộc tướng cằm nào dưới đây?

Chủ nhân của tướng cằm vuông vức thường khá bướng bỉnh, cứng đầu, thậm chí đôi khi còn quá đáng, không nể nang ai bao giờ.
Trắc nghiệm: Bạn thuộc tướng cằm nào dưới đây?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Chủ nhân của tướng cằm vuông vức thường khá bướng bỉnh, cứng đầu, thậm chí đôi khi còn quá đáng, không nể nang ai bao giờ, khiến mọi người xung quanh thấy khó chịu, ngay cả người nhà, bạn bè tri kỉ cũng có cảm giác tương tự.

 
Trac nghiem Ban thuoc tuong cam nao duoi day hinh anh goc
 
1. Kiểu cằm vuông vức   Chủ nhân của tướng cằm vuông vức thường khá bướng bỉnh, cứng đầu, thậm chí đôi khi còn quá đáng, không nể nang ai bao giờ, khiến mọi người xung quanh thấy khó chịu, ngay cả người nhà, bạn bè tri kỉ cũng có cảm giác tương tự.   Thêm nữa, người này thẳng tính, xông xáo và rất quyết đoán, xử lý tình huống nhanh nhạy. Đôi khi, vì quá thẳng thắn nên cách bạn thể hiện bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình dễ dàng bị người  khác cho là xúc phạm.   Bạn có tự trọng cao, ít khi tỏ ra nhượng bộ, không giỏi nói lời đường mật. Bên cạnh đó, bạn thuộc tuýp thích giữ thể diện nên đôi khi cũng hiếu thắng, không chịu thua thiệt. Điều đó khiến bạn khó tìm được đối tượng ưng ý.   Giải mã bí mật cuộc đời nam giới qua chiếc cằm Xem đời người phụ nữ qua tướng cằm Phụ nữ cằm to thì khoái sex?
2. Kiểu cằm ngắn hoặc hẹp
  Đa phần những ai sở hữu kiểu cằm này thường rất nhạy bén, trí tuệ thông minh, tác phong làm việc nhanh nhẹn.   Nhưng khi cảm thấy bế tắc, áp lực trong công việc, sự sáng suốt ấy nhanh chóng biến mất. Thay vào đó, họ cũng dễ căng thẳng, có xu hướng chỉ trích chính mình và người khác quá nhiều. Thường họ không giỏi chuyện tự đánh giá bản thân nên đôi khi rơi vào thế bị động, không làm chủ được tình huống.   3. Kiểu cằm nhô ra phía trước   Khi nhìn nghiêng, thấy cằm hơi nhô ra thì rất có thể bạn thuộc tuýp tự tin và cuồng công việc. Kiểu người này giống như phích nước nóng, bề ngoài thì lạnh lùng nhưng bên trong ấm áp.   Trong tình yêu, bạn là đối tượng luôn được săn đón vì cách đối xử nhẹ nhàng và vô cùng tế nhị. Ai nấy đều muốn được bầu bạn, chia sẻ tâm tình hay tựa vào bờ vai vững chắc của bạn để có được cảm giác an toàn, hạnh phúc.  
Trac nghiem Ban thuoc tuong cam nao duoi day hinh anh goc
 
4. Kiểu cằm tròn đầy   Những người sở hữu tướng cằm tròn cực kỳ lạc quan, sống coi trọng tình cảm. Tuy nhiên, kiểu người này thường có tiền vận vất vả, phải bôn ba khắp nơi xây dựng cơ đồ. Đến trung và hậu vận thì vận thế khởi sắc, được hưởng vinh hoa phú quý.   Đàn ông nên thận trọng với 5 mẫu bạn gái có tướng mặt thâm hiểm Tướng mặt quý cô có phúc phận làm phu nhân của chính trị gia Tránh xa tướng mặt phụ nữ đi tới đâu gieo rắc tai họa tới đó
5. Kiều cằm dài
  Tướng cằm dài thường thấy ở những người trung thực, dễ gần và hòa đồng với tập thể. Đa phần những người này đều có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, viên mãn, con đàn cháu đống, cuộc đời bình yên, nhàn tản, không phải trải qua nhiều thăng trầm, sóng gió.   6. Kiểu cằm thụt vào trong   Sở hữu kiểu cằm này chứng tỏ bạn thuộc tuýp thân thiện, hòa đồng, được nhiều người yêu mến và thường gặp khá nhiều may mắn về tiền bạc. Chỉ tiếc một điều là, bạn thường xuyên do dự và lưỡng lự nên đôi khi tuột khỏi tay cơ hội phát triển sự nghiệp hay kiếm tiền. 
► Bói nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác

Ngọc Điệp
  Bật mí thú vị ít biết về nốt ruồi ở cằm nam giới
– Nếu phía cằm phải bất ngờ xuất hiện nốt ruồi, nhiều khả năng người thân trong nhà mắc trọng bệnh, sức khỏe giảm sút. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trắc nghiệm: Bạn thuộc tướng cằm nào dưới đây?

Cách hóa giải nhà có hung khí –

Chuông gió hóa giải hung khí cho ngôi nhà Chuông gió, gọi theo từ Hán là phong linh, được coi là một pháp khí hữu hiệu không thể thiếu trong phong thuỷ. Tuy nhỏ bé nhưng tác dụng của chuông gió là vô cùng kỳ diệu và không thể kể hết được. Nguồn gốc c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuông gió hóa giải hung khí cho ngôi nhà

Chuông gió, gọi theo từ Hán là phong linh, được coi là một pháp khí hữu hiệu không thể thiếu trong phong thuỷ. Tuy nhỏ bé nhưng tác dụng của chuông gió là vô cùng kỳ diệu và không thể kể hết được.

Nguồn gốc của phong linh:

Và theo quan niệm của đạo phật, cái gì tĩnh thì luôn biểu hiện cho sự chết chóc, ma quỷ, cái xấu; ngược lại những gì động, gây ra âm thanh thì biểu thị cho sự sống, điều tốt lành.

chuong-gia-1 Tín niệm “phong điều, vũ thuận” (mưa thuận, gió hòa), cơn gió mang tới sự mát mẻ, dễ chịu, điều an lành. Phong linh là vật nhạy gió, nó nhanh chóng rung lên từng hồi chuông báo hiệu khi có gió, tức điềm lành đến. Vì vậy, khi phong linh (chuông gió) reo lên thì điềm lành đã hiển hiện. Ý nghĩa của phong linh :

Trong phong thủy, phong linh hóa giải hung khí và mang lại điều an lành cho ngôi nhà.

Tuy nhỏ bé nhưng tác dụng của chuông gió là vô cùng kỳ diệu và không thể kể hết được. Nó có tác dụng tiêu tán, hoá giải hung khí án ngữ hoặc chiếu đến vị trí nào đó trong không gian. Treo chuông gió để hoá giải hung khí, biến hung thành cát. Đem lại cát khí, sự an lành và may mắn khi căn nhà, văn phòng hoặc cơ sở không may bị phạm những cấm kỵ

Treo chuông gió để hoá giải hung khí, biến hung thành cát. Đem lại cát khí, sự an lành và may mắn khi căn nhà, văn phòng hoặc cơ sở không may bị phạm những cấm kỵ.

chuong-gio-4 Ở đây, chúng tôi không bàn tới thuật phong thủy của chiếc chuông gió, nhưng nếu bạn thử treo một chiếc trong căn hộ của bạn, bạn sẽ thấy những tác dụng của nó. Nên treo ở giữa nhà hoặc trước cửa ra vào, cửa sổ ở hướng xấu của căn nhà, nếu treo chỗ có gió thì càng tốt vì âm thanh chuông gió phát ra sẽ có tác dụng hoá giải khí xấu rất hiệu quả.

Tượng trưng cho sự may mắn,thuận lợi.

Phong linh là hồn của gió, là sự hiệp hòa giữa chuông và gió để tạo nên một âm điệu của đất trời cỏ cây, của âm dương nhật nguyệt.

Phong linh còn thể hiện sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên – hài hòa giữa con người với đất trời.

Vị trí treo chuông gió hợp phong thủy: chuong-gio-7 Tốt nhất là nên treo chuông gió bằng kim loại có hình trụ tròn treo trên không, bởi đồ thuộc hành Kim sẽ tạo cho năng lượng chuyển lưu dễ dàng.   Chuông gió có thể làm chậm hoặc phân tán sự vận động của năng lượng, đẩy năng lượng tiêu cực ra khỏi phòng, lưu chuyển nguồn năng lượng đình trệ ở góc phòng hoặc nhà bếp. Chuông gió treo trước cửa có thể đem lại sự tích cực. Chuông gió treo trước bếp có thể tụ tài phú. Nhưng chuông gió bằng gỗ, sứ thì không thể đem lại hiệu quả như trên.

Chuông gió bằng kim loại thích hợp với hướng Tây, Tây Bắc và Bắc.

Chuông gió bằng sành sứ thích hợp ở hướng Tây Nam, Đông Bắc và trung tâm.

Chuông gió bằng gỗ thích hợp với hướng Đông, Đông Nam và Nam.

Một chiếc chuông gió làm bằng đất sét với hai trái tim rõ ràng là lựa chọn tuyệt vời cho hướng Tây Nam, Cung Tình Duyên, nên được đặt trong phòng nhà hoặc sân vườn.

Trong khi đó, chiếc chuông gió với hình ảnh đức Phật sẽ phát huy tác dụng với những nguồn năng lượng phong thuỷ ở hướng Đông Bắc là cung học thức.

chuong-gio-2 Dùng chuông gió có năm thanh kim loại để ngăn chặn vận rủi gây ra bởi những cấu trúc đối nghịch hoặc những mũi tên độc.

Để tăng cường vận may dùng chuông gió có sáu hoặc tám thanh.

Để tăng cường những thuận lợi về mặt quan hệ xã hội, bạn hãy treo chuông gió gồm hai hoặc chín thanh bằng pha lê, hoặc gốm sứ ở góc Tây Nam của phòng khách.

Không được áp dụng phương pháp này trong phòng ngủ hoặc phòng học.

Ngoài ra, để thu hút những người có nhiều ảnh hưởng và thế lực, bạn nên dùng chuông gió có sáu hoặc tám thanh kim loại và treo ở góc Tây Bắc của phòng khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải nhà có hung khí –

Bí quyết để có giấc ngủ ngon theo phong thủy

Để phát huy tối đa năng lượng trong cơ thể con người, cần phải duy trì giấc ngủ ngon - ngủ theo kiểu yoga. Nói một cách dễ hiểu, đó là ngủ vào thời gian thích
Bí quyết để có giấc ngủ ngon theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để phát huy tối đa năng lượng trong cơ thể con người, cần phải duy trì giấc ngủ ngon - ngủ theo kiểu yoga. Nói một cách dễ hiểu, đó là ngủ vào thời gian thích hợp nhất và đúng tư thế.

