Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lắng tâm nghe Phật dạy làm người, tự thân cải mệnh

Phật dạy làm người cần phải tránh sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đam mê rượu chè, cờ bạc, kết bạn với người ác, biếng lười...
Lắng tâm nghe Phật dạy làm người, tự thân cải mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật dạy con người cần phải tránh sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đam mê rượu chè, cờ bạc, kết bạn với người ác, biếng lười... Đặc biệt, trong lời Phật dạy làm người, Phật khuyên cần phải từ bỏ ý niệm xấu xa sâu thẳm trong tâm hồn của mỗi con người thì mới mang lại điều phước lành, sự an nhàn trong cuộc sống.   Theo tâm linh, tu để đời này có duyên lành và đời sau cũng có duyên lành, trong hiện tại được người ngợi khen, xã hội ngợi khen, gia đình ngợi khen và trên hết phương ấy được an ổn, xã hội ấy được tốt đẹp, không lo sợ…   Mỗi lời Phật dạy về đạo làm người là những điều vô cùng quý báu. Muốn làm người anh hùng trong mắt mọi người, thì trước hết hãy làm tròn đạo lý của một người con. Đây được coi là điều cơ bản và quan trọng nhất trong việc làm người theo lời Phật dạy. Hiếu thảo với cha mẹ là cách cải thiện số mệnh tốt nhất.  

1. Phật dạy làm người, trước tiên làm tròn chữ hiếu

 

- Với phận làm con:

  Cung phụng không để thiếu thốn.   Muốn làm gì thưa cha mẹ biết.   Không trái điều cha mẹ làm.   Không trái điều cha mẹ dạy.   Không cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm. Xem Phật dạy cách làm người con có hiếu

 
Lang tam nghe Phat day lam nguoi, tu than cai menh hinh anh 2
 

- Và ngược lại, phận làm cha mẹ cần phải:

 

Ngăn con đừng để làm ác.   Chỉ bày những điều ngay lành.   Thương yêu đến tận xương tủy.   Chọn nơi hôn phối tốt đẹp.   Tùy thời cung cấp đồ cần dùng.  

2. Lời Phật dạy, giữa con người với con người với nhau cần:

 

Lắng nghe mà không ngắt lời.   Nói mà không buộc tội.   Cho mà không phải vứt đồ thừa.   Cầu nguyện mà không vọng niệm.   Trả lời mà không tranh cãi.   Chia sẻ mà không giả tạo.   Tận hưởng mà không phàn nàn.   Tin tưởng mà không dao động.  
Lang tam nghe Phat day lam nguoi, tu than cai menh hinh anh 2
 
Tha thứ mà không trừng phạt.   Hứa hẹn mà không lãng quên.   Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.   Hãy nói những lời chân thật để mọi người đừng hiểu lầm nhau.   Hãy nói những lời hoà thuận để mọi người đừng hận thù nhau.   Hãy nói những lời cởi mở để mọi người thông cảm cùng nhau.   Hãy nói những lời hàn gắn để mọi người xích lại gần nhau.   Hãy nói những lời xây dựng để mọi người vui sống bên nhau.   Hãy nói những lời tha thứ để cuộc đời vơi bớt thương đau.   Hãy nói những lời trong sáng để tình người đẹp mãi ngàn sau  

3. Lời Phật dạy chúng sinh

  - Hãy dứt bỏ nóng giận, diệt trừ tính kiêu căng, không luyến ái vật chất, không còn ham muốn dục vọng, sẽ giải thoát được mọi sự ràng buộc và không bao giờ bị phiền não.   - Trong sạch và nhơ bẩn cũng đều tùy thuộc nơi mình. Không ai có thể làm cho người khác trong sạch hay ô nhiễm.   - Cuộc sống của chúng ta được định hình bởi chính tâm trí của chúng ta. Chúng ta sẽ trở thành những gì chúng ta nghĩ.   - Người chinh phục chính mình còn vĩ đại hơn một nghìn lần người chinh phục ngàn người trên chiến trường.   - Nếu không tìm thấy ai để hỗ trợ trên con đường tâm linh, hãy đi một mình. Không ai đồng hành với người chưa trưởng thành cả.   - Không có nỗi sợ hãi với những ai tâm trí không ngập tràn ham muốn.   - Nếu có điều gì đáng làm, hãy làm nó bằng tất cả trái tim.   - Chính bạn phải phấn đấu. Các chư Phật chỉ vạch ra con đường.  
Lang tam nghe Phat day lam nguoi, tu than cai menh hinh anh 2
 
- Những ai phá hủy được cội nguồn của sự ghen tị sẽ luôn bình yên trong tâm hồn.   - Không có sự ô nhiễm nào lớn hơn sự thiếu hiểu biết. - Người có trí tuệ hãy thổi bay những cấu uế của bản thân mình, như một người thợ rèn thổi sạch những cặn bã của chất bạc, từng tí một, từng cái một, và từng lúc một.   - Đừng cố xây dựng hạnh phúc trên sự bất hạnh của người khác, bạn sẽ vướng vào lưới của hận thù.   - Hãy cho đi, ngay cả khi bạn chỉ có một chút.   - Đừng lãng phí một phút giây nào, những phút giây lãng phí sẽ khiến bạn đi thụt lùi.   - Nếu bạn quên niềm vui của cuộc sống và bị mắc kẹt trong những thú vui của thế gian, bạn sẽ ghen tị với những người đặt thiền định làm đầu.   - Luôn mở lòng khoan dung lượng thứ cho chúng sanh, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương bạn, bạn phải buông bỏ, mới có được niềm vui đích thực.   - Đừng lãng phí sinh mạng của mình trong những chốn mà nhất định bạn sẽ ân hận. Vượt qua thất tình với lời Phật dạy về nhân duyên.   - Đừng có thái độ bất mãn người ta hoài, bạn phải quay về kiểm điểm chính mình mới đúng. Bất mãn người khác là chuốc khổ cho chính bạn.   - Đem lòng từ bi và thái độ ôn hòa để bày tỏ những nỗi oan ức và bất mãn của mình, có như vậy người khác mới khả dĩ tiếp nhận.   - Biết nói lời cảm ơn.   Mỗi bước đi trên đường đời giúp con người ta trưởng thành hơn, sống trong sạch hơn , đặc biệt là nghe theo lời Phật dạy về cách làm người sẽ khiến chúng ta thấy trân trọng bản thân, những người xung quanh và cả cuộc sống. Thế mới thấm thía Lời Phật dạy: Đoán biết người có vận mệnh tốt hay xấu chỉ cần nghe họ nói.   An Nhiên    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lắng tâm nghe Phật dạy làm người, tự thân cải mệnh

Phong thủy bàn làm việc giúp sự nghiệp thăng tiến

Theo các chuyên gia phong thủy, bài trí bàn làm việc hợp phong thủy sẽ thu hút các khách hàng tiềm năng, kiếm được nhiều tiền, tạo cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp. Dưới đây là những lời khuyên về phong thủy bàn làm việc giúp công việc của bạn hanh thông.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn hình dáng bàn làm việc Phong thủy có mục đích là giảm sự căng thẳng và tránh các vấn đề nguy hại cho tâm trí và cơ thể bạn. Vì thế, bạn hãy chọn cho mình những đồ nội thất hình tròn, bao gồm cả bàn làm việc. Các cạnh sắc lẹm, góc nhọn thường được gọi là "mũi tên độc", không tốt về phong thủy vì nó ngăn chặn năng lượng tích cực lưu thông cân bằng và tự nhiên. Bên cạnh đó, nếu vô tình bị va đập phải, những góc chọn có thể gây ra đau đớn.     Tận hưởng cảm giác quyền lực với ghế phù hợp Bạn hãy xem mình như là nữ hoàng, vua trên ngai vàng quyền lực. Khi ngồi trên một chiếc ghế thoải mái, có thể điều chỉnh độ ngả, độ cao và thật êm, khả năng làm việc của bạn sẽ được tăng lên đáng kể.   Đặt bàn làm việc ở một vị trí quyền lực Nếu để ý văn phòng của những CEO có sự nghiệp thành công, bạn sẽ thấy vị trí đặt bàn làm việc giúp chủ nhân "nhìn thấy" tất cả mọi thứ. Đặt bàn làm việc ở một vị trí quyền lực, nơi bạn có thể nhận được ánh sáng vừa đủ của cửa sổ, nhìn rõ cửa chính và sau lưng là một bức tường vững chắc công việc của bạn sẽ hanh thông. Cách bố trí này sẽ giúp bạn có một tầm nhìn xa cho tương lai phía trước và nhận được sự hỗ trợ vững chắc từ các hậu phương đằng sau.   Dọn dẹp bàn làm việc thường xuyên Bạn hãy vức bỏ danh sách những công việc đã làm, biên lai cũ, hóa đơn, tạp chí, sơn móng tay, đồ ăn, thư và bất cứ thứ gì không thuộc về bàn làm việc.     Tìm hộp đựng cho tất cả mọi thứ trên bàn làm việc Bạn cần đặt đúng vị trí mỗi đồ vật để dễ dàng tìm thấy mỗi khi cần. Việc làm này sẽ giúp công việc của bạn hiệu quả hơn và tránh được cảm giác khó chịu và lãng phí thời gian khi không thể tìm thấy đồ vật bạn cần.   Dù không gian nhỏ hay lớn, bạn cũng có thể áp dụng phong thủy vào bàn làm việc. Điều quan trọng là luôn giữ không gian sạch sẽ, gọn gàng và thỉnh thoảng trang trí để không gian tươi mới, tốt lành hơn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy bàn làm việc giúp sự nghiệp thăng tiến

12 chòm sao luyến tiếc điều gì nhất, bất đắc dĩ mới phải từ bỏ

Có những điều mà chúng ta thường luyến tiếc, không bao giờ muốn mất đi, thế nhưng, cuộc sống là phải đối mặt với những điều không mong muốn.
12 chòm sao luyến tiếc điều gì nhất, bất đắc dĩ mới phải từ bỏ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



12 chom sao luyen tiec dieu gi nhat, bat dac di moi phai tu bo hinh anh
 
Bạch Dương
 
Bạch Dương thích hưởng thụ ánh nắng mặt trời, đặc biệt là nắng chiều hoàng hôn. Mỗi khi được thảnh thơi tận hưởng ánh hoàng hôn, Bạch Dương lại mong ước điều này sẽ không bao giờ tan biến đi.
 
Kim Ngưu
Kim Ngưu thích được ăn ngon, nhất là những món sơn hào hải vị. Việc ăn cơm đối với Kim Ngưu chỉ là hoàn thành cho xong nhiệm vụ, còn khi có cơ hội được đi dự yến tiệc thì đối với Kim Ngưu đúng là “lộc trời ban”, Kim Ngưu sẽ phải từ từ nhấm nháp, thưởng thức từng chút một và mong ước bữa tiệc sẽ chẳng bao giờ tàn.
 
Song Tử
Song Tử thường là lưu luyến quá khứ, đặc biệt là bây giờ, khi đã ra trường và đi làm thì Song Tử mong muốn được bé lại, được quay lại trường học, được mặc lên mình bộ đồng phục áo trắng và được vui đùa cùng bạn bè. Song tử mong rằng những ký ức này sẽ không bao giờ mất đi.
 
Cự Giải
 
Cũng giống như Song Tử, Cự Giải cũng lưu luyến quá khứ, nhưng là lưu luyến tình yêu với người cũ, điều này thực sự là khó quên. Cho dù hiện giờ đã có tình mới, nhưng Cự Giải vẫn có cảm giác không an toàn, vẫn sợ mất đi một điều gì đó, thực sự vẫn còn luyến tiếc những kỷ niệm với người cũ kia.
 
Sư Tử
 
Sư Tử thật tình không thích chuyện tình cảm của mình gặp áp lực, Sư Tử luôn mong muốn 2 người phải thẳng thắn với nhau, có thể là chuyện vui, có cả những chuyện buồn. Chính vì vậy, có những chuyện mà khi nói ra lại khiến cho 2 người đau khổ, nên Sư Tử mong muốn quay ngược lại thời gian để mọi chuyện như chưa từng xảy ra.
 
Xử Nữ
 
Chỉ cần được trả tiền thì Xử Nữ sẽ cố gắng làm tốt nhất mọi chuyện có thể, thế nhưng trong chuyện tình cảm Xử Nữ lại không muốn “hết mình”, Xử Nữ sợ rằng tình cảm của mình sẽ nhiều hơn người ta, nếu lỡ chia tay thì mình sẽ là người chịu thiệt.

12 chom sao luyen tiec dieu gi nhat, bat dac di moi phai tu bo hinh anh 2
 
Thiên Bình
 
Thiên Bình khá thoải mái trong việc mua sắm, và thật chẳng gì thích thú bằng việc các cửa hàng đồng loạt treo biển hạ giá. Thế nhưng, trong năm chỉ có một vài lần như vậy, và khi thời gian này qua đi, Thiên Bình cảm thấy thực sự luyến tiếc.
Hổ Cáp
 
Hổ Cáp thường mong rằng các khóa học sẽ không bao giờ kết thúc và Hổ Cáp sẽ không phải rời xa những người bạn của mình, thực chất là tời xa cái người mà Hổ Cáp thầm thương trộm nhớ. Khi chia tay mà chưa nói được lòng mình với người ấy quả thực là một điều vô cùng đáng tiếc.
 
Nhân Mã
 
Nhân Mã thích “đi phượt”, mặc kệ những khó khăn, cho dù chưa cần biết điểm đến nhưng cứ được đi là tâm tình của Nhân Mã sẽ trở nên rất tốt. Nhân Mã thực sự bị cuốn hút bởi phong cảnh bên đường, những chuyến đi giúp Nhân Mã buông bỏ cuộc sống phiền não, xua tan mọi áp lực công việc, và khi phải kết thúc chuyến đi thì Nhân Mã cảm thấy vô cùng tiếc nuối.
 
Ma Kết
 
Ma Kết thích ánh nắng mặt trời ấm áp vì khi trời nắng Ma Kết có thể đi du lịch, thời tiết tốt thì tâm trạng con người cũng tốt lên rất nhiều. Tuy nhiên, thời tiết không phải lúc nào cũng chiều lòng người, sẽ có những ngày mưa khiến cho lòng người u sầu, Ma Kết sẽ phải nói lời tạm biệt ánh nắng một cách miễn cưỡng.

3 cặp đôi hoàng đạo yêu nhau đơn giản, bên nhau bền lâu
Giữa bộn bề những cuộc tình lãng mạn, say đắm nhưng chẳng mấy chốc lại đường ai nấy đi, 3 cặp đôi hoàng đạo dưới đây bên nhau rất bình lặng,

Bảo Bình
 
Bảo Bình thích các cuộc họp, các cuộc thảo luận với bạn bè và hi vọng nó có thể tiếp diễn thường xuyên. Trong các cuộc họp thì Bảo Bình cũng là người thao thao bất tuyệt, chính vì vậy là còn gì buồn hơn khi thời gian họp đã kết thúc.   Song Ngư
 
Chẳng bao giờ Song Ngư muốn rời khỏi khôi nhà của mình. Làm việc gì thì Song Ngư cũng muốn làm gần nhà mình, không muốn phải đi xa. Nếu chẳng may phải đi đâu đó một vài ngày thì họ sẽ rất nhớ cha mẹ và quay về ngay khi có thể.  
=> Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope được cập nhật mới nhất

Phương Thùy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 chòm sao luyến tiếc điều gì nhất, bất đắc dĩ mới phải từ bỏ

MC Phan Anh - Chòm sao nhân hậu và hiệp nghĩa

Qua việc chàng MC Phan Anh điển trai kêu gọi quyên góp từ thiện ủng hộ đồng bào miền Trung lũ lụt thì chúng ta có thể thấy được tấm lòng vàng vô cùng to lớn.
MC Phan Anh - Chòm sao nhân hậu và hiệp nghĩa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Qua việc chàng MC Phan Anh điển trai kêu gọi quyên góp từ thiện ủng hộ đồng bào miền Trung lũ lụt thì chúng ta có thể thấy được tấm lòng vàng vô cùng to lớn.

 

MC Phan Anh - Chom sao nhan hau va hiep nghia hinh anh
 
MC Phan Anh là một biểu tượng mẫu mực của đàn ông thuộc cung Sư Tử, đây là một trong những cung hoàng đạo dễ nổi tiếng nhất. Bởi vậy không có gì ngạc nhiên khi Phan Anh bén duyên với làng giải trí rất sớm.
 
Với sao Hỏa ở Cự Giải, Phan Anh sở hữu khả năng ăn nói tình cảm, duyên dáng, đi vào lòng người. Đó là lý do anh trở thành một trong những MC sáng giá nhất của truyền hình. Không chỉ dừng lại ở đó, Phan Anh còn tiếp tục phát triển sự nghiệp của mình với rất nhiều vai diễn trong các bộ phim: 'Lời nguyền huyết ngải', 'Cầu vồng tình yêu', 'Có lẽ bởi vì yêu',…   Bên cạnh là một MC nổi tiếng, Phan Anh cũng là một ông bố rất tuyệt vời. Anh hiện có 2 trai và 1 gái. Do mặt trăng ở Cự Giải nên đối với Phan Anh gia đình chính là một trong những điều quan trọng nhất trong cuộc sống. Theo dõi chương trình Bố ơi mình đi đâu thế, chúng ta sẽ bắt gặp ông bố Phan Anh rất tình cảm, biết cách chăm sóc, quan tâm đến các con.   MC Phan Anh có mặt trời thuộc cung Sư Tử và mặt trăng thuộc cung Cự Giải. Sự kết hợp tưởng chừng đối lập này đã tạo lên một tính cách hòa hợp giúp cho Phan Anh vừa có được can đảm, khí thế bừng bừng lửa cháy của Sư Tử lại vừa có được sự nhân hậu, tình cảm, thấu hiểu của Cự Giải.
 
Không chỉ có vẻ ngoài điển trai mà Sư Tử còn là cung hoàng đạo nổi bật nhất về tinh thần hiệp nghĩa, can đảm và thích giúp đỡ người khác. Điều đó lý giải cho việc Phan Anh sẵn sàng bỏ ra 500 triệu trong tài khoản cá nhân để tiên phong mở đầu cho phong trào quyên góp, ủng hộ đồng bào miền Trung.

MC Phan Anh - Chom sao nhan hau va hiep nghia hinh anh
 
Không phải ai cũng có sự xởi lởi, dám nghĩa dám làm như Sư Tử. Một Sư Tử bình thường sẽ muốn làm mọi việc một mình nhưng chính vì mặt trăng Cự Giải tác động nên thay vì chỉ ủng hộ đơn lẻ, Phan Anh đã nghĩ đến việc kêu gọi mọi người cùng chung tay góp sức giúp đỡ những người dân đang gặp khó khăn.
 
Bên cạnh sự ủng hộ cho hành động trượng nghĩa của Phan Anh, cũng có rất nhiều ý kiến trái chiều đả kích anh màu mè, giả tạo, quá phô trương. Điều này có thể giải thích do tính cách Sư Tử nên Phan Anh thích chọn cách làm từ thiện công khai trước mọi người hơn là âm thầm.
 
Về các ý kiến đả kích, Phan Anh cũng đã luôn thẳng thắn đáp trả, giải thích sự trong sạch của bản thân. Mọi thông tin liên quan đến việc từ thiện ủng hộ lũ lụt đều được anh công khai. Sư Tử rất minh bạch, chính trực, nên cây ngay sẽ không sợ chết đứng.
 
Chúc cho MC Phan Anh sẽ càng ngày càng thành công trong sự nghiệp và có thể tiếp tục giúp đỡ nhiều người hơn nữa!

ST.
Fung La - cô nàng nấm lùn dũng cảm Giám khảo The Voice Kids 2016 - sự bùng cháy của Khí và Lửa Lý do cặp trai tài gái sắc Huỳnh Anh, Hoàng Oanh cứ quấn lấy nhau

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: MC Phan Anh - Chòm sao nhân hậu và hiệp nghĩa

Nữ nhân muốn nắm quyền, trồng hồng môn trong nhà

Hồng môn là một trong những loài hoa nên trồng trong nhà, mang tới nhiều may mắn và tốt đẹp cho chủ nhân.
Nữ nhân muốn nắm quyền, trồng hồng môn trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trồng hoa không chỉ tăng mỹ quan mà còn sinh vượng khí, cải thiện phong thủy cho ngôi nhà.


Nu nhan muon nam quyen, trong hong mon trong nha hinh anh
 
Hồng môn sống ở môi trường nhiệt đới ẩm, du nhập vào nước ta từ lâu và là loài hoa khá quen thuộc với người Việt. Màu sắc tươi tắn, vẻ ngoài xinh đẹp, sang trọng, hồng môn rất được ưa chuộng để trang trí hoặc làm quà tặng. Nhưng ít người biết tới tác dụng phong thủy của loài hoa nên trồng trong nhà này.
 
Hồng môn lá dài, rộng, dày, xanh mướt tượng trưng cho may mắn, phát triển; hoa nở to, màu sắc đỏ tươi rực rỡ, như lời nói nhiệt tình, tốt đẹp; chóp màu vàng óng dựng thẳng đại diện cho phú quý, tiền tài. Màu đỏ vốn là màu cát tường nên hoa hồng môn thích hợp để đem biếu, tặng nhân dịp có hỉ sự như khai trương, là lời chúc sự nghiệp thịnh vượng, náo nhiệt. 
Loài hoa may mắn này còn khiến người ta tràn ngập nhiệt tình cùng tin tưởng, đặt ở trong nhà như thắp thêm niềm vui và sức sống cho không gian. Nó giúp cho chủ nhân thoải mái tâm tình, giải phóng cảm xúc, hướng tới những điều tích cực. Bên cạnh đó, hồng môn là loài hoa thu hút quý nhân, gia tăng bạn tốt giúp đỡ người trong nhà.
 
Ở trung cung trong Bát cung phong thủy nhà ở, đặt một chậu hồng môn tươi tốt có tác dụng khởi sinh. Hồng môn thuộc tính Mộc, sinh Hỏa, Hỏa tái sinh Thổ, đặt ở trung cung là phương vị Thổ như tạo ra miền đất mới, vạn vật được tái sinh. Trung cung nhà ở Khôn vị hoặc Cấn vị thì nhân sự bất lợi, xuất hiện hung tai, đặt hồng môn có thể hóa giải rất hữu hiện.
 
Màu đỏ là quẻ Ly, tượng trưng cho vẻ đẹp, sự ngời sáng; màu vàng là quẻ Khôn, tượng trưng cho sự dịu dàng, chăm chỉ, đại diện cho nữ nhân. Trong nhà có nữ nhân thể trạng yếu hoặc vận thế không tốt, trồng loài hoa hợp phong thủy này rất có lợi. Hồng môn còn có nghĩa là nữ chủ nhân nắm quyền, nếu người phụ nữ muốn có tiếng nói trong gia đình thì cũng nên sắm một cây.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Những Vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc

Trần Hồng (Theo d1xz)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nữ nhân muốn nắm quyền, trồng hồng môn trong nhà

Hình dạng tòa nhà, văn phòng có đặc điểm gì đến phong thủy? (Phần 2) –

Đặc điểm của những tòa nhà văn phòng hình chữ hộp là gì? Một cư trạch hoặc một tòa nhà văn phòng, tốt nhất là lấy bố cục của hình hộp là tốt nhất. Những bố cục hình vuông, hình chữ nhật mới là những cư trạch cát lợi nhất. Giả sử những căn phòng tìm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc điểm của những  tòa nhà văn phòng hình chữ hộp là gì?

Một cư trạch hoặc một tòa nhà văn phòng, tốt nhất là lấy bố cục của hình hộp là tốt nhất. Những bố cục hình vuông, hình chữ nhật mới là những cư trạch cát lợi nhất.

Giả sử những căn phòng tìm được, hình dạng không thẳng hoặc có những thiếu sót, đều là những căn hộ không cát lợi, chúng ta tốt nhất không nên dùng, nếu không thì sẽ có ảnh hưởng không tốt. Nhưng một cán bộ có bố cục hình vuông, dùng làm văn phòng hoặc mở cửa hàng, cũng tất phải chú ý đến phía trước minh đường có rộng rãi không (nhìn từ phía trước rất rộng mở), tất có thể đem lại tài nghiệp tốt đẹp cho công ty, cửa hàng làm ăn phát đạt.

1262077024-585529

Thiết kế bố cục trong văn phòng có những cân nhắc  gì?

Bố cục mặt bằng và thiết kế đường đi nội bộ bên trong văn phòng rất quan trọng, thông thường cát lợi như sau:

– Hình chữ vuông, chủ nhân tất cả các công việc đều bình ổn, thuận lợi.

– Diện tích trước hẹp sau rộng, chủ nhân bố cục thịnh vượng, những công ty này được hưởng phú quý cơ vận thiên thời địa lợi.

– Sử dụng diện tích trước thấp sau cao, chủ nhân sau lưng có chỗ dựa, cũng từng bước lên cao; nếu ngược lại thì chủ nhân sẽ ngày càng thất bại.

 Làm thế nào để có thể lựa chọn một cách cẩn thận trong những tòa nhà văn phòng?

Khi mở ra công ty hay nhà máy nào đó, đều hy vọng tài vận hướng thông, ngày càng đấu kim. Chính vì vậy mà lựa chọn được một nơi phong thủy bảo địa là vô cùng quan trọng, lựa chọn vị trí của toà nhà văn phòng, lựa chọn tầng lầu của văn phòng cũng cần phải cầu kỳ, nếu không căn cứ vào thuộc tính Ngũ hành của nhà.

Quan hệ giữa tầng lầu và Ngũ hành:

– Tầng 1 và tầng 6 thuộc phương Bắc, mệnh Thủy. Chính vì vậy gặp tầng 1, 6 là thuộc Thủy, hay như tầng 11, tầng 21, tầng 31… cũng vậy.

– Tầng 2 và tầng 7 thuộc phương Nam, mệnh Hoả. Chính vì vậy gặp tầng 2, 7 là thuộc Hỏa, hay như tầng 12, tầng 22, tầng 32… cũng vậy.

– Tầng 3 và tầng 8 thuộc phương Đông, mệnh Mộc. Chính vì vậy gặp tầng 3, 8 là thuộc Mộc, hay như tầng 13, tầng 23, tầng 33… cũng vậy.

– Tầng 4 và tẩng 9 thuộc phương Tây, mệnh Kim. Chính vì vậy gặp tầng 4, 9 là thuộc Kim, hay như tầng 14, tầng 24, tầng 34… cũng vậy.

– Tẩng 5 và tầng 10 thuộc mệnh Thổ, như tầng 15, tầng 25, tầng 35… cũng vậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dạng tòa nhà, văn phòng có đặc điểm gì đến phong thủy? (Phần 2) –

12 việc cần làm ngay để loại bỏ suy nghĩ tiêu cực

12 việc cần làm ngay để loại bỏ suy nghĩ tiêu cực. Bạn xứng đáng được dành thời gian cho những điều hạnh phúc và ý nghĩa hơn là ngồi một chỗ buồn rầu vì những điều không thể thay đổi được.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn xứng đáng được dành thời gian cho những điều hạnh phúc và ý nghĩa hơn là ngồi một chỗ buồn rầu vì những điều không thể thay đổi được.

1. Tạo ra hạnh phúc từ bên trong

Nếu muốn có hạnh phúc thực sự, bạn không nên phụ thuộc quá nhiều vào những yếu tố bên ngoài. Một khi những điều đó mất đi, tâm trạng của bạn cũng sẽ bị ảnh hưởng theo. Chỉ có hạnh phúc từ bên trong, sự yên bình trong tâm hồn mới có thể giữ cho tinh thần bạn luôn bình tĩnh và khỏe mạnh.

2. Luyện tập cách suy nghĩ tích cực

Suy nghĩ ảnh hưởng đến hành động, nên nếu cứ nghĩ mọi thứ theo hướng tiêu cực, tương lai của bạn sẽ chỉ còn toàn một màu đen tối. Hãy luôn nhắc nhở bản thân tìm đến những hướng suy nghĩ tích cự. Vấn đề gì cũng có hai mặt, nếu bạn đang vô tình buồn rầu vì mặt trái của nó, hãy thử suy nghĩ đến cả mặt phải nữa.

3. Tìm kiếm lí do để tự tin vào bản thân

Dù có rất nhiều người bạn phải vượt qua, nhưng một khi đã tin tưởng vào bản thân thì những gì còn lại chẳng còn là vấn đề nữa. Kể cả khi tuyệt vọng chán nản nhất, sẽ luôn có lí do để bạn tin tưởng vào bản thân mình. Bởi mỗi người sinh ra đều có một giá trị nào đó và chỉ riêng việc bạn xuất hiện trên đời đã là một giá trị rồi.

4. Tránh xa những người tiêu cực

Khi luôn có những suy nghĩ tiêu cực, bạn không thể làm điều gì tốt đẹp cho người khác. Những người tiêu cực cũng vậy. Nếu bạn dễ bị ảnh hưởng bởi xung quanh, những người hay than thở sẽ khiến bạn căng thẳng về vấn đề của họ. Mặt khác, ở gần những người vui vẻ sẽ cho bạn thời gian tràn đầy năng lượng và sáng tạo trước các vấn đề cần giải quyết.

5. Thường xuyên tập thể dục

Thể chất thường xuyên được tập luyện sẽ giúp cơ thể giải phóng hoocmon có lợi cho “cảm giác tích cực”. Hãy đối xử tử tế với cơ thể đã chăm chỉ vì bạn lao động không ngừng nghỉ, đổi lại, cơ thể sẽ giúp bạn giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lượng vui vẻ. Hơn nữa, một cơ thể khỏe mạnh thì làm gì cũng thuận lợi hơn.

6. Dành thời gian ngoài thiên nhiên

Giống như một phương pháp thư giãn, trở về với thiên nhiên đem lại cho bạn cảm giác được thanh lọc tâm hồn và thể chất. Sau những giờ phút vất vả với bộn bề công việc, đi dạo một chút và tận hưởng cảnh đẹp của cây cối sẽ khiến suy nghĩ của bạn thông suốt hơn.

