Mượn tuổi xây, sửa làm nhà (văn phòng) đúng hay sai?
Trong thực tế, khi thực hành phong thuỷ chúng tôi hay được hỏi: “Nếu không được tuổi làm nhà, mình có thể nhờ người khác làm giúp được không?”. Và chúng tôi biết rằng trong dân gian đang tồn tại một vấn đề xem ngày xây, sửa nhà (văn phòng) nếu nghe nói tuổi không hợp, hay bị này bị khác (như tam tai, hoang ốc, kim lâu,...) không thể đứng ra làm nhà (văn phòng) được, mà mượn người khác đứng giúp, còn có người được mách giúp là làm giấy tờ chuyển tên rồi sau khi xong chuyển lại về chính chủ cho được an toàn thêm.
Thật sự, vấn đề này rất phức tạp, bởi mỗi người một ý, một niềm tin, chúng tôi không có ý phản bác các quan niệm đã và đang tồn tại đến ngày nay, và chúng tôi hiểu rằng có rất nhiều lý luận của nhiều trường phái khác nhau nên sẽ có rất nhiều tạp sát, vì thế, rất khó để thảo luận, tranh luận để đi đến thống nhất. Nhưng qua bài viết này, chúng tôi muốn đưa ra ý kiến và hiểu biết của chúng tôi về vấn đề này nhằm giúp bạn đọc có thêm một cách nhìn nhận mới cho quan niệm “Mượn tuổi xây, sửa làm nhà (văn phòng)”. Chúng tôi sẽ đặt lại vấn đề: “Chủ” và “Khách”. Thí nghiệm đơn giản dưới đây để các bạn dễ hiểu, dễ hình dung trước khi mình vào đề tài chính: Bạn muốn đến nhà người khác, bạn phải làm gì? Đương nhiên là bạn phải liên lạc trước để hỏi người chủ nhà (người nhà) có nhà hay không để đến và họ có đồng ý cho mình đến hay không nữa. Đúng không các bạn. Vậy “Chủ” ở đây là “Chủ nhà /hoặc người ở trong nhà mình định đến”, còn bạn là “Khách". Đúng không các bạn. Chúng tôi giả định: bạn xem ngày hôm đó là tốt cho bạn, giờ đó là tốt cho bạn nên bạn đến, chúng tôi cho bạn là người thần thông là bạn biết cả cách dự đoán “yết kiến” của kỳ môn độn giáp, hoặc kinh dịch,v.v… tức là bạn không cần hỏi chủ nhà trước mà đến thẳng là gặp được. Dù có gặp hay không gặp thì giữa trật tự “Chủ” và “Khách” vẫn không thay đổi, bạn vẫn là “Khách” đúng không các bạn. Nhưng bạn có biết việc mình đến bất ngờ như vậy “Chủ” có thoải mái, vui vẻ hay không để tiếp đón mình, hay họ trong giờ cơm, họ đang có việc nhà cần làm, xấu nhất là gia đình đang có người bệnh, nhà đang cơm không lành,..v.v…Đó là chính bạn là người quen với “Chủ” đi đến đó nhé, chứ không phải bạn nhờ ai đi đến thay bạn. Bạn không đến được, bạn nhờ người khác đi giúp, thì cái hoàn cảnh vừa nói trên người đi thay bạn (cũng là “Khách”), cũng được nhận lãnh như vậy thôi, nếu tốt thì được tốt, nếu xấu thì được xấu. Điều đó có nghĩa là “tốt” hay “xấu” là chính ở người “Chủ”, đúng không các bạn. Vậy phải rút kinh nghiệm, trước khi đi “yết kiến” xem mình “Khách” tốt hay xấu rồi, thì phải xem luôn “Chủ”, tốt hay xấu, có nhà hay không nữa nhé để mình đi, rồi khi đó mình đi hay nhờ ai đi cũng được, khỏi phải mất lòng. Để giản tiện, để khỏi mất thời gian, không cần xem “Khách” tức là mình, chỉ cần xem “Chủ”, họ có nhà hay không, họ vui tươi, thoải