Nên ngủ trước 23h để có giấc ngủ ngon

Thời gian tốt nhất để đi ngủ là 23h bởi vì quá trình hồi phục tế bào trong cơ thể xảy ra vào giờ đầu tiên của vòng hoàng đạo, tức là giờ Tý (23-1h). Nếu cơ thể không ở trong trạng thái ngủ thì tế bào không thể hồi phục được và khí bị yếu đi. Theo thời gian, khi năng lượng không có cơ hội để phục hồi và làm mới lại, nó sẽ trở nên trì trệ, ứ đọng và tất nhiên bạn sẽ không thể hưởng được lợi ích từ môi trường xung quanh. Điều kiện phong thủy của ngôi nhà không thể giúp ích cho bạn nếu như khí của bạn bị suy yếu. Khi năng lượng không được phục hồi hoặc bổ sung, cơ thể sẽ mất khí lực và sức sống.

Ngủ trước 23h cũng là thời gian tốt và luôn được các nhà y học khuyến khích. Chỉ có lúc đó bạn mới có thể thâm nhập vào giấc ngủ sâu. Và để bảo đảm điều kiện phong thủy tốt nhất khi ngủ, bạn hãy nằm quay đầu về hướng tốt nhất dựa trên công thức tính Quái số - tức tìm hướng Sinh Khí của bạn. Ví dụ bạn là nam giới sinh năm 1990 thì Quái số của bạn là 1 và hướng Sinh Khí của bạn là hướng Đông Nam.

(Theo Phong thủy đem lại sức sống cho bạn)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết để có giấc ngủ ngon theo phong thủy

Đặt tên cho con theo Mệnh Hỏa –

Mệnh của con người là do trời ban, mỗi năm sinh sẽ có một mệnh khác nhau thuộc vào 1 trong 5 mệnh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cha mẹ muốn con cái có cuộc sống sau này được thuận lợi, may mắn thì nên đặt tên con hợp phong thủy, hợp mệnh của con cũng nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ư nên xem xét kỹ cả giờ, ngày sinh và tháng sinh của con trước khi đặt tên cho con.

Theo phong thủy, tất cả vạn vật trong vũ trụ đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Theo nguyên lý cơ bản, năm ngũ hành này tương sinh, tương khắc với nhau.

– Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

– Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Với mệnh Hỏa cha mẹ có thể đặt tên con liên quan đến đất (Thổ), cây (Mộc) hay lửa (Hỏa) bởi Thổ sinh ra Mộc, Mộc sinh ra Hỏa.

Đặt tên cho con

Khái niệm Hành Hỏa chỉ mùa hè, lửa và sức nóng. Hỏa có thể đem lại ánh sáng, hơi ấm và hạnh phúc, hoặc có thể tuôn trào, bùng nổ và sự bạo tàn. Ở khía cạnh tích cực, Hỏa tiêu biểu cho danh dự và sự công bằng. Ở khía cạnh tiêu cực, Hỏa tượng trưng cho tính gây hấn và chiến tranh.

– Tích cực: Người có óc canh tân, khôi hài và đam mê.
– Tiêu cực: Nóng vội, lợi dụng người khác và không mấy quan tâm đến cảm xúc

Đặt tên cho bé gắn với hành Hỏa, bố mẹ có thể chọn:

Đặt tên cho con gái

– Cho bé trai, có những cái tên đẹp như:

  • Ánh
  • Cẩm
  • Cẩn
  • Đài
  • Đan
  • Dung
  • Hạ
  • Hồng
  • Huyền
  • Linh
  • Ly
  • Thu

Đặt tên cho con trai

– Cho bé trai, có những cái tên đẹp như:

  • Bính
  • Đăng
  • Đức
  • Dương
  • Hiệp
  • Huân
  • Hùng
  • Huy
  • Lãm
  • Lưu
  • Luyện
  • Minh
  • Nam
  • Nhật
  • Quang
  • Sáng
  • Thái

Đó là những cái tên thật ý nghĩa để các bạn có thể lựa chọn và đặt tên phong thủy mệnh Hỏa cho bé. Những cái tên này sẽ đơn giản hóa cho các mẹ mỗi khi phải bỏ nhiều thời gian để lựa chọn một cái tên phù hợp với con yêu của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con theo Mệnh Hỏa –

Thiết kế cửa sổ –

Cách thiết kế cửa sổ có thể quyết định sự lưu thông của không khí. Cửa sổ nên được mở hoàn toàn. Có thể thiết kế cánh cửa mở theo hướng ra ngoài hoặc vào trong, không được mở hướng lên trên hoặc nghiêng xuống dưới. Cửa sổ mở theo hướng từ trong ra n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

53599ewindow11369221333

goài là lí tưởng nhất vì một cánh cửa sổ như thế có thể tăng cơ hội phát triển sự nghiệp của người chủ nhà.

Khi ở trạng thái mở rộng, nó tạo điều kiện cho một lượng lớn không khí từ bên ngoài đi vào trong nhà, đồng thời còn có tác dụng đưa các khí bụi bẩn ra khỏi nhà. Ngược lại, cửa sổ mở hướng vào trong sẽ ảnh hưỏng không tốt đến quá trình lưu thông khí và sự nghiệp của chủ nhà. Khi mở cửa, tốt nhất không để có một vật cản nào ngăn cản không khí lưu thông.

Ngoài ra, còn phải chú ý tránh có ba cửa hoặc cửa sổ trở lên trên cùng một hướng.

Lưu thông không khí rất có lợi cho không gian môi trưòng trong nhà ở cũng như sức khỏe của mọi người trong gia đình, vì thế có nhiều người cho rằng trong nhà có càng nhiều cửa càng tốt. Trên thực tế, quan niệm đó không chính xác. Vì nếu có quá nhiều cửa sẽ dẫn đến lượng khí lưu thông quá lớn. Điều này hoàn toàn không có lợi đối với khí trong cơ thể con người, sẽ ảnh hưởng sức khoẻ, và gây tổn thất về của cải. Hơn nữa, lượng khí lưu thông quá mạnh sẽ chia ngôi nhà thành hai nửa, dẫn đến gia đình bất hòa. Vì thế nên tránh làm nhiều cửa trên cùng một hướng.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiết kế cửa sổ –

Cách cục Thiên Phủ triều viên (Thiên Phủ chầu Mệnh)

Sao Thiên Phủ nhập miếu trấn Mệnh tại cung Thìn hoặc Tuất, đồng cung với Liêm Trinh, không bị sát tinh xung phá.
Cách cục Thiên Phủ triều viên (Thiên Phủ chầu Mệnh)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ưu điểm: Quan cao, chức trọng, phúc, quý song toàn. Mệnh nữ trung trinh hiền thục. Nếu sao Tả Phụ cùng trấn mệnh, tại cung tam phương tứ chính có sao hóa cát chầu về là cực quý.
Khuyết điểm: Bất lợi cho hôn nhân, tình duyên, nên kết hôn muộn.

Hai sao Thiên Phủ, Liêm Trinh trấn Mệnh tại cung Tuất, lại gặp các cát tinh Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội, không có sát tinh mới được coi là phù hợp với cách cục này,. Nếu có Tả Phụ hoặc Hữu Bật tại cung mệnh mới tốt đẹp, tốt nhất cho người sinh năm Giáp, Kỷ, tiếp đến là sinh năm Đinh. Cung Tuất là vị trí của quẻ Càn, là ngôi vị của Vua, Thiên Phủ là bề tôi. Nếu lá số được cách cục này, chủ về đại phú, đại quý.

Ca quyết:
Càn vi quân tượng, Phủ vi thần
Đắc địa lai triều phúc tự tân
Phụ Bật trung thần thân báo quốc
Yêu kim y tử bái trùng huy

Nghĩa là:
Càn là tượng vua phủ bầy tôi
Đắc địa đến chầu phúc tự đầy
Phụ Bật tôi trung vì đất nước
Đai vàng áo tía tại cung mây

Trong kinh có viết: "Thiên Phủ tại Tuất có sao phò trợ, đai vàng áo tía", "Phụ phủ đồng cung, tôn cư vạn thặng" (Tả phụ, Thiên phủ đồng cung, ngôi cao chót vót).

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Thiên Phủ triều viên (Thiên Phủ chầu Mệnh)

8 mẹo nhỏ xua vận xui, mang may mắn

Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta có câu: 'Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi' .

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vỡ gương hay có một con mèo đen chạy vào nhà? Hay dạo gần đây bạn liên tiếp gặp những điềm xui xẻo trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như sự nghiệp xuống dốc, sức khỏe yếu kém, chuyện tình yêu không như ý? Dưới đây là một số mẹo mà ông cha hay áp dụng để xua đuổi những nguồn năng lượng tiêu cực cứ lởn vởn xung quanh.

1. Dùng muối

Dân gian Việt Nam có câu: 'Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi'. Theo quan niệm của người xưa, muối mặn có thể xua đuổi tà ma, đem lại nhiều may mắn trong gia đình. Bên cạnh đó, tục mua muối còn cầu mong sự đậm đà, hòa thuận trong tình cảm gia đình, sự mặn mà trong các quan hệ làm ăn... như vị đậm đà của muối. Người Việt thường hay rắc muối biển ở từng phòng và trước cửa nhà để xua tà khí, đón vận may.

Không chỉ riêng ở nước ta mà nhiều nền văn hóa trên thế giới đều coi muối là điềm lành. Để thoát khỏi những vận xui, bạn có thể cầm một nắm muối và ném qua vai trái của mình. Nhớ là vai trái vì ném qua vai phải còn mang lại gấp đôi xui xẻo. Ngoài ra, bạn có thể thanh lọc cơ thể bằng cách tắm nước muối. Đơn giản chỉ cần thêm hai muỗng canh muối vào nước tắm ấm. Chưa biết rằng có hiệu nghiệm thật không nhưng ít nhất da dẻ của bạn sẽ sạch sẽ mà nhờ đó tinh thần sảng khoái hơn.

 8 meo nho xua van xui, mang may man - 1

2. Hóa giải gương vỡ

Từ xa xưa, vỡ gương được coi là rất 'độc'. Khi vô tình làm vỡ gương, bạn không nên vứt các mảnh gương vỡ vào thùng rác. Sau khi thu dọn kĩ càng để tránh những mảnh vỡ gây bị thương cho người trong gia đình, bạn nên bọc tất cả vào một chiếc túi rồi đem đi chôn hoặc vứt xuống sông. 

 8 meo nho xua van xui, mang may man - 2

3. Thắp hương

Đốt hương trầm là một cách hiệu quả để gia tăng may mắn và hóa giải năng lượng tiêu cực. Khi tinh thần đang tồi tệ, bạn có thể chọn đốt hương có mùi cay nồng như gỗ đàn hương hoặc hoa nhài. Và khi thắp hương cho Thần Phật, gia tiên,...bạn nên thắp số lẻ chứ không phải là số chẵn. 

Nếu bạn đang gặp xui trong cuộc sống cá nhân, đốt hương tại nhà. Còn nếu bạn đang gặp vấn đề về công việc, hãy thắp hương trong văn phòng của bạn.

4. Mang bùa hộ mệnh

Bùa hộ mệnh là một cách tuyệt vời để mang may mắn cho bạn. Đó có thể là một chiếc dây chuyền, vòng đeo tay,...bất li thân của bạn. Một số những bảo bối phong thủy phổ biến nhất gồm:

- Chìa khóa: Một chùm dây đeo chìa khóa đã được sử dụng để mang lại may mắn từ thời xưa. Đeo chùm ba chìa khóa sẽ giúp bạn mở cánh cửa của giàu có, sức khỏe và tình yêu.

- Cỏ ba lá: Vì hiếm hoi giữa một rừng cỏ ba lá nên nếu như ai tìm được cho mình một cành cỏ bốn lá sẽ cực kì may mắn. Mỗi lá trên cành được coi là đại diện cho một khía cạnh trong cuộc sống: tiền bạc, danh vọng, tình yêu và sức khỏe.

5. Sử dụng đá phong thủy

Những loại đá khác nhau gắn liền với một truyền thuyết khác nhau và mang lại những điều tuyệt vời cũng chẳng hề giống nhau. Bài trí đá phong thủy tại phòng làm việc, nhà ở hay luôn mang theo bên người đều giúp bạn chống đỡ lại các nguồn năng lượng xấu.

Thạch anh phấn hồng sẽ gia tăng năng lượng tích cực để đẩy lùi tà khí. Đá xà cừ sẽ bảo vệ bạn khỏi những linh hồn bơ vơ - những người luôn cố gắng hút năng lượng và cảm xúc tích cực của bạn.  Thạch anh tím lại bảo vệ bạn khỏi những nguy hiểm khi đi du lịch. Một số loại đá phong thủy khác cũng có những tác dụng xua đuổi tà khí, mang vận may như: ruby, thạch anh, đá sapphire màu xanh, đá peridot xanh lục, đá thủy tinh núi lửa, đá trầm tích silic, đá mặt trăng, mã não đen, ngọc lục bảo,....

 8 meo nho xua van xui, mang may man - 3

6. Làm việc thiện

Một trong những cách tốt nhất để thay đổi vận may của mình là làm việc thiện. Khi bạn 'cho đi' thì sẽ có một ngày bạn 'nhận lại'. Đây là một cách để trả cho bất kỳ những điều xấu mà bạn đã làm trong kiếp này hoặc trước đó. Nâng cao nghiệp của bạn bằng cách làm từ thiện, giúp đỡ người già vô gia cư hoặc trẻ em mồ côi.

Điều quan trọng là bạn làm những việc thiện với ước muốn chân thành mong giúp đỡ người khác từ tận trong tim. Nếu bạn chỉ thực hiện những việc tốt để mong may mắn trong cuộc sống của riêng mình thì cuối cùng sẽ chẳng đạt được điều gì hết.

Tham gia vào các hoạt động từ thiện cũng sẽ giúp bạn nhận ra nhiều điều. Một lúc nào đó, bạn sẽ nhận ra mình được sinh ra lành lặn với những điều kiện hiện tại đã hơn rất nhiều so với bao mảnh đời bất hạnh quanh ta. Họ là những con người đang ngày đêm chống chọi với bệnh tật hiểm nghèo, những em bé sinh ra đã mồ côi cha mẹ, những người già neo đơn lúc tuổi xế chiều,...

7. Thanh lọc các luân xa với hoa tươi

Trong một số nền văn hóa châu Á, 7 luân xa xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người.

Hoa tươi có thể được sử dụng để làm sạch bảy luân xa của bạn - loại bỏ năng lượng tiêu cực và mời tài vận mới. Bạn sẽ cần ít nhất bảy loại hoa khác nhau với càng nhiều màu sắc khác nhau càng tốt (trừ màu trắng). Ngắt bỏ hết hân cây và lá và chỉ cần để lại hoa. Cho hoa vào trong chậu nước ấm và dùng làm nước tắm. 

 8 meo nho xua van xui, mang may man - 4

Nước thơm sẽ tiếp thêm luồng sinh khí mới cho tinh thần của bạn. Sau khi tắm xong, cẩn thận thu thập tất cả những bông hoa, đặt chúng trong một túi giấy và vứt bỏ. Hãy tưởng tượng những điều không may của bạn đang bị 'vứt' đi cùng với những bông hoa.

8. Dọn nhà

Sống trong một căn nhà bừa bộn có thể chặn năng lượng tích cực chảy vào và tạo ra những cảm xúc tiêu cực và kém may mắn. Hành động đơn giản này có thể mang đến cho bạn nguồn năng lượng mới và trao quyền cho bạn để thay đổi vận may của mình.

- Vứt bỏ tất cả những món đồ cũ không còn sử dụng.

- Quét sạch mạng nhện và bụi bẩn trong nhà.

- Hãy thử sắp xếp lại đồ nội thất của bạn để cải thiện dòng chảy của năng lượng. Sơn lại tường nhà để mang luồng gió mới cho không gian và cuộc sống của bạn.

- Khi dọn nhà có thể bật chút nhạc và mở cửa sổ để nắng và gió ùa vào. Điều này sẽ khuyến khích năng lượng tích cực để chảy vào không gian sống mới của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 mẹo nhỏ xua vận xui, mang may mắn

Hóa giải các khuyết điểm của phòng khách –

Phòng khách có xà cột Xà hay cột đều dùng để đỡ trọng lượng của căn nhà nên không thể thiếu, điều khác biệt chỉ là chúng có xuất hiện ở những vị trí thấy rõ hay không mà thôi. Nếu xà cột xuất hiện ở chỗ thấy rõ sẽ gây trở ngại cho phong thủy phòng kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng khách có xà cột

Xà hay cột đều dùng để đỡ trọng lượng của căn nhà nên không thể thiếu, điều khác biệt chỉ là chúng có xuất hiện ở những vị trí thấy rõ hay không mà thôi. Nếu xà cột xuất hiện ở chỗ thấy rõ sẽ gây trở ngại cho phong thủy phòng khách và cần phải hóa giải.

Cột trong phòng khách chủ yếu chia thành 2 loại, loại thứ nhất là cột liền với tường được gọi là cột tường, và loại thứ hai là cột đứng riêng được gọi là cột độc lập, chúng đều có liên quan đến thiết kế xây dựng. Trong thiết kế xây dựng hiện nay, lưới cột đã trở thành một vấn đề rất được chú ý, do đó đã ít dần loại cột độc lập, vì cột tường dễ xử lý hơn, cột độc lập chỉ cần xử lý sai sẽ làm cho phòng khách trở nên tối tăm hơn. Thông thường, cột càng lớn càng khó xử lý, do đó khi chọn nhà ở, cần phải xem xét kỹ cột độc lập trong phòng có lớn và nhiẻu hay không, nếu xuất hiện tình trạng này thì nên bỏ qua và chọn nơi khác tốt hơn.

av

Phần lớn bên trên cột đều có xà ngang, vì thế nếu nếu ngồi gần cột sẽ luôn chịu sức ép của xà ngang trên đầu, cần cố gắng tránh ngồi gần cột, một số người thích bày bộ bàn ghế ở giữa hai cột và cho rằng làm thế để tận dụng không gian, thực ra đó là một quan niệm sai, sức ép của xà cột trên thực tế cũng giống như phải chịu sự xúc phạm, về sự phát triển và sức lực đều bị hạn chế, đây cũng là điều đại kỵ trong phong thủy. Còn nếu kê tủ ở giữa hai cây cột thì tuy có phải chịu sức ép của xà cột, nhưng là chiếc tủ phải chịu chứ không phải con người nên không bị trở ngại gì.

Đối với cột liền tường thì thường dùng tủ sách, tủ rượu, tủ trưng bày để che bớt và tạo thành một khối đối với các phần khác trong căn nhà. So với cột liền tường, cột độc lập đương nhiên khó xử lý hơn rất nhiều, vì có sự tồn tại của cột độc lập sẽ làm cản trở tầm nhìn, không gian hoạt động cũng bị cản trở, cần phải có bố cục khéo léo mới có thể hóa xấu thành tốt.

Nếu khoảng cách giữa cột độc lập và cột liền tường không xa, có thể dùng tấm gỗ hoặc tủ thấp để kết nối. Tấm cột tường có thể trang trí bằng cách treo tranh hoặc bày chậu cây cảnh, còn tủ thấp có thể làm cho tầm nhìn được thông thoáng, tăng thêm chiều sâu và không bị cảm giác chắn tầm nhìn.

Nếu không dùng tủ thấp có thể dùng tủ cao, nhưng tầm nhìn đương nhiên sẽ bị giảm; ngoài ra nếu dùng tấm gỗ cao để ngăn thì trên tường phải lắp đèn chiếu để tránh bị đơn điệu.

Nếu cột độc lập cách xa tường, không thể kết nối với tường bằng tủ hoặc tấm gỗ thì phải lấy đó làm trung tâm để bố trí lại, có hai phương án giải quyết vừa đẹp vừa phù hợp vói phong thủy như sau:

– Coi cột độc lập làm ranh giới: Có thể coi cột độc lập trong phòng khách làm đường ranh giới, một bên trải thảm, một bên bày đồ đá. Ngoài ra có thể dùng để chia bậc, một bên cao một bên thấp. Như vậy trông vào cột độc lập sẽ giống như đường ranh giới cao thấp do thiết kế từ đầu, cảm giác sẽ rất tự nhiên.

– Làm cột có máng hoa: Trong phòng khách rộng có thể treo các máng gỗ mỏng xung quanh cột độc lập, trong máng có thể trồng các loại cây trong nhà dễ sống. Để tiết kiệm không gian, nửa dưới của cột độc lập không nên đặt máng hoa, máng hoa nên bắt đầu từ phần giữa cột, vừa đẹp vừa không bị nặng nề, mà lại đạt được hiệu quả tạo khối xanh trong phòng khách.

Do vị trí cột làm chắn một phần ánh sáng nên trên cột nên lắp thêm đèn để có ánh sáng phụ, giải quyết vấn đề ánh sáng không đều và tăng thêm mỹ quan trong phòng khách.

Phòng khách có góc nhọn

Trong trường hợp phòng khách của gia đình bạn có góc nhọn bất hợp lý, có rất nhiều cách hóa giải đơn giản, hiệu quả mà không ảnh hưởng tới kết cấu của tổng thể ngôi nhà. Ví dụ, che góc nhọn đó bằng bức tường gỗ và tiếp theo là trang trí bình thường như tường nhà. Cũng có thể cân bằng những góc như thế này bằng hệ thống tủ, kệ có kích thước vừa vặn, dùng để đồ đạc vụn vặt và đồ trang trí trong nhà. Cách làm này sẽ đánh lạc điểm nhìn của những người xung quanh, tạo sự thu hút vào đồ vật trang trí hơn là vào góc nhọn không cần thiết.

Theo phong thủy, việc đặt một chậu cảnh lớn cũng khá hiệu quả vì chúng có tác dụng tiêu trừ ảnh hưởng của góc nhọn đối với phòng khách. Chú ý nên dùng những loại cây có cành lá tươi tốt, xum xuê hơn là những loại cây nhỏ.

