Mơ thấy mình chết –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Bánh xe pháp luân là một trong những dấu hiệu may mắn được cho là xuất hiện ở lòng bàn chân Đức Phật.

Bánh xe pháp luân còn được gọi là bánh xe chân lý, bánh xe vũ trụ, bánh xe cuộc đời.
Pháp luân tượng trưng cho pháp hay lời day của Đức Phật, luôn biến hoá thích nghi để dẫn đường đi đến giác ngộ và giải thoát tối hậu.
Thuật ngữ “bánh xe” xuất phát từ chữ cakra trong tiếng Phạn, là một loại vũ khí của Ấn Độ thời cổ đại. Pháp luân là vũ khí để hàng phục mọi tà kiến ngoại đạo.
Phật giáo quan niệm pháp luân tượng trưng cho giáo pháp của Đức Phật gồm Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Trung đạo. Pháp luân thường được vẽ như một bánh xe tám nhánh, tượng trưng cho bát chính đạo.
Theo phong thuỷ bánh xe pháp luân tượng trưng cho phong thuỷ trong tâm. Bánh xe biểu tượng cho sự vượt thoát khỏi ba nguồn gốc khổ đau của con người đó là THAM (tham lam) SÂN (hận thù) Si (si mê).
Đặt biểu tượng bánh xe pháp luân trong nhà giúp cho tâm hồn được an tịnh, trí tuệ được minh mẫn.
Với những người đang tìm kiếm bạn đời, biểu tượng bánh xe pháp luân có thể mang đến may mắn và hạnh phúc cho tình yêu của họ.
Trong trường hợp này, đặt biểu tượng bánh xe pháp luân ở góc Đông-Bắc của phòng ngủ được cho là tốt nhất.
Hướng Đông-Bắc có liên quang đến hành Thổ. Đặt bánh xe ở đó sẽ đảm bảo rằng ngay cả khi đang yêu, bạn cũng được vững vàng, và bạn luôn sáng suốt khi tìm bạn trăm năm.
Bánh xe được cho là có thể mang đến sự may mắn về trí tuệ.
Vì vậy đây là một biểu tượng tuyệt hảo cho những ai đang dự tính hôn nhân hoặc bắt đầu cuộc sống hôn nhân.
Bánh xe pháp luân còn tạo ra năng lượng chủ về sự hoà thuận và lòng bao dung.
Đã là công chức nhà nước hay đang kinh doanh trên thương trường, chắc bạn không thể tránh khỏi nạn “tiểu nhân” trong công việc. Làm sao có thể vừa thoát khỏi kẻ ám hại mình một cách ngoạn mục, vừa giúp mình thăng tiến, chiêu tài trong công việc?
1. Rồng: thăng quan tiến chức, thoát nạn tiểu nhân
Rồng là con vật linh thiêng theo truyền thuyết từ xa xưa của người Phương Đông (1 trong tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng), được coi là con thú tốt lành, mình rồng dài, trên thân có nhiều vẩy, trên đầu có sừng như sừng hươu, chân có móng vuốt, rồng có nhiều tài như bay trên trời, bơi dưới nước…
Rồng có tác dụng trừ khử tiểu nhân, đặt biệt là rồng có màu xanh
Nếu đặt rồng xanh ở hướng rồng của ngôi nhà thì những kẻ tiểu nhân không dám gây sự quấy nhiễu, hoặc khi hướng bạch hổ của ngôi nhà khí vận phong thủy quá xấu, thì nên bày rồng xanh ở hướng rồng, để hóa giải tai ách do bạch hổ gây ra.
Là con vật đứng đầu trong các loài thú lành, nên ngoài việc hóa sát nó còn tăng cường phát huy quyền lực, người có chức vụ cao dùng nó có hiệu quả càng lớn. Ngoài ra rất phù hợp cho người làm việc hành chính , hoặc hoạt động chính trị , giúp chống lại những lời dèm pha và tăng cường quyền uy. Có thể đặt Rồng Xanh bằng ngọc (tốt nhất), bằng đá, bột đá…ở góc trái bàn viết tượng trưng cho Tả Thanh Long. Và để loại bỏ hết những khó khăn, trở ngại do bọn tiểu nhân gây ra thì rồng xanh còn có thể bày ở bên trái nhà ở, như vậy hiệu quả sẽ càng tốt hơn.
Sách có câu: “Tiểu nhân hưng ba trở trệ đa, thanh long nhất điều khứ kỳ ác” nghĩa là nếu bị kẻ tiểu nhân tác oai tác quái gây khó khăn ách tắt, thì hãy dùng một con rồng xanh trừ khử hết mọi điều xấu do nó gây ra.
Vì thanh long được coi là một loại thú lành, người ta đồn rằng nếu như người đàn bà nào trước khi sinh nở mà nằm mơ thấy rồng, thì đứa bé trai được sinh ra chắc chắn sẽ hơn người.
Tuy nhiên muốn chưng rồng xanh để tránh tiểu nhân thì phải chưng vào dịp ngũ long nhật, cụ thể là các ngày “giáp thìn”, “bính thìn”, “mậu thìn”, “canh thìn” và “nhâm thìn” thì hiệu quả mới nổi bật.
Khi chưng bày không nên đặt hướng đầu Rồng về phòng ngủ , nhất là phòng ngủ trẻ em.
Rồng là biểu tượng của Hoàng đế, của người quân tử. Rồng có khả năng dùng hơi thở thổi ra nguyên khí trời đất, nguyên khí này chính là nền tảng của học thuật Phong Thuỷ.
Hình dạng của núi sông, thung lũng, các khối nhà, đường xá đều có liên quan đến các bộ phận của Rồng như đầu, mình, thân, đuôi, móng vuốt và viên ngọc rồng từ đó ảnh hưởng đến vị trí Phong Thuỷ.
Rồng có sức mạnh tạo ra tiết khí, mưa giông, ánh sáng từ mặt trời, gió biển và đất đai. Rồng biểu trưng cho năng luợng của đất trời, là vật siêu phàm của Phong Thuỷ.
Rồng bằng ngọc, đá quý mang nguyên khí Thổ, trong vận 8 là cát khí đem lại sự may mắn về công danh, tài lộc. Bày ở các hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc trong phòng khách hoặc phòng làm việc,ở cửa hàng kinh doanh buôn bán.
2. Sư tử đá – Uy nghiêm và quyền lực
Trên bàn làm việc đặt một đôi Sư Tử nhỏ, nhất đinh cần nhớ là “Tả Công Hữu Mẫu – Trái Cha Phải Mẹ” tức là luôn đặt con đực ở bên trái của con cái, bởi vì Sư Tử Cha là Dương, Sư Tử mẹ là Âm đặt như vậy mới đúng với câu “Dương theo bên trái vòng vòng chuyển; Phải theo đường phải chuyển tương thông”. Mặt Sư Tử hướng thẳng với hướng mặt mình ngồi.
Nhưng lưu ý nếu ở kiểu bàn làm việc phổ biến hiện nay có chia từng ngăn ô thì lại đặt xoay về hướng đối diện với mặt mình. Tức cặp Sư Tử sẽ nhìn hướng về phía sau lưng mình ngồi. Có một điểm nhỏ nhưng quan trọng là cần chọn loại có nét mặt vui vẻ, dễ thương, tránh chọn loại mà mắt lộ hung quang, mặt đầy hung khí. Nên được Khai Quang thì tốt.

Vương trượng (Gậy như ý) là những vật hình cong đầu rất lớn. Ý nghĩa của biểu tượng là cầu mong đạt được mọi ước nguyện, việc gì cũng tốt đẹp, vừa ý. Trong tâm linh Phúc – Lộc – Thọ, thì Ông Lộc trong tay cũng cầm Vương Trượng. Đa phần, Vương Trượng được chế tác bằng ngọc nhưng cũng có thể làm bằng chất liệu khác như vàng, bạc đồng, sứ…
Vương trượng là vật đại diện cho quyền lực mà ngày xưa các vị quan lại vua chúa luôn sở hữu. Nó là vật khí rất quan trọng trong Phong Thủy chuyên dùng để củng cố địa vị và quyền lực, chống lại kẻ tiểu nhân; tăng thêm công danh, uy quyền, sự tôn nghiêm cho người sở hữu.
Vương trượngđược mạ vàng, kèm thêm những viên ngọc nên cát khí của nó rất lớn, không những hoá giải được hung khí của sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc vốn gây tai họa mà còn đem lại uy quyền và công danh tài lộc.
Vương trượng rất thích hợp dùng cho người mệnh cao, giữ trọng trách lớn. Đặt trên bàn làm việc, trong phòng khách, văn phòng.
4. Tiền hoa mai

Đồng tiền hoa mai còn gọi là Mai hoa kim tiền là đồng tiền bằng đồng hình hoa mai năm cánh. Một mặt chạm ngũ tự gồm : THỌ (sống lâu), MỆNH (số mạng), THỦ (đứng đầu), PHÚ (giàu có)và QUÝ (thăng tiến) trên mỗi cánh hoa. Mặt còn lại chạm hình ĐÀO TIÊN (trường thọ), CHIM KHÁCH (cát tường), THỎI VÀNG (của cải), DƠI (phúc) và TUẦN LỘC (lộc).
Mai hoa kim tiền có công dụng giải trừ tiểu nhân tránh thị phi, hỗ trợ quan vận kích vượng phú quý và may mắn tài lộc.
Thường đặt đồng tiền hoa mai trong ngăn bàn làm việc, để trong ví, trong ngăn kéo tài liệu, sau lưng ghế tựa của mình hoặc treo trên bức tường phía sau lưng mình đều với mong muốn đạt thành những ý nguyện trên.

Thời xa xưa, những gia đình giàu có thường táng theo người chết một viên ngọc bích chạm khắc hình con ve sầu, đặt trên nắp áo quan, mong cho người đã khuất có được một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới khác.
Đối với người đang sống, ve sầu được xem là một biểu tượng của cuộc sống lâu dài, hạnh phúc và tuổi trẻ bất diệt.
Căn nguyên của biểu tượng này được bắt nguồn từ truyền thuyết xưa kia. Tương truyền rằng: Có một nữ hoàng làm rất nhiều việc tốt cho dân, khi qua đời đã đầu thai thành con ve sầu. Khi đã trở thành ve sầu, bà không bao giờ già vì luôn lột xác sau mỗi mùa hè. Vì thế, loài ve sầu đã trở thành một biểu tượng cho sự trẻ trung của con người.
Bên cạnh ý nghĩa đó, loài ve sầu còn được coi như một một lá bùa hộ mệnh. Khi đeo trên mình một vật có dáng ve sầu, bạn sẽ được bảo vệ khỏi những nguy hiểm, tiểu nhân và kẻ thù.
