Cách xem tướng bàn tay đoán nghề nghiệp của bạn –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Ngày Tết Nguyên Đán của Việt Nam (Tết âm lịch), cho dù ở thành thị hay thôn quê, giàu sang hay nghèo khó, thì tục lệ trên bàn thờ tổ tiên hoặc trên bàn tiếp khách, hầu như nhà nào cũng trưng một mâm ngũ quả, và cố thể hiện sao cho vừa đẹp mắt vừa hàm ý những điều ước nguyện của gia chủ.
Gọi là ngũ quả nhưng thật ra chẳng ai rõ quy định là những loại quả gì mà tùy từng địa phương với đặc trưng về khí hậu, sản vật và quan niệm riêng mà người ta chọn ra các loại quả khác nhau để bày mâm ngũ quả.
Tuy nhiên, dù là loại quả gì, mâm ngũ quả vẫn mang một ý nghĩa chung: dâng cúng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo và ước mong những điều tốt lành trong gia sự. Mỗi loại quả đều có mùi vị, màu sắc riêng và cũng mang những ý nghĩa nhất định.
Ý nghĩa mâm ngũ quả
Ngũ quả - thể hiện cho 5 vị Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, 5 yếu tố được cho là đã cấu thành nên vũ trũ trong quan niệm của Khổng giáo.
Ngoài ra số 5 cũng tượng trưng cho ngũ phúc. Đầu năm đón ngũ phúc vào nhà thì cả năm sẽ tốt đẹp. Có một số quan niệm khác nhau về ngũ phúc, chẳng hạn có người cho rằng ngũ phúc bao gồm 5 chữ: Phú (giàu có), Quý (địa vị sang trọng), Thọ (sống lâu), Khang (khỏe mạnh), Ninh (bình an).
Người Hoa thì diễn giải khác hơn khi cho rằng ngũ phúc bao gồm: Trường Thọ (không đoản mệnh), Phú Quý (có địa vị, giàu sang), Khang Ninh (khỏe mạnh, bình an), Hiếu đức (sống lương thiện, nhân hậu), Thiện chung (khi chết nhẹ nhàng, thanh thản, không tật bệnh...).
Cách lý giải ít nhiều khác nhau, song vẫn được nhấn mạnh ở 3 chữ đầu tiên là Phú, Quý, Thọ (cũng được xem là Phúc, Lộc, Thọ) bởi người ta cho rằng chữ “Khang”, “Ninh” cũng nằm trong chữ “Thọ”.Với quan niệm về ngũ phúc như thế, người ta bày mâm ngũ quả cũng với những ước mong ấy.
Nếu căn cứ theo màu sắc trong triết lý phương Đông thì mâm ngũ quả phải có 5 loại quả với 5 màu khác nhau:
Đầu tiên là chuối xanh - ứng với mùa Xuân (hành mộc). Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy những gì tinh túy nhất của mùa Xuân để đọng thành quả ngọt; nó còn có ý nghĩa che chở, bảo bọc.
Thứ hai là quả Phật thủ màu vàng - tượng trưng hành thổ nên được đặt ở giữa, trong lòng nải chuối. Phật thủ là loại quả có mười cánh múi chụm lên như 10 ngón tay nên dân gian gọi là tay Phật. Phật thủ được trưng lên bàn thờ với niềm cầu mong được bàn tay Phật trời ban phúc lộc. Nếu không tìm được Phật thủ, có thể thay bằng quả bưởi chín vàng, cũng mang ý nghĩa tương tự.
Tiếp theo, ba loại quả khác có các màu đỏ (ứng với mùa Hạ - hành hỏa) như ớt sừng, cam-quýt chín, trứng gà, hồng…; màu trắng (ứng với mùa Thu - hành kim) như roi, đào; màu đen (ứng với mùa Đông - hành thủy) như mận, hồng xiêm…
Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hòa; thể hiện sinh động ý nghĩa triết học-tín ngưỡng-thẩm mỹ, đồng thời cũng chứa đựng ước vọng của con người. Mâm ngũ quả ngày Tết mang một ý nghĩa chung sâu sắc, thể hiện lòng hiếu thảo và ước mong những điều tốt lành cho một năm mới sắp tới. Mỗi loại quả được lựa chọn để sắp xếp trong mâm ngũ quả đều mang những ý nghĩa riêng nhất định, ví dụ:
Lê (hay mật phụ): vị ngọt thanh ngụ ý việc gì cũng trơn tru, suôn sẻ.
Lựu: nhiều hạt tượng trưng cho vợ chồng suôn sẻ, con đàn cháu đống.
Đào: thể hiện sự thăng tiến.
Mai: hạnh phúc, không cô đơn.
Quả phật thủ: giống như bàn tay đức Phật, luôn chở che cho các số phận con người.
Táo: có nghĩa là phú quý.
Hồng, quýt: tượng trưng cho sự thành đạt.
Thanh long (rồng mây hội tụ) thể hiện sự phát tài phát lộc.
Bưởi, dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn sự ngọt ngào, may mắn.
Nải chuối xanh: như bàn tay ngửa: hứng lấy may mắn, bao bọc và chở che.
Quả trứng gà (hay Lê-ki-ma) như hình đào tiên: lộc trời.
Sung: gắn với biểu tượng sung mãn về sức khỏe và tiền bạc.
Đu đủ mang đến sự thịnh vượng đủ đầy.
Xoài: có âm na ná như “xài”, để cầu mong cho việc tiêu xài không thiếu thốn.
Gọi là ngũ quả nhưng thật ra, việc lựa chọn và bày biện những loại quả gì trên mâm tùy thuộc vào từng địa phương với những đặc thù về khí hậu, sản vật và quan niệm văn hóa riêng. Từ đó, người ta chọn ra những loại quả mang ý nghĩa tâm linh, tinh thần để “thiết kế” nên mâm ngũ quả.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
Mâm ngũ quả ở các vùng miền khác nhau
Tuy mỗi miền mỗi khác, nhưng tựu trung, mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết vẫn là nơi hội tụ của hồn quả, hương cây, của nếp văn hóa dân tộc và của ý nguyện cầu hòa, an, đủ của người dân Việt.
*Mâm ngũ quả miền Bắc
Mâm ngũ quả miền Bắc
Ở miền Bắc, trên mâm ngũ quả thường có 5 loại quả: chuối, bưởi, đào, hồng, quýt. Cách trình bày truyền thống thường gặp là nải chuối được đặt ở dưới cùng, ở giữa để đỡ lấy toàn bộ các cây trái khác. Mâm ngũ quả đẹp là mâm ngũ quả có đủ màu sắc rực rỡ. Chính giữa nải chuối xanh thẫm là quả bưởi căng mọng hoặc quả phật thủ chin vàng nổi bật.
Những quả chin đỏ đặt xung quanh. Những chỗ khuyết đặt xen kẽ quýt vàng, táo màu xanh hoặc những trái ớt đỏ mọng, hoàn thiện những nét trang trí cuối cùng.
*Mâm ngũ quả miền Trung.
Mâm ngũ quả miền Trung
Nơi khúc ruột miền Trung nghèo khó, đất đai vốn cằn cỗi, ít hoa trái, lại thêm thời gian Tết thường rơi vào mùa đông khắc nghiệt, và cả những hậu quả thiên tai để lại từ trước đó chưa dứt nên cây trái đặc sản địa phương rất hiếm. Người dân quê không quá câu nệ hình thức ý nghĩa của mâm ngũ quả, mà chủ yếu có gì cúng nấy, thành tâm dâng kính tổ tiên.
Mặt khác, người miền Trung do chịu sự giao thoa văn hóa 2 miền Bắc - Nam nên mâm ngũ quả vẫn bày biện đủ: chuối, mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài… Rất phong phú!
*Mâm ngũ quả miền Nam
Mâm ngũ quả miền Nam
Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay đắng, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi" thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu.”
Mâm ngũ quả của người miền Nam thường có các loại trái: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (theo câu: “Cầu sung vừa đủ xài”), thêm chân đế là 3 trái thơm (dứa), thể hiện sự vững vàng. Đặc biệt, mâm ngũ quả của người miền Nam không thể thiếu cặp dưa hấu ruột đỏ vỏ xanh, tượng trưng cho lòng trung nghĩa và trinh tiết của người phương Nam.
Do trái cây ngày càng nhiều, loại nào cũng ngon, bổ nên để thể hiện cao nhất lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, đồng thời cũng nhằm thể hiển tính trình bày mỹ thuật trong con mắt thẩm mỹ độc đáo của nhân dân, nên mâm ngũ quả ngày càng phong phú hơn, và người ta cũng không câu kệ cứng nhắc “ngũ quả” nữa mà có thể là bát, cửu, thập quả. Nhiều hơn, nhưng người ta vẫn gọi là “mâm ngũ quả” và, dù đựng trong đĩa cũng vẫn gọi theo xưa là “mâm." Bởi đó là một “sản phẩm văn hóa” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo."
Chưng bày mâm ngũ quả trên bàn thờ của gia đình trong những ngày Tết mang ý nghĩa giữ gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân Việt. Chính vì vậy, người dân Việt dù ở phương trời nào, đến ngày Tết cổ truyền vẫn không bỏ qua tục lệ này, như một sự nhắc nhở, cho bản thân và cho con cháu, về cội nguồn của mình.
Những điều lưu ý trước khi bày mâm ngũ quả
Nhiều gia đình khi mua các loại quả về, thường rửa cẩn thận cho quả bóng, đẹp. Tuy nhiên, việc rửa sẽ làm quả sớm bị héo hoặc thối nếu có chỗ đọng nước. Do đó, chỉ cần dùng khăn giấy ẩm lau sạch quả là được.
Với những quả bưởi mà vỏ bị ố vàng hay mốc xanh, có thể hòa chút nước vôi sạch, thấm vào khăn lau đều sẽ cho vỏ bưởi vàng mà không lo đọng nước, héo bưởi.
Do bận công việc, nhiều gia đình có thể mua quả từ ngày 27 - 28 Tết, thậm chí sớm hơn. Do đó, nếu không tính đến việc mâm quả sẽ còn để từ 30 Tết đến vài ngày sau mà chọn mua những quả đã chín đẹp, vừa mắt thì khi bày, quả đã có thể bị chín quá, lá héo, mũm vỏ. Nên lựa những quả già nhưng chưa chín quá (tùy theo thời gian mua có sát ngày 30 Tết chưa). Chuối nhất định phải là chuối xanh. Các loại quả xoài, mãng cầu, đu đủ, hồng… nên mua quả ương về bày để không bị hư hỏng.
*Cách chọn các loại quả để bày trong ngày Tết:
Cách chọn chuối:
- Hình dáng: Chuối tiêu cong cong như hình trăng lưỡi liềm, trên vỏ có năm sáu gờ, cuống ngắn; Chuối tây thì hai đầu thon nhỏ, phần giữa to, trên vỏ có 3 gờ, cuống dài.