mái, nồng hậu mình đến. Khi đó ai đến cũng được, nhưng đặc biệt lưu ý khi đi đừng mang kẻ thù của “Chủ” đến nhé, nói vui là nếu “chủ” là “con nợ” của bạn thì đương nhiên là không hay rồi (được cái là bạn gặp được con nợ trong tình hình vui vẻ, khả năng trả nợ cao!). Chúng ta kết luận được rằng, việc xem ngày, giờ tốt thì phải xem cho đối tượng chính tức “Chủ” hay “chủ thể” mới quan trọng, còn việc xem cho mình “Khách” chỉ mang giá trị tham khảo, chấm hết. Chúng ta trở lại vấn đề chính “Mượn tuổi xây, sửa nhà đúng hay sai?” Cũng theo nguyên tắc của thí nghiệm trên, phân “Chủ” – “Khách”, vậy trong cái việc xây, sửa nhà ai là "chủ "và ai là "khách"? Chúng tôi muốn dùng thí nghiệm trên và đặt lại vấn đề như vậy để giải quyết tận gốc rễ của vấn đề chứ không phải trả lời câu hỏi “Mượn tuổi xây, sửa làm nhà đúng hay sai?” Lâu nay, chúng tôi gặp rất nhiều người hỏi và xem qua tin tức của giới chuyên môn, bàn cãi, thảo luận, nhưng chưa thấy ai đặt vấn đề cho ra ngô ra khoai. Vì thế, trong bài viết này, chúng tôi mong muốn đưa ra ngu ý và hiểu biết của chúng tôi giúp bạn đọc có thêm một góc nhìn mới để hiểu rõ vấn đề. “Chủ thể” của xây, sửa nhà có phải là “Cái nhà; miếng đất, cuộc đất” đó đúng không? Nếu muốn xây, sửa làm nhà thì bạn nên xem “Chủ” này chịu hay không chịu, thời điểm đó nó “tốt” hay “xấu” mới là quan trọng. (duy tâm nữa thì phải hỏi Thần đất, thần cai quản khu đất này có chịu cho mình làm hay không?). Yếu tố con người khi xây, sửa nhà nằm ở phân đoạn khác trong phong thuỷ, chúng tôi không đề cập trong bài này, vì lạc đề. Chứ không phải ai là người chủ của căn nhà này, hay ai là người được tuổi hay không được tuổi, năm nay chủ nhà bị sát này hay sát khác, những việc đó chỉ là “Khách” để việc xây, sửa cho hoàn toàn tốt đẹp. Cũng giống như bạn giảm bớt kẻ thù của “Chủ” thì đương nhiên mọi việc sẽ tốt đẹp. Thông qua bài viết này, chúng tôi có thể trả lời các bạn đọc đã gởi thư nhờ tư vấn, đồng thời góp thêm một góc nhìn mới cho các bạn đam mê muốn tìm hiểu về học thuật phong thuỷ. Cảm ơn các bạn đã dành thời gian đọc bài viết này. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Hiến tượng: Độ dài của chiều cao và chiều rộng khung cửa. nếu dùng thước Lỗ Ban để đo mà ra kết quả xấu thì không hợp với phong thủy. Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt để nhất, chiều cao xuất hiện chữ "hắc" có thể dùng tấm gỗ để tăng t
Hiến tượng: Độ dài của chiều cao và chiều rộng khung cửa. nếu dùng thước Lỗ Ban để đo mà ra kết quả xấu thì không hợp với phong thủy.
Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt để nhất, chiều cao xuất hiện chữ “hắc” có thể dùng tấm gỗ để tăng thêm chiều cao ngưỡng cửa đến kích thước phù hợp với chữ “hồng” để hóa giải. Chiều rộng nếu là chữ “hắc” thì sửa cửa đương nhiên là phương thức tốt nhất Nếu không thể sữa cửa thì trên ngưỡng cửa có thể đặt chuỗi đồng tiền Ngũ Đế để hóa giải.