Một miếng ngọc bích hình con ve sầu có tác dụng bảo vệ tốt. Những nhân viên trong công ty muốn tìm kiếm sự bảo vệ trước một đồng nghiệp không đáng tin cậy hay người quản lý có mưu đồ xấu có thể tìm một miếng ngọc bích hình con ve sầu như mặt dây chuyền để đeo.
![]() |
Ý Nghĩa Của Tuần Triệt
Tác dụng của Tuần, Triệt có tính cách toàn diện, không có biệt lệ, tức là hai sao này chi phối tất cả các sao đồng cung và tất cả các cung có Tuần, Triệt án ngữ, không vị nể một sao nào hay một cung nào. Tuy nhiên, có sự phân biệt ít nhiều ý nghĩa của hai sao này, từ đó, có ảnh hưởng trên sự luận đoán:
Sự Khác Biệt Ý Nghĩa Giữa Tuần, Triệt:
Tuần là Ám Tinh, Triệt là Không Tinh. Như vậy, ý nghĩa Tuần tất nhiên nhẹ hơn Triệt. Tuần báo hiệu sự trắc trở, khó khăn còn Triệt báo hiệu sự bế tắc, chướng ngại lớn, sự lụn bại nặng nề.
Tuần ảnh hưởng suốt đời, còn Triệt chỉ mạnh cho đến khoảng 30 tuổi, tuổi tam thập nhi lập, tuổi từ đó con người có thể tự lập thân, không còn chịu ảnh hưởng nặng của gia đình.
Tác Dụng Tương Đồng Của Tuần, Triệt:
Trong thời gian hai sao còn ảnh hưởng, Tuần, Triệt đóng ở bất cứ cung nào đều tiên quyết:
Gây trở ngại ít hay nhiều cho cung đó. Mức độ ít hay nhiều này tùy thuộc sự tốt, xấu của 3 cung Phúc, Mệnh, Thân. Điều này có ngoại lệ cho cung Tật sẽ nói đến sau này.
Tác họa ít nhiều trên các sao đồng cung. Sự tác hóa này có hai cường độ: hoặc biến hoàn toàn ý nghĩa của sao (như biến sao xấu thành tốt hay ngược lại) hoặc chỉ giảm ảnh hưởng của các sao (như làm cho bớt tốt, bớt xấu).
Tuy nhiên, tác dụng tiên quyết này có 3 ngoại lệ:
Khi người đã trút hơi thở cuối cùng, lấy một chiếc đũa để ngang miệng vào giữa hai hàm răng đợi giờ phạm hàm, lấy tờ giấy trắng đắp lên mặt người chết Phạn hàm và chiêu hồn Theo tục lệ xưa, họ hàng hoặc con cháu lấy một nấm gạo nếp vo sạch, ba đồng tiền kẽm mài cho sạch rồi bỏ vào miệng của người chết.Tục này gọi là phạn hàm. Nếu nhà khá giả thì bỏ vàng và châu báu vào miệng người chết để chứng tỏ sự hiếu thảo của mình. Việc làm này ngụ ý không muốn để người chết mà miệng phải trống rổng và thèm muốn. Làm lễ phạn hàm xong, thì trãi chiếu dưới đất, đem người chết xuống nằm nơi ấy (theo phong tục cổ truyền có nghĩa là người ta sinh ra từ đất và khi chết lại trở về đất) Để được một lát lại rước người chết đặt lên giường. Người con cầm cái áo của người chết từng mặc, tay trái cầm cổ áo, tay mặt cầm lưng áo, rồi từ phía trước nhà treo lên nóc, dùng tên gọi của người, chiêu hồn ( gọi hồn người chết ) ba tiếng, có ý cầu mong cho người đó sống lại, sau đó mới lấy chiếc áo đắp lên thi thể người vừa mới chết - Con cháu trong nhà phải yên lặng, cầu nguyện hoặc là rước Thầy về tụng kinh độ vong, Người trong gia đình đều phải đi chân không, không mang nữ trang, không trang điểm son phấn. Con cái trong nhà và những người thân thuộc phải bịt khăn tang trắng cho đến khi thành phục Khâm liệm và nhập quan Những gia đình giàu có thì dùng vóc nhiễu tơ lụa, nhà nghèo thì dùng vải trắng may thành đồ tiểu liệm và bốn cái túi để bao tay, bao chân người đã mất. Đồ tiểu liệm có thể là một tấm chăn nhỏ bọc lấy thi thể rồi đến một đai buộc dọc, và một đai buộc ngang, bên ngoài đồ tiểu liệm đến đồ đại liệm là một tấm chăn lớn bọc kín thân thể, có một đai buộc dọc và năm đai buộc ngang. Ngoài hết là tấm tạ quan,Nhà ai nghèo không đủ tiền mua sắm những vật như thế thì cũng cố kiếm một tấm vải mỏng để bọc,Khi khâm liệm, người ta lấy giấy sạch chèn vào những chổ trống để cho thi thể được ngay ngắn,Sự khâm liệm này có ý trân trọng, tiếc nhớ và giữ gìn di hài người đã khuất, Đúng vào giờ đã chọn, con cháu vào khâm liệm xong, rước thi thể đặt vào quan tài, kê đệm cho ngay ngắn,Quan tài bao giờ cũng phải đặt chính giữa nhà, nếu người trong nhà còn sống tuổi tác lớn hơn người đã chết, thì quan tài có thể đặt khiêm nhường qua một bên, đầu quan tài luôn hướng ra ngoài sân, trước trời đất, Sau đó đập nắp quan tài, sơn và gắn kỹ càng trên nắp quan tài luôn luôn thắp bảy ngọn nén ( thất tinh ) đặt ly hương, một chén cơm, một đôi đũa và một hột trứng gà chín đã bóc vỏ để thờ, Giờ nhập quan, người ta hay tránh và kiêng cử tuổi vong và tuổi trưởng, Từ đây con cháu thường trực quanh linh cữu để cúng lễ hoặc tạ lạy những khách đến phúng điếu Đặt linh sàng, linh toạ Nhà rộng rãi khi có đám tang thì được đặt linh sàng,Linh sàng thì thường là một cái giường kê ở bên linh cửu về phía tay mặt, cung phụng như chổ ngủ lúc người còn sống, có mùng màn, chăn chiếu, gối nệm tử tế Linh tọa là bàn thờ vong linh, đặt trước quan tài, Trên linh tọa có đèn cầy, đặt chân dung người quá cố hoặc có thêm bài vị nữa, Phía ngoài cùng thì kê hương án bàn độc
Lễ thành phục
Lễ thành phục còn gọi là lễ phát tang. Sau khi đã làm từ linh sàng, linh tọa xong và sắm đủ tang phục dùng một ít dâng lên linh tọa, thì con cháu bắt đầu xỏa tóc, mặc đồ tang theo thứ tự, ngôi bậc trong gia đình, sắp hàng trước hương án khóc lạy người quá cố, Có đám tang mời thầy đến tụng kinh siêu độ, và trống phách đưa tiễn vong linh người mất. Đồ tang phục Con trai, con gái, con dâu thì đều bịt khăn sô, đội mủ kết bằng sợi chuối, trong mặc áo quần bằng vải thô xấu, bên ngoài mặc áo xô, ngoài cũng quàng sợi dây chuối, thắt lưng bằng chạc hay cũng bện bằng sợi chuối, đi giầy kết bằng cỏ gai hoặc rơm rạ. Nếu người cha chết, thì áo quần may bỏ xổ gấu, mẹ chết thì may áo có vén gấu, có ý là cha hơn mẹ một bực, nên tục ngữ ta có câu : " Cha buông, Mẹ vén " là theo tục ấy, Nhưng nếu người mẹ mất sau cha thì tang phục cũng không cần phải phân biệt như trên, Áo phải khâu đường sống lưng lộn mép vải ra ngoài và giữa lưng có một miếng vải khâu bám vào, người xưa gọi là " phụ bản " tỏ ý cõng trên lưng mình một sự đau xót tiếc thương, Con gái đã xuất giá ( lấy chồng ) thì chỉ mang áo vén gấu để tang cha mẹ đẻ mà thôi. Con Trai phải chống gậy, việc này đối với người xưa hệ trọng lắm. Người có gia thất rồi mà khi mất không có con trai chống gậy đưa tang thì gia quyến tự coi là điều sĩ nhục đau đớn. Gậy tang cha thì bằng trúc, gậy tang mẹ thì bằng vông, bề dài lên ngang ngực nơi chổ trái tim của người chống gậy, Sỏ dỉ có tục lệ này vì người xưa cho rằng : Gậy tang cha bằng trúc, trúc hình tròn tượng trương cho Trời, trúc bốn mùa không đổi tiết cũng như tấm lòng con thương cha vì thế mà không thay đổi,Gậy tang mẹ bằng vông, nữa trên tượng trưng cho Trời, nữa dưới vuông tượng trưng cho Đất ( 1 ) Cả hai thứ gậy tang đều phải chống xuống đất, Bề dài của gậy tang phải ngang với quả tim ngừoi cầm, ý rằng người con hiếu thảo, khóc thương quá độ mà sinh ra đau ốm, phải có cây gậy chống đỡ, Đau ốm từ tim phát ra, nên gậy tang phải ngang để chống đỡ với nỗi đau con tim ấy, Riêng con rể và cháu thì đội mũ mấn khăn áo trắng, Nếu như người con cả chết trước cha mẹ mình, mà có sinh được con trai để lại thì lúc cha mẹ chết, đứa con trai ấy phải thay mặt cha mình chống gậy để báo hiếu ông bà và phải đứng chủ các việc tế lễ gọi là cháu đích tôn thừa trọng tang phục cũng như người con trai vậy Chuyển linh cửu Nữa đêm hoặc sáng sớm hôm cất đám thì làm lễ chuyễn linh cửu - nghĩa là di chuyễn quan tài, Xưa kia những gia đình có nhà thờ riêng, thì nhất thiết phải rước linh cửu đến triều bái tổ tiên, tức là chào từ biệt tiên tổ để về nơi chín suối, Nhưng lễ này rắc rối và phiền hà, nên về sau người ta bỏ dần, Trước khi động quan con cháu xúm xít quanh quan tài nhắc lên đặt xuống ba lần để cho người chết cáo vong, cáo tổ trước khi về cõi âm Cất đám Cất đám, tức là rước linh cửu đi an táng, Sáng sớm trước khi cất đám phải làm lễ cáo vễ việc này cho họ hàng bà con thân thiết được biết, đến giờ, những đô tuỳ vào rước linh cửu đặt lên linh dư, đầu quan tài cũng bao giờ đi trước, việc này có hàm ý là người chết đi từ chổ tối ra chổ sáng,Linh cửu dần dần chậm rãi chuyễn đi, con cháu, anh em, họ hành thân thiết tay bám vào quan tài mà khóc than, tiếp đến bạn bè thân hữu đi sau, Trong khi đưa đám, nếu người con trai nào đi vắng xa không về kịp tang lễ thì cây gậy của người ấy phải đem treo ở đầu đòn khiêng, con gái, con dâu thỉnh thoảng phải nằm lăn ra mặt đường, con gái nằm ngoảnh mặt tới trước, con dâu nằm ngoảnh mặt trở lại sau, Ý nghĩa của việc nằm lăn ra đường này để chứng tỏ rằng mình đem thân ra nằm trên những chổ đường lồi lõm, cao thấp cho linh cửu của cha, mẹ mình ra đi được êm đềm, và tỏ lòng đạo hiếu của con cái
