Xem tướng ăn uống và đoán mệnh |

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Kỵ mỗi người một chăn
Giường ngủ là nơi hai vơ chồng gần gũi nhất, bởi vậy việc chọn mua chăn đệm rất quan trọng. Trong gia đình, khi ngủ hai vợ chồng không nên đắp mỗi người một chăn vì điều này sẽ khiến cho tình cảm vợ chồng trở nên hờ hững, xa cách.
Kỵ để gương đối diện với giường ngủ và cửa ra vào
Rất khó tránh khỏi việc treo gương trong phòng ngủ, tuy nhiên bạn nên chú ý không để gương trong phòng đối diện với giường ngủ hoặc cửa ra vào phòng ngủ, nếu không sẽ khiến cho người chồng – chủ nhân căn nhà cảm thấy bất an. Nếu như không thể thay đổi được vị trí để gương, có thể dùng tấm vải che lên tấm gương, khi nào dùng mới vén lên.
Kỵ người thứ ba bước vào phòng ngủ của hai vợ chồng
Phòng ngủ là nơi dành riêng cho hai vợ chồng, vì thế nên tránh để người thứ ba bước vào bởi nó có thể đem đến khí vẩn đục cho căn phòng. Ngoài ra, nhiều người thường sử dụng phòng ngủ làm nơi thay quần áo, tuy nhiên điều này cũng không ổn vì dễ khiến người chồng ngoại tình ở bên ngoài.
(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
T nhiều chất liệu của tạo hình: gỗ, đá, vôi giấy, đất nung, tranh vẽ, tranh cắt giấy... có ở hầu khắp các công trình: đền, miếu, đình, lăng mộ... Mẫu tranh được biết đến nhất qua nhiều thế hệ là tranh Ngũ hổ của phố Hàng Trống (Hà Nội) ngày xưa.
![]() |
Tranh Ngũ hổ |
Tranh có kích cỡ 0,55m x 0,75m, vẽ 5 con hổ được bố cục cân đối trên mặt giấy. Mỗi con một dáng vẻ: con thì đứng, con thì ngồi, con cưỡi mây lướt gió... Đây là loại tranh khắc gỗ in trên giấy nhưng cách thức của dòng tranh Hàng Trống là chỉ in bản nét rồi dùng bút lông tô màu.
Màu sắc trong tranh Ngũ hổ là một thế giới hòa sắc, lộng lẫy, uy linh. Tuy nhiên, nó vẫn được khu biệt với 5 màu: xanh, đỏ, trắng, vàng, đen trên 5 nhân vật. Lối dùng màu này của các nghệ nhân Hàng Trống thể hiện rõ một hàm ý mang triết lý sâu xa của quan niệm dân gian truyền thống.
Hoàng hổ: Con hổ ngồi giữa tranh được vẽ vờn bằng màu vàng, tượng trưng cho hành Thổ - ứng với trung ương chính điện.
Thanh hổ: Con hổ được vẽ bằng màu xanh là tượng trưng cho hành Mộc, ứng với phương Đông.
Bạch hổ: Con hổ được vẽ bằng màu trắng là hành Kim ứng với phương Tây.
Xích hổ: Con hổ được vẽ bằng màu đỏ là hành Hỏa ứng với phương Nam.
Hắc hổ: Con hổ được vẽ bằng màu đen là hành Thủy ứng với phương Bắc.
(Theo Danangpt)
1. Người cầm tinh con Trâu
Nhìn vẻ ngoài người cầm tinh con Trâu điềm đạm, ít nói vậy thôi. Nhưng thực chất bên trong con người họ là cả một thế giới phức tạp, pha trộn giữa cương và nhu, giữa tình cảm và lý trí. Một khi đã quyết định làm việc gì, người tuổi Sửu bất chấp mọi giá để đạt được thành công.
![]() |
Một số gợi ý vui cho việc đặt tên bé yêu của bạn!
Đa: Có ý chí khắc phục khó khăn, đa tài, thành công, phát đạt. Tính tình hiền hậu nhưng tình cảm vợ chồng không suôn sẻ. Cuối đời phát tài, phát lộc.
Đạc: Có số làm quan, cuộc sống đầy đủ, trung niên bình dị, cuối đời thịnh vượng, gia cảnh tốt.
Đắc: Kết hôn và sinh con muộn sẽ đại cát, trung niên gặp họa, cuối đời bình yên.
![]() |
Tên Đạt là người có kiến thức uyên thâm, công danh, sự nghiệp thành |
Đán: Có quý nhân phù trợ, con cháu ăn nên làm ra, gia cảnh tốt.
Đản: Hoạt bát, đa tài, phú quý, thành công, hưng vượng.
Đảng: Đa tài, đức hạnh, sống bình dị, tính cách có phần bảo thủ, nếu là nữ gặp trắc trở đường tình duyên.
Đằng: Nghĩa lợi phân minh, công danh vẹn toàn, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Đáo: Cuộc sống thanh nhàn, bình dị; kỵ xe cộ, sông nước; trung niên có thể có tai ương, có 2 con sẽ cát tường.
Đào: Đa tài, thành nhàn, phú quý, trung niên cát tường, gia cảnh tốt, cuối đời đau ốm, bệnh tật.
Đạo: Kết hôn và có con muộn sẽ gặp may mắn, trung niên bình dị, cuối đời thịnh vượng, gia cảnh tốt.
Đảo: Tài giỏi, có số làm quan, trung niên vất vả, cuối đời hưng thịnh.
Đạt:
Đậu: Đa tài, một tay gây dựng cơ đồ, nếu có 2 con thì cát tường, cuối đời phát tài phát lộc.
Đẩu: Lý trí song toàn, có thể thoát ly, trung niên vất vả nhưng cuối đời cát tường.
Đầu: Xuất ngoại được quý nhân phù trợ nhưng có thể gặp họa, cuối đời cát tường.
Đê: Thân thiện, hay giúp đỡ người khác, trung niên gặp họa, cuối đời hưởng vinh hoa phú quý.
Đế: Anh dũng, đa tài, phúc lộc song toàn, trai anh hùng, gái giai nhân, phú quý hưng vượng.
Đệ: Cương nghị, khí phách, xuất ngoại cát tường, trung niên bôn ba, vất vả, cuối đời cát tường.
Đề: Đi xa gặp nhiều may mắn, trung niên sống bình dị, cuối đời cát tường.
Điện: Kết hôn và sinh con muộn sẽ đại cát, nên cẩn thận trong chuyện tình cảm, trung niên thành công, phát tài, phát lộc, có số xuất ngoại.
Điền: Phúc lộc song toàn, gia cảnh tốt, tính tình ôn hòa, hiền hậu, trung niên thành công, vinh hoa phú quý.
Điều: Bậc anh hùng hoặc giai nhân, đa tài, hưng vượng, gia cảnh tốt.
Đính: Đa tài, nhanh nhẹn, vạn sự như ý, cuối đời cát tường.
Đình: Đa tài, nhanh trí, cẩn thận kẻo có họa tình ái, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng.
Đĩnh: Đa tài, tính tình ôn hòa, sống hạnh phúc, cuối đời ưu tư nhiều.
Định: Khắc bạn đời và con cái, tính tiết kiệm, hiền lành, trung niên thành công, cuối đời bệnh tật, vất vả.
Đô: Nhàn hạ, đa tài, trung niên sống bình dị, cuối đời hưởng phúc.
Độ: Đi xa lập nghiệp nhiều may mắn, trung niên bôn ba, cuối đời cát tường.
Đoái (Đoài): Phúc lộc song toàn, cuộc sống thanh nhàn, phú quý, có quý nhân phù trợ, nếu có 2 con thì cát tường.
Đoan: Tài giỏi, sống thanh nhàn, phú quý, trung niên cát tường, gia cảnh tốt.
Độc: Có quý nhân phù trợ, thanh nhàn, đa tài, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Đội: Ra ngoài gặp quý nhân phù trợ, phát tài, trung niên vất vả, cuối đời phát tài phát lộc.
Đới: Xuất ngoại được phúc, phát tài, trung niên vất vả, cuối đời thịnh vượng.
Đổng: Anh minh, đa tài, lý trí, trung niên cát tường, hưng vượng, cuối đời ưu tư, lo lắng.
Đồng: Cuộc đời có thể gặp nhiều vất vả, khốn khó nhưng con cháu ăn nên làm ra.
Theo Tên hay thời vận tốt
![]() |
Sao Thiên Quan thuộc dương thổ, chủ về quan quý hiển đạt, nếu đóng tại cung thân, mệnh, cung quan lộc, chủ về hiển quý; đại hạn, tiểu hạn gặp được nó, quan lại thì chủ về thăng tiến, dân thường thì được phát phúc, người có sao Thiên Quan nhập cung thân, mệnh, chủ về thông minh và thẳng thắn, trong sạch, khoan dung, khiêm nhường, coi thường danh lợi, chín chắn, làm việc rất có tuần tự, có năng lực quản lý, có nguyên tắc, có mục tiêu, bản mệnh thanh cao, đối xử tốt với người khác.