Trong thước Lỗ Ban. của cung chú thích bằng chữ Hán hoặc ngôn ngữ khác, ý nghĩa tốt xấu được thể hiện bằng hai cách:
1. Ý nghĩa các cung:
2. Màu đỏ là tốt. màu đen là xấu
Thước Lỗ Ban
Thước lỗ ban thường được gọi là “thước văn công”, dài 1 thước 4 thốn 1 phân (khoáng 45cm). lấy 5 chữ Sinh- Lão – Bệnh – Tử – Khổ làm cơ sờ, chia thành 8 vạch, có cát có hung, lần lượt là: Tài (tiền tài, tài năng), Bệnh (tai nạn bệnh họan. bất lợi). Lỵ (lục thân ly tán phán ly). Nghĩa (phù hợp chính nghĩa và quy phạm đạo đức hoặc có quyên góp hành thiện), Quan (quan vận), Kiếp (bị cướp giật, ức hiếp), Hại (gặp họan). Bản (bản vị hoặc bản thể của sự vật). Thước Lỗ Ban thường thấy lại chia thành 2 bộ phận trên dưới: Nửa trên là thước văn công, dùng dể đo kích thước dương trạch, thần vị, phật cụ (dụng cụ thuộc về phật giáo) Nửa dưới là thước dinh lan, dùng để do kích thước âm trạch, tổ khám (bàn thờ tổ).
Dưới đây Là ý nghĩa các chữ ký hiệu trên thước Lỗ Ban:
Tài
Tài Đức: chỉ biểu hiện về các mặt tiền tài, đức hạnh Bảo Khố: đạt được hoặc bảo vật được cất giấu (kho báu)
Lục Hợp: tứ phương Thiên – Địa (hoà hợp mỹ mãn hoà thuận) Nghênh Phúc: đón phúc
Bệnh
Thoái Tài: phá sản Công Sự: bị kiện cáo tố tụng
Lao Chấp: tai họa lao ngục
Cô Quả: sống một mình cô độc
Ly
Trường Canh: giam ngục
Kiếp Tài: phá sản. hao tổn tài sản
Quan Quỷ: việc do khí quan có sát khi dẫn đến (bất hòa)
Thất Thoát: thất lạc đồ vật. người ly tán
Nghĩa
Thiên Đinh: sinh con trai ích Lợi: tiến tài, lợi lộc tăng tiến
Nạp âm của ngũ hành Hỏa gồm 6 đại điện là Lư Trung Hỏa, Phúc Đăng Hỏa, Tích Lịch Hỏa, Sơn Hạ Hỏa, Thiên Thượng Hỏa, Sơn Đầu Hỏa.
Phúc Đăng, Lư Trung dữ Sơn ĐầuTam Hỏa nguyên lai phách Thủy lưuThiên Thượng, Tích , Sơn hạ HỏaThủy trung nhất ngô cân vương hầu Ngũ hành Hỏa vượng thì được Thủy nên danh lợi lưỡng toàn. Hỏa sinh Thổ, Thổ nhiều thì Hỏa mờ mịt, Hỏa mạnh thì sinh Thổ như vậy mới hạn chế được ngọn lửa. Hỏa khắc Kim, Kim nhiều thì Hỏa lụi, Kim yếu thì gặp Hỏa, đều có thể tiêu tan. Hỏa sinh nhờ Mộc, Mộc nhiều thì Hỏa thêm vượng, Mộc có thể sinh ra Hỏa nên Hỏa nhiều thì Mộc diệt.