7. Tránh chi tiêu bừa bãi

“Mua những gì bạn cần, đừng mua những gì bạn muốn”. Ngày nay, tình trạng nhìn đâu cũng thấy giảm giá dễ khiến chúng ta đau đầu khổ sở khi muốn ôm tất cả về nhà. Nhưng vì một “tương lai xa hơn”, bạn nên dành những gì mình có cho việc đầu tư hoặc khám phá những trải nghiệm mới. Chẳng có ai “khánh kiệt” mà lại vui vẻ cả.

8. Đón nhận thất bại

Cũng giống như hai mặt vấn đề, cuộc sống cũng luôn có thành công và thất bại, và thất bại là cách duy nhất để bạn có thể học hỏi và trưởng thành. Nếu bạn thất bại, chỉ cần đứng lên và làm lại từ đầu thôi. Nhờ đó, bạn sẽ thấy mình có thêm nhiều kinh nghiệm và tốt lên từng ngày.

9. Sẵn sàng chịu trách nhiệm

Những người tích cực luôn chịu trách nhiệm về chính cuộc sống của mình. Thay vì mệt mỏi trước những thứ ngoài tầm kiểm soát, họ có thể vui vẻ vì đó là lỗi của mình và mình hoàn toàn thay đổi được. Một người tích cực ít khi đổ lỗi cho các yếu tố bên ngoài như hoàn cảnh hoặc người khác, vì đó chỉ là cách trốn tránh mà thôi.

10. Học cách kiểm soát suy nghĩ

Đôi khi những suy nghĩ tiêu cực có thể bất ngờ “xâm lấn” tâm trí bạn lúc nào không hay. Những lúc này, bạn có thể tìm cách để bản thân nghĩ đến việc khác, như đọc một cuốn sách, xem một bộ phim, hoặc làm những công việc chân tay. Nếu không thể kiểm soát cảm xúc, bạn cũng sẽ không thể kiểm soát hành động và vì thế sẽ không có một ngày vui vẻ.

11. Biết lúc nào cần nói “không”

Nói “không” đúng lúc là một kĩ năng cần phải học. Để trở nên tích cực và lạc quan, bạn không thể cứ đồng ý làm những điều mà mình không thích, nói những điều mà mình không muốn. Sức mạnh của sự từ chối sẽ khiến bạn ngạc nhiên một khi nhận ra giá trị của nó. Hãy ưu tiên nhu cầu của bản thân trước khi cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người.

12. Không để những gì người khác nói ảnh hưởng

Chỉ có bạn mới có thể sống cuộc đời của bạn. Dù người khác có nói gì, họ cũng không phải là bạn và không thể hiểu được hoàn toàn những gì bạn đang phải trải qua. Mọi bình luận tiêu cực sẽ chìm vào quên lãng khi họ biết bạn có chính kiến riêng và có không cần nói bạn cũng làm tốt việc của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 việc cần làm ngay để loại bỏ suy nghĩ tiêu cực

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Đặc tính sao Phi Liêm và sao Phá Toái

Tìm hiểu về đặc tính của bộ đôi sao Phi Liêm và sao Phá Toái, Sao Phi Liêm thuộc dương hỏa, Sao Phá Toái dễ khiến cuộc đời thăng trầm trắc trở.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính sao Phi Liêm và sao Phá Toái

Đặc tính sao Phi Liêm và sao Phá Toái

Tìm hiểu về đặc tính của sao Phi Liêm và sao Phá Toái

Sao Phi Liêm thuộc dương hỏa, chủ về cô khắc, kị gặp các cung mệnh, thân, phụ mẫu, thiên di, thích các cát tinh hóa giải, kị gặp các sao hung tinh. Nhập cung mệnh, thân thì tính cách cô độc, nhập cung phụ mẫu thì rất ít duyên với cha mẹ, nếu gặp hung tinh thì tính xung khắc càng nặng. Nhập cung thiên di, nên tránh dịch, chuyển, nếu gặp thêm hung tinh sẽ tai nạn về xe cộ, đổ máu. Sao Phi Liêm nhập cung thân, mệnh thì tính cách cố chấp quật cường, tâm thần dễ bất ổn hoặc mơ hồ đãng trí, dễ tin lời đồn thổi.

Sao Phi Liêm bản tính cương trực, có lúc nhiệt tình, có lúc bảo thủ, trong quan hệ giao tế thường giữ mình cô độc, lạc lõng với xã hội, thích hợp với những công việc mang tính chất cố định, cứng nhắc.

Sao Phi Liêm là sao tiểu nhân mang tính đào hoa và thị phi, nếu gặp sao chính tinh hữu lực hoặc lục cát tinh đồng cung, thì không đáng ngại. Nếu sao Phi Liêm gặp sao Cự Môn, Văn Khúc, Hóa Kị, Hồng Loan, Long Trì, Mộc Dục, Thiên Riêu thì phải lo họa đào hoa. Tiểu hạn, lưu niên gặp mới bị ảnh hưởng.

Sao Phá Toái dễ khiến cuộc đời thăng trầm trắc trở, không thuận lợi, thường thường chỉ vạch ra kế hoạch, làm việc hay bỏ dở chừng, đặt mục tiêu quá cao, hoặc quá lý tưởng hóa, khi làm việc mà gặp phải khó khăn thì giữa đường bỏ dở, nên thường hy vọng rồi lại thất vọng. Nhưng nếu cuộc đời gặp phải cảnh khó khăn trắc trở, khi thiếu quyết tâm khắc phục, thay đổi, nếu gặp được sao Phá Toái, thì là lúc thích hợp để phát huy tác dụng chuyển biến, để đưa ra cuộc đời rẽ ngoặt sang một hướng khác, có thể đó chính là bước khởi đầu cho một cơ hội mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính sao Phi Liêm và sao Phá Toái

Mơ thấy phi công: Sự nghiệp sẽ bay cao –

Giấc mơ phỉ công đa phần có liên quan đến nam giới. Mơ thấy phi công, dự báo sự nghiệp của bạn sẽ bay cao. Mơ thấy mình trở thành phi công, chứng tỏ bạn là người không ưa dựa dẫm, thích làm việc độc lập. Nếu mơ thấy phi công hay mơ thấy mình trở thàn
Mơ thấy phi công: Sự nghiệp sẽ bay cao –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy phi công: Sự nghiệp sẽ bay cao –

Giải hạn tuổi Nhâm Tuất –

33 TUỔI DƯƠNG NAM (Sanh từ 25-1-1982 đến 12-2-1983) Tướng tinh: Chim Trĩ Con dòng: Hắc Đế. Quan lộc, tâm khổ MẠNG: Đại hải Thủy (Nước biển lớn) SAO: Vân Hớn: Bị tai tiếng, bất an HẠN: Thiên La: Tinh thần rối rắm, bất định VẬN NIÊN: Mã ngộ Đáo (Ngựa t
Giải hạn tuổi Nhâm Tuất –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải hạn tuổi Nhâm Tuất –

Tuổi Sửu và tuổi Ngọ có hợp nhau không? –

Ngựa và Trâu là một cặp không hợp cạ, nhưng có thể, nhờ sự khác biệt về tính cách mà họ có thể bù đắp cho nhau, với điều kiện đôi bên cùng phải thấu hiểu. Nếu không kiên nhẫn và không biết nhượng bộ thì tình yêu giữa hai tuổi này chắc chắn sẽ tan vỡ.
Tuổi Sửu và tuổi Ngọ có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu và tuổi Ngọ có hợp nhau không? –

Hút tài lộc bằng Thần Tài Kim Mễ - hiệu quả bất ngờ

Tài Thần Kim Mễ là một loại vật phẩm phong thủy rất cát tường, giúp thu hút tài lộc và tiền bạc.
Hút tài lộc bằng Thần Tài Kim Mễ - hiệu quả bất ngờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tài Thần Kim Mễ là một loại vật phẩm phong thủy rất cát tường, giúp thu hút tài lộc và tiền bạc. 


► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Hut tai loc bang Than Tai Kim Me - hieu qua bat ngo hinh anh
 
Tài Thần Kim Mễ được chế tạo từ các loại sa khoáng tự nhiên. Mỗi loại Tài Thần Kim Mễ có cách tinh luyện khác nhau. Loại Kim được tinh chế từ kim dầu và kim phấn. Loại Mộc làm từ bột đàn hương. Loại Thủy gồm tinh dầu của trăm hoa chưng cất. Loại Hỏa là sa khoáng được sấy bằng lửa trong một thời gian và nhiệt độ thích hợp. Thổ là các loại sa khoáng đồng nhất và cao cấp.
 
Thần Tài Kim Mễ có linh lực mạnh, nếu được sử dụng đúng sẽ mang tới cho chủ nhân tài lộc dồi dào và nhiều vận may liên quan tới tài chính.
 
Mỗi khi vào mùng 1 hoặc ngày rằm, có thể dùng một chút Kim Tài Mễ rắc trên thân tượng Thần Tài và xung quanh, còn thừa thì bỏ vào trong bát hương. Làm đều đặn sẽ rước quý nhân tới nhà, mọi việc đều hanh thông, thuận lợi.
 
Khi tắm có thể cho một chút Kim Tài Mễ vào nước tắm để chuyển vận số, người vượng, tiền tài vượng.
 
Trong cưới hỏi, trên đường đón rước dâu qua rải Kim Tài Thần Mễ thì vợ chồng hòa hợp, tâm đầu ý hợp, tăng thêm tình cảm, tài lộc song thu.
 
Trong nhà hoặc văn phòng, cửa hàng, ở cung Tài Lộc đặt ở đó một cái Tụ Bảo Bồn, dưới đáy bỏ vào nhiều bao Tài Thần Kim Mễ, sau đó dùng vải hồng bọc thêm một số ngân khí, tiền cổ hoặc ngọc khí, mỗi chiều đi làm về bỏ vào đó vài đồng xu lẻ, duy trì liên tục 99 ngày, giúp cho chủ nhà tích tụ tài phú, tăng trưởng thời vận.   Trong lư hương bỏ vào Kim Thần Tài Mễ, thì hương hỏa vượng, linh khí tốt, gia trạch được phúc ấm tổ tiên và sự che chở của thần linh.
 
Khi dọn nhà, phòng mới, xung quanh rải Kim Tài Thần Mễ, tự nhiên sẽ được quý nhân đến nâng đỡ, công tác thuận lợi, như gấm thêu hoa.
 
Trong bát hương ban Thần Tài – Ông Địa bỏ vào Kim Tài Mễ, thì cầu gì được nấy, ngày ngày vận tốt đều đến.
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hút tài lộc bằng Thần Tài Kim Mễ - hiệu quả bất ngờ

Giải Mã Hai Sao Âm Dương Trong Tử Vi – Hà Hưng Quốc

Cũng giống như Tử Vi-Thiên Phủ, cặp sao Thái Dương (TD) và Thái Âm (TA) đối xứng nhau qua trục Sửu Mùi khi được phân phối trên địa bàn của lá số. Từng vị trí đối xứng của TD–TA được liệt kê trong H11. Trong bảng liệt kê này cho thấy khi TD ở Sửu thì TA cũng ở Sửu, khi TD ở Dần thì TA ở Tí . . . lần lượt từng cặp vị trí một.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 H11: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương – Thái Âm Phối tất cả những vị trí đối xứng lên địa bàn 12 cung của lá số thì chúng ta sẽ thấy kết quả giống như hình H12.  H12: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương – Thái Âm Xét nghiệm nội dung H11 và H12, không khó để chúng ta nhận ra rằng hai sao Thái Dương và Thái Âm chuyển động ngược chiều nhau.  Thái Dương chuyển động thuận chiều kim đồng hồ còn Thái Âm thì chuyển động ngược chiều kim đồng hồ.  Chuyển đổi địa bàn 12 cung hình vuông trở về lại 12 cung hình tròn rồi cho quỹ đạo của Thái Dương  [TD1 cho tới TD12] nằm ở vòng ngoài đi thuận theo chiều kim đồng hồ và cho quỹ đạo của Thái Âm [TA1 cho tới TA12] nằm ở vòng trong đi ngược chiều kim đồng hồ, chúng ta sẽ thấy kết quả giống như hình H13.  Thái Dương và Thái Âm cùng nằm trên trên trục Sửu Mùi [TD1-TA1 ở Sửu và TD7-TA7 ở Mùi] còn tất cả những vị trí khác đều đối xứng qua trục Sửu-Mùi.  Thí dụ như Thái Dương ở Dần  [TD2] đối xứng với Thái Âm ở Tí [TA2] qua trục Sửu-Mùi, Thái Dương ở Mão [TD3] đối xứng với Thái Âm ở Hợi [TA3] qua trục . . . H13: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương -Thái Âm Nhìn vào hình H13, thêm một lần nữa không khó để chúng ta nhận ra là sự chuyển động của Thái Dương và Thái Âm khế hợp chặt chẽ và hoàn toàn với hai dòng vận hành trên Việt Dịch Đồ, hình H14. H14: Việt Dịch Đồ (Nguồn: Việt Dịch của Hà Hưng Quốc) Hai dòng vận hành này đại diện cho hai dòng hành khí, Hành Khí Âm (HKA) nằm bên trong [vòng màu xanh lá] chuyển động ngược kim đồng hồ và Hành Khí Dương (HKD) nằm bên ngoài [vòng màu đen] chuyển động thuận chiều kim đồng hồ.  Như chúng ta đã biết Tí là vị trí “âm cực dương sinh” còn Ngọ là vị trí “dương cực âm sinh.”  Nếu chúng ta gán một con số định lượng cường độ cho HKA và HKD ở mỗi vị trí [cũng là ở mỗi thời điểm trong chu kỳ sinh hoá trên Việt Dịch Đồ] thì con số nhỏ nhất sẽ nằm tại Tí và con số lớn nhất sẽ nằm tại Ngọ cho HKD, và hoàn toàn ngược lại cho HKA.  Hãy cho con số nhỏ nhất đó là số không [0] và giả dụ thêm là sự thay đổi trong cường độ của hành khí từ một vị trí này sang vị trí kế bên là tăng thêm hay giảm bớt một đơn vị cường độ, và hãy cho đơn vị cường độ đó là một [1], thì kết quả theo đó sẽ giống như hình H15.  Dấu cộng [+] trước mỗi con số là để chỉ khí dương và dấu trừ [-] trước mỗi con số là để chỉ khí âm.  Cường độ của HKD tăng dần từ Tí tới Ngọ và giảm dần từ Ngọ tới Tí, tăng dần từ +0 tới +6 và giảm dần từ +6 tới +0.  Cường độ của HKA tăng dần từ Ngọ tới Tí và giảm dần từ Tí tới Ngọ, tăng dần từ -0 tới -6 và giảm dần từ -6 tới -0.   H15: Hành Khí Của Cặp Thái Dương-Thái Âm Đối Xứng Qua Trục Sửu Mùi Hình H15 tuy là giúp cho chúng ta dễ dàng nhìn thấy sự chuyển dịch của hành khí qua từng thời điểm [vị trí], cường độ của hành khí tại mỗi thời điểm và dạng biến đổi của dòng hành khí một cách tổng quát nhưng lại không giúp cho chúng ta dễ dàng nhận ra sự đối xứng của Thái Dương và Thái Âm được mã hoá trong từng cặp TD1-TA1, TD2-TA2, TD3-TA3 . . . cho tới TD12-TA12.  Để làm nổi lên yếu tố đối xứng, chúng ta có thể xếp đặt lại thông tin trong hình H15 một cách khác. Và kết quả cho thấy giống như trong hình H16.  H16: DNA Của Cặp Thái Dương – Thái Âm Đối Xứng Qua Trục Sửu Mùi Dòng hành khí dương của sao Thái Dương và dòng hành khí âm của sao Thái Âm được trình bày dưới dạng dây sóng.  Mỗi chu kỳ của dây sóng Thái Dương chuyển dịch tuần tự từ TD1 tới TD12.  Mỗi chu kỳ của dây sóng Thái Âm chuyển dịch tuần tự từ TA1 tới TA12.  Hai dây sóng đi ngược chiều nhau.  Và mỗi điểm TDn trên dây sóng Thái Dương được nối với một điểm TAn trên dây sóng Thái Âm và chúng đối xứng nhau qua trục Sửu-Mùi.  Dạng dây sóng của hai dòng hành khí được hình thành do “phiên dịch” khoảng cách giữa Thái Dương và Thái Âm ở mỗi thời điểm đối xứng qua trục Sửu-Mùi.  Có nghĩa là khi Thái Dương và Thiên Phủ cùng tại Sửu thì khoảng cách TD1-TA1 là 0 độ, Thái Dương tại Dần và Thái Âm tại Tí thì khoảng cách TD2-TA2 là 60 độ, Thái Dương tại Mão và Thái Âm tại Hợi thì khoảng cách TD3-TA3 là 120 độ, Thái Dương tại Thìn và Thái Âm tại Tuất thì khoảng cách TD4-TA4 là 180 độ, Thái Dương tại Tỵ và Thái Âm tại Dậu  thì khoảng cách TD5-TA5 là 120 độ, Thái Dương tại Ngọ và Thái Âm tại Thân thì khoảng cách TD6-TA6 là 60 độ, Thái Dương và Thái Âm tại Mùi thì khoảng cách TD7-TA7 là 0 độ.  Và chiều dài của mỗi dây nối liền một TD với một TA đại diện cho một khoảng cách vừa nói. Tưởng tượng một đường thẳng chạy từ Sửu tới Mùi ở hai đầu của dãy sóng, xuyên qua Sửu và Mùi ở giữa, và chia dãy sóng thành hai phần trên và dưới.  Đường thẳng tưởng tượng này chính là trục đối xứng Sửu-Mùi.  Dãy sóng của cặp Thái Dương – Thái Âm có hình dạng giống như cấu trúc DNA cho nên chúng ta tạm gọi nó là DNA của cặp Thái Dương – Thái Âm.          Như chúng ta được biết, bất cứ sao nào cũng đều có vị trí miếu địa, vượng địa, đắc địa hay hãm địa cho riêng nó.  Thái Dương và Thái Âm cũng không ngoại lệ.  Vị trí miếu, vượng, đắc, hãm của hai sao Thái Dương và Thái Âm mà chúng ta biết hiện nay có thể nói là đạt được sự đồng thuận của các danh gia Tử Vi ngoại trừ một vài bất đồng nhỏ.  Tổng kết trong hình H17 cho thấy điều này.       H17: Vị Trí Miếu, Vượng, Đắc, Hãm Của Thái Dương Và Thái Âm Giống như Tử Vi và Thiên Phủ, dựa vào những gì vừa được khám phá thì chúng ta cũng có thể nói dường như Thái Dương và Thái Âm là hai sao được hư cấu trên nền tảng âm dương.  Chúng đại diện cho cái gì thì chưa biết.  Nhưng đã là được cấu tạo trên nền tảng âm dương thì qui luật của âm dương tự nó sẽ quyết định tính chất miếu, vượng, đắc, hãm chứ không thể nào quyết định bởi qui luật ngũ hành.  Dựa vào sự quan sát và phán đoán này, chúng ta có thể tiến hành kiểm nghiệm tính chất miếu, vượng, đắc, hãm của cặp sao Thái Dương – Thái Âm với thông tin đã có sẵn trong các hình H15 và H16. Khác với Tử Vi và Thiên Phủ, tuy là cặp Thái Dương – Thái Âm cũng là một cặp sao hư cấu của hai dòng hành khí vận hành ngược chiều trong cùng một hệ thời-không và tuy là tính đối xứng qua trục Sửu-Mùi là chìa khóa xác định sự tương tác của hai dòng hành khí đó nhưng nó không có chiếc chìa khóa “bình hòa” như Tử Phủ cho nên chúng ta có thể xét cường độ hành khí của chúng độc lập với nhau được.   Nói một cách khác, tương tác của hai dòng hành khí âm dương này nằm ở một dạng khác, không giống như dạng tương tác củaTử Phủ. Từ những thông tin trong hình H16 chúng ta có thể rút ra và kiến tạo đường biểu diễn MVĐH (miếu, vượng, đắc, hãm) của Thái Dương và Thái Âm như cho thấy trong hình H18.
 
 H18: Đường Biểu Diễn MVĐH của Thái Dương Và Thái Âm Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương trong hình H18 chúng ta nhận ra được:

  • Tại Tí cường độ hành khí của Thái Dương là +0 và liên tục tăng lên tại các vị trí Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.  Tại Sửu cường độ hành khí của Thái Dương tăng trưởng nên cho là Đắc.  Tại Dần cường độ hành khí của Thái Dương hiển lộ nên cho là Vượng.  Tại Mão, Thìn cường độ hành khí của Thái Dương tiếp tục tăng trưởng nên cho là Vượng.  Tại Tỵ, Ngọ cường độ hành khí của Thái Dương cực thịnh và tới đỉnh nên cho là miếu.              
  • Tại Mùi cường độ hành khí của Thái Dương bắt đầu thoái giảm nhưng vẫn còn mạnh nên gọi là Đắc.  Tại Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tí cường độ hành khí của Thái Dương liên tục thoái giảm nên cho là Hãm.   
Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Âm trong hình H18 chúng ta nhận ra được:
  • Tại Ngọ cường độ hành khí của Thái Âm là -0 và liên tục tăng lên tại các vị trí Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tí.  Tại Mùi cường độ hành khí của Thái Âm tăng trưởng nên cho là Đắc.  Tại Thân cường độ hành khí của Thái Âm hiển lộ nên cho là Vượng.  Tại Dậu, Tuất cường độ hành khí của Thái Dương tiếp tục tăng trưởng nên cũng cho là Vượng.  Tại Hợi, Tí cường độ hành khí của Thái Âm cực thịnh và tới đỉnh nên cho là miếu.  
  • Tại Sửu cường độ hành khí của Thái Âm bắt đầu thoái giảm nhưng vẫn còn mạnh nên cho là Đắc.  Tại Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ cường độ hành khí của Thái Âm liên tục thoái giảm nên cho là Hãm.
Không khó cho chúng ta nhận ra là đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương -Thái Âm trong hình H18 đã cung cấp cơ sở và qui luật hợp lý trong việc phân định những vị trí miếu, vượng, đắc, hãm của hai sao Thái Dương và Thái Âm.  Kết quả cho thấy nó trùng khớp với thông tin trong bảng tổng hợp ý kiến của các danh gia Tử Vi, hình H17.  Đặc biệt là nó hoàn toàn đồng ý với Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc trong sự phân định miếu, vượng, đắc, hãm của Thái Âm.   Cả hai cặp Tử Vi – Thiên Phủ và Thái Dương – Thái Âm đều được hư cấu từ hai dòng âm dương vận hành.  Và cả hai cặp chánh tinh đều có sự khế hợp ngoạn mục với Việt Dịch Đồ.  Mỗi cặp lại cho ra đường biểu diễn MVĐH khác nhau rất xa trong hình dạng lẫn khác xa trong qui luật phân định vị trí miếu, vượng, đắc, hãm.  Câu hỏi được đặt ra là: mỗi cặp chánh tinh này thực ra là đại diện cho cái gì trong môn Tử Vi???   Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương và Thái Âm chúng ta nhận thấy mỗi đường gồm có hai pha (2 phases).  Một nữa là chiều tăng trưởng liên tục.  Một nửa kia là chiều thoái giảm liên tục.  Đường biểu diễn của Thái Dương và Thái Âm lại luôn luôn ở vào tình trạng trái ngược nhau, tức là khi đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương đang ở pha tăng trưởng thì đường biểu diễn MVĐH của Thái Âm đang ở pha thoái giảm.  Và tính cách tương tác kiểu này giữa hai dòng hành khí rất giống với tính cách tương tác của Nhật Nguyệt.  Có phải Thái Dương và Thái Âm đại diện cho Nhật Nguyệt?  Trước khi trả lời, chúng ta hãy nhìn vào hình H19, nó là kết quả của việc tái cấu trúc lại toàn bộ thông tin có sẳn trong các hình H15, H16 và H18.     H19: MVĐH  của Thái Dương (Nhật) và Thái Âm (Nguyệt) Bên trong vòng tròn là hãm địa.  Bên ngoài vòng tròn là đất miếu vượng.  Từ Sửu đến Mùi, Thái Âm hãm [bên trong vòng tròn] còn Thái Dương thì miếu vượng [bên ngoài vòng tròn].  Từ Mùi đến Sửu, Thái Âm miếu vượng [bên ngoài vòng tròn] còn Thái Dương bị hãm [bên trong vòng tròn].  Thái Dương và Thái Âm đích thực là đại diện cho Nhật Nguyệt.  Đối chiếu với cặp Tử Vi – Thiên Phủ, chúng ta còn thấy Thái Dương tốt đẹp từ Sửu tới Mùi thì Tử Vi cũng tốt đẹp từ Sửu tới Mùi.  Thái Âm tốt đẹp từ Mùi đến Sửu thì Thiên Phủ cũng tốt đẹp từ Mùi đến Sửu.  Nói một cách khác, Thái Dương có sự tương thông với Tử Vi và Thái Âm có sự tương thông với Thiên Phủ. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải Mã Hai Sao Âm Dương Trong Tử Vi – Hà Hưng Quốc

Nội dung thuyết ngũ hành –

Thuyết Ngũ Hành được ứng dụng với những quy tắc tương sinh tương khắc và phản ngược của tương sinh tương khắc, sự thái quá của từng hành. Nó giúp cho lý giải, ứng dụng phù hợp đối với từng sự việc, hiện tượng của thiên nhiên, xã hội, con người... Đặc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuyết Ngũ Hành được ứng dụng với những quy tắc tương sinh tương khắc và phản ngược của tương sinh tương khắc, sự thái quá của từng hành. Nó giúp cho lý giải, ứng dụng phù hợp đối với từng sự việc, hiện tượng của thiên nhiên, xã hội, con người…

Đặc tính của Ngũ Hành

Ngũ Hành gồm năm hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Mỗi hành có đặc tính riêng biệt, hình thái và biểu lý phương cách khác nhau.

–   Hành Thủy có đặc tính hàn lạnh, hướng xuống, thâm trầm, thể hiện màu đen, uyển chuyển…

–   Hành Hỏa có đặc tính nóng, bốc lên, sung lực, sắc đỏ, không hòa hoãn…

–  Hành Kim có đặc tính sắc bén, thụ sát, thanh tĩnh, biểu hiện sắc trắng, nhu động…

–  Hành Mộc đó là tính sinh sôi nảy nở, thẳng ngay, cong dài với sắc khí xanh, dịu êm…

–   Hành Thổ – đất có tính nuôi dưỡng, che trở, hóa dục với sắc vàng nâu…

Với Ngũ Hành chính là sự so sánh biểu lý. Nó quy tụ những đặc tính cơ bản. Nó tàng ẩn trong sự vật hiện tượng mà từ đó sự so sánh để đi đến một lý giải hợp lý.

Nhờ có Ngũ Hành với đặc trưng biểu lý mà mọi sự vật, hiện tượng có thể quy vào một Hành đặc trưng nào đó. Nhờ thế mà nắm bắt các thuộc tính của sự vật, hiện tượng một cách dễ dàng. Nó khái quá hóa thuộc tính. Nó đi từ khó hiểu, trừu tượng đến sự rõ ràng, dễ hiểu dễ biết để nhận biết một thực thể nào đó.

Nói Hành Hỏa thì mơ hồ nhưng nói sắc đỏ, nóng, bốc v.v… thì hiểu ngay. Đấy là thuộc tính làm cho dễ nhận biết Hành Hỏa.

Mau-sac-phong-thuy-theo-ngu-hanh_FQHC

Quy luật sinh khắc của Ngũ Hành

Quy luật tương sinh và tương khắc là hai phạm trù đối lập nhau như Âm và Dương. Gọi là phạm trù vì quy luật tương sinh tương khắc bao hàm rộng lớn của sự sinh trưởng và kiềm chế, diệt, khắc để luôn cố gắng giữ thế cân bằng trong tự nhiên, xã hội cũng như trong con người. Không có tương sinh thì không có tương khắc. Bởi nếu chỉ sinh không thôi thì vạn vật phát triển đến hỗn loạn, rồi tự diệt. Vì vậy phải có sự khắc chế để kìm hãm, chế ngự. Nhờ đó sự phát triển hài hòa được tạo lập. Sự hiện diện hai mặt đối lập: không có cái này thì không có cái kia và ngược lại không có cái kia thì không có cái này. Cứ thế, hai vế dựa vào nhau làm cơ sở cho sự phát triển của vạn vật trên thế gian. Như vậy, trong sinh có khắc, trong khắc có sinh. Sinh khắc không ngừng thì đương nhiên sẽ là sự phát triển không ngừng. Cái này sinh cái kia nhưng lại bị cái kế tiếp khắc chế. Một chuỗi mối liên quan tạo ra sự phát triển cân đối và hài hòa. Một lúc nào đó quy luật tương sinh và tương khắc bị vi phạm sẽ xảy ra quá sinh và quá khắc.

Quá sinh sẽ dư thừa

Quá khắc sẽ bị triệt tiêu

Sự dư thừa dẫn đến nội sinh theo quy luật sinh tồn Âm Dương mà cố gắng trở lại thế cân bằng. Sự triệt tiêu sẽ ra đời thực thể khác tự sinh cũng theo quy luật sinh tồn của tạo hóa.

Tương sinh tương khắc là sự tương đồng, sinh khắc để thúc đẩy sự vật phát triển sinh trưởng bình thường giữ sự biến hóa không ngừng. Không có sinh thì sự vật không phát triển. Không có khắc thì không thể duy trì thế cân bằng được

–   Sự sinh khắc trong ngũ hành

+ Tương sinh là bổ trợ cùng thúc đẩy phát triển và trợ giúp nhau.

Trong tương sinh gồm các quan hệ hành là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Như vậy tương sinh là một vòng khép kín tạo sự liên quan tương hỗ cho sự sinh sôi nảy nở là liên hoàn trong tự nhiên theo ý nghĩa biểu lý chứ không phải theo nghĩa thực thể, thô thiển.

+ Tương khắc là hai Hành có nghĩa chế khắc nhau, khống chế nhau nhằm kìm hãm sự phát triển vô độ. Tương khắc cũng là sự liên hoàn khắc chế: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Như vậy sự khắc chế cũng chỉ mang ý nghĩa biểu lý hoàn toàn phù hợp chứ không phải theo nghĩa thực thể thô thiển mà hiểu vậy.

Mối liên quan biểu lý liên hoàn chứ không gián đoạn. Hiểu một cách đơn giản thực thể là: Cái sinh ra tôi là cha, cái tôi sinh ra là con. Cái ngang hàng với tôi là anh em, ví dụ Thổ sinh Kim thì Thổ là cha mẹ của Kim, Kim sinh Thủy và Kim khắc Mộc, Kim và Kim cùng loại nganh nhau là anh em.

–   Mối liên hoàn liên tục còn phân ra “quan gửi” và “thê tài” đối với nam thì “thê tài” là vợ và của cải, đối với nữ thì “quan gửi” vừa là quan vừa là chồng, cho nên trong ngũ hành thể hiện quan hệ biểu lý.

Thổ sinh Kim thì Thổ là cha mẹ của Kim, Hỏa khắc Kim thì Hỏa là quan gửi của Kim. Kim lại khắc Mộc nên Mộc là thê tài (vợ của) của Kim. Kim lại sinh Thủy, thì Thủy là con của Kim.

Mối quan hệ biểu lý thứ bậc ấy mà hiểu Kim và kim là ngang vai cùng lứa.

Sự xung khắc đều là “tương” “Tương” vừa mang ý nghĩa đồng, cùng nhau, sự hỗ trợ qua lại mà có. Chứ riêng lẻ thì không có ý nghĩa gì. “Tương” còn có ý là tương đối. Cái tương sinh hay tương khắc là quy luật tương đối, không phải tuyệt đối giống như quy luật “lượng đổi thì chất đổi” trong triết học duy vật biện chứng, ở đây quy luật tương sinh tương khắc cũng phải có một lượng nào đó để đạt đến mức mới đạt được khắc và cũng từ đó mới sinh ra cái mới. Ví dụ hành Hỏa muốn khắc được Mộc thì Hỏa phải đủ mạnh mới có tác dụng. Lửa đèn, lửa nến làm sao đốt được rừng rậm (đại mộc lâm) để rồi sinh ra thổ. Cái nghĩa tương đối là như vậy. Hỏa khắc Mộc sinh Thổ. Như vậy Hỏa phải đủ lượng mới làm được việc “khắc” và sinh, vì vậy mà thuyết ngũ hành còn có quy luật phản ngược.

Quy luật phản ngược của ngũ hành

Trong ngũ hành có quy luật tương sinh và tưng khắc song đấy là mối quan hệ thuận chiều. Đây là nói “Lượng đổi” để “chất đổi” sức mạnh của khắc chế chỉ thực hiện được khi bản thân nó đủ mạnh. Nhưng trong phạm trù sinh khắc rất rộng lớn giữa các hành và trong từng hành ví dụ Hành Thủy có biển, sông, suối, ao, đầm, giếng. Hành Thổ có đại địa thổ, bích thượng thổ v.v… Tức có đất đường cái, đất nền nhà, vách đất v.v…

Đừng nghĩ thiển cận thổ khắc thủy là khắc được đâu; mà vách đất thì sẽ bị nước lũ làm rữa cuốn trôi đi mà thôi. Như vậy không phải “mạnh” khắc “yếu” mà cũng xuất hiện cái “yếu” xung khắc ngược lại, suy khắc vượng, “yếu” khắc “mạnh” là thế.

Ớ đây mạnh yếu, suy vượng chỉ các hành với ý nghĩa biểu lý, nó không hàm chứa nghĩa thô thiển, cái nghĩa biểu lý. Thổ vượng thì Mộc suy chứ không thuần tuý Mộc vượng thì Thổ suy, mà ở đây là Mộc bị Thổ khắc rồi. Thuận và nghịch tương quan. Cũng như vậy theo quy luật khắc chế đảo của ngũ hành ta có: Mộc vượng thì Kim suy. Kim vượng thì Hỏa suy, Hỏa vượng thì Thủy kiệt. Thủy vượng thì Thổ tàn. Thổ vượng thì Mộc úa. Cứ thế vòng phản ngược của ngũ hành cũng liên hoàn giống quy luật tương sinh tương khắc.

Quy luật thịnh quá hóa thừa

Thuyết Ngũ Hành còn quy luật thịnh làm thừa, trong ngũ hành thì bất cứ hành nào cũng bị quy luật này chi phối. Sự phát triển cực thịnh sẽ dẫn đến thừa và thừa sẽ đưa đến suy. Như vậy trong thịnh đã tàng ẩn mầm suy vong.

Phàm vật quá rắn thì dễ vỡ, thứ cứng quá thì dễ gẫy… sự thịnh phát quá là thừa mà dư thừa sẽ dẫn đến suy là vậy.

Ngũ hành có quy luật này để làm rõ thêm nghĩa phản ngược nội ứng cơ sở của nghĩa suy khắc vượng. Yếu khắc mạnh.

Bàn về quy luật tương sinh tương khắc trong ngũ hành

Ngũ hành tương sinh tương khắc kế tiếp thuyết âm dương làm cho cơ sở luận lý thêm sáng tỏ và việc ứng dụng trở nên có ý nghĩa bao trùm.

Hai thuyết song hành bể trợ. Lý thuyết âm dương như là gốc là nguyên lý để các quy tắc ngũ Hành có thể phát huy trong nhiều môn, ngành một cách hiệu quả mà người xưa (Trung Hoa) đắc dụng.

Trong thực tế, khi nói đến ngũ hành người ta thường nghĩ ngay quy luật sinh khắc của thuyết này. Chẳng thế mà trong dân gian chỉ hiểu đơn thuần một chiều “sinh” hay chiều “khắc” mà ứng dụng, hay giải thích. Người ta thường quên rằng ngũ hành còn có quy luật phản ngược và thịnh quá hóa dư. Hai quy luật này mới đủ bộ ba để ứng dụng thêm phong phú và lý giải được nhiều vấn đề thực tiễn xảy ra. Hãy đừng nghĩ là cứ Thủy thì không làm bạn với Thổ vậy Thủy thì không lấy được Hỏa. Phát biểu như vậy là không hiểu thấu lý thuyết ngũ Hành và cũng không phù hợp nhiều hiện tượng thực tiễn hiện có. Nhờ tính hữu dụng của thuyết lý mà nó vẫn được ứng dụng trong nhiều môn, ngành. Nó vẫn cuốn hút sự quan tâm của nhiều học giả đam mê nghiên cứu các môn gọi là “Huyền học”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nội dung thuyết ngũ hành –

Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Đàn bà có gò má ngang, gò má cao, tai nhỏ, đầu nhọn, mặt vênh, bàn tay cực lớn, sắc mặt xanh lam, mặt gẫy, nổi gân, mày lớn trán bóng…là tướng khắc chồng. Tướng trinh tiết Là phụ nữ có đôi mắt to đen và rất sáng, không nhìn lấm lét, dáng người thon
Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Thái độ của 12 chòm sao khi thích một ai đó

Chỉ cần “bắt bệnh” được những hành động này thì bạn sẽ biết rõ tình cảm của đối phương với mình ra sao hoặc mình có tình cảm với đối phương
Thái độ của 12 chòm sao khi thích một ai đó

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

12 chòm sao là 12 diễn biến tâm lý khác nhau, chính vì vậy thái độ của 12 chòm sao khi thích một ai đó cũng sẽ khác nhau. hay không?

  Bạch Dương
Bạch Dương thuộc nhóm Lửa nên tính tình cũng “nóng như lửa”, hành động sẽ rất bộc phát khiến người khác phải đau đầu. Nếu bạn thấy một Bạch Dương cứ nhấp nhổm, đứng lên ngồi xuống không yên thì chắc chắn 100% rằng Bạch Dương đó đang “rơi vào lưới tình”. Thế nhưng, Bạch Dương cũng là người cả thèm chóng chán nên hãy kiểm chế hành động của bản thân một chút và hãy suy nghĩ thật kỹ về tình cảm của mình nhé.

Thai do cua 12 chom sao khi thich mot ai do hinh anh
Ảnh minh họa
Kim Ngưu

Kim Ngưu thuộc nhóm Đất nên khá âm thầm, cho dù có “chết đứ đừ đừ” ai đi chăng nữa thì họ cũng sẽ chẳng để lộ ra đâu. Không phải là họ ngại không dám nói mà họ cần thời gian để suy xét thật kỹ về tình cảm của mình và đối phương.   Song Tử

Cho dù có thích ai nhiều lắm lắm thì Song Tử vẫn sẽ giữ bí mật đó cho riêng mình. Không phải là vì Song Tử muốn bắt cá nhiều tay mà thực chất là bản tính họ như vậy. Họ rất muốn tìm được người sẽ cùng mình xây dựng hạnh phúc nhưng cũng rất sợ mất đi sự tự do.
 
Cự Giải   Phải nói là Cự Giải yêu một cách mù quáng. Một khi đã yêu thì họ sẽ bị tình yêu làm cho mờ mắt, trở nên u mê, họ chẳng quan tâm đến đúng sai, phải trái… Và họ chỉ thực sự sáng suốt trong tình yêu khi đã bị “đá”.   Sư Tử
 
Sư Tử sẽ công khai tình cảm của mình, đồng thời cũng công khai việc chiếm người ấy làm… của riêng. Họ có phần khắt khe với người mình yêu, nên nếu làm người yêu của Sư Tử, đôi khi bạn sẽ cảm thấy khá là “khó thở” đó.
 
Xử Nữ

Xử Nữ yêu lần thứ n thì cũng như yêu lần đầu tiên vậy, e thẹn, luôn lo sợ và luôn suy nghĩ về việc đối phương có thực sự thích mình hay không. Xử Nữ luôn trân trọng những gì mình đang có nên không dễ dàng nếu muốn Xử Nữ buông tay, kể cả phải chịu đau khổ. Thế này có được gọi là mù quáng không nhỉ?
Thiên Bình

Thiên Bình vốn là người rất có chính kiến là vững lập trường nhưng đó chỉ là bình thường, một khi đã yêu vào thì chẳng ai còn nhận ra Thiên Bình nữa. Vì người mình yêu, Thiên Bình có thể làm tất cả, sẵn sàng thay đổi cả bản thân, miễn sao người ấy cảm thấy hạnh phúc là Thiên Bình cũng thấy hạnh phúc theo.

Thai do cua 12 chom sao khi thich mot ai do hinh anh 2
Ảnh minh họa
Hổ Cáp
Ai không hiểu sẽ nghĩ là Hổ Cáp chảnh vì khi yêu Hổ Cáp lại khá rụt rè, không dám thẳng thắn bày tỏ tình cảm của mình. Họ sẽ ngồi yên chờ đợi đối phương tiến về phía mình. Đơn giản là Hổ Cáp lo sợ rằng việc nói ra tình cảm của mình sẽ khiến mất đi mối quan hệ hiện tại và Hổ Cáp sẽ chẳng còn cơ hội để gặp mặt đối phương nữa.

Nhân Mã

Nhân Mã bình thường khá mạnh mẽ và mang tiếng là chẳng sợ gì, đầu đội trời, chân đạp đất luôn. Ấy thế nhưng, đứng trước người mà mình thầm thương trộm nhớ thì chỉ số tự tin của Nhân Mã chỉ bằng 0. Họ trở nên vô cùng lúng túng và mặt sẽ đỏ như gấc nếu vô tình bị người ấy trêu ghẹo.
 
Ma Kết

Cũng thuộc nhóm Đất nhưng Ma Kết sẽ không chọn chiến lược “im hơi lặng tiếng” như Kim Ngưu. Họ sẽ dũng cảm nói cho người mình thích tình cảm thực sự của mình và tất nhiên là họ chỉ nói ra điều này khi họ biết chắc rằng người kia cũng thích mình, hehe.

Những sao nữ mang danh “Sở Khanh”
Sở Khanh dường như trở thành “thương hiệu” của một số người con trai đào hoa, thay người yêu như thay áo. Thế nhưng, đôi khi, một vài sao nữ cũng tự mang cho
Bảo Bình

Yêu là một việc khá mất thời gian của Bảo Bình. Yêu là việc trải qua rất nhiều cung bậc của cảm xúc, từ nhớ nhung cho tới tức giận. Và phải mất khá nhiều thời gian thì họ mới có thể nhận định được giá trị đích thực của mối quan hệ từ đó đưa ra quyết định tiếp tục hay dừng lại.
 
Song Ngư

Trên thực tế, Song Ngư không phải là người đào hoa, cũng không lăng nhăng, khi đã yêu ai họ sẽ suy nghĩ rất kỹ về tương lai. Nhưng họ thích lựa chọn, họ sẽ tìm hiểu cùng một lúc nhiều người để chọn ra người phù hợp nhất với mình.
 
► Mời các bạn xem tiếp: 12 cung hoàng đạo tình yêu

Lichngaytot.com
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thái độ của 12 chòm sao khi thích một ai đó

Những đường lông mày không sửa, hỏng hơn nửa cuộc đời

Theo nhân tướng học, có 5 loại hình dáng lông mày, nếu bạn không sửa sẽ hỏng nửa cuộc đời.
Những đường lông mày không sửa, hỏng hơn nửa cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hình dáng lông mày của mỗi người là không giống nhau, qua hình dáng lông mày người ta có thể tự dự đoán được vận mệnh cho mình. Theo nhân tướng học, có 5 loại hình dáng lông mày, nếu bạn không sửa sẽ hỏng nửa cuộc đời.

 
Nhung duong long may khong sua, hong hon nua cuoc doi hinh anh
Ảnh minh họa

 
1. Lông mày thưa và trắng
 
Người này lông mày khá thưa thớt, nhìn xa thì tưởng màu trắng, điều này tiết lộ phản ứng của người này không nhanh nhạy, tâm tư khá đơn giản. Nếu lại là kiểu lông mày hung thì vận mệnh của người này không được tốt cho lắm.
 
2. Lông mày nhạt và mỏng
 
Là người nhạy cảm, có khả năng làm việc tốt. Nếu là phụ nữ thì biết đối nhân xử thế rất tốt, năng lực làm việc cũng khá tốt, tham gia nhiều các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, người này dễ bị tình cảm lấn át lý trí, duyên vận không tốt, thân thể cũng không được khỏe mạnh.
3. Lông mày lơ thơ
 
Người này tính tình nóng nảy nhưng lại rất thông minh, nhìn nhận sự việc một cách nhanh nhạy, chỉ cần thoáng qua cũng có thể hiểu rõ bản chất sự việc, nắm giữ trọng tâm rất nhanh và thường không để tâm vào chuyện vụn vặt. Thế nhưng, người này khá lập dị, dễ bị cảm xúc chi phối, khó nắm bắt và điều khiển cảm xúc của mình.

Nhung duong long may khong sua, hong hon nua cuoc doi hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
4. Lông mày mờ, nhìn xa như không có
Những người này bạn thân không có nhiều, họ gặp khó khăn trong việc giao tiếp cũng như kết giao với bạn bè. Tính cách nổi bật là tính không nhất quán, không chín chắn, không đủ mạnh mẽ và kiên cường. Trong cuộc sống buộc phải phấn đấu đạt vị trí địa vị cao, nếu không vận mệnh sẽ không ngừng đi xuống.
 
5. Lông mày cách xa nhau
Người này tính cách hướng nội, ít khi thể hiện tâm sự ra ngoài. Trong cuộc sống họ không có nhiều bạn bè vì tính cách hơi keo kiệt một chút, nhận thì dễ chứ cho thì khó, không hòa đồng với mọi người nên thực sự hơi lạc lõng. Vận trình sức khỏe của người này cũng không tốt.
 
Phương Thùy  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những đường lông mày không sửa, hỏng hơn nửa cuộc đời

30 điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn tránh hồn xiêu phách lạc

Những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn: Vào tháng cô hồn, quỷ môn quan được mở ra, âm khí có thể tràn lên dương gian, cần tránh những điều cấm kỵ
30 điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn tránh hồn xiêu phách lạc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo dân gian, tháng 7 Âm lịch hay còn gọi là tháng Cô Hồn, vào tháng này, quỷ môn quan được mở ra, âm khí có thể tràn lên dương gian mà ngày 14 tháng 7 âm lịch là ngày âm khí nặng nhất, cần chú ý những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn để tránh hồn xiêu phách lạc.


► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự

30 dieu kieng ky trong thang co hon tranh hon xieu phach lac hinh anh
 
Theo truyền thuyết từ thế giới tâm linh thì vào nửa đêm ngày này, nếu tới những địa điểm hoang vu, hiu quạnh sẽ nhìn thấy cảnh tượng hàng trăm linh hồn đi trên một cây cầu hướng vế phía dân gian, có một linh hồn cầm đèn lồng đỏ dẫn lối, vì vậy, vào đêm ngày 14 âm lịch, chớ nên ra khỏi nhà.    Vào tháng 7 âm lịch, có những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn bạn cần phải nhớ để biến hung thành cát, vạn sự an khang.

 

 30 điều kiêng kị trong tháng cô hồn:

  1. Đầu giường treo chuông gió: Chuông gió treo đầu giường dễ chiêu nhiễu các vong linh và thời điểm ngủ là thời điểm linh hồn dễ xâm nhập vào giấc ngủ của bạn.
 
2. Đi tắm buổi đêm: Khuyên bạn không nên đi tắm quá khuya, điều này sẽ mang lại rất nhiều phiền toái.
 
3. Đốt tiền vàng bừa bãi: Hành động đốt tiền vàng là hành động gửi tiền vàng và đồ dùng cho các vong linh, bởi vậy, càng đốt nhiều tiền vàng thì vong linh tới càng nhiều.   4. Ăn vụng đồ cúng: Nếu chưa thắp hương xong, hương chưa tàn, chưa vái lạy mà đã ăn vụng đồ cúng bái thì ngay lập tức sẽ gặp xui rủi.   5. Huýt sáo vào buổi tối: Buổi tối huýt sáo sẽ dễ “dẫn dụ” các vong linh bởi các vong linh rất “thích” tiếng sáo.
 
6. Gọi tên: Ban đêm không nêu kêu tên, nếu bắt buộc thì có thể gọi biệt danh, đề phòng các vong linh nhớ tên bạn.
 
7. Bơi lội: Lúc này, các vong linh rất thích chơi trò kéo chân bạn, nguy cơ tử vong là rất lớn.
 
8. Trốn tìm: Các vong linh rất thích dọa người, thời điểm bạn đang trốn một mình trong bóng tối là thời điểm bạn dễ bị “dọa” nhất.   9. Trồng cây đa cổ thụ trước cửa nhà: Cây là đa là nơi âm khí tích tụ, là nơi mà các vong linh rất “thích”, trừ khi bạn muốn các vong linh vào nhà mình thì có thể trồng cây đa trước cửa nhà.
 
10. Thức khuya: Lúc cơ thể con người mệt mỏi nhất là đêm khuya, lúc này âm khí lại là lúc vượng nhất, vì vậy bạn không nên thức quá khuya.
 
11. Dựa vào tường: Các vong linh bình thường rất thích chốn lạnh lẽo nên thường ngự trên tường để nghỉ ngơi, đứng dựa vào tường đồng nghĩa với việc rất có thể bạn đang đứng cạnh một “ai đó”.
 
12. Nhặt tiền lẻ rơi trên đường: Tiền này là của các vong linh, nếu bạn nhặt nghĩa là xâm phạm vào đồ của các vong linh ấy, bạn sẽ gặp rủi ro.
 
13. Dễ dàng quay đầu lại: Khi bạn đang đi ngoài đường ở nơi hiu quạnh, chợt cảm thấy giống như có người gọi mình, không nên quay đầu lại, bởi rất có thể là một linh hồn nào đó đã gọi bạn.
 
14. Tùy tiện bá vai bá cổ: Con người có 3 ngọn lửa trên đầu và hai bên vai, nếu mà khoác vai nhau thì ngọn lửa hai bên vai sẽ bị dập tắt và các vong linh nhân cơ hội này sẽ trèo lên vai.  Tuyệt đối tránh một trong những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn này nếu không muốn hồn xiêu phách lạc.
 
15. Để dép lê ở đầu giường: Các vong linh nhìn vào đôi dép sẽ biết bạn đang ở chỗ nào, nếu dép lê hướng vào giường thì các vong linh sẽ lên giường và ngủ cùng với bạn. 
 
16. Cắm đũa giữa bát cơm: Đây là hình thức tế bái, tương tự như cắm hương ở bát hương, khi bạn cắm đũa vào giữa bát cơm thì sẽ có ý là mời các vong linh tới “ăn cùng”.
 
17. Đi một mình: Khi bạn đi một mình thì dễ bị các vong linh “chú ý”, tốt nhất là đi đâu thì nên rủ người đi cùng nhé.
 
18. Chụp ảnh buổi tối: Chụp ảnh vào buổi tối đôi khi vô tình thu lại được hình ảnh của các vong linh, các vong linh sẽ chụp ảnh cùng bạn và theo về nhà.
 
19. Chơi bói chén: Bình thường chơi bói chén đã có nhiều chuyện không tưởng rồi, huống chi lại chơi bói chén trong tháng cô hồn.   20. Dép lê đặt ngay ngắn bên giường: Khi ra ngoài du lịch, bạn đặt dép lê ngay ngắn bên giường thì đồng nghĩa với việc dẫn lối cho các vong linh, họ sẽ làm náo loạn giường bạn.
 
21. Nửa đêm không nên phơi quần áo: Quần áo ướt dễ làm cho sóng điện tích tụ, phơi quần áo ướt chẳng khác nào tạo ra hãm tịnh trảo quỷ (cạm bẫy), như vậy, các vong linh sẽ tìm tới bạn để gây rắc rối. 
 
22. Không nên để tóc tai bù xù khi ngủ: Tháng cô hồn, khắp nơi đều là cô hồn dã quỷ, nếu tóc tai bù xù họ sẽ cho rằng bạn là đồng loại, và sẽ gọi bạn để “tám chuyện”.
 
23. Không nên “đến tháng”: Dân gian cho rằng khi phụ nữ “tới tháng” là lúc cơ thể không thuần khiết, xúc phạm tới thần kinh như vậy sẽ bị làm cho bất hạnh. Tuy nhiên, cách nói này chưa có căn cứ, mặc dù vậy bạn vẫn nên cẩn thận.
 
24. Không nên mừng sinh nhật vào buổi tối: Những người có sinh nhật vào tháng 7 âm lịch thì thật xui xẻo, bởi khi tổ chức sinh nhật vào buổi tối thì sẽ có “nhiều người” tới dự sinh nhật cùng, tốt nhất là nên tổ chức vào ban ngày.
 
25. Không nên bắt chuồn chuồn và châu chấu: Dân gian cho rằng hai loài côn trùng này là hóa thân của quỷ hồn, nếu tùy tiện bứt chúng thì cần thận, bạn đang dẫn âm linh về nhà đó.
 
26. Không nên nói từ “Quỷ”: Trong những ngày này, trên dương gian âm khí cực mạnh, có ở khắp nơi vì vậy, nên thận trọng từ lời nói tới việc làm, kị nói những từ xui xẻo, cũng không nói linh tinh đề phòng âm linh ngay bên cạnh.
 
27. Không dẫm đạp lên tro bụi tiền vàng mã: Vàng mã là tế phẩm cho cõi Âm, khi đốt cháy, các vong linh sẽ tụ tập xung quanh để thưởng thập. Nếu bạn nhảy, dẫm lên tro của vàng mã thì là xâm phạm với các vong linh, bạn sẽ không thể tránh khỏi xui xẻo.
 
28. Không nên khoác vai người khác: Dân gian quan niệm, trên mỗi người đầu có ba ngọn lửa, ở hai bên vai và trên đỉnh đầu, như vậy, các linh hồn sẽ không dám tới gần bạn. Nhưng khi bạn khoác vai người khác, vô tình dập tắt ngọn lửa trên vai họ đi, như vậy bạn sẽ gặp phải phiền toái.
 
29. Lễ cầu siêu mở cửa âm phủ: Từ ngày 1 tháng 7 âm lịch, Quỷ môn sẽ mở và tất cả các vong linh được phép trở về dương gian thăm người thân. Bởi vậy, vào buổi chiều các nhà phải đặt trước cửa nhà mình một mâm đồ cúng gọi là lễ cúng chúng sinh, để cho các vong linh có cái ăn, không quấy nhiễu người nhà. Tế phẩm cũng không cần nhiều quá, chỉ cần vài món là được.
 
30. Thả đèn hoa đăng: Thả đèn hoa đăng là thả những ngọn đèn hình hoa sen trôi sông, đèn có thể là bằng gỗ hoặc giấy. Tuy nhiên, nguồn gốc của việc thả đèn hoa đăng là để cho những người chết đuối tìm được đường về nhà, để hưởng vật phẩm tế lễ.

Trên đây là những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn còn lưu truyền trong dân gian, chưa có khoa học nào chứng minh sự đúng đắn của nó. Thiếu cơ sở khoa học, thiếu bằng chứng xác thực nhưng thói thường vẫn cho rằng “có kiêng có lành”. Vì vậy mọi người chỉ nên tham khảo, đừng để những điều trên ảnh hưởng quá nhiều tới cuộc sống của chính mình. 

Lichngaytot.com
Thực sự có ma quỷ trong tháng 7 âm lịch? Hóa giải xui xẻo dồn dập ập tới không chỉ trong tháng cô hồn Đuổi dữ đón lành trong tháng cô hồn bằng thảm trước nhà Thực hư vòng gỗ sưa tránh tà trong tháng cô hồn Xua ma, tránh quỷ trong tháng cô hồn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 30 điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn tránh hồn xiêu phách lạc

Ngũ hành Mộc - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Nạp âm của ngũ hành Mộc gồm 6 đại diện Bình Địa Mộc, Đố Tang Mộc, Thạch Lựu Mộc, Dương Liễu Mộc, Đại Lâm Mộc, Tùng Bách Mộc. Xem ý nghĩa các nạp âm của ngũ
Ngũ hành Mộc - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nạp âm của ngũ hành Mộc gồm 6 đại diện Bình Địa Mộc, Đố Tang Mộc, Thạch Lựu Mộc, Dương Liễu Mộc, Đại Lâm Mộc, Tùng Bách Mộc.

 
Ngu hanh Moc - Tong hop y nghia cac nap am  hinh anh
 
"Bình Địa Mộc trung chỉ nhất sinh Bất phùng Kim giả bất năng thành Ngũ ban biệt Mộc kỵ Kim loại Nhược ngộ đương nhiên bất đắc sinh"
Mộc gặp Mộc tất sinh Kim, mà trở thành cầu nối.   Ngũ hành Mộc sinh Hỏa, Hỏa nhiều thì Mộc lụi tàn, mà Mộc mạnh thì được Hỏa, phát tiết mạnh mà đạt tới độ trung hòa. Mộc khắc Thổ, Thổ nhiều thì Mộc gẫy, Thổ mạnh thì bồi đắp cho Mộc, tất nguy hại. Mộc ỷ vào Thủy để sinh, Thủy nhiều thì Mộc tiêu tán, Thủy có thể sinh Mộc mà Mộc nhiều thì Thủy lại bị thu hẹp.
 

1. Tang Đố Mộc - Cây dâu tằm


Đào Tông Ngại viết: "Nhâm Tý, Quý Sửu là Tang Đố Mộc, Tý thuộc Thủy, Sửu thuộc Thổ, Thủy mới sinh Mộc, Thổ thì dưỡng Mộc nên gọi là cây dâu tằm".
 Lá dâu có thể nuôi tằm, dâu tằm là nguyên liệu dệt may, vỏ cây có thể dùng làm nguyên liệu nhuộm. Mộc này kiên định, đa tài, có tác dụng to lớn.
 

2. Tùng Bách Mộc - cây tùng già

  Đào Tông Ngại viết: "Canh Dần, Tân Mão là Tùng Bách Mộc, Mộc lâm quan vào Dần vượng đế cho Mão, nên Mộc sinh vượng không thể yếu đuối, hình dung thành cây tùng già". Tùng Bách Mộc trong ngũ hành Mộc vị cứ chính Đông, là hướng chính vị của Mộc nên rất vượng.
Mộc này cứ chiếm Canh Tân Kim lại có phương vị hưng vượng phía Đông nên rất quý hiếm. Mộc này sống nơi rừng thiêng nước độc mà vẫn sinh tồn thịnh vượng có thể một tay che trời đất, không sợ sấm sét lôi phong, hoàn cảnh càng xấu thì càng kiên cường vững chãi.
 

3. Đại Lâm Mộc - cây trong rừng


Đào Tông Ngại viết: "Mậu Thìn, Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc, Thìn là căn nguyên của thiên nhiên, Tỵ là lục dương, Mộc tới lục dương thì đâm chồi nảy lộc lại còn ở giữa thiên nhiên nên gọi là cây trong rừng".
 Đại Lâm Mộc tức là rừng cây hoang dã, các tán cây cùng vui đùa với gió mây, cây cao tới tận mặt trăng, vươn cao ngọn lá xanh tươi lên mây xanh. Đại Lâm Mộc do nhiều cây mà thành rừng nên cây cối trong rừng ngưng tụ rất nhiều ánh sáng mặt trời, vươn cao vươn xa, mở rộng tán rừng che chở con người và động vật bên dưới. Cũng giống như một người luôn tràn đầy tình yêu, tình đồng loại, thích giúp đỡ người khác, vừa ấm áp vừa gần gũi.
 

4. Dương Liễu Mộc - Cây dương liễu

  Đào Tông Ngại viết: "Nhâm Ngọ, Quý Mùi là Dương Liễu Mộc, Mộc tử ở Ngọ, mộ ở Mùi, nên Mộc này là tử mộ. Mặc dù có thiên can Quý sinh Thủy nhưng không thể chống lại tử mộ mà cuối cùng yếu nhược nên gọi là cây dương liễu". 
Dương Liễu Mộc thẳng thắn mà cứng cỏi nên gọi là dương, cành mềm mại nên gọi là liễu, dương liễu một cây hai chủng loại; mềm mại yếu đuối, cành rủ xuống đu đưa trong gió nhưng cũng rất dẻo dai không dễ dàng đứt đoạn. Chính vì sự yếu đuối của mình mà Dương Liễu Mộc thường xuyên bị ngoại cảnh tác động làm thay đổi chính mình.  

5. Thạch Lựu Mộc - Cây thạch lựu


Đào Tông Ngại viết: "Canh Thân, Tân Dậu Thạch Lựu Mộc, thân là tháng 7 Dậu là tháng 8 lúc này Mộc tất tuyệt, chỉ có Thạch Lựu Mộc mới tồn tại được trong hoàn cảnh này". Canh Tân can ngũ hành thuộc kim, Thân Dậu chi ngũ hành cũng thuộc kim, kim trong ngũ vị thuộc Tân nên mộc tính đều thuộc Tân thì chỉ có cây lựu mà thôi.
 Canh Thân Tân Dậu đều thuộc kim mà nạp âm lại thuộc mộc thì mộc vẫn bị thay đổi chỉ có Thạch Lựu Mộc có thể trường sinh. Thạch Lựu Mộc rất cứng cỏi mạnh mẽ không dễ bị đổ vì thế dù sống trong hoàn cảnh nào thì vẫn kiên định không thay đổi, có điều vì sự chắc chắn của mình mà trở nên thô ráp.
 

6. Bình Địa Mộc - Cây đồng bằng 


Đào Tông Ngại viết: "Mậu Tuất, Kỷ Hợi là Bình Địa Mộc, Mậu là gốc hoang dã, Hợi sinh Mộc, phu Mộc sinh trên đất hoang nên gọi là cây đồng bằng".
 Bình Địa Mộc tại Mậu Tuất Kỷ Hợi khí tụ tàng phục, âm dương bưng bít, vì vậy Mộc ví về căn phục trong Thổ. Nó cũng là một loại vật liệu để xây nhà trong dân gian, Mậu Tuất là cột, Kỷ Hợi là kèo. Tuy nhiên Bình Địa Mộc mới đơm chồi nảy lộc nên không thích phong ba bão táp mà chỉ thích mưa nhỏ tươi tắm hàng đêm. 
Bình Địa Mộc trong ngũ hành Mộc có Hợi là Mộc trường sinh địa khiến cây cối phát triển thuận lợi, lại có bình địa tự nhiên bao bọc nên vô cùng thích thú.
► Tham khảo thêm: Mệnh Mộc hợp màu gì?

Vợ chồng mệnh gì kết hợp với nhau thì đại cát đại lợi?
Lichngaytot.com

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành Mộc - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Có nên làm cửa sổ quá rộng ở phòng ngủ không? –

Phòng ngủ thường được thiết kế ở chính giữa ngôi nhà bởi nó là điểm ngưng kết khí, là chỗ cốt lõi của vượng khí cả ngôi nhà. Bao quanh cơ thể chúng ta là một trường năng lượng. Độ mạnh yếu của trường năng lượng này ảnh hưởng trực tiếp tới tác dụng mà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ thường được thiết kế ở chính giữa ngôi nhà bởi nó là điểm ngưng kết khí, là chỗ cốt lõi của vượng khí cả ngôi nhà.

av

Bao quanh cơ thể chúng ta là một trường năng lượng. Độ mạnh yếu của trường năng lượng này ảnh hưởng trực tiếp tới tác dụng mà nó bảo vệ cơ thể lớn hay nhỏ. Bởi vậy bạn cần phải duy trì cơ thể mình có trường năng lượng mạnh nhất.

Nếu trổ cửa sổ phòng ngủ quá lớn, sẽ khiến vượng khí thoát ra ngoài, khi nghỉ ngơi trong phòng bạn sẽ bị mất vượng khí, hụt hơi, uể oải

Mặt khác, vì cửa sổ quá rộng ánh nắng chiếu vào nhà quá nhiều, gây chói mắt và nóng nực, khiến bạn khó chịu, mất bình tĩnh, dễ bực bội cáu gắt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên làm cửa sổ quá rộng ở phòng ngủ không? –

Nằm lòng phong thủy nhà ở cho 12 con giáp

Bài trí phong thủy nhà ở đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định tài vận của gia chủ. Mỗi tuổi khác nhau lại có mệnh cách và tính cách không giống nhau.
Nằm lòng phong thủy nhà ở cho 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Bài trí phong thủy nhà ở đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định tài vận của gia chủ. Mỗi tuổi khác nhau lại có mệnh cách và tính cách không giống nhau. Căn cứ vào đó 12 con giáp cần chú ý những điều nên và không nên trong khi bài trí nhà ở dưới đây.
 

 
Nam long phong thuy nha o cho 12 con giap hinh anh 2
 

Tuổi Tý

  Cấm kỵ: Tuổi Tý tương khắc với Ngọ. Vì vậy, những người cầm tinh con chuột không nên đặt những vật phẩm phong thủy có hình ngựa hoặc liên quan đến ngựa, càng không nên treo tranh vẽ hình ngựa trong nhà. Đặc biệt, bản mệnh cần tránh sử dụng đồ gia dụng có màu đỏ, kị đặt giường ngủ theo hướng Nam.
 
Nên: Đồ đạc trong nhà người tuổi Tý nên bài trí theo phong cách đơn giản, tiện dụng. Nên đặt giường ngủ, bàn đọc sách, sô pha theo hướng Đông Nam, Đông Bắc và Tây Bắc. Màu sắc may mắn của tuổi này là xanh lam, đen và trắng.  

Tuổi Sửu
 

Cấm kỵ: Theo phong thủy nhà ở, người tuổi Sửu không đặt giường ngủ hướng Tây Nam, bởi trong 12 con giáp, Sửu Mùi tương khắc, hướng Tây Nam lại hợp với tuổi Mùi. Không nên đặt tạp vật ở hướng Nam.
 
Nên: 3 hướng may mắn của người tuổi Sửu là hướng Bắc, Đông và Đông Nam. Tốt nhất bạn nên đặt giường ngủ, bàn học và sô pha theo 3 hướng này. Màu sắc may mắn của con giáp này là đỏ, tím, vàng, xám và đen.  

Tuổi Dần

  Cấm kỵ: Người tuổi này hợp hướng Nam, nên kê giường ngủ theo hướng này. Ngoài ra, Dần Tị tương khắc, vì vậy bạn không nên bày biện đồ vật có hình rắn, liên quan đến rắn, hay treo tranh ảnh có hình rắn trong nhà.   Nên: Tuổi Dần nên sử dụng đồ trang trí bằng các chất liệu gỗ hoặc gốm, thủy tinh. Ngoài ra, bạn cũng nên bày các chậu cây tài lộc trong nhà, như vậy sẽ giúp sự nghiệp ổn định, thăng tiến, giữ vững vận khí, tiền bạc.


Nam long phong thuy nha o cho 12 con giap hinh anh 2
 
 


Tuổi Mão

  Cấm kỵ: Người tuổi Mão kỵ hướng Tây, nên giường ngủ nhất định không được đặt ở hướng này. Trong 12 con giáp, Dậu Mão tương khắc, nên giường ngủ, bàn làm việc, sô pha trong nhà kiêng đặt tại hai hướng Tây và Nam.    Nên: Người tuổi Mão có thể lựa chọn đồ gia dụng có thiết kế đơn giản, nhã nhặn. Hướng Đông Nam, Bắc và Tây Bắc rất có lợi cho nhân duyên của người tuổi này. Ngoài ra, người cầm tinh con mèo rất hợp màu xanh lá cây, xanh lam, xám và đen. Bạn cũng có thể nuôi cá phong thủy để thúc đẩy tài lộc.  

Tuổi Thìn

  Cấm kỵ: Người tuổi Thìn kỵ hướng Tây bắc, hướng này hợp tuổi Tuất, trong khi Thìn Tuất tương xung. Không nên sử dụng quá nhiều đồ có màu xanh lam, xanh ngọc hoặc xám.   Nên: Người tuổi Thìn nên trang trí nhà cửa theo phong cách tự nhiên, phóng khoáng, không cần dùng quá nhiều đồ treo tường lộng lẫy, hãy sử dụng nhiều đồ trang trí đem lại cảm giác thoải mái. Ngoài ra, người này nên sử dụng nhiều đồ gia dụng bằng gỗ, như vậy vừa thể hiện được khí chất cao quý của rồng, lại vừa đem đến cảm giác thư thái, không ô tạp.   

Tuổi Tị
 

Cấm kỵ: Bản mệnh không hợp màu đen, đồ đạc trong nhà không nên có màu đen hay màu lam. Thủy khắc Hỏa, nếu không muốn gặp xui xẻo, bạn nên tránh mang đồ có màu đen làm chủ đạo trên người.    Nên: Người tuổi Tị hợp hướng Đông, Nam và Đông Bắc. Khi bài trí nhà cửa bạn hãy đặt giường ngủ, bàn làm việc, sô pha theo các hướng này. Màu sắc may mắn của tuổi Tị là xanh lá cây, đỏ, hồng phấn.  

Tuổi Ngọ
 

Cấm kỵ: Người tuổi Ngọ kỵ 2 màu trắng và đen, nên ít sử dụng đồ đạc có 2 màu này trong nhà. Ngoài ra, Tý Ngọ tương khắc, người cầm tinh con ngựa không nên bày vật phẩm phong thủy có hình chuột.    Nên: Hướng may mắn của tuổi Ngọ là Tây Nam, Tây Bắc và Đông, đồ đạc nên đặt theo 3 hướng này, nhất là giường ngủ. Bản mệnh hợp màu xanh lá cây, nên sử dụng nhiều đồ có màu sắc này.   

Tuổi Mùi

  Cấm kỵ: Sửu Mùi tương khắc, trong khi tuổi Sửu lại hợp hướng Đông Bắc, nên đồ đạc trong nhà tránh đặt theo hướng này. Bạn cũng cần chú ý không nên dùng quá nhiều đồ đạc có màu đen.
 
Nên: Người tuổi Mùi hợp hướng Tây Nam, Tây Bắc và Đông, khi bài trí nhả cửa nên chú ý đặt giường ngủ, bàn làm việc và sô pha theo 3 hướng này. Người cầm tinh con dê hơp màu đỏ, nên bạn có thể trồng một số loài cây và trang trí một số đồ đạc có màu này.   

Tuổi Thân
 

Cấm kỵ: Người tuổi Thân không hợp màu đỏ, nên ít sử dụng đồ đạc có màu này trong nhà. Ngoài ra Dần Thân tương khắc, trong khi Dần hợp hướng Đông Bắc, nên người cầm tinh con khỉ không nên bài trí đồ gia dụng theo hướng này.    Nên: Người tuổi này hợp màu vàng, có thể sử dụng sô pha, rèm cửa, bàn làm việc màu vàng. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể đặt vài cây tài lộc trong phòng đọc sách để tăng vượng khí.

Nam long phong thuy nha o cho 12 con giap hinh anh 2
 
 

Tuổi Dậu

  Cấm kỵ: Người tuổi Dậu không hợp hướng Đông vì Mão Dậu tương khắc, Mão lại hợp hướng Đông. Bản mệnh cần tránh bài trí đồ gia dụng theo hướng này, cũng không nên sử dụng đồ đạc có hình mèo hoặc liên quan đến mèo.    Nên: Hướng may mắn của tuổi Dậu là Đông Bắc, nên đặt đồ đạc theo hướng này. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể trang trí vật may mắn có hình con trâu trong phòng ngủ. Người cầm tinh con gà cũng nên nuôi cá phong thủy. Đồ đạc trong nhà tốt nhất nên được làm từ gỗ, có phong cách cổ điển.  

Tuổi Tuất
 

Cấm kỵ: Phong thủy nhà ở, tuổi Tuất kỵ hướng Đông Nam, vì Thìn Tuất tương xung, Thìn lại hợp hướng Đông Nam. Ngoài ra, bản mệnh cũng cần hạn chế sử dụng các màu xanh lam, xanh lá cây và xám.   Nên: Người tuổi Tuất hợp hướng Đông, Tây và Bắc nên đặt giường ngủ, bàn làm việc, kê sô pha theo các hướng này. Màu sắc may mắn của bạn là màu tím, hãy chọn ga trải giường có màu này. Bản mệnh cũng có thể đặt vài cây phát tài trong phòng  khách, giúp tiền vào như nước.  

Tuổi Hợi
 

Cấm kỵ: Tuổi Hợi không hợp màu vàng, màu kem nên hạn chế sử dụng đồ gia dụng có 2 màu sắc này. Trong 12 con giáp, Thân Hợi tương hại nên tránh dùng đồ đạc hay tranh ảnh liên quan đến biểu tượng khỉ.   Nên: Người tuổi Hợi hợp hướng Tây Bắc, Tây và Đông nên đặt giường ngủ, bàn làm việc, sô pha theo các hướng này. Màu sắc may mắn của bạn là nâu, xám, xanh lam và đen vì vậy có thể lựa chọn đồ đạc có 4 màu sắc này để trang trí nhà cửa.   Hoàng Ngân   Nguồn thu nhập chính và phụ của 3 con giáp này đều tăng mạnh trong tháng 3
Trong tháng Tam Hợp Đế Vượng, vận trình tổng quan của người tuổi Mùi lý tưởng, công việc tiến triển thuận lợi vô cùng, mọi trở lực đều bị đẩy lùi. Nhất là


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm lòng phong thủy nhà ở cho 12 con giáp

Sao Phi Liêm

Hành: Hỏa Loại: Tùy Tinh Đặc Tính: Mau lẹ, thịnh tiến Phụ tinh. Sao thứ 7 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực...
Sao Phi Liêm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: HỏaLoại: Tùy TinhĐặc Tính: Mau lẹ, thịnh tiến
Phụ tinh. Sao thứ 7 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Ý Nghĩa Phi Liêm Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo
Phi Liêm là tóc. Nếu Phi Liêm đi cùng Hồng Loan là tóc dài, đẹp.
Tính Tình
Vui vẻ, lanh lợi, nhanh nhẹn.
Ý Nghĩa Phi Liêm Với Những Sao Khác

  • Phi Liêm nếu gặp nhiều sao tốt thì mang lại sự may mắn một cách nhanh chóng. Nếu gặp các sao xấu thì bất lợi cũng nhanh chóng.
  • Phi Liêm, Hổ: Gọi là Hổ mọc cánh, chỉ sự may mắn, gặp thời vận tốt, thành đạt (thi đậu, thăng quan, thương gia đắc lợi).
  • Phi Liêm Việt Hỏa Hình: Bị súng bắn, sét đánh. Người có cách này thường là không quân, khu trục hay trực thăng xạ kích.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Phi Liêm

Infographic: Vui xuân mới vì những điều đơn giản nhất

Hãy để cuộc sống xuân Bính Thân nhẹ nhàng hơn với những ý niệm thật đơn giản.
Infographic: Vui xuân mới vì những điều đơn giản nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Hãy để cuộc sống xuân Bính Thân nhẹ nhàng hơn với những ý niệm thật đơn giản.


Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 2
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 3
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 4
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 5
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 6
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 7
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 8
 
Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 9
 
Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 10
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 11
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 12
 

Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 14
 
Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 14
 
Infographic Vui xuan moi vi nhung dieu don gian nhat hinh anh goc 15
 
► Tra cứu Lịch vạn niên 2017 đã có tại Lichngaytot.com

Kiếm Phong
Xem Clip Khánh Tuế đầu xuân
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Infographic: Vui xuân mới vì những điều đơn giản nhất

Phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện “yêu” - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện “yêu”, Phong thủy phòng ngủ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện “yêu”, tu vi Phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện “yêu”, tu vi Phong thủy phòng ngủ
Phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện “yêu” - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện “yêu”

Hướng dẫn bạn cách bài trí phòng ngủ theo phong thủy kích thích chuyện “yêu”. Giúp gia chủ hài hòa của năng lượng, tạo cảm giác cuốn hút, kích thích sự sinh sôi nảy nở trong phòng ngủ.

Làm thế nào để tạo ra một phòng ngủ có phong thủy tốt để hỗ trợ và nuôi dưỡng sức khỏe cũng như cuộc sống tình yêucủa bạn? Xem boi cách tăng sự kích thích chuyện yêu từ phong thủy phòng ngủ:

Không để tivi, thiết bị điện tử hay máy tập thể dục trong phòng ngủ. Việc xuất hiện những món hàng này sẽ phá hủy nguồn năng lượng tốt trong phòng ngủ.

7 mẹo phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện

 

Không khí trong lành luôn mang lại nguồn năng lượng dồi dào

Giữ cho lượng oxy trong phòng luôn được dồi dào bằng cách mở cửa sổ thường xuyên hoặc sử dụng máy lọc khí. Phòng ngủ có phong thủy tốt không được bị “ô nhiễm”, thiếu khí tươi.

Sử dụng nhiều cấp độ ánh sáng trong phòng ngủ, điều chỉnh độ sáng để có mức ánh sáng phù hợp. Ánh sáng thích hợp là rất quan trọng vì đây là nguồn dinh dưỡng, là một trong những biểu hiện mạnh nhất của năng lượng.

7 mẹo phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện

 

  Màu sắc hài hòa nhẹ nhàng luôn đem lại cảm giác êm dịu

Sử dụng màu sắc nhẹ nhàng để tạo sự cân bằng. Sự cân bằng trong trang trí phòng ngủ nhằm thúc đẩy dòng chảy năng lượng tốt nhất cho giấc ngủ được phục hồi, cũng như chữa bệnh tình dục. Chúng ta biết được màu da con người từ màu trắng đến màu chocolate đậm. Hãy chọn màu sắc phòng ngủ trong dải màu này nhé!

7 mẹo phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện

 

Tình yêu đôi lứa thăng hoa là mong muốn của hầu hết các cặp uyên ương

Chọn hình ảnh treo trong phòng ngủ một cách khôn ngoan sẽ mang lại năng lượng phong thủy mạnh mẽ. Lời khuyên tốt nhất là hãy chọn những hình ảnh bạn muốn thấy nó xảy ra trong cuộc sống của bạn. Không nên để tranh ảnh tạo cảm giác buồn và cô đơn trừ phi bạn thực sự muốn như vậy!

7 mẹo phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện

 

Bài trí giường đúng cách cũng giúp tạo nguồn năng lượng dồi dào cho chủ nhân

Cách bố trí giường: hãy nhớ những điểm cơ bản sau:

 

– Dễ dàng tiếp cận cả hai bên.

– Mỗi bên đầu giường có một tủ nhỏ (table de nuit).

– Tránh việc để giường thẳng cửa ra vào.

Xem chi tiết về cách bài trí giường ngủ tại 14 điều tối kỵ khi bài trí phòng ngủ!

Ưa nhìn và cân bằng là điều quan trọng tạo nên một phòng ngủ hoàn hảo trong phong thủy phòng ngủ. Đệm tốt, đầu giường vững chắc và từ những chất liệu tự nhiên cũng là những điều không kém quan trọng để tạo ra năng lượng hài hòa.

Cần đóng tất cả các cánh cửa của phòng ngủ vào ban đêm, nó sẽ tập trung nguồn năng lượng cho phòng một cách tốt nhất, bổ dưỡng nhất. Hãy giữ các cánh cửa luôn sạch sẽ và đúng vị trí, điều đó tạo cho bạn cảm giác bình an và yên tĩnh trong phòng ngủ của chính mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ kích thích chuyện “yêu” - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Xem mệnh hỏa –

Phong thủy nhà cho người mệnh Hỏa vốn rất phong phú và đa dạng từ màu sắc, kiểu dáng ngôi nhà, hướng nhà tới nội, ngoại thất. Trong ngũ hành tương sinh: Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa. Trong ngũ hành tương khắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy nhà cho người mệnh Hỏa vốn rất phong phú và đa dạng từ màu sắc, kiểu dáng ngôi nhà, hướng nhà tới nội, ngoại thất.

Trong ngũ hành tương sinh: Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa.

Trong ngũ hành tương khắc: Mộc Khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Có thể thấy phong thủy ngũ hành không tồn tại sự thiên lệch về bất cứ hành nào. Do đó không phải chỉ có màu đỏ mới hợp với ngôi nhà đẹp của người mệnh Hỏa. Vậy căn nhà như thế nào thì tốt cho gia chủ mệnh Hỏa, mang lại may mắn, tài lộc, sức khỏe, bình an và phát triển.

Mạng Hỏa gồm các tuổi:

Giáp Tuất 1934 & Ất Hợi 1935;
Mậu Tý 1948 & Kỷ Sửu 1949;
Bính Thân 1956 & Đinh Dậu 1957;
Giáp Thìn 1964 & Ất Tỵ 1965;
Mậu Ngọ 1978 & Kỷ Mùi 1979;
Bính Dần 1986 & Đinh Mão 1987.

1336444548-Phong-thuy-ruoc-tai-loc-cho-nguoi-menh-Hoa1

Trước tiên xét về hướng. Người mệnh Hỏa hợp những hướng Nam, Tây Nam và hướng Đông Bắc, không tốt lắm khi chọn hướng Đông, Đông Nam, Tây, Tây Bắc và hướng Bắc. Trong trường hợp nhà bạn không thể quay đúng hướng hợp với mình thì bạn nên mở cửa chính ra hướng đó.

Hầu hết nhà đều có phần nền là hành Thổ vì vậy với người mệnh Hỏa, chọn mái nhà nhọn hoặc tam giác thuộc hành Hỏa thì sẽ tương hợp với gia chủ, thêm vào đó Hỏa sinh Thổ cũng bảo trợ tốt cho ngôi nhà.

1336444548-Phong-thuy-ruoc-tai-loc-cho-nguoi-menh-Hoa2

Những người thuộc mệnh Hỏa thường yêu thích sự chủ động, hào hứng vì thế cuộc sống của họ cũng tích cực và sôi nổi. Màu sắc của bản mệnh này vốn là những tông màu thuộc hành Hỏa như đỏ, cam, hồng, tím. Căn nhà của người mệnh Hỏa luôn tràn đầy sức sống và lôi cuốn người khác.

Ngoài màu sắc tương hợp với bản mệnh như trên, bạn cũng có thể sử dụng màu sắc tương sinh là những tông màu xanh lá thuộc hành Mộc (do Mộc sinh Hỏa), kỵ với những tông xanh thẫm, đen vì đây đây là sắc màu của hành Thủy (Thủy khắc Hỏa).

Nếu bạn không được phép quyết định hình dáng nhà, hướng và mái nhà, thì có thể áp dụng cách trang trí nội thất phù hợp nhất cho riêng căn phòng mình ở.

1336444548-Phong-thuy-ruoc-tai-loc-cho-nguoi-menh-Hoa3

Thông thường màu đỏ với ý nghĩa may mắn, là biểu tượng của tình yêu lãng mạn, là can đảm nhiệt huyết, là màu của thách thức, đam mê, là màu của sự sống và sự sung túc, giàu có. Màu cam mang lại năng lượng và thu hút người khác vào câu chuyện của gia chủ, màu cam là màu của danh vọng và tình yêu.

Vậy trang trí phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn của người mệnh Hỏa như thế nào để không gây cảm giác khó chịu với những tông màu nóng này?

1336444548-Phong-thuy-ruoc-tai-loc-cho-nguoi-menh-Hoa4

Ví dụ: ghế đệm, rèm cửa, khăn trải bàn hay những đồ gia dụng nhỏ như đèn bàn, lọ hoa, tranh ảnh, nến… có thể sử dụng họa tiết, hoa văn màu đỏ, cam, hồng, tím. Sơn tường có thể dùng màu hồng, tím vì màu này hợp mệnh lại nhẹ nhàng, khiến căn phòng lung linh màu sắc. Ánh đèn nên dùng chủ yếu ánh đèn vàng tạo năng lượng ấm cúng đầy sự sống, hoặc ánh đèn hồng, tím thiên về tình yêu, lãng mạn.

1336444548-Phong-thuy-ruoc-tai-loc-cho-nguoi-menh-Hoa5

Đồ nội thất nên có chất liệu chính bằng gỗ, tránh chất liệu kim loại vì Hỏa khắc Kim, có rất nhiều biến tấu để bạn chọn như gỗ ép, gỗ vân, gỗ phủ sơn mài…

1336444548-6

Vật phẩm phong thủy cũng nên tuân theo nguyên tắc này sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, cam, xanh.

Trong và ngoài căn nhà nên có cây xanh vì Mộc sinh Hỏa.

Đương nhiên nếu kích hoạt quá tay yếu tố Hỏa thì cũng không tốt cho gia chủ, vì thế nên sử dụng gương, bể cá để kích hoạt Thủy khí, cân bằng Hỏa khí cho căn nhà.

1336444548-Phong-thuy-ruoc-tai-loc-cho-nguoi-menh-Hoa7

Gương không nên để đối diện với cửa ra vào, và đối diện với đầu giường vì sẽ gây cảm giác bất an.

Nếu các bạn còn ở chung với gia đình, nhưng có phòng riêng, thì ngoài việc bài trí cho căn phòng riêng của mình hợp với mệnh theo hướng dẫn trên, bạn nên sử dụng phương pháp bát trạch để xác định các phương vị các cung cần kích hoạt trong nhà, thông thường các cung chính là Tài Lộc, Quan Lộc và Quý Nhân mà bạn cần kích hoạt để mang lại tài lộc, công danh và quan hệ may mắn.

Bài trí vật phẩm tại những hướng cụ thể này không ảnh hưởng nhiều tới tổng thể của căn nhà, dù gia chủ mang mệnh gì.

1336444548-Phong-thuy-ruoc-tai-loc-cho-nguoi-menh-Hoa8

Cung Quan Lộc nằm ở hướng Bắc tính từ giữa trung tâm căn nhà và thuộc hành Thủy, vì thế gia chủ nên đặt bể cả hay phong thủy luân (đài phun nước) hoặc chuông gió ở hướng này.

Cung Quý Nhân nằm tại hương Tây Bắc tính từ giữa trung tâm căn nhà, kích hoạt cung này sẽ nhận được sự giúp đỡ của người khác, tại góc Tây Bắc bạn có thể đặt bình gốm, đá hay pha lê để tăng cường năng lượng.

Cung Tài Lộc nằm ở hướng Đông Nam tính từ trung tâm căn nhà thuộc hành Mộc, vì thế nên đặt một chậu cây xanh hoặc một vài đồng xu trong bát nước để tài lộc đổ vào như nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem mệnh hỏa –

Quà tặng Ngày của Mẹ hợp ý 12 bà mẹ hoàng đạo

Mẹ là cả thế giới, chỉ cần có mẹ là có niềm vui. Nhân Ngày của Mẹ (Chủ Nhật đầu tiên của tháng 5), hãy dành những món quà thật hợp ý cho 12 bà mẹ hoàng đạo nhé.
Quà tặng Ngày của Mẹ hợp ý 12 bà mẹ hoàng đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Qua tang Ngay cua Me hop y 12 ba me hoang dao hinh anh
 
Bạch Dương – đồ gia dụng   Bà mẹ Bạch Dương phần lớn là thuộc trường phái hành động, làm việc gì cũng phải nhanh gọn và hiệu quả nên một món đồ gia dụng có hiệu suất lớn, tính năng vượt trội sẽ là món quà mà họ rất ưa thích.   Kim Ngưu – sổ tiết kiệm   Kim Ngưu là bà mẹ hoàng đạo hết sức thực tế, hãy biếu mẹ một khoản tiền mà bạn tự kiếm được hay một sổ tiết kiệm đứng tên mẹ, đó chính là lời khẳng định bạn đã trưởng thành và biết quan tâm tới mẹ đấy.   Mẹ Kim Ngưu - người bạn đồng hành đáng tin cậy
Song Tử - một bài hát
  Người mẹ thuộc cung Song Tử thích vui vẻ, náo nhiệt và mong muốn đứa con của mình có thể dành thời gian, tâm ý thể hiện tình cảm ngọt ngào thông qua một bài hát dành riêng tặng mẹ.   Cự Giải – chuyến du lịch   Nếu mẹ của bạn thuộc cung Cự Giải, hãy lên kế hoạch đưa mẹ đi du lịch một chuyến, nhất định mẹ bạn sẽ rất vui khi được tận hưởng khoảng thời gian nghỉ ngơi thoải mái bên con cái.
 
Sư Tử - hàng hiệu   Bà mẹ Sư Tử nhất định là rất sành điệu và thích những món đồ đẳng cấp. Một chiếc túi hay chiếc khăn choàng hàng hiệu sẽ khiến mẹ rất vui đấy.   Xử Nữ - sản phẩm chăm sóc sức khỏe   Với tính cách của bà mẹ cung Xử Nữ, việc chăm lo cho cơ thể là điều không thể thiếu sót. Thông qua sản phẩm chăm sóc sức khỏe, bạn sẽ thể hiện được tấm lòng hiếu thảo của mình.   5 ưu, 5 khuyết chuẩn không cần chỉnh của Xử Nữ
Thiên Bình – dạo phố
  Ngày của Mẹ là dịp tốt để hhai mẹ con Thiên Bình cùng nhau dạo phố, trò chuyện. Tuy không cần phải có gì đặc biệt nhưng hết sức ấm cúng và thân mật.  
Qua tang Ngay cua Me hop y 12 ba me hoang dao hinh anh
 
Thiên Yết – phiếu spa
  Dù không nói ra nhưng bà mẹ Thiên Yết rất quan tâm tới dung mạo, nên một liệu trình spa sẽ là món quà rất ý nghĩa nhân ngày của Mẹ.   Nhân Mã – đồ lưu niệm   Mẹ bạn mà thuộc cung Nhân Mã thì nhất định là có tâm hồn phóng khoáng, thích đi đó đi đây. Hãy gửi tặng mẹ món quà lưu niệm từ những chuyến đi và kể những câu chuyện về miền đất mới, hẳn là mẹ sẽ rất thích.   Ma Kết – thực phẩm bổ dưỡng   Thực tế và cần thiết chính là phong cách của bà mẹ Ma Kết, nên món quà là thực phẩm chức bổ dưỡng rất phù hợp.   Bảo Bình - lập dị và dẫn đầu
Bảo Bình – đồ thủ công độc đáo
  Bà mẹ Bảo Bình thích nhất là những thứ mới mẻ, khác thường nên để làm mẹ vui, hãy tìm kiếm những món đồ thủ công lạ mắt làm quà tặng nhé.   Song Ngư – hoa   Nhẹ nhàng và ngọt ngào, chỉ cần một bó hoa tươi thắm và cái ôm ấm áp là đủ để làm bà mẹ Song Ngư vui vẻ rồi. Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quà tặng Ngày của Mẹ hợp ý 12 bà mẹ hoàng đạo
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd