Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử. Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp. Tục ngữ nói “đàn ông như cái đăng, đàn bà như cái đó” hoặc nói “Đàn ông đem vô, đàn bà cất giữa” v.v… đều là chỉ về sự tương quan trong cuộc lập nghiệp của đôi vợ ch
Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử. Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp.
Tục ngữ nói “đàn ông như cái đăng, đàn bà như cái đó” hoặc nói “Đàn ông đem vô, đàn bà cất giữa” v.v… đều là chỉ về sự tương quan trong cuộc lập nghiệp của đôi vợ chồng.
Nghệ thuật xem tướng TỔNG QUÁT HÌNH TƯỚNG PHỤ NỮ Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ : Đăng lùa được cá, nhưng đó lủng rách thì cá chui lọt đi hết còn đâu. Vậy hình tướng của đàn bà trọng đại tới tương lai chồng con lắm. Sau đây chúng tôi xin sưu tập và dịch rỏ phần tổng quát về hình tướng phụ nữ để quí thân chủ và bạn đọc suy nghiệm. – Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử.
– Lưỡng quyền cao mủi nhỏ là: Hại tử khắc phu.
– Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp.
– Mũi cao lỗ kín là: Có chồng giàu sang.
– Môi xứng với miệng là: Con làm nên danh vọng.
– Mặt chỗ lép chỗ nhọn là: Sạt nghiệp chồng con.
– Mặt sáng ngời như ngọc: Ắt đẻ con sang, con hiếu.
– Mũi nhỏ mặt bạnh là: Đa dâm đa loạn.
– Mình thơm mắt sáng là: Phu quí tử vinh.
– Miệng rộng mồm méo là: Phu cùng tử yểu.
– Trán thẳng mày thanh là: Đàn bà phước đức.
– Mặt lớn má lép là: Người vô phước.
– Mũi tròn da mịn là: Tướng phụ nữ hưng gia.
– Mũi tẹt mặt lớn là: Tướng đàn bà phá sản.
– Môi trắng mỏ nhọn là: Phường ăn không nói có.
– Má cao khắc lỏm là: Tướng khắc chồng con.
– Môi hường tươi: Ắt sanh con quí.
-Con ngươi đỏ như tia lửa là: Khắc sát chồng con.
– Dáng vóc nhàn tịnh khiêm cung là: Nghiêm tướng.
– Mặt đẹp con ngươi vàng là: Sát tướng.
– Tướng hình đoan chính trang nghiêm là: Uy tướng.
– Vẻ mặt hoà dịu, mừng không lộ, sợ không khiếp là: Nghiêm tướng, quí tướng, có con quí chồng sang. – Mặt đẹp nhưng trắng như vôi, lông mi đen rậm như lưỡi dao lớn, con ngươi như mắt cá đỏ, lông mày thô như chổi, đều là Sát tướng. Dù mặt – tướng diện – có đẹp đẻ đến đâu cũng hình phu khắc tử sát hại chồng con ghê lắm. Trở lên là tướng hình tốt xấu lẫn lộn, xem rồi suy gẩm ắt thấy điều hay. Sau đây là tướng hình đàn bà hiền đức. Trán bằng, đầu tròn, tóc mịn đen mướt. Mặt như khuôn thiên, cằm nở dài mép có một vành. Đi đứng ngay thẳng, ngồi nằm khoan thai. Tóc nỏn nà nhuyễn mượt, mắt dày mày thanh môi hồng răng trắng ngà, da mịn xương nhỏ không lộ, mình trắng hơn mặt, thân mình sắc hoà dịu. Lưng vai tròn, ngực rộng, vú to không xệ, rún sâu có vành. Bàn tay dài, ngón tay hơi nhọn, tiếng thanh, ít nói cười. Hơi mình thon, xương âm cao nhô ra, thịt dầy, âm đạo thẳng đều là tướng hiền, có phước đức. Lại có những tướng hình tổng quát lẫn lộn thiện ác, tốt xấu như sau: Người có tướng đi đứng khoan hoà hiền diệu, tinh thần nghiêm chỉnh, tiếng nói trắng thanh, ngồi nằm đoan chính là tướng đàn bà quí, lập danh cho chồng, để đức cho con, hưởng thọ tuổi cao, sanh toàn con trai. Người có tướng mặt hơi vuông dài, ngực lớn, tiếng nói lớn mà thanh, tinh thần tươi sáng, cử chỉ đoan chính, chuyện trò êm thấm hoà dịu, vẻ người trang nghiêm chửng chạc, khiến kẻ đối diện nể trọng, ấy là đàn bà có phước đức trinh thuận, liêm chánh. Người có tướng diện tươi thắm như hoa nở đầy hương nhụy, cười như hoa đào, mắt sáng như sao chớp, đi đứng phong lưu đài trang, làm cho người đối diện phải ao ước mơ tưởng và hình dung điều bất chánh, có khi kẻ đối diện có cảm tưởng như cởi bỏ y trang, để xoi mói vào bên trong thân thể, ấy là tướng tà dâm, rất dễ bị mềm lòng nhẹ dạ. Không tốt. Tướng người mặt nhọn ngực lép mà bạnh ra, môi ướt răng hô, mắt tròn trắng dả, mũi nguỡng thiên, tiếng nói rè, đi như ma đuổi, đi lắc như phải gió, chưa nói mà ngoắc tay nghiêng mình kiễng chân như con lật đật. Tướng nghèo khó, hình phu, khắc tử. Má thật cao, mắt lỏm, tóc xoắn, môi mép có lông rám như râu. Xương thịt thân thể cứng rắn, mình miệng và các chỗ kín có mùi hôi hám khó chịu đều là các hình tướng bần tiện, hạ đẳng, ngu độn chỉ làm nô tỳ chớ không thể làm nổi ca kỷ được nữa.
Tướng có gò má thật cao, lông mày xoáy hoặc hình chổi sề, hình lưỡi đao, tiếng nói nhọn bén như ong vò vẻ, mắt như mắt chó sói, như mắt cá đỏ, là tướng đàn bà cùng hung cực ác, khắc sát chồng con dữ lắm. Lại có tướng người đi đứng không yên như gấp rút vội vàng như sợ sệt gì vậy. Người thì đong đưa nghiêng ngã, tưởng như sắp té đến nơi, giọng nói cợt nhả đỏng đảnh mời mọc, đó là tướng đàn bà ngồi lê đôi mách, bần tiện hạ lưu, chuyên đi nịnh bợ xoi móc hàng xóm. Cũng có tướng người mặt ngang trán lớn má cao, tiếng nói khao khao, bước đi mông lắc như chim se sẻ, mắt lộ con ngươi đỏ như diều, như cá chép, như mắt rắn là người bạc ác, lòng một dạ hai, bất nghĩa bất tín mà ương ngạnh, ưa nói càng nói bướng.
Bình Địa Mộc - Gỗ ở dưới đồng bằng làm vật gia dụng
Tìm hiểu về khái niệm Bình Địa Mộc
Bình Địa Mộc trung chỉ nhất sinh
Bất phùng Kim giả bất năng thành
Ngũ ban biệt Mộc kỵ Kim loại
Nhược ngộ đương nhiên bất đắc sinh
Giải thích : Trong Lục Mộc chỉ có Bình Địa Mộc (cây trên đất) không sợ Kim (Kim khắc Mộc), mà còn cần hòa hợp mới thành vật hữu dụng (cưa, búa đẻo gọt cây thành vật để dùng như tủ, bàn, ghế).
Bình Địa Mộc và Đại Lâm Mộc gặp nhau thì tốt. Lưỡng Mộc thành Lâm.
Sách Bác Vật Vựng Biên biên chép: “Mậu Tuất Kỷ Hợi thì Tuất là cánh đồng, Hợi là nơi cây cỏ sinh được. Tuất Hợi lúc mộc khí qui căn, âm dương bế tắc như mùa đông cành lá trơ trụi mà gốc rễ ẩn tàng để nảy nở.
Người Bình Địa Mộc mà mệnh tài cán thì cái tài thường ẩn không hiện, nếu được dùng ví như cơn mưa thuận gió hòa, ở thời loạn ví như bị sương tuyết dập vùi hoài tài bất ngộ. Bình Địa Mộc cần gặp quí nhân cần người biết dùng, được sử dụng đúng sẽ làm việc đắc lực. Bình Địa Mộc trông vẻ ngoài không bề thế lẫm liệt nhưng bên trong chứa chất tài năng đáng nể. Bình Địa Mộc mà mệnh bình thường sẽ mãi mãi bình thường dù được vận hay.
Mậu Tuất toàn thổ, thổ bị mộc khắc, Kỷ Hợi, Hợi sinh mộc bởi thế Kỷ Hợi làm việc mẫn cán hơn Mậu Tuất
Thiên Riêu thuộc thủy là một trong những đào hoa tinh diệu của Tử Vi. Riêu lãng mạn đĩ thõa hơn, nhưng khi ở đắc địa cũng hào hoa, tài hoa hơn. Thiên Riêu dễ bắt với tình và thường tùy tiện, người Trung Quốc có mấy chữ để tả tính chất Thiên Riêu: “Chiêu thủ thành thân” nghĩa là “ngoắc tay gọi vào để bắt tình” rất đột ngột và thật ngẫu nhiên. Bởi vậy khi Thiên Riêu đóng vào cung phối ngẫu hay đưa tới tình trạng không hạn mà kết hợp.
Nếu Riêu gặp Xương Khúc lại càng ướt át dâm tình, Riêu đứng với Đào Hồng thì lẳng lơ bất chính. Như có câu phú:
Đào Riêu số gái ai hay
Chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào
Ở hãm địa Riêu càng mê đắm tình dục, tửu sắc. Riêu đắc địa ở Dần Mão Dậu Tuất Hợi. Riêu đắc địa gặp Long Phượng có hy vọng hưng vượng lợi danh..
Riêu đắc địa đứng cùng Tràng Sinh, Đế Vượng tài hoa, tao nhân mặc khách. Riêu gặp Lưu Hà thông minh hoạt bát làm việc lẹ làng trôi chảy.
Riêu đứng với Tả Hữu lại chuyển ra sao mối lái, vào Mệnh Tài Quan thì làm ăn với người khác phái phấn phát tiền tài, tạo dựng sự nghiệp. Nhưng Riêu gặp Hóa Kị, Văn Khúc mà ở mệnh nam thì lại dễ khổ tình, mất tiền cho gái.
Thiên Riêu đứng với Phá Quân hãm lại có cả Thiên Mã dễ thành du đãng, hoặc tâm tính bội bạc khó chơi. Thiên Riêu đứng với Thiên Đồng ở Phu Thê cung là có cuộc tình tay ba, ngoại tình.
Trong chương Đẩu số phát vi luận của Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư viết: “Huyên uẩn (một tên gọi khác của Thiên Riêu) tam cung (cung đứng thứ ba là cung Thê) tắc tà dâm nhi đan tửu” nghĩa là: sao Thiên Riêu đóng cung thứ ba thì tà dâm và mê luyến. Câu này không mấy nhắc tới Thiên Đồng.
Tuy nhiên theo kinh nghiệm thì phải có Thiên Đồng mới tà dâm ngoại tình như câu: Đồng Riêu đoán ắt ngoại tình chẳng sai. Chỉ Thiên Riêu không thôi thì bất chính cả hai.
Riêu đi cùng sao Âm Sát (sao này sẽ nói riêng vì khoa Tử Vi Việt không nhắc tới bao giờ) là con người nhiều âm mưu thủ đoạn. Riêu gặp Bạch Hổ dễ bị thú vật cắn.
Những câu phú về Thiên Riêu có: - Riêu tại Hợi vi minh mẫn (Thiên Riêu đóng Mệnh ở Hợi con người minh mẫn)
- Riêu Đà Kị đi liền ba cung mà có cung Mệnh Thân ở một trong ba cung ấy thì luôn luôn gặp họa
Ngày 22 tháng 11 đánh dấu thời điểm bắt đầu tiết khí Tiểu Tuyết – tiết khí thứ 2 của mùa đông.
► Tra cứu: Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com
Tiết khí Tiểu Tuyết kéo dài từ ngày 22 hoặc 23 tháng 11 đến ngày 7 hoặc 8 tháng 12. lúc đầy, Xích kinh ở 240 độ, nhiệt độ giảm xuống thấp, có nơi có tuyết rơi nhưng lượng tuyết không lớn. Trong tiết Tiểu Tuyết, khí hậu ở khu vực Đông Nam Á chuyển động tuần hoàn khá ổn định, khu vực Seberia thường có áp thấp hặc rãnh thaaos nên không khí lạnh xuôi về phương Nam, miền Bắc nước ta có gió to và nền nhiệt giảm sâu. Không khí lạnh tràn về, thường xuất hiện rét đậm, vùng núi cao có tuyết rơi đầu mùa.Tiết khí Tiểu Tuyết, thứ nhất là không thấy rõ mặt trời, thứ hai là dương lên âm xuống, thứ 3 là bế tắc thành đông. Là ý nói, nhiệt độ hạ thấp nên trời mù mịt, không mưa, khó nhìn thấy ánh sáng mặt trời; dương khí bầu trời tăng lên, âm khí dưới đất hạ xuống dẫn tới âm dương không giao, thiên địa không thông; vì thiên địa bế tắc mà chuyển thành mùa đông giá lạnh. Lúc này, cảnh tượng mùa đông xuất hiện ngập tràn.
Vào tiết Tiểu Tuyết, người ta thường có tục làm thịt khô để tích trữ, ăn dần, đặc biệt là với người vùng cao. Khi nhiệt độ thấp, khí trời khô ráo, là thời điểm tốt nhất để gia công thịt khô. Họ dùng thịt lơn để làm thành lạp xưởng, thịt gác bếp,… đợi đến mùa xuân là thưởng thức mĩ vị.Dưỡng sinh trong tiết khí Tiểu Tuyết cần chú ý về ẩm thực bởi thức ăn là nguồn gốc của sự sống, có thể khiến thân thể cường tráng, tăng cường tuổi thọ nhưng ngược lại, cũng có thể dẫn tới bệnh tật, trì trệ, suy yếu. Mùa đông, huyết dịch đông đặc, nên ăn nhiều các loại thực vật bảo vệ tim, phòng xuất huyết não như táo mèo, mộc nhĩ, cà chua, rau cần, củ cải,…Các thực phẩm để giảm mỡ máu như mướp đắng, ngô, kiều mạch, cà rốt cũng cần bổ sung. Mùa này nên ăn các loại thực phẩm có tính ôn như thịt dê, thịt bò, thịt gà, thịt chó, nhung hươu, ích thận như hạt điều, hạt sen, củ từ, hạt dẻ, ngân hạnh, canh xương, hạch đào,… Infographic: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong nămMón ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 1)Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có cơ hội phát huy tiềm năng to lớn của mình, là một kỳ cách tốt đẹp. Địa Không cư ở đây cũng tương tự.
Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ, lại gặp không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng, rất cần thiết để hai đế tinh có thể cộng tác với nhau. Thế nên Âm Dương Sửu Mùi gặp không vong đã tốt, thêm Hóa Kỵ trở thành hoàn mỹ.
Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ vì Nhật Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không vong.
Đi một vòng qua các khu nhà, bạn có thể phát hiện ra rằng có rất nhiều nhà treo gương bát quái hoặc gương bát quái trên mi cửa chính . Mục đích của việc treo gương bát quái chính là nhằm mục đích hóa giải các khí xấu chiếu vào nhà hoặc hấp thụ khác luồng khí tốt ở xa nhà. Trong tình trạng hiện nay, đất cát khan hiếm, nhà nọ nối tiếp nhà kia xây san sát nhau, cửa chính nhà này đối diện cửa chính nhà kia hoặc cửa sổ đối diện nhau là hết sức phổ biến. Chắc hẳn nhiều người sẽ băn khoăn, không biết treo gương bát quái trên cửa có gây ảnh hưởng cho nhà đối diện hay không?
Để hiểu được rõ vấn đề trên bạn đọc cần phải hiểu qua công dụng của Gương bát quái trong phong thủy. Gương bát quái được chia làm 3 loại, gương lồi, gương lõm và gương phẳng
1. Gương bát quái lồi:
Gương lồi có một đường cong hướng ra ngoài cạnh của nó, phản xạ và làm đổi hướng những sát khí có hại. Gương lồi giống như mai rùa, có hình cầu lồi lên, là 1 công cụ hóa giải sát khí. Có rất nhiều vật thể mang sát khí trong phong thủy như cột đèn, các vật thể có hình dáng nhọn sắc, con đường chạy thẳng vào nhà, nhà thờ, cột cờ, khoảng không gian giữa 2 tòa nhà cao, biển báo giao thông, ống khói…
Khi nhà ở bị các vật thể mang sát khí xung chiếu, gương lồi sẽ có tác dụng rất hữu hiệu. Nếu cửa chính hoặc cửa sổ bị các vật mang sát khí chiếu thẳng vào, có thể treo gương lồi trước cửa để hóa giải.
Các trường hợp dùng gương lồi:
- Nhà đối diện ngõ, ngã 3, bị con đường xuyên thẳng vào nhà
- Nhà đối diện cột đèn, cột điện, cây nhọn chĩa thẳng vào nhà
2. Gương bát quái lõm:
Gương lõm có tác dụng hấp thụ các khí tốt, tích tụ các nguồn năng lượng, nó cong lõm vào trong. Tác dụng của gương lõm lại trái ngược so với gương lồi: gương lồi dùng để “phân tán”, còn gương lõm dùng để “tích tụ” năng lượng. Nếu phương vị phong thủy nào có hiện tượng thất tán khí hoặc các vật thể được coi là tốt đẹp lại cách nhà quá xa, có thể treo gương lõm để thu hút năng lượng tốt.
Ví dụ, khi cửa chính đối diện cầu thang đi xuống, khí cát trong nhà sẽ thất tán. Lúc này nên treo 1 gương lõm trước cửa. Hoặc trong trường hợp từ cửa sổ có thể nhìn thấy 1 ngọn núi với hình dạng đẹp, thuộc loại núi Văn Xương (có lợi cho đường học vấn), nhưng lại cách nhà quá xa, hãy treo 1 tấm gương lõm trước cửa sổ để thu nạp khí tốt của núi.
Gương bát quái lõm dùng trong trường hợp
- Phía xa nhà có nguồn năng lượng tốt như 1 ngọn núi
- Tuổi của chủ nhà hợp với hướng của nhà, muốn hấp thụ nguồn khí tốt
- Trong nhà có cầu thang đối diện cửa, treo gương bát quái để tránh khí tốt bị tản ra
3. Gương bát quái phẳng:
Một gương phẳng được coi là trung lập. Đối với gương phẳng, nếu đặt trong nhà cũng có tác dụng thu hút, thâu tóm năng lượng tốt trong phong thủy. Nếu treo ngoài cửa chính hoặc cửa sổ sẽ có tác dụng phản xạ.
Treo gương phẳng tại phương vị cát lợi sẽ có tác dụng thu hút khí tốt; đồng thời, khi treo gương phẳng tại phương vị bị xung sát lại có tác dụng ngăn cản, hóa giải khí xấu.
Sau khi đã hiểu rõ tác dụng của các loại gương bát quái, có thể khẳng định một điều, cho dù có bị gương bát quái chiếu thẳng vào nhà cũng không có gì đáng ngại. Bát quái là một ký hiệu của vũ trụ , chỉ có tác dụng hóa giải điềm dữ, hoặc thu hút khí tốt chứ không hề gây bất lợi. Về cơ bản, bản thân bát quái không gây sát khí. Thông thường bát quái được in trên chất liệu gỗ, thi thoảng còn đính kèm gương nhỏ ở chính giữa nên được gọi là gương bát quái .
Tuy nhiên, nếu trên gương bát quái lại kèm thêm chạc đinh ba hoặc tranh thần tướng cưỡi hổ, tay cầm vũ khí thì sự việc sẽ khác. Vì chạc đinh ba và vũ khí trên tay thần tướng đều là vật sắc nhọn, hổ trắng cũng mang sát khí, nếu đối diện với cửa nhà người khác cũng gây sát khí cho họ. Bởi vậy bạn không nên treo gương bát quái dạng này đối diện với nhà hàng xóm.
Sân vườn cùng có tác động tốt về phong thủy, những người kinh doanh nhà đất hiểu điều này khi họ “giới thiệu” các thay đổi nhằm cải thiện “ấn tượng đầu tiên” của ngôi nhà. Nếu bạn đã sống trong ngôi nhà hiện tại hơn một năm, hãy lái xe vòng quanh khu
vực sinh sống một vài phút như thế đây là lần đầu tiên bạn ngắm toàn cảnh, sau đó trở về nhà.
Nhà bạn trông thế nào so với các ngôi nhà trong vùng? Nếu ngay lúc này bạn định mua một ngôi nhà mới, ngôi nhà hiện tại có đủ sức hấp dẫn không? Tại sao không? Trong số những lý đo đưa ra, liệu có các vấn đề có thể cải thiện bằng nỗ lực và chi phí tối thiểu không?
Những vấn đề nhỏ, chẳng hạn như hàng rào không được cắt tỉa, bãi cỏ héo úa trong vườn hay bộ xích đu bị bỏ mặc, ngày này qua ngày khác chúng có thể trở nên xấu xí hơn. Điều quan trọng là phải nhìn ngắm toàn cảnh ngôi nhà ít nhất một lần một năm hoặc mỗi khi chuyển mùa. Hãy kiểm tra cả ngoại thất ngôi nhà. Cửa cuốn bị lệch, sơn tường bị bong và máng nước võng xuống là những biểu hiện của khí đang suy giảm, báo hiệu rằng ngôi nhà cần được chú ý về phong thủy dưới hình thức bảo quản cơ bản.
Phong thủy tốt đòi hỏi nhà và sân vườn phải sạch sẽ và được bào quản tốt, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn phải tự làm mọi việc. Nếu bạn không có thời gian hoặc thật sự không thích làm việc nhà, hãy thuê người giúp việc và dịch vụ chăm sóc vườn có để thực hành phong thủy. Bạn không đủ khả năng thuê người làm? Hãy sử dụng các phương pháp phong thủy trong này để gia tăng sự thịnh vượng và có thể bạn sẽ nhanh chóng có đủ khả năng thuê người làm và dịch vụ chăm sóc vườn.
Người tuổi Mão thường rất thân thiện, hòa đồng, lịch sự và cũng rất chú trọng đến hình thức bên ngoài của mình. Từ họ toát ra một thần thái đặc biệt, rất có
sức cuốn hút người khác phái. Vì vậy đôi khi không cần phải chủ động mà chỉ cần thể hiện sự lễ độ, lịch sự của mình, họ cũng được người khác làm quen, bắt chuyện.
Người tuổi Mão thường có tình cảm phong phú, có nhiều tâm tư, cá tính ôn hòa, có thể thấu hiểu thông cảm cho người khác. Họ dễ nảy sinh tình cảm với người khác giới nhưng đôi khi cũng dế cãi cọ, tranh chấp. Vì vậy người tuổi Mão cần biết cách kiềm chế cảm xúc của mình để tránh gây tổn thương người xung quanh. Người tuổi Mão có phần khá “tiêu cực” trong tình yêu. Không phải là họ không có ước mơ về cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, cũng có thể họ sẽ “đột ngột” kết hôn với một người nào đó nhưng vẫn vô cùng thận trọng, cẩn thận với cuộc sống hiện thực. Cũng có thể họ chưa từng một lần được sống trong tình yêu và rất muốn được nếm thử cảm giác ngọt ngào của nó. Nhưng một điều cần lưu ý là trước khi yêu người tuổi Mão nên có thái độ chân thành, nhất thiết không được coi tình cảm là một trò đùa, nếu không người phải đau khổ sau này chắc chắn sẽ là chính là họ. Chàng tuổi Mão yêu Nam giới tuổi Mão thường có quan niệm khá mới mẻ trong tình yêu và luôn luôn có rất nhiều cô gái theo đuổi họ. Họ thường thể hiện sự thẳng thắn, thành thực của mình trong khi nói chuyền về tình yêu và lấy lòng phái đẹp một cách dễ dàng. Nhưng ngay khi đối phương muốn “trói chân” họ bằng một tình yêu thực sự thì họ lại biến mất không để lại dấu vết gì, tựa như một cơn gió vậy.
Nàng tuổi Mão yêu Nữ giới tuổi Mão thường có tính cách bình tĩnh, ôn hòa thuần khiết và cũng có những nguyên tắc riêng trong việc lựa chọn người yêu. Nếu xác định không yêu ai đó thì họ cũng sẽ không bao giờ thay đổi ý định. Nếu có một người nào đó đơn phương yêu họ và luôn chờ đợi một ngày nào đó họ hồi tâm chuyển ý thì e rằng người này đã chờ đợi một cách vô ích. Tình cảm của nữ giới tuổi Mão cũng giống như một cơn gió, không bao giờ dừng lại với người mà mình không yêu. Sẽ không có bất cứ một người nào trói buộc được họ nếu họ không tự nguyện. Nếu một ai đó cố tình làm như vậy thì họ sẽ tìm cách để đi thật xa khỏi người đó.(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Xếp theo mức độ 'nhiễm' tật háo sắc từ nặng đến nhẹ lần lượt là chàng trai tuổi Sửu, Ngọ, Thìn… Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết con trai tuổi nào háo sắc nhất nhé! Con trai tuổi nào háo sắc nhất? Thứ 1: Chàng trai tuổi Sửu N
Xếp theo mức độ ‘nhiễm’ tật háo sắc từ nặng đến nhẹ lần lượt là chàng trai tuổi Sửu, Ngọ, Thìn… Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết con trai tuổi nào háo sắc nhất nhé!
Nội dung
1 Con trai tuổi nào háo sắc nhất?
1.1 Thứ 1: Chàng trai tuổi Sửu
1.2 Thứ 2: Chàng trai tuổi Ngọ
1.3 Thứ 3: Chàng trai tuổi Thìn
1.4 Thứ 4: Chàng trai tuổi Tỵ
1.5 Thứ 5: Chàng trai tuổi Mùi
1.6 Thứ 6: Chàng trai tuổi Tý
1.7 Thứ 7: Chàng trai tuổi Dần
1.8 Thứ 8: Chàng trai tuổi Thân
1.9 Thứ 9: Chàng trai tuổi Hợi
1.10 Thứ 10: Chàng trai tuổi Tuất
1.11 Thứ 11: Chàng trai tuổi Mão
1.12 Thứ 12: Chàng trai tuổi Dậu
Con trai tuổi nào háo sắc nhất?
Thứ 1: Chàng trai tuổi Sửu
Những anh chàng tuổi Sửu có số đào hoa, phong lưu thiên bẩm, họ cũng không dại gì từ chối sự yêu mến hoặc tình cảm của người khác giới dành cho mình. Điều này đã thuộc về bản chất của người tuổi Sửu. Bởi vậy, nếu soi về độ háo sắc của 12 con giáp, chàng trai tuổi Sửu luôn giữ vững vị trí quán quân.
Thứ 2: Chàng trai tuổi Ngọ
Hễ nhìn thấy teen girl xinh xắn là trái tim những anh chàng tuổi Ngọ lại xốn xang, miệng thì xuýt xoa không ngừng và ngay lập tức lên kế hoạch để chinh phục trái tim nàng. Họ dành phần lớn thời gian trong ngày để “tăm tia” đối phương, thậm chí khi “hoa đã có chủ” thì họ vẫn liếc mắt đưa tình với những cô nàng có vẻ mặt kiều diễm hoặc sở hữu thân hình nóng bỏng.
Thứ 3: Chàng trai tuổi Thìn
Vốn tính tự cao tự đại cộng với sự tự tin thái quá, những anh chàng tuổi Thìn cho rằng đào hoa là điều đáng tự hào và không cần phải thay đổi. Đó cũng là lý do khiến mức độ háo sắc của họ ngày càng tăng.
Thứ 4: Chàng trai tuổi Tỵ
Sự nhiệt tình và ga-lăng với người khác giới dường như đã ngấm vào bản chất của những chàng trai tuổi Tỵ. Đồng thời, đi kèm theo đó là độ háo sắc vô đối, luôn thích tìm kiếm và chinh phục những điều mới lạ. Điều đó lý giải tại sao nhiều cô nàng lại say như điếu đổ trước vẻ lịch lãm của con giáp này.
Thứ 5: Chàng trai tuổi Mùi
Vẻ ngoài của những anh chàng tuổi Mùi thường đánh lừa đối phương rất khéo, bởi trông họ khá nghiêm túc và nhiều quy tắc. Vì thế nữ giới thường dành cho họ sự ưu ái cũng như niềm tin ngay trong lần tiếp xúc đầu tiên.
Bạn đừng quá coi trọng vẻ ngoài của họ kẻo bị “mắc bẫy” đó. Thực ra, người tuổi Mùi cũng háo sắc và đào hoa lắm. Họ rất giỏi giấu diếm và che đậy nên thường lấy được lòng tin của đối phương một cách dễ dàng.
Thứ 6: Chàng trai tuổi Tý
Mức độ háo sắc của con giáp này không chỉ bắt nguồn từ trái tim rung rinh mà còn từ bộ não bị sắc đẹp khác giới choáng ngợp. Họ dành quá nhiều thời gian cho việc tính toán để chinh phục trái tim người đẹp mà không cần để ý đến suy nghĩ và tình cảm của đối phương.
Họ cũng không nghĩ nhiều, hễ có “ý tưởng” gì là hành động ngay tức thì, bởi thế kết quả không viên mãn cho lắm.
Thứ 7: Chàng trai tuổi Dần
Các anh chàng tuổi Dần luôn cảm thấy hứng khởi và thú vị với những điều mới lạ, khác thường. Thậm chí, họ còn tham vọng được trải nghiệm và chinh phục điều đó. Thực ra, nói họ háo sắc và có tính trăng hoa cũng không sai, nhưng nói họ “có mới nới cũ” chắc sẽ chuẩn xác hơn.
Thứ 8: Chàng trai tuổi Thân
Có lẽ đây là con giáp mang “nỗi oan” nhiều nhất. Chỉ vì vẻ ngoài lanh lợi, hoạt bát nên không ít người nhầm tưởng họ đào hoa và háo sắc. Thực ra, những chàng trai tuổi Thân khá chung tình, một khi đã yêu thì coi người yêu là đẹp nhất và không quan tâm tới các cô nàng khác.
Thứ 9: Chàng trai tuổi Hợi
Suy nghĩ của chàng trai tuổi Hợi thấu đáo và chín chắn lên trông thấy khi họ bước vào cuộc sống hôn nhân. Thời còn tự do bay nhảy, họ cũng đôi chút háo sắc đấy. Nhưng khi đã có người nâng khăn sửa túi, họ lại khá chung tình, sống có chừng mực và biết quan tâm tới suy nghĩ của đối phương.
Thứ 10: Chàng trai tuổi Tuất
Những anh chàng tuổi cho rằng việc trăng hoa hay háo sắc là điều không mấy tốt đẹp gì, trái lại nó chỉ mang tới phiền toái cho tình yêu. Bởi vậy, trong tình yêu, họ chung thủy vô cùng, thậm chí có thể nói họ trung thành với tình yêu trước sau như một.
Thứ 11: Chàng trai tuổi Mão
Đối với con trai tuổi Mão, việc chí thú xây dựng sự nghiệp vững vàng quan trọng và đáng để làm hơn là mất thời gian cho chuyện trăng hoa nọ kia. Khi đã có được ý chung nhân, chàng trai tuổi này dùng toàn bộ ánh mắt cũng như tình cảm yêu thương cho đối phương, không có chỗ cho việc ngắm nhìn hay theo đuổi bông đùa với các cô nàng khác.
Thứ 12: Chàng trai tuổi Dậu
Những anh chàng tuổi Dậu toàn tâm toàn ý với người mình yêu. Họ luôn tìm mọi cách để đối phương cảm nhận được tình cảm nồng nhiệt và sâu lắng của mình, thử hỏi thời gian đâu để họ trăng hoa hay suy nghĩ viển vông tới cô nàng nào đó được.
Dọn nhà dịp tết hợp phong thủy mang lại tài lộc - Phong thủy phòng bếp - Xem Tử Vi
Dọn nhà dịp tết hợp phong thủy mang lại tài lộc, Phong thủy phòng bếp, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Dọn nhà dịp tết hợp phong thủy mang lại tài lộc, tu vi Dọn nhà dịp tết hợp phong thủy mang lại tài lộc, tu vi Phong thủy phòng bếp
Theo quan niệm phong thủy thì bạn chỉ nên dọn dẹp nhà cửa vào tuần cuối cùng của năm mới, sau khi đã thành kính tiễn Táo công và các vị thổ công lên trời. Bạn cũng nhớ phải nạp lại năng lượng cho các vị Phúc, Lộc Thọ và đừng quên trả hết nợ nần…
Người Việt Nam cũng như Trung Quốc tin rằng để nhận được sự phù hộ của thần linh, cần thực hiện các nghi lễ làm hài lòng các thần thổ công, những vị thần này được coi là sẽ lên trời vào ngày 24 tháng chạp âm lịch.
don-nha-dip-tet-hop-phong-thuy-mang-lai-tai-loc
Vị quan trọng nhất trong các vị thổ công là Thần Bếp (Táo Công), chịu trách nhiệm chăm sóc sự sung túc của các thành viên trong nhà. Táo Công sẽ là trình báo Ngọc Hoàng các hoạt động trong năm của gia chủ, thỉnh cầu hộ gia chủ để mang về nhiều may mắn nhất. Táo Công thường lên Thiên đình sớm hơn một ngày so với các thần Thổ Công khác, nghĩa là vào ngày 23 tháng chạp âm lịch. Vào ngày tiễn Táo Công, người ta thường bày biện rất nhiều thức ăn và hương thơm trong nhà bếp, như hoa quả, bánh ngọt, mỳ sợi,… Hai thứ quan trọng nhất thiết phải có là hai cây tre, với ý nghĩa tượng trưng là sẽ đưa Táo Công lên trời, thứ hai là thật nhiều kẹo. Người ta tin rằng nếu Táo Công có rất nhiều đồ ngọt để ăn thì miệng ngài sẽ ngọt ngào và ngài sẽ chỉ bẩm báo những điều tốt đẹp. Tại một số gia đình, để thể hiện sự hiện diện của Táo Công, người ta dùng một mảnh giấy đỏ có viết tên vị thần này trên đó, có nhà thì vẽ cả hình vị này trên giấy đỏ. Mảnh giấy này được gác trên nóc bếp và vào ngày Táo Công lên trời, miếng giấy này được hạ xuống và đốt đi. Một mảnh giấy mới sẽ được đặt vào nóc bếp, với ý nghĩa gia chủ chào mừng Táo Công từ Thiên Đình trở về. Táo Công trở về vào ngày mồng 3 tháng giêng âm lịch, một ngày trước khi các thần Thổ Công khác trở về (ngày 4 âm lịch). Khi các thần Thổ Công vắng nhà, gia chủ bắt đầu chuẩn bị đón Tết. Người ta cho rằng sẽ không tốt lành nếu bắt tay dọn dẹp nhà cửa để đón xuân trước khi các vị thần về trời.
Những điều cần làm khi dọn dẹp nhà cửa
Sau khi các vị thần lên Thiên Đình, gia chủ cần nghiêm túc dọn dẹp nhà cửa ngay. Người ta mua quần áo mới, giày dép mới. Những vật dụng trang trí mang lại may mắn mới được đem ra bày biện, các nghi lễ phong thuỷ để nạp lại năng lượng được thực hiện. Việc đầu tiên là tẩy rửa hết năng lượng cũ, nghĩa là lau chùi tủ, vứt bỏ những đồ vật không cần thiết, lau chùi cẩn thận tất cả các phòng, dịch chuyển đồ gỗ để quét dọn bụi bặm tích tụ cả năm trước. Chổi quét nhà sau đó phải được giấu kín để không ai nhìn thấy trong suốt ngày mồng một Tết. Nếu chổi được đưa ra vào ngày đầu năm, nó sẽ quét hết may mắn của gia đình và mang vận rủi đến, vì vậy cần rất thận trọng với chổi.
Nạp lại năng lượng cho các vị Phúc – Lộc – Thọ
Điều quan trọng nhất là nạp lại năng lượng cho các vị Phúc Lộc Thọ. Nếu bạn đã mời được các vị thần quan trọng này về nhà, bạn nhớ lau chùi các bức tượng này thật cẩn thận trong giai đoạn chuẩn bị đón Tết. Vào ngày tất niên, đốt 3 ngọn nến trước mặt ba vị thần này vào 11 giờ trưa, điều này có ý nghĩa mang lại năng lượng của các vị thần sao cho năm mới. Nếu bạn chưa có các vị thần này thì năm nay là năm tốt để tìm một bộ thích hợp mời về nhà. Chỗ tốt nhất cho các vị là một bàn hay tủ bên tường ở phòng ăn, vì điều này đảm bảo là bao giờ cũng có đủ thực phẩm trên bàn ăn, đồng nghĩa với sự thịnh vượng.
Các thương gia phải lo trả hết nợ trước giao thừa. Mang tiếp nợ nần sang năm mới là điều không may nhất vì nó cảnh báo rằng bạn có thể lún sâu hơn trong nợ nần vào năm tới. Trước khi khoá sổ của năm cũ, người ta coi là rất tốt đẹp nếu bạn lì xì bao đỏ cho nhân viên. Điều này mang lại những khuôn mặt vui vẻ, tươi cười khi kết thúc công việc làm ăn của một năm, chuẩn bị đón chào năm mới. Sổ sách làm ăn khi này phải được dán lại bằng giấy đỏ, để khi chúng được mở lại vào đầu năm sau, màu đỏ đồng nghĩa với ngôi sao vận may. Cũng làm tương tự như vậy với các cửa của cửa hàng hay văn phòng. Như vậy khi mở cửa trở lại sau Tết, các cửa đều đã được dính giấy đỏ may mắn.
Dự trữ nhiều kẹo và quýt
Một công việc lớn trong chuẩn bị nhà đón năm mới là tích trữ nhiều đồ ăn ngọt. Người ta làm hoặc mua đủ loại bánh kẹo để không thiếu “sự ngọt ngào” trong nhà. Tiếp theo, bạn cần mua nhiều quýt, tên nó đồng nghĩa với “vàng”. Bốn loại thực phẩm quan trọng Ngay trước ngày đầu năm mới, tốt nhất là vào ngày 30 Tết, gia đình nên chuẩn bị 4 loại thực phẩm: cá muối, tỏi, hành củ và tỏi tây. Hãy mua loại hành tỏi còn cả rễ (điều này có nghĩa là dù làm gì, bạn cũng sẽ làm có đầu có đuôi). Hãy buộc chúng lại với nhau. Cá muối phải được rán vàng và buộc lại với nhau. Đặt tất cả 4 thứ trên vào thùng gạo vào ngày giao thừa. Lấy chúng ra vào ngày mồng một và dùng chúng để chế biến thực phẩm cho ngày đầu năm. Điều này mang ý nghĩa gia đình bạn sẽ không bao giờ thiếu thức ăn. 1. Cá khô nghĩa là – “của ăn của để” 2. Tỏi nghĩa là “luôn có lợi nhuận để tính”. 3. Hành nghĩa là “thông minh”. 4. Tỏi tây nghĩa là “cần cù” Bữa ăn đoàn tụ (tất niên) Ngày cuối năm là ngày bầy tỏ sự tôn kính đối với tổ tiên. Tại những gia đình có bàn thờ tổ tiên, đây là lúc mời ông bà về tham gia vào bữa tiệc đoàn tụ với tất cả các thành viên trong gia đình . Theo truyền thống, tất cả các con trai sẽ trở về nhà bố mẹ và người ta cho là không may mắn nếu bạn ăn ở ngoài đường vào đêm tất niên. Khi ăn, mọi người đều phải ăn mặc chỉnh tề, phụ nữ phải mang đồ trang sức quý, quần áo đẹp, vì điều này nghĩa là sự may mắn sẽ tiếp diễn. Họ không được ngồi ăn tất niên mà mặc quần áo cũ. Họ không được mang bộ mặt ủ rũ. Những khuôn mặt tươi cười mang lại may mắn. Phụ nữ càng tươi cười và càng đeo nhiều đồ trang sức quý bao nhiêu thì may mắn tới càng nhiều vào thời điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới (giao thừa). Vào lúc này, tất cả những người con phải có những lời chúc tốt đẹp cho bố mẹ mình. Cửa chính, và nếu có thể, tất cả các cửa nhà, phải được mở. Cả nhà phải tràn ngập ánh sáng, với ý nghĩa là dương khí tràn ngập căn nhà.
Chúc bạn sẽ có phương thức dọn dẹp nhà cửa hợp phong thủy để mang lại thật nhiều tài lộc cho năm mới.
“Giới là lộ trình sống thực của chân lý, được kết tinh từ nhân cách phẩm chất đạo đức, nhằm nuôi dưỡng lớn công hạnh tự lợi, lợi tha, một yếu tố tác thành Phật quả. Giới cũng chính là cơ năng nòng cốt để xây dựng trật tự kỷ cương, một con người toàn diện trong sáng, nâng cao trí thức, phát triển trí tuệ”.
Đức Thế Tôn đã là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác làm bất cứ việc gì cũng cẩn thận chu đáo, không sơ sót dù là một chuyện nhỏ. Trong 12 năm đầu khi giáo đoàn thành lập chúng tăng hầu hết phần đông là căn cơ trình độ giáo pháp cao siêu là những bậc thánh A- la- hán, thành phần tu tập đoạn dứt lậu hoặc. Những vị căn cơ còn thấp kém chỉ nghe đức Thế Tôn khai thị vài lần liền chứng ngộ. Vì thế nếp sống của chư Tăng thuở ấy hoàn toàn thanh tịnh. Tuy đức Thế Tôn chưa chế Giới luật nhưng Giới vẫn có, chỉ giới hạn được trình bày dưới dạng những hình thức đơn giản tổng quát về mặt hộ trì các căn.
Thế Tôn dạy: “Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, lưỡi nếm vị, mũi ngửi hương, thân xúc chạm, ý duyên pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, cũng không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến cho các căn không được duyên theo, không bị sinh tâm tham ái, ưu bi và các bất thiện pháp khởi lên, nếu có khởi lên Tỳ kheo liền chế ngự nguyên nhân ấy sống thực hành hộ trì các căn”.
Đức Thế Tôn thực hành qua giai đoạn thực hành Trung Đạo Đế, hành Bát chánh đạo dưới hình thức, Tỳ kheo nên giữ Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Qua sự trình bày như trên chúng ta thấy Giới luật tuy có mà chưa rõ ràng.
Trong Ngũ Phần Luật quyển 1, Ngài Xá Lợi Phất trình thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn làm sao để Chánh Pháp của đức Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ rồi Chánh Pháp ấy được tồn tại lâu dài”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch Thế Tôn tại sao con không thấy Thế Tôn chế giới mà chỉ nói Pháp?”
Đức Phật nói: “Này Tôn giả, ta biết thời phải làm gì, nay chưa đến thời ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”.
Ngài còn dạy rằng : “Nếu Ta chế Giới trước khi vi phạm, thì người đời sẽ phỉ báng ta. Họ sẽ bảo rằng tôi không có gây tội, sao lại cưỡng chế ra Giới luật. Đây không phải là nhất thiết trí. Như thế là Như Lai không có tâm từ bi, không lợi lạc, không bảo bọc chúng sanh. Như người không có con lại nói rằng sẽ sanh con vào giờ ấy. Chuyện ấy không thể tin, vì không chân thật. Nếu là sự thấy đứa con người ta mới tin được, cũng thế hữu lậu chưa sanh, tội chưa làm, trời người chưa thấy làm sao chế Giới được. Cho nên cần phải thấy rõ phạm tội, rồi sau đức Thế Tôn mới chế Giới, đây là đúng thời. Này Xá Lợi Phất như y sĩ biết là nguyên nhân tật bịnh và biết thuốc nào ngọt để trị bịnh ấy”.
Từ đó, dần dần về sau trong Giáo đoàn Tăng sinh các hữu lậu với mục đích tâm họ không chân chánh. Do đó tăng đoàn đã xảy ra nhiều trường hợp nhiều Tỳ kheo thiếu kỷ cương nề nếp, đời sống buông lung phóng túng, vi phạm tịnh hạnh … khiến cho Giáo đoàn của Phật bị mang tiếng xấu lây, lại có nhiều ý kiến mâu thuẫn. Để giải quyết những vấn đề đó, Thế Tôn bắt đầu chế Giới để đối trị những lỗi lầm đã xảy ra, ngăn ngừa hành vi bất thiện pháp sắp vi phạm hay đã phạm thì phải sám hối, đồng thời duy trì uy tín của Tăng đoàn.
Giới luật được đức Thế Tôn chế vào khoảng năm thứ 13 sau khi đức Phật thành đạo, nhưng tùy phạm tùy kiết, những Giới không nhất định phải chế Giới từ 3 – 4 lần mới thành một Giới. Đây là một trường hợp điển hình nói lên tính linh động và tầm mở rộng của Giới Luật. Trường hợp khác điển hình giới dâm, phải trải qua ba giai đoạn mới thành:
Tinh thần của đức Phật chế giới nhìn trên bề mặt là ý của đại chúng trong Tăng đoàn, Đức Phật chỉ là người chủ trì hoặc là người chứng minh trong quá trình chế giới. Giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của đại chúng.
– Giai đọan thứ nhất : Tôn Giả Tu Đề Na con trai của thôn trưởng Ca Lan Đa, do sự yêu cầu của người mẹ phải để lại đứa con trai để nối dõi tông đường, nên Tôn giả đã hành dâm với người vợ cũ. Sau sự việc xảy ra Tôn Giả bị lương tâm cắn rứt, cảm thấy hổ thẹn với những Tỳ kheo thanh tịnh nên thú nhận tội với chư Tăng, chư Tăng bạch Phật, Phật quở trách rồi chế giới: “Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được ở chung”.
– Giai đoạn thứ hai : Một Tỳ kheo chán nản đời sống phạm hạnh, về nhà hành dâm với vợ cũ. Vì trong Giới Phật chế không cho trường hợp chán nản đời sống phạm hạnh. Do đó, Thế Tôn chế thêm “Tỳ kheo nào đã trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo, chưa hoàn giới sút kém nhưng không phát lồ, hành dâm dục Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được sống chung”.
– Giai đoạn thứ ba : Một Tỳ kheo sống trong rừng, bị thiên ma nhiễu loạn, nên đã hành dâm với con vượn cái. Nghĩ rằng Giới luật đức Thế Tôn dạy không có trường hợp cùng với loài súc sanh, thêm lần nữa Đức Thế Tôn bổ túc thêm Giới trên cho đầy đủ “Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo chưa hoàn giới, giới sút kém những không phát lồ mà hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sanh, Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được sống chung”.
Đức Thế Tôn thị hiện trên cõi đời vị mục đích giải thoát chúng sanh ra khỏi dòng sanh tử, nên Giới luật của Ngài không có tính cách cưỡng chế, bó buộc mà hoàn toàn vì an lạc của chúng đệ tử. Chính nhờ những Giới pháp đó mà Đức Thế Tôn đã tu hành đạt thành Chánh giác và đem sự sáng suốt truyền lại cho chúng sanh coi như Giới thân Huệ mạng của chính mình. Bởi thế trước khi nhập Niết Bàn, đức Thế Tôn đã ân cần Di giáo: “Sau khi ta diệt độ, các ngươi phải tôn trọng giữ gìn Ba-la-đề-mộc-xoa, như người nghèo gặp được của báu, như qua sông đặng ghe, như người bệnh gặp thầy thuốc v.v… phải biết pháp này là Thầy của các ngươi, dù ta có trụ thế cũng không ngoài pháp ấy”. Đức Phật là vị thầy thuốc chữa bệnh cho chúng sanh, nếu người không bệnh mà ra toa bốc thuốc thì người ấy sẽ phản kháng, họ sẽ nhất định không chịu, còn người mắc bệnh nếu được trị liệu họ sẽ cảm kích vô cùng, đây là tâm lý thông thường của mọi chúng sanh.
Như chúng ta nhận xét qua lời giải trong các kinh đức Thế Tôn giảng dạy xong lại nói rằng: “Tất cả pháp ta nói ra chỉ là phương tiện khi tu hành xong hãy buông bỏ”. Nếu hành giả đang thời hành đạo Giới thể đã mất, thời Giới thân Huệ mạng cũng không còn.
Trong phần luận bàn về tuổi Hợi, Heo là đại biểu của tuổi Hợi, được xếp ở vị trí thứ 12 trong 12 địa chi. Xét ở góc độ tính toán thời gian là khoảng từ 9 giờ tối đến 11 giờ đêm. Về phương vị là hướng Tây Bắc thiên Bắc. Theo tín ngưỡng dân gian, Phật
Trong phần luận bàn về tuổi Hợi, Heo là đại biểu của tuổi Hợi, được xếp ở vị trí thứ 12 trong 12 địa chi. Xét ở góc độ tính toán thời gian là khoảng từ 9 giờ tối đến 11 giờ đêm. Về phương vị là hướng Tây Bắc thiên Bắc.
Theo tín ngưỡng dân gian, Phật A Di Đà là Phật bản mệnh của người tuổi Tân Hợi.
Bằng cách vận dụng phong thủy hợp lý, người tuổi Tân Hợi sinh năm 1971 có thể dùng linh vật phong thủy, đá quý phong thủy để bài trí nhà cửa, thu hút vận may, rước tài lộc vào nhà. Đó là những loại đá phong thủy hay linh vật phong thủy nào? Để có thông tin chi tiết chúng ta cũng đọc bài viết sau nói về cẩm nang phong thủy tuổi Tân Hợi nhé!
Nội dung
1 Đá quý phong thủy cho tuổi Tân Hợi
2 Linh vật hộ mệnh đeo bên người cho tuổi Tân Hợi
3 Hướng tốt, hướng xấu cho Nam Tân Hợi 1971
4 Hướng tốt, hướng xấu cho Nữ Tân Hợi 1971
Đá quý phong thủy cho tuổi Tân Hợi
Tuổi Tân Hợi sinh năm 1971 có ngũ hành năm sinh là Thoa Xuyến Kim, kỵ hợp với các loại đá quý như sau:
Đeo các loại đá quý màu vàng, nâu (hành thổ) để được tương sinh (thổ sinh kim), như: thạch anh tóc vàng, mắt hổ, thạch anh vàng, sapphire vàng…
Đeo các loại đá quý màu trắng, xám, ghi (hành kim) để được tương hợp, như: thạch anh trắng, mã não trắng, sapphire ghi, tourmaline trắng, garnet trắng, topaz trắng,…
Tránh đeo các loại đá quý màu đỏ, cam, hồng, tím (hành hỏa) vì hỏa khắc kim, như: amber hổ phách, thạch anh ametrine, thạch anh citrine, thạch anh tím amethyst, fancy diamond (kim cương màu), garnet ngọc hồng lựu, kunzite, morganite, opal lửa, thạch anh hồng, ruby, sapphire hồng, đá mặt trời sunstone, topaz đỏ, tourmaline hồng, zircon (đỏ, cam, hồng)…
Tránh đeo các loại đá quý màu xanh lá cây (hành mộc) vì kim khắc mộc, như: alexandrite, fancy diamond (kim cương màu), emerald ngọc lục bảo, garnet xanh, cẩm thạch, ngọc phỉ thúy, đá mặt trăng (loại có hiệu ứng ánh trăng xanh), peridot, sapphire xanh, tourmaline xanh, turquoise và zircon xanh…
Không nên đeo các loại đá quý màu đen, xanh nước biển, xanh da trời (hành thủy) vì mệnh cung bị sinh xuất, làm giảm năng lượng (kim sinh thủy), như: aquamarine, iolite, lapis lazuli, sapphire lục, spinel lục, tanzanite, topaz xanh nước biển, zircon lục, thạch anh khói, thạch anh tóc đen…
Lưu ý
Các loại đá quý đa sắc có thể đeo cho tất cả các mệnh như tourmaline đa sắc, thạch anh đa sắc, đá melody (super seven)… Các loại đá quý không màu như kim cương, zircon không màu… có thể đeo cho tất cả các mệnh Các loại đá quý có nguồn gốc hữu cơ như ngọc trai, ngà voi, mai rùa có thể đeo cho tất cả các mệnh
Linh vật hộ mệnh đeo bên người cho tuổi Tân Hợi
Phật Tổ Như Lai Phật Di Lặc Phật A Di Đà (Phật bản mệnh tuổi Hợi) Tỳ Hưu 12 con giáp Vòng tay phong thủy Thiềm thừ (Cóc tài lộc) Chúa gê-su…
Hướng tốt, hướng xấu cho Nam Tân Hợi 1971
Nam tuổi Tân Hợi sinh năm 1971 có cung mệnh là Khôn thuộc Tây tứ trạch, mệnh nạp âm là Thoa xuyến Kim.
Hướng tốt theo Bát trạch:
Hướng Tây Bắc (Càn): Được Phúc Đức, Vũ Khúc Kim tinh. Hướng chính Tây: Được Thiên Y, Cự Môn Thổ tinh. Hướng Đông Bắc (Cấn): Được Sinh Khí. Chọn vợ, chồng hoặc đối tác: Thuộc Tây tứ mệnh. Hướng nhà, giường nằm, bàn thờ, cửa bếp: Hướng Tây, Tây Bắc. Nhà vệ sinh, phòng bếp: Ất, Nhâm, Quý. Sử dụng linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và rước tài lộc:
Sức khỏe: Treo Hồ lô gỗ hướng Sinh khí, Phúc Đức, hoặc cũng có thể đặt bình hoa to hướng sao tốt. Công danh: Đặt ấn thăng quan hoặc các đồ dùng biểu tượng cho nghề nghiệp theo hướng sao tốt.
Trí tuệ: Đặt Tâm kinh, thủy tinh cầu ở phòng khách, thờ Văn Xương Đế Quân theo hướng sao tốt.
Tài Lộc: Đặt một bể cá hướng Tây Nam có 5 con hoặc 8 con cá vàng, treo tranh đôi cá chép hướng sao tốt.
Hướng tốt, hướng xấu cho Nữ Tân Hợi 1971
Nữ tuổi Tân Hợi sinh năm 1971, có cung mệnh là Tốn thuộc Đông tứ trạch, mệnh nạp âm là Thoa xuyến Kim.
Hướng tốt theo Bát trạch:
Hướng chính Bắc (Khảm): Được Sinh khí, Tham lang Mộc tinh. Hướng chính Nam (Ly): Được Thiên Y, Cự môn Thổ tinh. Hướng Đông Nam (Tốn): Được Phục vị, Phù Bật Thủy Tinh Hướng nhà, gường nằm, bàn thờ, hướng cửa bếp: Nam, Bắc, Đông Nam. Nhà vệ sinh, bếp nấu: Sửu, Tân. Chọn vợ, chồng, đối tác: Thuộc Đông tứ mệnh. Sử dụng linh vật theo la bàn phong thủy để đạt may mắn và rước tài lộc:
Tài lộc: Có thể đặt tượng, ảnh thần tài, treo xâu tiền Ngũ đế theo hướng sao tốt. Công danh: Treo một bức tranh cát tường như ý, ấn thăng quan hoặc đặt biểu tượng nghề nghiệp gia chủ theo hướng sao tốt. Sức khỏe: Trồng một cây trúc hoặc cây Vạn niên thanh, đặt bình hoa to theo hướng sao tốt. Trí tuệ: Đặt Tâm kinh, treo một cây bút lông theo hướng sao tốt.
– Dần và Hợi là cặp đôi con giáp cùng tương trợ và cổ vũ cho nhau, có thể hy sinh bản thân vì đối phương, coi nửa kia quan trọng hơn bản thân mình, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc vô cùng.
1. Dần và HợiĐây là cặp đôi con giáp cùng tương trợ và cổ vũ cho nhau, có thể hy sinh bản thân vì đối phương, coi nửa kia quan trọng hơn bản thân mình.Nam tuổi Dần và nữ tuổi Hợi: Đàn ông tuổi Dần thẳng thắn, chân thành, suy nghĩ lạc quan, nhưng đôi khi tính tình nóng nảy, dễ đắc tội người khác. Nữ giới tuổi Hợi lại dịu dàng thục nữ, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, trí tuệ lại thông minh lanh lợi. Ở bên cạnh nàng tuổi Hợi, các chàng tuổi Dần luôn cảm thấy sự bình yên và thư thái trong tâm hồn.Nữ tuổi Dần và nam tuổi Hợi: Phụ nữ tuổi Dần năng động, phóng khoáng, nhan sắc lại hơn người, có tinh thần trách nhiệm với gia đình. Đàn ông tuổi Hợi kiên trì theo đuổi mục tiêu tới cùng, không ngừng phấn đấu trong sự nghiệp. Khi hai người cạnh nhau, có sự phân công vị trí rõ ràng, cuộc sống hanh thông, thuận lợi.
2. Thìn và DậuThìn và Dậu bên nhau được ví như “tương hỗ tương thành”, cùng hỗ trợ nhau thành công. Sự nỗ lực của cả hai người sẽ mang tới niềm hạnh phúc ngập tràn cả về đời sống tinh thần và vật chất.Nam Thìn và nữ Dậu: Chàng trai tuổi Thìn dũng cảm, kiên cường, tính tình ngay thẳng, cầu tiến, dám đương đầu với mọi thử thách, dù là khó nhất. Nữ tuổi Dậu khoan dung, độ lượng, trí tuệ minh mẫn, sẽ là trợ thủ đắc lực cho người chồng tuổi Thìn.Nữ Thìn và nam Dậu: Nữ mệnh tuổi Thìn đa phần có cá tính mạnh mẽ, thậm chí bướng bỉnh, không thích làm theo lời khuyên của người khác. Nam tuổi Dậu lại có lòng bao dung độ lượng, trí tuệ lại thông minh hơn người nên luôn biết cách dung hòa mối quan hệ đôi bên.
3. Ngọ và MùiCặp đôi con giáp Ngọ và Mùi cùng tin tưởng, nương tựa vào nhau để sống. Cả hai sẵn sàng hy sinh cho nhau, đặt lợi ích gia đình lên trên tất cả.Nam Ngọ và nữ Mùi: Nam tuổi Ngọ chúa ghét sự cô đơn, thích tự do bay nhảy đó đây để tìm nguồn cảm hứng mới lạ. Nữ tuổi Mùi lại có tuyệt chiêu riêng biệt để có thể giữ được trái tim chàng trai tuổi Ngựa.Nữ Ngọ và nam Mùi: Đàn ông tuổi Mùi nhạy cảm, trí tưởng tượng phong phú và thường có tài năng nghệ thuật. Nữ tuổi Ngọ lại có lối tư duy thực tế, luôn tìm ra cách để biến những ước mơ của chàng trai tuổi Mùi trở thành hiện thực, là “trợ thủ” đắc lực cho đối phương.
4. Tý và SửuCả Tý và Sửu đều có lối tư duy về tài chính nhạy bén, cách suy nghĩ hiện thực và có thể bổ trợ cho những nhược điểm của nhau, cùng nhau tiến tới cuộc sống no đủ về vật chất, hạnh phúc về tinh thần.Nam Tý và nữ Sửu: Hai bên cùng khích lệ, cổ vũ tinh thần cho nhau, cùng nhau nỗ lực hết mình để xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc.Nữ Tý và nam Sửu: Nữ tuổi Tý có tấm lòng bao dung rộng lượng, tính tình hiền hòa, điềm đạm. Nam tuổi Sửu làm việc chu đáo, cẩn trọng, sẽ không làm điều gì khiến đối phương phải tức giận hay khó chịu. Cuộc sống sau hôn nhân của cặp đôi con giáp này nhất định hạnh phúc.
5. Mão và TuấtCùng nhau theo đuổi chủ nghĩa hoàn mỹ, dù người tuổi Mão và Tuất đôi khi xảy ra mâu thuẫn nhưng sớm hòa giải để đồng tâm hiệp lực, cùng nhìn về một hướng mà phấn đấu hết mình.Nam Mão và nữ Tuất: Anh chàng tuổi Mão có trí tuệ thông minh, hành sự chu đáo, cẩn trọng nên dễ lập nghiệp lớn. Cô nàng tuổi Tuất giỏi giang, năng động, sẽ là “trợ thủ” đắc lực con giáp kia.Nữ Mão và nam Tuất: Đàn ông tuổi Tuất lý trí, có lối sống khách quan, tài năng lại hơn người. Nữ tuổi Mão sở hữu trí tuệ thông minh, luôn tìm kiếm cảm giác an toàn, tất nhiên, họ thấy điều đó ở chàng trai tuổi Tuất.Những con giáp cả đời chôn chặt mối tình đầu trong tim – Ai cũng có mối tình đầu và tình đầu thường khó quên. Nhưng với những con giáp dưới đây, tình đầu còn được họ chôn chặt trong tim suốt cuộc 6. Tỵ và ThânNgười tuổi Tỵ và Thân có khá nhiều điểm tương đồng, đặc biệt rất coi trọng tình cảm và cuộc sống gia đình.Nam Tỵ và nữ Thân: Quan điểm đồng nhất, lý tưởng tương đồng khiến cặp đôi này dễ tiến lại gần nhau hơn. Sau khi kết hôn, cả hai không ngừng nỗ lực hoàn thiện bản thân để nửa kia hài lòng.Nữ Tỵ và nam Thân: Nữ giới tuổi Tỵ thông minh, lanh lợi, thường có những ý tưởng sáng tạo mới, thậm chí có chút “điên” trong đó. Đàn ông tuổi Thân lại điềm tĩnh, suy xét vấn đề thấu đáo. Những đặc điểm đó giúp cả hai dễ hòa hợp, tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn.Hoàng Lam
=> Tất tần tật về mười hai con giáp bạn nên xem
Những nàng giáp lỗ cả tình lẫn tiền trong tình yêu Tình yêu viên mãn là điều mọi cô gái mong muốn, tuy nhiên những nàng giáp sau đây hay gặp trắc trở trong tình duyên, dễ lỗ cả tình lẫn tiền. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Có ngày tốt hay xấu không? Viết về phong tục cổ truyền mà cố tình lảng tránh vấn đề này, ắt không thoả mãn yêu cầu của số đông bạn đọc, vì lễ cưới, lễ tang, xây nhà dựng cửa, khai trương, xuất hành... còn nhiều ngươi, nhiều nơi chú trọng ngày lành.
Đó là một thực tế. Ngặt vì có một số người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan; một số khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc mua con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều may rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngày, chọn giờ. Một số đông khác tuy bản thân không tin nhưng chiều ý số đông, làm ngơ để cho vợ con đi tìm thầy lễ, thầy cúng định ngày giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều, hơn nữa, để tránh tình trạng sau này lỡ sẩy ra sự gì không lành lại đổ lỗi cho mình "Báng".
Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã đành, đối với cả nhà, cả chi họ làm sao hoàn toàn không gặp sự rủi ro!. ngày tốt, ngày xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí tượng là đáng tin cậy nhất. Khoa học đã dự báo được hàng trăm năm những hiện tượng thiên nhiên như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng... chính xác đến từng giờ phút. Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người, từng việc, từng vùng ra sao, đó còn là điều bí ẩn. thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều vẫn chưa ngã ngũ nên ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ "Linh tại ngã, bất linh tại ngã" (cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không thiêng, cũng tự mình ra), "Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách" (không biết vì không có thầy, không có sách, quỷ thần cũng không trách).
Thực tế, có ngày mọi việc mọi điều đều thành công, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới; có ngày vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp tai nạn bất ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên cũng có yêú tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc cũng muốn biết cụ thể trong tháng này, ngày nào tốt, ngày nào xấu, ngày nào tốt cho việc làm nhà, cưới vợ, tang lễ phải chánh giờ nào...Đa số bà con ta vẫn nghĩ "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", nhất là khi điều khiêng đó không ảnh hưởng gì mâý tới công việc cũng như kinh tế...
Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám ban hành "Hiệp kỷ lịch", mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần đông các gia đình cứ dựa vào đó mà tự chọn ngày giờ. Thời nay, rải rác ở các làng xã, còn sót lại một vài người còn biết chữ Hán nhưng sách vở cũ hầu như không còn, các gia đình muốn xem ngày giờ để định liệu những công việc lớn đành mất công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán một cách, chẳng biết tin ai. Đã có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì việc chọn ngày tốt xấu, tuổi hợp tuổi xung, tranh cãi nhau phải chia tay để lại mối hận tình. Gần đây trên thị trường xuất hiện cuốn sách viết về cách xem ngày tính giờ. Cũng có tác giả có kiến thức, có tư liệu, viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu thả, dựa theo thị hiều thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính. Có cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có tên tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu...Cùng một ngày, cuốn này, ghi nên xuất hành, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hành, cưới hỏi, làm người xem rất hoang mang. "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", biết tin vào đâu? Biết tìm ai mà hỏi?
Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư liệu khoa học và toàn văn bài "Xem ngày kén giờ" của học giả Phan kế Bính đăng trong cuốn "Việt Nam phong tục"xuất bản năm 1915, tái bản năm 1990 tại nhà xuất bản thành phố Hồ Chí minh và chúng tôi xin có phần chủ giải (cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các bạn: "Khi gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì càng thận trọng càng hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người một thuyết, mỗi thầy một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn được ngày tốt. Xem như trong cuốn "Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngày nào hoàn toàn tốt, hoặc hoàn toàn xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi địa phương.
Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán mọi loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều người bảo: Khoa học có thể tính toán để biết trước ngày tốt, ngày xấu, thực hư ra sao?
Thầy bói là người hành nghề mê tín, biết nắm tâm lý. "Bắt mạch" đối tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bày và những câu thăm dò...). Nhưng bài viết này không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều khoa học dự tính để biết trước ngày lành, tháng tốt... của mỗi người.
Nhịp sinh học - đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều thấy hoạt động của chúng không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên tiếp thành chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp ngàyđêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu, đông... Các nhịp sinh học có tính di truyền. Pháp hiện ra các nhịp sinh học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý trong cơ thể có thể biến đổi theo thời gian. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ và tuần hoàn (lặp đi lặp lại khá đều đặn).
Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biến đổi tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Vào khoảng 3-4 giờ sáng áp suất máu thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người bệnh hay bị chết nhất. Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen cũng thườg lên cơn hen về đêm vào khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời gian bài tiết cóc- ti-cô-ít ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngày. Những biến đổi có tính chất chu kỳ hàng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất là vào tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hàng năm của các vụ tự tử ở bang Min-ne-so-ta cũng như ở Pháp là vào tháng 6. Hai nhà khoa học An-đơ-lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và thấy làm ca đêm ít tai nạn hơn làm ca sáng và chiều.
Ngày vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yết tố vũ trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm, người ta đã rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ chí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương (1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số ngày cuối chu kỳ) thì các hiện tượng đều ngược lại. Cả ba chu kỳ trên đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Ngày trùng với điểm chuyển tiếp này là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã chứng minh: Đối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Đối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày đãng trí, khả năng tư duy kém. Đặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày thường sảy ra tai nạn lao động. Đối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngày xấu nhất, có thể coi là ngày "Vận hạn" của mỗi người.
Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có thể dễ dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trung hợp điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ.
Công ty giao thông của Nhật Bản Omi Reilvei đã áp dụng thành tựu vào bảo vệ an toàn giao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những "ngày xấu" để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn giao thông ở Nhật Bản đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt vào đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn giao thông đã giảm hản 50%.
Theo Cup-ria-nô-vích (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn, giao thông nói riêng, an toàn lao động nói chung.
Các vấn đề trên đây không phải là "thầy bói nói mò" mà dựa vào một dữ kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động chức năng của cơ thể. (Bác sĩ Vũ Định- Trích báo "Hà nội mới chủ nhật" số 73)
Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngày làm lễ an táng mẹ.
Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoàng Thái Hậu mất. Con là Thượng Hoàng Minh Tông lúc đó đã nhường ngôi cho con là Hiến Tông. Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người tâu rẳng: "Chôn năm nay tất hại người tế chủ". Thượng hoàng hỏi : "Người biết sang năm ta nhất định chết à?". Người ấy trả lời không biết. Thượng hoàng lại hỏi: "Nếu sang năm trở đi ta chắc chắn không chết thì hoán việc chôn mẫu hậu cũng được, nếu sang năm ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng hơn là chết mà chưa lo được việc đó ư? Lễ cát, lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thội, chứ đâu phải câu nệ hoạ phúc như các nhà âm dương". Rốt cuộc vẫn cử hành lễ an táng.
Xem ngày kén giờ
Việc cưới xin, việc làm nhà cửa, việc vui mừng khai hạ, việc xuất hành đi xa, việc khai trương cửa hàng, cửa hiệu, việc gieo mạ cấy lúa, việc tế tự, việc thương biểu, việc nhập học, việc xuất quân, việc an táng... việc gì thường cũng bắt đầu làm việc gì, hoặc động thổ hoặc xuất hành, hoặc khai bút, khai ấn... lại cần xem ngày lắm. Đến những việc vụn vặt như cạo đầu xỏ tai cho trẻ thơ, việc tắm gội, may áo... cũng có người cẩn thận quá trong kén ngày.
Kén thì phải xem đến lịch. Sách lịch do toà khâm thiên giám soạn ra. Mỗi năm về ngày mồng một tháng chạp, Hoàng Đế ngự điện khai trào, các quan Khâm thiên giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi khâm mạng vua mà ban lịch khắc nơi... ... Ban lịch trọng thể nhất là để cho thiên hạ biết chính xác nhất tiết khí, tháng thiếu tháng đủ, ngày tốt ngày xấu, để tuân hành được đều nhau.
Đại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên ân, thiên hỷ... hoặc là ngày trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn thì là ngày tốt. Ngày nào có những sao hung tính như sao trùng tang, trùng phục, thiên hình, nguyệt phá thì là ngày xấu.
Kiêng nhất là ngày sát chủ, ngày thụ tử, việc gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có ba ngày là ngày năm, mười bốn, hai mươi ba, gọi là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng. Trong một năm lại có mười ba ngày gọi là ngày Dương công kỵ nhật, hết thảy việc gì cũng phải tránh những ngày ấy. Những ngày ấy là:
Ngày 13 tháng giêng
Ngày 11 tháng hai
Ngày 9 tháng ba
Ngày 7 tháng tư
Ngày 5 tháng năm
Ngày 3 tháng 6
Ngày 8, 29 tháng bảy
Ngày 27 tháng tám
Ngày 25 tháng chín
Ngày 23 tháng mười
Ngày 21 tháng một
Ngày 19 tháng chạp
Hễ phạm phải ngày ấy thì việc gì cũng hư hỏng không thành. Phàm việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng ngày tuổi. Ngoại giả lại còn những ngày thập linh, ngày đức hợp là tốt, ngày thập ác đại bại, ngày tứ lỵ, ngày tứ tuyệt là xấu Nói qua mâý việc dân gian cần dùng nên kén nên kỵ.
Cưới xin nên tìm ngày thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngày trực phá, trực nguy. Làm nhà nên tìm ngày thiên ân. Thiên hỷ, kỵ ngày thiên hoả, địa hoả và ngày kim lâu. Xuất hành nên tìm ngày lộc mã, hoàng đạo, kỵ ngày trức phá, trực bế. An táng nên tìm ngày thiên hỷ, thiên đức, kỵ ngày tử khí quan phù... Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc mới xuất hành, lúc mới ra ngõ đi cưới, lúc mới dựng nhà, lúc hạ huyệt... Thường đều kén lấy giờ hoàng đạo. Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ bốn câu thơ:
Dần, thân gia tý; mão dậu dần Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân; Tị, hợi thiên cương tầm ngọ vị Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân
Lại cần phải nhớ hai câu:
Đạo viễn kỷ thời thông đạt Lộ dao hà nhật hoàn trình.
Lúc đánh giờ trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấm mà gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt, dao hoàn" thì giờ ấy là giờ hoàng đạo...
... Xét phép chọn ngày, từ đời Đường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngày: Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng cương. Nội sự là việc trong như việc tế tự cưới xin... thì dùng những ngày âm can là các ngày: ất, đinh, kỷ, tân, quý. Ngoại sự là việc ngoài như đánh dẹp, giao thiệp... thì dùng ngày dương can là các ngày: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Dùng như thế chỉ có ý làm các việc êm ái, hoà nhã thì theo về ngày âm, việc cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngày dương, nghĩa kén lấy ngày có chút ý nghĩa hợp với nhau mà thôi.
Đến đời sau các nhà âm dương thuật số mỗi ngày mới bày thêm ra ngày tốt, ngày sao xấu, ngày này nên là việc nọ, ngày kia nên làm việc kia. Hết ngày rồi lại có giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc, động làm việc gì cũng phải xem ngày, kén giờ, thực là một việc phiền toái quá. Đã đành làm việc gì cũng nên cẩn thận, mà chọn từng ngày, kén từng giờ mà phí câu nệ khó chịu. Mà xét cho kỹ thì có ích gì đâu, chẳng qua việc thành hay bại cốt do ở người chớ có quan hệ gì ngày tốt hay ngày xấu. Nếu cứ chọn ngày giờ mà nên việc thì không cần gì phải dùng đến sức người nữa hay sao ?
(Trích "Việt Nam phong tục" Phan Kế Bính)
Chú giải bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính
Đọc bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính, bạn đọc trẻ tuổi thời nay sẽ có một số thắc mắc:
Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ (1875-1921) học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán học (1906). Lại am tường văn minh Đông Tây, đã có nhiều cống hiến trong công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín quá vào việc xem ngày kén giờ, nhưng tại sao không bài bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, làm nhà, khai trương, xuất hành, an táng nên tìm ngày gì, kị ngày gì và bày cách chọn giờ hoàng đạo.
Trong bài có nói đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngày trực tốt trực xấu. Vậy sao không hướng dẫn cụ thể nên những người đọc muốn kén ngày, giờ vẫn phải đi tìm thầy, nhiều khi vừa tốn kém lại vừa bị lừa bị bịp.
Theo thiển ý chúng tôi: Ông không đi sâu giải thích từng cát tinh hung tinh vì trong thời kỳ đầu thế kỷ đã có bản niên giám ban hành nhiều năm và nhiều người biết tiếng Hán xenm được.
Nhằm giải đáp những thắc mắc trên và giúp bạn trẻ thời nay hiểu thêm về một số vấn đề mà học giả Phan Kế Bính đã đề cập tới, trong phần chú giải dưới đây, chúng tôi dựa theo những tư liệu bằng tiếng Hán đã được lưu truyền như "Vạn niên lịch", "Ngọc hạp kỷ yếu", "Chư gia tuyển trạch nhật", "Đổng công trạch nhật","Vạn bảo toàn thư" đối chiếu với lịch thế kỷ XX của nha khí tượng và một số bài viết của các nhà khoa học để làm nhiệm vụ biên khảo, dẫn giải tiếp bài viết của Phan Kế Bính. Thực ra muốn trả lời cho thật đầy đủ và cụ thể phải đi sâu vào chiêm tinh học cổ đại mà cuốn sách này chưa thể đáp ứng.
Có những cách tính ngày tốt xấu cơ bản như sau: Tính theo tháng âm lịch và ngày can chi:
- Các sao tốt: Thiên đức, nguyệt đức (lục hợp), thiên giải, thiên hỷ, thiên quý (yếu yên),tam hợp (ngũ phú). Theo quan niệm xưa, những ngày có các sao này chiếu thì làm việc gì cũng tốt.
Ngoài ra còn có các sao: Sinh khí (thuận việc làm nhà, sửa nhà, động thổ), thiên thành (cưới gả giao dịch tốt), thiên quan (xuất hành giao dịch tốt), lộc mã (xuất hành di chuyển tốt), phúc sinh (được phúc tốt), giải thần (giải trừ các sao xấu), thiên ân (được hưởng phúc ân, làm nhà, khai trương)...
Theo thứ tự lần lượt từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, chạp thì các sao tốt sẽ chiếu vào các ngày như sau:
Các sao xấu: (mỗi tháng tính theo ngày âm có ba ngày nguyệt kỵ là mồng 5, 14, 23 và 6 ngày tam nương là ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27).
Các sao xấu khác tính theo tháng âm lịch và ngày can chi như: Thiên cương, thụ tử, đại hao, tử khí, quan phù (xấu trong mọi việc lớn), tiểu hao (kỵ xuất nhập, tiền tài), sát chủ, thiên hoạ, địa hoả, hoả tai, nguyệt phá (kiêng làm nhà), băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), thổ cấm (kiêng động thổ), vãng vong (kiêng xuất hành giá thú), cô thần, quả tú (kiêng giá thú), trùng tang trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng).
Theo thứ tự từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, một, chạp thì các sao xấu chiếu như sau:
Thiên cương: Tị, tý, mùi, dần, dậu, thìn, hợi, ngọ, sửu, thân, mão, tuất. Thụ tử: Tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu. Đại hao, tử khí, quan phù: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị. Tiểu hao: Tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn. Sát chủ: Tý, tị, mùi, mão,thân, tuất, sửu, hợi, ngọ, dậu, dần, thìn. Thiên hoả: Tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu. Địa hoả: Tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tỵ, thìn, mão, dần, sửu, tý, hợi. Hoả tai: Sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, tý, ngọ. Nguyệt phá: Thân, tuất, tuất, hợi, sửu, sửu, dần, thìn, thìn, tị, mùi, mùi. Băng tiêu ngoạ giải: Tị, tý, sửu, thân, mão, tuất, hợi, ngọ, mùi, dần, dậu, thìn. Thổ cấm: Hợi, hợi, hợi, dần, dần, dần, tị, tị, tị, thân, thân, thân. Thổ kỵ, vãng vong: Dần, tị, thân, hợi, mão, ngọ, dậu, tý, thìn, mùi, tuất, sửu. Cô thần: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu. Quả tú: Thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão. Trùng tang: Giáp, ất, mậu, bính, đinh, kỷ, canh, tân, kỷ, nhân, quý, mậu. Trùng phục: Canh, tân, kỷ, nhâm, quí, mậu, giáp, ất, kỷ, bính, đinh, mậu. Mỗi năm có 13 ngày dương công (xấu). Tính theo ngày tiết: 4 ngày ly và 4 ngày tuyệt (xấu)
Mỗi năm có 4 ngày tứ ly (trước tiết xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí một ngày), 4 ngày tứ tuyệt (trước tiết lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông một ngày). Tính theo ngày trực:
- Trong 12 ngày trực có 6 ngày tốt (trực kiến (1), trực mãn (3), trực bình (4), trực định (5), trực thành (9), trực khai (11), 3 ngày thường (trực chấp (6), trực trừ (2), trực thu (10), 3 ngày xấu (trực phá (7), trực nguy (8), trực bế (12). Tính theo nhị thập bát tú:
- Trong 28 ngày có 14 ngày tốt, 14 ngày xấu nhưng nhị thập bát tú tương ứng với ngày tuần lễ. Nói chung ngày thứ tư, thứ năm hàng tuần thường là ngày tốt.
Xem tuổi cha và mẹ là chẵn hay lẻ, xem tháng thụ thai là chẳn hay lẻ rồi sẽ tính ra ngay:
2 chẵn 1 lẻ = con trai 2 lẻ 1 chẵn = con gái
Nhưng nếu 3 chẵn = con gái 3 lẻ = con trai
Ví dụ: cha là 30 tuổi (chẵn), mẹ là 29 tuổi (lẻ), người mẹ mang thai tháng 7 (lẻ). Vậy sẽ sinh bé gái.
Chú ý: Thường hay tính sai về tháng thụ thai, cho nên ngày xưa tính tháng sanh trước rồi đếm ngược lại 10 tháng (dù không đủ 10 tháng nhưng vẫn tính đủ) ra tháng 5 đếm ngược lại là 1, tháng 4 là 2,...đến tháng 8 là đủ 10, tức tháng 8 người mẹ thụ thai.
Đây là cách tính theo Âm Dương lịch bát quái, rất đúng. Ở trên, ba số chẵn tức là quẻ khôn (thuần âm=đứa bé gái có nữ tính rất mạnh), còn ba số lẻ tức quẻ càn (thuần dương=đứa bé trai có nam tính rất mạnh).
Vì thế vợ chồng muốn sanh trai hay gái nên dựa vào phương pháp trên để tính.
Bạn biết gì về mối liên hệ giữa họ tên và vận mệnh
Khoa học về họ tên được truyền bá đầu tiên ở Nhật Bản. Song, nguyên lý chung của nó vẫn nằm trong quan niệm âm dương ngũ hành và lý số của người Trung Quốc.
Vận mệnh có thể chia thành 2 yếu tố: "mệnh" là bẩm sinh, bất kỳ ai cũng có, không thể thay đổi được; "vận" là thời kỳ lớn lên, có thể thay đổi hoặc sáng tạo. Phương pháp thay đổi và sáng tạo nhờ vào sự điều chỉnh phương vị từ trường của dương trạch (nhà ở) theo quy luật phong thủy, điều phối kếu cấu và cách thức của họ tên, làm việc thiện, tu nhân tích đức...
Âm dương ngũ hành
Họ tên giống như những lý luận vận mệnh khác, đều dùng để suy đoán vận thế của con người. Song, mỗi phép xem lại có phạm vi ứng dụng riêng của nó, tuyệt đối không phải là vạn năng và bao hàm tất cả. Trong khi, họ tên có bao hàm chức năng, đó chính là cách thức tạo ra số phận.
Sự tốt xấu của tên thường ảnh hưởng đến số phận bởi mệnh cách của con người có phần cao thấp. Đối với những người có mệnh cách mạnh, sự ảnh hưởng hoặc bổ trợ của họ tên có thể không thể hiện rõ. Đối với những người có mệnh cách yếu, sự ảnh hưởng và bổ trợ của họ tên lại thể hiện rất rõ.
Khoa học về họ tên được truyền bá đầu tiên ở Nhật Bản. Song, nguyên lý chung của nó vẫn nằm trong quan niệm âm dương ngũ hành và Lạc Hà lý số của người Trung Quốc.
Đến nay, có nhiều học giả nghiên cứu và chứng minh những sự khác biệt về họ tên, song, nguyên tắc ngũ cách, âm vận, từ ngữ, ngũ hành vẫn là nhân tố chủ chốt. Điều đó chứng tỏ, những lý luận về họ tên của người Trung Quốc có cơ sở khoa học nhất định, giải thích gốc rễ mọi vấn đề.
Loại cây nào mang lại thịnh vượng và đuổi tà ma? –
Xung quanh chúng ta có biết bao điều mà không ai ngờ tới, nhất là những loại cây mà ta đang tiếp xúc hàng ngày. Những loại cây này đem đến sự thịnh vượng, tài lộc và xua đuổi tà ma. Cây mang đến sự thịnh vượng, tài lộc: Cây cam hoặc cây chanh có nhi
Xung quanh chúng ta có biết bao điều mà không ai ngờ tới, nhất là những loại cây mà ta đang tiếp xúc hàng ngày. Những loại cây này đem đến sự thịnh vượng, tài lộc và xua đuổi tà ma.
Cây mang đến sự thịnh vượng, tài lộc:
Cây cam hoặc cây chanh có nhiều trái chín nặng trĩu tượng trưng cho sự thịnh vượng và tài lộc của gia đình.
Theo người Hoa, những quả cam chín tượng trưng cho vàng. Nếu trang trí những vật dụng có nhiều màu cam vàng rực trong nhà vào ngày đầu năm ngụ ý sẽ mang lại nhiều tài lộc.
Nếu bạn trồng một cây cam trong vườn thì tốt nhất nên trồng ở hướng Đông Nam. Vì đây là hướng tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng. Nếu cây sai quả có thể mang lại may mắn, đại cát.
Cây xua đuổi tà ma:
Cây đào: Được coi là loài cây hội tụ tinh hoa của ngũ hành, đào không chỉ mang lại sắc xuân ngày Tết mà theo quan niệm dân gian nó còn có tác dụng trừ tà ma.
Cây liễu: Theo quan niệm dân gian, cắm liễu ở trước cửa nhà thì có thể trừ tà.
Cây ngân hạnh: Đây là loài cây có thể sống lâu năm. Ngân hạnh thường ra hoa vào ban đêm nên rất ít người có cơ hội nhìn thấy hoa của nó. Đây cũng được coi là loài cây chứa đựng năng lượng thần bí.
Cây bách: Cây có chất gỗ thơm, khí thế hùng vĩ, có thể trừ tà yêu.
Cây thù du: Thù du được xem là loại cây may mắn, có hương thơm ngào ngạt, có thể làm thuốc. Theo tập tục cổ xưa, nếu trồng thù du vào ngày 9/9 âm lịch hàng năm thì có thể tránh được ác tà.
Hồ lô: Hồ lô còn gọi là cây bầu. Trong phong thủy học, hồ lô là loại cây có thể trừ tà và còn mang ý nghĩa chỉ sự đông con nhiều cháu, phúc lộc đầy nhà. Người xưa thường trồng hồ lô trước hoặc sau nhà.
Là một cô gái đa tài đến từ Hàn Quốc nhưng việc "dấn thân" vào làng showbiz Việt của Hari Won khá gian nan, trắc trở.
Những tin đồn liên tục về việc cô dựa hơi bạn trai (Tiến Đạt, Trấn Thành) để nổi tiếng, cố tình giả giọng lơ lớ tiếng Việt cho dễ thương hay nghi án có bầu với Trấn Thành… khiến sự nghiệp của cô ca sĩ trẻ luôn nằm bên bờ vực long đong.
Sinh ngày 22/06/1985 tại Seoul, Hàn Quốc, Hari Won mang trong mình dòng máu của một Cự Giải hiền lành, chân thật, luôn biết quan tâm tới cảm xúc của người khác, rất tâm lý và không hề màng tới tư lợi cá nhân. Các hành tinh trẻ thể hiện tính cách cá nhân của cô nàng này cũng đều rơi vào các cung hoàng đạo vô cùng vô tư, tự do tự tại, ít để ý đến thị phi hay các chiêu trò truyền thông. Mặt Trăng (hành tinh chủ của cảm xúc) thuộc cung Sư Tử, sao Thủy (hành tinh chủ của ngôn ngữ, tư duy) thuộc cung Cự Giải, sao Kim (hành tinh chủ của tình yêu, cái đẹp, sự hưởng thụ) thuộc cung Kim Ngưu và sao Hỏa (hành tinh chủ của hành động) thuộc cung Cự Giải mang lại cho Hari nét tính cách hài hòa, không ưa tranh đấu, hành động luôn biết trước sau.Luận về tính cách, với nhiều nét tính cách Cự Giải trong mình, Hari vốn là con người của gia đình, thích những gì liên quan đến gia đình như nội thất, ẩm thực, nấu nướng,… Vậy nên, việc có vòng 2 không được thon gọn của cô cũng là điều dễ hiểu. Thêm vào đó, sao Thủy Cự Giải vốn cũng không thuộc mẫu ăn nói lanh lợi. Đối với ngôn ngữ mà nói, Hari cũng sẽ không phải là người quá thông minh hay có năng khiếu để thay đổi nhanh như các bạn có sao Thủy thuộc Song Tử hay Nhân Mã. Điều này cũng giải thích phần nào cho chất giọng của cô sau bao nhiêu năm ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều chuyển biến. Hơn nữa, các Cự Giải sống thiên về cảm xúc, và luôn thật lòng trong tình cảm với mọi người, nên cũng khó có thể quy kết sự hai mặt cho cô gái này.
Dù Mặt Trăng Sư Tử có thể tạo nhiều động lực để cô chứng tỏ bản thân, nhưng với tính cách của Cự Giải chiếm đa số, Hari Won chắc chắn sẽ muốn chọn con đường nhẹ nhàng, ít tranh cãi để tỏa sáng theo cách của riêng mình. Tuy nhiên, người tính không bằng trời tính, trong vài năm trở lại đây, không may, các hành tinh thế hệ trên bầu trời lại đang tạo tương tác không thuận lợi với bản đồ sao cá nhân của Hari Won, mang lại cho cô nàng nhiều trắc trở và khó khăn trên bước đường phát triển sự nghiệp của mình. Từ năm 2008, sao Diêm Vương dịch chuyển sang cung Ma Kết, tạo góc đối đỉnh với Mặt Trời Cự Giải của Hari, đánh dấu khởi đầu của quãng thời gian nhiều tham vọng, đam mê nhưng cũng không kém phần khó khăn, gian nan của cô ca sĩ người Hàn Quốc này. Tuy nhiên, động lực của sao Diêm Vương Ma Kết cũng phần nào giúp Hari cứng cáp hơn trước những sóng gió dư luận. Năm 2011, tiếp tục tới sao Thiên Vương tiến vào cung Bạch Dương, tạo góc cản trở với Mặt Trời trên bản đồ sao của Hari, càng tạo thêm nhiều thách thức hơn cho cô trong cuộc sống cá nhân cũng như sự nghiệp của mình. Năng lượng của sao Thiên Vương cũng góp phần mang lại nhiều biến đổi bất ngờ với Hari trong suốt hơn 4 năm qua. Các 'scandal' vì thế mà cũng nổi lên không ngớt xoay quanh cô gái này. Dù vậy, nếu để ý, bạn sẽ thấy cô gái Cự Giải Hari Won luôn trước nhất chọn cách im lặng. Động thái đầu tiên của mọi Cự Giải luôn là giấu mình vào chiếc vỏ dày trước khi đủ bình tĩnh và dũng khí để đối mặt với dư luận. Chưa bao giờ, Hari chọn cách làm tùm lum trước truyền thông. Đây cũng là điểm khiến cô vẫn giữ được hình ảnh trong mắt các "fan" hâm mộ. Tuy nhiên, hình ảnh một Cự Giải hiền lành, chất phác, vô tình gặp nhiều "scandal" do bầu trời mang lại, từ đó, vô tình trở nên nổi tiếng, cũng sẽ khiến xuất hiện nhiều dị nghị xoay quanh những "may mắn" này. Dù muốn hay không, Cự Giải Hari Won vẫn cần vững bước trên con đường sự nghiệp của mình. Với một Cự Giải thuần tính và không hề có ý đồ gây tổn hại tới bất kỳ ai, tin rằng, cô gái này sẽ còn tiến xa trên hành trình chinh phục trái tim công chúng.
ST.
Doctor: Liệu Bọ Cạp có hợp cạ với Thiên Bình?Mỹ nhân hoàng đạo và sở thích nude nóng bỏng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Minh Thư (##)
Thiên Cơ đắc địa là người nhân hậu, từ thiện, rất thông minh, khôn ngoan, có óc xét đoán, có nhiều mưu trí, làm việc gì đều có chiến lược, chiến thuật hẳn hoi.
Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Cơ trong lá số Tử Vi
Tên sao
Đẩu Phận
Âm dương ngũ hành
Hóa
Chủ
Tứ hóa
Thiên cơ
Nam đẩu thứ 3
Âm mộc
Thiện
Huynh đệ, trí tuệ
Ất: Lộc, Bính: Quyền - Đinh: Khoa - Mậu:kị
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Cơ là âm mộc, là sao thứ 3 thuộc chòm sao Nam Đẩu, chủ về trí tuệ, tư tưởng, anh em, hệ thần kinh, hóa khí là thiện, Hóa Kị là hung (chủ về tổn thương thần kinh, u não), làm chủ cung huynh đệ.
Đặc trưng của sao Thiên Cơ là đa tài đa nghệ, có tính "động" ở đây không phải là những biến động trong cuộc đời mà là động não, hoạt động, thường phải bôn ba lao lực, vì vậy phản ứng khá nhanh nhạy, giỏi vận động, liên lạc, giao thiệp, vạch kế hoạch và phân tích, xử sự có lý lẽ, điềm tĩnh mà có khí phách. Có lợi khi người làm công việc như phục vụ kỹ thuật chuyên môn, truyền bá phần nhiều là phần thiết kế, vạch kế hoạch chứ không phải thực thi, thực hành, vì thiếu tính ổn định, nên tối kị theo nghề kinh doanh hay tự sáng lập sự nghiệp.
Sao Thiên Cơ còn có tên là sao Thiên Tú, định số trong mệnh là phò tá vua mà hành sự, giải hung hiểm của nghịch cảnh. Nếu gặp cát tinh lại đắc địa thì mọi việc đều tốt đẹp, chăm đi lễ Phật, có hứng thú đặc biệt với tôn giáo hoặc mệnh lí, kính trọng người thân, phù hợp làm tăng đạo ở núi rừng, không có lòng ác độc bất nhân, có khả năng tùy cơ ứng biến, có tầm nhìn xa, làm việc có phương pháp. Nữ mệnh nếu gặp sao Thiên Cơ, phần nhiều chủ về phúc thọ, gặp cát sẽ cát, gặp hung sẽ hung; nếu gặp sao Thiên Lương thì bản thân sẽ có biệt tài về một lãnh vực nào đó.
Sao Thiên Cơ không có năng lực khống chế hóa giải sát tinh, vì e rằng trí tuệ của Thiên Cơ sẽ giúp kẻ ác. Sao Thiên Cơ cũng rất sợ gặp sao Hóa Kị, trong hạn nếu gặp hung sát hội chiếu hoặc Hóa Kị, nếu không được cát tinh cứu ứng, nên đề phòng tai ách, tốt nhất là nên thận trọng phòng thủ mà không nên hành động.
Bốn sao Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương nếu hội tụ tại ba cung mệnh, quan, tài, là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" rất thích hợp với sự nghiệp tôn giáo, văn hóa, truyền bá. Nếu sao Thiên Cơ và sao Cự Môn cùng ở cung mệnh tại Mão, Dậu là cách cục "Cự cơ đồng lâm" có thể là người đứng đầu trong lãnh vực khoa học công nghệ cao. Nếu sao Thiên Cơ, Thiên lương cùng ở tại cung Thìn và cung Tuất, hoặc tại cung Thiên Di chiếu về cung Mệnh, là cách cục "Thiện ấm triều cương", chủ về phúc thọ gồm đủ. Nếu sao Thiên Cơ và Sao Cự Môn cùng thủ mệnh tại cung Dậu, lại đồng cung với Hóa Kị ở tam phương tứ chính, là cách cục "Cự Cơ hóa Dậu", chủ về bôn ba vất vả, gặp nhiều thất bại, nếu là nữ mệnh thì khó tránh lênh đênh phiêu bạt.
Ca quyết:
Thiên cơ huynh đệ chủ, Nam Đẩu chính diệu tinh
Tố sự hữu thao lược, bẩm tính tối cao minh
Sở vi tối hiếu thiện, diệc khả tác quần anh
Hội cát chủ hưởng phúc, nhập cách cư hàn lâm
Cự môn đồng nhất vị, võ chức áp biên đình
Diệc yếu quyền phùng sát, phương khả lập công danh
Thiên lương tinh đồng vị, định tác đạo dữ tăng
Nữ nhân nhược phùng thử, tính xảo tất dâm bôn
Thiên đồng dữ Xương Khúc, tụ củng chủ hoa vinh
Thìn Tuất Tý Ngọ địa, nhập miếu hữu công danh
Nhược tại Dần Mão Thìn, Thất sát tịnh Phá quân
Huyết quang tai bất trắc, Kình Đà cập Hỏa Linh
Nhược dữ chư sát hội, tai hoạn hữu ách kinh
Vũ ám Liêm Phá hợp, lưỡng mục thiểu quang minh
Nhị hạn lâm thử tú, sự tất hữu biến canh
Nghĩa là:
Thiên Cơ chủ cung huynh đệ, là chính diệu nam Đẩu
Làm việc có thao lược, bản tính cực thông minh
Hành vi rất lương thiện, mà cũng là hơn người
Gặp cát tinh sẽ hưởng phúc; nhập cách vào hàn lâm
Đồng cung với Cự Môn, quan võ trấn biên cương
Nhưng cũng cần gặp Hóa Quyền, Thất Sát; mới lập được công danh
Đồng cung với Thiên Lương, số định làm đạo sĩ, sư tăng
Mệnh nữ gặp sao ấy, tính khéo dễ đa tình
Thiên Đồng cùng Xương, Khúc; tụ hội vây chiếu chủ vinh hoa
Phong thủy thư phòng tốt sẽ là tiền đề hỗ trợ việc học hành, sự nghiệp của bạn phát triển rực rỡ. Hãy chú ý nhé!
Phong thủy thư phòng tốt chú trọng nhất là địa điểm. Cần chọn nơi yên tĩnh, thoáng đãng để đặt thư phòng; diện tích không nhất thiết quá lớn, lớn quá còn tạo cảm giác tản mát, trống trải, tán khí, phù hợp với mục đích sử dụng là được. Vị trí đẹp nhất để đặt thư phòng là Văn Xương vị - phương vị đại diện cho học hành. Phương vị này không chỉ mang lại may mắn cho những người còn đang đi học, vướng bận chuyện thi cử mà đối với người làm các công việc liên quan tới giấy tờ công văn, muốn thăng tiến qua thi thố cũng có rất nhiều ích lợi. Vật quan trọng nhất trong thư phòng là bàn học/ bàn làm việc. Nhiều người cho rằng đặt bàn đối diện cửa sổ là tốt, vừa lấy ánh sáng tự nhiên, vừa thoáng đãng. Sai lầm! Bên ngoài cửa sổ là cảnh vật biến đổi, đặt bàn ở vị trí ấy sẽ khiến chủ nhân sao nhãng, không chuyên chú tập trung, bất lợi. Vị trí đặt bàn làm việc cấm kị là đối diện cửa ra vào, chủ bị thị phi, người ngoài nhòm ngó. Đối diện nhà vệ sinh cũng không phải vị trí tốt để đặt bàn làm việc, xú uế sẽ ảnh hưởng tới vận khí, Văn Xương tinh bị nước lửa xung cũng rất tai hại. Vấn đề xà ngang áp đỉnh trong phong thủy nhà ở cũng đúng khi áp dụng vào phong thủy thư phòng. Bàn học đặt dưới xà ngang, đèn chùm tạo áp lực vô hình khiến chủ nhân tinh thần mệt mỏi, đau đầu, bị áp chế, sự nghiệp hoặc học vận trì trệ. Trên bàn làm việc không được để đồ đạc bừa bãi, bố trí bên trái Thanh Long vị cao bên phải Bạch Hổ vị thấp là hợp lí. Thanh Long thích động, Bạch Hổ thích tĩnh, theo đó mà sắp xếp. Một thứ không thể thiếu trong thư phòng là giá sách. Nhớ kĩ nguyên tắc phong thủy “bàn học tọa cát, giá sách tọa hung”. Bàn học đặt ở Văn Xương vị, giá sách đặt ở phương vị hung để trấn sát. Không nên chọn giá sách quá cao, tạo cảm giác áp bức cho chủ nhân, ở lâu sẽ sinh tâm thần rối loạn, sức khỏe giảm sút. Màu nâu cà phê, nâu trầm tạo cho thư phòng cảm giác trầm mặc, cổ xưa, khá thích hợp. Màu lục nhạt tốt cho thị lực. Màu trắng ngà phối với lam nhạt vừa trang nhã vừa hiện đại. Tối kị trang trí thư phòng màu đỏ thẫm, khiến chủ nhân bốc hỏa, nóng nảy, không an tâm học tập, công tác. Để lọc khí, tăng may nên đặt một bồn cây xanh trong phòng. Cây lựu, kim quế, trúc cảnh là gợi ý khá hay.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh
Đây là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Dịch Mã vận đại biểu cho sự xuất ngoại và thay đổi. Nếu mở cổng hướng Dịch Mã có thể thúc đẩy Dịch mã vận, tạo cơ hội cho gia chủ xuất hành đi học, tham quan, du lịch, chuyển công tác,…
Người tuổi
Cổng Dịch Mã
Vị trí
Thấn, Tý, Thìn
Phương Dần
số 5 Đông Bắc
Tí, Dậu, Sửu
Phương Hợi
Số 23 Tây Bắc
Dần, Ngọ, Tuất
Phương Thân
Số 17 Tây Nam
Mão, Mùi, Hợi
Phương Tị
Số 11 Đông Nam
Chọn được hướng Dịch Mã rồi cần sơn màu cổng thuận Ngũ hành Bát quái với phương hướng để hòa hợp, hỗ trợ lẫn nhau, đẩy mạnh vận khí.
Hướng bếp cho người sinh năm Tân Dậu 1981: - Năm sinh dương lịch: 1981 - Năm sinh âm lịch: Tân Dậu - Quẻ mệnh: Khảm Thủy - Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây lựu) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông
Cuộc sống của Nhâm Thân khá là vất vả, từ nhỏ đã phải chịu cảnh ba chìm, bày nổi. Tinh thần tự lập cao, không muốn dựa dẫm vào gia đình, tự thân lập nghiệp vì thế nên có phần vất vả, lao đao lận đận, tuy nhiên sang trung vận thì cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn mọi người khác, do có sự phấn đấu nỗ lực từ những năm tháng trước đó.
Tóm lại: Tuổi thơ của người Nhâm Thân phải trải qua nhiều khó khăn vất vả, từ 30 tuổi trở đi mới được hưởng cuộc sống an nhàn sung sướng. Theo tướng số thì nam Nhâm Thân có số mạng tốt, cuộc đời có gian khổ những rồi cũng được hưởng sung sướng, ít khi bị đau bệnh. Đường công danh và sự nghiệp cũng khá tốt.
Tuổi thọ trung bình từ 38 đến 48 là mức tối đa, nếu muốn gia tăng thêm tuổi thọ thì cần phải tích thêm đức ở đời.
Tình duyên
Chuyện tình duyên của Nhâm Thìn cũng không được suôn sẻ, ngay từ ban đầu đã gặp phải nhiều khó khăn và trở ngại, cần phải kiên trì và nhẫn nại thì mới giành được hạnh phúc cho bản thân. Tuy nhiên theo chiêm tinh, tướng số dựa trên ngày sinh thì được chi là ba trường hợp chính như sau:
Nếu sinh vào những tháng: 5, 6 và 9 Âm lịch, thì trong cuộc đời sẽ trải qua ba lần thay đổi về vấn đề tình duyên.
Còn sinh phải các tháng này 1, 2, 7, 10, 11 và 12 Âm lịch, thì cuộc sống hôn nhân và hạnh phúc sẽ có hai lần thay đổi.
Sinh vào các tháng 3, 4 và 8 Âm lịch, thì được hưởng cuộc sống hôn nhân trọn vẹn, không có sự thay đổi nào trong suốt cuộc đời.
Phần gia đạo và công danh
Công danh sẽ được lên cao trên con đường học vấn tuy nhiên không tồn tại được lâu. Gia đạo không được vui vẻ phải qua tuổi 30 thì tình hình mới được cải thiện; đến khi qua tuổi 38 hay 37 thì mới được sum vầy, và mọi chuyện được tốt đẹp.
Tiền tài tốt đẹp, cuộc sống sung túc, tuy nhiên cần biết điểm dừng và tự thỏa mãn bởi tiền càng nhiều thì cuộc đời của bạn sẽ gặp sóng càng to. Tuổi 40 trở lên, thì sự nghiệp được hoàn thành vững chắc.
Tuổi hợp làm ăn
Trong vấn đề làm ăn giao dịch, bạn nên cẩn thận trong việc chọn người để cùng hợp tác tính chuyện lâu dài, nên chọn những tuổi hợp với vận mệnh của mình thì mới mong mọi chuyện được suôn sẻ, có được thành công, không lo vướng phải thất bại. Nên kết hôn với các tuổi: Nhâm Thân cùng tuổi, Giáp Tuất và Mậu Dần, hợp tác làm ăn với 3 tuổi này nhất định sẽ có thắng lợi lớn về tài lộc.
Chọn tuổi kết hôn
Việc hôn nhân là công việc quan trọng, đại sự của một đời người, có liên quan mật thiết đến chất lượng của cuộc sống sau này. Chính vì thế nên chọn người hợp mệnh, tránh tuổi xung khắc để đưa cuộc sống đi lên.
Những tuổi hợp với Nhâm Thân không chỉ về công danh sự nghiệp mà còn tốt về đường tình duyên như: Canh Thân, Mậu Dần, Canh Thìn, kết hôn với những tuổi này cuộc sống hôn nhân của bạn chắc chắn sẽ có được hạnh phúc, yên ấm, con cái đủ đầy, do tuổi của hai người rất hợp về tình duyên, thêm vào đó lại hợp về công danh làm cho cuộc sống được nâng lên rất nhiều, có giàu sang, phú quý, của ăn của để.
Nếu Nhâm Thân mà lấy vợ thuộc một trong các tuổi: Đinh Sửu, Tân Tỵ, Tân Mùi, Kỷ Tỵ, thì sẽ có với nhau một cuộc sống yên ấm với mức sống trung bình có nghĩa là đủ ăn đủ mặc, chứ không có dư dả bới hai người chỉ hợp với nhau về tình duyên chứ không thuận về tài lộc.
Nên tránh kết hôn với các tuổi: Quý Dậu, Kỷ Mão, Ất Dậu, đây là những tuổi mà nếu bạn kết duyên thì sẽ tạo thêm nhiều khó khăn cho cuộc sống, lâm vào cảnh nghèo khổ, túng quẫn suốt đời.
Tuổi: 16, 22, 28, 34, 40, 46 và 52 tuổi, là những tuổi mà Nhâm Thân không nên tính tới chuyện hôn nhân, vì rất dễ vướng phải cảnh chia lìa, xa vắng triền miên.
Tuổi đại kỵ
Với các tuổi như: Ất Hợi, Bính Tý, Nhâm Ngọ, Đinh Hợi, Mậu Tý, Canh Ngọ và Giáp Tý. Thì tuyệt đối không nên tính tới chuyện hôn nhân hay hùn hợp vốn làm ăn. Có kết hôn với những tuổi này thì cũng chỉ thu được cuộc sống nghèo khổ thâm chị còn lâm vào cảnh biệt ly hay tuyệt mạng, nếu muốn cùng nhau xây dựng hạnh phúc thì chớ nên thực hiện lễ cưới hỏi linh đình mà chỉ âm thầm về ở với nhau mới mong tránh được tai họa.
Trong việc làm ăn kinh doanh, bắt tay làm ăn với những tuổi này thì chỉ có gặp thất bại khó mà thành công được cho nên tránh xa là tốt hơn cả.
Những năm khó khăn nhất trong cuộc đời
Theo tử vi tướng số thì các năm: 25, 28, 36 và 42 tuổi, được xem là những năm khó khăn nhất trong cuộc đời của người Nhâm Thân, thời gian này bạn nên chuẩn bị đối diện với mọi chuyện đau buồn, và thất bại trong cuộc sống có thể xảy ra bất cứ lúc nào, thậm chí còn có thể tự mang vạ vào thân. Cho nên cần đề phòng cẩn thận và giữ gìn sức khỏe thật là tốt.
Ngày giờ tốt để xuất hành
Nhâm Thân nếu chọn giờ lẻ, ngày lẻ và tháng lẻ để xuất hành thì cực kỳ tốt, xuất hành để tính chuyện làm ăn hay thực hiện quan trọng vào những khung giờ kể trên thì nhất định sẽ thu được thắng lợi lớn, mọi việc sẽ được suôn sẻ và may mắn. Chỉ có thành công và không lo gặp phải thất bại.
Diến biến từng năm trong cuộc đời
- Từ 25 đến 30 tuổi: Năm 25 tuổi, tháng 1, 2, và 3 Âm lịch, không được tốt, nhưng vào tháng 8 và 9 lại tốt, công việc làm ăn được khá. Năm 26 tuổi, tháng 8 và 9 Âm lịch, có nhiều triển vọng tốt đẹp về tình cảm và tài lộc. Năm 27 tuổi, có cơ hội để gây dựng cuộc sống hạnh phúc, giàu sang phú quý, gia đình được yên vui. Năm 28 tuổi, rất tốt, cuộc sống an nhàn sung sướng cả về tinh thần lẫn vật chất.
- Từ 31 đến 35 tuổi: Tuổi 31 mặc dù là năm hạn nhưng cũng khá tốt, công việc làm ăn được phấn chấn, làm một được mười đó là năm vượng phát về tài lộc, chỉ trừ tháng 8 có hao tài đôi chút. Năm 32 và 33, hai năm liên tục, tài lộc điều hòa, không có thất bại trong nghề nghiệp, hay hao tài tốn của. Năm 34 và 35, không được tốt lắm, nhưng công việc làm ăn cũng như vấn đề tiền bạc chỉ ở trong mức độ bình thường.
- Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 tuổi, năm thuận lợi cho công việc làm ăn, tính chuyện làm ăn trong năm này nhất định thu được thành công. Năm 37 và 38, cuộc sống chỉ ở mức độ trung bình mà thôi. Năm 39 và 40, tài lộc vượng phát, con cái thuận lợi về đường công danh.
- Từ 41 đến 45 tuổi: nhìn chung thì mọi việc đều bình thường, chỉ trừ có những khoảng thời gian bản bị suy yếu đó là vào năm 42 , sang năm 43 tuổi, thòi mọi sự lại phát triển bình. 44 tuổi thì có chuyện buồn trong gia đạo.
- Từ 46 đến 50 tuổi: có được nhiều may mắn trong cuộc sống, thu được nhiều kết quả tốt đẹp về tài lộc, con cháu sum vầy, không có thêm biến động gì xảy ra.
Nhiều người với mong muốn nhận được sự phù hộ của Đức Phật đã thỉnh tượng Phật về nhà cúng dưỡng, tuy nhiên phong thủy cúng dưỡng tượng Phật không phải ai cũng
Nhiều người với mong muốn nhận được sự phù hộ của Đức Phật đã thỉnh tượng Phật về nhà cúng dưỡng, tuy nhiên xem phong thủy cúng dưỡng tượng Phật không phải ai cũng nắm chắc.
1. Cúng dưỡng tượng Phật đúng vị trí Theo Phật giáo, thế giới này tồn tại Tam giới, trong đó giới cao nhất là Thiên giới, chính là nơi ở của Thần Phật, Bồ Tát. Trong phong thủy, điều quan trọng nhất đó chính là cửa chính, điều này có nghĩa là tượng Phật tốt nhất được bày tại trung tâm phòng khách, hướng về phía cửa chính. Nếu gia chủ thực hiện điều này, thần Phật sẽ bảo vệ gia đình, phù hộ cho các thành viên. Tại sao lại có ngày lễ Phật Đản? Phật Đản được coi là thánh lễ của Phật giáo với nhiều nghi thức quan trọng, thu hút đông đảo sự quan tâm của các tín đồ trên toàn thế giới. Hàng năm, lễ Phật 2. Mối quan hệ giữa nghề nghiệp và tượng Phật - Phổ Hiền bồ tátNếu gia chủ là văn nhân, tri thức như học sinh, công việc văn phòng,… thì Phổ Hiền bồ tát hết lòng phù trợ họ, tuy nhiên những người làm việc trong lĩnh vực kinh doanh lại không thích hợp. - Phật Dược SưPhật Dược Sư, hay còn gọi là Dược Sư như lai, có gương mặt hiền từ, vẻ ngoài nghiêm trang. Trong Tăng pháp hai mươi đại nguyện, có lời nguyện ước là có thể giải trừ thống khổ từ bệnh tật từ nhân gian. Vậy nên, những người có bệnh nên cúng dưỡng tượng Phật Dược Sư. - Quan Thế Âm bồ tátQuan Thế Âm bồ tát có thể lắng nghe mọi nỗi thống khổ từ nhân gian, trong Phật môn Quan Thế Âm thiện đãi sinh mệnh của chúng sinh. Có thể nói, những người làm công việc liên quan đến máu như: đồ tể, kinh doanh sản phẩm từ thịt thì không nên cúng dưỡng Quan Thế Âm bồ tát.
3. Ban lễ tượng Phật Ban lễ tượng Phật cũng là điều vô cùng quan trọng trong phong thủy cúng dưỡng. Về kích thước ban lễ, độ sâu cần đạt 1 thước 2 tấc (tương đương 50cm) tượng trưng cho 12 tháng, độ rộng chuẩn 3 thước 6 tấc 5 phân (tương đương 155cm) ngụ ý 365 ngày. Khi đặt ban lễ tượng Phật cần phải đảm bảo không gian yên tĩnh, sạch sẽ, cách xa nhà vệ sinh. CEO Snapchat: gã nhà giàu nổi loạn ngay từ trong cung mệnhChi Nguyễn