1. Tích Lịch Hỏa - Lửa sấm sét
Đào Tông Ngại viết: "Mậu Tý, Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa, Sửu thuộc Thổ, Tý thuộc Thủy, Thủy cứ chính vị mà nạp âm vẫn thuộc Hỏa, trong Thủy có Hỏa thì chỉ có Long Thần nên gọi thành Lửa sấm sét". Hỏa cứ trên Thủy thì chỉ có sấm sét mới xuất hiện hiện tượng này, xưng là Tích Lịch tức là đột nhiên phát ra âm thanh vang động. Tích Lịch Hỏa vừa phát ra ánh chớp trên trời cao hiệu lệnh cửu thiên khắp trời toàn rắn trắng, mây vần vũ như thiết mã. Nhưng Hỏa này phải có nước, gió, lửa, lôi tương trợ thì mới có thể biến hóa. Chỉ cần nghe thấy Tích Lịch Hỏa là có thể liên tưởng tới tốc độ nhanh như gió, sức mạnh thần thánh, tuy nhiên đến nhanh mà đi cũng rất nhanh giống như một kẻ khẩu xà tâm phật vậy, phát tiết nhanh rồi trôi qua như mây gió.
2. Lư Trung Hỏa - Lửa trong lò
Đào Tông Ngại viết về phần này trong ngũ hành Hoả: "Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa, Dần là Tam dương, Mão là Tứ dương nên Hỏa này được đất tương sinh, lại được Mộc của Dần và Mão nuôi dưỡng, lúc này thiên địa khai lửa, vạn vận sinh sôi nên gọi thành Lửa trong lò". Dần là trường sinh Hỏa, Dần Mão đều có phương vị phía Đông Hỏa khí phát tán dần dần nên lửa trong lò càng đốt càng cháy mãnh liệt, lấy thiên địa làm lò, lấy âm dương lưỡng khí làm than thì mới huy hoàng cháy sáng khắp vũ trụ càn khôn. Lửa trong lò thì không thể một khắc bùng cháy mà phải nuôi dưỡng từ mồi lửa nhỏ rồi thêm củi Mộc khiến nó trở ấm nóng rồi thế lửa mới phát huy hết được công dụng . Cũng giống như một người trầm tĩnh, tự tin làm việc có kế hoạch biết tích luỹ kinh nghiệm vậy.
3. Phúc Đăng Hỏa - Lửa đèn chụp
Đào Tông Ngại viết: "Giáp Thìn, Ất Tỵ là Phúc Đăng Hỏa, Thìn là thực thời, Tỵ là ấu, tướng của nhật ánh sáng âm tuyệt chiếu rọi thiên hạ nên gọi thành Lửa đèn chụp". Phúc Đăng Hỏa lấy nhật nguyệt làm đèn, ánh sáng phủ khắp nơi thì đèn này lớn nếu là loại đèn đế thường thì ánh sáng bị hạn chế nên đèn này, lửa này nhỏ. Sử chép: “Giáp thiên, Ất Tỵ khí hình thượng đất thế nhất định cao, chế độ cha truyền con nối nên là Phúc Đăng Hỏa". Lại có nghe "Phúc Đăng Hỏa kim đài ngự sáng, ngọc đài thổ tuyệt, chỉ chiếu nhật nguyệt không chiếu tứ phương, vào lúc trời chưa sáng tỏ lúc này Hỏa là Hỏa giữa nhân gian u tối” . Loại lửa bị chia cách bởi chụp đèn nên chỉ có thể nhìn thấy ánh sáng mà không nhìn được ngọn lửa nhiệt huyết, ngọn lửa bi thương bên trong giống như sự hi sinh âm thầm của một người vậy.