Sao Thiên phúc thuộc dương thổ, chủ về lộc phúc hậu; nếu đóng tại cung thân, mệnh chủ về sống thọ và sang quý, tính lạc quan, nhanh nhẩu, thích giúp đỡ người khác, hay xen vào chuyện của người khác, biết hài lòng với những gì mình đang có, làm việc thuận lợi. Nam mệnh sớm kết hôn và có con, nữ mệnh thì xinh đẹp và đoan trang. Nếu không gặp sao xấu sẽ có nhiều tiền của. Tốt nhất là đóng tại cung Dần, Thân, Tỵ, Mão, chủ về cha mẹ, anh em phát đạt, vợ chồng chung sống với nhau tới răng long đầu bạc, tiền của dư giả, giàu sang nức tiếng, ở mười hai cung đều chủ cát lợi. Nếu đồng cung với sao Thiên Thọ, phúc thọ gồm đủ. Nếu đồng cung với sao Thiên Đồng tại cung phúc đức thì phúc thọ miên trường. Đại hạn và tiểu hạn gặp được nó nếu là quan lại thì được thăng quan tiến chức, người thường thì sự nghiệp phát triển.
Sao Thiên Quan thuận theo tự nhiên, an bần lạc đạo, không thích cưỡng cầu, biết thỏa mãn với cuộc sống, có tinh thần tận tụy với công việc. Từ trung niên tới cuối đời, thường lui về ở ẩn nơi núi rừng, hài lòng với cuộc sống mây ngàn hạc nội. Sao Thiên phúc thường sẵn sàng hy sinh bản thân và hưởng lạc cá nhân, để đồng cam cộng khổ với người khác, biết hy sinh để đạt được mục tiêu mà không hề oán hận, không yêu cầu cao ở công việc, nên thái độ làm việc rất thoải mái.
Hướng bếp hợp người sinh năm 1945:
– Năm sinh dương lịch: 1945
– Năm sinh âm lịch: Ất Dậu
– Quẻ mệnh: Khảm Thủy
– Ngũ hành: Tuyền Trung Thủy (Nước trong suối)
– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y); Đông Nam (Sinh Khí); Nam (Diên Niên);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Lục Sát); Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Nam (Tuyệt Mệnh); Tây (Hoạ Hại);
Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Tây Bắc (Lục Sát); Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Nam (Tuyệt Mệnh); Tây (Hoạ Hại); , nhìn về các hướng tốt Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y); Đông Nam (Sinh Khí); Nam (Diên Niên);
Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.
Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Tây Bắc (Lục Sát); Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Nam (Tuyệt Mệnh); Tây (Hoạ Hại);
![]() |
![]() |
![]() |
=> Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Chùa Linh Tiên có tên gọi khác là chùa Bằng. Chùa tọa lạc khu dân cư Bằng A, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Xưa kia dưới thời Hậu Lê thuộc xã Bình Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam. Về niên đại xây dựng từ thuở ban đầu do thất lạc tài liệu sử sách nên chưa xác định được chính xác.
Căn cứ theo tấm bia “Tu tạo Linh Tiên tự bi ký” được khắc vào tháng 11 năm Đinh Tỵ niên hiệu Hoằng Định thứ 18 (năm 1617) chùa được trùng tu do Thiền sư Huệ Nguyên – Nguyễn Văn Tông chủ trì .Và tấm bia “Linh Tiên tự ký” thì chùa được trùng tu lớn nhất vào năm 1654 do Thiền sư Tự Huệ Quảng (thế danh Lê Khả Đắc, người xã Ba Lăng, huyện Thượng Phúc) chủ trì với sự phát bồ đề tâm dâng cúng tiền của gia đình ông bà Ngô Vĩnh Đăng tự Chân Sinh, Lưu Thị Lý hiệu Diệu Minh xây toà tiền đường, thiêu hương, thượng điện và các công trình khác.
Năm 1954, Hòa thượng Thích Tường Vân tổ chức trùng tu ngôi chánh điện. Điện Phật được bài trí trang nghiêm.
Trụ trì chùa từ năm 1996 đến nay là Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm. Thượng tọa đương nhiệm Ủy viên Thư ký kiêm Phó Trưởng Ban Hoằng pháp – Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Thượng tọa đã tổ chức trùng tu, đắp tượng, mở rộng ngôi chùa liên tục từ năm 1996 đến nay, làm cơ sở hoằng pháp của Giáo hội ở các tỉnh phía Bắc.
Đặc biệt, vào ngày 01 – 4 – 2004, chùa đã tổ chức đại lễ kỷ niệm 350 năm đại trùng tu chùa và đặt đá xây dựng Đại Phật Bảo tháp. Nhiều vị Hòa thượng lãnh đạo Phật giáo Việt Nam, nhiều vị quan khách đại diện các Ban, ngành trung ương và địa phương, bà Tùy viên Sứ quán Sri Lanka… đã đến dự. Tại buổi lễ, HT Thích Thanh Tứ, HT Thích Trí Quảng (Phó Chủ tịch HĐTS. GHPGVN), ông Nguyễn Việt Tiến (Thứ trưởng TT Bộ Giáo thông vận tải) và ông Nguyễn Quốc Triệu (Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội) đã đặt đá xây Bảo tháp.
Chùa Linh Tiên – Linh Tiên Tự với bề dày lịch sử hoằng pháp độ sinh của chư Tổ trong quá khứ và sự tiếp nối của chư Tăng hiện tại đã hoà cùng không gian thoáng đãng của quê hương “Bằng Liệt nghĩa dân”, bên đền thờ Tiên Triết Chu Văn An – nhà sư phạm mẫu mực có công lớn trong sự nghiệp giáo dục thời Trần cùng với di tích miếu Thành Hoàng thờ đức Thánh Bảo Ninh Vương đã tạo nên một danh lam thắng cảnh địa phương góp phần tô đẹp lịch sử văn hoá Thăng Long – Hà Nội.
![]() |
Ứng dụng bát trạch minh cảnh vào luận đoán hướng tốt xấu |
![]() |
► ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu thước lỗ ban và xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác |
1. "Người ủng hộ" không ổn định
Đầu giường ngủ phải tiếp giáp với bức tường bằng phẳng để đảm bảo sự ổn định cho cuộc hôn nhân.
"Người ủng hộ" có nghĩa là gì? Theo phong thủy phòng ngủ, đây là cụm từ dùng để nói đến bức tường tiếp giáp với phần đầu của giường ngủ. Bức tường này không ổn định, vững chắc chủ yếu có hai điểm:
- Thứ nhất, bức tường có hình dạng cong. Từ quan điểm số học trong phong thủy, đường thẳng đại diện cho sự tĩnh, trong khi đó, đường cong đại diện cho sự chuyển động. Chuyển động là không ổn định, do đó, "người ủng hộ" không ổn định thì cuộc hôn nhân cũng không thể tốt đẹp.
- Thứ hai, thiết kế của bức tường có quá nhiều góc cạnh thì cuộc sống hôn nhân sẽ không được êm đềm, ổn định.
2. "Hổ mạnh và Rồng yếu"
Hai bên giường ngủ cần có sự cân bằng.
Hổ và Rồng ở đây là gì? Giường ngủ được coi là trung tâm của phong thủy nhà ở. Phía bên phải của giường ngủ là Hổ (Bạch Hổ) và phía bên trái là Rồng (Thanh Long). "Hổ mạnh và Rồng yếu" của phòng tân hôn chủ yếu phản ánh trong 3 khía cạnh:
- Thứ nhất, không gian phía bên phải của giường ngủ rộng hơn bên trái.
- Thứ hai, động lượng (sự tương tác) phía bên phải của giường ngủ mạnh hơn bên trái.
- Thứ ba, bên phải sôi động và bên trái tĩnh tại.
"Hổ mạnh và Rồng yếu" thể hiện Âm Dương lộn ngược là một điềm gở trong phong thủy.
3. Lửa khắc chế kim loại
Không nên trang trí phòng cưới chỉ với hai màu đỏ và trắng.
Màu đỏ tượng trưng cho lửa (yếu tố Hỏa) và màu trắng tượng trưng cho kim loại (yếu tố Kim). Về mặt bản chất phong thủy, lửa luôn luôn khắc chế kim loại.
Nếu phòng cưới được trang trí bằng hai màu chủ đạo là đỏ và trắng là đi ngược nguyên tắc phong thủy. Nó có thể khiến hai vợ chồng bất đồng, thường xuyên tranh cãi với nhau dẫn tới sự bất ổn, khó bền vững cho hôn nhân.
(Theo Eva)
Sinh tháng Giêng: Người tuổi Ngọ sinh vào tiết tân xuân nên tinh thần luôn sảng khoái, có số được hưởng phúc lộc và tài sản của tổ tiên. Là người đoan chính, ít nói, có duyên kết bạn.
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Sinh tháng 2: Sinh vào tiết Kinh Trập người tuổi Ngọ thường thông minh, ưa hình thức. Số nhàn tản, mọi việc đều thuận, ngao du khắp nơi. Tuy vậy, trong cuộc đời cũng không tránh khỏi những rủi ro.
Sinh tháng 3: Là người có chí khí mạnh mẽ, can đảm hơn người. Có số thành công trong mọi việc, được nhiều người tôn kính, mến mộ.
Sinh tháng 4: Sinh vào tháng này số phải bôn ba, khổ cực, không được người giúp, khó giữ tiền của. Tuy nhiên, nếu không ngại xông pha vào nơi nước sôi lửa bỏng thì có ngày sẽ được thành công, cuối đời hưởng phúc.
Sinh tháng 5: Sinh vào tiết Mang Chủng là người lý trí, suy nghĩ tiến bộ. Số có nhà cửa, sự nghiệp, gia đình hưng vượng, phúc lộc dồi dào, được hưởng phúc từ vợ, cưu mang được người khác họ.
Sinh tháng 6: Là người có số khốn khó, lao tâm khổ tứ, mưu sự khó thành, cả đời mệt mỏi, họa phúc đan xen, về già mới được bình an.
Sinh tháng 7: Sinh vào lúc thời tiết mát mẻ thường là người thông minh tột đỉnh, tinh lực dồi dào, nhạy cảm, ôn hòa, nhã nhặn, có sức lôi cuốn người khác giới, thường kết hôn sớm.
Sinh tháng 8: Là người can đảm, mưu trí, tình cảm chan hòa, sự nghiệp thăng tiến, gặp nhiều may mắn.
Sinh tháng 9: Sinh vào tiết Hàn Lộ là người ham hiểu biết, tài năng, trí lực song toàn nhưng lại thiếu kiên cường. Có số may mắn, thành công trời ban, an nhàn tự tại, hưởng phúc lâu dài.
Tháng 10: Sinh vào tiết Lập Đông là người có nhiều biến đổi trong đời; nghĩa hiệp nhưng thiếu nhẫn nại nên mọi sự khó thành. Nửa đời long đong, nửa đời viên mãn như ý.
Sinh tháng 11: Là người ít may mắn, cuộc đời trắc trở. Tuy được lộc trời ban nhưng vẫn phải lao tâm khổ tứ.
Sinh tháng 12: Tuổi Ngọ sinh vào tiết Tiểu Hàn cả đời gặp chuyện phiền não, vất vả. Sự nghiệp và tài vận có nhiều biến động. Là người sống thiếu thực tế.
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)
Khuyến Học Trai Chủ, một cao thủ Bắc phái Tử Vi Đẩu Số, có viết một đoạn văn liên quan đến "tình duyên hôn nhân tốt hay xấu" rất có giá trị tham khảo. Xin trích lục như sau:
- Cung phu thê thích có chính diệu, không thích cung vô chính diệu.
- Cung phu thê thích có sao tĩnh, không thích sao động và sao chủ về tư tưởng, cũng không thích Vũ Khúc là sao hóa quả tú.
- Cung phu thê không thích tuyến "phu quan" có quá nhiều tứ hóa [năm sinh], tự hóa và phi hóa, có nhiều thì dễ biến động thay đổi
- Cung phu thê, cung quan lộc, cung phúc đức có Hóa Kỵ [năm sinh], hôn nhân dễ có vấn đề. Hôn nhân có vấn đề không ngoài hai loại: một là kết hôn sớm rồi ly hôn sớm, hoặc kết hôn sớm rồi ly hôn muộn, hai là không kết hôn hoặc ly hôn muộn.
- Cung phu thê, cung quan lộc có Thái Âm hoặc Thái Dương tọa thủ, không thích cung mệnh là can Giáp hay can Ất
- Cung mệnh của địa vận, cung phu thê của đại vận không thích có can Giáp hay can Ất
- Cung mệnh của đại vận, cung phu thê của đại vận không thích có can Giáp và can Ất, mà thích có can Đinh hoặc can Canh, nhưng vẫn có chỗ không được hay.
- Thích cung phu thê phi hóa Lộc nhập "ngã cung" và cung tật ách, không thích cung phu thê phi Hóa Kỵ xung cung mệnh hay cung tật ách
- Cung mệnh của đại vận phi Hóa Kỵ xung cung phu thê của nguyên cục hay cung phu thê của đại vận, cung phu thê của đại vận phi Hóa Kỵ xung cung mệnh của nguyên cục hay cung mệnh của đại vận, là ý tượng: có mất mát trong tình duyên hôn nhân
- Cung mệnh của nguyên cục có Thái Dương tọa thủ, không ưa thích cung phu thê có can Giáp; cung mệnh của nguyên cục có Thái Âm tọa thủ, thì không thích cung phu thê có can Ất.
- Người sinh năm Mậu Quý, can của các cung Tí, Sửu, Dần, Mão chia ra là Giáp, Ất, Giáp, Ất, cung mệnh của đại vận hoặc cung phu thê của đại vận mà đến các cung vị này, là ý tượng: không thường gặp mặt nhau lại tốt hơn. Đương nhiên, cung phu thê cũng không thích "Sách Mã Kị".
- Cung phu thê phi Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa đến cung mệnh, cung tài bạch, cung quan lộc hay cung tật ách, còn phi Hóa Kị đến cung điền trạch, mẫu người phối ngẫu này thật là khó gặp
(Trung Châu Tử Vi Tứ Hóa Phái - Tập 1 - Nguyễn Anh Vũ)
![]() |
![]() |
Văn khấn Thổ công và các vị thần linh bản địa vào ngày mùng 1 đầu tháng và ngày rằm hàng tháng.
Lễ cúng vào ngày Mồng Một (lễ Sóc) và lễ cúng vào chiều tối ngày Rằm (lễ Vọng) thường là lễ chay: Hương, loa, trầu cau, quả, tiền vàng. Ngoài lễ chay cũng có thể cúng thêm lễ mặn vào ngày này gồm: Rượu, thịt gà luộc, các món mặn.
Sắm lễ ngày mồng một và ngày rằm chủ yếu là thành tâm kính lễ, cầu xin lễ vật có thể rất giản dị: hương, hoa, lá trầu, quả cau, chén nước.
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
– Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
Tín chủ là……………………
Ngụ tại………………………
Hôm nay là ngày… tháng…năm…
Tín chủ con thành tâm sắm sửa hương, hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả, bầy ra trước án. Đốt nén hương thơm kính mời: ngày Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa Long Mạch Tôn thần, ngài Bản gia Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
Cúi xin các Ngày thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con tòan gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Những người sinh ra có hình dáng mập, tinh thần ổn định, khí sắc tươi sáng, tiếng nói to vang, đuôi lông mày thoáng rộng, tai dày, miệng môi hồng nhuận, mũi thẳng cao, khuôn mặt vuông vức, phần lưng to dày, cân đối, da trơn nhuận, bụng to, răng cứng khỏe, khi bước nhẹ nhàng...,người đó có mệnh phú quý, ít tuổi đã giàu có, là điềm báo cát lợi.
Khi xem tướng, đầu tiên nhìn vào mắt người đó xem có thần hay không, nếu trong mắt có thần 2 lòng đen trắng rõ ràng, hài hòa là tướng quý.
Nếu thân thể ngắn nhỏ mà khuôn mặt to dài thì người đó có mệnh quý.
Nếu như khuôn mặt vuông vức, mắt nhỏ thanh tú và dài thì người đó cũng có mệnh quý.
Nếu như lưng to dài, đỉnh đầu nhô lên, mắt giống như mắt phượng, dài và thanh tú, mắt tròn giống như mắt rồng thì đó đều là mệnh quý.
Nếu như người có các hình tướng sau: Trán nhô ra, tiếng nói trong, sắc tai trắng hơn mặt, trên trán có góc cạnh đó là mệnh quý.
Nếu râu mọc dưới cằm giống như sợi sắt cứng thẳng, màu da ở tay chân trắng như ngọc thì đó là mệnh phú quý.
Người mệnh phú quý, sinh ra phải có hình tướng như sau: Tai như áp sát da đầu, mũi giống như ống sáo, ống trúc hoặc giống như túi mật treo, da ở mặt thì đen mà da ở thân thì trắng, lưng thẳng dày như tam sơn (3 núi), tiếng nói vang xa giống như tiêng chuông, lưng to mềm mại, ngực bằng phẳng, ngực và lồng ngực đều lớn và rũ xuông, đầu to.
Người mệnh phú, thường có hình tướng sau: Tam đình ở trên mặt và Tam đình ở thân đều rộng, 2 xương gò má, mũi, xương trán, cằm, Ngũ nhạc đều hướng vào trán. Đầu, mặt, chân, tay, thân đều dài hoặc đều ngắn, mắt lồi, mũi hếch, môi cong, yết hầu (ngũ lộ) đều hài hòa, con ngươi trong mắt nhỏ dài màu đỏ, tiếng nói trong và vang xa như tiếng chuông.
Nếu Da mặt đen mà da thân trắng, xương má to thô, người gầy bé, 2 chân ngắn mà 2 tay dài, thân người nhỏ mà tiếng nói to, ngón tay dài có thể chụp được miệng hổ, mặt ngắn mắt dài, da thịt có mùi thơm, có bắp thịt nhưng không nhô cao chủ là mệnh quý.
Nếu như có hình tướng như vậy lại muốn cầu công danh sẽ trở thành người quan chức hiển đạt; muôn cầu lấy tài lợi thì phú quý giàu sang.
![]() |
Phan Huy Chú nổi tiếng với bộ Lịch triều hiến chương loại chí |
Cha ông là Phan Huy Ích, mẹ là Ngô Thị Thục - em gái Ngô Thì Nhậm.
Phan Huy Chú là danh nhân có tài, một nhà bác học về nhiều lĩnh vực: y học, sử học, thơ ca... Ông còn là tác giả của những cuốn sách nổi tiếng: Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều ngâm lục, Hoa trình ngâm lục...
Sự nghiệp sáng tác lớn nhất của Phan Huy Chú được đánh dấu với bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Ông đã bỏ ra 10 năm (1809-1819) để hoàn thành bộ sách này. Đây là một công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa đồ sộ, một kho bách khoa toàn thư của đất nước. G.P.Muraseva, nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam người Liên Xô đã đánh giá: "Lịch triều hiến chương loại chí xứng đáng là bộ bách khoa toàn thư mà không có công trình nào sánh nổi về bề rộng phạm vi các vấn đề sử học Việt Nam thời phong kiến".
Phan Huy Chú đã nêu cao tấm gương về tinh thần say mê nghiên cứu khoa học, cống hiến cho đất nước công trình nghiên cứu có giá trị to lớn. Ông xứng đáng là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc.
(Theo Anninhthudo)
1. Gặp gỡ và chào hỏi
Người Hàn Quốc rất chú trọng đến thái độ và cử chỉ khi chào hỏi. Nụ cười và động tác gập lưng không thể thiếu trong văn hóa chào hỏi ở Hàn Quốc. Do sự thâm nhập của văn hóa phương Tây và sự phát triển của xã hội hiện đại mà ngày nay người ta có thể thay động tác gập lưng bằng cái cúi đầu nhẹ. Tuy nhiên, ở những trường hợp đặc biệt trang trọng hoặc thể hiện sự kính trọng với người cao tuổi, người có chức vụ cao trong xã hội thì động tác gập lưng vẫn đặc biệt được coi trọng.
Người Hàn Quốc thường đánh giá cao những nỗ lực của người nước ngoài khi cố gắng bày tỏ lời chào bằng chính ngôn ngữ Hàn Quốc: “an-nhon-ha-sae-yo” (xin chào).
2. Văn hóa làm việc và kinh doanh
Giới thiệu theo đúng nghi thức: Người Hàn Quốc luôn muốn cộng tác làm ăn với những người họ quen biết. Vì vậy bạn nên có một người trung gian giới thiệu bạn với chính đối tác Hàn Quốc đang muốn cộng tác làm ăn. Vị trí trong xã hội của người trung gian càng cao thì cơ hội kết giao làm ăn của bạn với đối tác Hàn Quốc càng lớn.
Xây dựng mối quan hệ: Bạn có thể tạo dựng những mối quan hệ với người Hàn Quốc thông qua những cuộc hội họp thân mật giữa các thành viên, tại những buổi tiệc rượu/bữa ăn. Quan trọng là tại những buổi tiệc đó luôn có sự tham dự của các đối tác kinh doanh. Hãy nhớ rằng người Hàn Quốc không ngần ngại bàn bạc công việc ngay tại bữa ăn trưa.
Giao tiếp ứng xử: Trong những buổi họp nhóm và những bữa tiệc, không nên tự giới thiệu mình trước mọi người, tốt nhất bạn nên có một người bạn đi cùng để giới thiệu bạn với những người khác. Khi ngồi ở những chỗ đông người, đàn ông nên chú ý đặt mũi giầy của mình chúc xuống và không nên vắt hai chân lên nhau trước mặt người khác. Khi gặp người lớn tuổi, bạn nên dành ra vài phút để thăm hỏi họ. Tốt nhất bạn nên ca ngợi về sức khỏe của họ.
Hẹn gặp trong kinh doanh: Giờ làm việc thường từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều, từ thứ 2 đến thứ 6. Thời gian thích hợp nhất để gặp mặt đối tác là từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều và từ 2 giờ chiều đến 4 giờ chiều. Tránh xếp lịch hẹn vào khoảng từ giữa tháng 7 đến giữa tháng 8 vì người Hàn thường có 01 tuần đi nghỉ vào thời gian này trong năm.
Đàm phán trong kinh doanh: Trong quá trình đàm phán, một số người Hàn Quốc sẽ liên tục chuyển chủ đề, tốt nhất bạn nên chú ý đến những điểm quan trọng. Những người giao dịch khác nhau trong cuộc đàm phán sẽ đưa ra rất nhiều câu hỏi, vì vậy điều quan trọng là phải kiên nhẫn lắng nghe. Nếu bạn bị lẫn lộn về những điều khoản trong đàm phán, bạn có thể nhẹ nhàng hỏi lại họ.
3. Văn hóa tặng quà
4. Văn hóa ẩm thực
Các nhà hàng Hàn Quốc thường chuẩn bị sẵn các loại bàn ghế ăn riêng mặc dù các phòng ăn riêng biệt luôn được thiết kế chu đáo. Ngồi ăn trên nền nhà trong suốt cả một giờ đồng hồ có thể làm tê chân, nhưng nó cũng chính là văn hoá truyền thống của người Hàn. Người Hàn thường dùng thìa để ăn cơm, đũa để ăn mì và các món ăn khác. Tay phải luôn dùng để cầm thìa và đũa để ăn thức ăn. Đừng ngạc nhiên nếu thấy người Hàn thổi bằng mũi vào thức ăn trong suốt bữa ăn.
Bữa ăn truyền thống của Hàn Quốc gồm nhiều món. Cơm vẫn là món ăn chủ đạo. Kim chi là món ăn không thể thiếu trong mọi bữa ăn. Thịt bò nướng lửa (Pulgogi), sườn heo, sườn bò nướng (Kalbi), Gà hầm nhân sâm (Sam-kopsal) cũng là các món ăn tiêu biểu của Hàn Quốc.
Người lớn tuổi nhất hoặc người quan trọng nhất là người được phép bắt đầu bữa ăn. Người lớn nhất sẽ được phục vụ đầu tiên.
Tại bàn ăn hay các dịp gặp mặt, bao giờ người Hàn cũng giành những tình cảm trang trọng cho việc rót đồ uống. Phong tục tập quán này đã có lịch sử hàng trăm năm hoặc hơn nữa trong lịch sử hơn 2500 năm của xứ Kimchi. Uống rượu đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt ứng xử của người Hàn. Người ta thường chuyền tay nhau cùng thưởng thức chung một ly rượu. Nếu ai đó đưa cho bạn một cái ly không, bạn phải chờ khi người đó rót cho bạn một ly rượu đầy. Người trẻ tuổi luôn rót rượu cho người lớn tuổi. Nếu người lớn tuổi trao ly rượu cho người trẻ tuổi, người ấy phải cầm ly bằng cả hai tay và uống rượu sao cho ly rượu không đối mặt với người lớn tuổi. Khi rót rượu cho ai đó, phải rót bằng tay phải để tỏ rõ phép lịch sự.
5. Trang phục
Hanbok là trang phục truyền thống của người Hàn Quốc, tượng trưng cho nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Hàn Quốc. Sự hài hoà trong các đường may thẳng và uốn lượn của Hanbok ngụ ý thể hiện sự tôn trọng thiên nhiên sâu sắc. Đồ trang sức đi kèm không thể thiếu khi mặc Hanbok là trâm cài đầu và hoa tai.
Trang phục truyền thống Hanbok thường được mặc vào những dịp lễ, Tết (Tết âm lịch Tết Trung thu Chuseok và các ngày lễ của gia đình).
6. Phong tục các dịp lễ tết
Tết cổ truyền Seollal
Seollal là ngày đầu tiên của năm mới theo âm lịch. Vào ngày này, toàn bộ gia đình người Hàn Quốc sum họp. Họ mặc bộ Hanbok và tiến hành những nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Sau các nghi lễ đó, những thành viên trẻ trong gia đình sẽ cúi chào các bậc cao niên theo truyền thống (gọi là phong tục Sabae).
Câu chúc tết phổ biến nhất của người Hàn Quốc là “Sae hae bok mani bak tu sae yo”, có nghĩa “cầu chúc năm mới nhiều phúc lành”.
Tết Đoan ngọ Dano (05/5)
Dano là một trong ba lễ hội truyền thống lớn nhất của Hàn Quốc cùng với Tết Nguyên ĐánSeollal và Tết trung thu Chuseok. Dano diễn ra vào thời điểm bắt đầu của mùa hè và là Ngày cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, cho mùa màng bội thu.
Trong lễ Dano người phụ nữ thường gội đầu bằng một loại lá đặc biệt mà người ta gọi là lá mống mắt (gọi là Changpo) với ý nghĩa là hy vọng tránh được tai ương, rủi ro.
Tết Trung thu Chuseok (15/8)
Lễ hội Trung thu Chuseok cũng là dịp nghỉ lễ lớn nhất trong năm của người Hàn Quốc. Đó là lễ hội tạ ơn đối với những vụ mùa bội thu. Lễ hội thường được kéo dài 3 ngày. Theo thông lệ, mọi người thực hiện các nghi lễ thờ cúng cổ xưa vào sáng sớm.