Nghi lễ đi đường
Đám tang thường có hai thần phương tướng đi đầu để trừ tà tịch, Ngày xưa hai người này đều đeo mặt nạ, cầm giáo mác, đóng vai Thần dẹp ôn tịch, trừ đạo tặc, Theo sau Phương Tướng là hai người rước một bức hoành tráng vả trắng có bốn chữ " Hổ sơn vân ám " ( cha mất ) hay " Dĩ lĩnh vân mê " ( mẹ mất ) sở dĩ có bức hoành tráng này dùng vào việc khóc thương cha mẹ quá cố bở người xưa có câu : " Trèo lên núi Hổ, ta trông thấy Cha Trèo lên núi Dĩ, ta trông ngóng Mẹ " Tiếp đến là miếng vải làm bằng vóc nhiễu the lụa hoặc bằng giấy đỏ cũng được để đề tên họ người quá cố, được treo vào cành tre như cây phướng, hoặc căng thẳng dựng đứng để lên bàn cho hai người khiêng, sau đó, mới đến hương án, giá hương, đồ tam sự và một mâm ngũ quả, lợn quay, bánh trái, giấy vàng bạc rãi suốt dọc đường linh cửu đi qua để tống tiền ma quỷ khỏi bám vào quan tài nặng nề khó đi Hạ huyệt Khi đám tang đưa đến huyệt, người ta đem hai thẫn phướng dạo bốn góc huyệt, đọan đưa quan tài xuống, Hạ linh cửu xuống huyệt, rồi mới tháo minh tinh rải lên mặt quan tài, đoạn con cháu khóc lạy, và bà con, bè bạn, mỗi người nắm một hòn đất, hoặc một cành hoa xuống huyệt, rồi mới bắt đầu lấp đất, việc này có ý cho người chết được ấm cúng bởi sự đấp đập của những người còn sống, trong khi lấp đất thì gia quyến bày lễ cúng Hậu thổ cầu cho người nằm dưới mộ được thảnh thơi yên ổn Cúng quy lăng Những người theo đạo phật, thì trước khi lấp đất thuỜng nhờ đến các sư, tăng làm lễ cúng phật độ, vừa niệm kinh vừa đi quanh mả gọi là " dong nhan " Sự khóc lạy Trong khi đám ma còn để trong nhà, con cháu và khách đến viếng chỉ lạy hai lạy, nghĩa là còn coi như người ấy đương sống, Mai táng xong mới lạy bốn lạy, tức là mới lấy đạo người chết mà thờ - Khách đến viếng, người thường thì lạy không, người thân thì khi lạy phải ô, hô ba tiếng để tỏ lòng thương tiếc - Khách đến viếng lạy, con cái vừa khóc, vừa lạy đáp, nhưng chỉ đáp lễ một lần, khách lạy hai thì mình lạy một, Con cái khi làm lễ trước linh toạ, hay khi đáp lễ khách, phải quỳ dưới đất, không được quỳ trên chiếu Tế ngu An táng người chết xong, về nhà lại cúng tế, gọi là " Tế ngu " Ngu có nghĩa là yên để cho vong hồn người khuất được yên ổn, Tuần lễ sau ngày an táng gọi là " sơ ngu " tế xong thì đem hồn bạch chọn một chổ đất vắng lặng sạch sẻ mà chôn xuống, sau tuần sơ ngu lễ còn đặt ra hai tuần lễ " tái ngu " và " tam ngu " ở những ngày hôm sau nữa, việc này thường những nhà khá giả mới tổ chức Cúng cơm ba ngày Ngày thứ ba sau khi an táng, gia quyến còn có lễ cúng cơm ba ngày ( hay gọi mở cửa mã ) buổi sáng con cháu đem trầm hương ra viếng mã, và sửa sang cho đẹp, xong về nhà cúng vái, mời bà con họ hàng ăn uống, tạ lễ Cúng cơm hằng ngày, hằng tuần An táng rồi thì ngày nào cũng phải cúng cơm hai bửa, thường là bát cơm với quả trứng luộc, hoặc khi người còn sống thích gì thì cúng nấy Chung thất ( 49 ngày ) Bốn mươi chín ngày gọi là cúng tuần chung thất, dịp này các gia đình đạo phật hay mời các vị sư tụng niệm, sám hối, cầu vong linh siêu sanh tịnh độ - Đây cũng là tuần thất cuối cùng Tốt khốc ( 100 ngày ) Một trăm ngày kể từ khi người chết đã khuất, thì gia đình phải cúng tuần " tôt khốc " có nghĩa là ngừng khóc, Cúng xong tuần này thì từ đây về sau không còn cúng cơm hằng ngày Tiểu tường ( giổ đầu ) Được một năm thì giổ đầu -thường gọi là " tiểu tường ", Đến kỳ lể này thì tất cả áo quần của ngày tang con cái, anh chị em, phải mang lại để làm lễ, trừ những đồ sô gai, mũ cũng bỏ cho nhẹ bớt và bắt đầu làm lễ lại như người thân vừa mới mất, kỳ lễ này người ta thường mua sắm đồ hàng mã, cúng kiếng rồi đốt cho người cõi âm Đại tường Được hai năm kể từ sau ngày người quá cố gọi là giổ hết ( mãn khó ) hoặc đại tường, Lễ này con cháu sau khi lễ xong thì bỏ hết đồ tang * ( 1 ) Người xưa quan niệm Trời tròn, đất vuông ( Sụ tích bánh dày, bánh chưng )
Lưu ý trước khi an táng, mai táng cần phải xem có bị trùng tang hay không, chọn ngày tốt để an táng. tránh những giờ xấu, giờ phạm.
1. Những đốm trắng trên móng tay
![]() |
Rất nhiều người gặp phải trường hợp này. Khi nhìn thấy những đốm trắng, đa số nghĩ rằng không có vấn đề gì lớn. Theo góc nhìn y học, đốm trắng xuất hiện trên móng tay là do thiếu canxi và kẽm trầm trọng.
Điều này cũng có nghĩa rằng, trong tương lai gần, bạn sẽ gặp khó khăn và cần cảnh giác với vài người nào đó. Hãy suy nghĩ kỹ trước khi làm. Đặc biệt, bạn nên cẩn thận trong lĩnh vực đầu tư để tránh mất một số tiền lớn.
2. “Ổ gà” ở móng tay
![]() |
Nhiều vết lõm xuất hiện ở móng tay, tức bạn đang trong tình trạng kiệt sức và suy nhược tinh thần nghiêm trọng. Trong tương lai gần, có thể bạn sẽ gặp một vài rắc rối nho nhỏ.
3. Đường thẳng đứng chạy dọc từ móng tay xuống ngón tay
![]() |
Từ ngón cái đến ngón út đại diện cho: tim, gan, lá lách, phổi và thận. Khi thấy những đường thẳng này xuất hiện ở ngón tay, bạn cần chú ý các vấn đề liên quan đến 5 loại bệnh kể trên.
Một năm không may mắn sắp đến với bạn. Bạn cần kiểm tra lại mọi việc xung quanh để đảm bảo sự an toàn cho bản thân.
4. Xuất hiện nhiều đường sọc trên móng tay
![]() |
Điều này cho thấy chức năng tim của bạn không tốt, đặc biệt nếu có nhiều đường sọc xuất hiện ở ngón cái.
Thời gian tới, bạn cũng cần chú ý những việc liên quan đến tài sản và tiền bạc.
5. Hình lưỡi liềm trắng trên móng tay
![]() |
Hình lưỡi liềm (hay hình bán nguyệt) trên móng tay xuất hiện cho thấy bạn sắp phải trải qua một vài bệnh tật nghiêm trọng.
Hạnh Yunnie (theo Meigu)
| ► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
![]() |
Chùa Thanh Am có tên gọi khác là Động Linh tự, là một ngôi chùa cổ thuộc Phường Thượng Thanh, quận Long Biên, Hà Nội.
Động Linh tự thuộc làng Việt cổ Thanh Am, trong quần thể di tích Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Làng Thanh Am do Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa con cháu và dân làng tới định cư ở đây và xây dựng thành, với tên lúc đầu là làng Hoàng Am.
Sự cổ kính và hoành tráng của chùa Thanh Am chỉ còn lại ít nhiều trên các tấm bia đá và đặc biệt là quả chuông được chế đúc dưới thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ nhất (1793) và bia Hậu Phật có niên hiệu Gia Long thứ hai (1803).
Quả chuông được đúc dưới thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ nhất (1793) là di vật quý giá còn lại của Chùa. Chuông cao 0.82m; nếu kể cả phần chót trên cùng là 1,20m; đường kính 0,57m; chu vi 1,57m. Quai chuông hình con Bồ Lao (một loài vật giống rồng, bơi lướt trên mặt biển).
Chùa Thanh Am được tôn tạo lại năm 2002, hoàn thành vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mùi (2003). Hoàn thành nhà Tổ ngày 15 tháng 11 năm Quý Mùi (2003).
Mùa xuân tượng trưng cho ước mơ, hy vọng. Học sinh mơ thấy mùa xuân là điềm báo thành công trong đường học hành.
![]() |
| Mơ thấy mùa xuân là gặp điềm lành |
Mùa hè
![]() |
| Giấc mơ mùa hè dự báo tín hiệu tốt trong sự nghiệp |
Phụ nữ mơ thấy mùa hè cho thấy tình yêu của bạn đang trong giai đoạn nồng nàn, sâu sắc.
Mơ thấy mùa thu dự báo bạn sẽ có nhiều bội thu và giàu có.
Phụ nữ mơ thấy mùa thu là điềm báo bạn sẽ may mắn được hưởng thành quả của người khác.
Theo Lý giải những giấc mơ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
“Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi” gắn với hai phong tục tập quán của người Việt trong năm mới. Đó là vào những ngày đầu tiên của năm mới, người Việt có thói quen mua một muối về nhà lấy may cho cả năm. Vào những ngày cuối năm, người ta mua vôi về để quét lại nhà, tường, cổng với hy vọng tránh được những điều không may.
Theo quan niệm của người xưa, muối là thứ mặn, chống xú uế, có thể xua đuổi tà ma và đem lại nhiều may mắn trong gia đình.