- Màu sắc: Chuối tiêu chưa chín có màu xanh, khi đã chín trứng cuốc chuyển sang màu vàng có lốm đốm, bóc vỏ thì thấy thịt màu vàng nõn, cắt ngang thấy thiết diện nhát cắt hình tròn. Chuối tây có màu vàng hơi xam xám, khi đã chín trên vỏ không có điểm lốm đốm, bóc vỏ thì thấy phần thịt màu trắng nõn.
- Mùi vị: Chuối tiêu mùi rất thơm, cắn phần thịt có vị rất ngọt. Chuối tây tuy ngọt nhưng có nhiều vị chưa nữa.
Cách chọn cam, quýt:
Không nên chọn trái có màu vàng tươi đã rụng cuống, có thể màu vàng tươi đó là “chín háp” do sâu hại, ong chích, cây bị suy kiệt… khiến trái rụng trong vườn. Nên chọn trái cam, quýt có màu vàng mỡ gà (chiếm ít nhất 1/3 trái), da bóng láng, có đốm thâm lộ ra, vỏ mỏng… Với cam sành không nên chọn trái lớn có da sần sùi hay vàng chóe một bên (do nám nắng), trái cam như vậy vỏ dày, bị sượng khô, ít nước, không ngọt.
Chọn mua dưa hấu:
- Nhìn: Đầu tiên bạn hãy để mắt vào màu sắc và hình dạng quả dưa. Nếu trông hình dáng cân đối, vỏ cứng chắc và nhẵn nhụi, vân hoa sáng rõ, đường vằn sáng, phần dưới ngả màu vàng, phần trên và dưới cân đối với nhau, phần rốn lõm sâu vào trong, núm mọc giữa rốn có màu xám, thịt dưa đầy nở nang, khô mịn và dễ bổ thì đấy là dưa đã chín, ăn sẽ rất thơm ngon. Nhìn chung quả dưa tròn trĩnh, cân đối, có độ lớn vừa phải bao giờ cũng ngon hơn những quả dưa trông méo mó hoặc quá nhỏ. Loại méo mó, trông bề ngoài thô xấu, bì dầy thì mùi vị cũng sẽ nhạt.
- Gõ: Bạn hãy dùng một tay nâng quả dưa lên, tay kia gõ nhẹ. Nếu thấy bình bịch có vẻ nặng và cảm giác thấy bên trong có vẻ như rung rung thì đấy là dưa chín. Ngược lại, nếu nghe thấy tiếng kêu giòn, tay đỡ thấy tương đối nặng thì phần nhiều là dưa chưa chín hoặc chất lượng kém.
- Nắn, bóp: Bạn hãy nâng quả dưa lên để kề sát vào bên tai mình và dùng 2 ngón tay cái ấn vào phần đầu quả dưa, nếu nghe thấy tiếng ràn rạn thì đó là dưa tốt.Vì trong ruột quả dưa đã chín thì kết cấu không còn chặt nữa, cho nên ta sẽ nghe thấy tiến ràn rạn, nếu là dưa cát mỏng vỏ thì tiếng đó càng rõ hơn. Còn khi dưa còn xanh, kết cấu trong ruột còn chắc thì bạn sẽ không nghe thấy tiếng gì hết cả, hơn nữa khi ấy vỏ còn dầy, tiếng kêu nghe càng khó thấy.
>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Khi nhắc đến những loại đá quý, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến kim cương, ruby… mà quên mất rằng có một loại đá đã được con người khai thác và sử dụng rất sớm. Đó chính là đá mã não. Bài biết sau đây Tìm hiểu về sự hình thành và tác dụng của đá mã não.
Nội dung
Về bản chất, mã não là một biến thể của thạch anh, và thuộc nhóm Chalcedony. Tuy có cùng công thức hóa học như Thạch anh và Chalcedony, nhưng mã não lại có cấu trúc vi hạt rất mịn. Điều này khiến cho mã não đa số có chất lượng ngọc, chất đá mã não rất dai, do vậy khi được chế tác sẽ cho bề mặt cực kỳ bóng, mịn, bền, đẹp. Mức độ phổ biến của mã não cũng giúp cho các sản phẩm ngọc mã não có giá thành rất phải chăng, phù hợp với túi tiền đại đa số người tiêu dùng.
Trong tự nhiên, mã não có thể được hình thành từ nham thạch núi lửa nguội lạnh nhanh (Nguồn gốc vô cơ) hoặc từ xác thực vật, động vật hóa thạch như gỗ hóa thạch, xương, vỏ ốc hóa thạch … (Nguồn gốc hữu cơ). Khi nham thạch núi lửa nguội lạnh nhanh, nó sẽ cuốn vào trong lòng rất nhiều loại tạp chất khác nhau như đất, đá, tro, bụi, cây cỏ … Các tạp chất này không kịp thoát ra sẽ tạo ra cho mã não những vân đá rất riêng biệt. Chính nguồn gốc hình thành đa dạng nêu trên khiến cho mã não có tới hàng trăm loại khác nhau, khó có thể kể hết tên. Trong đó có những viên mã não độc nhất vô nhị, không bao giờ đụng hàng.
Do Mã não được hình thành khi nham thạch nguội lạnh nhanh nên hầu hết các trường hợp, trong lòng khối mã não sẽ có khoảng rỗng do không khí không kịp thoát ra và nằm lại trong lòng đá. Ở vùng rỗng này đá có điều kiện kết tinh, hình thành một lớp thạch anh mỏng lấp lánh nhỏ li ti bám trên bề mặt gọi là tinh đám thạch anh trên mã não (Druzy Agate). Lớp đá lấp lánh này nhìn rất giống châu báu trong lòng đá nên trong phong thủy, những khối đá này thường được bổ đôi để lộ phần lấp lánh ra ngoài, dùng làm vật phẩm chiêu tài lộc và gọi là Bát tụ bảo (Tụ Bảo Bồn). Một số trường hợp trong lòng đá chứa nước chứ không phải không khí, hình thành mã não nước, một trong những loại mã não hiếm mà dân sưu tầm rất ưa chuộng.
Cần lưu ý rằng, đặc trưng của Mã não là màu sáng, do vậy trong tự nhiên không có mã não đen. Nếu bạn bắt gặp quảng cáo về mã não đen của các cửa hàng phong thủy thì đó là thông tin không chính xác, do sự thiếu hiểu biết về đá của chủ cửa hàng, hoặc cố tình gây lầm lẫn cho khách hàng. “Mã não đen” đó có thể là một trong các loại: Mã não được nhuộm màu đen, đá Onyx đen, đá Obsidian đen, đá Tourmaline đen hoặc thậm chí là nhựa/thủy tinh đen.
Các nhà khoa học khẳng định rằng có tới trăm loại mã não khó lòng có thể kể hết các tên gọi của chúng. Tất nhiên trong đó sẽ có những viên mã não độc nhất vô nhị do sở hữu lớn vân khác biệt.
Không những vậy, màu sắc tinh thể của mã não cũng rất phong phú chẳng kém cạnh gì Sapphire vậy. Chúng có thể mang sắc màu sáng như trắng sữa, phớt vàng, vàng sậm cho tới xanh lá cây, cam, đỏ… Loại đá mã não đẹp nhất là mã não mắt kính, chúng sở hữu các đường vân tròn đều được xoay quanh tâm.
Tuy nhiên hãy lưu ý một điều rằng mã não tự nhiên hoàn toàn không có màu đen tuyền. Nếu như bạn được một địa chỉ cửa hàng phong thủy nào đó quảng cáo về mã não đen thì sẽ là không chính xác. Mã não đen có thể là nhân tạo, loại đã được nhuộm màu, là dòng đá Onyx đen hay nhựa, thủy tinh đen giả mạo mà thôi.
Trong phong thủy, mã não được chế tác thành vô vàn các sản phẩm khác nhau. Từ những mặt đá nhỏ làm mặt nhẫn, mặt dây chuyền, khuyên tai … cho tới những khối đá được chế tác thành những sản phẩm nghệ thuật, những linh vật phong thủy như tỳ hưu, thiềm thừ, rồng, hổ … để bày bàn. Với những khối ngọc lớn, thậm chí người ta còn chế tác những bức tượng, bộ bàn ghế … vô cùng đẹp và quý hiếm. Mang viên đá hộ mệnh bằng mã não trên người giống như mang một lá bùa hạnh phúc, vì bản thân cái tên Agate cũng xuất phát từ chữ “achates” trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là “hạnh phúc.
Trong văn hóa tâm linh, có lẽ Mã não là loại đá gắn với nhiều quyền năng nhất. Ngay từ thời Ai Cập cổ đại, Mã não đã được sử dụng làm vòng đeo tay, bát, bình đựng … Các loại bùa chú bằng đá Mã não thường được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo, chống lại sấm sét, bão tố. Khi đi trên sa mạc, người ta tin rằng ngậm một viên mã não trong miệng sẽ giúp tránh khỏi cơn khát nước.
Ở châu Âu, Mã não (Agate) là biểu tượng của sức khỏe, sự hưng thịnh và trường thọ. Ở Ấn Độ, nó là biểu tượng của của sự hưng thịnh. Đồ trang sức bằng mã não làm cho chủ của nó trở nên dễ mến trong giao tiếp và biết ăn nói, cũng như bảo vệ chủ chống lại kẻ thù thâm độc. Nhẫn gắn mặt đá mã não làm cho người đàn ông trở nên quyến rũ hơn trong mắt phụ nữ.
Trong thạch học trị liệu, năng lượng cảm thụ âm của Mã não có tác dụng tới tất cả các luân xa tuỳ thuộc vào màu sắc của đá. Mã não làm tăng tiềm năng, giúp điều trị bệnh ho lâu ngày và bệnh ở vùng họng. Người ta tin rằng, Mã não giúp làm giảm co giật, chống lại sự sợ hãi, bảo vệ cơ thể chống lại bệnh nhiễm khuẩn và bệnh ở dạ dày.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem tử vi tướng số chuẩn xác |
Tuổi Ngọ
Năm Ất Mùi hứa hẹn sẽ có nhiều may mắn và thuận lợi cho người tuổi Ngọ. Đặc biệt là chuyện tình duyên, “kiếp ế” của họ sẽ chấm dứt. Cụ thể, tháng 3 sẽ đánh dấu bước ngoặt tuyệt vời đó - sức hút vô hình khó cưỡng của người tuổi Ngọ sẽ phát huy hiệu quả. Mọi người xung quanh sẽ cảm nhận được tâm hồn trong sáng, cá tính nhanh nhẹn, hoạt bát của họ và nảy sinh những thiện cảm.
![]() |
Ngoài ra, người tuổi Ngọ còn nhận được nhiều sự hậu thuẫn của mọi người. Vậy nên khi tình cảm chớm nở, cặp đôi tuổi Ngọ sẽ liên tiếp có điều kiện thuận lợi để vun đắp tình yêu. Thậm chí, tình duyên của họ sẽ rất bền chặt, dễ dẫn đến hôn nhân vì cả hai đều yêu bằng trái tim.
Tuổi Dần
Trong tháng 3 này, sao Thiên Hy, chòm sao báo hỉ, sẽ xuất hiện trong cung mệnh của người tuổi Dần. Chòm sao này còn báo hiệu sự đào hoa cho bạn. Không khó để bạn nhận thấy dạo gần đây “vệ tinh” xung quanh mình nhiều hơn hẳn.
![]() |
Từ đó, bạn dễ nảy sinh tình cảm và dẫn đến tình yêu. Tuy nhiên, sự nhút nhát, không dứt khoát từng khiến bạn mất đi nhiều cơ hội trong tình duyên. Vậy nên, bạn cần mạnh mẽ hơn nữa và nhất định sẽ không còn “lẻ bóng” trong tháng 3 này.
Tuổi Hợi
Người tuổi Hợi thường hướng nội, hiền lành và rất chân thành. Thực chất, nếu gặp đúng “cạ cứng”, con giáp này còn tỏ ra rất hài hước, cởi mở. Tháng 3 sẽ mang lại nhiều cuộc gặp gỡ tình cờ, “có duyên” cho người tuổi Hợi. “Phận FA” của họ sẽ chấm hết nếu biết nắm bắt cơ hội.
![]() |
Thậm chí, tình duyên sẽ bùng cháy ở người tuổi Hợi với đối tượng mà họ không ngờ tới như bạn thân thiết lâu nay hoặc đối tượng họ thần tượng trong lòng.
Mr.Bull (theo DYXZ)
Trong 3 yếu tố: thiên - địa - nhân thì "nhân" được coi là trung tâm, tức lấy con người làm chủ thể của vũ trụ. Phong thủy học là bộ môn dùng để tính toán, đo lường mức độ ảnh hưởng của 2 yếu tố "thiên" (đại biểu là gió), "địa" (đại biểu là đất) tác động vào con người và cách ứng xử của con người với chúng. Nói theo ngôn ngữ của thế kỷ 21, thì đó là bộ môn “hoàn cảnh học” và “môi trường học”.
![]() |
Ngoài ra, hoàn cảnh xung quanh sẽ tác động đến tâm lý chúng ta. Khi bước chân lên cầu thang, chúng ta sẽ cảm thấy thuận chân hơn khi bước chân phải. Nếu là chân trái gây tâm lý không thoải mái (trừ một số người thuận chân trái). Từ đó sẽ tạo ảnh hưởng đến các hành vi của mỗi người. Hoặc khi mỗi ngày bước ra khỏi cửa, ngay lập tức chúng ta nhìn thấy cột điện có hình nhọn sắc, lâu dần nó tạo ra các phản ứng tâm lý tùy theo mỗi người. Có người thì sợ hãi, có người thì cáu kỉnh từ đó hành vi cũng trở nên bất thường.
Riêng về vấn đề tác động đến khí trường nhân thể, thì còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, cũng khó phủ nhận vấn đề này, vì trong thực tiễn: khí công, yoga, châm cứu… đều là có thật.
Theo phong thủy học, mỗi người sinh ra đều hấp thụ và có trường khí chất. Khi cư trú vào vùng khí trường tự nhiên sẽ có sự tác động qua lại mà mắt thường nhìn thấy được. Nếu thích hợp sẽ giúp cơ thể có thêm sức khỏe, tâm lý thoải mái, đầu óc sáng suốt tạo ra nhiều của cải (vượng tài), sinh sản nuôi dạy con cái (vượng đinh). Trái lại, nó sẽ khiến chúng ta mệt mỏi, đầu óc kém thông minh, sức khỏe suy giảm nhanh chóng.
Nếu như cơ thể người được cấu tạo bởi các đường kinh mạch (gồm cả khí mạch theo Đông y và huyết mạch theo Tây y) cùng các cơ quan cơ thể như miệng, mũi, tai, tim… thì căn nhà chúng ta sinh sống cũng như vậy. Nó được cấu tạo nên bởi đường đi lối lại dẫn khí (năng lượng và không khí thở) cùng các cấu trúc chức năng khác như cửa, cửa sổ, bếp, phòng khách, phòng ngủ, khu vệ sinh. Tất cả hợp thành hệ thống hoàn chỉnh tương tác lẫn nhau.
Khi các cơ quan trong cơ thể mất cân bằng thì người sẽ mệt mỏi, bệnh tật ốm đau có thể tử vong. Tương tự, khi các bộ phận hợp thành ngôi nhà không có được kết cấu hợp lý và thuận tiện sẽ tạo ra sai lệch trong khí trường. Căn nhà đó cũng thiếu sức sống thậm chỉ bị coi là nhà chết (tử trạch).
Con người sinh sống không thể tách rời môi trường. Môi trường và con người có tác động qua lại. Phong thủy học chính là bộ môn nghiên cứu về mối quan hệ này.
(Theo Phongthuy)
![]() |
Sinh, nuôi, giáo dục con là chức năng thần thánh của bậc cha mẹ. Ðã là cha mẹ thì đều hy vọng có đứa con thông minh, đẹp đẽ, khỏe mạnh, càng hy vọng lớn lên sẽ trở thành người của rường cột của đất nước, đem lại tự hào cho gia đình. Song nguyện vọng tốt đẹp đó không phải người nào cũng đạt được như ý nguỵên, mà muốn đạt được là điều không dễ dàng. Trong thực tế cuộc sống có những cặp vợ chồng có sinh mà không có dưỡng, về già không có con cháu quấn quít xung quanh. Có những đứa con sau khi sinh ra chẳng bao lâu đã chết yểu, có những đứa bệnh tật nhiều rất khó nuôi, thậm chí có những đứa tàn phế. Những điều không may mắn đó không những đã đưa lại cho đất nước và gia đình những gánh nặng, mà còn đưa lại những nỗi đau khổ rất to lớn cho bản thân đứa con và cha mẹ.
Những tình trạng trên xuất hiện trong xã hội, xét về mặt y học, về mặt sinh đẻ tối ưu có rất nhiều nguyên nhân, như nguyên nhân tiên thiên, nguyên nhân hậu thiên. Vì vậy muốn nâng cao tố chất của nhân loại cần phải chú ý đến những điều kiện sinh đẻ tối ưu, phải chú ý đến tính khoa học của nó. Nói đến sinh đẻ tối ưu, sinh đẻ khoa học tất nhiên không tách khỏi được âm dương ngũ hành sinh khắc, không tách khỏi dự đoán theo Tứ trụ. Do đó Nhà nước muốn chấn hưng, dân tộc muốn hưng vượng thì phải chú ý đến dự đoán thông tin.
DỰ ĐOÁN CON CÁI (1)
Sinh con và nuôi con giống như việc trồng hoa, vừa cần giống tốt, vừa cần biết chăm sóc. Ðã trồng hoa thì phải biết bồi đắp gốc rễ của nó, gốc tốt thì mầm khỏe , phải tưới nước, bón phân thì cành lá xum xuê, phải biết cắt tỉa thì mới phát triển xanh tốt được, phải có ánh sáng chiếu rọi vào thì hoa mới to, quả mới lớn. Nếu đất kém, gốc cạn, nước ít, mưa gió nhiều tất nhiên mầm sẽ khô dần, cây dễ chết.
Trẻ em sau khi sinh nói chung can ngày nên có khí, lệnh tháng sinh phù, trụ năm phải tốt, ấn tinh không bị thương tổn, tài quan có chế ngự, thất sát được hóa giải, thương quan có hợp khí trung hoà, không gặp hình xung khắc hại, thì em bé đó dễ nuôi và sống lâu.
Xem con cái nhiều hay ít chủ yếu phải xem sự vượng suy của trụ giờ và phải xem trong Tứ trụ tử tinh ( con ) có bị khắc không. Người mà sinh tử tinh suy, tử tuyệt lại còn bị khắc hại tất sẽ không có con cái. Nếu sinh ngày canh, giờ ngọ, canh lấy ất mộc làm vợ, ất mộc sinh hoả khắc canh kim, giờ ngọ hoả ở vượng địa, là lộc của đinh hỏa cho nên sinh con cái nhiều mà phú quý. Nếu sinh vào các giờ tuất, hợi, tý là đất hỏa tuyệt thì con cái ít hoặc đứa con sinh ra cô độc, nghèo hèn, hoặc về sau trở thành tăng đạo.
Xưa bàn về sao con có nói : sao con ở trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đất đế vượng là chủ về con cái nhiều, đẹp và phú quý.
Trong Tứ trụ không có sao con, trụ giờ lại không vượng thì khi hành đến vận quan sát vượng mới có con cái, quá vận đó thì không có con nữa.Trong Tứ trụ có tài quan là đứa con sinh ở nhà giàu sang, có thiên quan là đứa con sinh ở nhà bình thường.
Trong Tứ trụ có tuế nguyệt, thương quan, kiếp tài là đứa con sinh ở nhà nghèo hèn. Có tuế nguyệt, tài quan, ấn thụ là đứa bé sinh ở nhà phú quý.
Quan tinh sinh vượng lại gặp được giờ trường sinh là con cái thông minh tuấn tú.
Trong Tứ trụ có tuế nguyệt, thương quan, kiếp tài là đứa con sinh ở nhà nghèo hèn. Có tuế nguyệt, tài quan, ấn thụ là đứa bé sinh ở nhà phú quý.
Quan tinh sinh vượng lại gặp được giờ trường sinh là con cái thông minh tuấn tú.
Thực nhiều là sữa nhiều hoặc sẽ gửi con nuôi nhà khác.
Trụ giờ gặp quan tinh đóng ởngôi vượng là con chấu trưởng.
Quan tinh găp vượng thì con cái lớn lên vinh hiển
Cung thêlộ rõ thì con cái nhiều.
Thương quan gặp tài, thất sát bị kiềm chế là nhiều con.
Lộc mã của trụ ngày, trụ giờ trường sinh là vợ hiền con quý.
Trụ giờ được tài quan sinh hoặc gặp tài vượng sinh quan là đứa con có công với đất nước, làm vinh hiển cho gia đình.
Trong Tứ trụ gặp quan nhiều là con gái nhiều, con trai ít
Trụ nhật làm dụng thần là con nhà hiền mà tháo vát.
Trong Tứ trụ chỉ có một thực thần và lộc rõ làm dụng thần thì có con và sống lâu.
Quan tinh rõ mà thân vượng là người nhiều con.
Quan tinh được lộc ở trụ ngày, trụ giờ là đẻ con hiền quý.
Thất sát có được chế hóa là đứa con nổi tiếng.
Kiêu thần, thực thần làm tổn thương quan nhưng hành đến gặp tài là chắc chắn có con không cần phải đoán.
Ấn thụ nhiều là con ít. Thương quan gặp tài là có con.
Trong Tứ trụ chỉ có 1 ngôi thực thần nhưng được sinh vượng là muốn có con phải cầu tự.
Người trong Tứ trụ nhiều dần, thân, tị, hợi là tượng sinh đôi ; hợi nhiều là sinh con trai, tị nhiều là sinh đôi con gái.