Phòng khách nhỏ hẹp, trần thấp

Hiện nay nhiều căn hộ chung cư có thiết kế trần khá thấp, bỏi vậy lời khuyên cho việc lựa chọn nội thất của không gian này là những loại chân thấp, có chiều cao tương xứng với độ cao của trần nhà để tránh cảm giác bị gò bó. Nên tránh ghế có tay vịn cao, giảm thiểu các họa tiết trên trần và thiết kế cửa sổ rộng để tạo không gian rộng rãi. Phòng nhỏ nên kết hợp màu sắc nhã nhặn, hài hòa giữa sơn tường và nội thất.

Phòng bí không khí và thiếu ánh sáng

Không gian nhà phố, đặc biệt là tầng dưới cũng thường bí không khí và thiếu sáng do các công trình xây san sát nhau. Trong khi đó hầu hết phòng khách của gia đình lại được bố trí tại không gian này, bởi vậy điều quan trọng là thiết kế sao cho thông thoáng và thoải mái nhất cho người sử dụng.

Cách thông dụng nhất hiện nay là tạo không gian giếng trời trong nhà, thông gió và lấy sáng hiệu quả. Bên cạnh đó kết hợp với vách kính ngoài mặt tiền để không gian sinh hoạt trở nên dễ thở hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải các khuyết điểm của phòng khách –

Vợ của Gia Cát Lượng Khổng Minh

Gia Cát Lượng tự Khổng Minh, một thiên tài quân sự mà nhắc đến tên ông thì bất cứ một tên “phó thường dân” nào cũng biết. Ông là một trong những nhân vật đã viết lên những trang sử hào hùng của lịch sử Trung Hoa. Tài cán ông là vậy, còn về ngoại hình? Là một con người cực kỳ khôi ngô, tuấn tú “mình dài tám thước, mặt đẹp như ngọc”, đẹp trai phải nói là “chim sa cá lặn” . Ấy vậy mà ông lại đi kết duyên với một cô gái “xấu hơn một người xấu bình thường”. Điều đáng nói ở đây là ông cưới vợ không phải vì lý trí mà là vì “yêu bằng cả trái tim mình”.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu của ông đã vượt qua cái gọi là “cân sắc cân tài”.

Lại nói chuyện Gia Cát Lượng “đàm thê luận ái”, tự cho là “Trong mắt kẻ si tình hiện Tây Thi” là có ý tôn trọng vợ. Thực tế ra sao? Bùi Tùng trong “Tam Quốc chí – Gia Cát Lượng truyện” có chú giải: “Đừng bắt chước Khổng Minh chọn vợ, chỉ lấy được con gái xấu của A Thừa”.

Thiên hạ vẫn đồn đại, Gia Cát Lượng tài trí hơn người, tuấn tú khôi ngô nhưng lại yêu và lấy người vợ tên là Hoàng Nguyệt Anh có dung nhan vô cùng xấu xí…

Nên duyên nhờ kiên trì, tài trí và sự đức độ Gia Cát Lượng (181 – 234), tự Khổng Minh, vốn là một nhà chính trị, quân sự, chiến lược, ngoại giao kiệt xuất thời Tam quốc. Ông được hậu thế muôn đời nhắc nhớ với một niềm kính tôn tột bậc không chỉ bởi trí tuệ và tài năng lỗi lạc, mà còn vì lòng trung nghĩa sắt son.

Gia Cát Lượng sinh vào thời loạn nên ngay từ khi còn thiếu thời, ông đã cùng thúc phụ chạy loạn tới Tương Dương, sống cảnh hàn vi, ẩn dật nhưng vẫn chú tâm dùi mài kinh sử, đau đáu một niềm với giang sơn xã tắc. Là người ham học hỏi, nghe nói ở Ngọa Long Cương có viên ngoại họ Hoàng, trong nhà cất nhiều sách quý, ông bèn dời tới đây, dựng lều tranh ở gần để tìm dịp hội kiến. Thêm vào đó, tin đồn nhà họ Hoàng có cô con gái tên Hoàng Nguyệt Anh, nức tiếng khắp vùng là một tài nữ càng thôi thúc ông đến để có cơ hội gặp gỡ, kết giao với người con gái đó.

Biết được ý định của Gia Cát Lượng, Hoàng viên ngoại ra sức ngăn cản mà không cho biết lý do. Trước tình hình đó, Gia Cát Lượng không hề nản lòng, ông vẫn muốn dùng tài năng và học vấn của mình để thuyết phục Hoàng viên ngoại tác hợp cho mình và cô con gái nên duyên.

Thế nhưng, một điều vô cùng bất ngờ xảy ra đó là Hoàng viên ngoại tiết lộ, con gái ông có dung mạo vô cùng xấu xí, rất khó coi, rồi khuyên Gia Cát Lượng nên tìm ý trung nhân tài sắc vẹn toàn. Kể từ đó, thiên hạ rộ lời đồn thổi về nhan sắc ma chê quỷ hờn của tài nữ Nguyệt Anh. Lại có sách kể rằng, tiểu thư họ Hoàng tuy hiền dịu, nết na, trí tuệ vẹn toàn, nhưng dáng vẻ thô kệch, xấu đến độ “ma chê, quỷ hờn”…




Gạt bỏ những đồn đó, Gia Cát Lượng vẫn hạ quyết tâm tới nhà họ Hoàng cầu hôn người con gái kỳ tài. Trước sự nhiệt tình của Gia Cát Lượng, để thử thách ông, Hoàng Nguyệt Anh đưa ra hàng loạt câu hỏi để chứng thực tài năng đức độ lẫn trí tuệ uyên thâm của người đến hỏi cưới mình.

Với sự thông minh và học thức yên thâm, để chiếm được trái tim người phụ nữ tài giỏi này, Gia Cát Lượng dốc hết tâm lực, tài trí, cuối cùng cũng thuyết phục được thiên kim tiểu thư họ Hoàng. Tuy nhiên cũng theo một ghi chép khác thì câu chuyện Hoàng viên ngoại loan tin con gái mình xấu xí, thô kệch chỉ cốt để thử thách lòng kiên trì và bản lĩnh cương nghị của Gia Cát Lượng. Thực tế, Hoàng Nguyệt Anh là một cô gái tài sắc vẹn toàn.

Chuyện tình sâu nặng

Cho tới ngày nay, giai thoại thú vị về chuyện tình của Gia Cát Lượng và Hoàng Nguyệt Anh được ghi chép và kể lại khá nhiều. Kể cả sự thực về nhan sắc của Nguyệt Anh vẫn còn khiến hậu thế phải tranh cãi.

Thế nhưng, có một điều bất biến và lưu truyền cho hậu thế noi gương đó chính là tình nghĩa vợ chồng chung thủy từ thuở hàn vi tới ngày nhung gấm của Gia Cát Lượng và Hoàng Nguyệt Anh. Trong đó, câu chuyện chiếc quạt lông vũ mà Khổng Minh sau này vẫn mang bên người là minh chứng điển hình cho mối tình sâu nặng của họ.

Tương truyền, vì ham mê võ nghệ, Hoàng Nguyệt Anh theo học danh sư trên núi. Sau khi hoàn thành việc học võ, bà được vị sư phụ tặng cho chiếc quạt lông vũ, cùng với hai chữ “minh”, “lượng” và dặn dò: “Tên hai chữ này chính là đức lang quân như ý của con”.

Khi Gia Cát Lượng tới cầu hôn và đã vượt qua thử thách, Nguyệt Anh liền mang tặng ông chiếc quạt này rồi hỏi có biết lý do tại sao nàng lại tặng cho ông một chiếc quạt lông vũ. Gia Cát Lượng điềm tĩnh trả lời: “Phải chăng là lễ khinh tình nghĩa trọng (ý chỉ của ít lòng nhiều)?”. Nhưng ngay sau câu trả lời của ông thì Hoàng Nguyệt Anh lại hỏi: “Liệu còn nghĩa thứ hai?”.

Nhưng Gia Cát Lượng suy nghĩ mãi vẫn không tìm ra lời đáp, Nguyệt Anh bèn giảng giải: “Khi nãy trong lúc chàng đàm đạo thiên hạ đại sự cùng cha thiếp, thần thái người rạng rỡ, khí vũ hiên ngang, nhưng nói tới Tào Tháo, Tôn Quyền thì ưu tư lồ lộ ra ngoài. Thiếp tặng tiên sinh chiếc quạt này là để ngài che đi gương mặt lúc ấy”.

Qua câu nói đầy ngụ ý của Hoàng Nguyệt Anh, Gia Cát Lượng có thể thấy được sự thấu hiểu và tâm ý của bà dành cho chồng. Hoàng Nguyệt Anh không muốn chồng mưu sự bất thành vì dao động tình cảm, và món quà bà tặng sẽ như thứ bảo bối giúp ông che dấu cảm xúc, suy nghĩ thực sự trước đối phương.

Sau khi kết duyên cùng tài nữ Nguyệt Anh, quạt lông vũ trở thành vật bất ly thân với Khổng Minh – Gia Cát Lượng. Ông luôn coi nó như thứ báu vật luôn phải nâng niu trân trọng. Chiếc quạt cùng áo bát quái và người vợ gắn bó từ thuở hàn vi vẫn là những bảo vật đáng giá nhất mà Gia Cát Lượng luôn gìn giữ bên mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vợ của Gia Cát Lượng Khổng Minh

Nguyên lý Âm dương và ngũ hành

ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG VŨ TRỤ QUAN TRUNG HOA a ) Lược sử : Thuyết âm Dương Ngũ hành đã được đề cập đến trong một tác phẩm thành văn tối cổ Trung Hoa là kinh Dịch. Tuy vậy, kinh Dịch của Khổng Tử chỉ là sự thâu nhập các kiến thức và quan niệm của người xưa từ thời vua Phục Hy lưu truyền đến đời Khổng Tử. Khổng Tử chỉ góp nhặt và suy diễn thêm cho thành một hệ thống và ghi lại thành văn bản cho hậu thế mà thôi. Theo truyền thuyết, người đầu tiên nhận thức được các lẽ âm dương biến hoá của Trời Đất, vạn vật là vua Phục Hy ( khoảng 44 thế kỷ trước Tây lịch ), người minh thị đề cập đến cái dụng của Ngũ hành là vua Hạ Vũ ( khoảng 22 thế kỷ trước Tây lịch ).
Nguyên lý Âm dương và ngũ hành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Đến thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, tại nước Tề ( nay là tỉnh Sơn Đông ) có học giả Trâu Diễn, căn cứ vào Kinh Dịch, đã phổ biến hết tinh thần và công dụng của Âm dương, ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà còn cả vào việc người nữa. Do đó, người đời sau coi Trâu Diễm như người khai sáng ra phái Âm Dương. Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý Số do các học giả đời Tống sau này sáng lập. 
Đến đời Hán, học giả Dương Hùng ( 53 trước Tây lịch - 20 Tây lịch ) tham bác kinh Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý số học sơ khai qua tác phẩm Thái huyền kinh.
Đến đời Tống sơ ( khoảng thế kỷ thứ 10 ) một nhân vật đạo gia kiêm nho gia là Trần Đoàn tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di tiên sinh, tinh thông cả Lý Số học của các nhà đi trước đã tổng hợp các kiến giả về lý Thái cực của vũ trụ, lấy tượng số mà xét sự vận chuyển của Trời Đất, suy diễn ra hành động của vạn vật rồi áp dụng các hệ quả của Lý thái cực vào Nhân tướng học đế giải đoán tâm tình, vận số của con ngườ , mở đầu cho Lý Số và Tướng số học.
Từ đó về sau, quan niệm Âm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân tướng học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật.
b ) Nội dung của Thuyết âm Dương, Ngũ hành 
Theo cổ nhân Trung Hoa, lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn, không có hình dạng rõ ràng được gọi là thời Hỗn mạng. Trong sư Hỗn mạng đó, bàng bạc cái lẽ vô linh linh diệu gọi là Thái cực. ( Sở dĩ gọi là Thái cực vì nó huyền bí và vô tận nên không thể xác định rõ ban thế cuả nó ra sao).
Tuy nhiên, dẫu không biết được chân tính và chân chất của cái lẽ Thái cực huyền vì song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hoá của vạn vật mà suy ra được cái đông thể của Thái cực. Căn bản của sự chuyển biến hoá được biểu lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh. Động gọi là Dương, Tĩnh gọi là Âm. Dương lên đến cực độ thì lại biến ra Dương. Hai cái trạng thái tương đối của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất ( Thái cực ) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau, sinh sinh hoá hoá không ngừng mà sinh ra Trời, Đất, Người cùng vạn vật. Vì Âm Dương phối hợp, đun đẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển. Sự biến chuyển chính là nền tảng của Dịch. Do đó, trong phần chú giải kinh Dịch, Khổng Tử đã nói “ Âm nhu Dương Cương, Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hoá “(Nghĩa là Âm thì mềm, Dương thì cứng, cứng mềm đun đẩy lẫn nhau chuyển hoá thành thiên hình vạn trạng).
Theo cổ nhân, mỗi chu trình gồm bốn giai đoạn :a ) Nguyên : Khởi đầu của sự biến hoá b ) Hạnh : Sự thông đạt , hội hợp các thành tố c ) Lợi : Sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng d ) Trinh : Sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật 
Biến hoá là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hoá của vũ trụ và vạn vật. Do đó, Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hoá (Dịch) một cách khái quát như sau : 
“ Dịch hữu Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh Ngũ hành : Đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực, Thái cực sinh ra hai Nghi ( Âm và Dương ) hai Nghi sinh ra bốn Tượng ( bốn trạng thái tượng trưng bằng bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông ) bốn tượng sinh ra tám Quẻ ( Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ) tượng trưng cho Trời, Đầm, Lửa, Sấm, Gió, Nú, Nước, Đất ) tám Quẻ sinh ra năm Hành ( năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ ). 
Khởi đầu của sự biến hoá rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hoá dần dần để thành ra phồn tạp. Vì Âm Dương là hai thành tố đầu tiên của vũ trụ, nên được Kinh Dịch chọn là biểu tượng căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản :a ) Vạch liên tục tượng trưng cho Dương b ) Vạch gián đoạn ( - - ) tượng trưng cho Âm
Trong phép biến đổi hoá để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Âm Dương lần lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây : 
1 - Kiền tượng trưng cho Trời 
2 - Đoài tượng trưng cho Đầm , Ao 
3 - Ly tượng trưng cho Lửa 
4 - Chấn tượng trưng cho Sấm 
5 - Tốn tượng trưng cho Gió
6 - Cấn tượng trưng cho Núi 
7 - Khảm tượng trưng cho Nước 
8 - Khôn tượng trưng cho Đất 
Đó là tám Quẻ nguyên thủy gọi là “ Tiên thiên Bát quái “ do vua Phục Hy ( 4477 - 4363 ) trước Tây lịch vạch ra để giải thích cái lẽ Âm Dương biến hoá của Thái cực. Về sau vua Hạ Vũ (2205 - 2163 trước Tây lịch) đặt ra Cửu trù ( chín pháp lớn ) phối hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ hành trong việc giải thích lẽ biến hoá của vũ trụ và vạn vật.
Tới đời Tây Chu, vua Văn Vương, trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý ( khoảng thế kỷ 11 trước Tây lịch ) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ, Bát quái mới gọi là hậu thiên Bát quái với các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc ngườ . Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công dụng của kẻ Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ, chỉ có các kẻ có thiên tư đặc biệt tâm truyền mới có ánh mắt hiểu được. Tình trạng của Dịch lý từ thượng cổ đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi.
Đến đời Đông Chu, Khổng Tử ( 511 - 478 trước Tây lịch ) đem kiến giảu cảu mình bổ xung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành Kinh Dịch trong đó bao gồm cả Âm Dương, Bát quái và Ngũ hành.
Căn cứ theo ý nghĩa thông thường, cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ hành, các ý nghĩa tượng trưng sau đây :
Dương : Tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng, sinh động, cứng cát, ban ngày, đàn ông …..Âm : Tượng trưng cho mặt trăng, tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão, ban đêm, đàn bà ….Kim : Vàng, bạc, hiểu rộng ra là tất cả các chất kim thuộc Mộc : Cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất Thủy : Nước và nói rộng ra là các chất lỏng Hỏa : Lửa, hơi ấm Thổ : Đất đá, nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại 
Về phương diện siêu hình. Âm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình hữu thể mà chỉ là biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn như nóng lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khoẻ với yếu ….
Về phương diện ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành, ta cũng đi đến kết quả tương tự Kim, Mộc, Thủy, Hoả, ngoài tìm cách vật chất của nó kể trên có một ý nghĩa tượng trương có tính cách tương sinh tương khắc trong sự biến hoá của muôn vật diễn ra hàng ngày trước mắt.
Trong tướng học, người ta rất chú trọng đến Ngũ hành và thường hiểu Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ theo cả hai ý nghĩa : vật chất lẫn siêu hình qua sự tượng hình chuyển ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng.
c ) Ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa 
Từ quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời Tống trở đi, Âm Dương thuộc Ngũ hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình nhi hạ. Đại đa số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng văn hoá sâu đậm của Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ Hành đem giải thích và gán ghép các đặc tính của vật chất được siêu hình hoá của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vào các lãnh vực thường dụng của nhân loại, điển hình là các trường hợp sau đây : 

1 - Phương hướng, màu sắc, bốn mùa 
1a ) Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông 
Mùa Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một chu trình biến hoá mới của vạn vận bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng. Mặt đất về Mùa Xuân, đâu đâu cũng một màu xanh thắm, Thái dương bắt đầu mọc ở phương đông. Tất cả đều bàng bạc ý nghĩa của Âm Dương tương thôi với Dương lấn lướt Âm một cách tương đối trong cái trung dung của Âm Dương ( Âm Dương tỷ hoà thì vạn vật mới sinh ). Do đó, cổ nhân đã lấy Mộc tượng trưng cho mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông. 
1b ) Hỏa biểu thị mùa Hạ, màu Đỏ, phương Nam Mùa hè nóng nực bức như lửa thiêu, Dương cương lên đến cùng cực. Hoa lá đặc trưng của mùa này như lụa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ, phương Nam gần như ấm áp quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ, màu Đỏ và phương Nam vậy.
1c ) Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu Trắng, phương Tây Mùa Thu là giai đoạn cho Âm Dương tương thôi bình hoà khí trời nóng quá, không lạnh lắm, nhưng Dương cương bắt đầu suy, Âm nhu bắt đầu thịnh. Mặt trời lặn ở phương Tây sau khi đã mọc ở Phương Đông. Trời Mùa Thu thường có mây trắng ngà bao phủ, nên cổ nhân mới nhân đó mà chọn Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu trắng và phương Tây. Nói khác đi, theo Ngũ hành thì mùa Thu, sắc trắng phương Tây thuộc Kim.
1d ) Thủy tiêu biểu cho mùa Đông , màu đen , phương Bắc Hiện tượng độc đáo nhất của mùa Đông là tuyết rơi, giá buốt, cảnh vật ảm đạm, cửa nẻo đóng kín, tối tăm. Tuyết là một trạng thái của nước, phương Bắc thường hay có tuyết nên với tinh thần tượng hình, chuyển ý, cổ nhân Trung Hoa chọn hành Thủy để tượng trưng cho mùa Đông, màu Đen, phương Bắc. 
1e ) Thổ tiêu biểu cho Đất , màu Vàng , Trung ươngNgười Tàu phát tích ở lưu vực sông Hoàng Hà, đất đai ở đây màu vàng ( hoàng thổ ) nên dựa vào sự vật để định tên, lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và màu vàng tượng trưng cho sắc Thổ. Bởi người Tàu lấy địa phương của họ làm trung tâm quan sát, tự coi mình là người trung Thổ, danh xưng là Trung quốc nên màu vàng, vàng là màu trung ương, Thổ là Hành chủ bao gồm cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải sơn hà vạn vật ( Sông núi, muôn loài vạn vật đều do đất chứa đựng ).
2 - Năm đức tính căn bản của con người Trên bình diện đạo đức, năm đức tính căn bản để phân định kẻ lương tri với kẻ bại hoại là Nhân Nghĩa Lễ Trí và Tín, gọi chung là Ngũ thường. Dựa vào ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành và đặc tính bao quát của Ngũ thường người ta đã đi đến chỗ Ngũ hành hoá Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín .
2a ) Nhân ứng với Mộc : Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh, ung dung tự tại, không cạnh tranh bao dung và đãi người đồng đẳng. Thảo mộc, vốn không di động cạnh tranh, loài tùng bách quanh năm xanh tươ , bất chấp gió sương, nóng lạnh, tượng trưng cho thái độ an tĩnh, ung dung tự tại. Cây cỏ còn để người che mưa tránh nắng, không phân biệt một ai. Hoa quả trong chốn sơn lâm ai thưởng thức cũng được. Cái đức tự nhiên lưu hành của thảo mộc tương tự như đức Nhân của bậc thức giả nên Mộc được coi là biểu tượng của đức Nhân ở nhân loại. Do ở ý nghĩa mà Khổng Tử đã nói “ Nhân giả nhạo sơn ( Bậc nhân giả thích núi ) vì trên núi có thảo mộc tượng trưng cho đức Nhân của tạo vật. 
2b ) Nghĩa ứng với Kim : Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc công lý, hằng cửu, không biến chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý nghĩa bao quát của Nghĩa. Loài Kim thuộc như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ sáng cứng rắn, khuyết biết tiết, dù ở nơi này hay nơi khác, lúc nào cũng vậy, phảng phất ý nghĩa của đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim tượng trưng cho Nghĩa. 
2c ) Lễ ứng với Hỏa : Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép, tạo nên tôn trọng duy trì diềng mối, phát huy chân lý tự nhiên lưu hành, Tế tự là một hình thức cụ thể của Lễ, biểu dương sự tôn kính. Một trong những cái ứng dụng của Hỏa là soi sáng tại nơi, làm hiển lộng cái tôn kính quỷ thần của con người nên cái dụng ( về phương diện ý nghĩa triết học ) của Hoả và Lễ tương đồng, nên Lễ ứng với Hoả.
2d ) Trí ứng với Thủy : Kẻ trí không điều gì là không thấu triệt, nước không đâu là không thông qua. Cái đức của Trí và Nước có sự tương đồng đại lược nên người xưa đã nói một cách đầy biểu tượng “ Trí giả nhao Thủy “ ( Bậc trí giả thích nước ). Do đó, Thủy tượng trưng cho Trí. 
2e) Tín ứng với Thổ : Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy. Thảo mộc dựa vào đất mà sống và đất cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự sinh diệt của cây cối theo đúng chu trình chuyển hoá tự nhiên của tạo vật, không bao giờ sai chạy. Do đó, so với Tín thì bản chất của Tín và Thổ về ý nghĩa tổng quát có những nét tướng đồng.
3 - Năm cung bậc trong âm nhạc a ) Cung ( âm thấp nhất ) ứng với Thổ b ) Thương ứng với Kim c ) Giốc ứng với Mộcd ) Chủy ứng với Hỏae ) Vũ ứng với Thủy 

1) Nhân tướng học & tiên liệu vận mạng
2) Ứng dụng Nhân tướng học vào việc xử thế
3) Tướng Phát  Đạt
4) Tướng Phá Bại
5) Thọ, Yểu qua tướng  người
6) Đoán tướng tiểu nhi
7) Phu Luân về tướng Phụ nữ
8) 36 tướng hình khắc
9) Những tướng cách phụ nữ
10) Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành
11) Ứng dụng của Âm Dương trong Tướng Học
12) Tương quan giữa Sắc và con người
13) Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông
14) Bàn tay và tính tình
15) Quan điểm của  Phật giáo về vấn đề xem Tử Vi - Bói Toán

(Trích Lược Tử Vi : Tuổi Mùi,  năm nay số mệnh ra sao? 12 Con Giáp và những đặc tính)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên lý Âm dương và ngũ hành

Thuyết Âm dương Ngũ hành trong Tử vi

Ngũ hành tương sinh tương khắc trong Tử Vi có 5 yếu tố cơ bản là: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ, mỗi yếu tố có thể sinh khắc chế hóa nhau tạo thành một vòng luân chuyển biến đổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Học thuyết Âm dương được thể hiện rất đầy đủ trong kinh dịch. Cái gọi là thái cực sinh lưỡng nghi, thái cực là chỉ trạng thái hỗn độn lúc ban đầu của vũ trụ, là thể hỗn độn của trời đất, càn khôn, cương nhu, âm dương, có thể mãi mãi phân thành hai, lưỡng nghi chỉ sự trời đất, mở rộng ra là chỉ tất cả sự vật đều có thể phân thành hai , chỉ sự tương đối của tất cả sự vật hiên tượng

Ngũ hành

1. Về Âm dương

Ví dụ: Âm dương trong hiện tượng xã hội

-Nam là dương còn nữ là âm

-Quân tử là dương còn tiểu nhân là âm

2. Về Ngũ hành

Học thuyết ngũ hành cho rằng, tất cả sự vật trên thế giới đều do sự vận động biến hóa của 5 vật chất cơ bản là:

Hoả (lửa), Thổ (Đất), Kim (Kim loại), Thuỷ (nước, chất lỏng). Mộc (cây cỏ) tạo nên, thế giới chỉ là một trạng thái vận động tương sinh và tương khắc của ngũ hành mà thôi.

Ngũ hành có quy luật sinh, khắc chế hoá lẫn nhau. 

- Ngũ hành sinh:

Ngũ hành sinh thuộc lẽ thiên nhiên

Nước nuôi dưỡng cây trồng (Thuỷ sinh mộc- màu xanh)

Gỗ cháy sinh ra lửa (Mộc sinh hoả- màu đỏ)

Lửa cháy hết thành than (Hoả sinh thổ: Màu vàng)

Lòng đất tạo nên kim loại trắng ( Thổ sinh kim: màu trắng)

Kim loại nung chảy thành nước (Kim sinh thuỷ- màu đen)

- Ngũ hành khắc:

      Ngũ hành tương khắc (lẽ xưa nay)

      Cây phá đất mà mọc lên ( Mộc khắc thổ: Tụ thắng tán)

      Đất có thể ngăn nước (Thổ khắc Thuỷ: Thực thắng hư)

      Nước có thể dập lửa (Thuỷ khắc hoả: chúng thắng quả, nhiều thắng ít)

      Lửa có thể đốt cháy kim loại (Hoả khắc kim: Tinh thắng kiên)

      Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây ( Kim khắc mộc: cương thắng nhu).

Ngũ hành chế hoá: Chế hoá là ức chế và sinh hoá phối hợp nhau. Chế hoá gắn liền cả tương sinh và tương khắc. Luật tạo hoá là: mọi vật có sinh phải có khắc, có khắc sinh, mới vận hành liên tục, tương phản tương thành với nhau.

  1. Thổ khắc Thuỷ thì con của Thuỷ là Mộc lại khắc Thổ
  2. Kim khắc Mộc thì con của mộc là Hoả lại khắc Kim
  3. Thuỷ khắc Hoả thì con của Hoả là Thổ lại khắc Thuỷ
  4. Mộc khắc Thổ thì con của Thổ là Kim lại khắc Mộc
  5. Hoả khắc Kim thì con của Kim là Thuỷ lại khắc Hoả

Ngũ hành là nền tảng cơ bản của bộ môn khoa học tâm linh, tử vi sử dụng học thuyết ngũ hành trong rất nhiều yếu tố của mình như: cung, sao, mệnh .v.v.v


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thuyết Âm dương Ngũ hành trong Tử vi

Thực hư chuyện "Khổng Minh không biết dụng binh"?

Trong hàng nghìn năm lịch sử Trung Quốc, vấn đề năng lực thực sự của Khổng Minh vẫn luôn là chủ đề bàn cãi. Rốt cuộc, ông nên được gọi là danh tướng hay... danh thần Thục Hán?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" của tác gia Minh triều La Quán Trung đã xây dựng hình tượng Gia Cát Lượng "thần cơ diệu toán" được ngưỡng mộ suốt hàng trăm năm.

Những điển tích như hỏa thiêu dốc Bác Vọng, hỏa thiêu Tân Dã, thuyền cỏ mượn tên, mượn gió Đông cho đến "thất cầm Mạnh Hoạch", "lục xuất Kỳ Sơn"... đã trở thành những câu chuyện truyền kỳ.

Tuy nhiên, không thể sử dụng "Tam Quốc diễn nghĩa" như một tài liệu lịch sử chính thống, bởi tác phẩm này có tính thiên vị chính trị quá lớn.

Thực tế, khi đọc bộ sử "Tam Quốc Chí", đánh giá của sử gia Trần Thọ về Gia Cát Khổng Minh từng khiến nhiều người "khó chấp nhận sự thực".

Theo Trần Thọ, Gia Cát Lượng "giỏi quản lý quân đội, trị quân nghiêm khắc, song tài mưu lược không được xuất sắc. Ông có tài trị lý quốc gia bách tính. Bản lĩnh tùy cơ ứng biến không phải sở trường của Lượng".

Nhìn chung, Khổng Minh được đánh giá là "tài giỏi" trong vấn đề quản lý quân đội, có thể gọi là "thần cơ diệu toán" trong lĩnh vực này. Song năng lực quản lý hành chính của ông còn được đánh giá cao hơn so với khả năng quân sự.

Tượng Khổng Minh tại Khu du lịch văn hóa Gia Cát Lượng, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

Tượng Khổng Minh tại Khu du lịch văn hóa Gia Cát Lượng, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.

"Tam Quốc Chí" có đáng tin?

Sự trái ngược phũ phàng giữa hình ảnh "thần nhân" trong tiểu thuyết và một danh nhân "có năng lực" trong sách sử khiến không ít "fan hâm mộ" của Gia Cát Lượng từng đặt ra nghi vấn về độ tin cậy của những gì Trần Thọ viết trong "Tam Quốc Chí".

Luận về thân phận, Trần Thọ vốn là quan nhà Thục Hán, là đồng liêu với Gia Cát Chiêm - con trai Gia Cát Lượng. Có thể khẳng định, Trần Thọ là nhân chứng lịch sử và là người "chiếm hữu tư liệu lịch sử hàng đầu thời đại Tam Quốc". Lời nói của ông do đó có thể tin tưởng được.

Thực tế rằng Khổng Minh đã không thể chiến thắng ở cả 6 lần Bắc phạt đánh Ngụy cũng được cho là phần nào nói lên năng lực quân sự của ông, bỏ qua những chênh lệch khách quan khác giữa Thục và Ngụy.

Trong lịch sử Tam Quốc, dù các chiến dịch Bắc phạt của Khổng Minh không hoàn toàn thất bại, nhưng cũng không hề mang lại kết quả thực tế nào cho Thục Hán. Minh chứng rõ ràng nhất là lãnh thổ nước này đã không được mở rộng thêm qua chiến lược này của Gia Cát Lượng.

Tuy vậy, cũng có ý kiến cho rằng Trần Thọ "không công bằng khi đánh giá Gia Cát Lượng". Nguyên nhân được cho là cha ông từng tham gia chiến dịch Nhai Đình trong cuộc Bắc phạt lần 1.

Trận này, Thục Hán đại bại và để mất cứ điểm Nhai Đình. Chủ soái Mã Tắc bị Lượng chém đầu, còn cha Trần Thọ cũng bị trừng phạt bằng cách... cạo đầu hình âm dương.

Do đó, có học giả nhận định, có khả năng Trần Thọ "ôm định kiến đối với Gia Cát Lượng" và cố ý hủy hoại hình ảnh Thừa tướng Thục Hán trong bộ sử của mình, thậm chí cáo buộc "Khổng Minh không biết dụng binh, khiến cha ông phải gánh chịu hậu quả".

Thế nhưng, kỳ thực sử gia đời Tây Tấn này vẫn dành những đánh giá khách quan về tài năng của Gia Cát Lượng.

Trong "Tam Quốc Chí", ông từng khen Lượng "tài năng vượt trội, có khí chất anh hào". Những đóng góp của ông như cải tiến liên nỏ tiễn, phát minh "trâu gỗ ngựa máy" làm phương tiện vận chuyển... cũng được ghi nhận.

Trần Thọ nói Khổng Minh không biết dụng binh, nhưng những điểm sáng được thừa nhận trong đời binh nghiệp của Lượng vẫn được ghi lại một cách công bằng.

"Sau khi Lượng mất, Thục Hán rút quân. Tư Mã Ý tuần sát chiến địa quân sự Lượng để lại, cảm thán - 'Đúng là bậc thiên hạ kỳ tài'." - Tam Quốc Chí có đoạn viết.

có nhiều tranh cãi xoay quanh tính xác thực của các sử liệu nói về tài năng của gia cát lượng.

Có nhiều tranh cãi xoay quanh tính xác thực của các sử liệu nói về tài năng của Gia Cát Lượng.

Đương nhiên, những nghiên cứu hiện đại đã khẳng định quan điểm "Khổng Minh không biết dụng binh" là không chính xác và thiếu công bằng.

Sau khi Tấn triều thôn tính Tam Quốc nhất thống thiên hạ, Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm đã lập tức hạ mệnh lệnh truy tìm và thu thập "Bát trận chiến pháp" của Gia Cát Lượng về làm... giáo trình huấn luyện quân đội, đủ thấy năng lực ở lĩnh vực quân sự của Lượng không phải tầm thường.

Thực tế, xét đến tình hình khách quan của Thục Hán, nước này có khoảng hơn 800.000 nhân khẩu (không gồm Nam Trung). Thời chiến có khoảng 80.000 nam đinh nhập ngũ, ra trận khoảng 40.000, số còn lại thực hiện chính sách "ngụ binh vu nông" để tăng gia sản xuất.

Thời Lưu Bị phát binh phạt Đông Ngô năm 221, "Tam Quốc diễn nghĩa" nói binh lực Thục Hán có 700.000 cũng là con số "thổi thồng".

Tướng Đông Ngô Lục Kháng - con trai Đại đô đốc Lục Tốn - từng được xưng là "nhất đại thần tướng", nắm trọng nhiệm trấn thủ phòng tuyến Giang Hoài.

Đương thời nhân khẩu Đông Ngô khoảng 2.3 triệu, binh lực thời chiến khoảng 230.000. Tiền tuyến Giang Hoài của Lục Kháng được cấp 80.000 quân.

Lục Kháng chẳng những không dám tấn công Tây Tấn, mà còn thường xuyên dâng biểu lên Ngô chủ Tôn Hạo "tố khổ" rằng binh lực không đủ dùng.

So sánh tương quan Ngụy - Thục - Ngô, một điều không thể chối cãi là "vốn liếng quân lực" của Gia Cát Lượng quá ít ỏi, chỉ bằng khoảng 1/2 so với quân số Lục Kháng sở hữu về sau.

Tư Mã Ý chưa cần huy động toàn lực cũng dễ dàng có được 120.000 quân trấn thủ biên giới. Khổng Minh tiếng là giương cờ Bắc phạt, nhưng lấy 40.000 quân đi "bao vây" một lực lượng đông gấp 3 lần, nhiệm vụ này đối với bất kỳ thống soái nào cũng là điều quá sức.

quan vũ bị cho là "góp phần" làm tụt hậu con đường phát triển sự nghiệp của khổng minh.

Quan Vũ bị cho là "góp phần" làm tụt hậu con đường phát triển sự nghiệp của Khổng Minh.

Tội đồ thực sự là... Quan Vân Trường?

Có ý kiến cho rằng, nguyên nhân cốt lõi dẫn đến sự nghiệp mờ nhạt về sau của Gia Cát Lượng chính là việc tướng trấn thủ Quan Vũ để mất Kinh Châu về tay Đông Ngô.

Theo "Long Trung đối sách" mà Khổng Minh vạch ra cho Lưu Bị từ năm 207, Bị phải có được Kinh Châu để làm "bàn đạp chiến lược" cho công cuộc bành trướng thế lực.

Theo chiến lược của Khổng Minh, Thục Hán sẽ sở hữu 2 cứ điểm quân sự lớn với 2 hướng xuất phát từ Kinh Châu - do thượng tướng quân Quan Vũ chỉ huy và Hán Trung - do Lưu Bị đứng đầu để thực hiện các mục tiêu bành trướng.

Tuy nhiên, thất bại thảm hại của Quan Vân Trường ở Kinh Châu không chỉ phải trả giá bằng mạng sống của ông, mà quan trọng hơn là Lưu Bị đã hoàn toàn mất khả năng thôn tính cánh cung phía Đông, mà cụ thể là cả vùng Giang Đông rộng lớn.

Thành công ở phía Tây và Nam không đủ bù lại thiệt hại quá lớn ở miền Đông đã buộc Khổng Minh phải đưa ra quyết sách "dấn thân về miền Bắc" dù biết tính khả thi của chủ trương này không lớn.

"Thánh thi" Đường triều Đỗ Phủ có lẽ là nhân vật thấu hiểu mối hận của Gia Cát Lượng, khi ông bày tỏ trong thơ:

Giang lưu thạch bất chuyển

Di hận thất thốn Ngô

Một loạt sai lầm chiến lược của Quan Vân Trường ở Kinh Châu đã biến con đường Hướng Đông của Thục Hán thành phù vân.

Chiến dịch trả đũa của Lưu Bị thảm bại trước Lục Tốn ở Di Lăng là cột mốc cho thấy Thục Hán không bao giờ còn cơ hội lấy được Kinh Châu nữa, cũng là dấu hiệu báo trước Khổng Minh Bắc phạt "trù định phải thất bại".

Về sau, chính "Tấn thư" của Tây Tấn cũng phải châm biếm Tư Mã Ý "coi Thục như hổ", quân đội ít ỏi của Khổng Minh đánh "co đầu rụt cổ", phải triệt để áp dụng chủ trương cố thủ mới đánh bại được Khổng Minh. Điều này phần nào góp phần "nói lại cho rõ" về năng lực của ông.

Đương nhiên, sử liệu "Tấn thư" đã được chỉnh lý bởi bàn tay của hậu nhân nhà Hán là Lưu Thông. Sau khi Lưu Thông diệt Tây Tấn, lập triều Hậu Hán đã tuyên bố thẳng thừng: Ông là cháu nội của Lưu Thiện (con trai Lưu Bị), cần phải... đòi lại công bằng cho tổ tiên.

Thời kỳ Ngũ đại thập quốc, chính quyền phương Bắc luôn duy trì thái độ khinh miệt đối với tập đoàn Tào Ngụy và Tư Mã gia.

Kể từ giai đoạn này, chính quyền phương Bắc đã thuận theo xu thế "hạ thấp Tào Tháo và Tư Mã Ý, đề cao Gia Cát Lượng". Học giả Đông Tấn Tập Tạc Xỉ thậm chí còn "bái phục sát đất tài năng quân sự" của Lượng.

Càng về sau này, địa vị của Gia Cát Lượng càng trở nên "chí cao vô thượng".

Tới Đường triều, Gia Cát Lượng đã được xem như "Quân thần", được rước vào Võ miếu - nơi thờ phụng liệt đại kỳ tài quân sự, hưởng "đãi ngộ" không thua danh thần Trương Lương.

Nhìn vào cách mà Gia Cát Lượng và Quan Công được tín ngưỡng dân gian Trung Quốc tôn thờ có thể thấy, đôi khi triết lý "thành bại luận anh hùng" không hẳn là chính xác.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thực hư chuyện "Khổng Minh không biết dụng binh"?

Dự báo tổng quan vận thế tháng 2 của 12 con giáp

Biết được vận thế tháng 2 của 12 con giáp, bạn sẽ đón Tết cổ truyền chủ động, vui tươi và hạnh phúc hơn.
Dự báo tổng quan vận thế tháng 2 của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Biết được vận thế tháng 2 của 12 con giáp, bạn sẽ đón Tết cổ truyền chủ động, vui tươi và hạnh phúc hơn.


1. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Tý

Thang điểm: 91/100
Tiền bạc: Chính tài rất tốt, nguồn thu nhập chính tăng mạnh, nhưng cần lưu ý tiết kiệm chi tiêu.
Sức khỏe: Chú ý bị thương tật tay chân.
Sự nghiệp: Có khá nhiều quý nhân phù trợ.
Tình cảm: Vận đào hoa tăng trở lại, cẩn thận trong các mối quan hệ.
Lưu ý: Trong tháng đi đứng cẩn thận, tránh bị té ngã, thương tật.

2. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Sửu


Thang điểm: 89/100
Tiền bạc: Chính tài vượng, thu nhập chính tốt nhưng thứ tài kém sắc, nguồn thu phụ giảm.
Sức khỏe: Chú ý đề phòng các chứng bệnh về đường hô hấp như cảm lạnh, nghẹt mũi, khó thở.
Sự nghiệp: Hành sự cẩn thận, đề phòng gặp thất bại.
Tình cảm: Nhân duyên khởi sắc, tình cảm trên đà thuận lợi.
Lưu ý: Cẩn thận cảm lạnh khi tham gia các hoạt động ngoài trời.

Du bao tong quan van the thang 2 cua 12 con giap hinh anh
 
3. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Dần

Thang điểm: 81/100
Tiền bạc: Chính tài trung bình, thu nhập chính tạm ổn nhưng thứ tài kém, hầu như không có các khoản thu phụ.
Sức khỏe: Lưu ý tới sức khỏe của trẻ nhỏ và người già trong gia đình.
Sự nghiệp: Gặp khá nhiều trở ngại, cần điều chỉnh lại cách thức làm việc đồng thời cân bằng thu chi.
Tình cảm: Cẩn thận phạm đào hoa sát, vướng vào nhiều mối quan hệ phức tạp, khó tránh việc tranh cãi.
Lưu ý: Điều quan trọng là phải tiến hành hóa giải hung hạn và điều chỉnh lại cuộc sống.

4. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Mão


Thang điểm: 90/100
Tiền bạc: Chính tài trung bình, nguồn thu chính tạm ổn. Thứ tài kém, hầu như không có thu hoạch.
Sức khỏe: Chú ý trong nhà có người bị bệnh cũ tái phát.
Sự nghiệp: Gặp không ít trở ngại, cần thận trong khi xử lí mọi chuyện.
Tình cảm: Nhân duyên kém sắc, tình cảm trục trặc, lên xuống thất thường.
Lưu ý: Hành sự thận trọng.

Du bao tong quan van the thang 2 cua 12 con giap hinh anh 2
 
5. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Thìn


Thang điểm: 92/100
Tiền bạc: Chính tài vượng, thu nhập chính khá. Thứ tài kém hơn, thu nhập phụ trung bình.
Sức khỏe: Đi đứng cẩn thận, tránh bị thương bất ngờ.
Sự nghiệp: Quan vận sáng, sự nghiệp hanh thông.
Tình cảm: Vận đào hoa giảm, tình cảm gặp trở ngại.
Lưu ý: Giữ thái độ điềm tĩnh, ổn định khi xử lý mọi việc.

6. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Tỵ

Thang điểm: 88/100
Tiền bạc: Cả chính và thứ tài đều khả quan, nguồn thu chính và phụ đều dồi dào.
Sức khỏe: Trí não hoạt động quá nhiều dẫn tới căng thẳng, mệt mỏi.
Sự nghiệp: Công việc suôn sẻ, thoáng đạt.
Tình cảm: Chuyển biến tích cực, tình yêu thăng cấp.
Lưu ý: Có thể đi du lịch trong tháng.

7. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Ngọ

Thang điểm: 90/100
Tiền bạc: Chính tài trung bình, nguồn thu chính tạm ổn. Thứ tài kém sắc, hầu như không có nguồn thu phụ.
Sức khỏe: Chú ý hệ tiêu hóa, đặc biệt là dạ dày.
Sự nghiệp: Vận trình sự nghiệp vẫn hanh thông, thuận lợi như thường lệ.
Tình cảm: Vận đào hoa cực vượng, tình cảm nở hoa kết trái.
Lưu ý: Ăn uống quá độ, đừng quên nghỉ ngơi và luyện tập thể thao.

Du bao tong quan van the thang 2 cua 12 con giap hinh anh 3
 
8. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Mùi


Thang điểm: 87/100
Tiền bạc: Đón nhiều tin vui về tiền bạc, chính tài vượng, thu nhập chính tăng. Thứ tài khởi sắc, nhiều nguồn thu ngoài.
Sức khỏe: Trong tháng, gặp không ít rắc rối về hệ tiêu hóa, dạ dày.
Sự nghiệp: Được quý nhân giúp đỡ, sự nghiệp thăng hoa.
Tình cảm: Tình duyên, hôn nhân đều thuận lợi, thăng cấp.
Lưu ý: Giữ thái độ điềm tĩnh, đề cao cảnh giác, nhìn kĩ lòng người.

Tiết lộ 5 con giáp “dựa hơi” Thần Tài, kiếm tiền như hái năm Bính Thân
– Được Thần Tài che chở và ưu ái đặc biệt, những con giáp dưới đây không chỉ gặp nhiều may mắn về tiền bạc mà còn dễ phát tài phát lộc trong
9. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Thân


Thang điểm: 65/100
Tiền bạc: Chính và thứ tài đều kém sắc, cẩn thận phá tài, tổn thất tiền của.
Sức khỏe: Chuẩn bị tâm lí đón nhận những điều phát sinh bất ngờ.
Sự nghiệp: Gặp nhiều khó khăn vì gặp hạn Thái Tuế.
Tình cảm: Nhân duyên kém, tình yêu đôi lứa bước vào gia đoạn khủng hoảng.
Lưu ý: Hành sự thận trọng, nâng cao cảnh giác với kẻ tiểu nhân.

10. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Dậu

Thang điểm: 95/100
Tiền bạc: Chính và thứ tài khởi sắc mạnh, thu nhập chính và phụ đều dồi dào.
Sức khỏe: Chú ý các chứng bệnh vặt, cảm lạnh.
Sự nghiệp: Có quý nhân trợ lực, sự nghiệp hanh thông.
Tình cảm: Tình yêu, hôn nhân, tình cảm gia đình hài hòa, hạnh phúc.
Lưu ý: Thực hiện phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.

11. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Tuất

Thang điểm: 92/100
Tiền bạc: Thu nhập chính dồi dào, thu nhập phụ trung bình.
Sức khỏe: Chú ý tới hệ tiêu hóa, ăn uống điều độ.
Sự nghiệp: Vận trình sự nghiệp tăng trở lại.
Tình cảm: Về cơ bản, tình cảm ổn định.
Lưu ý: Những chuyến đi công tác hoặc du lịch đều thuận lợi.

12. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Hợi


Thang điểm: 70/100
Tiền bạc: Chính tài trung bình, thu nhập chính chững lại. Thứ tài kém, cẩn thận mất tiền vì những trò đỏ đen, may rủi.
Sức khỏe: Nên ra ngoài đi đây đó, luyện tập thể thao, tăng cường sức khỏe.
Sự nghiệp: Rơi vào thế khó khăn, trở ngại.
Tình cảm: Bình ổn và có xu hướng phát triển thuận lợi.
Lưu ý: Cần tìm cách hóa giải hung hạn phạm Thái Tuế, mọi sự sẽ bình an.

► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Ngọc Điệp

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự báo tổng quan vận thế tháng 2 của 12 con giáp

Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt

Mặc dù chuyện tình cảm ly hợp là thường nhưng không phải ai cũng có thể thoái mái đối diện, giống như 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng dưới đây.
Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mặc dù chuyện tình cảm ly hợp là thường nhưng không phải ai cũng có thể thoái mái đối diện, bình thản mà tiếp túc cuộc sống. Giống như 4 chòm sao nam nặng tình dưới đây, chia tay rồi nhưng trong lòng sẽ luôn khắc ghi tâm tình cũ. 


Ngo ngang 4 chom sao nam nang tinh trong long ma tho o ngoai mat hinh anh
 

Thiên Bình

 

Chòm sao nam nặng tình không thể không nhắc tới Thiên Bình. Dù không biểu đạt rõ ràng nhưng trong lòng không bao giờ quên chuyện cũ. Nhớ không phải là còn vương vấn tình cảm, nhớ là để trân trọng những điều mình từng có. Thiên Bình cũng là chòm sao rất dễ kết bạn với người cũ, làm hòa với nhau sau khi đường ai nấy đi, bình thản khi đối diện.  

Song Tử

  Tuy bình thường Song Tử bộ dáng cà lơ phất phơ nhưng tuyệt đối là người chung tình. Chòm sao nam nặng tình này ghi nhớ rất nhiều những kỉ niệm cũ, thỉnh thoảng sẽ thoáng qua trong đầu, nhung nhớ, hoài niệm khôn xiết. Vẫn biết rằng chuyện gì đã qua nên để nó qua đi nhưng là người, đâu phải sắt đá mà như chưa từng có gì, Song Tử luôn nghĩ như vậy đấy.
Ngo ngang 4 chom sao nam nang tinh trong long ma tho o ngoai mat hinh anh
 

Thiên Yết

Thiên Yết nổi tiếng là chòm sao thù lâu nhớ dai nên có lạ gì khi họ chẳng thể quên người xưa nghĩa cũ. Là yêu hay hận là bạn hay thù, đến sau này không còn quan trọng nữa, chỉ còn lại những điều ngọt ngào, tốt đẹp. Thiên Yết tuy rằng giấu lâu, giấu sâu, chỉ mình biết rõ nhưng không thể phủ nhận rằng chòm sao nam nặng tình này sẽ không bao giờ dửng dưng được. Họ thường xuyên theo dõi, âm thầm quan sát, quan tâm tới đời sống của người cũ, như một thói quen thôi chứ chẳng có ý gì cả.  

Nhân Mã

  Thật bất ngờ khi chàng trai Nhân Mã phóng khoáng lại có mặt trong danh sách này. Đừng thấy vẻ phơn phơ, trăng hoa của họ mà lầm nhé, ai ngang đời Nhân Mã mà chẳng để lại nhớ thương. Họ có thể nhanh chóng đến với tình mơi nhưng người đã yêu sẽ luôn có vị trí nhất định trong lòng, không phải như người dưng nước lã ngoài kia đâu. Nếu có việc gì cần Nhân Mã vẫn sẵn lòng giúp đỡ.
 
  Khắc tinh khiến 12 chòm sao nam ngoan ngoãn cúi đầu Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân Top 6 sao nam cam tâm làm kẻ thay thế
Trình Trình

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt

Mơ thấy nước –

Nước có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nơi nào không có nước, nơi đó không có sự sống. Cây cỏ sẽ chết khô, con người cũng khát mà chết. Có nước nghĩa là mọi thứ có thể phát triển và sinh sôi nảy nở. Tuy nhiên nước không phải lúc nào c
Mơ thấy nước –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nước –

Cách treo tranh chim Phượng Hoàng

Phượng hoàng là một loại chim mang lại may mắn, tốt lành. Phượng hoàng trống và mái bay sóng đôi bên nhau tượng trưng cho vợ chồng hòa hợp.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Kinh thư" có viết: "Phượng hoàng minh hỉ, vu bỉ cao cương. Ngô đồng sinh bỉ, vũ bỉ triều dương" (Chim phượng chim hoàng cùng hót ở trên đồi cao kia. Cây ngô đồng đón ánh mặt trời mọc tốt tươi nơi sườn đồi). Do đó, người xưa đã sáng tác nên bức tranh "Đan phượng triều dương" (chim phượng đỏ hướng về mặt trời), mặt trời và chim phượng cùng vẽ trên một bức tranh để biểu thị con người hướng về phía tương lai tươi đẹp, cùng vươn tới cuộc sống ấm no hạnh phúc.


Treo tranh hợp phong thủy sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích trong cuộc sống. Tranh phượng
hoàng có thể treo trong phòng ngủ giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.

Hợp và kỵ:

• Tranh chim phượng hoàng treo ở vị trí cát lợi trong phòng ngủ của vợ chồng thì có thể làm không gian đẹp hơn, cũng như có thể khiến cuộc sống hôn nhân tràn đầy hạnh phúc.

• Phượng hoàng có đặc tính của loài gà, người cầm tinh con rồng, rắn và trâu rất hợp với gà, do đó hợp nhất là treo tranh chim phượng hoàng; Còn người cầm tinh con mèo, chó và gà không hợp với gà cho nên không nên treo loại tranh này.

• Do chim phượng hoàng có đặc tính giống với gà, do đó không nên treo tranh chim phượng hoàng ở vị trí chính Đông của ngôi nhà, bởi vì đây là vị trí tương xung của gà. Nên treo ở vị trí tương hợp là hướng Đông nam, hướng Đông bắc hoặc treo ở vị trí Dậu là hướng chính Tây.

(Theo Bố trí đồ vật theo phong thủy)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách treo tranh chim Phượng Hoàng

Luận về Tam Thai bát Tọa

Thai Tọa theo các lý thuyết gia Trung Quốc mang một đặc điểm phải tựa vào sao khác thì mới thành lực lượng, nếu đứng một mình vô giá trị. Giá trị của Thai Tọa là làm cho địa vị tài sản sự nghiệp thêm danh vọng và ổn định.
Luận về Tam Thai bát Tọa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thai Tọa cần Xương Khúc,Quang Quí, Long Phượng, Thai Phụ, Phong Cáo và tựa vào Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương (cho người sinh ban ngày), Thái Âm (cho người sinh ban đêm). Thai Tọa gặp lưu niên Thái Tuế tạo ra thanh thế cho năm ấy.

Tam Thai hội hợp cùng cát diệu

Thời một phen dưỡng dục nên người

Giáp Thai giáp Tọa thanh phận tảo vinh

(Mệnh giáp Thai Tọa thành công sớm, câu này không lấy gì làm chính xác)

- Thai Tọa Phong Cáo hiển ấm thừa quang

(Mệnh có Thai Tọa Phong Cáo thì được hưởng phúc lộc của tổ phụ)


Ngoài ra còn hai câu phú:

a. Mộ trung Thai Tọa văn mưu vũ lược kiêm ưu (Thai Tọa đứng thủ Mệnh ở các mộ cung thì văn võ song toàn)

b. Bát Tọa hướng Dương, thị tụng ư cung cấm (Bát Tọa gặp Thái Dương ở Mệnh là người phục dịch nơi cung cấm)

Hai câu này không mang một luận cứ nào vững chắc, qua kinh nghiệm thấy không đúng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Tam Thai bát Tọa

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd