Xem tướng đàn ông thành đạt và hạnh phúc –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
► Tham khảo thêm: Xem tuổi làm nhà hợp phong thủy và mệnh gia chủ |
![]() |
Các cụ ta xưa có câu ”Trai khôn dựng vợ, Gái khôn gả chồng”, từ cổ chí kim HÔN – NHÂN bao giờ cũng được xem là việc quan trọng của cả một đời người. Khi hai gia đình nhà trai, nhà gái quyết định tác hợp cho hai trẻ nên vợ nên chồng và tiến hành các thủ tục: lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới. Vào các ngày tiến hành các nghi lễ này thì gia đình bên nhà trai và nhà gái đều phải làm lễ yết cáo Gia Thần, Gia Tiên.
Ngày lễ Chạm Ngõ, gia đình nhà trai làm mâm lễ mặn xôi, gà cúng Gia Thần, Gia Tiên để trình báo việc hệ trọng của chàng trai. Lễ Chạm Ngõ nhà trai mang sang nhà gái gồm: Một cơi trầu (12 mớ trầu), cau bổ tư hoặc để cả buồng, mứt sen, trà, rượu, thuốc lá, một thiếp vàng. Cha cô dâu tương lai mang lễ này đặt lên bàn thờ Gia Thần Gia Tiên để cúng trình báo về việc hệ trọng của con gái.
Lễ ăn hỏi: Nhà gái nhận lễ ăn hỏi của nhà trai gồm: Trầu, cau, trà, rượu, thuốc lá, bánh cốm, bánh phu thê (su xê) theo yêu cầu của mình rồi đặt lên bàn thờ cúng Gia Thần, Gia Tiên. Sau lễ ăn hỏi nhà gái đem chia lễ ăn hỏi cho họ hàng, bạn bè, người thân, cơ quan… Khi chia lễ ăn hỏi người chia lễ đưa thiệp mời dự đám cưới có ngày giờ đã chọn.
Lễ cưới được tổ chức vào ngày lành tháng tốt do hai bên gia đình chọn.
Khi gia đình có hỷ sự: trai lấy vợ, gái gả chồng, nhà trai và nhà gái đều phải làm lễ yết cáo Gia Thần, Gia Tiên sau khi dâng lễ, thắp hương thì khấn:
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
Con kính lạy tiên họ..... chư vị Hương linh.
Tín chủ (chúng) con là:........ Ngụ tại:…
Hôm nay là ngày..... tháng.... năm .......
Tín chủ con có con trai (con gái) tên là….. kết duyên cùng ......
Con của ông bà .......................
Ngụ tại:........................................
Nay thủ tục hôn lễ đã thành. Xin kính dâng lễ vật, gọi là theo phong tục nghi lễ thành hôn và hợp cẩn, trước linh toạ Ngũ tự Gia thần chư vị Tôn linh, truớc linh bài liệt vị gia tiên chư chân linh xin kính cẩn khấn cầu:
Phúc Tổ Di Lai,
Sinh trai có vợ (nếu là nhà trai),
Sinh gái có chồng (nếu là nhà gái)
Lễ mọn kính dâng,
Duyên lành gặp gỡ,
Giai lão trăm năm,
Vững bền hai họ,
Nghi thất nghi gia,
Có con có của.
Cầm sắt giao hòa
Trông nhờ phúc Tổ.
Chúng con lễ bạc tâm thành, xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
![]() |
Ảnh minh họa |
Nó bao gồm các núi: Tham Lang tinh, Cự Môn tinh, Lộc Tồn tinh, Văn Khúc tinh, Liêm Trinh tinh, Vũ Khúc tinh, Phá Quân tinh, Tả Phụ tinh, Hữu Bật tinh.
Trong Cửu tinh có 3 cát tinh là Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc. Nếu được an táng tại các núi này thì chủ huyệt đại phú quý.
Trong thiên hạ, núi nhiều vô kể. Phần lớn là những núi pha tạp các loại của Cửu tinh. Nếu ác tinh có thể có chuyển thành cát tinh, nơi huyệt kết sẽ nổi gò đẹp.
Cửu tinh hành long không thể thiếu được các núi hộ vệ, trước phải có núi Quan tinh, sau có núi Quỷ tinh. Quý long kết huyệt phải có nhiều gò bao bọc trong khi đó tiện long không có được điều này.
Cửu tinh hành long đều lấy đoan chính (không xiên, méo, lệch) làm quý, kỵ xấu, ác, phá, vỡ. Cát tinh phá, bại hoại cũng biến thành hung tinh (núi hung).
Hám Long Kinh nói: “Núi non bị phá, bị vỡ, không bao bọc được bản thân, sinh quái đản. Long mạch đoan chính phải không phá, không vỡ. Long mạch xấu là long mạch phá, bại. “Quái tinh quái huyệt xuất hung hào” (xuất hiện cường hào, ác bá) làm hại dân chúng.
Theo Bí ẩn thời vận
- Ngón tay dài bằng lòng bàn tay: Trí thức, khôn ngoan, có óc phân tích, dể cảm động, nóng tính. Tay nhà cai trị giỏi, giám đốc…
- Ngón tay dài hơn lòng bàn tay: Trí tuệ, óc nghệ sĩ, kiên nhẫn, tỷ mỷ, kín đáo, nhút nhát.
- Ngón tay có gút: Hành động cân nhắc. Có gút gần móng tay: Hay hoài nghi và tìm nguyên nhân sự việc, nếu gút này to: Ưa tìm hiểu, ưa tranh luận, hay tự mãn nếu hạ được người đối thoại. Có gút gần lòng bàn tay: Kỹ lưỡng, trật tự, hay cân nhắc, có trật tự bản thân, nếu gút này to: Ưa hoạt động thuơng mại.
- Ngón tay quá dịu: Tính yếu ớt, nhiều tình cảm.
- Ngón tay dễ uốn: Tính dễ thích nghi, hay đổi ý, hào phóng.
- Ngón tay quá cứng: Độc đoán, thiển kiến, hẹp hòi, hay nghi ngờ.
- Các ngón tay hở: Kém thông minh, ích kỷ.
- Các ngón tay kín: Tính cẩn thận, lý luận, cần kiệm.
- Các ngón tay hở ở chân, kín phía trên: Hào phóng (tình cảm hay tiền bạc hay tư tưởng), không kín đáo, có óc tự do. (Trường hợp ngón tay không gò, thấy lổ hở dù có hay không gút: Nghèo, thậm chí vất vả mới đủ ăn).
- Ngón tay trỏ cong quẹo: Bịnh liên quan về gan.
- Ngón tay giữa cong quẹo: Bịnh ở liên quan đến ruột tỳ, tai, gân cốt.
- Ngón áp út cong quẹo: Bịnh liên quan hệ thần kinh, tim, thận, mắt.
- Ngón tay út cong quẹo: Bịnh liên quan bộ phận sinh dục, bài tiết, hay hệ thần kinh.
- Các ngón tay đều cong quẹo: Thiếu ngay thẳng, hay lầm lạc.
- Ngón tay trỏ méo: Hành động bất chấp luân lý và trật tự xã hội.
- Ngón tay giữa méo: Câu chấp, độc tài, thiếu tình cảm.
- Ngón tay áp út méo và cong vừa: Rộng rãi, cong quá là thiếu lương tâm.
- Ngón tay út cong quẹo ít: Khéo léo trong nghề, cong nhiều: Bất lương, gian dối.
Nguồn: Tổng hợp
![]() |
Ngày 8/3, đó là cả một câu chuyện lịch sử dài về cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng và hạnh phúc cho phụ nữ của nhiều nhóm phụ nữ trên toàn thế giới. Chính phụ nữ là những người làm nên ngày 8/3 lịch sử. Để mỗi năm có một ngày tràn ngập hoa thì đã có không ít máu và nước mắt đổ xuống trong quá khứ. Và hiện nay phụ nữ vẫn không ngừng tranh đấu vì quyền bình đẳng với nam giới.
Ngày lịch sử bắt đầu Ngày 8 tháng 3 năm 1857, các công nhân ngành dệt chống lại những điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của họ tại Thành phố New York: 12 giờ làm việc một ngày. Hai năm sau, cũng trong tháng 3, các nữ công nhân Hoa Kỳ trong hãng dệt thành lập công đoàn (syndicat) đầu tiên đã được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.
![]() |
Những người phụ nữ đứng lên đấu tranh cho mình |
![]() |
Vào ngày 8/3 còn là dịp kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng |
t khí, ngăn chặn vượng khí thoát ra ngoài.
Huyền quan phòng khách thiết kế tinh tế đẹp mắt sẽ khiến bạn cảm thấy vui vẻ và tinh thần sảng khoái hơn. Khi thiết kế huyền quan của phòng khách cần chú ý:
– Phần lớn huyền quan của nhà ở đều ít ánh sáng tự nhiên, vì vậy gạch hoa lát sàn và thảm nên có màu sắc sáng sủa, ngoài ra cần bố trí hệ thống đèn chiếu sáng.
– Khoảng cách ở huyền quan không nên quá cao hoặc quá thấp, tầm 2m là vừa, vì nếu khoảng cách đó quá cao sẽ ngăn cách khí trong và ngoài nhà, gây ra cảm giác bức bách khó chịu khi đi trong Huyền quan, nếu quá thấp sẽ không đạt được công dụng của nó.
– Nên làm sàn cho khu Huyền quan bằng một tấm thuỷ tinh mờ có độ dày, nặng hoặc sàn gỗ có màu sắc sáng và không có hoa văn.
– Huyền quan phải luôn giữ được sự ngăn nắp, sạch sẽ. Nếu Huyền quan đặt quá nhiều đồ vật rối rắm, phức tạp thì không những làm cho Huyền quan trở nên luộm thuộm mà còn ảnh hưởng đến phong thuỷ ngôi nhà.
– Nếu dùng loại tấm thủy tinh mờ nửa thấu quang làm vật liệu ngăn cách thì vừa có tác dụng ngăn chia khoảng không gian lại vừa có tác dụng không hoàn toàn che khuất tầm nhìn, vẫn có cảm tưởng trước mặt là không gian mở. Như vậy vừa có tác dụng ngăn không cho khí từ ngoài cửa xộc thẳng vào phòng khách lại làm cho ta không có cảm giác Huyền quan quá chật hẹp.
– Độ cao thấp hay rộng hẹp của Huyền quan phụ thuộc vào diện tích ngôi nhà. Nhìn chung, Huyền quan của một ngôi nhà bình thường nên có diện tích từ 3 – 5m2. Còn kích thước của tủ dép thì lại phụ thuộc vào số người trong gia đình, nhưng phải phối hợp hợp lý, thứ tự rõ ràng. Nếu có chỗ ngoặt thì có thể đặt một tấm gương hay một bình hoa để thay đổi không gian và thuận tiện cho việc thay quần áo.
– Nếu Huyền quan thấp quá, chủ nhà lại quá cao thì lại phải cúi đầu lúc ra vào, giống như câu nói cổ: “người ở dưới mái hiên, không thể không cúi đầu”.
– Nếu xây dựng được một Huyền quan đẹp làm cho người ta có cảm giác thoải mái khi bước vào nhà. Bởi thế khi thiết kế một ngôi nhà cần hết sức chú ý thiết kế một Huyền quan thật đẹp. Có 4 nguyên tắc cơ bản sau đây để làm đẹp Huyền quan:
+ Thông thoáng: Thông thoáng là yêu cầu chủ yếu khi xây dựng Huyền quan. Kính ma sát thoáng gió sẽ tốt hơn một tấm ván gỗ dày. Nếu nhất định phải dùng tấm ván gỗ thì nên chọn loại có màu sắc sáng rõ, màu sắc quá đậm sẽ càng làm tăng thêm tính trầm tĩnh.
+ Sáng sủa: Huyền quan cần phải sáng rõ chứ không được tối tăm bởi vậy cần phải có nhiều biện pháp về góc độ ánh sáng. Ngoài việc nên sử dụng kính ma sát nhìn xuyên qua hoặc gạch thuỷ tinh thì màu sắc của sàn gỗ, gạch hay thảm không được quá đậm, quá tối. Nếu ánh sáng ở Huyền quan không phải là ánh sáng tự nhiên thì cần phải dùng đèn điện để bù vào, có thể lắp thêm bóng đèn dài. Bởi vì nếu Huyền quan lúc nào cũng sáng rõ thì không khí mới thông thoáng, mới có nhiều sự may mắn. Hơn nữa những nơi gần với Huyền quan cũng cần phải có màu sắc thông nhất với Huyền quan thì mới thu hút được ánh mắt của khách đến chơi nhà, làm cho khách vừa đến chơi đã có cảm giác tốt.
+ Gọn gàng: Huyền quan cần phải được giữ gọn gàng thoáng mát. Nếu mà chất đầy đồ đạc không những làm cho Huyền quan bị hỗn loạn mà còn ảnh hưởng lớn đến phong thuỷ của ngôi nhà. Huyền quan mà hỗn loạn tối tăm sẽ làm cho con người có cảm giác bị ức chế, không những làm cho chủ nhà sống trong đó có cảm giác không thoải mái mà còn gây cho khách đến nhà có cảm giác không tốt.
Phái nữ nếu có được những đặc điểm sau sẽ vô cùng may mắn. Đó là những đặc điểm nào?
Có rất nhiều bạn nữ thường không vui khi có chân to. Nhưng sau khi đọc xong bài viết dưới đây các bạn sẽ biết sự thật về phụ nữ có chân to. Bởi lẽ phái nữ chân to thường có phúc lớn, tiền bạc nhiều không đếm xuể; hay đôi mắt linh hoạt là người nhạy cảm, có trí nhớ tốt. Bên cạnh đó còn có rất nhiều đặc điểm khác tưởng chừng rất bình thường nhưng lại mang lại cho bạn rất nhiều may mắn và tài lộc. Hãy khám phá xem phái nữ có đặc điểm gì sẽ gặp may mắn trong bài viết dưới đây nhé.
Nội dung
Phụ nữ có sắc mặt hồng hào, nhất là đôi má ửng hồng rất vượng đào hoa, gặp nhiều nhân duyên tốt lành, được nhiều người yêu mến. Những người này thường sẽ dễ gây cảm tình cho người khác nhờ cách ăn nói ngọt ngào, giọng nói thu hút, hơn nữa họ cũng có khả năng ứng xử rất khéo léo, tinh tế. Chính vì thế, cho dù chỉ mới gặp gỡ thôi, họ cũng tạo được cảm giác gần gũi, khiến người đối diện yên tâm, thoải mái chia sẻ như những người bạn quen biết từ lâu năm.
Đôi môi căng mịn, sắc môi đỏ hồng cũng là một trong những nét đẹp thường thấy ở những cô gái có nhân duyên tốt. Nếu như người mà có thêm hàm răng đều đặn, sáng bóng nữa thì không chỉ vận đào hoa tốt mà cả tài lộc, sự nghiệp đều viên mãn.
Phụ nữ sở hữu nét tướng này có số đại phúc, gặp họa không chết, biến nguy nan thành cơ hội để thể hiện năng lực bản thân. Họ cũng có nhiều quí nhân phù trợ, hễ gặp khó khăn có người tới trợ giúp, dễ dàng gặt hái thành công.
Phụ nữ với gương mặt thon thả, chiếc cằm thanh tú trông sẽ rất đẹp và quí phái. Đó cũng là đặc điểm của những người khả ái, về đường tình duyên sẽ có nhiều nhân duyên tốt đẹp. Họ có thể tạo ngay thiện cảm với người đối diện từ những cái nhìn đầu tiên, nét mặt ưa nhìn của họ đi đâu cũng dễ được mọi người chú ý và yêu mến.
Phái nữ tướng này thường nhạy cảm, trí nhớ tốt.
Phụ nữ sở hữu đôi mắt to, lòng trắng và lòng đen rõ ràng cực kì có sức sống. Họ thường lạc quan, kiên định, không ngại đương đầu với những trắc trở, khó khăn trong cuộc sống. Phụ nữ có tướng mắt như vậy thường vượng vận đào hoa, có sức hấp dẫn mạnh mẽ, dễ dàng thu hút đối tượng khác giới. Đàn ông sẽ cảm thấy vui vẻ, thoải mái khi ở bên cô gái tràn đầy năng lượng như thế. Nhìn chung, tình yêu, hôn nhân của người này đều thuận lợi, ít gặp phải sóng to gió lớn. Hễ đã yêu là nghĩ ngay tới chuyện lập gia đình, sống thủy chung một lòng, không ai phải phàn nàn về bất cứ điều gì ở họ.
Nếu có nốt ruồi ở quanh mắt, nhân tướng học gọi đó là nốt ruồi đào hoa, mang tới nhân duyên tốt đẹp, tình yêu và hôn nhân đều thuận lợi. Tuy nhiên, những phụ nữ này lại thuộc tuýp người không muốn kết hôn quá sớm mà sẽ tập trung phát triển cá nhân về sự nghiệp, đeo đuổi sở thích và quyết tâm xây dựng nền tảng vật chất vững chắc trước khi lập gia đình.
Những nhà nhân tướng học khẳng định bất cứ ai sở hữu đôi môi trái tim đều nên cảm thấy hạnh phúc và may mắn vì đó chính là biểu tượng của sự quyến rũ và gợi cảm. Những cô gái này từ bé đã luôn được mọi người yêu mến, khi trưởng thành sẽ có nhiều người theo đuổi. Họ có đầu óc nhanh nhạy, logic, cuộc sống gặp nhiều may mắn và có sự nghiệp thành đạt.
Nếu đường viền môi rõ nét, đôi môi luôn căng mọng, không nứt nẻ, nụ cười hiền dịu, không bị hở lợi thì chắc chắn người này sẽ có hậu vận sung sướng. Sau khi yên bề gia thất sẽ không phải lo nghĩ chuyện tiền nong, vượng phu ích tử, gia đình êm ấm.
Phần khuôn trán cao rộng không chỉ biểu hiện của sự thông minh, hiểu biết và tài hoa mà còn thể hiện sự cao quý, phóng khoáng. Những người có đặc điểm này có số sung sướng, được sống trong gia đình quyền quí. Phụ nữ trán cao, nhẵn và rộng thường là người có khí chất, quảng giao, rất có thể sẽ được gả vào nhà giàu có. Đàn ông cũng rất dễ bị thu hút và mê mệt bởi họ.
Nhân trung dài, sâu có thể dự đoán được người phụ nữ này rất thuận lợi đường con cái và dễ sinh ra những đứa con khỏe mạnh thông minh. Họ cũng có sức khỏe tốt, tuổi thọ cao, về già an nhàn được nhờ con cháu, sống trong sự sung túc, hạnh phúc.
Trong dân gian, mũi này được xem là mũi giàu. Theo tử vi, mũi to đại diện cho khả năng tài chính tốt.
Chị em nào có đặc điểm này thường là người tính cách ngay thẳng, tự tin, dám nói dám làm, khá bộc trực. Tính cách họ tuy không quá mềm mại nữ tính nhưng bù lại có sự cương trực rất đáng quí. Tài chính của họ luôn sung túc, ổn định, sau khi lập gia đình, kinh tế càng sung túc, dồi dào, hay được lộc trời ban. Họ có khả năng hỗ trợ chồng trong công việc và sự nghiệp nên rất được chồng yêu chiều. Riêng bản thân họ cũng có một đường sự nghiệp tốt, dễ thăng tiến.
Phái nữ chân to thường có phúc lớn, mạng lớn, tiền bạc nhiều không đếm xuể.
Những người phụ nữ có cuống tai to, mềm mại, nếu có thêm tính tình dễ chịu ôn hòa, cư xử hòa nhã với người xung quanh, luôn có tấm lòng vị tha thì chắc chắn thuộc tuýp phụ nữ số sướng bẩm sinh. Đây là mẫu người yêu chồng, thương con, vượng phu ích tử, họ giỏi chiều chồng lại khéo chăm con nên được chồng yêu thương, chăm sóc hết mực. Ngay cả khi chưa lập gia đình, họ cũng là người có tài vận rất tốt, hay gặp may mắn về tiền bạc, đi đến đâu cũng nhận được sự yêu mến của những người xung quanh.
Khoảng cách giữa mắt và lông mày được gọi là cung điền trạch. Nếu cung điền trạch rộng mở, không có vết thương, vết sẹo xen vào giữa thì phúc khí của người này thường khá tốt.
Phụ nữ có đường lông mày thanh thoát, không bị mọc rối loạn, uốn lượn đẹp mắt, có màu không quá đen và đặc biệt là thanh mảnh, kèm thêm đôi mắt to vừa phải, ánh mắt ấm áp, lòng đen lòng trắng tách bạch rõ ràng chính là tướng phụ nữ tốt số. Họ được nhận những của cải của ông bà, cha mẹ để lại. Những người này có cơ duyên kết hôn với đối tượng có điều kiện kinh tế tốt, sau khi kết hôn cũng được sống trong giàu sang.
Phụ nữ có chiếc cằm tròn đầy thường là những người dễ chịu, giao tiếp tốt, tâm tính thiện lương. Nếu như sở hữu cằm đôi thì họ chính là người vợ vượng phu ích tử, cộng thêm tính tình hòa nhã, giọng nói êm ái, thân hình vừa phải, thường sẽ “phất” lên nhiều ở độ tuổi trung niên. Ngoài ra, nhờ có sức khỏe tốt, gia thế vững vàng, kinh tế ổn định nên cuộc sống của họ cũng vô cùng dễ chịu, sung túc.
Tướng này đại diện cho phái nữ có tiền và có khả năng tạo phúc cho chồng con.
Phái nữ chân dài thường có khả năng giao tiếp tốt.
Đây là những nữ giới có khái niệm đơn giản về tiền bạn, cuộc sống ít âu lo, nghĩ ngợi.
Phái nữ cổ dài có tham vọng trong sự nghiệp. Người này hoang phí, không có khả năng tiết kiệm tiền bạc.
Trên đây là những đặc điểm để bạn nhận biết tướng phụ nữ sướng hay tướng phụ nữ khổ. Hãy thử nhìn lại bản thân mình xem có được những đặc điểm gì trong những đặc điểm mà chúng tôi đã nói ở trên nhé! Chúc bạn may mắn!
Xem thêm:
Phòng ngủ và nhất là giường là một trong những yếu tố rất quan trọng trong phong thủy nhà ở. Đặc biệt, hướng giường ngủ có tác động tới sức khỏe, tinh thần và thậm chí vận may của những người ngủ trên giường. Vì thế, nếu giường đặt vị trí hợp phong thủy không chỉ mang lại giấc ngủ ngon mà còn mang lại năng lượng để hỗ trợ bạn nhiều mặt của cuộc sống như tình yêu, công việc, tài lộc, sức khỏe… Các hướng dẫn phong thủy phòng ngủ khá dễ để thực hiện, tuy nhiên hướng giường ngủ lại là vấn đề khiến nhiều người cảm thấy thách thức vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào hướng phòng ngủ của bạn
![]() |
![]() |
Tên sao | Đẩu phận | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Tứ hóa |
Vnă xương | Trung thiên đẩu | Âm kim | Văn khôi | Khoa giáp | Bính: khoa, Tân: tị |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Văn Xương là dương kim, là trợ tinh của chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là văn khôi, chủ về khoa giáp. Sao Văn Xương cùng với sao Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật, thiên Khôi, Thiên Việt được gọi được gọi chung là lục cát tinh. Sở dĩ gọi chúng là cát tinh, vì chúng đều có công năng phò tá, nếu gặp được cách tốt hoặc chính tinh miếu vượng thì chẳng khác nào hổ thêm cánh, làm tăng thêm thuận lợi và phát triển. Nếu gặp phải các sao lạc hãm, cát tinh sẽ là Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, có thể trung hòa sự uy hiếp của sát tinh, thậm chí có thể dẫn chúng tới phát triển theo chiều hướng tốt.
Sao Văn Xương chủ về khoa cử, là đứng đầu trong văn khôi, nhưng cần phải cần cù khổ luyện mới có thành tựu. Sao Văn Xương rất thích gặp sao Hóa Khoa, miếu vượng lại gặp hóa khoa thì tài năng trong lãnh vực văn nghệ và học thuật càng bộc lộ rõ rệt. Sao Văn Xương nếu gặp sao Thái Dương, Thiên Lương, Lộc Tồn tại các cung vị tam phương tứ chính gọi là cách "Dương Lương Xương Lộc", chủ về tiền tài và chức tước càng đẹp, tham dự các kì thi quan trọng chắc chắn sẽ đậu.
Khi sao Văn Xương nhập cung miếu vượng, là có tài năng trong lãnh vực văn nghệ. Khi Văn Xương lạc hãm, thì tài năng khó bộc lộ. Nếu lạc hãm lại gặp Hóa Kỵ chủ về thành tích học tập không cao, có trí cũng khó thành, thường xuyên thi rớt, thậm chí còn dở dang việc học, dễ nảy sinh tâm lý bi quan và chán nản. Tiểu hạn, lưu niên mà gặp Văn Xương lạc hãm Hóa Kị thì cần phải lưu ý những sơ xuất về văn thư đơn từ, nếu không dê vướng vào kiện tụng, học sinh thì cần chú ý tới thành tích học tập.
Sao Văn Xương lạc hãm lại gặp tứ sát tinh là Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La là chủ về khôn vặt, thích tranh cãi với người khác để khoe tài ăn nói, có thể kiếm sống bằng tài nghệ đặc thù. Sao Văn Xương là sao văn, Sao Vũ Khúc là sao võ, Văn Xương gặp Vũ Khúc là người văn võ song toàn.
Ca quyết
Văn Xương chủ khoa giáp; Thìn Tị thị vượng địa
Lợi Ngọ hiềm Mão Dậu; hỏa sinh nhân bất lợi
Mi mục định phân minh; tướng mạo cực tuấn lệ
Hỉ vu kim thủy nhân; quan quý song toàn mỹ
Tiên nan nhi hậu dị; trung hiểu hữu thanh danh
Nghĩa là:
Văn Xương chủ về khoa giáp; Thìn, Tỵ là cung vượng
Ưa Ngọ ghét Mão Dậu; sinh năm hỏa là bất lợi
Mặt mày sáng sủa; dung mạo đẹp vô cùng
Người kim, thủy ưa gặp; giàu sang được song toàn
Trước khó mà sau dễ; trung niên có tiếng tăm
Thái Dương nhiều phúc ấm; có nên ở bảng vàng
– Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau mang tới những điềm báo hung cát không giống nhau. Nhưng nếu sở hữu những nốt ruồi dưới đây, bạn hoàn toàn yên tâm vui sống, đón nhận phúc lộc trời ban.
![]() |
![]() |
![]() |
Người Việt tin rằng, hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp Âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo chuyện bếp núc, và mọi việc xảy ra trong gia đình gia chủ với Ngọc Hoàng. Đến Giao thừa, Táo quân trở lại hạ giới để tiếp tục công việc của mình.
Từ ngày xửa ngày xưa, khi con người vẫn còn sống theo lối du mục, rồi định cư trồng lúa, làm nương, tức là lúc con người biết nấu nướng, làm chín thức ăn, con người đã tin rằng luôn có một ba vị thần bếp canh giữ, và ban may mắn cho gia đình. Vị thần bếp đó chính là ba vị Táo Quân, vật biểu tượng là chính là chiếc kiềng ba chân tượng trưng cho 2 ông, 1 bà Táo Quân. Phong tục cúng ông Táo chính là một trong những phong tục lâu đời của người dân Việt Nam.
Táo quân chầu trời báo cáo cả năm
Vì Táo Quân quanh nằm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện xảy ra, dù chuyện tốt hay chuyện dở. Với mong muốn Thần Bếp sẽ “phù hộ” cho gia đình mình được nhiều may mắn, nên hàng năm Tết đến, người ta thường làm lễ tiễn đưa Táo Quân chầu trời một cách long trọng.
Về trời, các Táo sẽ báo cáo với Ngọc Hoàng những điều đã xảy ra năm vừa qua với gia chủ và gia đình. Chuyện hay chuyện dở, chuyện tốt và chuyện xấu đều sẽ được báo cáo lên trời. Chính vì thế mà người Việt sẽ tổ chức một lễ cúng Táo quân lên chầu trời.
Cá chép đưa ông Táo về trời
Cá chép là phương tiện duy nhất có thể đưa Táo Quân về trời. Bởi thế, vào ngày này, sau khi làm lễ xong, các gia đình đều cúng con cá chép rồi đem ra sông hay ra ao thả, ngụ ý “cá hóa long”, nghĩa là cá sẽ hóa rồng, vượt vũ môn, làm phương tiện cho Táo quân cưỡi về trời.
Ngoài ra phóng sinh ngày Tết ông Công ông Táo cũng mang ý nghĩa phóng sinh, là một phong tục cực kỳ ý nghĩa dịp Tết đến xuân về.
Cá chép được thả ra sông hay ra ao với ngụ ý “cá hóa long” đưa Táo Quân chầu trời.
Phóng sinh cá chép cũng là thế hiện ước muốn năm mới nhiều hy vọng và niềm vui, sự từ bi, an lành trong năm mới.
Thả cá phóng sinh
Ngoài ra, trong tâm thức người Việt, "cá vượt Vũ môn" hay "cá chép hóa rồng" còn mang ý nghĩa của sự thăng hoa, biểu tượng của tinh thần vượt khó, sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để đi tới thành công, biểu trưng cho nhân cách thanh cao tiềm ẩn hoặc hướng đến một kết quả tốt đẹp.
Phóng sinh cá chép ngày Tết ông Công ông Táo không chỉ là một nét đẹp văn hóa, đồng thời còn thể hiện sự từ bi quý báu của người Việt Nam. Nhưng hiện nay, một bộ phận người dân không có ý thức khi phóng sinh cá chép đã để lại túi nilon ngay trên bờ hay tại ao hồ, gây ra mất mỹ quan và ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy, mỗi người trong chúng ta hãy thật sự có ý thức khi thực hiện những phong tục cổ truyền để những phong tục này thực sự đẹp, ý nghĩa và mãi lưu truyền.
Từ lâu cây tre được xem là biểu tượng của trường thọ, điều nay xuất phát từ đặc tính bền bỉ, dẻo dai của nó. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết dưới đây để có thêm kiến thức về cây tre phong thủy nhé!
Nội dung
Suốt bốn mùa, dù điều kiện thời tiết thế nào, tre vẫn luôn xanh tươi. Cây tre phát triển mạnh vào những tháng mùa đông, do đó mang ý nghĩa kiên cường và chịu đựng.
Ở Hồng Kông tre được trồng khắp mọi nơi, ngay cả phía Bắc của Bắc Kinh và kể cả tại Việt Nam. Có khoảng mười loại tre, và mỗi loại lại có nhiều biến thể. Tất cả các loài tre đều có thể trưng bày để tượng trưng cho trường thọ.
Có nhiều truyền thuyết liên quan đén các loài tre khác nhau. Tre có đốm tượng trưng cho tình yêu bất diệt và lòng chung thuỷ vì người ta nói chúng là những giọt lệ của vợ vua.
Loại tre có gai tượng trưng cho vận may của tuổi già kết hợp với gia đình hạnh phúc. Người cha của gia đình sẽ được may mắn để chia sẽ sự thành công với con cháu.
Tre thân cứng tượng trưng cho một cuộc sống không có bệnh tật. Sức khoẻ tốt có liên quan đến loài tre thân cứng.
Ngày xưa tre được trồng để tăng cường khí chủ về trường thọ. Người ta thường trồng những cây tre đốm gần phía trước của ngôi nhà, hoặc ở dọc theo hàng rào phía Đông của khu vườn. Đây là khu vực thuộc hành mộc và là nơi lý tưởng để trồng cây tre may mắn.
Có thể đặt những hình tượng tre hoặc treo những bức tranh tre nhiều lá trong phòng học hay văn phòng để đảm bảo trường thọ và may mắn trong công việc và nghề nghiệp.
Chọn trang vẽ những chùm 6, 8, 9 lá (hoặc bội số của những số may mắn này) được xem là số may mắn, trong khi chùm 2,5,7, được xem là không may mắn. Cách kết hợp lá tre tốt nhất là chùm 6, 8 lá.
1. MỆNH VIÊN
Một là bàn đến Mệnh viên.
Cứ sao thủ Mệnh đoán nên tính tình.
Tử Vi trọng hậu dung hình.
Thiên Phủ tiết hạnh, thông minh ôn hòa.
Hai sao đều gặp một nhà.
Thiên tư ôn nhuận thiệt là tốt ghê.
Lòng lành tính gặp Thiên Cơ.
Vũ Tinh nhập miếu, anh kỳ tài năng.
Thái Âm viên mãn ai bằng.
Thiên Đồng phì mãn, tính hằng ôn lương.
Phá, Liêm to nhỏ khác thường.
Tính tình cương trực, kết đường tà gian.
Thiên Lương từ hậu dung nhan.
Sát - Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng.
Tham Lang tính bẩm thung dung.
Say miền gái đẹp, rượu nồng mùi ngon.
Thái Dương tính khí thực khôn.
Thanh kỳ bậc nhất, tư lương khác thường.
Kìa như Văn Khúc, Văn Xương.
Tư nhiên khả ái, thông đường văn chương.
Cự Môn tính khí bất thường.
Hể khi xử sự, tìm đường đảo điên.
Thiên Tướng, lòng thẳng mặt hiền.
Thiên tư mỹ lệ: Khoa - Quyền hẳn hoi.
Thanh bần ấy thật Việt, Khôi.
Lại gia Thai - Phụ là nòi khoan dung.
Phụ - Bật tuấn tú vốn dòng.
Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không.
Phụ - Bật đơn thủ Mệnh cung.
Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà.
Phượng - Long đều hợp Mệnh ta.
Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay.
Tuế - Riêu họa xướng ư lời.
Nhận - Hư, lòng gió là người sai ngoa.
Mây mưa ấy thật Đào Hoa.
Lông kia đỏ kệch, Kỵ - Đà xấu trông.
Trán đen, tính nóng, Kiếp - Không.
Hỏa, Linh mặt mũi hình dung bi sầu
2. PHỤ MẪU CUNG
Số hai Phụ Mẫu kể tường.
Âm, Dương, ngộ hãm là đường khắc xung.
Hãm Dương, khắc phụ đã xong.
Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai.
Hổ, Tang, Thái Tuế cùng bầy.
Lưu Dương lại gặp đoán rày khắc cha.
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa.
Thiên Hình - Tuần Triệt mẹ cha mất rồi.
Cáo, Phong có chức, có ngôi.
Khúc - Xương, Thái Tuế thì người cũng sang.
Khôi - Khoa phát đạt hoa tràng.
Khôi - Quyền chính chướng đường đường tốt thông.
Thanh bần ấy phải Hóa - Không.
Nhược bằng Lộc - Mã phú ông ai tày.
Phụ Mẫu cung đã đoán bầy
Đoán từng phần một, cốt hay tại người.
3. PHÚC ĐỨC CUNG
Số ba Phúc Đức kể liền.
Lộc - Quyền đóng đó trong miền bản cung.
Ở đời vinh hiển đã xong.
Kiếp - Không ở đấy bần cùng khốn thay.
Nay đây mai đó càng hay.
Lại xem cung ấy sống rày được bao?
Đồng - Lương - Tử - Phủ bốn sao.
Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn.
Âm - Dương - Xương - Khúc - Lộc Tồn.
Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh trần.
Thọ thì được ngoại thất tuần.
Miếu thì thong thả, hãm thì tân toan.
Liêm - Cự ta lại phải bàn.
Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm la.
Việt - Khôi - Tả - Hữu - Quyền - Khoa.
Lộc - Tham - Đế Vượng thật là Tràng Sinh.
Đà La - Dương Nhận - Hỏa Linh.
Vào thì ba bốn rành rành, chẳng sai.
Kiếp - Không - Hư - khốc cùng bầy.
Thiên Hình - Hóa Kỵ mới loài bạch tang.
Nhị Phù tổn thọ một phương.
Thật là lạc mộ, nên dường chẳng sai.
Sát - Liêm - Tứ Sát cùng bầy.
Đoán làm bần yểu xưa nay rõ ràng.
Cao thanh, Thọ - Quý - Ân - Quang.
Những là sao ấy thọ tràng kỳ di.
Tuế - Phá lạc hãm một âu.
Tiếng tăm như sấm ra màu vẽ vang.
Kìa như nói chẳng hé răng.
Thiên Hình đơn thủ chốn đằng Mệnh cung.
Lộc - Mã khéo kiêm nàn nồng.
Phúc - Tấu bá đạo, mong trông một lòng.
Hoa Cái má phấn lưng ong.
Hỉ Thần dài giọng, tâm hung, tràng đầu.
Triệt Không tính những chẳng âu.
Hung trung vô định ra màu gian nan.
Tuế - Tham trong dạ đa đoan.
Kỵ - Riêu tửu sắc, một đoàn ngao du.
Hổ - Tang chẳng việc mà lo.
Quan Phù - Điếu Khách hay phô rộng lời.
Lưỡng - Hao nhỏ nhặt hình người.
Phi Liêm tóc tốt, có tươi mà dầu.
Quý - Ân phong độ trượng phu.
Chẳng hay quân Tử hình thù cũng xinh.
Tướng Quân chỉ thích dụng binh.
Bệnh Phù đới tật trong mình chẳng không.
Cô - Quả thiết kỵ riêng lòng.
Tràng Sinh, Đế Vượng vốn dòng thiện lương.
Đào Hoa - Mộc Dục điểm trang.
Lâm Quan tính khí dịu dàng, tinh anh.
Mộ thì chẳng được thông minh.
Thai hay mê hoặc lại hay tha tùng.
Triệt mà gặp được Kim cung.
Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần.
Tuyệt phùng hỏa địa một khi.
Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung.
Kìa Suy - Bệnh - Tử ba dong.
Gặp vào nước ấy, ai dùng? ai màng?
Hóa - Lộc tính khí dịu dàng.
Bác Sĩ tính nết tìm đường tư hoa.
Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa.
Lộc Tồn đôn hậu, thiệt là quy mô.
Phá Quân tâm tính hồ đồ.
Kiếp - Sát xử sự ba đào mênh mông.
Xem trong nhân tính đã xong.
Lại tính cho thấu các cung Ngũ Hành.
Tường chân tính, nhận chân hình.
Chẳng nên chấp nhất, lựa mình mà suy.
Ví như thuộc Thổ Tử Vi.
Tính trì mà gặp Hỏa thì lại nhanh.
Thiên Phủ vốn tính hòa lành.
Song gặp Không - Kiếp thời rằng khắc thâm.
Lại lấy Thân, Mệnh mà suy.
Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương.
Đã xem hưởng thọ đoán tường.
Lại xem Phúc Đức đoán phương âm phần.
Tràng Sinh chính phát thập phần.
Gặp sao Quan - Phúc - Quý thần chầu trong.
Phúc - Liêm nội ngoại thung dung.
Khoa - Quyền - Xương - Khúc vốn dòng văn gia.
Vũ - Tham mà gặp Hóa Khoa.
Ấy là đất phát để ra anh hùng.
Cự Môn - Lộc - Lộc tương phùng.
Đoán rằng phú quý gia phong đời đời.
Này là đoán trước mấy lời.
Được đất nằm nghiệm chẳng sai đâu là.
Lại xem hướng mạch kể ra.
Trước lấy khởi tố ấy là Tràng Sinh.
Thanh Long lấy làm long hành,
Đến đâu nhập thủ xem hình chiếu lâm.
Phải lấy chi tự (Địa chi) phân kim.
Xem cho chuẩn đích đoán tìm mới ngoan.
Trước có Dương Nhận - Hồng Loan,
Nga mi tác án yên bàn chẳng sai.
Thanh (Long) Hồng (Loan) là thủy nhập hoài.
Tùy cung mà đoán cho người mới thông.
Lại như Vũ - Khúc - Triệt - Không.
Lấy làm hành lộ khuỳnh khuỳnh trước sau.
Kìa Long với Hổ lai chầu
Xem bên Tả, Hữu mới hầu luận xong.
Bên tả có sao Thanh Long.
Lấy làm Long thủy chầu vòng tả biên.
Bên hữu Bạch Hổ đã yên.
Lấy làm Hổ thủy chầu bên hữu này.
Lại xem tinh tú yên bầy.
Thái Dương - Vũ - Tướng cùng rầy Phá Quân.
Khoa - Quyền - Khôi - Việt tinh trần,
Lấy làm dương mộ mười phần chẳng sai.
Còn như đoán mả đàn bà,
Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời.
Tử - Phủ, Tổ mộ chẳng sai.
Lạc nhàn thì đoán xa đời mà thôi.
Thiên Cơ dương tổ sáu đời
Vũ năm Đồng tứ chẳng sai chút nào.
Liêm Trinh bảy tám đời cao.
Thái Dương là bố lẽ nào chẳng tin.
Cha còn thì đoán ông liền,
Ấy là dương mộ đoán miền dương tinh.
Thiên Phủ viễn tổ đã đành.
Tham sáu, Cự bảy Lương rành tám thôi.
Phá Quân - Thất Sát xa đời.
Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà.
Nếu còn thì kể đến bà.
Ấy là âm mộ thuộc tòa âm cung.
Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng.
Mộ phần thiên táng ắt cùng chẳng sai.
Suy xem tình tính hẳn hòi.
Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường.
Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường.
Đoán rằng đạo táng gần phương mả này.
Lại tùy Chính diệu suy bày.
Lại nhân Không - Kiếp đoán rày lạc phân.
Hoa Cái - Phượng Các tân phần.
Tấu Thư - Xương - Khúc là thần đồng ra.
Hoặc là Khôi - Việt gia Hóa Khoa.
Đại khoa sự nghiệp vinh hoa vô cùng.
Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng.
Ấy là phú quý vốn dòng chẳng không.
Tử Vi nhập Miếu Vượng cung.
Phát nên có kẻ chầu trong vương kỳ.
Lương - Tham thọ khảo kỳ di.
Lại xem đất phát cung phi vẻ nào.
Bởi chưng Hoa Cái - Hồng Đào.
Gặp sao Tử, Nhật gái chầu quân vương.
Đế Vượng đóng chính cung tường.
Ắt là trong họ vượng đường nhân đinh.
Tuế - Phù tụng sự tương tranh.
Lộc Tồn, Cô quả độc đinh thường thường.
Tang Môn - Quả Tú bất thường.
Ắt là trong họ gái thường quả phu.
Phục Binh ngộ Tử phải lo.
Có người bị trận, chết con ngoài đường.
Mộ cư Phúc Đức đường đường.
Lại gia Thai - Tọa ấy Trường Sinh ta.
Hỷ Thần - Thiên Hỷ hoặc gia.
Ấy là Đắc địa chẳng hòa được đâu.
Lại bàn hình thể mọi màu. (Ngũ hành các sao).
Tổ sơn là Tử - Phủ chầu kể ra.
Mộc Tinh là Thiên Cơ gia.
Kim tinh Vũ Khúc, Mộc là Tham Lang.
Văn Khúc là Thủy đáo đường.
Liêm Trinh là Hỏa, Thiên Lương Thổ này.
Thái Dương Dương long đã hay
Âm long, Âm hướng sao này Thái Âm.
Thất Sát cũng Hỏa Tinh lâm.
Phá Quân là Thủy, Cự tầm Thổ tinh.
Thiên Đồng - Thiên Tướng đất binh.
Sao Dương là núi, sao Linh bút bầy.
Mộc Trì là giếng gần đây,
Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần.
Kiếp - Không lộ tán dương phần.
Kỵ - Riêu là Thủy, sát nhân hoàng tuyền.
Thanh Long có suối lưu truyền.
Bạch Hổ đá trắng ở bên mộ đường.
Khoa - Quyền là bảng văn chương.
Lộc, Kỵ, Việt kiếm rõ ràng đóng đây.
Ấy là phần mộ đoán bày.
Cốt xem Phúc Đức mới hay mọi đường.
4. ĐIỀN TRẠCH CUNG
Bốn là bàn đến cung Điền.
Phủ - Vi đóng đấy, Tài, Điền Vượng thay.
Vũ - Cơ tài sản cũng hay.
Song hiềm hoán dịch ngày này nhiều phen.
Âm Dương, Miếu ấy đa điền.
Nhược bằng ngộ hãm vào miền bằng chân.
Thiên Đồng hậu dị, tiên nan.
Tham Lang tổ nghiệp phá tan lại thành.
Cự Môn tổ nghiệp tan tành.
Sinh ra đời chắc sau rành được yên.
Sát tinh bỗng chốc mà lên.
Nhược phùng hãm địa, bình yên thường thường.
Phá Quân của khéo dở dang.
Nhược bằng ngộ hãm là tuồng khó khăn.
Tướng - Lương - Tả - Hữu - Khoa văn.
Việt - Khôi - Quyền - Lộc - Mã gần Trường Sinh.
Điền viên đều vượng tậu thành.
Hỏa - Linh - Không - Kiếp - Đà - Kình lục tinh.
Nhị Hao - Kiếp Sát - Phục Binh.
Không Vong - Tang - Tú - Phù Tinh vô điền.
5. QUAN LỘC CUNG
Năm là Quan Lộc đoán ngay.
Thái Dương - Xương - Khúc ở đây cung này.
Điện rồng chầu chực đêm ngày.
Đoán rằng số ấy tốt thay lạ thường.
Việt - Khôi - Tả - Hữu - Cơ - Lương.
Khoa - Quyền - Tử - Phủ hợp cùng Trường Sinh.
Tướng - Đồng - Lộc - Mã - Vũ tinh.
Đều là cát tú cho mình hiển vinh.
Âm - Dương - Quyền - Lộc được rành.
Như bằng Hãm địa ắt hành lại hao.
Liêm Trinh vũ chức, quyền cao.
Như bằng ngộ hãm, khỏi nào hình danh.
Tham Lang mà gặp Hỏa - Linh.
Miếu thì phú quý, Hãm: bình mà thôi
Sát - Cự Tý/ Ngọ ở ngôi
Vượng thì vũ chức, Hãm thì hình thương.
Phá Quân lao khổ trăm đường.
Nhược ngôi Tý / Ngọ tài thường vượng thay.
Tham Lang - Xương - Khúc ngày rày.
Ngộ cung Tỵ / Hợi quan này làm ru.
Liêm - Tham - Đà - Nhận phải lo.
Phải mang dang díu quanh co bận mình
Phù - Tang - Không - Kiếp - Hỏa, Linh.
Khốc- Hư - Đà - Nhận - Kiếp - Kình - Nhị Hao.
Phục Binh - Phá - Tú - xúm vào.
Đoán rằng quyền lộc làm sao cũng hèn.
6. Phú Cho Cung Nô Bộc
Sáu là Nô Bộc đoán tường.
Tử, Phủ, Tả, Bật, âm, Dương, Lương Đồng.
Việt, Khôi, Tam Hóa, tương phùng.
Cáo, Loan, Cơ, Mã lại cùng Tướng tinh.
Quý, Quang, Xương, Khúc cùng lành.
Vũ tinh mà đóng rành rành bản cung.
No thì nó ở hầu ông.
Đói thì nó bước chẳng mong nói gì.
Liêm Trinh kìa nó càng ghê.
Làm ân nên oán trăm bề mỉa mai.
Tham Lang vì nó hao tài.
Cự Môn báo oán những loài thị phi.
Thất Sát sinh sự thị phi.
Phá Quân hàn khổ như thì cận quanh.
Còn như Không, Kiếp, Phục Binh.
Dương, Linh, Đà, Kỵ, Thiên Hình, Khốc, Hư.
Nhị Hao, Quan Phủ, Quan Phù.
Gặp phường trộm cắp phải lo tổn tài.
7. Phú Cho Cung Thiên Di
Bảy là bàn đến Thiên Di.
Lộc Tồn, Hóa Lộc tốt thì hòa hai.
Vũ, Lương, cự phú chẳng sai.
Khúc, Xương, Tử, Phủ, Việt, Khôi, Khoa, Quyền.
Âm, Dương, Tả, Hữu rất hiền.
Cùng là Đồng, Tướng gần miền quý nhân.
Thiên Cơ lẩn thẩn, khốn thân.
Nhược bằng ngộ Cát, mười phần tốt thay.
Liêm Trinh nội trợ, ngoại hay.
Đi thì cũng lợi, mới tầy Tham Lang.
Lại thêm dâm dục hoang tàng.
Vũ tinh xuất ngoại lại càng được yêu.
Cự Môn khẩu thiệt đảo điên.
Nhị Phù, Phá, Tú cũng miền Thiên Di.
Đoán rằng lộ thượng, mai thi.
Phá Quân, Thất Sát ắt thì chẳng yên.
Tham Lang, Hóa Kỵ hợp miền.
Luận rằng lộ tử, chẳng tuyền được đâu.
Cự Môn, Linh, Hỏa xung nhau.
Tử ư đạo lộ ra màu xo ro.
Liêm Trinh, Quan Phủ, Quan Phù.
ấy là tử nghiệp chẳng hòa được đâu.
Kìa như đạo lộ phải âu.
Bởi Liêm, Sát, Phá vào hầu Thiên Di.
Tứ Sát đóng chính cung tường.
ách nguy thêm lại hại đường tổ tông.
Vũ, Liêm chẳng khá đồng cung.
Luận rằng số ấy bần cùng ai qua.
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Dương, Đà.
Tham Lang, Hình, Kỵ cùng là Khốc, Hư.
Phá Quân phường ấy phải lo.
Thiên Di cung ấy đoán cho kỹ càng.
8. Phú Cho Cung Tật ách
Tám là Tật ách chẳng âu.
âm, Dương phản bội làm màu bất minh.
Mệnh cung có Địa Không tinh.
Nhan manh mục tật, rành rành phải đương.
Phá, Liêm, Hình, Kỵ, Đà, Dương.
Đã đau bên mắt, lại càng bệnh điên.
Khúc, Xương, Tả, Hữu vào miền.
Việt, Khôi, Tử, Phủ, Khoa, Quyền, Đồng, Lương.
Lộc Tồn, Hóa Lộc một phương.
ốm thì lại gặp thuốc thang sợ gì.
Thiên Cơ phải chứng thấp tê.
Nhược bằng thêm Sát mặt thì vết ngang.
Phong đàm bệnh ấy liền liền.
Bởi sao Cơ, Khúc đóng miền ách phương.
Nhược bằng gia Sát, trỉ vương.
Thái âm đau bụng, Thái Dương đau đầu.
Thêm Đà, Kỵ, Sát cũng rầu.
Đoán rằng mục tật, ấy hầu phải đau.
Phá Quân khí huyết bất điều.
Đồng, Lương, hàn, nhiệt là điều phải lo.
Tướng thì đau ở bì phu.
âm, Dương, Cự, Liêm, hình thù cơ nghinh.
Đà La, Dương Nhận ít yên.
Đau chân, nhức mắt chẳng hiền được đâu.
Dương, Đà, Phá, Kỵ mắt đau.
Bởi đường sao ấy gặp tầy Tham Lang.
Sát tinh thấp khí yếu đau.
Tử, Sát có bệnh bởi hầu Sát gia.
Tham Lang Tật ách xông pha.
Lưng, chân có bệnh, chẳng hòa được chăng.
Cự Môn mặt vết rõ ràng.
Tứ chi có tật xấu chàng hổ ai.
Kỵ, Hình đau mắt chẳng sai.
Kình, Đà, Linh, Hỏa cùng loài một phương.
Mặt kia có vết rõ đường.
Lại thêm bệnh trỉ nên thường phải e.
9. Phú Cho Cung Tài Bạch
Thứ chín kể đến Cung Tài.
Để mà thí nghiệm mấy lời kể ra.
Vũ, Lộc, Thiên Mã cùng gia.
Tử, Phủ mà gặp, phương xa nhiều tiền.
Tử Vi, Tả, Hữu rất hiền.
Lâm Quan Tài Bạch ngoài miền lợi danh.
Thái âm mà với Vũ tinh.
Luận bàn cũng phải rành rành chẳng sai.
âm, Dương, Tả, Hữu giáp lai.
Có sao Đế Vượng cùng ngồi chính trung.
Luận làm địch quốc phú phong.
Đồng, Cơ, Vũ Khúc, tay không làm giàu.
âm, Dương tài vượng khá mau.
Nhược bằng hãm địa, có hầu lại không.
Sát tinh đóng Tý, Ngọ cung.
Hoạnh tài hoạnh phát đùng đùng chứa chan.
Chủ cung phút hợp phút tan.
Lộc Tồn, Hóa Lộc giàu sang trăm đường.
Phá Quân tụ tán chẳng thường.
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Khúc, Xương, Khoa, Quyền.
Với sao Hóa Lộc ở miền.
ấy là phát phúc, Tài, Điền vượng hay.
Liêm Trinh sao ấy luận ngay.
Lộc Tồn, Vũ Khúc đóng rầy Tài cung.
ấy là đại phát phú ông.
Kiếp, Không ở đấy, bần cùng chẳng sai.
Dương, Đà, Linh, Hỏa tán tài.
Hỏa, Hình, Hư, Khốc cùng loài như nhau.
10. Phú Cho Cung Tử Tức
Thứ mười Tử Tức kể bày.
Trước sinh nam tử, nhiều bày Nam tinh.
Bắc tinh ấy gái trước sinh.
Sinh ngày âm Kỵ chiếm rành bản cung.
Sinh đêm Dương Kỵ chiếm cung.
âm, Dương lâm Tý là vòng khắc xung.
Vắng sao chính diệu Tử cung.
Phải tìm đối chiếu luận cùng mới xong.
Phủ, Vi, Đế Vượng, Thiên Đồng.
Khúc, Xương, Tả, Hữu luận cùng năm tên.
Nhược bằng gặp Sát cũng hèn.
Dương, âm, cùng ngộ Lâm Quan một đoàn.
Tướng, Lương, Quan Đới rõ ràng.
ấy là cung được ba hàng thành thân.
Khoa, Quyền, thêm Lộc tinh trần.
Việt, Khôi, Thiên Mã mười phần quý nhân.
11. Phú Cho Cung Phu Thê
Mười một bàn đến Thê cung.
Nhân thê trí phú bởi phùng Thái Dương.
âm phùng Hao Tú một phương.
Thành hôn chẳng lọ phải đường cưới xin.
Dương, Đồng đa vợ mà hiền.
Kìa như Lộc Mã tại điền vượng thay.
âm phùng Xương, Khúc ngày rày.
Cung trăng bẻ quế xem tày lên tiên.
Tử, Phủ hòa hợp bách niên.
Đồng, Cơ trai gái kết nguyền cũng xinh.
Trai tơ gái trẻ đã rành.
Âm, Dương miếu địa sớm thành nhân duyên.
Nhược bằng hãm địa sau nên.
Vũ tinh gia Sát đôi bên khiếm hòa.
Tướng, Lương sớm nổi thành gia.
Sát gia sắc đẹp lấy nhà trưởng nhân.
Khúc, Xương, Tả, Hữu tinh trần.
Thông minh giai lão trăm phần tốt thay.
Lộc Tồn muộn vợ nhưng hay.
Tham Lang sớm lấy người rày khắc xung.
Tham mà gặp Sát tối hung.
Phá Quân sớm khắc, ít lòng chính chuyên.
Liêm Trinh phải khắc ba tên.
Cự Môn, Thất Sát luận bàn chớ quên.
Sát tinh xung khắc đã quen.
ấy người dâm dục về miền trăng hoa.
Khôi, Việt, gặp Lộc, Quyền, Khoa.
Quý nhân sánh mấy duyên ta tốt lành.
Linh Tinh, Kỵ, Hỏa, Đà, Kình.
Khốc, Hư, Không, Kiếp đã rành khắc xung.
Nhược bằng Cát Tú tương phùng.
Cùng là giúp được vào vòng thiên ninh.
Tam phương mà gặp Sát, Hình.
Ly hương kết phối rành rành chẳng sai.
12. Phú Cho Cung Huynh Đệ
Mười hai Huynh Đệ bàn liền.
Triệt, Không cũng thấy trong miền bản cung.
Bắt đầu thì đoán khắc xung.
Hoặc gia Địa Kiếp, Thiên Không chẳng nhiều.
Tướng Quân, Lộc, Mã cũng nhiều.
Anh em giàu có phú nhiêu được dùng.
Tướng Quân, Hóa Lộc tương phùng.
Anh em có kẻ ở trong cửa quyền.
Trường Sinh, Đế Vượng lâm liền.
Anh em có kẻ tất nhiên yên bài.
Thái Dương, Thái âm giáp Thai.
Sinh đôi một đối chẳng sai tí nào.
Vượng, Thai, Tuyệt, Tướng thấu vào.
Anh em ắt có dị bào chẳng không.
Đào, Riêu, Thiên Hỷ trong cung.
Phá Quân tính xử đối xung ở ngoài.
Có chị em gái theo trai.
Say mê đến nỗi hoang thai hổ mình.
Trong thì Tướng, Phá, Phục Binh.
Ngoài thì Hoa Cái cung tinh Đào, Hồng.
Tường hoa liễu ngỏ ngóng trông,
Anh em có kẻ dâm thông hẳn là.
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa.
Thiên Hình thường có trong nhà giành nhau.
Lộc, Mã buôn bán làm giàu.
Nhược bằng Cự, Tướng ra màu thổ công.
Tử, Phù, Hữu, Bật tương phùng.
Có chị em gái lộn chồng đi ra.
Thiên Khôi ba kẻ anh ta.
Thiên Việt ba kẻ em ta bày đoàn.
Xương, Khúc, Thái Tuế đều yên.
Có người xã trưởng khôn ngoan ai cùng.
Tuyệt, Không, Không, Kiếp chính cung.
Hoặc gia Cát hội lai phùng Dương tinh.
Luận làm nghĩa dưỡng anh em.
Hoặc thêm Đà, Cự, Hỏa, Linh, đoán cùng.
Link nguồn: http://tuvilyso.org/forum/topic/1597-phu-tu-vi-thong-tho-683-cau
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Bình phong có ba tác dụng chính, đó là: thay đổi vị trí của cửa, phân chia không gian, bảo đảm sự riêng tư. Căn cứ vào sự khác nhau về vật liệu, bình phong có thể phân thành bình phong bằng kính, bình phong bằng tượng điêu khắc, bình phong bằng bức thư hoạ,...
Trong phong thuỷ học còn cho rằng, bình phong có thể hoá giải những thế sát dưới đây:
1. Xuyên tâm kiếm
Nếu cửa chính đối diện với hành lang hoặc lối đi, trông giống như lưỡi kiếm nhọn xuyên tâm, cách đặt này gọi là Xuyên tâm kiếm. Cách hoá giải chính là đặt tấm bình phong bên trong để thu hiệu quả thay đổi cửa. Nếu nhà ở tằng trệt mà cửa chính đối diện với đường quốc lộ thì có thể trồng các loại cây hoa mọc thành bụi để hoá giải ngoại sát xông thẳng vào nhà.
2. Cầu thang thoát tài
Nếu cửa chính đối diện với cầu thang sẽ hình thành hai kết cục khác nhau. Một là, cầu thang đối diện hướng xuống thì tài khí trong nhà rất có thể bị phát tán, do vậy phải đặt tấm bình phong ở sau cửa để chặn không cho tài khí thoát ra ngoài. Hai là, cầu thang đối diện hướng lên thì không cần lo tài khí phát tán ra ngoài. Nếu để chậu cây cảnh có phiến lá to như cây phát tài, kim phát tài (cây tiền bạc) bên trong cửa thì có thể dẫn nhập tài khí vào nhà.
(Theo Phong thủy trong gia đình)
1. Hội Đền Voi Phục
Thời gian: Tổ chức từ ngày mùng 9 tới ngày 11 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đại vương Linh Lang - thần trấn phương tây (con vua Lý Thánh Tông).
Nội dung: Đền Voi Phục là một ngôi đền trong Thăng Long tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, trấn dữ phía Tây. Bên ngoài cửa đền có đặt hai con voi quỳ phục có tên gọi là đền Voi Phục.
Hội đền Voi Phục cứ 5 năm mới tổ chức một lần. Đây là hội rước lớn với cờ quạt, lọng, tàn, tán nối nhau thành hàng dài cùng đội sênh tiền rất nhộn nhịp. Đoàn rước đi đến đâu thì tù và chiêng trống theo sau tới đó. Bên dưới hồ là thuyền rồng đang múa lượn. Ngoài ra trong ba ngày hội còn diễn ra các sinh hoạt văn hóa như: ngâm thơ, triển lãm tranh thơ chữ Hán (thư pháp), hát quan họ, cờ.
2. Hội Đình Bái Ân
Thời gian: tổ chức từ ngày 9 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: Đình làng Bái Ân, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh công đức của ba vị thành hoàng làng là: Chiêu Ứng Vũ Đại Vương Uy Linh Phúc Thần, Chiêu Điều Đại Vương và Thuận Chính Công Chúa.
Nội dung: Mở đầu lễ hội, các vị có uy tín với làng vào đình làm lễ với các vị thành hoàng và cầu xin các vị phù hộ cho dân làng đều bình yên và mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi. Thanh niên tiến hành rước kiệu tham gia hát dân gian, đánh cờ.
3. Hội Thờ Thủy Thần
Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 9 tới ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch (chính hội là ngày 10 tháng 2).
Địa điểm: thôn Linh Đàm, phường Hoàng Liệt, Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vị thần Bảo Ninh (tức Thủy Thần).
Nội dung: hoạt động chính của hội thờ Thủy Thần ở thôn Linh Đàm là người dân cúng cỗ cá (lưu ý cá ở đây không phải bỏ đầu), sau đó là các hoạt động văn hóa khác như: chơi cờ người, bắt vịt, bơi thuyền.
4.Hội Cổ Nhuế
Thời gian: tổ chức vào ngày 9 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm ghi nhớ công ơn của Đông Chinh vương (con thứ 5 của vua Lê Thái Tổ), là người có công lớn đánh giặc Minh, vợ Đông Chinh là Tạ Minh Hiền công chúa.
Nội dung: Hội Cổ Nhuế thường có rước kiệu, lệ yết cáo thần. Riêng phần hội có chơi cờ bỏi, chơi cờ người, hát đối, chọi gà.
5.Hội Đình Yên Phụ
Tổ chức: từ ngày 9 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn ba vị thành hoàng làng là: Uy Linh Lang, Vương Duy, Vương Ba (hoàng tử con vua Trần Thánh Tông).
Nội dung: Đình Yên Phụ tọa lạc trên một bán đảo nhô ra Hồ Tây thuộc làng Yên Phụ. Ngay từ sáng sơm ngày 9 tháng 2 dân làng đã di chuyển ra giữa Hồ Tây để lấy nước sạch về tắm tượng (lễ Mộc Dục) Chính hội là ngày 10 tháng 2 có tế bò thui. Các nghi thức trong lễ hoàn cung có: cờ bát bửu, long đình, bát âm tài tử, kiệu bát cống rước mẫu, múa tứ linh cầu phúc. Thú vị nhất trong phần hội là nội dung bơi chải xuất phát từ sau đình ra chùa Trấn Quốc rồi quay về đình.
1. Nốt ruồi ở đầu lông mày
Nếu đầu lông mày có nốt ruồi, hơn thế nốt ruồi ấy lại bị lông mày che mất, không lộ rõ chứng tỏ chủ nhân rất thông minh lanh lợi, cốt cách thanh cao, có ý chí vươn lên mãnh liệt. Người này có tài về nghệ thuật hoặc khoa học. Chỉ cần làm trong ngành nghề liên quan là có thể dễ dàng gặt hái được thành công.
Tuy nhiên, nếu nốt ruồi nằm ngoài lông mày hoặc lộ rõ ra thì lại là điều không may mắn. Nếu có nốt ruồi kiểu này đột ngột xuất hiện, bạn cần đề phòng họa ngục tù hoặc các vấn đề liên quan đến pháp luật.
2. Nốt ruồi ở giữa lông mày
Nốt ruồi nằm ở giữa lông mày đồng thời bị lông mày che phủ là dấu hiệu cho thấy đây là người thông minh, xuất hiện người kiệt xuất trong những anh chị em trong gia đình. Người này có số mệnh giàu sang, sung sướng, sẽ là quý nhân phù trợ, giúp đỡ bạn vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống.
Tuy nhiên, người có nốt ruồi kiểu này nóng lạnh thất thường, rất dễ nổi giận vô cớ. Làm bạn với họ lâu dài đòi hỏi bạn luôn kiểm soát tốt cảm xúc, chú ý mọi lời nói, cử chỉ, tránh gây ra sự hiểu nhầm đáng tiếc.
![]() |
3. Nốt ruồi ở đuôi lông mày
Những ai sở hữu nốt ruồi ẩn sâu phía đuôi lông mày thường có cuộc sống vui vẻ, sung sướng. Nhưng nếu nốt ruồi nằm chệch ra ngoài phía đuôi mày lại là dấu hiệu cho thấy người này dễ gặp vấn đề về tình cảm. Đặc biệt là nốt ruồi mọc ở phía đuôi lông mày trái báo hiệu thói trăng hoa.
![]() |
4. Phía trên lông mày có nốt ruồi
Ngay gần phía trên đầu lông mày có nốt ruồi là dấu hiệu cho thấy chủ nhân sẽ gặp khó khăn về kinh tế trong thời gian ngắn hoặc sự việc bất ngờ nào đó xảy ra.
Trong trường hợp ngay phía trên vị trí chính giữa lông mày có nốt ruồi biểu thị khó khăn về tài chính trong thời gian dài.
5. Phía dưới lông mày có nốt ruồi
Nốt ruồi mọc ở phía dưới lông mày là dấu hiệu cho thấy người này giỏi giang, đa tài, sự nghiệp thành công rực rỡ, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc viên mãn. Tuy nhiên nếu là nốt ruồi xấu thì số mệnh vất vả, thường xuyên phải chuyển dịch chỗ ở, nay đây mai đó.
6. Nốt ruồi mọc ở vị trí giữa Ấn đường và đầu lông mày
Đây được coi là nốt ruồi dữ. Người có nốt ruồi này khó tránh khỏi họa kiện tụng hay những tranh chấp liên quan pháp luật.
Mr.Bull (theo Meiguoshenpo)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Phong thủy gọi tủ lạnh là "Tài khố" (Kho của). Do đó, nên thường xuyên để thức ăn đầy trong tủ lạnh. Kỵ để tủ trống rỗng, vì như vậy sẽ tượng trưng cho sự nghèo đói, túng thiếu...
Ngoài tác dụng lưu trữ và quản quản đồ ăn, tủ lạnh có tác dụng phong thủy vô cùng to lớn. Biết cách bài trí tủ lạnh hợp phong thủy sẽ mang lại tài lộc cho gia chủ. Rất nhiều người không để ý nhưng tủ lạnh có liên quan mật thiết đến sự giàu có và sức khỏe của cả gia đình.
1. Không để tủ lạnh trống rỗng
Tủ lạnh có liên quan chặt chẽ với chế độ ăn uống, sức khỏe của gia đình. Nếu có nhiều thức ăn, nó tượng trưng cho sự trù phú trong khẩu phần ăn của gia đình. Nếu tủ lạnh trống, nó biểu hiện tình hình tài chính của gia đình sẽ bị hao hụt. Do vậy, hãy luôn giữ cho tủ lạnh đầy ắp thức ăn.
2. Thường xuyên làm sạch tủ lạnh
Trong phong thủy tủ lạnh liên quan chặt chẽ đến may mắn thịnh vượng của các thành viên trong gia đình. Vì vậy, để tránh ô uế, bạn nên thường xuyên loại bỏ hết các thực phẩm đã hết hạn sử dụng, thực phẩm ôi thiu. Một khi tủ lạnh đã gọn gàng, tài chính của gia đình sẽ khởi sắc.
3. Cấm để tủ lạnh đối diện cửa bếp
- Tủ lạnh thuộc Kim. Người thiếu Kim nên đặt tủ lạnh trong nhà. Còn bình thường nên đặt tủ lạnh ở nhà bếp, vì đây là nơi vượng Hỏa. Tủ lạnh đặt trong bếp có thể làm dịu tính Hỏa.
- Người thuộc mệnh Thủy nếu sự nghiệp thiếu thuận lợi, nên kê tủ lạnh ở nơi làm việc. Trong đó có thể để nước, bia, nước đá để sự nghiệp được thăng tiến và tài vận hanh thông. Ngoài ra người mệnh thủy cũng có thể kê thêm một chiếc tủ lạnh khác trong phòng khách để hỗ trợ cho mệnh của mình.
- Những người mệnh Mộc không nên kê tủ lạnh ở gần. Những người mệnh này nên kê tủ lạnh ở chỗ khuất của ngôi nhà. Trong các quán bar, người ta thường kê tủ lạnh trong tủ gỗ. Đối với những người không hợp với kim, đây là một cách tuyệt vời để hóa giải ảnh hưởng xấu từ tủ lạnh.
Vì vậy, tốt nhất bạn nên đặt tủ lạnh ở nơi thông thoáng, cách bếp nấu khoảng 2 m. Cách bố trí này sẽ giúp tiết kiệm thời gian đi lại trong lúc chế biến thức ăn.
Bất kể gia đình đặt tủ lạnh trong phòng khách hay nhà bếp, không để nó đối mặt với cửa ra vào. Những dòng năng lượng (khí) sẽ đụng độ với nhau và có khả năng gây bất ổn với sự giàu có, thậm chí dẫn đến phá sản.
Tủ lạnh thuộc yếu tố kim, trong khi bếp thuộc lửa. theo thuyết ngũ hành, chúng kị nhau. Do đó, nếu có thể thì nên đặt chúng càng cách xa nhau càng tốt. Đặt chúng đối diện với nhau cũng sẽ gây ra tranh cãi và bất hòa giữa những thành viên trong gia đình.
4. Không đặt các thiết bị điện tử trên nóc tủ lạnh
Chưa tính đến yếu tố an toàn trong gia đình, không nên đặt lò nướng, lò vi sóng, máy ép trái cây hoặc các thiết bị điện tử khác trên nóc tủ lạnh. Chúng sẽ phát ra các luồng không khí điện từ mạnh mẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của người trong gia đình.
5. Không đặt tủ lạnh trong phòng ngủ
Ngày nay, mọi người có xu hướng để thêm một chiếc tủ lạnh nhỏ trong phòng ngủ. Các chuyên gia khuyên mọi người nên để tủ lạnh ra khỏi phòng ngủ bởi nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ của mọi người. Sức khỏe suy giảm khiến con người thay đổi tính cách – tư duy cực đoan, kì lạ trong hành động.
Trần Việt Sơn
Mấy lời nói đầu
Chúng tôi xin có mấy lời nói đầu, trước hết để xin lỗi bạn đọc về việc đã không trình bầy ngay một số “kinh nghiệm” hay “khám phá” đi kèm với các bài giải đoán những lá số Tử vi danh nhân, do cụ Thiên Lương viết ra và chúng tôi được hân hạnh đăng lại. Chúng tôi đã xin thưa rằng những “kinh nghiệm” hay những “khám phá” đó là của cụ Thiên Lương (tức cụ KHải, công chức bộ Tài chánh hồi hưu), và chúng tôi phải tôn trọng…
Chúng tôi đã xin phép được biết những kinh nghiệm đó, cụ Thiên Lương đã dẫn giải cho cẩn thận. Một số bạn đọc đã tiếp xúc chúng tôi hỏi về các cách giải đoán ấy, chúng tôi đã thuyết trình lại, sau khi được phép của cụ Thiên Lương.
Càng ngày càng có những lá số danh nhân trên Khoa học huyền bí, thì càng có nhiều bạn đọc hỏi về các kinh nghiệm giải đoán ấy, xuyên qua một số những câu mà cụ Thiên lương đã viết, khác hẳn với những hiểu biết thông thường trong Tử vi. Chúng tôi đã thưa lại sự kiện đó với cụ Thiên Lương, để xin cụ viết cho. Nhưng cụ sẵn sàng phổ biến các kinh nghiệm đó, mà cụ không muốn viết ra. Chúng tôi thầm hiểu những lý do của Cụ, có thể là do sự khiêm tốn của một vị hiểu nhiều về số mạng con người, và cũng có thể vì cụ không muốn những cách giải đoán của mình được mọi người suy luận rồi quá tin tưởng mà ỷ y hoặc quá buồn rằng vận chưa đến mà rồi thất chí. Đó cũng là một cách để khiêm tốn. Cụ không muốn ai phải thắc mắc.
Nhưng chúng tôi xin được phổ biến các kinh nghiệm và khám phá của Cụ. Cụ bảo tùy ý. Vậy là giải phẩm lãnh lấy các trách nhiệm tinh thần. Chúng tôi lại ngại rằng mình viết ra thì nói không hết lời, hoặc không đúng lời của cụ Thiên Lương, cho nên chúng tôi dè dặt. Nhưng chúng tôi lại nghĩ rằng nếu dè dặt thì sẽ không làm được gì trong việc phổ biến các kinh nghiệm. Vả lại, nếu chúng tôi có thiếu sót thì sẽ được bổ túc sau, nếu chúng tôi có sai lầm thì sẽ được sửa chữa. Cho nên chúng tôi xin phổ biến những kinh nghiệm Tử vi đó sau đây, trình bầy với quý bạn đọc và các vị lão thành tử vi. Chúng tôi cũng khẩn thiết xin cụ Thiên Lương phù chính cho những gì chúng tôi diễn đạt sai lầm (kèm cả những nhận xét riêng của chúng tôi), để chúng tôi có dịp sửa đổi
(T.V.S)
Đi tìm những kinh nghiệm
Câu chuyện bắt đầu từ khi chúng tôi tới hầu thăm cụ và được coi những bản giải đoán một số những lá số danh nhân. Thích thì có thích, bởi những cách chính được đem ra giải thích, luận về những nét chính của mỗi cuộc đời, và đó là những cái luận khó nhất; nhưng có thích mà lại buồn vì không hiểu được một vài điểm ghi trong bài. Thí dụ về bài đầu tiên của cụ Thiên Lương, viết về học giả Phạm Quỳnh, có câu: “Tiên sinh tuổi Nhâm Thìn mà Mệnh đóng ở cung Hợi là một cái thế éo le, định mệnh đặt tiên sinh vào cái thế kẹt của cuộc đời”. Và “Cái Thân” của tiên sinh lại đóng ở cung Mão: lại cái thế kẹt hơn, hơn là Mệnh ở cung Hợi, cả hai phương diện cung và sao…”. Phải nhận rằng đó là những câu lạ tai. Chưa có một sách Tử vi nào giải nghĩa tại sao một tuổi này mà Mệnh ở cung này, lại là thế kẹt hay là thế tốt.
Cụ Thiên Lương đã lấy bút ra mà giải thích cho chúng tôi ngay trên giấy trắng mực đen. Đây kinh nghiệm của cụ: hơn thế, là khám phá của cụ. Từ thuở thiếu thời, Cụ đã đến với Tử vi mặc dù học các sách rất nhiều; có lẽ vì các sách nêu những cách có sẵn mà chưa nêu được những lời giải đoán thật đúng. Chán và hoài nghi Tử vi, nhưng rồi cụ lại bị hấp dẫn trở về, lần nay cụ có quyết chí tìm cứu, tìm hiểu nhiều hơn. Cụ tìm hiểu cả ở những tiền bối Tử vi, như cụ Ba La, Cụ học được ở nhà Tử vi Ba La cái khổ công tìm tòi, khám phá. Cụ Ba La đã bảo: “Học Tử vi phải tìm tòi chớ, bộ tôi là đầu bếp, các chú cứ ngồi hưởng những món ăn của tôi đã mất công sào nấu cho sẵn mãi sao? Học như vậy làm sao mà tiến nổi?”. Cụ Ba La chỉ cho biết thêm rằng sao Thái tuế vô cùng quan trọng, đừng có khinh thường.
Và quả nhiên, theo nhiều các giải đoán khác liên hệ với Tử vi, Thái Tuế là sao Vua. Nhưng tại sao Thái Tuế bao giờ cũng đóng ở cung năm tuổi (như người tuổi Mùi thì Thái Tuế đóng tại cung Mùi). Và tại sao vòng sao Thái tuế bao giờ cũng viết thuận cho tất cả những người dù là trai hay gái, tuổi âm hay tuổi dương, khác với chiều đi của các vòng sao khác? Từ chỗ đó, người ta cũng có thể ghép vào tất cả những sao có thể đi cùng với vòng sao Thái Tuế…Chúng ta đương cùng với cụ Thiên Lương làm lại một cuộc khám phá. Và cuộc khám phá này trước hết đặt dấu hỏi lớn tướng về vị trí của cung Mệnh và cung Thân. Cách tính cung mệnh và cung thân thì ai cũng biết. Bắt đầu từ Dần, theo tháng sinh tính thuận, rồi theo giờ sinh tính ngược, an Mệnh; cũng từ Dần, biểu tượng cho lúc đầu năm, theo tháng sinh tính thuận, lại thuận nữa tính đi theo giờ sinh, là an Thân. Mệnh và Thân có được vị trí nào là bao gồm cả tháng sinh, cả giờ sinh, thì hẳn rằng cái vị trí đó tóm thâu được tất cả sự quan trọng, nhất là các chính tinh, trung tinh, và hung tinh dàn ra như thế nào là ở trên bản số ở đó đã có các cung Thân và Mệnh.
Sau các lập luận và kiểm chứng trên các lá số, khám phá đã mở ra về ý nghĩa của vị trí cung Mệnh và cung Thân trên lá số. Vị trí đó tất nhiên phải so với tuổi của đương số, hay nói cho đúng ra, so với cung mang tên tuổi, nói vắn tắt là cung Tuổi.
Thí dụ đầu tiên: ông Phạm Quỳnh tuổi Nhâm Thìn, cung tuổi của ông là cung Thìn, nhưng Mệnh của ông nằm tại Hợi, Thân nằm tại mão. Mới nói là vị trí của Mệnh tại Hợi, và Thân nằm tại Mão, so với Thìn là cung tuổi, là một cái thế kẹt.
Mỗi lời nói đều đòi hỏi những giải thích, nhưng chúng tôi xin trình bầy kinh nghiệm trước, để những giải thích về sau.
Lấy căn bản là cung tuổi và tam hợp
Xin các bạn cứ tuổi nào thì ghi lấy cung của tuổi ấy và những cung tam hợp.
- Như tuổi Mùi, thì ghi cung Mùi và hai cung tam hợp Hợi Mão. Hay để giản tiện:
- 3 tuổi Hợi Mão Mùi, ta ghi ba cung trong thế tam hợp Hợi Mão Mùi.
- 3 tuổi Thân Tý Thìn, ta ghi ba cung Tị Dậu Sửu
- 3 tuổi Dần Ngọ Tuất, ta ghi ba cung Dần Ngọ Tuất.
Chúng ta sẽ so sánh các cung với và Thân với các cung tuổi và tam hợp của tuổi.
Cung Mệnh đóng đúng thế tam hợp cung tuổi. Xét đoán nét chính cuộc đời và đại hạn thành công nhất.
Những người tuổi Tí (hay Thân, hay Thìn), Mệnh đóng tại Thân, Tí, hay Thìn, là đóng tại thế tam hợp của cung tuổi.
Những người tuổi Hợi (hay Mão, hay Mùi) Mệnh đóng tại Hợi, Mão, Mùi;
Những người tuổi Tị (hay Dậu, hay Sửu) Mệnh đóng tại Tị, Dậu hay Sửu;
Những người tuổi Dần (hay Ngọ, hay Tuất), Mệnh đóng tại Dần, Ngọ hay Tuất;
Là những người mà cung Mệnh đóng tại thế tam hợp với cung tuổi.
Mệnh đóng ở thế tam hợp với cung tuổi hay ngay cung tuổi là cái thế tuyệt hảo; cái thể tuyệt hảo nào không phải có nghĩa là có danh vọng lớn, hay tiền tài nhiều, là vì những điều này còn phải tùy những điều kiện khác; nhưng tuyệt hảo là vì vị trí của Mệnh, như vậy chứng tỏ con người có tư cách, không hèn, tin tưởng ở chánh nghĩa của mình (dù rằng mình khá hay là mình kém). Đó là thế của những người được hài hả trong đời, được làm việc hợp với tư tưởng của mình. Trong đời, nhất là đối với những người đấu tranh, thiết tưởng đó là cái thế tuyệt hảo – vì còn biết bao nhiêu người khác chiến đấu mà không đạt lý tưởng hoặc là ngôi cao mà vẫn phải hành động ngược với lòng mình.
Lại luận về đại hạn thì phải kể rằng đại hạn nào đến đúng cung tam hợp của cung tuổi, là đại hạn thành công nhất, phát đạt nhất trong đời.
Biết được như vậy mà đúng, là biết được rất nhiều, đó là cái luận khó nhất. Chúng tôi (TVS) đã về xét lại hàng trăm lá số chỉ được có dăm số được Mệnh đóng đúng thế tam hợp của cung tuổi, lấy làm mừng cho các tuổi này.
Nếu cả Mệnh, cả Thân cùng đóng tại thế tam hợp của cung tuổi, thì trọn cuộc đời tin ở chánh nghĩa mình và được làm cho chánh nghĩa đó không phải làm trái nghịch với lòng, đó là số của những người tranh đấu thành công: hay dù không thành công (hiểu theo nghĩa thường nhân là được mũ áo xênh sang), thì cũng được hành động trọn cuộc đời hợp sở thích, sở nguyện.
Nếu mệnh đóng đúng thế Tam hợp với cung tuổi, mà Thân lại không được như vậy (như đóng ở thế đối lập, như xem dưới đây), thì con người có sự đắc ý về chánh nghĩa của mình, nhưng hành động của mình bị bó buộc làm sai với điều mình muốn (thí dụ như bị áp lực phải làm. Mệnh Thân trong thế Tam hợp với cung tuổi là nhất.
Ông Canh Thân, sanh ngày 17, tháng 9, giờ Dần
Ông Canh Thân này là bạn của chúng tôi, ông là con người tranh đấu cách mạng từ thuở hàn vi, vào tù ra khám nhiều lần, dĩ nhiên ông cũng có một nghề làm ăn như nhiều người ở đời (ông là một chức sự). Về sau, ông ra làm nghề tự do, tự mình làm chủ mình. Được hỏi về tâm trạng, ông cho biết rất tự hào và tự mãn về công việc tranh đấu của mình, không cần kể đến lúc thắng hay lúc bại. Nằm khám cũng vui vẻ, bình thản. Thật đúng với cái thế của người tuổi Thân và Mệnh tại cung Thân, và Thân tại cung Tí (đứng trong thế Tam hợp với cung tuổi). Đại hạn khá nhất của ông là đại hạn tại cung Tí (trong thế tam hợp với cung tuổi), từ 42 đến 51. Ở tù ra (vì hoạt động chánh trị), ông nhờ thế cách mạng lên giữ chức thứ nhì trong một bộ quan trọng bậc nhất trong chánh phủ.
Cung mệnh đóng tại thế đối lập với cung tuổi
- Tuổi Hợi Mão Mùi, Mệnh đóng tại Tị Dậu Sửu
- Tuổi Tị Dậu Sửu, Mệnh đóng tại Hợi Mão Mùi.
- Tuổi Dần Ngọ Tuất, Mệnh đóng tại Thân Tý Thìn.
- Tuổi Thân Tí Thìn, Mệnh đóng tại Dần Ngọ Tuất.
Như vậy là ở thế đối lập. Xin coi thế đối lập của các tam giác (tam hợp) đối lập nhau là thấy.
Nếu Mệnh đóng ở thế đối lập với thế tam hợp của cung tuổi, thì đó là thế trái…Trái không có nghĩa là không thành đạt; đối với những người có những cách tốt, vẫn thành đạt hay giầu có như thường, nhưng dù thành đạt vẫn bất mãn, dù lên cao vẫn không toại nguyện. Vì trái bất mãn, hoặc là phải tranh đấu gay cấn mới có thể thành đạt, hoặc là sự thành đạt phải khó khăn chớ không được trơn tru.
Về đại hạn, cứ đại hạn đến cung nào nằm trong thế Tam hợp của cung tuổi, thì đó là Đại hạn thành công bậc nhất trong đời của mình (phải là Đại hạn nằm trong thế tam hợp của cung tuổi, chứ không phải là Đại hạn nằm trong thế tam hợp của cung Mệnh).
Thí dụ: Tuổi Kỷ mùi, sanh mùng 8 tháng tư giờ thìn
Cung tuổi là cung Mùi, thế tam hợp là 3 cung Hợi Mão Mùi. Mệnh của ông bạn này đóng ở Sửu, có Tham Vũ, Quyền Lộc, giáp Nhật Nguyệt. Thế tam hợp cung tuổi là Hợi Mão Mùi, thế tam hợp cung Mệnh là Tị Dậu Sửu. Mệnh ở Sửu, Thân ở Dậu, vậy là cả Mệnh và Thân cùng ở thế đối lập với thế của cung tuổi.
Ông bạn này, như chúng tôi biết là một người tranh đấu, cố gắng rất nhiều trong cuộc đời, làm việc như trâu, nhưng dù ông có đạt được một thế đứng mà nhiều người thèm ước, ông vẫn trái ý, bất mãn ở cái chỗ đáng lẽ ông có thể đạt thành hơn thế. Tuy nhiên vào lúc lớn tuổi ông tự tạo cho mình một tâm trạng bình thản trong công việc, không tham vọng, để thích ứng với hoàn cảnh. Tức là ông chịu cảnh ngộ mà số mạng dành cho mình.
Về đại hạn, các đại hạn ở Hợi và ở Mùi là nhưng đại hạn tốt, các đại hạn khác kém hơn. Các đại hạn ở Hợi và ở Mùi là những đại hạn nằm trong thế tam hợp của cung tuổi. Đại hạn ở HỢi (22-31) là đại hạn xây dựng cuộc đời (học hành, đỗ đạt, đi làm và danh vọng đầu tiên), đại hạn ở Mùi (từ 62 trở đi) có thể sẽ khá nếu được sống vào giai đoạn ấy.
Một thí dụ khác: cụ tuổi Nhâm Dần 72 tuổi, những nét chính của vị trí Mệnh và đại hạn như sau
Cụ nổi danh là bậc trưởng thượng trong nước, có rất nhiều học trò thành đạt, nay làm thật lớn, nhưng đời và tâm trí của cụ gặp nhiều khó khăn, trái ý – ngay cả khi cụ làm lớn. (vì thế tam hợp cung tuổi là Dần Ngọ Tuất, thế tam hợp cung Mệnh là Thân Tý Thìn, đối nghịch nhau). Đại hạn tốt ở Ngọ và ở Tuất. Đại hạn 26 ở Ngọ, cụ thành đạt về nghề nghiệp. Cuộc đời chánh trị của cụ về sau gặp nhiều trái ý, tuy có những lúc lên thật cao. Đại hạn 66 tại Tuất mới thật khá, cụ lên cao lắm, nhưng cụ vẫn ở cảnh không xứng ý toại lòng.
(Xin bạn đọc kiểm lại thêm các lá số của cụ Ba La, cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Khắc Sửu).
Thế tam hợp của Mệnh so le với thế tham hợp của cung tuổi
Như thế so le trong lá số của ông Phạm Quỳnh, xin được ghi lại nét chính sau đây
Ông tuổi Nhâm Thìn, sanh tháng Chạp, ngày 26, giờ Dần, thế tam hợp của cung tuổi là Thân Tý Thìn; Mệnh đóng tại Hợi, Thân đóng tại Mão, là thuộc cái thế Hợi Mão Mùi. Hai tam giác tam hợp đó không nhập nhau, không đối nhau, mà là so le. Đó là cái thế so le, cũng là cái thế kẹt của cuộc đời. Cho nên mới gọi rằng cụ Phạm Quỳnh ở thế kẹt. Cụ có thể làm to, chủ tịch hội đồng này hội đồng nọ, một bước thượng thơ, viết văn và khảo cứu nổi tiếng, nhưng cái thế kẹt của cụ là “làm cho người khác hưởng”. Đó là cái thế chung của người đi làm công mà không tạo được cái thế độc lập, của những người nếu có công danh tột đỉnh thì vẫn là nên làm phó, là làm cho người khác hưởng.
Đó là cái thế so le trong đó tam giác cung Mệnh đuổi theo tam giác cung tuổi, nếu lại ở cái thế so le tam giác cung Mệnh vươn lên trước tam giác cung tuổi, theo chiều thuận, thì cũng vẫn là thế kẹt, nhưng là thế của người lấn lên để ăn người, lợi dụng người, chứ không phải để người lợi dụng/
Như ông ######, tuổi Mão, tam giác cung tuổi của ông là Hợi Mão Mùi, Mệnh của ông ở tại Thìn. Nếu Mệnh ở tại Dần, thì đó là cái thế kẹt làm cho người ăn, nhưng đây Mệnh ở tại Thìn là đã lấn lên, thành cái thế kẹt ăn người. Tuy nhiên, thế đó không hẳn tốt hơn, là vì lấn lên, 1 cung, tất gặp Thiên Không và Đào, Hồng (những cái bại, những cái rắc rối của cuộc đời)
Đòi hỏi những giải thích
Những sự khẳng định bên trên tất nhiên đòi hỏi những giải thích theo lý học Tử vi và những sự kiểm chứng lại với thuyết khắc hợp âm Dương và ngũ hành. Đó là điều mà chúng tôi sẽ trình bầy trong số sau, tại sao lại có những sự kiện ấy. Cuộc khám phá xướng xuất từ vòng Thái Tuế và những sao được ghép vào vòng đó, luận chung với các thế tam hợp trên lá số.
Chúng tôi cũng xin nói rằng, sau khi được kinh nghiệm trên của cụ Thiên Lương, chúng tôi có về kiểm chứng lại trên cả trăm lá số và thấy đúng.
Một cái thú khác mà chúng tôi được tiếp nhận, là sự phân biệt tánh chất các sao. Trong cái khoái của nhà Tử vi tìm cái thực chất trong lòng người, cụ Thiên Lương đã hướng nhiều về bộ Long Phượng Hổ Cái về Nhật Nguyệt, về Thiên Mã, và về thế vị trí của Mệnh, Thân so với vị trí của cung tuổi; những cái đó tốt, thì vẫn hơn là được Khoa, Quyền, Lộc, vì bộ tam hóa này chỉ về mũ áo xênh xang, hơn là sự thành đạt trong chính nghĩa và tâm hồn con người.
Xin quý vị chờ xem kỳ sau.
KHHB số 40