Xem hình xăm, đoán tính cách |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Cưới hỏi là chuyện không chỉ của hai cá nhân là cô dâu và chú rể mà nó có liên quan đến cả hai gia đình, hai họ tộc. Cưới hỏi là chuyện đại sự cần được chuẩn bị kỹ lưỡng và thận trọng để không xảy ra những sai sót đáng có.
Để đi đến hôn nhân bề vững thì việc tìm hiểu, tự nguyện của hai bên gia đình rất quan trọng. Cô dâu và chú rể phải xuất phát tình cảm từ hai trái tim từ chỗ cảm thấy hợp nhau rồi đến quý nhau, thương nhau, yêu nhau và cuối cùng là kết hôn. Những giai đoạn do hai bên tự nguyện.
Để có được cuộc hôn nhân bền vững thì hai người phải thật hiểu tính cách của nhau. Nhưng theo đời sống văn hóa, phong tục cưới hỏi người Việt trong cưới hỏi cũng cần những điều kiêng kị đúng mức để cuộc hôn nhân thật bền vững. Cùng tìm hiểu những điều kiêng kị trong đám cưới mà bạn nên biết. Hãy cứ tích lũy những kinh nghiệm mà mình chưa có rồi đến lúc bạn sẽ cảm thấy nó thật có ích đấy nhé.
Những điều kiêng kị này là nhằm mang lại cho cuộc sống hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ những điều tốt đẹp nhất, may mắn và hạnh phúc nhất. Không mang tính mê tín dị đoan.
Người Việt rất kiêng kỵ chọn ngày và kén giờ làm lễ chạm ngõ, ăn hỏi, rước dâu. Ngày nay các cặp đôi đều coi trọng việc này để cử hành hôn lễ. Ngoài hợp mạng, hợp tuổi còn chọn ngày cưới vào ngày Hoàng đạo, tránh những ngày Hắc đạo, Tam tai, Sát chủ, ngày Rằm…
Quan niệm làm đám cưới vào ngày đẹp thì cuộc sống sau này sẽ yên ả, thuận lợi. Vì vậy nhà nào cũng nhờ xem kỹ giờ, ngày, tháng, năm cho tốt và hợp tuổi cho hai vợ chồng để sau này gặp nhiều may mắn, hạnh phúc, ăn nên làm ra.
Theo các thầy tử vi, cưới hỏi vào ngày có sao Cô thần, Quả Tú, Không phòng, cô dâu sẽ cô quạnh, hiếm con…
Chọn được ngày đẹp đón dâu, còn phải chọn giờ Hoàng đạo để chú rể xuất phát.
Tới nhà cô dâu cũng phải giờ Hoàng đạo mới được vào đón dâu. Đón xong về đến nhà chú rể lại phải chờ giờ Hoàng đạo mới được vào nhà.
Đặc biệt kiêng kỵ cưới vào năm cô dâu ở tuổi kim lâu – tuổi có số đuôi là 1, 3, 6, 8 để tránh những rủi ro (như hôn nhân tan vỡ, con cái hiếm muộn, khó nuôi…).
Ngoài ra tháng 7 Âm lịch, với tích Ngưu Lang Chức Nữ chia ly, cộng với thời tiết mưa bão nên dù trong tháng có ngày hoàng đạo cũng nên kiêng cữ.
– Khi nhà trai đến ăn hỏi, cô gái không được ló mặt ra trước (vì sẽ bị coi là vô duyên, thiếu lễ phép), mà phải ở trong phòng tới khi hai nhà thưa chuyện xong xuôi, chú rể vào đón cô dâu mới được ra để mời nước họ hàng.
– Trong đám hỏi ở miền Bắc, nhà gái phải làm lễ xé cau (dùng tay bẻ những quả cau trong tráp ăn hỏi của nhà trai) để cúng ông bà tổ tiên. Sở dĩ nhà gái không được dùng dao cắt, vì dân gian cho rằng cắt cau bằng dao sẽ khiến tình cảm vợ chồng tương lai bị chia cắt.
Ở miền Nam, chú rể sẽ là người xé cau, cô dâu xếp trầu để thắp hương trên bàn thờ, ai làm nhanh hơn được coi là về sau sẽ “nắm quyền” nhà.
Bàn thờ tổ tiên chính là thể hiện sự chu đáo của gia đình mỗi nhà, đa số các bậc phụ huynh đều lo liệu chu đáo, để tới giờ đón dâu, cô dâu chú rể sẽ cùng bố mẹ hai bên cùng thắp hương trên bàn thờ báo cáo với tổ tiên.
Ngày cưới tùy điều kiện mà bày biện ban thờ gia tiên, nhưng đều kiêng bày bàn thờ sơ sài. Mà thường bao sái (lau dọn) sạch sẽ ban thờ, bày biện những vật phẩm đẹp mắt, đầy đủ mâm cỗ cúng gia tiên, các vật phẩm tối thiểu như gà luộc, xôi, rượu, hoa quả, vàng mã… Hôn lễ chính phải cử hành tại bàn thờ tổ tiên có đủ hương đăng hoa quả.
– Ở miền Trung khi nhà trai đến phải có người làm mai đi đầu. Lễ vật bao gồm: Trái cây, bánh kẹo, trầu cau và cặp đèn trùng với kích thước chân đèn trên bàn thờ.
Ra khỏi nhà mẹ đẻ, cô dâu cần đi thẳng, không ngoái đầu nhìn lại.
Lúc cô dâu theo chồng về nhà trai phải đi thẳng về phía trước, không được ngoái lại nhìn hay có vẻ quyến luyến nhà mình. Dân gian cho rằng, đi theo chồng mà ngoảnh đầu nhìn lại nhà cha mẹ thì cô dâu đó sẽ khó dạy bảo, sau này cũng không chu đáo việc nhà chồng.
Mẹ đẻ không nên đưa con gái về nhà chồng, bởi theo người xưa khi hai mẹ con xa nhau thường quyến luyến ôm nhau khóc. Nước mắt biệt ly e sẽ không lành, do đó kiêng mẹ đẻ tiễn con gái về nhà chồng.
Nhưng ngày nay trong lễ cưới nhiều cô dâu bước chân ra khỏi nhà mẹ đẻ vẫn bật khóc nức nở mà… không hiểu vì sao. Còn nhiều gia đình quán triệt chỉ có bố cô dâu, họ hàng thân cận, các vị cao lão mới được đưa cô dâu về nhà chồng.
Nhiều nhà còn thực hiện đến nhà gái đón dâu phải đi một đường, còn đón cô dâu về theo một đường khác để tránh những điều không may sẽ theo về nhà.
Xưa cô dâu đang mang bầu khi về nhà chồng không được đi vào từ cửa chính, mà phải đi vòng ra cửa sau để vào (người xưa cho là cô dâu có bầu mà đi cửa trước sẽ làm nhà trai sau này làm ăn không may mắn).
Kiêng mẹ chồng đứng ở cửa đón con dâu, điều này lý giải là để cô dâu không đòi bỏ về nhà theo mẹ đẻ, và mẹ chồng nàng dâu không xung khắc sau này.
Khi đoàn rước dâu về, mẹ chồng sẽ cầm bình vôi (bình vôi là biểu hiện tiền của, quyền hành trong nhà, không muốn con dâu thay thế). Ngày nay khôgn có bình vôi, mẹ chồng cầm chùm chìa khóa thay thế. Khi hai họ đã yên vị được một lúc, mẹ chồng mới xuất hiện để đón con dâu và đi chào, cảm ơn hai họ.
Ai cũng muốn dành những điều tốt nhất cho cặp vợ chồng trẻ, tránh dớp không lành, vì vậy dân gian kiêng những người sau không nên đi đón dâu:
– Có quan niệm cho rằng nhẫn cưới phải là nhẫn trơn và hai người không được đeo trước khi hôn lễ diễn ra.
– Ở miền Bắc chú rể rót rượu champagne, cô dâu cắt bánh cưới. Nhưng ở miền Trung thực hiện hai việc này là chú rể – thể hiện quyền làm chủ gia đình của người đàn ông, như vậy gia đình mới hạnh phúc, không bị xáo trộn.
Phòng tân hôn là nơi quan trọng để hai vợ chồng bắt đầu một cuộc sống mới cần:
Còn rất nhiều kiêng kỵ nữa, nhưng có thể để ý kiêng trong ngày cưới tránh làm đổ, vỡ đồ đạc vì là điềm không tốt cho đôi trẻ, kỵ nhất là vỡ gương, vỡ ly cốc hay gãy đũa (nếu xảy ra thì đôi vợ chồng sẽ bất hòa, đổ vỡ, chia ly nên phải làm lễ giải hạn).
Khi đón dâu đi qua các cây cầu, ngã 3 ngã 5, ngã 7 cô dâu phải vứt gạo muối, tiền lẻ xuống. Phong tục này hàm ý, đoạn đường sắp tới của đôi uyên ương sẽ luôn suôn sẻ, giàu sang…
1. Mùa xuân
nhưng Kim không nên quá Thịnh; muốn hòa hợp với Hỏa, nhưng Hỏa không nên quá nóng bức. Gặp Mộc sẽ phát huy công lực, không có Thổ thì thong dong, thoải mái.
![]() |
| (Ảnh minh họa) |
2. Mùa hạ
Thủy của tháng mùa hạ bên ngoài thực mà bên trong hư, nhằm lúc khô hạn cần có Thủy giúp sức. Mong có Kim trợ giúp, kỵ gặp Hỏa quá thịnh. Mộc thịnh sẽ làm tổn hao khí; Thổ thịnh thì khắc chế nguồn của Thủy.
3. Mùa thu
Thủy của tháng mùa thu, mẹ vượng con tướng. Được Kim giúp đỡ thì trong xanh, gặp Thổ hưng thịnh thì vẩn đục. Hỏa nhiều thì tiền tài hưng thịnh, nhưng quá nhiều cũng bất lợi; Mộc nhiều thì thân vinh hiển, trung hòa thì sang trọng. Nếu Thủy xuất hiện nhiều sẽ tăng thêm mối lo chìm ngập, gặp Thổ là dấu hiệu thanh bình.
4. Mùa đông
Thủy của tháng mùa đông, đúng vào lúc đang có quyền lực. Gặp Hỏa sẽ xua tan cái lạnh, gặp Thổ sẽ quy tụ lại. Kim quá nhiều dẫn đến chỗ vô nghĩa, Mộc thịnh cũng hợp tình. Thủy quá yếu thì cần thêm Thủy trợ giúp, Thủy quá mạnh thì cần có Thổ làm bờ đê.
(Theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 53 được xây dựng trên điển cố: Lưu Bị Chiêu Thân – hay Lưu bị làm rể.
Đây là quẻ Trung bình, thuộc cung Tý. Quẻ nói về việc nên thuận theo lẽ thường mà làm, bản thân có hy vọng thì mới có thành công. Những việc có người tài chỉ đường dẫn lỗi thì hãy làm y như thế thì sẽ có được kết quả tốt đẹp, tự nhiên sẽ được thông lợi, trôi chảy.
Sau khi Lưu Bị mượn đất Kinh Châu, không có ý định quay về Đông Ngô. Lúc này vì Cam phu nhân vừa mắc bệnh qua đời, Tôn Quyền nghe được thông tin này, liền muốn thông qua phương thức thông hôn chính trị để cùng chống Tào. Chu Du lại vạch ra mỹ nhân kế, để cải trang thành em gái Tôn Quyền kén rể, âm mưu nhân cơ hội Lưu Bị qua sông, bắt Lưu Bị làm con tin, để chiếm lại Kinh Châu. Nhưng mưu kế này bị Gia Cát Lượng biết được, ông liền tương kế tựu kế, sai Triệu Tử Long cùng Lưu Bị qua sông, đến chùa Cam Lộ ở núi Bắc cố, Trấn Giang đón dâu, lại trao cho kế sách đựng trong túi gấm, dùng mưu dụ Kiều Quốc Lão đến, sắp xếp cho mẹ của Tôn Quyền là Ngô Quốc Thái đến lầu Đa cảnh ở chùa Cam Lộ gặp Lưu Bị. Ngô Quốc Thái thấy Lưu Bị “mặt vuông tai to, tay vượn dài quá đầu gối”, đúng là tướng mạo của bậc thiên tử, nên rất vui mừng, liền hứa gả con gái là Tôn Thượng Hương cho Lưu Bị.
Như vậy, việc thông hôn giữa hai họ Tôn Lưu từ giả đã trở thành thật, cuối cùng mưu kế của Chu Du thành xôi hỏng bỏng không, không những là không thu hồi được Kinh Châu, mà ngược lại còn mất em gái của Tôn Quyền làm phu nhân cho Lưu Bị, khiến cho Đông Ngô “đã thiệt phu nhân lại mất quân”.
Năm 211, Lưu Bị đích thân dẫn đại quân theo hướng tây tiến đến ích Châu, hai vợ chồng từ đây mỗi người một nơi, vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa. Lúc này, Tôn Quyền nghe tin Lưu Bị đi về phía tây, bèn sai người đi thuyền đến đón Tôn Thượng Hương, lại muốn Tôn Thượng Hương đưa A Đẩu (con trai Lưu Bị) trở về Đông Ngô, mục đích của Tôn Quyền là muốn dùng con trai duy nhất của Lưu Bị làm con tin, để lấy lại vùng đất phía nam cho Đông Ngô. Sau đó Trương Phi, Triệu Vân đẫ “dẫn quân vượt sông, đưa Lưu Thiền về”, đến chỗ Tôn Thượng Hương cướp lại A Đẩu. Từ đó, việc thông hôn giữa hai họ Tôn Lưu đã tan vỡ.
Sau khi Tôn Thượng Hương trở về đất Ngô và ở lại đây, vừa phải chịu cuộc sống lặng lẽ cô đơn, lại phải hứng chịu áp lực tinh thần rất lớn. Trong con mắt của người Đông Ngô, bà vẫn là phu nhân của Lưu Bị, thủ lĩnh tối cao của quân địch; còn trong lòng người Thục Hán, bà là người câu kết với Đông Ngô, từng cướp A Đấu làm con tin. Vì thế, sau khi Lưu Bị xưng đế ờ Thục Hán, cũng không phong cho bà tước hiệu gì. Tuy bà đường đường là con gái của Phá Lỗ tướng quân Tôn Kiên, là em gái của Ngô Đại Đế Tôn quyền, là vợ của Thục Tiên Chủ Lưu Bị, nhưng vẫn chỉ là vật hy sinh cho cuộc đấu tranh chính trị đầy nghiệt ngã.
2. phu thê cung vốn là bát tự trung vô dụng chi thần, làm kị thần không có chế, hoặc tác dụng thần lại bị phá hư, tỏ vẻ phối ngẫu không thể trợ giúp chính mình, hoặc cảm tình rất kém cỏi.
3. bát tự trung không thích tỉ kiếp tranh phu, hoặc tỉ kiếp tranh thê, như ngộ tranh người, nhẹ người có người thứ ba vấn đề, trọng người nhất định ly hôn.
Càn: Mậu kỷ ất đinh
Tuất mùi tị hợiNày tạo ất mộc nhật chủ sinh vu mùa hè, được hợi thủy cùng mùi thổ cây, vi sống mộc, sống mộc hỉ dụng thủy, hỏa thổ đều vi kị. Tị hỏa trung ngậm mậu thổ thê tinh, vì vậy làm vợ tinh được chính vị, cục trung hỏa thổ có xu thế, xung khứ dụng thần hợi thủy. Thê làm kị thần, nói rõ phu thê cảm tình bất hảo, thê không được lực. Phu thê cảm tình cả đời bất hảo, thê còn phải đường nước tiểu bệnh, hàng năm cũng hoa không ít tiền. Ngồi xuống thương quan, bị thê trông nom.
Nhàn chú: Sống mộc nhất định phải dụng! Ất mộc thấy hợi cùng mùi vi sống mộc, nhất định phải dụng hợi! Tị xung phá hủy hợi, hôn xui xẻo!
Khôn: Tân quý mậu ất
Mão tị ngọ mão
Này tạo phu cung vi ngọ hỏa ấn tinh, có phu tinh mão mộc sinh phu cung, vốn xác nhận hảo hôn nhân, nhưng phu tinh cùng phu cung trong lúc đó tướng phá, cũng nên tỏ vẻ phu thê không cùng rồi. Phu thê trong lúc đó thường ồn ào, nhưng không có ly hôn. Ngọ vốn là nhà, vừa vỡ biểu không muốn về nhà, một hồi khứ nhân tiện ầm ĩ, nguyên nhân vốn là50 niên đại người, mùi cách, như thế hiện đại nói, khẳng định cách. Lưỡng mão phá ngọ, vốn là nhiều hôn tổ hợp.
Khôn: Giáp mậu kỷ canh
Thìn thìn dậu ngọ
Này tạo niên thượng giáp mộc vi phu tinh, ngồi chi thìn dậu hợp, phu tinh hợp đến phu cung, vốn là hảo hôn nhân. Nhưng cục trung tỉ kiếp Lâm lập, phu tinh ngồi xuống vừa là tỉ kiếp, vi tỉ kiếp tranh phu chi tượng, cho nên phu không thương nàng, cùng bên ngoài phụ nữ thân mật. Nhưng thìn dậu chi hợp mùi phá hư, không có ly hôn.( Quan sát vừa người, nhưng tỉ kiên nhiều hiện tranh phu, tranh đích rất lợi hại, phu bên ngoài phụ nữ nhiều lắm, tỉ kiên chỉ cần cùng phu tinh có liên quan hệ là được, không nhất định phải cùng phu cung có liên quan hệ, giáp ngồi thìn rồi, bây giờ cũng không ly hôn, nguyên nhân nhật trụ cùng niên trụ thiên địa hợp bán rồi, cung vị hợp rất chặt, nhưng hôn nhân rất kém cỏi.)
Tỉ kiên tranh phu đích vài loại có thể:
1, tìm đích lão công vốn là cách qua hôn đích.
2, lão công có gặp ở ngoài.
3, chính mình làm tiểu đích hoặc bị bao.
4, ly hôn.
5, từng đích đối tượng. Này tạo vốn là lão công có gặp ở ngoài ý.
Nhàn chú: Giáp vi phu tinh, nhưng nguyệt lệnh mậu ở chính giữa, phu có gặp ở ngoài, nhưng nguyên nhân giáp thìn cùng kỷ dậu thiên địa hợp, phu cung không phá hư, không có ly hôn!
Khôn: Mậu giáp kỷ tân
Thân dần mùi mùi
Giáp kỷ, giáp vi phu, mậu vi kiếp, ngồi xuống thân dần vọt, cố lão công nhất định là cách qua hôn đích, sau đó sẽ tìm nữa đích nàng. Nếu như giáp dần, mậu thân thay đổi vị trí, thì nhất định là tranh đích ý tứ rồi. Này tạo hôn sau khi lão công không có gặp ở ngoài. Dần thân xung, cũng đại biểu sửu mùi xung, cho nên vốn là hảo hôn nhân. Nhàn chú: Dần nhập mùi khố, thân dần một xung chẳng khác đem dần vọt tới mùi trong rồi, mùi khai khố rồi! Mậu thân mang tượng, thân vọt dần, chính là mậu đồng dần ra đi, cho nên, nói mậu vốn là giáp đích tiền thê, không phải đào hoa! Lão công nhập tới rồi cung, nhị hôn hảo, không thành vấn đề!
Càn: Đinh nhâm giáp ất
Dậu tử tử hợi
tân canh kỷ mậu đinh bính
hợi thú dậu thân mùi ngọ
Này tạo giáp mộc sinh vu mùa đông, có gốc, muốn hỏa đến ấm áp, có thể thấy được ngồi chi thê cung đích tử thủy vi bát tự viện kị. Nhâm thủy cũng là phu thê cung, biểu có hôn nhân. Thê cung vi kị thần người hôn nhân một bực như nhau bất hảo, gia tăng chi bát tự không có tài, lấy đinh hỏa thương quan làm vợ tinh, bị khắc không có khí, lão bà hình như có như không có, hôn nhân bất hảo. Nhưng nguyên nhân phu thê cung không có bị phá phá hư, cho nên đến bây giờ không có ly hôn.( Ngồi xuống đích đều là tật xấu, tử không sinh mộc, phản phiêu mộc, nhưng giáp còn có cây, thương quan làm thê, thê tuy có nhưng nhược, có chẳng khác không có, hôn nhân bất hảo, nhưng mùi cách, nguyên nhân nhân tiện [một người/cái] thê tinh, mà không có phá hư thê cung gì đó, biểu tái không người nào thích hắn, cố mùi cách, thê cung vốn là kị thần.)
Nhàn chú:57 năm đích đến phía sau hôn tốt chút, tẩu hỏa mà! Đinh vi dụng tại niên thượng, quá yếu, phỏng chừng không ở nhà ở đây, phát huy không được nhiều tốt đẹp tác dụng!
Càn: Ất canh đinh quý
Dậu thìn mùi mão
Này tạo thê cung mùi trong đất ngậm ất mộc, ất canh hợp, thê cung viện hợp canh kim tài tinh làm thê tinh xem. Mão thìn hại, mão dậu xung, tài tinh cùng chủ vị quan hệ không cùng, nói rõ thê tử rất có cá tính, khó có thể khống chế, mão vốn là thê cung đích kéo dài, tính phó cung, nhưng không nhắc tới bên ngoài có [một người/cái]. Hai người thường nháo không cùng. Nhưng thê cung cùng thê tinh cũng rất an tĩnh, cả đời sẽ không ly hôn. Như thế đinh mão nhật thê cung gặp hại, thì nhất định cách. Bây giờ đích tình huống vốn là hại trật, cho nên chỉ là quan hệ không cùng mà thôi. Chưa vào thìn mộ, biểu lão bà rất lợi hại, lão bà trông nom hắn, khống chế hắn.
Đổi thành càn: Ất canh đinh quý
Dậu thìn mão mùi
cái này nên cách.
Nhàn chú: Nơi này thê cung phá hủy, như vậy nên cách rồi!
Càn: Nhâm kỷ đinh kỷ
Dần dậu sửu dậu
Một cung lưỡng tinh, [hai người/cái] lão bà. Này tạo thê cung sửu thổ, có lưỡng dậu tài tinh nhập mộ, song thê chi mệnh. Lưỡng dậu không phải một người, biểu ngoài có tình nhân. Nguyệt thượng biểu thê, thời thượng vẻ mặt người, có trước sau đích thời gian trình tự. Sẽ không công khai, ngoại nhân đều biết nói, lão bà không biết. Nhưng thê cung an tĩnh, vẫn chưa phá hư, nếu như là đang cổ đại, nhất định là một thê một thiếp, hiện đại xã hội pháp luật cấm trọng hôn, cho nên hắn trừ thê tử ở ngoài, còn có tình nhân thân mật. Nhàn chú: Nơi này thê cung không phá hư, một cung lưỡng tinh, một thê một thiếp!
Khôn: Quý đinh quý quý
Mão tị sửu hợi
Này này đây tiền nói đích bán trang phục đích, này tạo phu cung vốn là sửu thổ sát tinh, được chính vị vốn là chính phu. Nguyệt thượng tị hỏa tài tinh( Trung ngậm mậu bính vốn là đào hoa) trung ngậm mậu thổ chính quan, tại lệch vị, củng nhập của nàng phu cung, vi lệch phu( Ngồi thẳng vị chính là chính phu, lệch vị chính là lệch phu, không lấy tinh đích chính lệch định). Thực tế nữ tử này trừ trượng phu ở ngoài, bên ngoài còn có tình nhân; sửu thổ lân kiếp tài, lão công bên ngoài cũng có tình nhân, hai người phân chiếm đa số năm, nhưng nguyên nhân phu cung mùi phá hư, hai người không có ly hôn. Mão mộc sinh tị hỏa, biểu trang phục sinh ý, âm mộc sinh hỏa chi tượng. Bính vốn là đào hoa, đổi lại tượng đinh cũng là đào hoa, nàng bản thân đích đào hoa nhiều, lão công cũng có đào hoa, sửu trung ngậm quý, tỉ kiếp tranh phu rồi( Chú: Xung hợp đào hoa đích đều là đào hoa đích lão bà). Tị mặc dù cùng phu cung hợp, nhưng ngồi trật, cho nên vốn là đào hoa.
Nhàn chú: Sửu vi phu, tị hợp nhập phu cung, bên trong mậu vi đào hoa, bính= mậu cũng là đào hoa, lấy sửu thổ phu vi Thái Cực điểm xem: Sửu trung ngậm tỉ kiếp, lão công cũng có tình nhân, nhưng cung không phá hư, cách không được!
Càn tạo: Quý đinh đinh bính
Mão tị tị ngọ
bát tự không có tài, lấy cung xem thê, tạp rồi, mà tị phục ngâm, hai lần hôn!
Càn tạo: Quý đinh đinh ất
Mão tị tị tị
cái này hôn sẽ không cách, nguyên nhân cung tuy nhiều, nhưng không tạp!
Càn tạo: Ất kỷ quý tân
Mùi mão dậu dậu
Một thê một thiếp, hai người vốn là biểu tỷ muội, lão Đại không sinh, lão Nhị sinh một nữ một nhân, đồng cư một thất! Nơi này mão mộc không vào mộ, không xung thì nhập mộ! Đỉnh lên chức ví dụ
Nhiều hôn đích mệnh lý tổ hợp là đang xui xẻo hôn nhân đích trụ cột thượng càng tiến thêm một bước, phu thê trong lúc đó đích mâu thuẫn không thể điều hòa, tất nhiên làm cho ly hôn đích kết quả. Chúng ta nơi này đem ly hôn đích vài loại tình huống nhóm đi ra, dễ dàng cho mọi người học tập.
1. phu thê cung gặp hại, phu thê cung mặc phu thê tinh đích cái kia chữ, nhất định ly hôn, hoặc phối ngẫu tử vong.( Có thể xung)
2. phu thê cung nhiều hiện, tạp hiện thời, như có phu thê tinh vừa nhiều hiện, thì đa số hội ly hôn.
3. phu thê cung rơi phu thê tinh thời, không thích hắn hợp, kể cả lục hợp, ám hợp, hợp lại nhân tiện dễ dàng hợp đi, ly hôn người chiếm đa số.
4. bát tự trung như ngộ tỉ kiếp tranh phu, hoặc tỉ kiếp tranh thê, phối ngẫu sẽ có người thứ ba vấn đề, tái ngộ phối ngẫu cung bị phá hư, tất nhiên ly hôn.
5. ngồi chi phu thê cung đích phu thê tinh được vị thời xem lệch chính, nam mệnh chính tài vi chính tinh, thiên tài vi lệch tinh, nữ mệnh chính quan vi chính tinh, thất sát vi lệch tinh. Lệch tinh có thể chế, chính tinh không thể chế. Chính tinh bị quản chế, hôn nhân dễ xuất vấn đề.
6. nguyên nhân phu thê cung bị phá hư mà ly hôn người, xem phá hư nó gì đó, [có mấy người/cái] chính là mấy lần hôn nhân; nguyên nhân phu thê tinh nhiều hiện mà ly hôn người, [có mấy người/cái] phu thê tinh mấy lần hôn nhân.
Khẩu quyết: Nam mệnh thực thương vi đào hoa.
Nhâm
Tị thân thân
Hợp lại thì có hai lần hôn nhân
Nhâm
Thân dậu
Không sợ cung nhiều, nhưng tinh thêm xuất hiện rồi, nhân tiện nhiều hôn.
Kỷ bính
Hợi dần
Chính tinh được chính vị, hợp lại sẽ cách.
Khôn: Canh
Hợi dần
Chế đích ý tứ. Lệch tinh có thể chế. Xem tình huống.
Bính tý, kỷ hợi (Nam nữ), đinh hợi, mậu tý. Thuần túy, dường như khủng hoảng, vừa động nhân tiện chịu không được.
Càn: Nhâm canh nhâm quý
Dần tuất thìn mão
Phu thê cung ngồi khố, hỉ hình xung. Không phải nhiều nữ nhân. Mão vốn là đào hoa. Một hại, sẽ không có đào hoa. Không chịu sinh.
Càn: Kỷ bính canh kỷ
Hợi dần thìn mão
Hại mão, không có đào hoa. Hợi hợp dần nhập thìn vốn là lão bà. Vốn là hảo hôn nhân. Nhàn chú: Mão vi đào hoa, hại điệu bên ngoài, không có đào hoa!
Chu: Mậu nhâm kỷ kỷ
Thìn tuất mùi mão
Khố hỉ hình xung, hảo hôn nhân. Nhàn chú: Thổ vi tài, ngồi khố hỉ hình xung!
Càn: Ất bính giáp giáp
Mùi tuất tử tuất
Hại khứ kị thần, hảo hôn nhân. Bính vốn là đào hoa. Có thể có đào hoa. Nhàn chú: Tử vi kị chế rồi, không rời hồn, nhưng là không thế nào hảo! Mùi vi lão bà, mặc thê cung! Thực thương vi đào hoa, làm quan đích! Chế ấn được quyền, thính cấp cán bộ !
Nhạc Phi: Quý ất giáp kỷ
Mùi mão tử tị
Mùi làm một thê, kỷ vi nhị thê; một hưu rồi, nhị lão bà xinh đẹp!
Khôn: Tân Giáp Ất Bính (Diana)
Sửu Ngọ Mùi Tuất
Ất Bính Đinh Mậu Kỷ
Mùi Thân Dậu Tuất Hợi
Này tạo vốn là anh Vương phi Diana tạo, đầu tiên xem niên thượng tân sửu vi phu tinh, phu cung mùi xung sửu, vốn là phu cung chế khứ phu tinh đích tổ hợp. Ất mộc thấy hỏa vi xinh đẹp, bính tân hợp, phu luyến ngoài mạo mà tìm nàng. Lại nhìn nguyệt thấu giáp mộc tỉ kiếp, tân nên hợp quá khứ thời đầu tiên nên gặp phải giáp đến tranh phu, tân kim phu tinh bị giáp mộc viện đoạt, cho thấy Tra Nhĩ Tư vương tử có khác viện hoan. Giáp mộc cao thấu, nói rõ vương tử đích ngoài giá thú tình mọi người đều biết. Xem có thể không ly hôn, muốn xem phu thê cung ổn không yên rồi, nguyên nhân phu cung phá hủy. Cố nhất định cách. Phu cung mùi thổ bị tuất thổ hình phá hư, đại vận sẽ đi tuất vận, cho nên cuối cùng ly dị, vốn mùi muốn dồn sửu, nhưng tam hình phá hủy, cố mùi không thể chế sửu, nguyên nhân chế không được rồi, cố cách. Không lâu chính mình tai nạn xe bỏ mình (Đinh sửu năm). (Sửu tuất vốn là hình mở, hỏa vượng sẽ không bị diệt.)
Cái này tổ hợp vốn là đoản thọ đích tổ hợp, đây là tử mộc sợ đốt, hỏa vượng sau lúc sẽ chết rồi, nhân tiện tượng lưu tinh giống nhau, dễ dàng nổi danh, cũng đoản thọ. Loại này tổ hợp tử đích phần lớn vốn là ngôi sao, như tam mao, trương quốc quang vinh, Mai tươi đẹp phương chờ. Mộc nhật chủ đích người, hỏa nhật chủ đích người, đều có loại này tượng, phải chú ý xem. Đinh sửu vi ứng kì, là bởi vì nguyên cục trung đích một điểm âm khí xuất hiện bị chế rồi, mà hình vượng rồi hỏa, tuất tại thời thượng chủ xe, mùi tuất hình, tuất trung tân vi gặp ở ngoài đích đào hoa, nhưng tuất trung tân nhỏ hơn tân sửu, cố là nhỏ nhân vật, thật vi của nàng huấn mã sư, nguyên nhân hình khai sau khi bính tân tự hợp rồi, cố cũng bị bạo quang, bính vi ảnh thị, tin tức chờ. Tuất vi ca múa thính, cố nàng cùng phu là đang vũ hội thượng nhận thức đích, bính chủ hai tròng mắt đại.
Nhàn chú: Mùi vọt sửu vốn cát, nhưng thú hình phá hủy mùi, cung phá hủy ! Còn nữa ất mùi một trụ không thể bị phá hư; tử mộc ngộ hỏa vượng sớm tử ! Thú vận hỏa vượng lấy dương chế âm, một điểm âm khí không có, cũng sẽ tử! Đinh sửu ứng kì! Giáp vi đại, lão bà, tạp Minna.
Trương Quốc Vinh:
Bính Ất Bính
Thân Mão Tuất
Càn: Quý Đinh Đinh bính
Mão Tị Tị ngọ
Bát tự không có tài, cung vị xem lão bà. Nhưng [hai người/cái] tị sẽ không dụng cách, tị ngọ chính lệch thê cung hỗn tạp, hai lần hôn nhân. Nếu như vốn là ất giờ Tỵ, cũng là một lần hôn nhân.
Khôn: Bính Tân Tân quý
Ngọ Sửu Mão Tị
Này tạo phu tinh vi niên trụ bính ngọ, nguyệt can thấu tân hợp phu tinh, vi tỉ kiên tranh phu, trượng phu nhất định sẽ có gặp ở ngoài. Chúng ta lại nhìn phu cung, phu cung mùi phá hư, có thể phu cung cùng phu tinh đích quan hệ xuất hiện rồi vấn đề. Cung mão phá ngọ, đây là thứ nhất; còn có lại càng không tốt vốn là sửu ngọ chi hại, phu tinh bị hại ngã, phu cung mão mộc càng không thể sinh ngọ phát hỏa, cho nên nhất định ly hôn. Lần thứ hai hôn nhân nhìn lên chi tị hỏa, có mão mộc tương sinh mà không có thương khắc, cho nên lần thứ hai hôn nhân mới có thể qua được hảo. Thực tế nữ tử này cùng phu sớm đã phân chiếm đa số năm, sau khi vu ất dậu năm ly dị, giáp thân năm nhận thức một vị tân đích bạn trai, hai người quan hệ tốt lắm.(Mặc dù mão ngọ phá, nhưng mão sinh tị, tị vi bính, cố bính vi phu, bính tân hợp, tỉ kiếp tranh phu, phu có gặp ở ngoài, nhưng nguyên nhân tân sửu ngay cả thể rồi, ngọ sửu hại, mão ngọ phá, cố nhất định cách. Mão sinh rồi tị, tị vi người thứ hai trượng phu. Tị cùng bính vốn là hai người, nguyên nhân bính ngồi ngọ rồi, như bính ngồi thìn, thì nguyên nhân bính hư thấu rồi chích biểu vi bạn trai, không nhắc tới phu. Nguyên nhân mão sinh rồi tị, cố người thứ hai phu hảo, mà cùng thực thần tự hợp, biểu có thể chơi thân, cổ võ ngoài ly hôn. Ất dậu năm [đóng/tắt] tài cánh cửa, ly hôn, giáp thân năm nhận thức tân đích bạn trai.)
Ất Dậu Năm, Ất Canh ợp, Tuất Dậu hại, cách rồi. Bính Tuất năm thứ ba (???) một trượng phu xuất hiện.
Khôn: Kỷ Canh Giáp Mậu
Dậu Ngọ Tuất Thìn
Này tạo vốn là phu cung tuất thổ hại phu tinh dậu kim, vốn là điển hình đích nhiều hôn chi mệnh. Dậu vi người thứ nhất trượng phu, đã ly hôn (Dậu tuất mặc dù hại, nhưng giáp kỷ hợp, cố nhất định là kết rồi sau lúc tài cách đích, 99 năm cách); ngọ vốn là phó cung, cố người thứ hai trượng phu vốn là nguyệt can canh kim, canh cùng nhật chủ giáp mộc tướng xung, thêm hư rồi, cũng qua không lâu. Người thứ hai quý mùi năm kết đích hôn, trước mắt người thứ hai đã phân cư, ất dậu năm chạy đến nước ngoài rồi, không bóng dáng rồi, rất nhanh sẽ ly dị, phỏng chừng năm nay (Bính tuất năm) sẽ cách, nguyên nhân bính canh vọt. Người thứ ba trượng phu vốn là ngồi chi tuất thổ, được vị có thể tố công, ngồi xuống tuất khố hỉ hình xung, thìn tuất vọt, cố thứ ba cho dù trượng phu hảo, vốn là nàng chính thức đích trượng phu, hội trắng đầu đến già. Tuất khố mở, cố vốn là phát tài đích bát tự, nội thực (Thương), tố xí nghiệp đích, vừa tố mặt tiền, thêm tố xí nghiệp, người cũng xinh đẹp, hiền tuệ, có tiền, vốn là một người đứng đắn, không có đào hoa. Nhàn chú: Phu thê cung mặc phu thê tinh, khắc phu rồi! Phụ nữ năng lực cường, có tiền có mạo cố gắng thủ phụ nói đích, chính mình làm cho xí nghiệp ! Giáp kỷ hợp, dậu vi đệ nhất lão công; canh ngọ một trụ ngọ thú bán hợp hoặc ngọ vi phu cung dẫn ra tới, cho nên, canh vi thứ hai phu! Giáp canh một xung, nhị phu vi hải ngoại người Hoa, ất dậu tuổi già công đi, bính thú năm cách rồi, lúc này đoản; dự trắc: Bính thú năm thú vi người thứ ba lão công, lão Tam được chính vị, yên ổn rồi ! Vọt thìn, tại môn hộ thượng xác nhận mặt tiền đến tiền, thêm nội thực thần, thêm vi xí nghiệp !
Khôn: Bính Bính Tân Canh
Ngọ Thân Dậu Dần
Ất Giáp Quý Nhâm Tân Canh
Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần
Này tạo tất nhiên ủy chuyên thành viên chi nữ, có tiền, có quyền, có xu thế, nguyên nhân tỉ kiếp tranh phu, phu có gặp ở ngoài, bính can vượng, hợp đến nhật chủ, chủ phu. Phu cung thấy lộc, phu tinh niên thượng bính ngọ, nguyệt lệnh thấy kiếp tài thân, thân thượng thêm cái bính, nói rõ chính mình đích lão công bị người khác đoạt, mà phu cung thấy lộc thêm tỏ vẻ bây giờ một người qua. Chờ người thứ hai lão công dần mộc xuất hiện, thời gian nhân tiện dường như chậm. Thực tế vốn là quý tị vận ất hợi năm ly hôn( Đại hạn tạp ở, phải tại35 tuổi tiền cách, vốn tị vận tốt lắm, tị hợi một xung nhân tiện cách rồi), hợp đến kiếp tài rồi là nam nhân theo nữ nhân khác chạy, bây giờ độc thân qua, nguyên nhân hợp rồi lộc rồi, thìn dậu hợp, ấn hợp lộc, cùng lão mẹ cùng nhau qua. Lộc ấn tướng tùy theo có phúc khí. Không ai có thể tiến vào, qua thìn vận mới được, nguyên nhân có dần trung bính, cố lần thứ hai hôn nhân là có đích, lộc cũng làm tài xem, tài vận tốt lắm. Canh ngồi dần vi tuyệt địa, sẽ tìm đi một lần hôn đích. Nhàn chú: Bính bính ngọ ngay cả thể, tỏ vẻ một người! Lão đầu công! Chính phu cung vi dậu vi tỉ kiếp, tránh phu! Thân vi phó phu cung, trên đầu đỉnh lão công, thân vi kiếp vốn là nàng người! Lão công đích đào hoa! Phu có gặp ở ngoài, chính mình không có đào hoa! Ấn lý ứng tại nhâm vận cách đích, nguyên nhân nhâm đến thân đến! Nhâm bính một xung nhân tiện cách rồi! Nhưng tại tị vận đích ất hợi năm nhân tiện cách rồi, đại hạn định tại nguyệt trụ cách, không có biện pháp! Nhâm thìn vận vi thương quan vận, tìm không được lão công đích, tìm cũng sẽ cách! Này đoạn thời nhật xác nhận độc thân! Phu cung thấy lộc cũng là một người qua, lộc hợp ấn, lộc ấn tướng tùy theo, hưởng thụ! Cũng là theo lão mẹ cùng nhau qua tượng! Nhâm thìn vận, thìn hợp dậu tài( Lộc cũng vi tài), rất có tiền bát tự! Ngoài phụ cũng vi mà ủy thư ký! Qua thìn vận, ứng có thứ hai hôn đích! Dần trung chi bính, canh ngồi dần vi tuyệt địa, tử lão bà đích? Dần trung có bính mang nam hài đích?
Khôn: Quý Tân Mậu Đinh
Sửu Dậu Ngọ Tị
Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh Mậu
Tuất Hợi Tử Sửu Dần Mão Thìn
Này tạo không có quan sát tinh, có thể tài tinh quý thủy vi phu tinh, vì sao ? Nguyên nhân quý hợp nhật chủ, tướng hợp có thể tỏ vẻ kết thân. Nhưng phu cung ngọ nhưng lại hại ngã phu tinh, nói rõ lần đầu tiên hôn nhân nên thất bại. Kết quả 2000 năm canh thìn năm ly hôn, 2002 năm nhâm ngọ năm lần thứ hai hôn nhân. (Nhật can thiên can ngũ hợp, nhưng địa chi hại, sớm hôn nhất định cách. Này tạo hợp rồi niên thượng đích quý, quý vi phu, 20 tuổi tiền nhân tiện kết rồi, nhưng nguyên nhân sửu ngọ mặc, cố 99 năm cách ??. Nguyên nhân tẩu đích đều là quan sát vận, cố rất nhanh thêm kết rồi, bất hảo. Bát tự không có phu thê tinh, nhưng đại vận có, kêu lên vận phu thê. Biểu vận qua nhân tiện xong hết rồi. Giáp tý vận, tử sửu hợp, tử ngọ xung, tỉ kiếp tranh phu, tử vận 2000 năm canh thìn năm thêm kết ??, sửu vận khẳng định cách, nguyên nhân mặc ngọ rồi. Hai lần sau lúc sẽ không kết rồi, quý cùng sửu trung quý, hai lần hôn nhân, tị dậu củng sửu, vốn là đào hoa (Chú: Là chỉ sửu vi đào hoa ?), sửu vận củng tị, lén lút đích, lấy sau khi đều là đào hoa, lộc bán đào hoa rồi, sửu trung có kỷ, phu khẳng định vốn là đã kết hôn đích. Nhàn chú: Bát tự không có quan, lấy tài quan sát chi nguyên thần tài vi phu ! Mậu quý hợp, quý tài vi đệ nhất phu, thêm đinh = ngọ, tị dậu sửu hợp, cho nên, sửu vi thứ hai hôn! Sửu trung có kỷ, phu khẳng định vốn là đã kết hôn đích đệ nhất hôn, tại niên thượng rất sớm hôn, nhưng phu thê cung mặc phu thê tinh quý thủy, cho nên, đệ nhất hôn nhất định cách! Canh thìn năm thìn đến quý đến, vốn là năm ly hôn ! Nhâm ngọ năm tử nước trôi rồi ngọ hỏa, giải rồi hại, vốn là năm thêm kết hôn! Có thể đoán được, tại sửu vận khẳng định hội cách ! Nguyên nhân mặc phu thê tinh! Tị vi lộc vi phụ nữ thân thể, tị dậu sửu hợp, dậu vi thương quan, sửu vi tỉ kiếp mà trung ngậm tài, vốn là phụ nữ đích đào hoa, nguyên nhân lấy sau khi tái khó có bình thường hôn nhân!
Khôn: Đinh Nhâm Bính Kỷ
Tị Tử Ngọ Hợi
Lưỡng cung lưỡng tinh. Này tạo phu cung ngồi nhận, phu tinh nhâm tử bị chúng tỉ tranh. Tử ngọ tướng xung, ban đầu hôn nhất định cách. Kết quả người nam nhân đệ nhất đồng cư rồi thật nhiều năm, kết hôn theo cũng vỗ, cũng không kết thành, cuối cùng chia tay rồi. Còn có [một người/cái] nữ mệnh cùng này mệnh hết sức tương tự, đinh mùi năm, nhâm tử nguyệt, bính ngọ nhật, kỷ hợi thời, cũng là lần đầu tiên hôn nhân ly dị. Nhàn chú: Tỉ kiếp tránh phu, cung tinh nhiều hiện, nhất định nhiều hôn! Ngọ vi chính cung, tị vi phó cung, lưỡng cung; nhâm tử một trụ làm một tinh, hợi vi một khác tinh, lưỡng tinh lưỡng cung! Gia tăng chi, tỉ kiếp đông đảo, nhiều kết hôn cấu! HongKong nữ đích.
Khôn: Kỷ mậu nhâm quý
Dậu Thìn Thân Mão
Kỷ Canh Tân Nhâm Quý Giáp Ất
Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Thú Hợi
Này tạo phu cung vi thân kim, thêm xuất hiện dậu kim, phu cung nhiều hiện. Lại nhìn phu tinh mậu kỷ thổ cũng nhiều hiện, thuộc về phu cung cùng phu tinh nhiều hiện đích tình huống, cho nên phải có nhiều lần hôn nhân. Bây giờ lần thứ hai hôn nhân cũng ly dị rồi. Người thứ nhất bị đỉnh rồi, người thứ hai bị hợp rồi. Người thứ nhất vốn là đánh cuộc đồ, người thứ hai làm cho hắn dưỡng. [hai người/cái] lão công cũng hoa hắn đích tiền. Nhàn chú: Thân dậu lưỡng cung, kỷ mậu lưỡng tinh! Kỷ dậu quý mão mang tượng, mão vi tài, quý cũng vi tài, kỷ vi đệ nhất thua cuộc100 vạn; mậu vi lão Nhị, gì sự tình mặc kệ, ăn của nàng còn muốn đánh chửi nàng! Tẩu thân vận tìm người thứ ba, thân trung có mậu thổ, cứ việc bên trong đích mậu ngậm đích ít, ứng cũng không tệ lắm! Mặt trời lên cao thân ấn vi phòng ở, mão vi tài, thân mão hợp, vi mướn cánh cửa mặt! Mão vi thương quan, nhưng rơi không, cùng nữ nhi, quan hệ hảo!( Không không bị sinh, không bị khắc!)
Khôn: Bính nhâm giáp giáp
Thân Thìn Thìn Tuất
Tân Canh Kỷ Mậu Đinh Bính
Mão Dần Sửu Tử Hợi Thú
Này tạo lấy thìn thổ vi phu cung, thân kim vi phu tinh, hai người tướng củng hợp, vốn chúc hảo hôn nhân. Nhưng chúng ta chứng kiến mệnh trung có lưỡng thìn, vốn là phu cung lưỡng hiện; trừ thân kim ngoại tuất trung còn có một tân kim, phu tinh cũng lưỡng hiện, cho nên nhất định là nhiều hôn mệnh. Thực tế lần đầu tiên hôn nhân ly dị, lần thứ hai hôn nhân qua rất khá. Nhàn chú: Lưỡng cung thìn, lưỡng tinh thân và thú trung tân, thú vọt thìn mở khố, nhị hôn tốt lắm!
Hai lần hôn nhân khẩu quyết: Lưỡng phu cung, một phu tinh hợp( Tam hợp, lục hợp, ám hợp đều là), nam mệnh cũng đồng xem.
Khôn: Kỷ mậu giáp quý
Dậu thìn thìn dậu
Nhàn chú: Này bát tự không vi tư liệu thượng bát tự, sắp xếp bàn có lầm, ứng vi phía dưới địa bàn
Khôn tạo: Kỷ đinh giáp quý
Dậu mão thìn dậu không vong( Dần mão)
Đại vận: Mậu thìn kỷ tị canh ngọ tân mùi nhâm thân quý dậu giáp tuất ất hợi
Mới vu:1971 1981 1991 2001 2011 2021 2031 2041
Tam đến bốn lần hôn nhân, cách đích ứng kì vi xung, hôm nay năm bính tuất năm thìn tuất xung, canh thìn năm kết đích hôn, nguyên nhân thìn tới rồi, hiện đã phân cư. Nàng vốn là đạo du. Nhàn chú: Đây là một cung lưỡng tinh, tỉ kiếp mão mặc phu cung, khẳng định có nữ nhân tới xuyên vào đủ! Nhiều hôn chi tượng.
Khôn: Nhâm quý nhâm tân
Tử sửu dần hợi
Này tạo lấy sửu thổ quan tinh vi phu, dần sửu ám hợp, vốn là phu tinh hợp đến phu cung, vốn chúc hảo hôn nhân. Nhưng thấy năm tháng tỉ kiếp đông đảo, vi tỉ kiếp tranh phu tượng, phu bên ngoài nhiều nữ nhân. Năm tháng tử sửu tướng hợp, ngoài lực lượng lớn hơn dần sửu chi hợp, cố ngoài hôn nhất định cách. Quả nhiên vu đinh sửu năm ly hôn, có một hài tử, có tiên thiên tính chất bệnh tim, thủy đem hỏa khắc rồi, dần thực chủ hài tử, không vong rồi, phản chém làm nam hài. Sau khi thêm vu nhâm ngọ năm khác giá. Tượng này tạo nếu như vãn hôn, tránh được miễn ly hôn, dần hợi hợp tỏ vẻ lần thứ hai, mà lần thứ hai hôn nhân hảo. Nàng bản thân dễ được can úc chi bệnh, dễ trường ngật đáp. Nguyên nhân dần hợi hợp, đem ẩm ướt khí hợp tới rồi can trung. Sửu vốn là người thứ nhất, tân hợi vốn là người thứ hai. Nhàn chú: Sửu quan vi đệ nhất phu, tân ấn vi thứ hai phu! Nguyên nhân tân hợi mang tượng, hợi dần hợp rồi! Dần vi thực vi nữ, thấy không vi nhân, dần trung bính hỏa diệt, nhân cố tình bẩn bệnh! Nhị hôn hảo! Một hôn tỉ kiếp tránh phu, đinh sửu năm ly hôn, nhị hôn vốn là online nhận thức đích, thời thượng vi phương xa, người này nghiễm đông đích, nhâm ngọ năm xa giá Thượng Hải!
Càn: Đinh nhâm tân đinh
Mùi dần sửu dậu
Này tạo thê cung sửu thổ, mà thê tinh vốn là dần mộc, dần sửu ám hợp, vốn là hảo hôn nhân đích tổ hợp. Nhiên dần mộc nhưng lại nhập mộ vu mùi, sửu mùi thêm xung, như vậy dần sửu ám hợp chi cục đã được phá hủy, biểu thê đi, cho nên ly hôn thành tất nhiên. Thực tế nhâm ngọ năm ngọ mùi hợp, sửu ngọ hại, ly hôn rồi. Nếu như không có dần sửu hợp, thì không có chuyện, sửu mùi xung phản tỏ vẻ thê nên nhập thê cung. Bây giờ còn lại là phản rồi.
Càn: Giáp bính kỷ canh
Thìn dần hợi ngọ
Đinh mậu kỷ canh tân nhâm quý
Mão thìn tị ngọ mùi thân dậu
Này tạo ngồi xuống hợi thủy thê tinh được chính vị, không thích nguyệt thượng dần mộc đem thê tinh hợp đi, vốn là điển hình đích nhị hôn chi tượng. Hành kỷ tị vận, tị cây đuốc thê tinh hợi nước trôi tẩu, ly hôn rồi. Canh ngọ vận ngọ hợi ám hợp đến thê cung, vốn là người thứ hai lão bà. Ngọ hỏa vốn là kỷ thổ lộc thêm sinh kỷ thổ, cho nên người thứ hai lão bà đối với hắn hảo. Ngọ vốn là chính mình, cố lần thứ hai nhân tiện ổn định ở. Hắn ở trên tiểu học13 tuổi thời, cùng hắn đích sư phụ xảy ra quan hệ (So với hắn lớn hơn). Hác đoạn hắn là thiếu niên thành thân không được hôn. Nhàn chú: Chính tinh được chính vị sợ hợp, tẩu tị vận cách rồi, lão bà theo người chạy! Tị hợi xung thê tẩu, tị dần hại, công việc đã đánh mất! Thứ hai hợi ngọ ám hợp, kỷ= ngọ, lộc ý, hợp lưu lại rồi, ổn định! Giáp = dần, dần hợi hợp lại, giáp quan trung bao hàm phụ nữ (Có hay không vốn là thìn trung tài?) thiếu niên hư thân (14 tuổi) không được nhà (Mão mặc thìn, chích biểu hư thân, không nhắc tới lập gia đình?), niên thượng quan tinh vi trưởng bối. (Vi sư phụ ? Quan cũng vi sư phụ).
Càn: Ất canh tân nhâm
Tị thìn mão thìn
Niên thượng tài đi ra sớm, mà ất vốn là mão thấu tới rồi niên thượng,16 tuổi thời, tìm một 20 tuổi hơn đích phụ nữ. Ất tị, thê cung mão sinh đích quan (Tị), tỏ vẻ có liên quan hệ, nhưng ất canh hợp, biểu không phải hắn đích lão bà, phải gả cho người khác nguyên nhân mão thìn mặc, nhâm vốn là thìn trung lộ ra tới, nhâm vốn là thương quan, (Chú: Con gái cung ngồi khắc con gái tinh gì đó), thêm mão thìn hại, lão bà sẽ không sinh hài tử, muốn mượn phúc sinh tử. Hác đoạn: Tự lưu mà trong ngươi không loại, tập thể mà trong ngươi hạt loại. Nhàn chú: Này mệnh lệ vi tư liệu ngoại đích. Mão= ất, ất tị mang tượng, tị sinh rồi mão cùng thê cung có liên quan liên rồi, là có tính chất quan hệ rồi! Ất vi phụ nữ, tại niên thượng vi đại, trước hợp rồi canh, nói rõ đầu tiên là người khác đích lão bà, thêm thìn mão hại, người này giá không được chính mình! Mão vi lão bà, mặc con gái cung thìn, lão bà không sinh dưỡng ! Nam mệnh quan sát vi con gái, con gái cung ngồi thương thực và thương thực khố, cũng là khắc con gái đích! Tị tại niên thượng, do ất mộc viện sinh, cho nên, mượn phúc sinh tử !
Càn: Kỷ Đinh Nhâm Quý
Dậu Mão Ngọ Mão
Đại vận: Bính dần ất sửu giáp tý quý hợi nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi
mới vu: 1969 1979 1989 1999 2009 2019 2029 2039
Này tạo thê cung ngồi thẳng tài, nhật chủ thêm hợp nguyệt can chính tài, bởi vì đinh ngồi xuống mão mộc cùng ngọ hỏa tướng phá, nói rõ đinh mão một trụ cùng ngọ không thể kiêm sắc mặt, như vậy đinh mão vốn là một người, ngọ vừa là một người. Mệnh trung hai lần hôn nhân chi tượng. Thực tế kỷ mão năm kết hôn, tìm chính là đồng sự, canh thìn năm ly hôn. Nhàn chú: Ngọ trung đinh vi chính tài ngồi thê cung, vi chính tinh được vị. Đinh mão tương sinh, mão ngọ phá, cho nên, cứ việc đinh= ngọ nhưng này không nhắc tới cùng người, ứng vi hai người! [hai người/cái] thê tinh, đinh vi trước, tại nguyệt lệnh vi đồng sự, giáp tý vận kỷ mão năm kết ứng đã tới đinh đến, mão đến ứng nguyệt lệnh mão đến, vốn là năm kết hôn! Canh thìn năm thìn mặc mão cũng chính là phá hủy đinh ! Ly hôn!
Càn: Giáp bính tân giáp
Thìn tử mão ngọ
đại vận: Đinh sửu mậu dần kỷ mão canh thìn tân tị nhâm ngọ quý mùi giáp thân
mới vu:1974 1984 1994 2004 2014 2024 2034 2044
Này tạo mão mộc làm vợ tinh được chính vị, thiên can lộ ra giáp mộc, cũng là thê tinh, giáp mộc ngồi chi thìn thổ nhưng lại cùng thê cung mão tướng hại, giáp cùng mão vốn là bất đồng đích phụ nữ, cố vốn là một nhiều hôn đích mệnh, niên thượng giáp vốn là lần đầu tiên, ngắn ngủi, mão vốn là lần thứ hai, thời gian trường, cũng bất hảo, thời thượng giáp vi lần thứ ba, cả đời hôn nhân sẽ không hảo. Tẩu mậu dần vận kỷ tị năm, giáp kỷ hợp, dần tị hại, giáp mộc bị kỷ thổ hợp khứ, này tuổi già bà chạy theo người khác.
Nhàn chú: Mão thiên tài vi lệch tinh ngồi thẳng vị, giáp ất mộc cộng cây, đằng la hệ giáp, giáp mộc cũng làm vợ tinh, mão thìn mặc, mão ngọ cũng phá, cho nên, nơi này giáp cùng mão không phải cùng người! Khác năm thời thượng đích lưỡng giáp nguyên nhân cung vị xui xẻo đích quá xa cũng không phải một người. Niên thượng giáp vi lão Đại, mão vi lão Nhị, thời thượng giáp vi lão Tam; tị năm mặc dần, cũng chính là mặc giáp, lão bà theo người chạy! Nhị hôn tử mão phá, ngọ mão phá, cũng sẽ không tốt! Nhưng cách không được, phu thê cảm tình bất hảo!( Đoạn sư: Cách không được, chẳng lẽ nơi này lưỡng giáp cùng người? Không có lần thứ ba hôn?) tòng đại vận xem: Thìn vận thêm hại thê cung, sợ là hôn thêm bất hảo! Tam hôn có khả năng đích!
Càn: Ất canh nhâm canh
Mùi thìn tử tuất
Này tạo không có minh đích tài tinh, lấy thương thực làm vợ tinh, cho nên niên thượng thương quan ất mộc làm vợ. Ất canh hợp, bị canh kim khắc hợp; ất chi cây mùi nhưng lại nhập thìn mộ, mùi bị thê cung tử thủy hại ngã, lần đầu tiên hôn nhân nhất định là không tới đầu đích. Nhập mộ biểu có hôn nhân quan hệ, cũng biểu tử vong. Thê tinh có khắc mộ lưỡng thương, tỏ vẻ tử vong ý. Thực tế đệ nhất đảm nhận thê tử bệnh tử, nhâm ngọ năm lấy thứ hai cho dù thê tử. Ngọ trung tòng tuất trung dẫn ra tới. Tử vi chính cung, thìn vi phó cung. Nếu như không có thìn, ất mùi không phải thê tử. Nhàn chú: Bát tự không có tài lấy thực thương làm vợ tinh, nơi này ất ngồi mùi, mùi trung đích đinh cũng có thể biểu thê tượng, ất ngồi mộ, không cát, biểu lão bà sẽ chết khứ! Tử vi chính thê cung, thìn vi phó thê cung nguyên nhân thìn tử bán hợp; chính cung lâu dài, phó cung ngắn ngủi! Chưa vào rồi thìn khố, cu
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Hành: Thổ
Loại: Quý Tinh
Đặc Tính: Quan lộc, Công dan, Ấn tín, quyền uy, quý hiển
Tên gọi tắt thường gặp: Ấn
Phụ Tinh. Một trong 4 sao của cách Binh Hình Tướng Ấn (Phục Binh, Thiên Hình, Tướng Quân, Quốc Ấn). Quốc Ấn tượng trưng cho ấn của vua ban, bằng sắc được ân thưởng. Do đó, Quốc ấn có nghĩa công danh nhiều nhất.
Tính Tình: Quốc ấn chỉ người có phong độ trượng phu, tác phong quân tử. Đức độ này do giai cấp, quyền tước, chức vị, phẩm hàm mà có, không hẳn do bản tính, nết hạnh cơ hữu.
Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ:
Có uy quyền, tước vị, huy chương Người có ấn ở Mệnh thường làm chính thức, có quyền vị.
Gìn giữ được uy quyền chức vị :
Đỗ đạt, có khoa bảng, bằng sắc. Học trò có ấn thì thi đỗ cao, nếu thêm cát tinh như Cáo, Khoa, Xương Khúc, Long Phượng thì có khen tặng của Hội đồng Khoa hay được phong áo mũ trong lễ phát bằng phát thưởng rỡ ràng. Chức quyền ở đây không hẳn chỉ có ý nghĩa quyền binh mà có thể có nghĩa trên địa hạt khác như văn hóa (việc gia nhập Hàn Lâm Viện cũng là một hình thái của Quốc Ấn).
Ấn tượng trưng cho giai cấp thượng lưu. Lúc chết có thể được phong thần hoặc được lưu danh, người đời cúng bái, phụng thờ. Những ý nghĩa này chỉ có khi ấn không bị Tuần, Triệt án ngữ.
Những Bộ Sao Tốt:
Ấn, Cáo: được phong chức, ban quyền, tặng huy chương, hoặc được lên chức.
Ấn, Binh, Tướng, Hình: quyền uy võ nghiệp hiển đạt, sĩ quan tham mưu xuất sắc.
Ấn, Tướng, Tam Hóa: gặp vận hội may mắn lớn về quan trường, được hiển đạt về công danh, làm chức rất to.
Ấn ngộ Tuần, Triệt: công danh trắc trở, thất bại; bị cách chức, bãi miễn sa thải; tranh cử thất bại.
Ý Nghĩa sao Quốc Ấn Ở Các Cung:
Mệnh, Quan, Phúc:
Phát quý, phát quang
Dòng dõi có khoa danh, uy thế
Hiển đạt, được giữ chính chức, có huy chương
Quốc Ấn Khi Vào Các Hạn
Đắc thời, đắc quan, đắc khoa
Có huy chương, bằng khen
– Sang tháng mới vận trình khởi sắc, 3 con giáp dưới đây có cơ hội phô diễn tài năng, gặt hái thành công ở cả phương diện sự nghiệp, tài chính cũng như tình cảm.
![]() |
Tử vi tuổi Thân tháng 12 khởi sắc hơn những tháng trước |
![]() |
Thế đất trước cửa hàng cao mà đằng sau thấp, hoặc là kiến trúc trước mặt cửa hàng xây cao còn đằng sau xây thấp, phong thủy gọi là trước cao sau thấp hoặc là “Thoái long cách”.

Lựa chọn cửa hàng như trên sẽ bất lợi trong kinh doanh, tài vận dần dần tiêu tan. Nếu như kinh doanh ở cửa hàng này, có thể dùng 36 đồng tiến cổ treo ờ giữa hoặc sau cửa hàng để hóa giải.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Tham khảo thêm các thông tin về: Mười hai con giáp và Tử vi trọn đời của bạn |
Vén màn bí mật những cô nàng “vịt hóa thiên nga” trong 12 con giáp
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo Lịch vạn sự |
Chọn chuẩn màu quần áo cho 12 con giáp để tài vận dồi dào trong tháng 5
1. Không nên bày kỳ lân chưa được khai quang
Chú thích: Khai quang là 1 nghi lễ, sau khi hoàn thành tượng, chọn ngày lành dỡ bỏ miếng lụa đỏ trên đầu để bắt đầu thờ cúng.

Kỳ lân nếu chưa khai quang sẽ không thể ngăn sát khí, xua đuổi tà mà ngược lại còn đem lại điềm xấu cho gia đình.
Kỳ lân dùng để ngăn sát khí, cho nên cần phải dùng kỳ lân đã khai quang. Nếu như kỳ lân chưa được khai quang sẽ không có tác dụng ngăn sát khí xua đuổi tà, có thể sẽ bị những vật không tốt lành chiếm giữ, từ đó đem đến điều xấu cho gia đình.
2. Không được đặt ngoài cửa sổ
Thời cổ đại, long, lân, quy, phụng được coi là tứ linh vật. Nếu như đặt hoặc treo kỳ lân trên cửa sổ nghĩa là không tôn trọng, thậm chí là coi thường linh vật, sẽ gặp phản phệ mang điềm xấu cho gia đình.
3. Người hoặc ngành nghề bất lương không thích hợp bày kỳ lân

Kỳ lân tuy là linh vật may mắn nhưng lại không thích hợp với những người hoặc ngành nghề bất lương.
Tương truyền kỳ lân thích nhất là giúp đỡ những người tốt, đặc biệt chú ý đến những người hiếu thảo và lương thiện, cho nên còn được gọi là “nhân thú” (loài thú có lòng nhân từ). Khi kỳ lân gặp người xấu sẽ đuổi theo người đó mà cắn, cho nên một số ngành nghề gian trá liên quan đến cờ bạc, thuốc phiện, buôn lậu… cho dù là công ty hay là trong nhà đều không nên đặt kỳ lân.
Vậy đặt kỳ lân như thế nào mới hợp phong thủy?
- Nếu như đặt ở công ty, kỳ lân nên đặt một đôi trên bàn làm việc, bên trái và bên phải mỗi bên một con, đầu hướng về phía cửa, đuôi hướng về phía mình để nhanh chóng đạt được sự thăng tiến trong sự nghiệp.

Đặt tượng kỳ lân trên bàn làm việc để nhanh chóng đạt được sự thăng tiến trong sự nghiệp.
- Nếu như đặt ở trong nhà, kỳ lân có thể đặt nhiều vị trí tùy mục đích. Nếu như cầu quý tử có thể đặt trong phòng ngủ, mong muốn sự nghiệp học hành tấn tới có thể đặt một đôi trong phòng sách. Ngoài ra, kỳ lân có thể đặt trong phòng khách, thể hiện sự tôn sùng đối với linh vật, đem may mắn và bình an cho cả gia đình.
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Tự xem chỉ tay đơn giản để luận giải về cuộc đời, vận mệnh của bản thân |
1. Đồng hồ không treo trên ghế sofa
Trong phòng khách thường có ghế sofa, chúng ta không nên treo đồng hồ ở trên ghế sofa, như vậy sẽ ảnh hưởng không tốt tới người ngồi trên ghế, đặc biệt là về sức khỏe.
2. Kiêng kị treo đối diện cửa chính
Phòng khách thường là phòng chính ngay khi bước qua cửa ra vào. Do vậy khi treo đồng hồ, kiêng kị treo đối diện cửa chính, kể cả các cửa khác trong nhà cũng không nên treo đồng hồ đối diện, bởi vì những nơi này có sát khí truyền tới, còn đồng hồ có tác dụng đấu sát. Hai vật này gặp nhau sẽ khiến cho nhà cửa không yên. Nên đặt đồng hồ ở một bên cửa sẽ tránh được kiêng kị khi treo đồng hồ.
3. Tránh để mặt đồng hồ quay vào trong nhà
Đồng hồ có thể khiến cho không khí trong phòng lưu động, khiến cho cả phòng tràn đầy sức sống. Do vậy, cần đặt đồng hồ hướng về phía ban công là tốt nhất. Nếu như trong phòng không có người, đồng hồ có thể kéo đi những luồng khí tĩnh và đem lại những luồng khí may mắn. Đồng hồ không nên quay mặt vào trong nhà.

4. Không nên treo ở phía Bạch Hổ và Huyền Vũ
Đồng hồ có thể đặt phương Chu Tước (phía trước), Thanh Long (bên trái), những nơi này được coi là phía may mắn.
Không nên treo đồng hồ ở phía Bạch Hổ (bên phải), Huyền Vũ (phía sau) bởi vì phía này thích tĩnh không thích động, mà đồng hồ lại chuyển động không ngừng.
Ngoài ra, nên tránh treo đồng hồ hướng vào những thứ giống hình dáng của nó hoặc hình Bát quái, cách bài trí như vậy sẽ khiến tinh thần của chủ nhà dễ bị bực bội và ức chế. Nếu như tránh được những điều cấm kỵ treo đồng hồ trong phòng khách này thì gia chủ sẽ nhận được nhiều may mắn.
hiệu quả làm thay đổi vận trfnh. Căn cứ vào ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hoả – Thổ, pha lê lại có thể phân thành 5 loại.

Pha lê đỏ: Còn được gọi là pha lê lông thỏ đỏ, tên khác là “pha lê Verniser”, là những viên đá đỏ kim hình lưới, mượt mà mềm mại như những sợi to săn chắc, giống như những sợi tóc của mỹ nữ. Nó chính là một trong những loại quý hiếm trong họ nhà pha lê, số lượng rất ít và quý hiếm, cho nên những người biết vế chúng cùng không nhiều. Hiện nay người ta phải bán ra theo từng gam. Nhưng loại pha lê đỏ tự nhiên có tác dụng tâm linh, an tịnh tinh thần, kiêm thêm khả năng hàm chứa năng lượng đặc biệt, không những có tác dụng bào vệ sức khỏe, mà còn có cả chức năng cải mệnh trị bệnh, nên nó la một vật liệu quý. Pha lê đỏ trong Ngũ hành thuộc chủ Hỏa, cơ thể của người xem vốn thuộc Hải trung kim (vàng đáy biển), bên trong bị thất thoát, nên đeo bên mình một vòng pha lê để hoá giải hệ thống tuần hoàn bên trong, có tác dụng tốt đối với các bệnh phụ khoa. Pha lê đỏ có thể kích thích đấu trí, tăng thêm lòng tự tin cho con người.
Tác dụng của pha lê đỏ: Pha lê đổ tự nhiên có thể tác dụng bồ trợ tâm linh, an thần, tránh khí độc và những thứ không trong sạch quanh mình, có tác dụng như một vật hộ thần. Nếu nữ giới thường đeo bên người, da dẻ sẽ trắng trẻo, có tác dụng làm đẹp rất tốt.
Tác dụng của pha lê tím: Khai mở trí tuệ, bình ổn tình cảm, nâng cao khả năng trực giác, mở rộng quan hệ xã hội, có thể đem lại dũng khí và khả năng chống chọi mọi nguy hiểm phát sinh của những người đi du lịch. Nó đại diện cho tình cảm yêu đương kiên trinh cao thượng, thường được chọn làm đá đính ước của cắc đôi tình nhân. Pha lê tím đại biểu cho sự thuần khiết, hài hoà, tâm tình bình dị, có hiệu quả trấn an tinh thần, tăng cường trí nhớ, giảm bớt tính khí nóng này: khi ngủ đặt ở dưới gối có thể kích thích sự tư duy, trị bệnh mất ngủ. Tiếp xúc với pha lê tím có thể nâng cao được linh tính, tăng thêm trí tuệ. Đặt pha lê tím vào một nhóm, sẽ khiến cho lòng người cảm thấy vui vẻ và bớt đi sự cô quả… Người xưa cho rằng: Nó có khả năng thần kỳ là trừ tà, hộ thân, đem lại hạnh phúc và trường thọ, lại có thể giải độc và tránh bị thương tổn, là một vật hộ thân tốt.
Ở phương Tây, pha lê tím còn được gọi là “đá chân thành”, nó tượng trưng cho sự chân thành, chính trực và lương thiện, cũng tượng trưng cho sự ngây thơ và vui vẻ, thích hợp làm vật lưu niệm tặng cho những thế hệ sau chưa trưởng thành. Pha lê tím còn có thể nâng cao tình cảm, đại biểu cho tình hữu nghị, an định tình cảm, kích thích suy nghĩ, kết duyên, bình an cát tường, chiêu phúc chặn hung khí. Theo sự giải thích của người phương Tây, năng lượng của thủy tinh tím là nội giảm, nội hướng, những nhóm thủy tinh đều sinh trưởng hướng vào trung tâm, biểu hiện nó có khả năng ngưng tụ vô cùng lơn.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Mộc Trà (theo Avenue)
Sinh tháng Giêng: Người tuổi Dần sinh vào tiết đầu xuân thường có cốt cách quý, ý chí kiên cường, vang danh bốn biển. Số lợi danh song toàn, con cháu thành đạt, hiếu thảo.
![]() |
Sinh tháng 2: Là người mưu lược, trí tuệ, có chí lớn, có thể dựng nên đại nghiệp, được mọi người kính trọng.
Sinh tháng 3: Số có uy quyền, tạo dựng được sự nghiệp hiển hách, nối được nghiệp tổ tông.
Sinh tháng 4: Sinh vào tiết Lập Hạ trong lành, ấm áp nên có tướng làm quan, du ngoạn khắp nơi, gia đình hòa thuận, con cái đỗ đạt, hiền lương, cả đời ít bị phiền não, mọi việc thuận lợi.
Sinh tháng 5: Là người văn võ song toàn, tự thân lập nên sự nghiệp vẻ vang, được mọi người khâm phục, có số phú quý. Tuổi Dần sinh vào tháng này không nên quá cứng nhắc trong quan điểm và việc ứng xử. Nếu dũng cảm xông pha ắt nên nghiệp lớn.
Sinh tháng 6: Sinh vào tiết Tiểu Thử là người có ý chí, khí phách, khoáng đạt, lạc quan. Tuy vậy, số lại không gặp thời, có hoài bão và trí lực nhưng sự nghiệp khó thành.
Sinh tháng 7: Sinh vào tiết Lập Thu, tài giỏi hơn người, có tầm nhìn xa trông rộng, kiên cường, gan dạ. Nếu biết khắc phục khó khăn sẽ có được thành công lớn.
Sinh tháng 8: Là người ôn hòa, thông minh, nhanh nhẹn, biết nhìn xa trông rộng, giỏi ngoại giao, giỏi quản lý. Nếu theo nghiệp viết văn sẽ trở nên nổi tiếng.
Sinh tháng 9: Người tuổi Dần sinh vào tiết Hàn Lộ thường không gặp thời. Tuy có tài mưu lược nhưng thiếu ý chí, thiếu kiên cường, sống dựa dẫm vào người khác nên không thành nghiệp lớn.
Sinh tháng 10: Là người ôn hòa, thông minh, nhanh nhẹn, có nghĩa khí, quan hệ rộng nhưng sự nghiệp lại gian nan. Số lập nghiệp xa quê, tuy có chí nhưng đơn độc nên khó thành.
Sinh tháng 11: Sinh tiết Đại Tuyết, là người khí chất kiên cường. Sự nghiệp tuy có khó khăn, trắc trở nhưng hay gặp may bất ngờ. Nếu biết nắm bắt thời cơ và khéo léo ứng xử thì mọi khó khăn sẽ qua đi nhanh chóng. Là người có gia vận phức tạp, thiếu thốn, tai họa bất thường. Nên đề phòng và chế ngự những điều xấu.
Sinh tháng 12: Tuy rất tự tin nhưng luôn phải lo âu, số kém may mắn, lành ít dữ nhiều, thiếu thốn. Nếu biết thủ thế, cẩn trọng sẽ có được may mắn hơn trong sự nghiệp và cuộc sống.
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)
|
|
||
Sử gia Trần Thọ bình về Lưu Bị trong "Tam Quốc Chí" - "Tiên chủ là người khoan hồng đức độ, tri nhân đãi sĩ, có phong phạm của Cao Tổ, là bậc anh hùng".
Hoàng đế khai quốc Thục Hán Lưu Bị được đánh giá là có nhiều điểm tương đồng với Hán Cao Tổ Lưu Bang - "Không ham đọc sách, thích chó ngựa, âm nhạc, y phục đẹp... ít nói, đối đãi tốt với hạ nhân, hỷ nộ không lộ ra ngoài".
Giống với tổ tiên của mình, Lưu Bị đánh trận thường xuyên thất bại và cũng từng bỏ chạy "quên cả vợ con". Người kế vị Lưu Thiền thực tế không phải là con trưởng của Bị.
Nhờ sự kiên trì theo đuổi sự nghiệp, cuối cùng Lưu Bị cũng xây dựng thành công đế quốc Thục Hán. Thời điểm lên ngôi, Bị đã 61 tuổi, lớn hơn Lưu Bang lúc đăng cơ 6 tuổi.
Lưu Bang khởi binh năm 47 tuổi, mất 7 năm để thành đại nghiệp. Lưu Bị "xuất thế" năm 23 tuổi, mất tới 38 năm để ngồi lên ngai vàng Thục Hán.
Lưu Bị là nhân vật điển hình của mô hình "tay trắng khởi nghiệp", và điều duy nhất ông vượt trội so với Lưu Bang chính là sự trọng vọng hiền tài.
Ban đầu, Lưu Bị đi theo Hiệu úy Trâu Tịnh trấn áp giặc Hoàng Cân lập được chiến công, được phong làm Huyện úy An Hỷ (tương tương phó chủ tịch huyện). Từ đây, Bị mới bắt đầu sự nghiệp chinh chiến.
Từ khi mất chức do vụ Trương Phi "dùng roi đánh quan đốc bưu", Lưu Bị cùng nhóm quân của mình liên tục vùng vẫy trong nhiều năm thất bại, thậm chí "không có nổi miếng đất cắm dùi".
Mặc dù giành được một số thắng lợi nhỏ như trảm Sái Dương ở Nhữ Nam, đả bại Hạ Hầu Đôn, Vu Cấm ở Bác Vọng, nhưng chỉ đến khi tham gia liên minh với Tôn Quyền, Lưu Bị mới được "đổi đời".
Chiến thắng mấu chốt tại Xích Bích của liên quân Tôn - Lưu đã triệt để thay đổi cán cân giữa các lực lượng quân sự lúc bấy giờ.
Nhờ thực hiện phương châm "long trung đối" của Gia Cát Lượng, thế lực của Lưu Bị đã quật khởi mạnh mẽ tại Ích Châu và một phần Kinh Châu, phát triển thành đối trọng với 2 nhà Tào, Tôn.
Lưu Bị chỉ có năng lực quân sự trung bình, nhưng lại được đánh giá là sáng suốt trong cách dùng người.
Năm Kiến An thứ 24 (219), Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, giành được Hán Trung - "yết hầu" của Ích Châu, khiến Tào Tháo "vỡ mộng" Tây chinh.
Giai đoạn này, tình thế được cho là "như trong mơ" với Thục Hán, khi Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu phát động các chiến dịch Tương Dương, Phàn Thành "nhấn chìm 7 quân, trảm Bàng Đức, hàng phục Vu Cấm, đánh cho Tào Tháo suýt phải rời đô".
Tuy nhiên, cục diện bất ngờ thay đổi khi "đồng minh" Tôn Quyền quay sang bắt tay Tào Ngụy.
Tướng Đông Ngô Lữ Mông với chiến dịch tập kích kinh điển "bạch y độ giang" khiến Quan Vũ không kịp trở tay và để mất Giang Lăng, Công An (thuộc Kinh Châu). Bản thân Quan Vũ cũng thiệt mạng.
2 năm sau, Lưu Bị xưng đế và "Đông Sơn tái khởi", nhưng Bị thảm bại ở Di Lăng. Bị đau khổ thất chí, qua đời tại thành Bạch Đế.
Tình thế Thục quốc thời điểm Lưu Bị băng hà, ngoài có Ngụy, Ngô áp biên, bên trong lại vướng cuộc tạo phản Nam Trung của Thái thú Hán Gia Hoàng Nguyên, Thái thú Tang Ca Chu Bao, Ung Khai ở Ích Châu...
Bên cạnh đó, sau thất bại của Lưu Bị, quân đội Thục Hán bị tổn thất nghiêm trọng. Nhà Thục ví như ngọn đèn trước gió, đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Lúc này, nhân vật đứng ra chèo lái con thuyền sắp đắm Thục Hán chính là "thiên cổ đệ nhất hiền tướng" Gia Cát Lượng.
Phó thác cô nhi ở thành Bạch Đế
Mối quan hệ giữa Lưu Bị và Khổng Minh luôn được nhận định là "điển phạm của quan hệ quân thần".
Sử liệu Trung Quốc ghi nhận, đến nay cũng chỉ có Lưu Bị và Gia Cát Lượng mới đạt được đến mức độ thân cận "như cá với nước".
Mặc dù vậy, giữa Bị và Khổng Minh vẫn tồn tại những khúc mắc khó tháo gỡ.
Gia Cát Lượng chủ trương "liên Ngô kháng Tào", phản đối Lưu Bị tuyên chiến với Đông Ngô. Bị bắt Khổng Minh ở lại Thành Đô, mà Gia Cát Lượng cũng không thể không ở.
Thời điểm đó, Thục Hán nhân tài ít ỏi, Quan - Trương tử chiến không lâu, Phượng Sồ Bàng Thống, Pháp Chính mất sớm.
Gia Cát Lượng buộc phải "bám trụ" Thành Đô như một quyết sách chiến lược, bên cạnh giám hộ Lưu Thiện, ông phải "trấn an quốc gia, úy lạo bách tính, cung ứng quân nhu".
Nếu Lượng cũng theo Lưu Bị xuất sư thì có thể cục diện Tam Quốc đã chuyển biến lớn, bởi Lưu Bị nổi danh là "thường bại tướng quân".
Một nhân vật năng lực quân sự trung bình như Tào Phi cũng chỉ ra được chiến lược "bài binh Thục doanh 700 dặm" của Lưu Bị tất bại.
Bị xem thường thống soái trẻ tuổi Lục Tốn của Đông Ngô, dẫn đến thảm bại và chạy về thành Bạch Đế, Vĩnh An.
Lưu Bị "thác cô" cho Gia Cát Lượng ở thành Bạch Đế.
Năm Chương Vũ thứ 2 (222, Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị), Bị triệu Thái thú Lý Nghiêm đến thành Bạch Đế, phong làm Thượng thư.
Tháng 2/223, Lưu Bị triệu gấp Khổng Minh tới Vĩnh An. Tháng 4 cùng năm, Bị đem con trai phó thác cho Gia Cát Lượng, gọi là "thác cô".
"Thác cô" là hiện tượng chính trị quan trọng mà lịch sử cổ đại Trung Quốc không thể tránh khỏi, thường phát sinh trong những tình huống như vua mất sớm, tân vương còn nhỏ.
Nhà nghiên cứu Nho học đời Hán Khổng An Quốc nói - "Mệnh lệnh lúc lâm chung của vua gọi là Cố mệnh". Từ đó, các vị đại thần được vua phó thác trách nhiệm trước lúc băng hà, gọi là "Cố mệnh đại thần".
Đối tượng "phó thác" mà vua lựa chọn thường phải đáp ứng được các yêu cầu như lòng trung thành sâu sắc, có năng lực, danh vọng cao, quan hệ quân thần đủ độ mật thiết.
Như vậy, có thể thấy rõ Gia Cát Lượng là sự lựa chọn hàng đầu của Lưu Bị.
Về việc Lưu Bị "thác cô" cho Gia Cát Lượng, sách "Tam Quốc Chí" đã có ghi chép.
"Tam Quốc Chí - Tiên chủ truyện" viết - "Tiên Chủ bệnh nặng, 'thác cô' cho Thừa tướng Lượng. Thượng thư Lý Nghiêm làm phó".
"Tam Quốc Chí - Gia Cát Lượng truyện" có đoạn - "Tiên chủ bệnh nặng ở Vĩnh An, triệu Lượng tới phó thác hậu sự - 'Tiên sinh tài cao gấp 10 Tào Phi, tất sẽ an định quốc gia, thành đại sự.
Nếu ấu chúa có tài, hãy theo phò tá. Nếu bất tài, tiên sinh hãy tự phế đi'."
Lưu Bị cũng để lại di chiếu dặn dò Lưu Thiện rằng - "Phải học theo Thừa tướng, coi Thừa tướng như cha".
Lý Nghiêm, "nhân vật số 2" triều Thục Hán sau khi Lưu Bị mất.
Bị qua đời, Khổng Minh và Lý Nghiêm làm theo di chiếu. Nghiêm làm Trung đô hộ, thống lĩnh quân sự trong ngoài, trấn thủ Vĩnh An.
Sau này, Lưu Thiện thực tế trở thành vị vua bất tài, trị quốc vô năng, không đánh đã hàng.
Các nhà nghiên cứu hiện đại bình luận, việc Lưu Bị sắp xếp để Gia Cát Lượng và Lý Nghiêm cùng phò trợ hậu chủ Lưu Thiện cũng là "một phen hao tâm tốn sức".
Khổng Minh được đánh giá là đại biểu đáng tin cậy của "hội người cao tuổi Kinh Tương", trong khi nhân vật số 2 Lý Nghiêm dù là nhân sĩ Kinh Châu, nhưng vốn là thuộc hạ của Lưu Chương, đại diện "quyền lực mới" trong triều Thục Hán.
Thực tế, Lưu Bị sử dụng Lý Nghiêm để làm đối trọng quyền lực với Gia Cát Lượng.
Xét về phương diện "chọn mặt gửi vàng", Lưu Bị được công nhận là đã hoàn toàn sáng suốt.
Ngụy Minh Đế Tào Duệ (con Tào Phi) đem con trai Tào Phương phó thác cho cặp Tư Mã Ý - Tào Sảng, hay Tôn Quyền đem Tôn Lượng gửi gắm cho đám Gia Cát Khác, đều dẫn đến kết cục là những trận tắm máu.
Giữa Khổng Minh và Lý Nghiêm cũng không tránh khỏi phát sinh những tranh chấp quyền lợi, như việc Nghiêm xin cắt 5 quận phía đông Ích Châu ra làm Ba Châu không được đồng ý, hay Nghiêm phạm sai lầm và bị Lượng cách chức.
Về sau, Lý Nghiêm bị Khổng Minh thanh trừng.
Tuy nhiên, xét về tổng thể, Khổng Minh vẫn được xem là hoàn thành xuất sắc sứ mệnh "thác cô", nhờ đó "để lại tiếng thơm ngàn đời".
Việc Lưu Thiện bất tài, đầu hàng nhà Tây Tấn của Tư Mã Viêm là chuyện của nhiều năm sau này, khi Khổng Minh đã qua đời.
Dù Lưu Thiện là hoàng đế vô năng, nhưng những nỗ lực của Gia Cát Lượng đối với triều Thục Hán đã được ghi nhận.
Bí ẩn "thác cô"
Câu nói "nếu bất tài, tiên sinh hãy tự phế đi" đã gây tranh cãi lớn trong lịch sử Trung Quốc.
Ngày nay, có nhiều luồng quan điểm giải thích ngụ ý câu nói "nhạy cảm" của Bị.
Thứ nhất là quan điểm cho rằng Lưu Bị "nói lời thật lòng". Tác giả Trần Thọ của "Tam Quốc Chí" cũng tán thành với nhận định này.
Trần Thọ bình luận rất tích cực trong "Tam Quốc Chí - Tiên chủ truyện" rằng - "Đem quốc gia phó thác cho Gia Cát Lượng, không cần đắn đo".
Quan điểm thứ hai là thuyết âm mưu. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Lưu Bị buộc phải "thác cô" cho Gia Cát Lượng, sóng vẫn ôm lòng nghi kỵ, cho nên mới nói ra lời như vậy để buộc Lượng phải tỏ rõ lòng trung.
Thứ ba, cách nói "tự phế đi" không đồng nghĩa với "tự mình thay thế".
Luồng quan điểm này cho rằng, Lưu Bị muốn chỉ ra, nếu Lưu Thiện bất tài thì Khổng Minh có thể lựa chọn 1 trong 2 người con khác của Bị để lập làm vua.
Lưu Bị chỉ... nói đùa?
Hiện nay, có thêm luồng quan điểm thứ tư cho rằng bản thân câu nói của Lưu Bị... không có ý nghĩa thực chất mà chỉ là nói theo "mô hình chung".
Trên thực tế, câu nói có đại ý như trên không phải hiếm gặp. Trong 6 vụ "thác cô" thời Tam Quốc, có ít nhất 3 lần đoạn "văn mẫu" trên đã được xuất hiện.
Bên cạnh Lưu Bị, một trường hợp khác là Tôn Sách "thác cô" Trương Chiêu - "Nếu Trọng Mưu (Tôn Quyền) kém tài, tiên sinh hãy tự phế đi" - theo "Ngô lịch".
Vụ "thác cô" thứ 3 được biết tới là Lưu Biểu ủy thác Lưu Bị - "Nếu con ta bất tài, để chư tướng lang bạt, thì sau khi ta chết, khanh hãy thu lại Kinh Châu" - theo "Ngụy thư".
Mối quan hệ thực giữa Lưu Bị - Khổng Minh vẫn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận.
Lưu Bị 2 lần làm "người trong cuộc" của giao kèo ủy thác, lần đầu là nhận phó thác, lần sau là người ủy thác.
Lời của Lưu Biểu thậm chí còn mang ý tứ vô cùng rõ ràng. Các học giả hiện đại cho rằng, Biểu chắc chắn đã có tác động đến tư tưởng của Lưu Bị, thậm chí là ảnh hưởng trực tiếp đến di chúc của Lưu Bị, gián tiếp ảnh hưởng tới lịch sử Tam Quốc.
Việc những phát ngôn khác nhau nhưng mang ý nghĩa tương đồng xuất hiện trong nhiều hoàn cảnh lịch sử thời Tam Quốc, cho thấy câu nói "Nếu ấu chúa có tài, hãy theo phò tá" nhìn bề ngoài giống một vấn đề lựa chọn, song thực tế đáp án chỉ có một.
Bên cạnh đó, một điểm ngày càng được nhiều người nhìn nhận, đó là không tồn tại khả năng Lưu Bị thực lòng nhường vị cho Gia Cát Lượng.
Trong lịch sử, trừ giai đoạn sơ khai thời Nghiêu - Thuấn - Vũ, tại Trung Quốc chưa từng xuất hiện trường hợp một vị vua nào "tự nguyện" nhường giang sơn của mình cho người khác họ.
Cho dù Lưu Bị được đánh giá là nhân đức, trọng hiền tài, và Khổng Minh cũng được ông tin cậy tuyệt đối, thì khả năng Lưu Bị "thoát" khỏi quan niệm chung của thời đại là rất nhỏ.
Về phía Gia Cát Lượng, nhiều ý kiến cho rằng ông "thề nguyện tận trung" với Lưu Bị xuất phát từ lòng trung thành thực sự. Cho dù không có lời nói "ẩn ý" của Bị, tin rằng Khổng Minh vẫn sẽ "cúc cung tận tụy" phò trợ Lưu Thiện.
Nếu nói rằng lời của Lưu Bị nhằm tạo áp lực lên Gia Cát Lượng, thì nhìn lại thực tế lịch sử, chỉ có thể nói rằng Khổng Minh đã hết sức nỗ lực để hoàn thành trọng nhiệm.
Nhà phê bình văn học đời Thanh Mao Tông Cương cũng từng bình luận - "Lời tiên chủ lệnh Khổng Minh phế chúa, nếu thật thì sao, giả thì thế nào?
Đáp: Nếu là thật, thì là thật. Nếu là giả, thì là giả".
Quả thực, một lời nói của Lưu Bị đã khiến người đọc Tam Quốc "lạc lối" suốt 2.000 năm qua.
Theo Trí Thức Trẻ
Căn cứ vào ghi chép của các thầy phong thuỷ học truyền thống nổi tiếng, có thể áp dụng các phương pháp khác nhau để hoá giải các loại sát khí. Dưới đây là một số ví dụ:
1. Âm tà sát
Một người bình thường cùng biết rằng nếu nhà ở đối diện với những vật kiến trúc “không tốt lành” như bãi tha ma hay nhà xác là không tốt. Sát khí loại này được gọi là âm tà sát, nhà ở gần lò giết mổ cũng thuộc sát này, rất dễ dẫn khí tà âm vào nhà, dễ gây bệnh tật cho các thành viên trong gia đình hoặc xảy ra sự cố ngoài ý muốn, thậm chí trong quan hệ giao tiếp với mọi người cũng diễn biến xâu đi. Muốn hoá giải âm tà sát có thể đặt một đôi hình rồng hướng về phương sát khí, đồng thời đặt ở hướng chịu sát một đôi kỳ lân hoặc một loài thú dữ.
2. Cô khắc sát
Nhà ở đối diện với những kiến trúc không cát lợi là không tốt, trái lại, đối diện với những nơi trang nghiêm như miếu mạo, đền tự, nhà thờ cũng không tốt, điều này là do nơi đó thường xuyên có người đến lễ bái, dâng hương, tự nhiên dễ chiếu những cô hồn đã quý đến. Do có những âm linh tụ tập mà 4 xung quanh dễ sản sinh khí cô sát làm cho vận thế của các thành viên trong nhà xuống thấp, khó có được quý nhân phù trợ. Cách hoá giải là đặt một đôi rồng ở hướng phạm sát quay ra ngoài cửa sổ hoặc bố trí đèn liên hoa chuyển vận, đồng thời đốt trầm hương lâu ngày để hoá giải.
3. Quan môn sát
Nhà đối diện với cục cảnh sát thuộc quan môn sát ra, đối diện với các cơ quan chính quyền, doanh trại quân đội, trại giam, nhà tù đều thuộc quan môn sát. Quan môn sát ảnh hưởng đến vận thế gia trạch, làm cho thành viên trong nhà làm việc gì cũng không thuận lợi. Muốn hoá giải quan môn sát có thể đặt một đôi rồng hoặc một đôi sư tử ở hướng hoá sát, đồng thời phải hướng chúng ra phía ngoài cửa sổ.
4. Âm độc sát
Nhà ở đối diện với công trường công cộng hoặc bãi đổ rác là thuộc âm độc sát. Âm độc sát thường ảnh hưởng đến các phòng từ tầng 6 trở xuống, vì vậy nếu ngoài phạm vi này thì không cần lo lắng; đồng thời, những thứ đó càng ở gần nhà thì sát khí càng hung, ảnh hưởng dến sức khoẻ và tài vận của người trong nhà. Cách hoá giải là đặt hồ lô và một xâu tiền làm bằng đồng, hoặc túi gấm ngân nguyên ở hướng chịu sát.

5. Tiêm giác sát
Có những tạo hình kiến trúc nhiều cạnh và có góc nhọn, góc nhọn đó có khi đối diện với cửa nhà lân cận, trường hợp này gọi là phạm tiêm giác sát. Tiêm giác sát ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe các thành viên trong gia đình, dễ sinh ra một số bệnh mãn tính lâu dài, đặc biệt là rất dễ tái phát các bệnh có tính đau nhức và tính xuất huyết, đồng thời dễ bị tổn thương do dao kiếm. Gặp trường hợp này có thể đặt ở cửa sổ một tượng mặt sư tứ miệng đang cắn kiếm bài và một xâu tiền bằng đồng bạch ngọc lục đế để hoá giải.
6. Đỉnh tâm sát
Đỉnh tâm sát là chỉ sát khí hình thành do nhà ở đối diện với cột đèn hoặc cột điện. Nhà gặp đỉnh tâm sát có thể làm cho tì khí của các thành viên trong gia đình nóng lên, dễ sinh bệnh mất máu hoặc tổn thương thị lực. Muốn hoá giải đỉnh tâm sát có thể sử dụng tiền bằng đồng bạch ngọc lục đế.
Thờ cúng tổ tiên, thần linh, thần phật là truyền thống lâu đời của người Việt, vì thế trong bất cứ gia đình nào cũng có ban thờ.
![]() |
![]() |
– Nhiều ý kiến cho rằng, tướng nốt ruồi sau gáy là nốt ruồi khổ tình, ít người có. Nhưng nếu biết hoạt hóa, đây sẽ là nốt ruồi mang tới điềm phú quý, cát lành.
![]() |
![]() |
Bò phong thủy
Từ xưa đến nay Việt Nam là một nước nông nghiệp, chính vì vậy mà bò cày ruộng trở thành tay trợ giúp tốt nhất của nhà nông.

Thêm vào đó bản thân chúng còn có tính chịu khổ chịu khó, hơn nữa những thực phẩm cùng loại đều có thể ăn lẫn lộn nhau, giống như bò sữa, bò thịt… Chính vì vậy mà trong phong thủy bò được coi là con vật cát tường. Chúng ta cũng có thể dùng tập tính của bò để đặt trong phong thủy có thể chiếu đến phúc khí, có lợi cho sự nghiệp, vượng động sinh tài.
Nếu có thể hoàn toàn phát huy linh lực của bò trong phong thủy, cần phải chú ý những điểm dưới dây:
Chất liệu: Những con bò phong thủy được tạo ra từ vàng là tốt nhất, toàn thân dát vàng sáng chói, sẽ có ảnh hưởng tuyệt đối tới sự nghiệp và vượng động sinh tài. Nếu là dùng đồng để tạo ra bò phong thủy, thì bề mặt tốt nhất cũng nên đắt vàng, đế có thể phát ra ánh vàng lấp lánh. Giả sử dùng chất liệu gốm sứ cùng có thể được, có điều đối với vị trí bày đặt thì lại cần sự cân nhắc kỹ lưỡng. Kỵ nhất là không thể dùng bò phong thủy được làm bằng chất liệu gỗ, bởi vì căn cử vào Ngũ hành, Sửu thuộc Thô, Mộc khắc Thổ, ngược lại nó sẽ chảng có tác dụng gì trong việc phát huy sinh khi.
Thần sắc: Việc chế tác cẩn thận, tỉ mỉ hay không lại không quan trọng, điều cần chú ý đó là thần thái, cần phải nắm vững một cách đầy đủ những đặc tính như: điền hoà, ổn thực, hiền hậu, khắc khổ chịu khó. Đối với việc lựa chọn màu sắc nước sơn thì nên dùng màu vàng quý hoặc màu vàng bình thường.
Phương vị và số lượng: Do bò thuộc Sửu, đối với phương vị mà nói chính là phương hướng phía Đông Bắc liền Bắc. Chính vì vậy đặt ở những vị trí này là tốt nhất, hơn nữa đối với tam hợp Tỵ Dậu Sửu mà nói thì cũng có thể lựa chọn phương vị của Tỵ và Dậu đều được. Hơn nữa, phương vị của Mùi phía Tây Nam lệch Nam lại không thích hợp đặt ở vị trí này, chính vì vậy những vật có liên quan đến Mùi đặt phương vị của bò đặt làm vị trí phong thủy của Mùi. Còn vế số lượng thì không nên dùng nhiều mà chủ yếu là tỉnh, thậm chí chỉ cần một con cũng tương đối đủ để thu tài rồi.
rong dân gian có rất nhiều cách tính tuổi Kim lâu. Mỗi cách đều có cái hay và dở với độ chính xác chưa được kiểm chứng.
Mỗi Kim lâu một loại tai họa
Lương y Vũ Quốc Trung cho biết, theo kinh nghiệm dân gian và cổ thư để lại thì “một, ba, sáu, tám thị kim lâu”. Theo đó: Nam lấy số tuổi âm lịch chia cho 9, số dư mà = 1, 3, 6, 8 thì là phạm Kim lâu (tính để xem tuổi làm nhà, sửa nhà). Nếu dư 1 là phạm Kim lâu thân (gây tai họa cho bản thân người chủ). Nếu dư 3 là phạm Kim lâu thê (gây tai họa cho vợ của người chủ). Nếu dư 6 là phạm Kim lâu tử (gây tai họa cho con của người chủ). Nếu dư 8 là phạm Kim lục súc (gây tai họa cho con vật nuôi trong nhà. Nữ: Hàng đơn vị của tuổi âm lịch mà = 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu (tính để xem tuổi lấy chồng).
Cách tính này dựa vào Hà đồ, Cửu cung, Hậu thiên bát quái. Nếu ở vào các cung Càn thuộc mệnh Chủ, cung Chấn thuộc về vợ, cung Cấn thuộc con cái hoặc người thân, cung Tốn thuộc gia súc đề ở 4 góc của cửu cung là phạm Kim lâu không nên xây nhà.
Bắt đầu tính khởi 1 góc ở Tây Nam (Khôn), 2 đến Tây (Đoài), 3 đến Tây Bắc (Càn), 4 đến Bắc (Khảm), 5 vào cung giữa (trung ương), 6 ở Đông Bắc (Cấn), 7 ở Đông (Chấn), 8 ở Đông Nam (Tốn), 9 ở Nam (Ly), đến 10 lại về cùng giữa rồi tiếp hàng đơn vị ở hướng Tây Nam… Tính như vậy thì ta luôn luôn thấy 1 – 3 – 6 – 8 ở các phương, góc có Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) có Tứ Sinh (Dần, Thân, Tị, Hợi). Vừa có “Mộ” lại vừa là “Sinh” nên gọi Kim lâu, ẩn chứa nhiều hung nguy hơn cát tường nên cần phải kiêng tránh.
Cụ thể như sau:
Phạm cung Khôn: Nhất Kim lâu thân: Chính kỵ nhất.
Phạm cung Càn: Nhị Kim lâu thê: Kỵ người vợ.
Phạm cung Cấn: Tam Kim lâu tử: Kỵ cho con cái.
Phạm cung Tốn: Tứ Kim lâu lục súc: Kỵ súc vật nuôi.
Có tám tuổi không cấm kỵ Kim lâu khi tạo tác và khi chết cũng không sợ trùng là tuổi: Kỷ Sửu – Tân Sửu, Kỷ Mùi – Tân Mùi; Canh Dần – Canh Thân; Nhâm dần – Nhâm Thân. Tránh những năm phạm Kim lâu: Là những năm: 12, 15, 17, 19, 21, 24, 26, 28, 39, 33, 35, 39, 42, 44, 46, 48, 51, 53, 55, 57, 60, 62, 64, 66, 69, 71, 73, 75 âm lịch. Ngoài Kim lâu tạo tác (xây nhà) nói trên còn Kim lâu cho cưới gả, chỉ cần xem tuổi âm lịch nữ giới (đàn bà) nếu hàng đơn vị là 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu, không nên cưới gả. Do cách vận hành của cửu cung, Hà đồ khác nhau nên có kết quả này (không trình bày ở đây).
Hãy tự tính cho mình
Ông Nguyễn Văn Chung cho biết, theo cổ học phương Đông, 24 phương vị gồm 8 thiên can, 12 địa chi và 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn được mô tả theo hình vẽ dưới (ảnh tròn).

Các số dư 1, 3, 6, 8 đều thuộc Tứ Mộ (tức 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và Tứ Sinh (tức 4 cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi). Mùi và Thân thuộc Tây Nam. Tuất và Hợi thuộc Tây Bắc. Dần và Sửu thuộc Đông Bắc. Thìn và Tỵ thuộc Đông Nam. Đây cũng chính là phương vị của 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn. Từng quẻ nằm giữa hai ngôi Tứ Sinh và Tứ Mộ. Phong thủy quy định Nam ở phía trên, Bắc ở phía dưới (khác với cách nhìn ở bản đồ), Đông bên tay trái hình vẽ, Tây bên tay phải hình vẽ. Như vậy: Kim Lâu Thân là số 1 ở cung Khôn góc Tây Nam. Kim Lâu Thê là số 3 ở cung Càn góc Tây Bắc. Kim Lâu Tử là số 6 ở cung Cấn góc Đông Bắc. Kim Lâu Súc là số 8 ở cung Tốn góc Đông Nam.
Theo đó, có 8 tuổi không kỵ Kim Lâu là: Tân Sửu, Tân Mùi, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Canh Dần, Nhâm Dần, Canh Thân và Nhâm Thân. Với 8 tuổi này, nếu Hoàng ốc cũng tốt thì có thể xây nhà. 52 tuổi còn lại trong hoa giáp, nếu phạm Kim lâu, phải kiêng kỵ. Cách tính Hoàng ốc: Dùng 6 đốt của 2 ngón tay theo hình dưới để tính Hoàng ốc. Mỗi đốt ngón tay có tên tượng trưng như sau:
3 cung tốt là: Nhất Kiết, Nhì Nghi và Tứ Tấn Tài. 3 cung xấu là: Tam Địa Sát, Ngũ Thọ Tử và Lục Hoàng Ốc. Cách tính: Khởi 10 tuổi tại Nhất Kiết, 20 tuổi tại Nhì Nghi, 30 tuổi tại Tam Địa Sát, 40 tuổi tại Tứ Tấn Tài, 50 tuổi tại Ngũ Thọ Tử, 60 tuổi tại Lục Hoàng Ốc.
Việc xét theo bàn tay Kim lâu được tính như sau:
Dùng 9 đốt của 3 ngón tay theo hình dưới để tính:

5 cung Khảm, Ly, Chấn, Đoài và Trung cung được xây nhà. 4 cung Khôn, Càn, Cấn, Tốn kiêng kỵ không xây nhà.
Cách tính: Khởi 10 tuổi tại cung Khôn. 20 tuổi tại cung Đoài. 30 tuổi tại cung Càn. 40 tuổi tại cung Khảm. 50 tuổi tại Trung cung. 60 tuổi tại cung Cấn. 70 tuổi tại cung Chấn. 80 tuổi tại cung Tốn. 90 tuổi tại cung Ly. Ví dụ, người 28 tuổi âm lịch làm nhà. 20 tuổi bắt đầu từ cung Đoài, 21 tuổi tại cung Càn, 22 tuổi tại cung Khảm, 23 tuổi tại cung Cấn, 24 tuổi tại cung Chấn, 25 tuổi tại cung Tốn, 26 tuổi tại cung Ly, 27 tuổi tại cung Khôn, 28 tuổi tại cung Đoài. Như vậy, người này làm nhà vào năm 28 tuổi âm, thì được.
Trường hợp đặc biệt, nếu người chồng của gia đình đó đã mất thì lấy tuổi của con trai để tính việc xây nhà. Nếu gia đình đó không có con trai thì lấy tuổi của người đàn bà tính Hoàng ốc và Kim lâu cũng như trên để xây nhà.
Cách hóa giải vận hạn
Các chuyên gia cho biết, theo tài liệu cổ và kinh nghiệm dân gian nếu gặp những năm “tứ kim lâu”, “lục hoàng ốc” hoặc “tam tai” thì không nhất thiết không xây dựng hoặc cưới gả. Theo cách “có đóng, có mở” rất linh hoạt và giải toả tâm lý cho gia chủ có thể hoá giải như sau:
Nếu gặp năm Tứ kim lâu hoặc Tam tai thì gia chủ có thể “mượn tuổi” nghĩa là nhờ một người khác (thường là người thân) có tuổi không phạm phải Tứ kim lâu và Tam tai đứng ra thay để thực hiện công việc (cúng bái, động thổ, trông coi việc xây cất…). Nếu gặp năm Hoàng ốc thì sau khi xây cất xong, gia chủ trước khi đến ở (nhập) cho người khác (thường là người thân, không chạm Hoàng ốc) đến ở một thời gian, sau đó mới dọn đến ở chính thức. Việc cưới xin nếu gặp Kim lâu thì “xin dâu hai lần” để hoá giải việc “đứt gánh giữa đường”.
1. Dao kéo
Theo quan điểm phong thủy, đầu sắc nhọn của dao kéo mang sát khí khá nặng. Khi không sử dụng đến, tránh để để chúng ở nơi dễ thấy như bàn trà, bàn ở phòng khách, bàn ăn...
Để dao kéo lộ thiên, không những gây ra tỷ lệ sát thương lớn, đặc biệt là trẻ nhỏ, mà còn thu hút vận tiểu nhân, có người tới quấy phá, khiến cuộc sống bị đảo lộn. Cách tốt nhất là bạn nên cất vào ngăn kéo, treo trên giá bếp mỗi khi sử dụng xong dao hay kéo.
![]() |
![]() |
![]() |
Quả hồ lô là quả gì? quả hồ lô phong thủy có tác dụng gì? Và tại sao lại có tác dụng như thế? Các bạn hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về quả hồ lô phong thủy để có câu trả lời cho những câu hỏi trên nhé!
Nội dung
Quả Hồ Lô, có ngoại hình rất kỳ lạ, miệng nhỏ mà bụng lớn, người xưa đã rất thông minh khi sử dụng nó làm đồ chứa đựng, đựng nước, đựng rượu, lại dừng cất giữ linh đan diệu dược. Trong hiệu Y Dược, chỗ trên đài cao thường hay trưng bày một cái Hồ Lô bằng kim loại rất lớn.

Nó có tác dụng quảng cáo rất lớn, chỉ cần thấy Hồ Lô thì hiểu ngay là chỗ làm về Y Dược. Trong tác phẩm Tây Du Ký , có các loại yêu tinh thường hay dùng Hồ Lô tu luyện thành Pháp Khí, là pháp bảo để chiến thắng đối thủ.
Nói về hình dạng, Hồ Lô không chỉ để sử dụng mà nó còn có các công hiệu Thần Bí vô cùng ! Trong Phong Thủy Học công dụng của Hồ Lô rất lớn. Các bậc Tiên Hiền đã sớm phát hiện Hồ Lô không chỉ tiêu tai mà còn có thể hóa bệnh.
Phàm trong nhà mà thường có người bị bệnh, có thể treo Vật phẩm phong thủy này, có thể trợ giúp mau lành bệnh, nam nữ già trẻ đều dùng được. Nếu như bạn không có nhiều kiến thức về Phong Thủy thì dùng Hồ Lô treo ở đầu giường của Bệnh Nhân, tất nhiên sẽ có hiệu quả.
Nếu cần có thể đọc trong các sách về Phong Thủy hoặc nhờ Phong Thủy Sư tính giúp cho phương vị Thiên y hoặc Diên Niên để treo thì kết quả rất tốt. Bệnh lớn hóa nhỏ, bệnh nhỏ sẽ hết, làm cho người bệnh yếu trở nên khỏe mạnh tinh thần khoan khoái.
Trong Huyền Không Phong Thủy, Nhị Hắc và Ngũ Hoàng là hai sao mang đến nhiều bệnh tật, nếu nó bay vào cửa hoặc phòng ngủ. Như năm nay 2010 nếu phòng ngủ của bạn ở phương vị Đông-bắc hoặc Tây-nam thì bị sát khí của sao Nhị Hắc và Ngũ Hoàng. Làm cho người ngủ ở hai phòng này, nhiều khi vô duyên vô cớ bị bệnh tật tai họa, đây chính là lúc phát huy tác dụng to lớn của Hồ Lô đồng.
Nhị Hắc, Ngũ Hoàng ngũ hành thuộc Thổ, dùng kim hóa giải. Hồ Lô Đồng thuộc kim, kim có thể tiêu hóa thổ, Hồ Lô lại có thể hóa giải bệnh tật, một vật dùng hai mục đích, hiệu quả sẽ rất tốt.
Hiện nay ngoài Hồ Lô thiên nhiên được xử lý để sử dụng còn có nhiều loại Hồ Lô với nhiều chất liệu được chế tác như gỗ, kim loại, ngọc. Trong nhà nếu vợ chồng bạc duyên, chung giường mà khác mộng, có thể treo thử một cái Hồ Lô đồng ở đầu giường, có thể sẽ nối lại sợi dây tình cảm, có khi đem lại những cảm xúc ngọt ngào như thời mới yêu nhau.

ướng treo đồng hồ như sau:
Sinh năm chuột: 1924, 1936, 1948, 1960, 1972, 1984, 1996, 2008 đồng hồ nên treo trên tường phía Bắc góc Đông Bắc của căn phòng.
Sinh năm trâu: 1925, 1937, 1949, 1961, 1973, 1985, 1997, 2009 đồng hồ nên treo ở vị trí chính giữa bức tường phía Bắc của căn phòng.
Sinh năm hổ: 1926, 1938, 1950, 1962, 1974, 1986, 1998, 2010 đồng hồ nên treo trên tường phía Bắc góc Tây Bắc của căn phòng.
Sinh năm mèo: 1927, 1939, 1951, 1963, 1975, 1987, 1999, 2011 đồng hồ nên treo trên tường phía ,Tây góc Tây Bắc của căn phòng.
Sinh năm rồng: 1928, 1940, 1952, 1964, 1976, 1988, 2000, 2012 đồng hồ nên treo ở vị trí chính giữa bức tưòng phía Tây của căn phòng.
Sinh năm rắn: 1929, 1941, 1953, 1965, 1977, 1989, 2001, 2013 đồng hồ nên treo trên tường phía Tây góc Tây Nam của căn phòng.
Sinh năm ngựa: 1930, 1942, 1954, 1966, 1978, 1990, 2002, 2014 đồng hồ nên treo trên tường phía Nam góc Tây Nam của căn phòng.
Sinh năm dê: 1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003, 2015 đồng hồ nên treo ở vị trí chính giữa bức tường phía Nam của căn phòng.
Sinh năm khỉ: 1932, 1944, 1956, 1968, 1980, 1992, 2004, 2016 đồng hồ nên treo trên tường phía Nam góc Đông Nam của căn phòng.
Sinh năm gà: 1933, 1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005, 2017 đồng hồ nên treo trên tường phía Đông góc Đông Nam của căn phòng.
Sinh năm chó: 1934, 1946, 1958, 1970, 1982,1994, 2006, 2018 đồng hồ nên treo ở vị trí chính giữa bức tường phía Đông của căn phòng.
Sinh năm lợn: 1935, 1947, 1959, 1971, 1983, 1995, 2007, 2019 đồng hồ nên treo trên tường phía Đông góc Đông Bắc của căn phòng.
Còn về vị trí treo đồng hồ ở nơi không gian dùng chung trong nhà như phòng khách nên căn cứ theo năm sinh của chủ nhà, nếu vị trí đó không lý tưởng thì có thể cân nhắc vị trí treo đồng hồ của các thành viên khác xem có phù hợp hay không.
Bấm vào hình mũi tên để đọc các trang kế tiếp!
| KHÔNG DÙNG MÀU HỒNG CHO PHÒNG NGỦ CỦA CÁC CẶP VỢ CHỒNG |
![]() |
![]() |
| Màu hồng gây hại cho tình cảm đôi lứa, có nguy cơ khiến quan hệ vợ chồng ngày càng đi xuống, thậm chí dẫn đến đổ vỡ, hơn nữa nó còn có thể gây ra các rắc rối liên quan đến ngoại tình, người thứ ba. |
Alexandra V (theo F.B)