Muối cũng là biểu tượng của tình cảm thắm thiết, mặn nồng, gắn kết, no đủ. Tục mua muối đầu năm với ý nghĩa cầu mong sự đậm đà trong tình cảm gia đình, sự hòa thuận, gắn bó giữa vợ chồng, con cái.
Hơn thế nữa còn là sự mặn mà, tình thân thiết quanh năm trong các quan hệ họ hàng, làng xóm và quan hệ làm ăn.
Các túi muối được đóng khéo léo trong các túi vải màu đỏ có gắn ông thần tài bày bán tại cổng đình, chùa vào dịp đầu năm. Ở đồng bằng Bắc Bộ, nhiều người quan niệm đầu năm mua muối cả năm sẽ làm ăn tấn tới, mua may bán đắt, tình cảm gia đình đầm ấm, trọn vẹn như vị đậm đà của muối.
Vì vậy, sáng mùng 1 Tết, tại các vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhiều người đi bán muối dạo qua khắp các đường làng, ngõ xóm. Ở Hà Nội vẫn thấy có người rao muối dạo và người Hà Nội thường mua vài đồng muối lấy may. Người bán sẽ đong một bát đầy có ngọn chứ không gạt ngang miệng bát bởi người ta cho rằng mua muối có ngọn mới mang lại sự đầy đủ, trọn vẹn và no ấm cả năm. Người mua, người bán đều cười nói vui vẻ, và không ai kỳ kèo mặc cả bao giờ.
Cũng có người quan niệm rằng hạt muối có sự kết tinh cao, màu trắng trong tượng trưng cho sự sạch sẽ và tinh khiết cũng là biểu trưng cho tình cảm tốt đẹp.
Hạt muối tuy nhỏ nhoi, ít giá trị kinh tế nhưng mang trong mình ý nghĩa văn hóa phi vật thể thiêng liêng. Bởi thế, người ta thường rắc muối ra đường và xung quanh nhà với mong muốn bình yên.
Tại các đình chùa, sáng mùng 1 Tết, người ta thường bày bán muối bên cạnh hoa quả, vàng mã, đèn hương… để sau khi vào lễ Phật, lúc ra về các bà, các chị mau một gói muối với hy vọng một năm mới mọi việc tốt đẹp và may mắn.
Hơn nữa ý nghĩa của việc “mua muối đầu năm” là cha mẹ nhắc nhở con cái “ăn dè, hà tiện”, tiết kiệm để dành tiền “cuối năm mua vôi” xây nhà. Sở dĩ, câu nói này có ý nghĩa như vậy bởi, đối với người Bắc Bộ, “tậu trâu, lấy vợ, làm nhà” là 3 việc quan trọng nhất của đời người.
Ngược lại với tục mua muối, người ta thường tránh mua vôi đầu năm bởi người xưa quan niệm vôi mà trắng biểu tượng cho sự bạc bẽo (bạc như vôi). Thế nên đầu năm phải tránh mua vôi để tránh những rủi ro trong năm mới, tránh rạn nứt và đổ vỡ trong quan hệ tình cảm gia đình cũng như công việc.
Đối với người Việt, “tậu trâu, lấy vợ, xây nhà” là 3 việc trong đại trong đời vì thế, việc mua vôi được ví von như “xây nhà” – việc quan trọng vào dịp cuối năm. Vôi quét nhà cuối năm cũng có ý nghĩa là xóa đi những điều không hay trong năm cũ, thể hiện một sự khởi đầu, bắt đầu mới mẻ để sửa chữa những sai lầm, khôi phục những thất bát đã qua.
Người ta thường mua mua vôi vào cuối năm để quét lại nhà, tường cổng cho sạch sẽ, trắng tinh tươm, chuẩn bị đón năm mới. Ở nông thôn, nhiều gia định có quan niệm rằng rắc vôi bột ở 4 góc vườn rồi vẽ hướng ra phía cổng để xua đuổi ma quỷ.
Cũng có một cách giải thích khác cho rằng cuối năm phải mua vôi để tiếp vôi cho ông bình vôi.
Ông bình vôi là vật dụng đặc biệt để vôi ăn trầu bằng sành sứ chỉ các cụ có thói quen ăn trầu mới có. Và khi lấy vôi trong bình cũng phải hết sức thận trọng, bởi người xưa quan niệm khi dùng dao vôi để lấy vôi, nhất thiết không được ngoáy chìa vôi vào lòng ông vì nếu thế sẽ bị bệnh cồn cào ruột gan mà phải dùng chìa đưa thẳng rồi rút ra. Vì thế, miệng ông cứ mỗi ngày một đầy, thành vành khuyên, hôm trở trời tự lóc ra, người ta dùng dao khứa chân rồi đem xâu vào dây treo trước cửa để trừ tà.
Một khi ông bình vôi đã đặc ruột, người ta rước ông cùng xâu miệng lên chùa để dưới chân cây hương, dưới gốc mít, gốc đa. Lâu ngày lăn lóc, sương đọng vào bụng ông, gặp con sài đẹn, hay bị sơn ăn thì người ta lấy nước đó mà uống, mà bôi. Ai bị sâu răng thì mua ngọc trai tán nhỏ hòa vào nước này uống sẽ khỏi.
Ông bình vôi là vật thiêng trong nhà người xưa, do vậy lúc nào cũng phải cho ông ăn no, ăn đủ. Tuy nhiên do “Bạc như vôi” nên người ta chỉ cho ông ăn vào cuối năm chứ không ai cho ông ăn đầu năm vì vậy mới có tục “cuối năm mua vôi”.
Hiện nay, tục lệ này ngày nay ít có người quan tâm, đặc biệt là các bạn trẻ. Tuy nhiên, nhiều gia đình vẫn luôn giữ gìn những thói quen và tập tục đẹp đẽ đã có từ lâu đời của người Việt ta.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Bài viết của tác giả Phong Nguyên
Trong cuộc sống hàng ngày có thể nói vấn đề “sợ vợ” thường được đề cập tới, bất luận đối với giới nào. Vì vậy, trong lĩnh vực tử-vi, tôi cũng muốn nêu vấn đề này ra và mong sẽ ”mua vui” được cho quý bạn trong dịp tất niên, đồng thời tôi cũng xin cáo lỗi trước với bạn nào tình cờ nằm trong trường hợp điển hình mà tôi nêu ra dưới đây, vì sự trùng hợp rất dễ xảy ra trên phương diện lý thuyết tử-vi.
Tôi còn nhớ hồi mới học Tử-Vi, mỗi khi ông này, ông nọ hỏi tôi xem lá số có biết nổi thế nào là người chồng sợ vợ hay không?, thì tôi chỉ cần vài giây đồng hồ là khẳng định liền, một cách rất ư là tự tin, vì tôi cho rằng khía cạnh đó dễ ợt, cứ việc xem cung Thê có Hóa Quyền hoặc Tướng Ấn hay không hoặc “Thân” có cư Thê và có Thái âm tọa thủ hay không.v.v.v. Thật là đơn giản và rõ rệt như hai với hai là bốn. Và khổ một nỗi là rất nhiều lần trúng, nên tôi càng hãnh diện về sự hiểu biết tử-vi của mình, nhưng đôi ba lần bị sai trật hẳn mặc dầu giờ sinh trúng thì đâm ra ấm ức chẳng biết giải thích làm sao. Về sau tôi có gặp được vài vị cao thâm tử-vi chỉ dẫn khá kỹ càng về khía cạnh đoán “sợ vợ”, khiến cho tôi như bừng tình giấc mơ và cảm thấy hổ thẹn về khả năng tử-vi của mình. Bây giờ tôi xin cố gắng tổng hợp lại những điều đã học được cùng những kinh nghiệm riêng của tôi, để giúp quý bạn có một ý niệm chính xác hơn về vấn đề nêu trên, và tôi tạm chia bài này làm hai phần:
1- CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ TƯƠNG ĐỒNG
Trước hết tôi cần phải nói rằng, bao giờ ta cũng phải so sánh thật kỹ lưỡng và tỉ mỉ hai cung Mệnh và Thê, chứ không thể xét đơn thuần một cung Thê để xem có sự chênh lệch hay tương đồng. Trong mục này tôi bàn riêng về hai cung tương đồng, phần hai dành cho trường hợp hai cung chênh lệch.
Chắc quý bạn thắc mắc không biết làm sao phân biệt được tương đồng hay không vì các yếu tố tử-vi rất uyển chuyển chứ đâu có rõ rệt và cố định. Thực ra điểm này rất tương đối, nghĩa là quý bạn cứ tạm cho các sao cùng một nhóm đều tương đương với nhau hoặc nhóm này tương đương với nhóm khác. Tỷ dụ như Nhóm Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cùng có một “năng lực” như nhau hoặc nhóm Cự Nhật có thể sánh với Phủ Tướng.v.v.. Trường hợp cung Mệnh và cung Thê cùng Vô chính diệu thì các trung tinh và bàng tinh sẽ đóng vai trò chủ yếu mặc dầu chính tinh của cung xung chiếu vẫn gây ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp. Tỷ dụ như một cung có Khôi Việt, còn cung kia có Hóa Khoa, Thai Tọa thì tạm coi là tương đồng.
Khi nhận định được yếu tố tương đồng rồi ắt là ta có khái niệm về “cán cân lực lượng” của đôi bên nhưng đừng vội cho như thế là hai vợ chồng chẳng ai bắt nạt được ai vì còn cần xét thêm như sau:
– Nếu “hành” bản mạng (của chồng) tương hòa với chính tinh tại cung Thê thì không có sự lấn át với nhau, nhưng nếu khắc chính tinh hoặc được “hành” của chính tinh sinh thì người chồng trội hơn vợ. Còn trường hợp sinh chính tinh thì chồng phải “o bế” vợ khiến cho vợ làm tàng, nhưng không thua thiệt bằng trường hợp chính tinh khắc bản mạng.
– Sau khi xét đến “hành” sinh khắc phải để ý xem cung nào (Mệnh hoặc Thê) có nhiều sao phú và quyền quý hơn, nhất là khi các cung này vô chính diệu. Tỷ dụ như Mệnh có Tử-Sát hội Hóa Khoa trong khi cung Thê có Phủ Tướng (tức là tương đương với Tử-Sát) mà lại thêm Song Lộc, Long Phượng, Thai, Tọa thì người vợ cao sang, giàu có hơn chồng, hoặc xuất thân từ một gia đình quyền qúy hơn gia đình nhà chồng, như thế là có yếu tố lấn áp chồng. Đấy là tôi chưa kể đến sao Hóa Quyền là sao biểu lộ rõ rệt sự đàn áp (thuộc phần 2 bàn về sự chênh lệch mạnh mẽ mà tôi sẽ nói sau).