Một trong những món ăn chính được chế biến và thưởng thức trong lễ Chuseok là Song-py-eon, một loại bánh làm từ gạo có hình lưỡi liềm, được hấp cùng lá thông.
8. Các quy tắc khác
Không bao giờ viết tên người Hàn bằng mực đỏ. Nếu bạn làm điều đó, họ sẽ ngầm hiểu là bạn rủa người đó chết. Trong lần làm quen đầu tiên hay gửi thư xin việc cho công ty Hàn mà bạn làm như thế này thì thật là tai vạ. Tuyệt đối đừng để đôi đũa móc vào thức ăn. Muỗng cắm vào trong chén cơm bị xem là điềm gỡ, giống như hình ảnh bữa cơm cúng ông bà của người Hàn. Không được bưng chén canh lên uống ừng ực !. Ăn cơm bằng thìa được xem là có văn hoá. Đi ăn tiệc thì tuỳ theo nhà hàng, bạn có nên tháo giày ra chân hay không. Khi viếng thăm nhà của người Hàn, luôn tháo giày để ngoài cửa nhà. Người Hàn luôn chủ động thanh toán tiền khi họ được mời đi ăn, thường là thanh toán hết cho cả nhóm. Tuy nhiên những lần kế tiếp, ai mời thì đến phiên người ấy thanh toán lại cho cả nhóm.
9. Những điều cấm kỵ của người Hàn
HQ có xu hướng tránh số 4. Vì trong tiếng Hàn phát âm số 4 giống từ chết nên trong thang máy, thay vì để tầng 4 thì họ để chữ F(four). Như vậy, số 4 tại HQ là 1 điềm xấu giống như số 13 tại Phương Tây. Trong phong thủy Việt Nam và Trung Quốc cũng đều kiêng kỵ số 4
Theo nguyên tắc ứng xử thì khi rót rượu không được để miệng chai chạm vào miệng ly vì hành động đó chỉ được sử dụng để cúng rượu chon người chết.
Kị sử dụng tay trái trong giao tiếp, đó đươc coi là 1 sự xúc phạm đối với người nhận. Nên dùng 2 tay để nhận hoặc đưa 1 vật gì đó cho người khác, đặc biệt là người cao niên.
Phụ nữ hàn quốc không thích nói về kinh nghiệm phẫu thuật thẩm mỹ của họ mặc dù phẫu thuật thẩm mỹ là khá phổ biến tại Hàn Quốc. Vì trong nho giáo Hàn Quốc quan niệm rằng vẻ đẹp tự nhiên thì tốt hơn vẻ đẹp nhân tạo.
Hỉ mũi cạnh bàn ăn là điều cấm kỵ. Quí vị phải bỏ ra ngoài hoặc vào nhà vệ sinh để làm chuyện đó.
Họ cũng kỵ cắm đũa trên bát cơm vì làm như vậy trông giống như là thắp nhang.
Kỵ gương soi chiếu
Rất nhiều cơ quan có treo một tấm gương rất lớn, một số những người thích làm đẹp cũng thích đặt những chiếu gương trên bàn làm việc của mình. Thích làm đẹp là thiên tính của mỗi người, nhưng nếu ngày nào gương cũng chiếu vào bạn, lâu dần bạn sẽ phát giác ra rằng bạn thường hay bị chóng mặt, hoa mắt, quyết sách bị sai sót, mất ngủ… khiến cho cơ thể bạn như suy nhược mà sinh ra bệnh tật.
Gương soi trong phong thủy được gọi là “quang hung”, là một công cụ để tránh hung khí. Thế giới của gương gọi là ảo ảnh, sẽ khiến người ta đầu óc hỗn loạn, hư loạn. Các kiến trúc hiện đại thường dùng thủy tinh để dán đầy trên các bức tường kiến trúc, đây chính là “quang hung” có hại nhất, những người sống trong dương trạch bị chiếu soi sẽ xuất hiện những sự việc không cát lợi, quang hung có hại sẽ chiếu chí huyết, quang chi hại, thị phi, phá sản. Cho nên khi bạn thường bị gương chiếu như vậy, thì không nên vì quá điệu mà tốt nhất là nên tránh thì hơn.
Kỵ xà ngang ép trên đỉnh đầu
Trong văn phong có người ngồi ngay đúng chỗ có xà ngang, có người ngay trên đầu là đỉnh rơi thấp tẹt, những hiện tượng đó trong phong thủy gọi là “hoành lương áp đỉnh”. Nếu trong thời gian dài sẽ khiến cho con người trong công việc sinh ra những áp lực, chịu những tai nạn, gặp phải sự công kích của tiểu nhãn, làm cho đau cơ đau mỏi, vận khí ngưng trệ.
Phương pháp hóa giải: Trong phong thủy thì hồ lô có tác dụng khỏi hoá bệnh, thu hung khí. Đi đến một số cửa hàng mỹ nghệ mua vài bình hồ lô mà trên đó có vòng mây bao quanh.
Bộ câu nói về ước mơ đáng suy ngẫm. Có lẽ, mỗi con người đều có ước mơ của riêng mình, dù chỉ là những ước mơ vô cùng nhỏ bé hay là những ước mơ lớn lao, dù những ước mơ ấy có trở thành hiện thực hay mãi mãi chỉ là ước mơ thì nó cũng hết sức cần thiết .
Bởi những ước mơ ấy sẽ là động lực giúp cho con người ta vượt qua được những khó khăn gặp phải trong cuộc sống. Hãy cứ ước mơ cho đến khi nào đạt được mơ ước nhé bạn. Bởi chẳng ai có quyền ngăn cản bạn mơ ước cả. Những câu nói về ước mơ cho bạn suy ngẫm là bộ câu nói hay được chắt lọc từ những kinh nghiệm cũng như những ước mơ của con người.
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.”
——-
Cá không rời được sông nước. Trái tim không thể không mơ ước, (M. Bê-đin )
——
Làm tâm hồn mất mong ước chẳng khác gì làm trái đất mất bầu khí quyển.
——
Ước mơ không phải là cái gì sẵn có, cũng không phải là cái gì không thể có. Ước mơ giống như một con đường chưa có, nhưng con người sẽ khai phá và vượt qua.
Trong mơ ước có mặt tốt hơn thực tại; trong thực tại có mặt tốt hơn mơ ước. Hạnh phúc đầy đủ là sự kết hợp được cả mơ ước lẫn thực tại.
Nếu con người mất năng lực mơ ước … nếu đôi khi, anh ta không thể vượt lên phía trước và dùng trí tưởng tượng của mình để ngắm nhìn vẻ đẹp trọn vẹn và hoàn hảo của công trình chỉ vừa mới bắt đầu dưới đôi tay anh ta, thì tôi không sao tưởng tượng được nguyên nhân thúc đẩy nào sẽ buộc con người bắt tay làm và làm đến nơi đến chốn những công việc to lớn và nặng nhọc trong lĩnh vực nghệ thuật , khoa học và đời sống thực tế.
Chắc chắn bạn sẽ thành công, nếu bạn dám thành công!
Ước mơ chính là nguồn động lực thật sự của cuộc sống, là hạt mầm của mọi thành công khi được “vung trồng” bằng ý chí, lòng quyết tâm và sự nổ lực bền bỉ. Con người sống thì phải biết ước mơ và tin tưởng, dẫu không phải ước mơ nào rồi cũng sẽ trở thành hiện thực. Trong cuộc đời, đừng bao giờ từ bỏ ước mơ để luôn hy vọng, sống lạc quan và tránh rơi vào tâm trạng bi quan, tuyệt vọng. Vậy hãy mơ những gì mà mình muốn có, làm những gì mà mình muốn đạt được để có được hạnh phúc trong cuộc đời.
Ước mơ không phải là cái gì sẵn có, cũng không phải là cái gì không thể có. Ước mơ giống như con đường chưa có, nhưng con người phải khai phá và vượt qua”. Ai cũng có thể học được bất cứ điều gì cần thiết để hiện thực hóa ước mơ của mình, nếu có đủ nghị lực và ý chí.
Ước mơ làm cho con người lớn thêm. Ước mơ thôi thúc người ta cố gắng vươn lên trong cuộc sống để biến nó thành hiện thực. Có những ước mơ xa vời và mãi mãi không thực hiện được nhưng cũng có những ước mơ rất giản dị song cũng hết sức đẹp đẽ và luôn trong tầm tay
Nếu ngày nay đã có một chiều hướng tâm linh trong đời sống cũng như công việc thì “ngày mai sẽ lo về việc ngày mai”. Với sự nâng đỡ của đoàn thể tâm linh bạn sẽ thực hiện được ước mơ của mình.
Với hầu hết chúng ta, giấc mơ chỉ thành hiện thực sau khi không còn đáng kể nữa. Chỉ ở tuổi ấu thơ chúng ta mới có cơ hội biến giấc mơ thành hiện thực khi nó còn là cả thế giới.
Tất cả chúng ta đều có cuộc đời riêng để theo đuổi, giấc mơ riêng để dệt nên, và tất cả chúng ta đều có sức mạnh để biến mơ ước trở thành hiện thực, miễn là chúng ta giữ vững niềm tin.
Hai mươi năm sau lúc này, bạn sẽ thấy thất vọng vì những điều mình không làm hơn vì những điều mình đã làm. Vậy nên hãy tháo nút dây. Hãy cho thuyền rời khỏi bến cảng an toàn. Hãy căng buồm đón gió. Tìm tòi. Ước mơ. Khám phá.
Tất cả những người đàn ông và phụ nữ thành công đều là những người mơ mộng. Họ mơ mộng về tương lai của họ, lý tưởng trên mọi phương diện, và rồi họ lao động mỗi ngày hướng về viễn cảnh xa xôi ấy, mục tiêu hay cái đích đó.
Tất cả chúng ta đều thất bại trong việc theo đuổi giấc mơ về sự hoàn hảo. Vì vậy tôi đánh giá chúng ta trên cơ sở những thất bại huy hoàng khi cố làm những điều không thể. Vậy hãy bắt đầu ngay bây giờ, ngay ngày hôm nay. Hãy dám vượt qua những nỗi sợ hãi, dám nghĩ, dám làm, dám vượt qua chính mình.
Những người xem tử vi, có lẽ không ai là không biết cái bộ này ?. Sách vở đều cho rằng, gặp bộ này là số: Nào là tự tử, nào là bị bức tử, bị độc tử, …Nhưng có lẽ, khi gặp nó, hầu như chỉ đoán đến thế thôi. Hạn gặp nó, tất bị hung họa nặng, có thể dẫn đến cái chết thảm thương. Bộ này ở cung nào, gây tai ách cho cung đó. Nhưng nặng nhất, và có ý nghĩa xác định phải là ở những cung: Mệnh – Thân, Phu/Thê, Tử tức, Phụ mẫu, Huynh đệ. Và cả những cung trong tam hợp hay xung chiếu với Mệnh.
Khi câu hỏi, có cái gì chế hóa, hay hóa giải được nó không ?. Gặp nó thì Cải số như thế nào ?. Thì với sự hiểu biết về nó đơn sơ như vậy, thời không thể giải được !. Vì thế, câu hỏi đặt ra, thực thì nó tác hóa như thế nào ?. là một lẽ tự nhiên.
Phải nói rằng, Linh Xương Đà Vũ rất độc. Cái độc của nó không phải chỉ là ở cái chết của đương số. Mà cái độc của nó nằm ở chỗ bức tử đương số. Cái chết nào rồi thì cũng là chết. Có cái chết nặng tựa Thái sơn, có cái chết nhẹ tựa Lông Hồng. Có cái chết đau đớn quằn quại, trên phương diện tinh thần cũng như thể xác. Có cái chết tưng tửng. Ra đi vào cõi vĩnh hằng mà cứ như không có chuyện gì xảy ra cả. Thì cái chết do bộ Linh Xương Đà Vũ gây ra, quả thật thuộc về cái chết đớn đau. Nặng nhất về tinh thần. Sau nữa là sự giày vò về thể xác.
Người xem tử vi có kinh nghiệm, thấy rằng đằng nào cũng chết, nếu gặp Linh Xương Đà Vũ thì thà gặp Kiếp sát Hình Hổ hơn. Nhìn về mặt lý số, thấy cái anh Kiếp sát Hình Hổ sát khí nặng như thế, sao lại bảo thà gặp nó hơn là gặp Bộ Linh Xương Đà Vũ ?.
Thật ra, tuy sách vở đều đề cập bốn sao, đủ cả bốn sao: Linh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc. Nhưng thật ra, cái bộ này, nhân của nó là Linh Xương Đà. Mà hạt nhân trung tâm lại chỉ có Xương Đà mà thôi !. Thực ra Vũ khúc không phải là cái nhân họa của bộ này. Người ta có thể thấy, nếu không phải là Vũ khúc, có thể là một sao khác. Chẳng hạn như thế Vũ khúc bằng Kiếp sát, hoặc cả bộ như Cơ Lộc Mã cũng vẫn nguy hiểm như là với Vũ khúc. Nhưng cái cách bức tử con người ta sẽ khác nhau, cũng như nguyên nhân kích hoạt cái bộ Linh Xương Đà sẽ khác nhau mà thôi.
Điểm đặc biệt, nếu là Vũ khúc, thì bất kể Vũ có thể miếu vượng, vẫn hung hiểm như thường. Bởi vì đó là do khả năng chế giải của Vũ khúc với Linh Đà, đặc biệt là Đà la âm hiểm và tàn độc, khi Vũ khúc gặp nó, khác nào Chuột gặp Mèo đang đói. Thế nhưng Linh Xương Đà mà gặp phải Thiên phủ thì đương số chỉ lao đao thôi, chứ sức mấy mà bức tử nổi đương số. Tùy mỗi cách cục gặp Linh Xương Đà, mà gia giảm hung họa khác nhau.
Vũ khúc thì bị bức tử vì cùng quẫn. Âm Dương thì bị bức tử vì tuyệt vọng, bế tắc không tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm. Cơ Lộc Mã thì bế tắc, tuyệt đường sinh nhai, chứ không phải là cứ đi ăn mày là thoát. …
Như đã nói, cái Nhân của nó là Linh Xương Đà. Nhưng cái Hạt nhân trung tâm, chính là Đà Xương. Có điều, nó liên quan đến sự thành cách. Không phải cứ thấy Xương Đà là tá hỏa tam tinh.
Việc thành cách, kiểu gì cũng có những dạng sau đây:
-Mệnh – Thân hay trong tam hợp có cả Xương lẫn Đà, và chỉ khi chúng thực là sao bản mệnh mới đúng là thành cách Xương Đà. Khi ấy, vào Vận, chỉ cần gặp Linh, các cách cục tham gia hội họp ra sao, đều là ở vị thế thay cho Vũ khúc mà thôi, đó gọi là biến cách. Gặp một Linh, là đủ quyết đoán rồi. Nếu ngay trong mệnh thân không có sao hay cách cục hóa giải Xương Đà, hay có sao ngăn chặn Đà la. Thì Họa tất sẽ xảy ra.
-Gặp cả ba sao này trong mệnh – thân và tam hợp, mà không có sao hay cách cục khác chia cắt chúng, thì cách này thành với điều kiện Đà Xương phải là sao bản mệnh, còn nếu chỉ có Linh là sao bản mệnh thì cũng không sợ, cho dù cách cục đã thành.
-Nếu chỉ có một sao Xương hay Đà, dù là sao bản mệnh, khi nhập vận gặp Đà hay Xương, thì cũng không thành cách. Nhưng trái lại, gặp Linh thì vẫn hung hiểm như thường, nhưng khi ấy không phải là hung hiểm của bộ Linh Xương Đà. Vì thế, dù có thấy cả bộ, chớ có đoán rằng đương số sẽ bị bức tử !. Đoán như thế, mu rùa có thể bị đập bể có ngày đó.
-Xương và Đà gặp nhau kết thành hạt nhân trung tâm của cách, cũng phải xét đoán cho tinh. Đừng thấy khi Đà la độc thủ Dần – Thân là miếu địa mà đã vội cho hạt nhân này là cách cục tốt. Đừng tưởng Văn xương yếu liễu đào tơ, khuê các mà gặp được người anh Hùng – Đà la độc thủ cung VCD tại Dần -Thân là miếu địa, dẫu có gia thêm Bắc đẩu bội tinh (Ấn Tướng) để trở thành anh hùng QDND mà đã vội mừng. Các bậc phụ mẫu chớ có đem gả bán con gái mình vào những nơi như vậy. Đừng tưởng đó là trai anh hùng, gái thuyền quyên gặp nhau. Nhầm to đấy. Ây là đưa con gái mình vào chỗ chết. Sướng cũng chết, mà khổ cũng chết. Còn khi Đà la hãm địa, thì khỏi nói rồi.
-Sợ nhất là khi Xương gặp Kỵ. Nó mà thành cách Xương Đà, thì chả cần gặp Linh. Đơn sơ như vậy cũng đủ hồn về chín suối rồi, bởi khi ấy cả hai đứa đều “tranh nhau” làm sao bản mệnh.
Còn nhiều biến cách nữa, từ cái hạt nhân này. Mỗi biến cách đều có những luận giải khác nhau. Cần cẩn thận xét đoán, không thì nó tốt lại tưởng là xấu và ngược lại. Đơn cử như Linh Xương Đà hội đủ thành cách là cách cực xấu. Nhưng nếu có thấy Vũ được thay bằng Cự – cho dù là hãm địa – mà hóa Quyền thì trước cùng cực, nhưng sau đại phát, cách này là phản vi kỳ cách, người có cách này, làm quân nhân thì lên tướng, cầm quân đánh đông dẹp bắc, uy quyền khét tiếng. Đi buôn thì lỗ lên lỗ xuống, trốn chui trốn lủi, cuối cùng hanh thông, độc bá thiên hạ (đây chỉ là cách dùng hình ảnh thôi nhé, đừng tưởng thành vua thành chúa, rồi khi không được làm vua, làm chúa đến đòi đập mu rùa thì oan khiên lắm).
Xem thế, bộ Linh Xương Đà thật vi diệu, nhiêu khê. Phải tường tận thì mới mong cải được số do nó gây ra.
Không phải cứ thấy Linh Xương Đà, thầy bói kê đơn Cải số, là cứ cho một toa thuốc là sẽ giải được đâu. Có khi uống nhằm thuốc độc, nặng thêm, đẩy con người ta tới chỗ cùng cực hơn đó.
Ví như lá số Endopain. Lá số này, dẫu có thấy Đà la nhị hợp cũng không thành cách Xương Đà được. Vì vậy, lá số này không bị hại về Linh Xương Đà cố định. Nhưng ở vận 44-53 tất sẽ bị hại, lý do chính là bộ Linh Xương Đà Sát lưu động bị Liêm Phủ ở Mệnh rung dữ dội kích hoạt mà sụp đổ.
Số này, đại vận này giàu có, mặc dù từ nay đến lức 44 có một lần bị rung chuyển, nếu nói về số lượng nhà cụ thể, thời tử vi, như Tôi thì bó tay, đơn giản là vì, một triệu đô, người ta có thể mua vài ba căn nhà, nhưng cũng có khi lại chỉ có một căn mà thôi. Cũng có thể dùng Mai hoa dịch hay các môn khác mà đoán ra số lượng nhà cửa đã có. Nếu theo tử vi, chúng ta có thể xem xét ở dạng, tổng số tài sản, ước lượng là bao nhiêu. Thời, cái lá số này, vào thời điểm này thì tiền mặt không có bao nhiêu, đủ dùng xài (tiền mặt có bao nhiêu đều nhăm nhe đầu tư buôn bán). Nhưng tài sản nằm trong bds cũng đã có trên 10 triệu Mỹ kim rồi.
Sơ lược về cách Linh Xương Đà Vũ là như vậy !.
Nên nhớ, không phải là hỏi cách giải bộ này, mà phải là cải số, khi bị bộ này tác hóa. Tuy nhiên, biết được căn nguyên của nó, mới chỉ là bước đầu gọi là chẩn đoán bệnh. Còn giải, tức là kê toa thuốc ra sao, lại là chuyện khác, chuyện của cải số. Có những nguyên tắc của nó.
Đây là một vấn đề, về thường lý, nó rất nan giải. Từ đó dễ dẫn đến những ngộ nhận sau:
-Sau khi tìm được phép Cải số, ví dụ như trường hợp của Jany. Việc tìm người có lá số như đã được chỉ dẫn là vô cùng khó. Ngay cả khi đã tìm được rồi, chắc gì người ấy đã có thể cùng với mình kết thành phu thê ?.
Về thường lý thì đúng là vậy. Nhưng về lý số thì không như vậy !.
Thật vậy. Lấy ví dụ, người có bệnh. Tìm thầy có khả năng chữa đúng được bệnh cho mình là khó. Nhiều khi, với bệnh nan y, lại vô cùng khó. Nhưng đó là công cuộc, là vận động nhân sinh. Nó không thuộc về cái gọi là lý luận của y học. Vì thế, đương nhiên, không chỉ bệnh nhân, người nhà của bệnh nhân, bạn bè, …cùng nỗ lực tìm kiếm. Đó chính là sự vận động nhân sinh, là sự nỗ lực của con người trong việc chữa bệnh. Còn khi gặp rồi, đương nhiên, khi người thầy thuốc thấy đúng con bệnh mà mình có khả năng chữa. Có khi nào người thầy thuốc đó từ chối không chữa, để mặc cho bệnh nhân chết không ?. Có thể có, nhưng ít lắm. Và cái phần trăm nhỏ nhoi đó, nó không thuộc về cái gọi là lý luận y học. Nó thuộc về y đức.
Cải số cũng gần giống như vậy. Tìm được người đúng như đã được chỉ dẫn. Khó thật. Nhưng đó là sự vận động của con người, sự cố gắng, bản lĩnh và nghị lực cùng với biết bao nhiêu nhân tố khác nữa !. Có thể người ta bảo rằng, gặp được đó cũng là Phúc. Vâng !, đúng là Phúc. Nhưng trên phương diện mệnh lý tử vi, thì phúc đó không phải là phúc theo cái lý của tử vi !. Đó là cái Phúc tổng quát hơn nhiều. Nó thuộc về lý luận nào, chẳng ai nói tới cho cụ thể được. Có người thì bảo đó là do Phúc thực tại. Ừ thì là Phúc thực tại. Khi mà ta không sờ được nó, không thấy được nó bằng xương bằng thịt. lại chẳng có một cái lý luận cơ bản nào hướng dẫn. Thì nói thế nào mà chẳng được. Thế nên, nếu nói Mệnh, mà chẳng nói là mệnh lý tử vi, thì nói thế nào mà cũng được. Nhưng ở đây, rõ ràng, bệnh được chỉ ra trên mệnh, chính là theo cái lý của tử vi. Thì muốn chữa cái bệnh đó, thời dùng chính lý tử vi mà chữa. Chứ nếu chỉ nói chung chung như : Bảo con bệnh rằng: cứ tu đi, làm việc thiện, hãy thanh tâm, hãy ăn chay, mà quên đi cái cần có là phải dùng y học để chữa bệnh, thì đó đâu phải là chữa bệnh. Mệnh cũng thế. Phải nói bằng chính cái lý của tử vi thời để chữa cho cái mệnh lý tử vi.
Tất nhiên, trong nhiều trường hợp, mệnh vẫn có thể chữa, hay cải được bằng những phép chữa mệnh tổng quát hơn trên nền tảng mệnh lý tổng quát nhất. Nhưng rõ ràng, người ta, nếu theo phương pháp đó, từ xưa đến nay, vẫn đã và đang, có lẽ cũng là sẽ vẫn làm thì không thể có một môn học xác định. Cũng như kiểu chữa bệnh bằng tập thể dục vậy. Tất nhiên sẽ khỏe mạnh, nhưng y học sẽ không thể phát triển nếu cứ lấy đó làm phương pháp bao trùm cho hết thảy.
Khi đã tìm ra rồi. Thì khỏi lo. Một lá số đã ứng như thế, khi gặp nhau, họ sẽ thấy sự cần thiết phải có nhau. Về mặt lý số, đó gọi là ứng số. Cho dù trên lá số của Jany, người chồng đúng số là người chẳng ra gì !.
xem ra, có vẻ thấy mâu thuẫn ?. Nhưng thực không phải vậy. Bởi đây là sự vận dụng những nguyên lý tổng quát nhất, có tính chất nền tảng của tử vi vào thực tiễn đời sống. Có thể hình dung như thế này:
Một chiếc xe ô tô. bạn đang lái nó, nhưng đến giữa đường bị hỏng, chẳng hạn như két nước làm mát bị vỡ. Khi đó, đương nhiên chiếc xe đó bị hỏng, không thể tiếp tục được hành trình. Nếu cố gắng thực hiện hành trình, thời máy sẽ cháy. Hệ lụy của nó là vô lường. Nhưng nếu bạn là người có kiến thức về động cơ, hay xe. Bạn sẽ có cách khắc phục nó để đi tới nơi có thể sửa chữa. Hoặc như bạn có cái quạt điện, nhưng nó lại bị nóng khi chạy, chạy lâu sẽ cháy. Bạn tìm cách làm mát nó, thì bạn sẽ dùng được nó.
Tôi lấy ví dụ đó, để cho thấy rằng, con người ta, đối với hệ động lực hoạt động theo các nguyên lý vật lý, thì khi nó bị sự cố, muốn khắc phục sự cố, người ta cũng phải vận dụng những định luật khác khả dĩ khắc phục được sự cố đó. Các định luật đó cũng vẫn sẽ là những định luật vật lý. Thì ở cải số cũng vậy. Trường hợp trên lá số gặp người chồng chẳng ra gì, thì bằng những nguyên lý vận hành mà tử vi tiềm tàng, chúng ta khai thác nó, vận dụng nó đúng đắn thì những điểm yếu trên lá số, như lá số Jany về người chồng, rồi cả việc sinh đẻ, là có khả năng khắc phục.
Nếu Bạn là cái người có biết về trường hợp giờ Kim sà, mà Tôi đã đưa ra tới ba lá số: Một lá số của người thầy, hai là số của người con nuôi, và cuối cùng là số của người con dâu. Tổ hợp cả ba lá số đó chính là đã có sự sắp xếp về lý số để cho cái mục tiêu Cải số, khắc phục cái tính lý nguy hiểm của giờ Kim sà có thể được thực hiện.
Bạn nói đúng. Việc tìm những lá số đó khả dĩ đối với thời đại ngày xưa. Nhưng ở thời đại ngày nay, người ta vẫn nỗ lực được, và cao nhất là bằng tâm và đức. Cùng với sự kiên tâm, tất sẽ có khả năng thành công. Với sự lần lượt, đầu tiên phải tìm cho được người thầy. sau đến đứa con nuôi. Cứ kiên tâm làm, cánh cửa vào kho tàng dần sẽ mở toang !.
Tôi không còn bao nhiêu bài nữa, cũng như đã hứa không tranh luận. Nhưng viết như apollo như trên, thật là chẳng hiểu gì cả. Không chỉ có thể chứng minh ràng mạch cái bộ Linh Xương Đà Vũ, mà cách này còn có thể nhìn từ nhiều khía cạnh để nhìn rõ bản chất.
Vì thế, apollo có hiểu hay không, không còn là vấn đề của Tôi, nhưng trong chủ đề này của Tôi, Là người đề cập đến cách cục này, nên vì trách nhiệm với bạn đọc, ở mức độ cho phép, Tôi viết thêm ý nữa, nếu bạn đọc có hiểu, thì tốt, nếu không hiểu thời đành chịu.
Trước hết cần thấy rõ bản chất hung họa của bộ Linh Xương Đà Vũ. Do bức đương số đến chỗ tự vẫn. Tiến trình của hung họa cũng do đó mà bộc lộ rõ ràng. Từ Hung đến Sát. Ta thấy rõ, Đà chủ hung, Linh chủ sát. Tuy rằng cả hai đều âm độc. Từ đó mà suy, thấy rõ Đà đến trước, Linh đến sau. Ép đương số cho đến chết. Quá trình là rõ ràng, chẳng có cái chết nào chết trước, phiền muộn, lo lắng sau cả !!! Xem Bộ Linh Xương Đà Vũ, thấy ngay Đà là hung, Linh thì Sát, Vũ là kết cục cũng là nội dung của họa hại, bởi thế, nếu không phải là Vũ, mà là Cơ Lộc Mã thì tuyệt đường sinh nhai mà chết. Còn nhiều biến cách nữa.
Biến cách Linh Đà Xương Vũ rất phức tạp và tinh tế. Trong đó, thấy rõ chỉ có ba sao đóng vai biến hóa là Xương Đà Vũ. Mỗi biến hóa là một biến cách. Chỉ có Linh cố định, ngồi ỳ một chỗ. Nhưng như thế không có nghĩa đó là nhân. Cái nhân của cách cục ở đây chỉ rõ là cái nhân gây họa. Chứ không phải là một cái nhân tĩnh tại.
Có hiểu được lẽ biến hóa đó, mới có thể hy vọng vận dụng được biến hóa của Linh Xương Đà Vũ.
Đừng nhìn thấy, đương số nào bị dính Linh Xương Đà Vũ là có kết cục của cái chết, rồi nói rằng Linh chủ Sát, gây nên cái chết mà cho rằng đó là hạt nhân trung tâm. Nắm bộ này theo cách đó, thì làm sao hiểu được biến hóa và vận dụng biến cách của Kiếm chiêu, qua một chiêu này.
Bao nhiêu trường hợp ví dụ mà mọi người đã hỏi, đủ thấy biến hóa của Bộ này như thế nào. Nếu lấy sự cố định của Linh mà luận làm trung tâm, thì làm sao hiểu được căn nguyên, cội rễ của hung họa.
Viết đến thế này là quá nhiều. Tôi sẽ không trình bày thêm.
Nguồn Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Tránh những lỗi được kể sau chắc chắn tình yêu của vợ chồng bạn sẽ được cải thiện. Theo kinh nghiệm của một chuyên gia phong thủy nhận định rất ít phòng ngủ hiện nay thỏa mãn tiêu chuẩn phong thủy của phòng ngủ. Hầu hết chúng không có dòng chảy năng lượng cân bằng và thiếu sức sống của tình yêu. Dường như mọi người chỉ quan tâm tới phòng khách mà thường bỏ qua căn phòng quan trọng nhất trong nhà. Và chúng đặc biệt quan trọng đối với những ai đang độc thân hoặc những người có hôn nhân không hạnh phúc. Hãy xem bạn có đang mắc những lỗi cơ bản sau không nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
Hôn nhân của người tuổi Tý thường thiên về phương thức truyền thống hoặc mai mối. Khi lựa chọn đối tượng để tiến tới hôn nhân, người tuổi Tý coi trọng phẩm hạnh, điều kiện kinh tế, thái độ trong công việc. Họ không coi trọng hình thức của đối tượng.
![]() |
Gia đình của người tuổi Tý tương đối hạnh phúc. Song, đôi khi họ lại xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ chỉ vì một việc nhỏ nhặt nào đó.
Nam giới tuổi Tý rất tận tâm và có trách nhiệm. Vì gia đình, họ có thể tự kéo mình ra khỏi những lý tưởng xa vời, viển vông. Họ sẵn sàng giúp đỡ vợ con việc gia đình trong những ngày cuối tuần. Không những vậy, đàn ông tuổi Tý còn có thể đảm nhiệm các công việc khá lớn ngoài xã hội.
Cũng như nam giới, nữ giới tuổi Tý rất có trách nhiệm với gia đình. Họ không những là người vợ, người mẹ tốt mà họ còn là người phụ nữ thành đạt ngoài xã hội. Họ có thể thay chồng lo toan tất cả việc nhà và giúp đỡ khá hiệu quả sự nghiệp của chồng. Họ cũng rất thích cho con cái theo học những bộ môn liên quan đến nghệ thuật.
Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)
Phú có câu "nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tín khả bằng", nghĩa là nữ mệnh có Thái Dương là người đoan chính, sớm gặp chồng hiền . Xét trên dịch lý e rằng câu phú này không đúng; bởi Thái Dương là sao cực dương cư mệnh phái nữ không hợp.
Thái Dương càng miếu vượng tính mâu thuẫn càng cao nên nữ mệnh có Thái Dương cư các cung Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ dễ thành công trên đường sự nghiệp nhưng khó thuận nhân duyên. Sửu Mùi Âm Dương đồng cung khó tránh đôi lần dang dở, các cung còn lại vì hãm địa lại hóa ra đỡ xấu, chịu nhẫn nại qua những phút giây bất thuận thì vẫn có thể được hưởng cảnh bạch đầu giai lão.
Thiên Đồng là phúc tinh cư mệnh dễ gặp may mắn. Nhưng Thiên Đồng là nữ tinh yếu đuối, bản chất thay đổi vô chừng nên càng may mắn càng có khuynh hướng tự gây phiền toái cho mình. Nghĩa là trong cái tốt đã chứa sẵn mầm biến động, khó tìm hạnh phúc với chồng con; ngay cả Đồng Lương miếu ở Dần Thân cũng thế.Hãy theo dõi cùng Lịch ngày tốt nhé. Tính cách người tuổi Thìn nhóm máu O: Thông minh, vui vẻ
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Bài kinh thể hiện quan điểm của Đức Phật về “sân khấu” và “kịch trường” dưới đây là Kinh Puta, chương tám, Tương ưng thôn trưởng, Kinh Tương ưng bộ tập II (số thứ tự 15) bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, II. Puta (S.iv,306)
1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Rồi Talaputa, nhà vũ kịch sư (natagàmani), đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
3) Ngồi một bên, vũ kịch sư Talaputa bạch Thế Tôn:
– Con được nghe, bạch Thế Tôn, các vị Đạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng: “Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười (pahàsadeve)“. Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?
– Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này.
4) Lần thứ hai, vũ kịch sư Talaputa bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con có nghe các vị Đạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng: “Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười”. Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào
– Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này.
5) Lần thứ ba, vũ kịch sư Talaputa bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con có nghe các vị Đạo sư, các vị Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng: “Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười”. Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?
– Thật sự, Ta đã không chấp nhận và nói rằng: “Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này”. Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông.
6) Này Thôn trưởng, đối với những loài hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng tham, còn bị lòng tham trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường, tập trung những pháp hấp dẫn, thời khiến lòng tham của họ càng tăng thịnh. Này Thôn trưởng, đối với những loại hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng sân, còn bị lòng sân trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường tập trung những pháp liên hệ đến sân, thời khiến cho lòng sân của họ càng tăng thịnh. Này Thôn trưởng, đối với loài hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng sân si, còn bị lòng sân si trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường tập trung những pháp liên hệ đến sân si, thời khiến cho lòng sân si của họ càng tăng thịnh.
7) Người ấy tự mình đắm say, phóng dật, làm người khác đắm say và phóng dật, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh trong địa ngục Hý tiếu (Pahàso). Nếu người ấy có (tà) kiến như sau: “Người vũ kịch nào, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười”. Như vậy là tà kiến. Ai rơi vào tà kiến, này Thôn trưởng, Ta nói rằng người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: một là địa ngục, hai là súc sanh.
8) Khi được nói vậy, vũ kịch sư Talaputa phát khóc và rơi nước mắt.
– Chính vì vậy, này Thôn trưởng, Ta đã không chấp nhận và nói: “Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này”.
– Bạch Thế Tôn, con khóc không phải vì Thế Tôn đã nói như vậy. Nhưng, bạch Thế Tôn, vì con đã bị các Đạo sư, các Tổ sư vũ kịch thời trước đã lâu ngày lừa dối con, dối trá con, dắt dẫn lầm lạc con rằng: “Người vũ kịch nào trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên hay cười”
9) Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới!
10) Vũ kịch sư Talaputa được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới.
11) Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Talaputa… trở thành một vị A-la-hán nữa.