Trên trụ giờ gặp quý nhân trạch mã là sinh con hiếu đễ.
Trụ ngày phạm cô loan là không có con, chỉ khi nào gặp quan tinh thì mới có con.
Nữ mà thực nhiều, quan ít là chồng suy, con vượng.
Ngôi con ở đất vượng tướng là con thông minh,hiền hiếu, làm rạng rỡ tổ tiên.
Trụ giờ được trụ ngày phù trợ là người tuổi cao vẫn còn có con.
Thiên quan trên trụ giờđược chế ngự là những đứa con út tuấn tú.
Chính quan yếu, thương quan vượng là chủ về con cháu thừa kế được sự nghiệp của cha ông.
Trụ ngày vượng, có thương, thực lại không bị xung khắc là chủ về con cái nhiều.
Thương quan, thực thần làm dụng thần là chủ về con cái hiếu đễ.
Trụ ngày ở trường sinh, đế vượng, quan đới gặp quan, thương, thực là chủ về con cái phát triển hơn ông cha.
Dụng thần ở trụ giờ là con cái giúp đỡ được cha mẹ.
Thất sát ở trụ giờ, trong Tứ trụ lại có thực, thương là con cái hiền quý.
Ðối với nam trong Tứ trụ quan sát vượng là người có con sớm.
Người trong Tứ trụ không có thực, thương, mà thực thương ám tàng trong thìn, tuất, sửu,mùi thì đó là người lấy vợ lẽ mới có con.
Trong Tứ trụ thực, tỉ nắm quyền là sinh con hiếu đễ.
Sinh đôi, sinh ngày dương, giờ dương thì anh mạnh hơn em, sinh ngày âm, giờ âm thì em mạnh hơn anh.
Trong Tứ trụ khi nào thực thần, thương quan chế ngự làm mất quan tinh thì mới có con.
Can giờ vượng là sinh con trai, suy là sinh con gái.
Ấn gặp ngôi con là được vinh hiển nhờ con.
Mệnh nữ gặp thiên đức, nguyệt đức là sinh con đỗ đạt cao.
Trong Tứ trụ có thương quan là vợ nhiều nhưng con ít.
Trụ giờ gặp thiên đức, nguyệt đức là con cái hiếu thuận.
Thất sát ở trụ giờ, trong Tứ trụ lại có thực thần là con cái giàu sang.
Quan sát ở ngôi thai thì thế nào cũng có con.
Trụ giờ gặp thương quan mã tinh, là sinh con xa quê và phần nhiều con phải đi xa.
Tài tinh đóng ở trụ giờ là con cái sau thành gia thất, chúng sẽ giàu.
Thực thàn đóng ở trụ giờ là con cái béo khỏe , đẹp.
Quan tinh đóng ở trụ giờ là con cái tháo vát, thăng tiễn.
Ðào hoa đóng ở trụ giờ là con cái đẹp, thông minh, phong lưu.
Thiên đức, nguyệt đức đóng ở trụ giờ là con cái hiền lành.
Phàm trẻ em sinh vào ngày, giờ giáp ất, thì mặt có ấn đường rộng, mắt có thần, nhân trung dài, lông mày đẹp.
Người sinh vào ngày giờ bính, đinh thì mắt to, râu dài, trán hẹp, tuổi trẻ nhiều bệnh hoạn.
Sinh vào ngày giờ mậu, kỉ đầu to, trán rộng.
Sinh vào ngày giờ canh thì mặt vuông, trán rộng.
Sinh vào ngày giờ tân thì mắt phượng, tai chầu miệng có dái tai to.
Sinh vào giờ nhâm, quý là người mắt to, ham rượu, tính liều.Người trong Tứ trụ dần, sửu hoặc tuất hợi nhiều là người chân to, chân nhỏ. Người trong Tứ trụ có ba, bốn chữ mão hoặc chữ thìn là người thuận tay trái.
Trong Tứ trụ có 4 thuỷ là sinh trên thuyền, hoặc lúc sinh gặp nước.
Người trong Tứ trụ có ba chữ kim là lúc sinh gặp người tu hành, hoặc lúc có tiếng chuông chùa kêu, hoặc lúc sinh gặp bà đỡ.
Trong Tứ trụ có 3 chữ mộc là lúc sinh nghe thấy những điều kinh ngạc, hoặc sinh ở nhà dưới, hoặc sinh ở vùng nông thôn, sơn trại.
Người trong Tứ trụ có 3 chữ thổ thì sinh ngoài bãi, bờ đê, hoặc chốn công trường.
Người trong Tứ trụ có 3 chữ hoả là lúc sinh láng giềng có tang, hoặc trong nhà có nỗi lo lắng, buồn ly biệt.
Trụ ngày có thất sát lúc sinh vắng mặt cha.
Người sinh vào các giờ tí, ngọ, mão, dậu là lúc sinh ra nằm ngửa, sinh vào các giờ thìn, tuất, sửu, mùi thì lúc sinh ra nằm sấp, sinh vào các giờ dần, thân, tị, hợi thì sinh ra nằm nghiêng.
Mệnh mộc sinh vào mùa xuân, mệnh hỏa, thổ sinh vào hạ, mệnh kim sinh mùa thu, mệnh thủy sinh mùa đông thì khỏe mạnh , thông minh, tuấn tú, dễ nuôi.
Cha có thất sát là sinh con trai, quan tinh là sinh còn gái : mẹ có thất sát là sinh con gái, quan tinh là sinh con trai.
Cha có thương quan là sinh con gái, thực thần là sinh con trai ; mẹ có thương quan là sinh con trai, thực thần là sinh con gái.
Cha có can giờ khắc can ngày là sinh con trai, can ngày khắc can giờ, ngày giờ tương sinh tương hợp với tỉ kiếp là sinh con gái; Mẹ lấy can ngày khắc can giờ là sinh con trai, can ngày và can giờ tương sinh tương hợp với tỉ kiếp là sinh con gái.
Về dự đoán đứa con tôi chú trọng nghiên cứu lần sinh thứ nhất là con trai hay con gái và như thế nào thì sinh con trai, thế nào là sinh con gái. Còn những mặt khác chỉ nghiên cứu chung chung.
Ở Trung Quốc về phương pháp dự đoán sinh lần đầu là trai hay gái cổ xưa có rất nhiều sách . Cách tôi thường dùng và qua tổng kết lâu dài là : mệnh nam can giờ khắc can ngày thì lần đầu là con trai, mệnh nữ can ngày khắc can giờthì con đầu là con trai, mệnh nam can ngày khắc can giờ, mệnh nữ can giờ khắc can ngày, can ngày và can giờ tương sinh , tương hợp với tỉ kiếp là con gái.
Phương pháp này đã dự đoán kiểm nghiệm hơn 250 trường hợp ở trong và ngoài nước và đều thấy ứng nghiệm. Ngoài ra tôi còn phát hiện người mà có gia đình giàu và trong Tứ trụ tài nhiều, tài vượng thì sinh con gái hoặc con cái ít, người gia đình nghèo và Tứ trụ tài ít thì phần nhiều sinh con trai hoặc con cái nhiều.1. CÁC VÍ DỤ CON ÐẦU LÀ TRAI HAY GÁI
Ví dụ này là Tứ trụ của 1 ông hiệu trưởng. Can ngày và can giờ tương sinh cho nhau, nên sinh lần đầu là con gái.
Ðây là Tứ trụ của một bác sĩ. Can ngày can giờ khắc nhau nên lần sinh đầu là con trai.
Bà này sinh năm 1909, vì can ngày can giờ tương sinh cho nhau nên sinh lần đầu là con gái.
Ðây là Tứ trụ của ông người Singapo. Can ngày, can giờ là ngang vai nên lần sinh đầu là con gái.
Ðây là Tứ trụ của người Thái Lan. Vì can ngày, can giờ tương sinh cho nhau nên lần đầu là con gái.
2. ÐOÁN VỀ SỰ HƯNG VƯỢNG CON CÁI
Ðối với nam Tứ trụ có thất sát là sinh con trai, có quan tinh là sinh con gái. Nay quý thủy, nhâm thủy dẫn đến cung con cái ở trên trụ giờ, lại lâm nguyệt kiến ở đất đế vượng nên không những nhiều con (3 nam, 3 nữ) mà thân thể còn khỏe mạnh, làm ăn nên nổi, có con vào đại học, có con nhận những chức vụ quan trọng, đều rất tháo vát.
Ất dậu là cung con cái lâm nguyệt kiến vượng địa nên con thông minh tuấn tú. Ông này có 1 con trai, 1 gái đều tốt nghiệp đại học, con cái còn đi Mỹ tu nghiệp.
Cung con cái tập trung ở lệnh tháng, tuất thổ lại vượng địa cho nên sinh được 1 nam, 1 nữ, 1 đứa tốt nghiệp nghiên cứu sinh, 1 đứa tốt nghiệp đại học.
Ðây là Tứ trụ của một vị Ðại biểu quốc hội, tử tinh bính hoả thất sát lại gặp tháng mùi có khí, tý thuỷ thương quan nên sinh con gái, chết vào mùa hạ. Cho nên chỉ có 3 con trai không có con gái. Hai con đang học đại học ở Nhật bản.
"Dự đóan theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa
Nhìn bàn tay đoán tính cách
Bàn tay nhọn:
Bàn tay có hình dáng xinh xắn, mảnh mai, các ngón tay thon dài như búp măng là người đa cảm đa sầu nhưng lại rất khoan dung, nhân từ. Người có bàn tay nhọn yêu thơ văn, hội họa và sự thẩm mỹ. Đây cũng là người rất đa tình, khi đã yêu thì sẽ yêu hết mình, không tính toán, vụ lợi trong tình yêu.
Người có kiểu tay này thì trực giác rất nhạy bén. Linh cảm có thể mách bảo cho họ nhiều điều và mang đến cho cuộc sống của họ không ít sự bất ngờ thú vị. Họ có ngoại hình ưa nhìn và là người luôn vươn tới cái đẹp và sự hoàn mỹ trong cuộc sống.
Bàn tay hình nón:
Chủ nhân của bàn tay tròn trịa và mềm mại này có đôi mắt rất tinh tường cùng khả năng quan sát tinh tế và nhạy bén. Mang trong mình tố chất nghệ sĩ, họ khát khao tìm kiếm cái đẹp của cuộc sống và cả trong tâm hồn con người. Đây cũng là những con người duy cảm.
Bàn tay hình vuông:
Là bàn tay có hình dáng thô kệch, da dày, xù xì, to và ngắn. Đây là bàn tay của người lao động, thuộc dạng người kém thông minh, ít suy nghĩ, biết hôm nay và không lo ngày mai. Những người có bàn tay này thường thật thà, chất phác, nhân hậu và thủy chung trong tình yêu.
Họ khá chăm chỉ, yêu lao động, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Tư duy logic giúp họ giải quyết công việc một cách dễ dàng.
Bàn tay có hình thìa (hình lá):
Đặc điểm nổi bật là lòng bàn tay mở rộng ra từ gốc tay. Chủ nhân là người cầu toàn, thông minh và giàu tính kiên trì. Họ có thể đạt được nhiều thành công trong cuộc sống. Họ tận dụng mọi khoảng thời gian có được để làm việc và ít khi để nó trôi qua một cách vô ích.
Bàn tay hình chiếc quạt:
Những người sở hữu bàn tay có hình dáng như chiếc quạt xòe với những ngón tay cũng xòe ra là người trực tính, nóng nảy và liều lĩnh. Họ thường hay quan tâm đến bạn bè, người thân, thẳng thắn và thành thật. Tính tình không đa nghi, không hay can thiệp vào chuyện của người khác.
Nhìn hình dáng bàn tay cho biết cách nàng làm "chuyện ấy"
Độ dài các đốt của ngón cái
Yếu tố đầu tiên cần quan sát là ngón cái. Cụ thể hơn là quan sát đốt trên và dưới của ngón cái. Đốt trên tượng trưng cho "ham muốn" và đốt dưới tượng trưng cho "lý trí".
Nếu đốt trên dài hơn đốt dưới, đây là kiểu phụ nữ có ham muốn rất mạnh mẽ. Cô nàng này thích kiểm soát và quyết định mọi chuyện.
Tính cách này thoạt đầu có thể khiến "chuyện ấy" hấp dẫn hơn, tuy nhiên, về lâu dài sẽ khiến bạn cảm thấy khó chịu. Suy cho cùng, bạn phải ép bản thân mình chiều lòng nàng dù không muốn.
Trong khi đó, nếu đốt dưới dài hơn, trước mặt bạn là một người phụ nữ luôn hành động theo lý trí. Nhược điểm của cô nàng này là thiếu sự liều lĩnh. Điều mà bạn thấy hài hước và thú vị có thể sẽ bị nàng cho là phi lý hoặc ngớ ngẩn.
Đầu ngón tay
Sau khi đã khám phá "ham muốn" và "lý trí" của nàng, mục tiêu tiếp theo chính là hình dạng của đầu ngón tay. Có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng nhìn chung, cách phân loại đơn giản nhất là đầu ngón tay nhọn và vuông.
Đầu ngón tay nhọn cho biết bạn đang gặp gỡ một cô nàng mơ mộng, luôn nhìn thế giới bằng màu hồng. Nàng biết thưởng thức cái đẹp và luôn giữ thái độ lạc quan với mọi chuyện. Kiểu phụ nữ này thường không có dự tính lâu dài cho tương lai và muốn tìm kiếm một người đàn ông có cùng tư tưởng sống với mình.
Ngược lại, đầu ngón tay vuông là một dấu hiệu rõ nét cho thấy nàng thuộc mẫu phụ nữ thực tế. Đừng cố chơi trò "mèo vờn chuột" với họ. Ngoài ra, những chiêu trò lãng mạn với nàng cũng chỉ là một sự nhạt nhẽo và lố bịch.
Đường chỉ tay
Đường trái tim (đường nằm ngang cao nhất trong lòng bàn tay) tiết lộ chiều sâu cảm xúc và ham muốn tình dục của một người. Phụ nữ với đường trái tim dài và đậm có xu hướng trải nghiệm những cung bậc cảm xúc cao nhất của "yêu" và "hận", trong khi người có đường trái tim ngắn hoặc gãy lại biết cách kiểm soát cảm xúc của mình và kiềm chế tình cảm rất tốt.
Người với đường trái tim ngắn và thẳng có ham muốn tình dục cao và đặc biệt hứng thú với "tình một đêm", thay vì gắn bó với một mối quan hệ lâu dài.
Cảm giác khi chạm vào bàn tay
Yếu tố cuối cùng cần để tâm chính là cảm giác khi chạm vào bàn tay của nàng. Có hai loại cảm giác chính là mềm mại và thô ráp.
Bàn tay mềm mại cho biết trước mặt bạn là một tín đồ của nghệ thuật. Nói đến đây chắc hẳn trong đầu bạn đang nghĩ có thể lấy lòng nàng bằng một bữa tối lãng mạn và một bộ phim tình cảm đằm thắm.
Tuy nhiên, sự thật là cô nàng sẽ ấn tượng hơn với một chuyến đi tham quan quanh viện bảo tàng, nhất là những viện bảo tàng đẹp. Để chiều lòng mẫu phụ nữ này, đàn ông phải có tính sáng tạo cao.
Nếu bàn tay bạn đang chạm vào cho cảm giác thô ráp, bạn cần phải tiếp cận nàng một cách thận trọng. Đây là kiểu phụ nữ có cá tính hết sức mạnh mẽ. Khi yêu, họ sẽ yêu hết mình, yêu điên cuồng nhưng đến lúc tức giận cũng sẽ hết sức khủng khiếp.
Ngoài ra, bạn sẽ thấy cô nàng thiếu sự khéo léo, tinh tế trong cách cư xử, thậm chí khiến bạn suốt ngày phải lạy trời mong cô ấy đừng thẳng tính quá như vậy. Nhìn chung, sự thẳng thắn, trung thực của cô nàng sẽ khiến bạn choáng ngợp.
Ngọc Anh (tổng hợp)
Văn Khấn Lễ Ban Công đồng thường dùng theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.
Các vị thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.
Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.
Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…
Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.
– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.
– Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.
– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.
– Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.
– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
– Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.
Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.
Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.
Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương
– Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế
– Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu
– Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh
– Con lạy Tứ phủ Khâm sai
– Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô
– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu
– Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
– Con lạy quan Chầu gia.
Hương tử con là:……………………
Cùng đồng gia quyển đẳng, nam nữ tử tôn
Ngụ tại:……………………………….
Hôm nay là ngày….. tháng….. năm Tín chủ con về đây……… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
![]() |
Máy tính là thiết bị sinh tài tốt nhất |
Chùa Hưng Long hay còn gọi là chùa Long Hưng, chùa Hưng Hóa, chùa Nhót, chùa Phù Liệt, chùa Đông Phù… tất cả các tên gọi đó đều là ngôi chùa cổ Hưng Long. Chùa tọa lạc tại xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội ngày nay.
Chùa Hưng Long được khởi dựng năm 1011, năm Thuận Thiên thứ 2 (Tân Hợi) do chính vua Lý Thái Tổ ban chiếu và cấp tiền để xây dựng. Đời vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) đã có hai vị công chúa là Lý Từ Thục và Lý Từ Huy cùng hai vị thị giả Quỳnh Hoa, Quế Hoa đã về chùa Hưng Long xuất gia đầu Phật và thu thần thị tịch tại Lăng Liên Hoa (cách chùa Hưng Long 1km) vào ngày 15/3 năm Ất Hợi, niên hiệu Hội Phong thứ 4, năm 1095 đời vua Lý Nhân tông với đạo hiệu Đại Thánh Bồ Tát Lý Từ Thục và Đại Thánh Bồ Tát Lý Từ Huy từ đây trở thành Thánh Tổ của chùa (nhân dân địa phương thường gọi là Nhị vị Bồ Tát).
Hàng năm vào ngày 14,15 và 16 tháng 3 âm lịch, nhân dân các làng Đông phù, Đông Trạch, Mỹ Ả, Chanh Khúc, Văn Uyên, Tương Trúc, Tự Khoát, Mỹ Liệt và Ninh Xá tổ chức mở hội tri ân công đức, công lao của hai vị công chúa nhà Lý đã cấp đất cho người dân sản xuất, dạy dân làm nghệ phụ lúc nông nhàn.
Chùa Hưng Long được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa năm 1990 và được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội công nhận là di tích cách mạng năm 2004.
Trải qua 1000 năm tồn tại và phát triển, chùa Hưng Long luôn nhận được sự phát tâm công đức của nhiều Phật tử. Tháng 9 năm 2008, nhà chùa phối hợp với UBND xã cùng các phòng ban chức năng của huyện Thanh Trì và thành phố Hà Nội tổ chức quy hoạch tổng thể các hạng mục công trình tại chùa Hưng Long. Ngày 08 tháng Giêng năm Kỷ Sửu (2009) nhà chùa đã chính thức tổ chức khởi công trùng tu, tôn tạo toàn thể các công trình, đến tháng 11 năm 2009 đã cơ bản hoàn tất các hạng mục công trình, đưa vào sử dụng để nhân dân đón tết Canh Dần.
Kiến trúc của chùa mang đậm nét truyền thống của ngôi cổ tự miền Bắc theo kiến trúc nội công ngoại quốc, tiền Phật hậu Thánh.
Tòa Tam Bảo hay còn gọi là Đại Hùng Bảo điện hoặc gọi là chính điện là nơi tôn trí thờ Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng. Chính điện gồm có 07 gian nhà tiền đường và hậu cung. Tiền đường thờ hai tượng Hộ Pháp, tượng Tuyết Sơn và Quán Thế Âm Bồ Tát tọa sơn. Nối tiếp tiền đường là hậu cung: Trên cùng là Phật Tam Thế (biểu trưng cho quá khứ, hiện tại và tương lai). Tiếp theo là Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Kế tiếp là Phật thích ca Mâu Ni, Thánh Tăng A Nan và Thánh Tăng Ca Diếp. Tượng Bồ Tát Chuẩn Đề 24, tay được đặt chính giữa ở bên tiếp theo và sau cùng là tòa tượng Cửu Long.
Tả hữu hậu cung là thờ Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Bồ Tát Tống Tử, Bồ Tát Nam Hải, Thánh Tăng, Thổ địa và Thập điện.
Điểm đặc biệt ở chùa Hưng Long là ban thờ tượng Đức Ông và Đức Thánh Hiền được bố trí ở gian cuối của hai giải vũ, như hai dãy hành lang kéo dài bao bọc xung quanh hậu cung chính điện và nhà thờ Nhị vị Bồ Tát Đại Thánh. Kế tiếp đó là 5 gian (chữ nhị) thờ Thánh Mẫu tạo thành kiến trúc “nội công ngoại quốc” “tiền Phật hậu Thánh”, đây là một nét kiến trúc đặc biệt của ngôi cổ tự Hưng Long.
Nhà Chương (là Điện thờ Nhị vị Bồ Tát và thị giả Quỳnh Hoa, Quế Hoa ) được bố trí trang trọng sau tòa hậu cung Tam Bảo. Với 03 gian tiền đường và 03 gian hậu cung. Theo các sắc phong của các triều đại trước đây thì Nhị vị Công chúa được tôn vinh là Đại Thánh Bồ Tát, nhị vị Thị giả được tôn vinh là Thượng đẳng Thần.
Nhà thờ Thánh Mẫu được bố trí kế tiếp sau nhà thờ Nhị vị Đại Thánh Bồ Tát, gồm có 05 gian tiền đường và 05 gian hậu cung (kiến trúc chữ nhị). Các ban thờ trong nhà Mẫu gồm có: Thánh Mẫu; Sơn Trang Tiên Chúa; Ngọc Hoàng – Nam Tào – Bắc Đẩu; Đức Thánh Trần; Tôn Ông; Quan Lớn; Tượng Cô; Tượng Cậu và Hạ ban Ngũ Hổ.
Tổ đường gồm có 7 gian (kiến trúc chữ nhị), ban thờ chính giữa là thờ tượng Phật, Bồ Tát và Thánh Tăng. Ban thờ bên là thờ Tổ Tăng, Tổ Ni và thờ Tứ Ân. Nhà thờ tổ cùng với dãy nhà Tăng, phòng khách và giải vũ bên trái chùa đã tạo thành một quần thể khép kín khu vực nội tụ, thuận lợi cho việc tổ chức sinh hoạt Phật sự của tăng ni, Phật tử.
Hoành phi câu đối cửa võng Chùa Hưng Long được làm bằng gỗ, nên mỗi cột, mỗi gian nơi thờ chính đều có câu đối, cửa võng, hoành phi.
Nhà tăng – phòng khách Nhà Tăng và phòng khách là một dãy nhà gồm 12 gian, gồm có 06 phòng nghỉ và 06 phòng tiếp khách chạy dài 50 m, được bố trí bên trái chùa, phối hợp với hệ thống tường bao tạo thành khu vực nội tự khép kín bên trong.
Tượng đá ở ngoài sân giữa ao vuông bên trái chùa là tượng Phật A Di đà ở tư thế đứng làm bằng đá xanh trắng, cao hơn bệ đá 5m. Giữa ao tròn bên phải chùa là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát làm bằng đá trắng đục, cao hơn 4m.
Cổng chùa có 03 cổng ra vào, đây cũng là sự khác biệt so với chùa trong khu vực. Cổng Tam Quan được bố trí ở phía trước chùa, kết cấu xây bằng gạch nung Bát Tràng có niên đại hơn 300 năm.
Sân chùa có không gian sân rộng nên hàng năm có hàng vạn Phật tử về dự hội vào tháng 3 âm lịch. Sân trước và sân sau chùa, lối đi cổng tam quan có diện tích hơn 2.000 m2, được lát toàn bộ bằng đá tự nhiên.
Nhà chuông, nhà trống và vườn tháp nằm phía trước sân chùa với kiến trúc cổ kính mái đao cong 8 mái, kiến trúc thường gặp ở những nơi cổ tự khu vực phía Bắc. Nối tiếp là 5 Bảo tháp làm bằng gạch nung Bát Tràng, kiến trúc hài hòa như những ngôi bảo tháp xưa.
Trải qua quá trình hình thành và biến thiên của lịch sử, những cổ vật thời Lý hầu hết không còn nguyên vẹn. Trong quá trình trùng tu các hạng mục công trình của chùa, đã phát lộ những nền móng cũ của chùa với đặc trưng của nhiều niên đại. Trong đó có những viên gạch vồ (loại gạch rộng và dày) được chạm khắc tinh xảo các hình rồng, voi, ngựa, hoa sen, lá dừa mang dấu ấn thời nhà Lý và nhà Trần, cũng như một số câu đối ca ngợi chùa Hưng Long và đức hạnh tu tập của Nhị vị Công chúa nhà Lý.
Chùa Hưng Long hiện còn lưu giữ được một số cây có tuổi thọ trên 700 năm như cây hoa đại, cây nhãn, cây mít.
Ngày 16/4/2011 vừa qua chùa Hưng Long đã tổ chức lễ kỷ niệm tròn 1000 năm xây dựng, phát triển chùa và lễ hội truyền thống tri ân công đức nhị vị Bồ Tát.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Khi có bản linh khu đồ (lá số tử vi) với đầy đủ chi tiết: năm tháng - ngày - giờ sinh âm lịch chính xác, cần lưu ý tuần tự theo các bước sau:
Quan sát 3 cung "mệnh - quan - tài" đóng ở thế tam hợp nào? Tam hợp thủy, tam hợp hòa, tam hợp kim hay tam hợp mộc? Rồi theo luật ngũ hành mà luận thế tương sinh, tương khắc! Rõ ràng, sự ưu đãi chỉ dành cho tam hợp thủy là tốt nhất (vì chỉ có Thổ mới khắc chế Thủy, mà cấu trúc bản linh khu đồ lại không có tam hợp nào thuộc hành Thổ). Cho nên, tam giác "mệnh - quan - tài" đóng ở các cung "Thân - Tý - Thìn" là mẫu cá nhân luôn được sự ưu đãi, may mắn trong cuộc sống, khi gặp khó khăn luôn được giúp đỡ bất ngờ. Còn tam hợp hành Kim và hành Hỏa thì phải tự thân vận động. Đặc biệt, tam hợp mộc "Hợi - Mão - Mùi" có thế mạnh là lấy nhu thắng cương, tức là biết mềm mỏng, hòa nhã với mọi người (kể cả với đối thủ khắc chế mình) thì vẫn thu hút được người đó làm theo ý mình, bất kể tam giác, "Mệnh - Quan - Tài" đóng ở tam hợp: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn hay Thiếu âm.
Cần xem tam giác "Mệnh - Quan - Tài" đóng ở vòng nào? vòng Thái tuế, vòng Thiếu dương, vòng Tang môn hay vòng Thiếu âm? Để nhận định bước đầu nhân cách của người đó, cụ Thiên Lương năm xưa đã thường đề cập trong các sách do cụ biên soạn (khi nghiệm lý về linh khu thời mệnh học).
Cần xem các bộ dữ kiện chính tinh "VIP" như: "Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương hay bộ Cự Nhật" đóng ở tam giác Mệnh - Quan - Tài ra sao? Để nhận định khả năng ứng biến, cũng như công việc mà họ đảm nhận có phù hợp với sở trường, sở đoản của họ hay không?
Cần lưu ý chữ "THỜI" trong đại vận 10 năm đang ở vận hội nào? Có "đắc thiên thời" là vòng Thái tuế? Hay đang vào thời vận của thủ đoạn, lấn lướt ở vòng Thiếu dương? Hay đang ở trong thời vận vòng Tuế phá không mấy hài lòng và gặp nhiều bất mãn? Hay đang ở thời vận "lẫy nhu thắng cương" của vòng Thiếu âm, cam chịu nhiều thiệt thòi? Khi xem tiểu hạn 1 năm cũng theo cách thế này để tiên lượng có thuận lợi hay không?
Nhận định thêm các dữ kiện "trung tinh" và "sát tinh" nằm ở cung tương ứng: vì các dữ kiện trung tinh và sát tinh luôn nằm ở thế giằng co, đan xen nhau tại 1 cung, hoặc sát tinh đối đầu (xung chiếu) với chính tinh an cư vượng địa, đắc địa (bởi không bao giờ có cung nào thật sự hoàn hảo, tức là cung chỉ toàn dữ kiện đắc địa + trung tinh, mà lại không có sát tinh nào dòm ngó cả).
Đặc biệt chú ý
Các cung nào có các dữ kiện mang chữ "THIÊN" như: Thiên khôi, Thiên việt, Thiên quan, Thiên tài, v.v... điều này hàm ý cung đó có nỗi buồn, mất mát, và đang được "Ông Thiên" cảnh báo hoặc an ủi mà thôi.
Khá mừng cho ai mà tam giác "Mệnh - Quan - Tài" chỉ thấy dữ kiện sát tinh độc thủ, điều này hàm ý cần có sự giáo huấn khắc nghiệt từ lúc thiếu thời của đương số, mục đích để cho "Tâm - Đức" luôn thức tỉnh, kể cả lúc tuổi về chiều.
Khi luận giải linh khu đồ, cần chú ý xem tam giác "Mệnh - Quan - Tài" (hay đại hạn 10 năm) và tiểu hạn 1 năm phải tính theo hệ Âm - Dương, ngũ hành so với bản mệnh.
Ví dụ: dương nam hay âm nam (tương tự cho âm nữ và dương nữ), thì xem "Mệnh - Quan - Tài" hay đại hạn 10 năm, tiểu hạn 1 năm, an cư tại cung dương hay âm có đúng cách hay không? Vì nghịch thế âm - dương thì chỉ bộc phát nhất thời mà thôi.
Trong các thế tam hợp của linh khu đồ, thì thế dương là thế động, còn thế âm là thế tĩnh.
Mỗi bản linh khu đồ đều có 12 cung và được chia ra làm 4 tam hợp cục là "kim - mộc - thủy - hỏa" với đặc tính chỉ có tương sinh và tương khắc (về mặt tâm lý học, thì chỉ có "THƯƠNG và GHÉT"). Do vậy, mà bản linh khu đồ nên được hiểu như lãnh vực "nhân học và giáo dục học", giúp con người hướng thiện và biết chấp nhận cuộc sống (luôn có niềm vui và nỗi buồn xảy ra); còn như niềm vui hoặc nỗi buồn xảy ra nặng hay nhẹ là do "Tâm - Đức" của quá trình mọi người đã ứng xử trong cuộc sống của mình vậy.
(Linh khu thời mệnh lý - Lê Hưng VKD)
![]() |
► Xem thêm: Tính cách 12 chòm sao và trắc nghiệm vui những điều liên quan đến bạn |
Các cô gái là chúa hay mơ, thích thả “thính” nhiều chàng, chàng nào quan tâm cũng không từ chối, một lúc cùng quan tâm tới mấy chàng cũng không thấy có lỗi. Nhưng thực ra, với những chòm sao nữ đào hoa dưới đây, họ cũng có lý do rất chính đáng để phải làm như vậy đấy. Cùng lắng nghe tâm sự để thấu hiểu nỗi lòng các nàng ấy nhé.
![]() |
![]() |
ồng cung với Thiên đồng chủ về sống thọ. Trong tử vi sao Vũ khúc đồng thời cũng là sao Quả Tú chủ về cô quả neo đơn, nếu nhập cung lục thân, dễ vô duyên với thân thích, trở nên cô độc lẻ loi.
Vũ khúc là Tài tinh, kỵ nhất lạc Không vong hoặc đồng cung với Địa kiếp, Địa không, chủ về bần cùng, phá tài.
Vũ khúc kỵ hóa kỵ, chủ về tiền bạc lưu chuyển không thông, dẫn đến sự nghiệp thất bại.
Vũ khúc ưa đồng cung với Tham lang, Hỏa tinh, Linh tinh, nhất định phát tài.
Vũ khúc, Dương nhẫn đồng cung chủ về vì tiền tài mà phải động đến dao kiếm.
Trong tử vi Vũ khúc không ưa Hỏa tinh, Linh tinh, nhưng Vũ khúc, Tham lang đồng cung thì ưa có Hỏa tinh, Linh tinh đồng cung, nếu tọa cung Điền trạch, cung Tài bạch sẽ phát tài nhanh chóng.
– Người có sao Vũ khúc đóng tại cung Sửu có Tham lang Hỏa(linh) đồng cung là mệnh nhanh phát tài
– Người có sao Vũ khúc đóng tại cung Quan lộc tại Tỵ- Hợi đồng cung với Phá Quân là mệnh thất bại phá sản và nợ nần
– Người có sao Vũ khúc đóng tại cung Mùi có Tham lang đồng cung dễ dính đến pháp luật tù tội
Người tuổi Dậu khá keo kiệt trong vấn đề tiền bạc. Bất luận thời điểm nào, họ đều tính toán khá chi li.
Tuổi Tý: Quá tính toán
Người tuổi Tý khiến nhiều người ác cảm bởi sự tính toán hơn thua của họ. Những thứ nhỏ nhoi cho đến lớn lao đều được họ đặt lên bàn cân so sánh rất rạch ròi.
Tuổi Sửu: Cố chấp
Người tuổi Sửu khiến nhiều người khó chịu bởi sự cứng đầu, bướng bỉnh. Nếu họ đã quyết định thì tuyệt nhiên không vì bất cứ ai hay bất kỳ điều gì mà thay đổi.
Tuổi Dần: Ngạo mạn
Người tuổi Dần khiến nhiều người bực bội bởi sự ngạo mạn. Với thái độ không xem ai ra gì nên họ đắc tội với rất nhiều người.
Tuổi Mão: Quá ngoan ngoãn
Người tuổi Mão ngoan ngoãn đến nỗi khiến nhiều người cảm thấy họ đang giả tạo. Họ nghịch ngầm và được che đậy bởi sự khôn ngoan, khéo léo nên chẳng ai nỡ mắng mỏ hay kiểm soát họ.
Tuổi Thìn: Kiêu ngạo
Người tuổi Thìn kiêu căng đến hợm hĩnh, họ luôn tỏ ra mình đặc biệt, không lẫn tạp chất hay thói xấu của người đời. Sự tự tin thái quá của họ đôi khi khiến những người xung quanh cảm thấy vô cùng khó chịu.
Tuổi Tỵ: Nham hiểm
Người tuổi rắn trông rất thông minh và mưu trí. Tuy nhiên, quen biết càng lâu mọi người càng nhận ra họ là một người vô cùng mưu mô và xảo quyệt. Nụ cười của họ luôn ẩn giấu sát khí bên trong.
Tuổi Ngọ: Nóng nảy
Người tuổi Ngọ rất chăm chỉ và cần cù, mọi điểm đều không thể chê ngoại trừ bản tính của họ quá nóng nảy và hấp tấp.
Tuổi Mùi: Nhu nhược
Người tuổi Mùi luôn có thái độ phục tùng theo kiểu “bảo sao nghe vậy”, cuộc sống của họ ngoại trừ nhẫn nhịn ra thì chính là luôn nhượng bộ người khác.
Tuổi Thân: Gian xảo
Người tuổi Thân luôn biết cách làm người khác vui vẻ, duy chỉ có điểm khiến mọi người khó chịu là họ khá gian xảo, không chân thành và thiếu sự thực tế.
Tuổi Dậu: Keo kiệt
Người tuổi Dậu keo kiệt trong vấn đề tiền bạc, bất luận thời điểm nào, họ đều tính toán khá chi li, ngay cả trên bàn ăn. Họ hiếm khi là người chủ động thanh toán tiền.
Tuổi Tuất: Trầm lặng
Người tuổi Tuất khá trầm lặng và u buồn, dù có chuyện gì xảy ra họ vẫn cố giữ khư khư trong lòng, đối lập với tâm trạng là vẻ mặt lúc nào cũng phấn chấn khiến người ta nao lòng.
Tuổi Hợi: Lười biếng
Người tuổi Hợi không có điểm nào để chê trách ngoại trừ sự lười biếng của họ, cái gì cũng không thích làm, cộng thêm thói quen lười vận động nên chẳng mấy chốc đa số họ đều mắc căn bệnh béo phì.
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
|
|
Sao Thiên Khốc cũng là một phụ tinh trong tử vi, bắt cặp với sao Thiên Hư mà chúng ta đã tìm hiểu ở bài trước thành bộ đôi Khốc Hư. Cũng là một giọt nước mắt rơi khi đứa trẻ vừa chào đời. Trong đó Thiên Khốc mang dương kim, thường thiên về hình khắc, những nỗi buồn đau. Đây cũng là sao ưa vật chất những lại thường hay thiếu thốn về vật chất. Vậy Thiên Khốc có vị trí, tính tình và được đặt ở đâu thì mang lại điều tốt đẹp. Hôm nay chúng ta sẽ cùng đi bình giải về sao Thiên Khốc.
Hành: Thủy
Loại: Bại Tinh
Đặc Tính: Thương đau, khóc buồn, ưu phiền
Tên gọi tắt thường gặp: Khốc
Phụ Tinh. Một trong sao bộ đôi Thiên Khốc và Thiên Hư. Gọi tắt là Khốc Hư. Một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).
Đắc địa: Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Sửu, Mùi.
Hãm địa: Dần, Thìn, Tỵ, Thân, Tuất, Hợi.
Thiên Khốc là sao ưu tư, âu sầu, cho nên thủ Mệnh thì da xanh, mắt có quầng đen, diện mạo buồn tẻ, mặt thiếu khí sắc, mắt kém thần, hay trông xuống, không trông xa.
Là bại tinh và là sao âu sầu, Thiên Khốc có nghĩa:
U buồn, ủy mị hay phiền muộn, đa sầu.
Bi quan, yếm thế.
Hay đãng trí, nghĩ đây quên đó.
Hay hốt hoảng hoang mang.
Ăn nói sai ngoa.
Thiên Khốc tượng trưng cho nước mắt, lo buồn, xui xẻo. Chỉ riêng ở hai vị trí Tý và Ngọ thì có nghĩa tốt:
Có chí lớn.
Có văn tài lỗi lạc, nhất là tài hùng biện, nói năng đanh thép, hùng hồn.
Có khiếu hoạt động chính trị.
Ý nghĩa này càng rõ rệt hơn nếu đi kèm với cát tinh.
Thiên Khốc ở cung hãm địa thì chủ sự khốn khổ, đau buồn trong tâm hồn, sự xui xẻo dưới nhiều hình thức và sự yểu.
Thiên Khốc ở tại Thìn, Tuất thì hay mắc nạn và vắn số.
Đi cùng với Kiếp, Phù, Khách, Cự, Nhật thì suốt đời bi ai, lúc nào cũng đau buồn, than khóc, tiếc thương vì bệnh tật, vì tang tóc.
Thiên Khốc, Thiên Hình, Thiên Mã: Rất hiển đạt về võ nghiệp, nếu đồng cung ở Dần thì càng uy danh.
Thiên Khốc, Thiên Hư, Thất Sát hay Phá Quân đắc địa đồng cung: Có quyền cao chức trọng, uy danh lừng lẫy, được thiên hạ nể phục vì uy và tài.
Thiên Khốc, Hóa Quyền: có tiếng tăm.
Thiên Khốc, Kình Dương, Tuế, Điếu Khách: Tang tóc liên miên, từ lúc lọt lòng mẹ.
Thiên Khốc, Địa Kiếp, Thiên Phù, Điếu Khách, Cự Môn, Nhật: Suốt đời đau khổ.
Thiên Khốc, Điếu Khách, Thiên Mã (Mã Khốc Khách): Gọi là Tuấn mã tức là ngựa hay gặp người cưỡi giỏi, ám chỉ sự thao lược, chinh chiến dũng mãnh, lập công lớn hay gặp thời vận may mắn.
Cha mẹ vất vả.
Cha mẹ hay có sự hoang mang, hay lo buồn.
Giảm thọ.
Đời hay gặp sự trắc trở.
Họ hàng thường phải nhờ vả mình.
Tạo dựng nhà cửa khó khăn buổi ban đầu.
Hay có mối mọt, hoặc đồ đạc tầm thường.
Công danh hay có sự trắc trở ở buổi ban đầu, sau có tiếng tăm.
Bè bạn thưa thớt.
Người giúp việc nay ở mai đi, không làm việc lâu bền, hay oán trách mình.
Ra ngoài làm ăn trước khó sau dễ.
Giao thiệp hay gặp chuyện phiền lòng, xích mích, cãi cọ lôi thôi.
Dễ bị bệnh lao tổn, đau mũi họng, hoặc da không được tốt, hay hốt hoảng, hoang mang, thần kinh không ổn định.
Khó kiếm tiền, hay lo âu vì tiền bạc, hao tài.
Nếu ở Tý Ngọ thì trước nghèo sau giàu.
Sinh con khó nuôi, sinh nhiều nuôi ít.
Chậm duyên nợ.
Xa nhau rồi mới lấy nhau được.
Nhân duyên trắc trở buổi đầu.
Vợ chồng hay bất hòa.
Vợ chồng xung khắc nếu có thêm Kình hay Đà.
Anh chị em xa cách, ít có sự chung đụng.
Chỉ đắc lợi nếu đắc địa, nhưng chỉ thịnh trong 5 năm sau (nếu là đại hạn) hay nửa năm sau (nếu là tiểu hạn) mà thôi.
Gặp Tang Môn: Có tang chế, hoặc gặp phải chuyện buồn thấm thía hoặc vì tang khó hoặc vì tình phụ.
Những việc mà Thiên Khốc làm thường không có kết quả ngay từ đầu mà thường trải qua thời gian để thể hiện mình và đạt được thành công. Nên trong tử vi gọi Thiên Khốc là sao "Tiền Trở Hậu Thành". Những thành công của Thiên Khốc thường đạt được khó khăn nhưng lại bền vững. Đây cũng là ngôi sao có ý chí, biết vươn lên trong mọi tình huống mang đến cuộc sống tốt đẹp vào hậu vận, nhưng tiền vận rất gian nam và vất vả.
Mời xem thêm những thông tin hấp dẫn về tử vi - phong thủy:
Xem vận mệnh người Mệnh Kim
Tìm Hiểu về Tỳ Hưu - linh vật vô cùng may mắn
Tìm hiểu về Thanh Long trong phong thủy
Những món ăn lưu truyền trong dân gian, đều có những câu chuyện lý thú tương truyền trong dân chúng. Bánh Trung Thu được coi là biểu tượng của sự phúc lành, đoàn tụ. Mỗi năm vào ngày Rằm tháng Tám, mọi người đoàn tụ với gia đình, ăn bánh, trái cây, uống trà và thưởng ngoạn Trăng Rằm.
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.
Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.
Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.
Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.
Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Thả trâu ăn lúa gọi cha ồi ồi
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên
Ông thời cầm bút cầm nghiên
Bà thời cầm tiền đi chuộc lá đa.
Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.
Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:
- Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!
Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.
Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.
Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.
Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.
Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.
Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.
Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.
Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.
Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....
Tết Trung Thu theo âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ.
Tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755).
Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu xin làm phép đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi đêm rằm Trung Thu .
Về sau tết Trung Thu lan rộng sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa. Sách sử Việt không nói rõ dân ta bắt đầu chơi Tết Trung Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ búa bắt đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.
Ngoài các loại đèn giấy, bánh kẹo còn có các con giống đầu lân, mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới tuổi lấy chồng.
Ở Việt
Bánh Trung Thu người Trung Hoa gọi là Bánh Trăng (Nguyệt), ngày xưa còn gọi là Bánh Hồ (bánh của người Hồ), bánh nhỏ, bánh đoàn (đoàn tụ), bánh đoàn viên . Những loại bánh trên người Tàu ngày xưa dùng để cúng tế, dần dần trở thành bánh dùng để cúng và ăn vào ngày Trung Thu.
Bánh Nguyệt có lịch sử lâu dài ở Trung Quốc, sử sách ghi chép từ thời Ân, Chu ở vùng Triết Giang đã có loại bánh kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng gọi là bánh Thái Sư. Bánh này có thể coi như là thuỷ tổ của bánh Trung Thu. Vào thời Tây Hán, Trương Thiên đi Tây Vực mang về Trung Quốc hạt Mè, hạt Hồ đào (walnut), dưa hấu làm nguyên liệu cho bánh Nguyệt thêm dồi dào. Thời đó hồ đào là nguyên liệu chính của bánh Nguyệt nên còn gọi là bánh hồ đào.
Đến thời Đường trong dân gian có những người hành nghề làm bánh, ở thành phố Trường An có những tiệm bánh trứ danh. Tương truyền có một đêm Trung Thu Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi ăn bánh hồ đào, thuởng ngoạn trăng rằm, Đường Huyền Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt tên là Bánh Nguyệt cho thơ mộng hơn , nên từ đó về sau Bánh Trung Thu có tên là Bánh Nguyệt mà người Tàu dùng cho đến bây giờ.
Đến thời nhà Tống, tập tục ăn bánh Trung Thu rất thịnh hành trong giới quý tộc. Thơ Tống có nhiều bài viết về việc ăn bánh Trung Thu, thưởng ngoạn Trăng vào ngày này. Tuy nhiên, trong dân gian việc ăn bánh Trung Thu mới trở thành phổ cập . Các nhà kinh doanh nghề bánh dùng câu chuyện Hằng Nga trên cung Trăng để làm tăng thị hiếu.
Ngày nay, Bánh Trung Thu là quà tặng cần thiết trong ngày Trung Thu. Mức lượng bánh Trung Thu sản xuất hàng năm vào mùa Trung Thu ở Đông Nam Á, Đông Á và Trung Quốc thật khổng lồ. Nhiều tiệm bánh ở vùng này nhờ lợi tức mùa bánh Trung Thu mà đủ chi tiêu cho cả năm trời.
Bánh trung thu tượng trưng cho sự đoàn viên, là thứ không thể thiếu để cúng trăng và thổ địa công vào mỗi mùa Trung thu. Phong tục ăn bánh trung thu vào Tết Trung thu bắt đầu từ cuối đời nhà Nguyên bên Trung Quốc đến nay.
Tương truyền vào thời đó, người Trung Nguyên không chịu nổi ách thống trị của người Mông Cổ, những người có chí khí đều muốn khởi nghĩa chống nhà Nguyên. Để tập hợp được các lực lượng đấu tranh, nhưng trong điều kiện không thể truyền tin đi, Lưu Bá Ôn đã nghĩ ra một cách truyền tin rộng rãi và bảo đảm, đó là kêu gọi mọi người mua bánh trung thu ăn vào Tết Trung thu để tránh họa. Sau khi mọi người mua bánh về và cắt ra, nhìn thấy bên trong có giấu một mảnh giấy viết “đêm 15 tháng 8 khởi nghĩa”, nhờ vậy người dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, và lật đổ được nhà Nguyên. Cũng từ đó, bánh trung thu đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào mỗi Tết Trung thu.
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
![]() |
Tuổi Dậu nam: người tuổi Dậu có đường nhân duyên tốt, dễ dàng gặp được người bạn đời của mình hơn.
Người tuổi Dậu nam là người thích hành động, trong tình cảm họ cũng rất mãnh liệt. Vì vậy để cuốn hút tuổi Dậu nam bạn nên mặc truyền thống bởi người tuổi này thích hợp và thấy có sức hấp dẫn từ trang phục truyền thống.
Tuổi Dậu nữ:
Nữ giới tuổi Dậu lại không được suôn sẻ trong đường tình duyên. Ngay cả khi đã chung sống với người bạn đời của mình, họ cũng gặp phải nhiều mâu thuẫn.
Nữ tuổi Dậu thường thích chọn gam màu sặc sỡ cho trang phục. Tuy nhiên, hình thức này không tạo được ấn tượng cho người khác. Họ nên thay đổi cách ăn mặc. Phong cách thời trang trẻ trung kết hợp với ngôn từ, cử chỉ hài hòa sẽ giúp nữ giới tuổi Dậu tạo được sức hấp dẫn đối với người khác giới hơn.
Theo phong thủy, một số vật dụng sẽ mang lại may mắn cho người tuổi Dậu như sau: hoa lan, quả lê, ngọc lục bảo.
Thời gian: tổ chức vào ngày 30 tháng 7 tới ngày 2 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn công chúa Túc Trinh - người con thứ 4 của vua Trần Thánh Tông (là người có công khai hoang phục hóa, tạo dựng nên xóm làng).
Nội dung: Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày và có sự tham gia của nhân dân hai làng An Hội và Cổ Nhuế.
Ngày 30/7:
Sáng quân kiệu nam bao sái kiệu và chuyển giá văn ở đình về đền, sau đó đội tế lễ mang lễ lên mộ chúa để làm lễ tế cáo Chúa tại đền. Chiều ban tế và đội dâng hương An Hội cúng tế chúa, đến đêm các cụ trong đội tế làm lễ mở cửa đền.
Ngày 01/08:
Rạng sáng được bắt đầu với lễ mộc dục và cúng thức. Lễ mộc dục được một bô lão trong làng đảm nhiệm trong trang phục lễ hội truyền thống, đầu đội khăn xếp, quần trùng, áo dài, chân đi hài vân sảo, tất cả đều màu đỏ. Nước làm lễ mộc dục phải là nước mưa tinh khiết nấu với ngũ vị hương. Trước khi làm lễ, vị bô lão rửa tay gọi là quán tẩy, vẩy nước hoa vào người, xoa lên mặt, đầu và hai tay, gọi là tẩy uế. Sau khi làm lễ mộc dục cho Chúa Bà, các đồ mã cũ đem đốt, dâng đồ mới.
Lễ mộc dục xong là đến lễ cúng thức, ông chủ tế đọc chúc văn, nội dung ca ngợi công đức của công chúa Túc Trinh đối với dân làng Cổ Nhuế từ xưa tới nay, cầu xin hồng ân của trời đất, phật, thánh, Chúa Bà ban phúc lành cho quốc thái, dân an.
Khoảng 8h sáng sau khóa lễ cúng phật tại chùa Anh Linh đội tế về đền Chúa làm lễ tế khai quang, yên vị xin Chúa cúng giỗ. Ngày giỗ Chúa gọi là cúng đối kỵ, có dâng lục cúng: hương, hoa, trà, quả, đăng, thực. Lễ cúng thực gồm có: Cơm tẻ nấu bằng gạo lật, muối vừng, trám đen muối, giá luộc, tương, canh đậu xanh; sau nghi lễ cúng thực dâng chè kho, chè lam và kẹo lạc. Cỗ làm trong lễ hội là cỗ chay với những sản vật trong từng nhà sản xuất được đem dâng lễ tại đền như: mít, dừa, lựu, chuối, na, cam, mía, khoai luộc... Sau lễ khai quang là các đoàn của các làng xã lân cận và dân chúng thập phương vào dâng hương lễ Chúa đến tận xế chiều. (Ngày 02/08).
Thân đều tốt, đặc biệt là ở Phúc.
Thiên Đồng: sao này cũng phải miếu, vượng và đắc địa mói có ý nghĩa tốt như Thiên Lương. Thiên Đồng càng thiện khi hội tụ với Thiên Lương ở Dần, Thân: xu hướng bác ái nhờ đó càng thêm mạnh.
Thiên Quan, Thiên Phúc: chủ làm việc thiện, tư tưởng thiện, tinh thần cứu nhân độ thế, niềm tin nơi thiêng liêng, năng khiếu tu hành, triển vọng đắc đạo. Nếu cả hai sao này cùng hội chiếu vào Phúc, Mệnh hay Thân thì hiệu lực càng mạnh thêm.
Ân Quang, Thiên Quý: mang rất nhiều ý nghĩa phúc đức và trường thọ. Về mặt tính tình, người có Quang Quý là kẻ nhân hậu, từ thiện, thành tín với bạn bè, hiếu đễ với cha mẹ, chung thủy với vợ chồng, sùng đạo với thiêng liêng. Về mặt giải họa, Quang Quý biểu tượng cho sự phù hộ của thần linh, sự trợ lực của người đời trong nhiều phương diện. Về mặt siêu hình, Quang Quý hỗ trợ cho sự cảm thông với linh thiêng, tinh thần vọng đạo hết sức mạnh mẽ. Từ đó, năng khiếu đi tu có triển vọng thành đạt nhiều hơn kẻ khác.
Tứ Đức: đều chủ cái hạnh tốt đẹp của người thiện tâm, lấy nhân nghĩa lễ trí tín làm kim chỉ nam xử thế.
Hóa Khoa: cái hạnh của Hóa Khoa cũng tương tự như cái hạnh của Tứ Đức. Sự khác biệt khả dĩ là hạnh của Tứ Đức xuất phát từ tâm, trong khi cái hạnh của Hóa Khoa bắt nguồn từ văn hóa, học vấn mà có.
Những sao này thường đóng ở Mệnh, Thân có thể là ở Phúc cũng mang ý nghĩa tương tự: Tử Vi với sát tinh - Vũ Khúc với sát tinh - Thiên Phủ, Tuần, Triệt với sát tinh. Đây là phá cách gọi chung là "đế ngộ hung đồ" ngụ ý một kẻ thất bại, bất đắc chí ở trường đời.
Cơ, Lương, Kình, Đà, Linh, Hỏa, Tướng
Cơ, Lương, Tuần, Triệt với sát tinh
Xương, Khúc, Tuần, Triệt với sát tinh
bất hạnh nặng nề cho kiếp sống con người, thúc đẩy thế nhân đi tìm nguồn an ủi khác trong cõi đạo.
Tử, Tham với Không, Kiếp: ở Mão Dậu là người yếm thế, bi quan, có khiếu tu hành. Gặp thêm Không, Kiếp là bị nghiệp chướng ở đời.
Mệnh vô chính diệu gặp sát tinh - Sát tinh vây hãm các cung cường: cách của người dễ đi tu.
Hồng Loan, Thiên Không: kẻ thất bại vì tình, thường tìm sự đoạn tuyệt nghiệp tình để đi tu.
Cô Thần, Quả Tú - Đẩu Quân - Vũ Khúc: điển hình cho sự cô độc, nói rộng hơn là sự đơn thân, lẻ bóng trong gia đạo, dù đóng ở Mệnh, Thân, hay ở Phu Thê, Tử. Càng gặp nhiều, tình trạng cô đơn càng chắc chắn, nhất là đối với nữ số.