– Sau nữa phải lưu ý đến các sao tháo vát, thông minh, lanh lẹ dồn vào cung nào. Tỷ dụ như Khôi Việt, Xương, Khúc, Quang, Quý, Hồng, Hỷ đều hội chiếu vào cung Thê thì cung Mệnh phải chịu lép, dù cho chính tinh của hai cung tương đồng.
– Sau hết ta còn phải phối hợp với Đại hạn. Sở dĩ không xét đến Tiểu hạn là vì một năm chưa đủ để thay đổi phong độ của một người, chẳng lẽ năm trước ta đang sợ vợ mà năm sau lại dám bắt nạt vợ hay sao? Còn Đại hạn 10 năm là một giai đoạn có thể làm đảo lộn từ thể chất tinh thần một người. Do đó ta mới cần kết hợp với Đại hạn thật tốt và thật phù hợp với Mệnh tức là đời người đó “lên hương” mạnh khiến cho vợ phải kiêng nể, kính mến, nhưng nếu Đại hạn tuy tốt mà không phù hợp với mệnh lại “ăn khớp” với cung Thê thì đó là môi trường thuận lợi cho vợ lên mặt.
Ví dụ: Mệnh có Cự Nhật và cung Thê có Đồng âm mà gặp Đại hạn có Cơ Lương (Thìn-Tuất) hội Quyền Lộc thì chỉ lợi cho Thê vì Cơ Lương ưa nhóm Đồng âm hơn Cự Nhật và kéo theo cả Quyền Lộc. Do đó Đại hạn tuy tốt mà không phù hợp với Mệnh, thành ra vợ có cơ hội trội hơn chồng.
Qua những điểm phân tích trên đây, quý bạn hẳn nhận thấy rằng có nhiều người chẳng thấy gì là sợ vợ qua lá số của họ mà trên thực tế họ đúng là hạng “râu quặp”, đó chẳng qua là quý bạn không cân nhắc kỹ lưỡng mà thôi. Và ngay cả khi quý bạn kết hợp tỷ mỉ nhưng máy móc quá; cũng vấn có thể sai lầm. Ví dụ như khi thấy cung Thê có chính tinh tương đồng với cung Mệnh mà lại hội nhiều sao quyền quý, nếu bạn kết luận ngay là chồng sợ vợ cũng có trường hợp chẳng đúng; vì nếu có thêm các sao hiền thục như Tràng Sinh, Đế Vượng, Quan Phúc thì chừng đó người vợ tuy cao sang, quyền quý nhưng nhất mực phục tòng chồng, chẳng khi nào dám khinh khi chồng. Cái khó khăn là ở chỗ thêm bớt, kết hợp cho tinh vi và uyển chuyển.
Tuy nhiên, nói chung khi trúng vào mục 1 này, qúy bạn có thể nắm được yếu tố tiên khởi là không có sự lấn áp mạnh mẽ giữa hai bên. Do đó, sau khi “gia giảm” theo các tiêu chí mà tôi đã nêu ra ở trên, qúy bạn có thể kết luận là khía cạnh “sợ vợ” ngược lại chỉ là “nể nang” mà thôi nếu có thêm yếu tố chứng minh liên hệ.
2- CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ CHÊNH LỆCH
Phần này mới đích thực là phần quan trọng vì vấn đề sợ vợ hay không? sẽ nổi bật trong lá số, nhưng chính cũng vì thế mới dễ lầm và khó đoán. Tôi không muốn nói là luôn luôn phải đoán trái ngược lại, nhưng ta phải cận thận vì có trường hợp không ứng nghiệm chút nào. Về phần nguyên tắc cũng tương tự như phần 1, nhưng về phần thực hành khó hơn nhiều. Do đó tôi thấy cần đưa ra nhiều ví dụ điển hình để quý bạn giải đoán linh động và uyển chuyển hơn.
– Nếu bình thường Mệnh có Thiên Phủ gặp Tuần Triệt án ngữ mà cung Thê có Liêm Phá chẳng hạn thì phải nói rằng sự chênh lệch qúa rõ ràng, vì Thiên Phủ hiền lành bao nhiêu thì Liêm Phá dữ dằn bấy nhiêu. Do đó khi không có yếu tố gì khác chế hóa ta có thể kết luận là chồng sợ vợ tuyệt đối, chẳng cần có Hóa Quyền hay Tướng Ấn cư Thê. Nhưng nếu trong trường hợp này, Mệnh không bị Tuần Triệt án ngữ và lại có thêm Hóa Khoa, Xương Khúc, Tả, Hữu, Thai, Tọa, Song Lộc, Đào Hồng thì đừng vội kết tội người chồng sợ vợ, vì khi ấy người chồng hội đủ mọi “phương tiện” để bắt vợ vào khuôn phép một cách rất tinh vi, khoa học và tế nhị. Người vợ khi đó trái lại chỉ hùng hục làm việc tay chân cả ngày để phục vụ chồng vì Liêm-Phá đã chuyển hướng từ miệng la hét qua làm lụng bằng chân tay. Trường hợp này nếu cung Thê có thêm Tướng Ấn cũng chẳng sao, có khi còn tăng thêm hiệu lực quán xuyến nội trợ, để cho chồng được hưởng thụ mà thôi. Vì dù sao Thiên phủ cũng chủ về bề thế, thanh nhàn và hưởng thụ.
– Nếu Mệnh vô chính diệu (thường bị coi là yếu mềm nhu nhươc) và cung Thê có Tử-Sát chẳng hạn, lại hội thêm Tướng-Ấn, Hóa Khoa, Long Phượng, Hổ, Cái, Quang, Qúy, Lộc, Mã ai thấy mà chẳng đoán là vợ nắm quyền hoàn toàn, thế mà vẫn có trường hợp không ứng nghiệm; là vì khi cung Mệnh có Tang Hổ, Tả Hữu, Thai Tọa, Thanh Long, Mộc Dục chẳng hạn, thì cung Thê khi đó gần như bị vô hiệu hóa về khía cạnh bắt nạt chồng. Tại sao vậy?. Vì các sao Tang Hổ tuy chỉ là sao ưu tư phiền muộn theo nghĩa bình thường nhưng thực ra cũng chủ về uy lực tiềm tàng hoặc gián tiếp, chủ về óc cách mạng (canh tân, đổi mới …), quật cường, như thế đâu có chịu nhục nhã, kiềm chế. Thêm vào đó có bộ Thai Tọa còn chủ về tư cách, bề thế, chững chạc đâu có để cho tự ái bị va chạm mạnh mẽ. Ngoài ra, Thai Tọa còn chủ về thích an nhàn nên thường cho vợ quán xuyến mọi việc (ứng vào Tướng-Ấn) để mình lo việc khác có tính cách “đàn ông” hơn. Còn Thanh-Long hội Tả Hữu chủ về ăn nói khéo léo, lý luận vững vàng tháo vát xoay xở thì làm gì mà không thuyết phục nổi vợ khi vợ muốn lấn áp, nhất là khi có sao Mộc Dục hội với sao Thanh Long là cách “thừa vạn phái dĩ thanh quang” (nghĩa là có tiếng thơm) chứng tỏ được người đời thán phục, hàng xóm làng giềng khen ngợi, như thế không có lẽ lại “râu quặp” để mang tai mang tiếng nhục nhã?. Do đó bao nhiêu cái trội ở cung Thê chỉ là để phục vụ đắc lực cho chồng hưởng thụ thanh nhàn; nếu đôi khi những sao “hách” muốn hoạt động thì chừng đó người vợ chỉ lộ ra với người khác mà thôi.
– Thường thường ai cũng ngán cung Thê có Hóa Quyền, Tướng Ấn, Kình hoặc Đà vì như thế dễ bị vợ sai khiến, áp đảo dễ dàng, nhưng yếu tố này này cũng chưa hẳn tuyệt đối nếu cung Mệnh có những yếu tố chi phối nổi các sao đó, tỷ dụ như có Liêm Sát hội Khôi Việt, Tả Hữu, Thanh Long, Song Lộc thì những sao trên sẽ phục tùng hoàn toàn. Nhưng trong trường hợp này còn phải dựa thêm vào Đại hạn tốt cho cung Mệnh (như đã bàn ở phần 1) thì mới chắc ăn vì cung Thê có “lực lượng” quá hùng hậu không dễ gì áp đảo được mạnh mẽ.
– Trong một vài sách Tử-Vi có nêu ra trường hợp “Thân” cư Thê có Thái âm tọa thủ là sợ vợ. Nếu cứ áp dụng như thế rất dễ bị sai lầm vì tôi có xem nhiều lá số có trường hợp đó mà chẳng hề sợ vợ chút nào, trái lại còn được vợ chiều chuộng hết mình. Sở dĩ “công thức” trên không ứng nghiệm vì có những yếu tố khác chế hóa mạnh mẽ: Bình thường “Thân” cư Thê tức là phải nương nhờ vợ, nhất là khi có Thái âm tọa thủ (vì sao này chủ về vợ mà đóng đúng tại cung Thê thì không khác gì cá gặp nước, rồng gặp mây tha hồ thao túng, hoạt động), nhưng khi cung Thê có Quan, Phúc, Tràng Sinh, Đế Vượng, bộ Tứ Đức, Long Phượng, Quang Quý … thì người vợ khi đó nai lưng ra mà phục vụ chồng, yêu thương chồng, còn người chồng chỉ vui chơi suốt ngày, chẳng phải quan tâm đến chuyện sinh kế hằng ngày, nhất là khi cung Mệnh có những sao thành nhàn bề thế (như Thai Tọa, Hỷ Thần, Phong Cáo, Thai Phụ …) và cung Phúc Đức tốt có yếu tố thụ hưởng (như Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thanh Long … ). Rất có thể trước nhãn quan của thiên hạ người chồng trong trường hợp này bị coi là nhu nhược, hèn hạ vì ăn bám vợ nhưng thực sự thì không có vấn đề “sợ vợ”. Lẽ dĩ nhiên nếu cung Mệnh và Phúc đều xấu và cung Thê lại thêm Hóa Quyền, Kình, Đà chẳng hạn thì khi đó người chồng thực là bất hạnh vì hoàn toàn nô lệ vợ, có khi bị vợ coi như kẻ ăn người ở ….
– Những thí dụ trên đây cho thấy có yếu tố sợ vợ mà vẫn không ứng nghiệm vì đó là yếu tố “nổi” đã bị yếu tố “chìm” làm mất hiệu lực. Ngược lại cũng vậy, nhiều khi thấy cung Mệnh mạnh hơn cung Thê gấp bội mà vẫn chịu thua vợ. Tỷ dụ như Mệnh có Liêm-Tham (Tị hoặc Hợi) hội Hóa Quyền mà cung Thê có Thiên Phủ gặp Tuần thì đúng là chồng bắt nạt vợ tuyệt đối, nhưng khi cung Thê không bị Tuần án ngữ thì Thiên Phủ lấy lại được năng lực bình thường của một chính tinh “đầu đàn” đủ sức làm cho Liêm-Tham nể vì, nhất là khi có thêm Tả, Hữu, Xương, Khúc, Quang, Quý, Hình, Hổ, Song Lộc thì người chồng khó lòng mặt được, nếu có tức khí la hét được vài tiếng thì cũng chùn bước trước cách cư xử và thái độ khéo léo, tế nhị nhưng đầy uy nghi của người vợ. Thực tế, nếu quý bạn xét kỹ lưỡng các sao phụ trên thì thấy nguyên Song Lộc (cách của Lã Hậu) (Lã Hậu sinh năm Giáp Dần ngày 7 tháng 3 giờ Dần) cũng đủ quyền hành áp đảo người chồng, huống chi lại có thêm Tả Hữu, Xương Khúc, Quang Qúy là các sao khôn khéo, bặt thiệp cộng thêm Hình Hổ là các sao tăng cường hiệu lực của lời nói cũng như hành động, trong khi đó Liêm-Tham của của chồng chủ về “hữu dõng vô mưu” đâu có đủ sâu sắc mà đương đầu lại nổi.
Về phần hai này, nói chung phải luôn chấp nhận rằng ít khi có trường hợp ứng nghiệm trái ngược. Do đó qúy bạn cần hiểu là những thí dụ tôi nêu ra trên đây đều là ngoại lệ, và tôi mong qúy bạn không có người nào gặp trường hợp cung Thê hoặc cung Phu qúa trội để khỏi phải mất công tìm kiếm những yếu tố khác chế hóa đi.
Tôi ước mong bài trên đây có thể giúp được quý bạn phái nam nhận ra được phần nào năng lực của mình đối với người bạn đời để liệu cách “đối phó” hoặc điều chỉnh cách sống làm sao cho gia đình được êm ấm thuận hòa. Còn đối với quý bạn phái nữ, tôi chắc quý bạn sẽ sáng suốt hơn khi nhận định về người chồng của mình và sẽ không tìm cách bắt nạt hoặc lấn quyền một cách bừa bãi và mù quáng để hạnh phúc lứa đôi khỏi bị xáo trộn./.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Đầu xuân năm mới, ngoài việc lì xì cho nhau để mang lại may mắn thì những lời nói, những câu chúc tết là không thể thiếu. Những câu chúc tết hay còn được nhiều người sử dụng, xem đó là lời chúc là mong muốn mà mọi người gửi gắm đến nhau.
Những lời chúc tết hay, những câu chúc tết hay nhất và ý nghĩa nhất dành cho người thân, bạn bè khi xuân Đinh Dậu 2017 sắp tới đã được ## tổng hợp tại đây. Các bạn hãy lưu lại để chúc bạn bè người thân mình nhé.


.jpg)

Xem thêm: Những bài thơ chúc Tết cho các bé
Trên đây là tuyển tập những câu chúc tết hay nhất cho năm 2017 mà Phong thủy số đã tổng hợp được. Nếu bạn đọc có những bài thơ chúc Tết hay có thể chia sẻ tới hòm thư hoặc Fanpage của Phongthuyso.vn
: Tết 2017 Những bài thơ chúc tết hay Những câu chúc tết hay Thơ chúc xuân hay Thơ chúcTết người yêu Những lời chúc năm mới hay
Tivi là đồ dùng không thể thiếu trong mỗi gia đình. Tuy nhiên, khi bày đặt tivi trong nhà, bạn cần lưu ý 1 số điểm sau:
1. Nên đặt tivi ở nơi thoáng mát
Mức tản nhiệt của tivi tỉ lệ thuận với độ lớn của màn hình. Sự tích tụ lượng nhiệt sẽ ảnh hưởng đến sự lưu thông của khí, ảnh hưởng đến phong thủy của ngôi nhà. Do đó, nên đặt tivi ở nơi thoáng mát, thuận lợi cho việc tản nhiệt.
|
|
| Lưu ý khi đặt tivi trong nhà |
4. Chú ý khi đặt tivi trong phòng ngủ
Cần chú ý tới mệnh tuổi của chủ nhân. Trường hợp là mệnh Thổ được Hỏa tương sinh thì tốt. Nếu bản mệnh đã là Hỏa lại thêm Hỏa của tivi thì sẽ trở nên quá vượng, bất lợi.
Tuy nhiên, nhìn chung việc đặt tivi trong phòng ngủ là không tốt. Diện tích phòng ngủ thường không lớn, bức xạ, từ trường của tivi sẽ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của bạn.
Ngoài ra, khi màn hình tivi hướng về phía người nằm ngủ trong thời gian dài sẽ gây bất lợi tương tự như ảnh hưởng của gương khi đặt đối diện với giường ngủ. Nó không chỉ khiến tâm tình bất an mà còn có thể dẫn đến đào hoa sát - rắc rối trong chuyện tình cảm với người khác giới. Giải pháp cho trường hợp này là sử dụng tấm vải che màn hình tivi.
5. Chú ý bức tường phía sau tivi
- Màu sắc bức tường nên kết hợp với mệnh tuổi chủ nhân.
- Tránh đặt tivi trước bức tường góc cạnh; tránh tường bị phân cắt; tránh đặt tivi trước cửa sổ hay ô cửa.
6. Chú ý tới tủ tivi
Việc chọn chất liệu và màu sắc của tủ nên dựa vào mối tương quan ngũ hành với mệnh tuổi của chủ nhân.
Nếu bạn thích bày đặt các đồ vật trang trí nhỏ trên tủ tivi, cần chú ý 1 số điểm sau:
- Tránh đặt đồ chơi vì có thể thu hút sự tò mò của trẻ, không an toàn khi trẻ với tay lấy đồ.
- Nếu đặt biểu tượng con giáp thì tránh tương xung với con giáp cầm tinh tuổi mình. Ví dụ, người tuổi Tý thì tránh đặt hình con ngựa vì Tý - Ngọ tương xung.
- Bài trí thực vật có thể giúp tăng sinh khí và có tác dụng hóa sát. Nên đặt cây xanh lá sẽ rất tốt nhưng tránh đặt các loại cây hoa có gai như xương rồng hay hoa hồng...
6. Tránh mở tivi quá to
Khi mức âm lượng phát ra từ tivi quá lớn sẽ phạm vào "thanh sát" trong phong thủy, ảnh hưởng tới vận thế của người trong nhà.
Nếu tình trạng kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tâm lý, tình cảm, thính lực có thể bị giảm sút.
(Theo Ccd.com)
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Lạm dụng phong thủy sẽ gây ảnh hưởng xấu. Hiện nay, phong thủy trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Ngày càng có nhiều người hiểu rằng khi gia đình và công việc không thuận lợi, bất hòa thì có thể tạo ra những điều không may mắn đến các mối quan hệ cũng như sự nghiệp. Chúng ta thừa hiểu rằng năng lượng là một yếu tố thực. Chúng chuyển động bên trong cơ thể của chúng ta, trong các ngôi nhà và cả vũ trụ.
Vì thế, không có gì là ngạc nhiên khi năng lượng cũng có mặt lợi và mặt hại. Bởi năng lượng không phải là một thứ gì đó để “chơi” mà không cần quan tâm đến kết quả. Thực tế thì có rất nhiều yếu tố phong thủy bị hiểu sai và vận dụng sai gây ra những tác hại không mong muốn. Kiểm tra lại ngôi nhà của bạn để xem nó có phạm phải một trong những sai lầm sau đây không. Một điều tuyệt vời về phong thủy bạn nên biết, đó là bạn dễ dàng sửa chữa những sai lầm phong thủy một khi hiểu rõ về nó.
SAI LẦM 1
Treo một chiếc gương đối diện với cửa ra vào để mang lại năng lượng tốt Điều này có thể gây ra sự suy giảm về tài chính và các cơ hội kinh doanh liên quan. Cho dù là văn phòng hay nhà ở, một chiếc gương treo ở phía đối diện với cửa ra vào sẽ đẩy năng lượng ra ngoài. Về cơ bản là chặn đứng nguồn năng lượng đi vào nhà khi gặp chiếc gương. Bởi vì cửa ra vào là miệng của các chi, nhà ở hoặc văn phòng sẽ trở nên “nghèo đói” hoặc cạn kiệt năng lượng. Do đó, không nên treo một chiếc gương đối diện cửa ra vào. Gương treo đối diện cửa ra vào thực chất là đẩy năng lượng
SAI LẦM 2
Sơn cửa ra vào màu đỏ. Đỏ là một màu sắc mạnh mẽ, và nó có thể gây ra ảnh hưởng không tốt, thậm chí là thiệt hại nặng nề đối với một số không gian. Điều này đặc biệt đúng với cánh cửa ở hướng Tây Bắc. Hướng Tây Bắc có mối liên hệ trực tiếp với bầu trời, tượng trưng cho người cha hoặc người đàn ông trụ cột của gia đình. Vì vậy, góc này không nên có các ngọn lửa hoặc màu đỏ. Nếu làm như vậy tức là tạo ra “ngọn lửa trên bầu trời”, có thể khiến người cha hoặc người đàn ông trụ cột gặp phải tai nạn nghiêm trọng, bệnh tật, phá sản, mất việc làm. Nếu cửa ra vào ở hướng Tây (tượng trưng cho trẻ em) hoặc hướng Tây Bắc (tượng trưng cho người cha/người đàn ông) thì bạn nên sơn cửa màu trắng, xám, vàng hoặc màu be.
SAI LẦM 3
Treo một tấm gương phía sau bếp Bếp nấu là một phần của yếu tố Hỏa và khi có quá nhiều lửa thì nó sẽ thiêu rụi ngôi nhà. Sai lầm này xuất phát từ việc vị trí đặt bếp nấu khiến bạn không thể quan sát phía sau lưng, không biết được mọi người đang làm gì, ra vào như thế nào sau lưng mình. Cũng có một số ý kiến cho rằng việc đặt gương sau bếp nấu sẽ tăng gấp đôi sự giàu có của bạn vì gương nhân đôi số thức ăn bạn nấu trên bếp. Sự thật thì việc khuếch đại năng lượng của lửa quá mức là rất có hại. Treo gương đối diện bàn ăn tăng sự sung túc, dư dả. Nếu bạn muốn tăng sự sung túc, dư dả bằng cách sử dụng gương, tốt nhất bạn nên treo nó ở phòng ăn hoặc khu vực bố trí bàn ăn. Thức ăn bày trên bàn được nhân đôi tốt hơn là những ngọn lửa trên bếp. Một điều bạn nên lưu tâm là đối với hai yêu tốt nước và lửa thì cần sử dụng một cách điều độ, đúng và đủ.
SAI LẦM 4
Sử dụng gương bát quái hoặc gương phong thủy để đẩy năng lượng tiêu cực đi. Gương bát quái thường được sử dụng để xua đuổi năng lượng tiêu cực, tạo ra một ngã ba ở cửa ra vào hoặc ngôi nhà hoặc chống lại năng lượng xấu đến từ các hướng không mong muốn.
Những chiếc gương này sử dụng bát quái âm, phát ra nguồn năng lượng rất mạnh và có hại nên không được tùy tiện sử dụng. Bạn chỉ nên sử dụng gương bát quái nếu gặp trường hợp bất khả kháng và phải có lời khuyên của người am hiểu về phong thủy hoặc người tư vấn phong thủy. Gương bát quái không nên sử dụng tùy tiện
SAI LẦM 5
Mang cây xanh và nước vào trong phòng ngủ Theo phong thủy, cây xanh và nước cần được sử dụng một cách hợp lý. Để cây xanh trong phòng ngủ sẽ gây hao tổn sức lực cho chủ nhân của căn phòng khi ngủ vì ban đêm cây nhả khí CO2. Đối với phòng ngủ của vợ chồng thì cây xanh còn làm giảm đi sự lãng mạng và tình yêu giữa hai người.
Về phần nước, nếu nước chuyển động (tiểu cảnh) sẽ gây ra sự thất thoát tiền bạc, các vấn đề về hô hấp, bệnh xoang, sự trầm cảm hoặc trạng trái tinh thần mê man cho người ở trong căn phòng đó. Tránh để cây xanh và hoa cảnh, trừ khi một ai đó bị bệnh và không bao giờ mang nước vào trong phòng ngủ. Trong phòng ngủ của trẻ nhỏ, các bức tranh hoặc giấy dán tường có họa tiết về cảnh biển hoặc đại dương có thể gây ra bệnh tật và thiếu sáng kiến cho trẻ.
SAI LẦM 6
Treo pha lê trên cửa ra vào và cửa sổ Treo pha lê trên cửa ra vào hoặc cửa sổ được cho là lưu chuyển năng lượng nhưng thực chất là ngăn chặn dòng chảy năng lượng bên trong ngôi nhà. Pha lê mang năng lượng của đất. Khi treo chúng lên một ô cửa thì nó mất đi ý nghĩa vốn có. Nó khiến cho người sống trong ngôi nhà đó thiếu tính quyết đoán, khó tiến về phía trước, sống lộn xộn và gặp các vấn đề về chuyển hóa như tăng cân. Nếu bạn chỉ treo một viên pha lê trên một ô cửa sổ nhất định thì nó lại trở thành một biểu tượng. Cần phân biệt rõ việc treo chúng trên một hoặc hai cửa sổ trong nhà để đón ánh nắng là điều tốt. Nhưng treo pha lê ở tất cả các ô cửa trong nhà lại trở thành không tốt.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 60 được xây dựng trên điển cố: Xích Bích ao binh – hay Đại chiến Xích Bích.
Quẻ hạ thuộc cung Dần. Ý quẻ nói cho dù có nhiều lựa chọn tốt đi chăng nữa thì cũng không bằng hãy giữ nguyên tình hình như hiện tại, nếu không, khi có biến đổi, e rằng mọi chuyện không tốt lại ập đến. Điều này chẳng khác như việc ôm củi đi cứu hỏa vậy.
Thử quái bão tân cứu hỏa chi tượng. Phàm sự diệc tự cẩn phòng dã.
Thời kỳ Tam Quốc mới phân chia, vào năm Kiến An thứ 13 đời vua Hán Hiến Đế, Tôn Quyền và Lưu Bị liên quân đánh bại quân Tào ở dải Xích Bích trên sông Trường Giang, từ đó mà định ra được cục diện chân vạc của ba nước, lịch sử gọi đây là đại chiến Xích Bích.
Sau khi Tào Tháo đã cơ bản thống nhất được phương bắc, vào tháng bảy năm Kiến An thứ 13 (năm 208), dẫn hơn mười vạn quân, tiến về Kinh Châu ở phía nam, muốn thống nhất nam bắc. Lúc này Tôn Quyền đã thống lĩnh quân đội từ Giang Đông đánh thắng Hạ Khẩu (nay là thành phố Vũ Hán), mở được cánh cửa đi vào Kinh Châu ở phía tây, đang chờ thời cơ thôn tính hai châu Kinh và Ích, rồi tiếp tục phát triển về hướng bắc.
Lưu Bị lúc này đang dựa dẫm vào Lưu Biểu là quan Mục ở Kinh Châu, nhờ những mưu tính của Gia Cát Lượng, đã định ra sách lược chiếm lĩnh Kinh Châu và Ích Châu, liên hợp với Tôn Quyền, tiến đến chiếm Trung Nguyên.
Quân Tào có những nhược điểm như quân đội mệt mỏi phải đi xa, khí hậu không thích hợp, không giỏi thủy chiến, đã làm chắc chắn thêm quyết tâm chống Tào của Tôn Quyền.
Tôn Quyền phong Chu Du làm Đại đô đốc, Trình Tấn làm Phó đô đốc, Lỗ Tiêu làm Tán quân hiệu úy, dẫn ba vạn thủy binh tinh nhuệ, hợp quân với Lưu Bị, tổng cộng khoảng năm vạn quân, ngược sông đi lên, đến đóng quân ở Hạ Khẩu.
Sau khi Tào Tháo tấn công chiếm được Giang Lăng, cho đại tướng Văn Sính của Lưu Biểu làm Thái thú Giang Hạ, nhưng vẫn thống lĩnh thủy binh của mình, trấn thủ ở Hán Châu. Quan Mục ở Ích Châu là Lưu Chương cũng điều binh gia nhập quân của Tào Tháo, bắt đầu cống nạp cho triều đình. Tào Tháo lại càng kiêu ngạo khinh địch, không nghe lời khuyên tạm hoãn việc xuống phía đông của Giả Hủ, lại gửi thư đe dọa Tôn Quyền, lớn tiếng muốn quyết chiến ở đất Ngô. Mùa đông năm Kiến An thứ 13, Tào Tháo đích thân thống lĩnh quân đội, quân thủy quân bộ cùng tiến.
Liên quân Tôn – Lưu ngược sông đón đánh quân Tào, gặp nhau ở Xích Bích. Quân bộ quân thủy của Tào đối diện với sông lớn đã mất hết uy thế, quân thủy mới được tổ chức lại cùng với quân của Kinh Châu mới sáp nhập vào, sức chiến đấu kém, lại thêm bệnh dịch hoành hành, dẫn đến vừa đánh đã thua, vội vàng lui về bờ phía bắc, đóng quân ở Ô Lâm, đối diện với liên quân qua con sông.
Để giảm bớt việc thuyền bè bị sóng gió làm chao đảo, có lợi cho quân phương bắc vốn không quen sông nước, Tào Tháo hạ lệnh xích liền các chiến thuyền với nhau, chờ cơ hội tấn công quân địch. Chu Du thấy quân địch đông mà quân mình ít, nếu để lâu sẽ bất lợi, nên quyết tâm tìm cơ hội tốc chiến. Bộ tướng là Hoàng Cái nhằm vào nhược điểm của quân Tào là chiến thuyền liên hoàn, kiến nghị sử dụng hỏa công và được chấp nhận.
Nhưng suốt mấy ngày liền, trên sông đều nổi gió tây bắc, dùng hỏa công không chỉ không thiêu cháy được quân Tào ở bờ phía bắc, mà ngược lại sẽ tự thiêu mình. Chu Du vì thế mà buôn rầu không vui, đến nỗi mắc bệnh nằm liệt giường. Gia Cát Lượng biết được, liền đưa ra phương thuốc cho Chu Du: “Muốn phá quân Tào, phải dùng hỏa công; chuẩn bị đã đủ, chỉ thiếu gió đông”. Chu Du bèn hỏi Gia Cát Lượng có biện pháp gì không. Gia Cát Lượng nói rằng, mình có thể mượn gió đông đến. Ông nhờ Chu Du đắp cho một đàn Thất tinh cao chín thước, rồi bước lên đàn làm phép.
Mấy ngày sau, quả nhiên có gió đông nam nổi lên.
Hoàng Cái thi hành “khổ nhục kế”, gửi thư cho Tào Tháo giả đầu hàng, sau đó mang theo mấy chục chiến thuyền xuất phát, những thuyền phía trước chứa đầy củi cỏ khô đã được tẩm dầu, dùng vải che lại, cắm cờ hiệu để ước định với Tào Tháo; lại buộc thêm con thuyền nhỏ và nhẹ ở phía sau thuyền, thuận theo gió đông nam lái thuyền về phía Ô Lâm. Quân Tào trang bị lỏng lẻo tranh nhau ra nhìn. Khi đến gần bờ, Hoàng Cái hạ lệnh châm lửa đốt củi cỏ khô, rồi chuyển xuống thuyền nhỏ lui quân. Con thuyền rừng rực lửa theo gió lao vào đoàn thuyền của quân Tào, đoàn thuyền của quân Tào phút chốc đã trở thành một biển lửa, nhanh chóng lan đến doanh trại đóng ở ven bờ. Liên quân Tôn Lưu thừa thế tấn công, quân Tào thương vong vô số. Tào Tháo biết rằng không còn cứu vãn được cục diện thất bại, liền hạ lệnh thiêu hủy những chiến thuyền còn lại, dẫn quân thoái lui, đi đường tắt đến Giang Lăng, chạy qua đạo Hoa Dung trốn thoát.
Đây là điển cố thứ Mười lăm trong quẻ Quan Âm, mang tên Tô Tần Đắc Chí (còn gọi là Tô Tần Thỏa Chí). Quẻ Quan Âm Tô Tần Đắc Chí có bắt nguồn như sau:
Sau khi Tô Tần theo Quỷ Cốc Tử học hành thành tựu, rất muốn gặp thiên tử nhà Chu, nhưng không có đường tiến cử. Trong lúc nóng giận, ông đã bán hết gia sản, đến các nước chư hầu tìm đường tiến thân. Nhưng Tô Tần đi khắp đông tây ròng rã mấy năm, cũng không được trọng dụng. Tiền bạc đã hết, quần áo rách nát, đành phải trở về nhà.Vợ của Tô Tần ngồi trước khung cửi, không thèm nhìn đến Tô Tần. Tô Tần xin chị dâu làm cơm cho mình, chị dâu cũng làm như không nghe, quay người bỏ đi.
Tô Tần phải chịu sự đả kích nặng nề, càng quyết tâm dùi mài sách vở, ngày ngày nghiền ngẫm sách “Âm phù” cho đến đêm khuya. Có khi đọc sách đến nửa đêm, vừa mệt vừa buồn ngủ, bèn lấy dùi tự đâm vào đùi, để thấy đau mà tỉnh táo trở lại. Khổ công như thế trong suốt hơn một năm trời, kiến thức của Tô Tần đã càng thêm sâu sắc.
Tô Tần lại tiếp tục lên đường, đầu tiên ông đến nước Tần, nhưng vẫn không được trọng dụng. Vừa đúng lúc Yên Chiêu Vương chiêu mộ hiền tài trong thiên hạ, nên Tô Tần đến nước Yên, nhanh chóng được Yên Chiêu Vương tín nhiệm. Tô Tần cho rằng, nước Yên muốn báo mối thù với nước Tề lớn mạnh, thì trước tiên phải thể hiện sự khuất phục đối với nước Tề, để che đậy ý muốn báo thù, nhằm có đủ thời gian cần thiết chấn hưng nước Yên. Sau đó, phải khích lệ nước Tề không ngừng tiến công các nước khác, nhằm đề phòng Tề tấn công Yên, đồng thời làm tiêu hao lực lượng của nước Tề. Vì thế, Tô Tần khuyên nước Tề đánh nước Tống, hợp tung để đánh Tần.
Năm 285 trước Công nguyên, Tô Tần đến nước Tề, công kích mối quan hệ giữa hai nước Tề và Triệu, được Tề Man Vương tín nhiệm, phong làm tướng nước Tề. Nhưng ông vẫn ngầm bàn mưu kế với nước Yên. Tề Man Vương không biết chân tướng sự việc, vẫn lệnh cho Tồ Tần chỉ huy binh sĩ chống lại quân đội nước Yên. Khi quân đội hai nước Tề, Yên giao chiến, Tô Tần cố ý làm cho quân nước Tề thất bại, tốn thất đến năm vạn người. Do đó, quần thần nước Tề bất hòa, dân chúng hoang mang, tạo điều kiện cho liên quân năm nước của Nhạc Nghị công phá nước Tề.
Sau đó, Tô Tần lại thuyết phục được nước Triệu liến kết với các nước Hàn, Ngụy, Tề, sở, Yên tấn công nước Tần. Vua nước Triệu rất vui mừng, ban thưởng cho Tô Tần rất nhiều báu vật. Được sự giúp đỡ của nước Triệu, Tô Tần lại đến nước Hàn, thuyết phục Hàn Tuyên Vương; đến nước Ngụy, thuyết phục Ngụy Tương Vương; đến nước Tề, thuyết phục Tề Tuyên Vương; rồi lại đến nước sở, thuyết phục sở Uy Vương. Các nước chư hầu đều tán đồng mưu sách của Tô Tần, vì thế sáu nước thực hiện hiệp ước hợp tung. Tô Tần làm Tung ước trưởng, được phong tướng sáu nước. Sau khi về đến nước Triệu, Triệu Vương phong cho Tô Tần làm Vũ An Quân. Nước Tần nhận được tin này, vô cùng lo sợ. Trong suốt mười lăm năm sau đó, quân đội nước Tần không dám đưa quân tấn công đến cửa Hàm Cốc.
Khi Tô Tần đã thanh danh hiển hách, vàng bạc muôn nghìn, tùy tùng ngựa xe đông đảo, các nước chư hầu ở phía đông Hoa Sơn đều theo nhau khuất phục. Tô Tần vổn chẳng qua chỉ là một kẻ sĩ cơ hàn xuất thân từ nơi nghèo khổ, nhưng cuối cùng đã được lên xe xuống ngựa, tung hoành thiên hạ, vào triều du thuyết vua chư hầu, uy thể lấn lướt các quan đại thần tả hữu, thiên hạ không ai có thể sánh được với ông.
Sở dĩ Tô Tần có được thành quả như vậy, là do ông đã không nản lòng trước thất bại, kiên định ý chí không chịu khuất phục, cuối cùng đã đạt được đến đỉnh cao danh vọng.
Kiểu dáng tốt nhất của ngôi nhà phải vuông thành sắc cạnh, không nên quá dài hoặc quá ngắn, đặc biệt không nên thiết kế các góc khuyết hoặc bài trí không tuân theo các quy tắc nhất định.

– Ngôi nhà bị khuyết một góc ở phía Tây Bắc, chủ nhà sẽ gặp khó khăn trong sự nghiệp.
– Ngôi nhà bị khuyết một góc ở phía Đông Bắc, gia đình làm ăn không phát đạt.
– Ngôi nhà bị khuyết một góc ở phía Tây Nam, chủ nhà có thể gặp bất hạnh về hôn nhân hoặc đường con cái.
– Ngôi nhà bị khuyết một góc ở phía Đông Nam, chủ nhà thường gặp nhiều thất bại trong cuộc sống, dương khí của ngôi nhà bị suy giảm.
Theo cách lý giải của khoa học hiện đại, nếu nhà bị khuyết một góc hoặc có hình dạng không bình thường sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến tâm lý và thị giác của những người sống trong ngôi nhà.
Điều này còn làm mất cân bằng dòng sát khí trong ngôi nhà, từ đó ảnh hưởng đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình.
– Ngoài ra nhà khuyết góc Đông: ảnh hưởng không tốt đến con trai cả. Nên trồng hoa hoặc treo đôi uyên ưong, hoặc viết chữ “Chấn” ở đó. Ngoài ra, có thể nuôi thỏ hoặc treo thỏ ngọc ở đây cũng rất linh nghiệm.
– Nhà khuyết góc phía Nam: ảnh hưởng không tốt đến con gái thứ. Nên đặt ngựa đá hoặc đồ choi màu đỏ vào đó để hóa giải.
– Nhà khuyết góc Tây: ảnh hưởng xấu tới con gái út. Hãy đặt vào đó một con gà đồng để hóa giải.
– Nhà khuyết góc Bắc: ảnh hưởng xấu đến con trai giữa. Nên xây bể cá cảnh hoặc treo tranh “Chung Quỳ chiêu phúc” để hóa giải.
1. Đường tâm đạo dài, thẳng, trơn tru
Đây là dấu hiệu điển hình của những cô nàng có số "vượng phu" - không những lấy được chồng giàu, mà cuộc sống hôn nhân cũng rất hạnh phúc, viên mãn.
2. Dưới đường tâm đạo có hình chữ thập
Hình chữ thập đại diện cho tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc. Nếu có hình chữ thập ngay dưới đường tâm đạo, bạn dễ có được cuộc sống gia đình hạnh phúc viên mãn, cuộc sống giàu sang, phú quý, không bao giờ phải lo lắng về các vấn đề tiền bạc, vật chất.
![]() |
3. Trên ngón tay có vân tiền tài
Vân tiền tài nhỏ, mảnh, nằm ở giữa ngón út và ngón vô danh. Những người có vân tiền tài thường lấy được chồng đại gia, tài sản kếch xù, cuộc sống giàu sang phú quý, không phải lo nghĩ gì chuyện tiền nong.
4. Lòng bàn tay sáng mịn và hồng hào
Những người có lòng bàn tay sáng mịn, hồng hào thường tính cách tốt bụng, nhiệt tình. Mọi chuyện xảy ra với họ đều thuận buồm xuôi gió, dữ hóa lành... Không những thế, họ còn dễ lấy được người chồng vừa có tài lại có đức - lúc nào cũng yêu chiều, chăm sóc, cuộc sống trôi qua yên bình, nhẹ nhàng.
5. Lòng bàn tay có nốt ruồi
Nốt ruồi trong lòng bàn tay là đại diện cho sự thông minh và tài lộc - cuộc sống an nhàn, dễ lấy chồng giàu sang, môn đăng hộ đối.
Mi Na (theo D1xz)
![]() |
Con không hiếu thuận với cha mẹ vì 7 lỗi phong thủy![]() |
| ► Bói tử vi trọn đời của bạn chuẩn xác theo khoa học tử vi |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)

Nếu bố trí đúng, cây và nước sẽ mang lại may mắn cho gia chủ. Ảnh minh họa
Hiện nay, xu hướng chung là mọi người đều mong muốn được gần gũi với thiên nhiên. Ai cũng đều muốn tìm cho mình sự nhẹ nhàng, thanh thoát sau những áp lực của cuộc sống. Ðiều này tạo nên trào lưu tạo sân vườn trong khuôn viên nhà mình.
Tại các ngôi nhà hiện đại, những khu vườn nước ngày càng được ưa chuộng. Một góc vườn, tại cầu thang hay góc nhà… đều có thể được tận dụng để đem lại màu xanh, tạo không gian thư giãn tinh tế cho ngôi nhà. Ngôi nhà rộng thì gia chủ có thể có cả một khu thủy tạ, nếu nhà hẹp, gia chủ cũng chỉ cần một góc sân là đủ.
Bể cá, hồ nước hay non bộ trước nhà còn là điểm tụ thủy và các tiểu cảnh đang rất được ưa dùng trong nhà và sân vườn. Cây bonsai, non bộ thường được sắp xếp tuân thủ theo các thế truyền thống (Tam Ða, Tứ linh, Ngũ hành, Phụ Tử). Đây không chỉ đơn thuần la yếu tố giải trí mà chính là biểu tượng vũ trụ quan thu nhỏ của triết học đông phương. Nước trong non bộ nên bố trí nước động để giúp kích hoạt nguồn khí. Tùy theo đặc thù, chủ đề non bộ hay tính cách giá chủ mà nước này có thể chảy róc rách, thác đổ hay bể tràn.
Ðối với chung cư hay nhà phố, diện tích và các khoảng trống trong nhà thường không đủ để làm am nước và trồng cây lớn, hơn nữa việc đặt non bộ trong nhà còn gây ra ẩm thấp. Vì vậy, gia chủ chỉ nên dùng bể cá có cây tiểu cảnh loại nhỏ.
Quan niệm của ngũ hành là “Thủy sinh Mộc”, cây cối không thể sống và phát triển tốt nếu thiếu nguồn nước. Vì vậy, khi bố trí cây xanh cho dương trạch, cần coi mặt nước và cây xanh là hai yếu tố không thể tách rời. Hai yếu tố này bổ sung, tương hỗ cho nhau. Cây là dương, đón nhận ánh sáng gọi là dương quang và hút nước từ đất (âm thủy). Vì vậy, nhìn cây xem mạch đất chính là nhờ sự liên hệ Thủy Mộc tương sinh.
Đối với nhà ở truyền thống, bố cục cây xanh – mặt nước – công trình theo phong thủy là bố trí hồ nước hoặc ao sen nằm ở phái Nam khu đất tính từ cổng vào sân trước, tức là bố trí ở đầu hướng gió mát để đưa hơi nước lan tỏa trong sân nhà.
(Theo CafeLand)
![]() |
![]() |
![]() |
Nguồn thu nhập chính và phụ của 3 con giáp này đều tăng mạnh trong tháng 3