4. Thiên thượng Hỏa - Lửa trên trời
Đào Tông Ngại viết: "Mậu Ngọ, Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa, Ngọ là đất vượng của Hỏa, trong Mùi có Mộc có thể phục sinh Hỏa, Hỏa tính nhạt dần lại gặp sinh địa nên gọi là Lửa trên trời". Lửa trên trời có hai loại: 1. Mậu Ngọ đại diện cho Nguyệt Đức của Thái Dương, dương đức cao quý, chiếu rọi thiên không nên còn gọi là dương cương Hỏa. 2. Kỷ Mùi đại diện cho Nguyệt Đức của Thái Âm, âm đức hiền hoà, ánh sáng trắng lan toả dân gian nên gọi âm nhu hòa (bản tính của Mùi là Thổ nhưng lại tàng Ất Mộc). Thiên Thượng Hỏa chỉ thái dương, ánh sáng chiếu rọi dương gian chí công vô tư, ban phát ân huệ, chiếu sáng tâm can con người, ai cũng bình đẳng cùng nhau chung sống chan hòa giống như luồng chính nghĩa quang minh chính đại, hào sảng yêu thích giúp đỡ mọi người vậy.
5. Sơn Hạ Hỏa - Lửa dưới núi
Đào Tông Ngại viết: "Bính Thân, Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa; Thân là nhà là đất, Dậu là ngày vào cửa, lúc đó ánh sáng le lói che giấu nên gọi là Lửa dưới núi". Sơn Hạ Hỏa có thể lí giải đơn giản như ánh mặt trời sắp rơi xuống chân núi phía Tây, khí của nó sắp tàn, hình của nó sắp lụi, sức mạnh thế lực cùng vì thế mà yếu dần, đối vị với Quy Túc(tức Dậu Cung) sức nhỏ thể yếu, ánh sáng le lói. Chiều Hán phía Đông được dựng lên như ánh sáng ảo ảnh của con thiêu thân, huy hoàng như đám cỏ lau chân núi. Nói như vậy không có nghĩa Sơn Hạ Hỏa không có tính chất đặc biệt của lửa mặt trời, mà ngược lại Sơn Hạ Hỏa rất mạnh mẽ, tính chủ quan cao, có thể bảo vệ bản thân và người khác chỉ là có tìm được người hiểu và thưởng thức nó hay không thôi.
6. Sơn Đầu Hỏa - Lửa đầu núi
Đào Tông Ngại viết: "Giáp Tuất, Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa, Tuất Hợi là thiên môn, lửa chiếu thiên môn phát ra thứ ánh sáng cao quý chói lòa nên gọi thành Lửa đầu núi". Sơn Đầu Hỏa dùng núi để ẩn náu, bên trong sáng lạn, rõ ràng bên ngoài ẩn giấu bí hiểm khó lường. Ẩn mà không lộ, ánh sáng bay cao đầu vào càn (Càn chính là cung Tuất Hợi) rồi nghỉ ngơi. Sơn Đầu Hỏa là ngọn lửa hoang dã, sinh giữa chốn thiên nhiên nên kéo rất dài chiếu rất xa, khi tàn thì như ánh hoàng hôn đang lặn, như ngày rơi xuống ánh sáng phía Tây kia vậy. Lửa trong ngũ hành Hỏa từ trên núi nhìn vừa xa vừa cao, mặc dù khi bốc lên vô cùng mãnh liệt và hung dữ thì khi mất đi lại vô cùng dễ dàng biến mất không chút tàn tích.
► Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ
Màu sắc phù hợp với người mệnh Hỏa Lichngaytot.com Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Nhà tôi hiện tại bị nhiều người tới chơi hay chê là sao có miệng cống và trụ điện chắn phía trước, về phong thuỷ coi chừng xui xẻo! Trước kia tôi không để tâm nhưng gần đây nghe nói nhiều cũng thấy lo lắng, không biết thực hư thế nào.
Ngoài các khu quy hoạch mới có thiết kế không gian nghiêm chỉnh, lề thông hè thoáng, hạ tầng ngầm hoá, vẫn có rất nhiều các khu dân cư cũ, khu ngoại ô có hiện trạng phức tạp, trước nhà khấp khểnh đủ thứ cột đèn ống cống gốc cây vừa thiếu thẩm mỹ và không an toàn. Điều này hình thành trong giới kinh doanh nhà đất các đánh giá thấp về nhà bị “dị vật” xuất hiện, cản trở ở phía trước, cộng thêm các truyền tụng trong dân gian mang màu sắc mê tín khiến nhiều gia chủ hoang mang, lo ngại. Cần nhìn nhận vấn đề này dưới khía cạnh phong thuỷ và thẩm mỹ như thế nào?
Có thể bố trí tiểu cảnh trên nắp cống.
Xét về quan điểm hình và thế của một cuộc đất – ngôi nhà, phần phía trước của chủ thể luôn cần quang đãng (mà phong thuỷ truyền thống gọi là khu vực Minh đường), tránh các vật che chắn làm giảm tầm nhìn, ngăn cản sự lưu thông của sinh khí vào đại môn (cửa chính).
Nếu có cây to trước nhà thì phong thuỷ xưa lập luận rằng đó là thế mộc khắc thổ, cây to ắt sẽ có rễ lớn ăn vào làm hỏng nền sân, đi lại dễ bị va vấp, lá rụng đầy sân, bóng râm che khuất khiến nhà thiếu độ sáng sủa, âm tính nhiều, nhất là những cây có hình dáng um tùm rũ rượi.
Vì đa phần nhà ở truyền thống xưa kia đều quay về hướng nam để đón gió mát, cây to trước nhà sẽ chắn mất gió, nên ta thấy quan niệm “trước cau sau chuối” của kiến trúc truyền thống chính là để giữ cho phần minh đường được quang đãng.
Một miệng cống, trụ điện… nếu nằm ngay trước cửa nhà thì cũng gây nhiều khó chịu về thẩm mỹ và sử dụng hàng ngày. Vì thế, các khu dân cư mới hiện nay luôn bố trí hố ga, gốc cây, cột điện… tại điểm giữa của hai nhà. Còn nếu như hiện trạng sẵn có cây to án ngữ giữa cửa mà cây đó thực sự ảnh hưởng đến đi lại thì có thể xử lý bằng cách chuyển bộ cửa chính về một bên sao cho lối đi ra vào và tầm nhìn không bị cản trở là được.
Dị vật trước nhà là cái cột điện với dây nhợ chằng chịt.
Tuy nhiên, đừng “quan trọng hóa” vấn đề khi cho rằng nhà bị như thế thì giảm giá trị, vì thực chất khoảng lùi, hướng nhà, mức độ ồn ào bụi bặm của con đường bên ngoài… vẫn quan trọng và ưu tiên xem xét hơn là chỉ một trụ điện, gốc cây hay miệng cống.
Thực tế có không ít nhà biến nhược thành ưu, tận dụng những cây cối, trụ điện phía trước để làm điểm “mốc” nhằm xác định, phân biệt nhà mình với nhà khác, hoặc làm thành một dạng bình phong để che chắn bớt tác động xấu từ ngoài vào nhà mình bằng cách đặt thêm cây cối, tạo lối vào không trực diện với cửa hay cổng, thậm chí có thể bố trí tiểu cảnh dạng linh động trên nắp cống.
Tóm lại, phần “dị vật” trước nhà xấu hay tốt không quan trọng bằng cơ cấu sử dụng, quan hệ với đường sá và công trình lân cận. Tốt nhất là mỗi nhà (nhất là dạng nhà phố) nên xác lập cho mình một khoảng lùi và cấu trúc phần tiếp cận sau cửa cổng đủ kín đáo, tiện dụng (chỗ để xe, sân nhỏ, bậc thềm lùi sâu, khoảng đón tiếp khách…) để cho dù có gì trước nhà thì cũng không ảnh hưởng đến sinh hoạt và tính chất phong thuỷ của nhà. Đôi lúc gặp trường hợp bất khả kháng thì việc dùng vật phẩm phong thuỷ như hồ nước nhỏ, cây cảnh, tượng đá… cũng có thể giải quyết phần nào tâm lý bất an.
Bày kỳ lân sai cách, linh vật cắn ngược lại chủ nhà
Kỳ lân, còn được gọi là 'nhân thú', tuy rất hiền hòa những cũng sẽ nổi xung nếu bài trí sai cách. Những bảo bối phong thủy như xâu tiền đồng, tượng gà đồng, tượng kỳ lân… đã trở thành những vật trang trí quen thuộc trong nhiều gia đình. Đặc biệt là tượng kỳ lân, rất nhiều người thích bày ở trong nhà để đem đến vận may và tiền tài cho mình và gia đình, để gặp may mắn trong sự nghiệp. Tuy nhiên, việc bày tượng kỳ lân có những cấm kỵ phong thủy cần phải lưu ý mà không phải ai cũng biết.
Chú thích: Khai quang là 1 nghi lễ, sau khi hoàn thành tượng, chọn ngày lành dỡ bỏ miếng lụa đỏ trên đầu để bắt đầu thờ cúng.
Kỳ lân nếu chưa khai quang sẽ không thể ngăn sát khí, xua đuổi tà mà ngược lại còn đem lại điềm xấu cho gia đình.
Kỳ lân dùng để ngăn sát khí, cho nên cần phải dùng kỳ lân đã khai quang. Nếu như kỳ lân chưa được khai quang sẽ không có tác dụng ngăn sát khí xua đuổi tà, có thể sẽ bị những vật không tốt lành chiếm giữ, từ đó đem đến điều xấu cho gia đình.
2. Không được đặt ngoài cửa sổ
Thời cổ đại, long, lân, quy, phụng được coi là tứ linh vật. Nếu như đặt hoặc treo kỳ lân trên cửa sổ nghĩa là không tôn trọng, thậm chí là coi thường linh vật, sẽ gặp phản phệ mang điềm xấu cho gia đình.
3. Người hoặc ngành nghề bất lương không thích hợp bày kỳ lân
Kỳ lân tuy là linh vật may mắn nhưng lại không thích hợp với những người hoặc ngành nghề bất lương.
Tương truyền kỳ lân thích nhất là giúp đỡ những người tốt, đặc biệt chú ý đến những người hiếu thảo và lương thiện, cho nên còn được gọi là “nhân thú” (loài thú có lòng nhân từ). Khi kỳ lân gặp người xấu sẽ đuổi theo người đó mà cắn, cho nên một số ngành nghề gian trá liên quan đến cờ bạc, thuốc phiện, buôn lậu… cho dù là công ty hay là trong nhà đều không nên đặt kỳ lân.
Vậy đặt kỳ lân như thế nào mới hợp phong thủy?
- Nếu như đặt ở công ty, kỳ lân nên đặt một đôi trên bàn làm việc, bên trái và bên phải mỗi bên một con, đầu hướng về phía cửa, đuôi hướng về phía mình để nhanh chóng đạt được sự thăng tiến trong sự nghiệp.
Đặt tượng kỳ lân trên bàn làm việc để nhanh chóng đạt được sự thăng tiến trong sự nghiệp.
- Nếu như đặt ở trong nhà, kỳ lân có thể đặt nhiều vị trí tùy mục đích. Nếu như cầu quý tử có thể đặt trong phòng ngủ, mong muốn sự nghiệp học hành tấn tới có thể đặt một đôi trong phòng sách. Ngoài ra, kỳ lân có thể đặt trong phòng khách, thể hiện sự tôn sùng đối với linh vật, đem may mắn và bình an cho cả gia đình.
Cung Điền Trạch nằm ở phần giữa lông mày và mắt, chính là phần thể hiện tài sản, đất đai, hoàn cảnh gia đình và danh vọng của mỗi người.Cung Điền Trạch tốt: Nếu người có mi mắt trên đầy đặn, cao rộng, thanh tú, không có vết sẹo, không có nốt ruồi đượ
Đây là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
1. Người mắt xếch và tròng mắt luôn đảo đi đảo lại. Tính cách: Giảo hoạt, xoay xở trong cuộc sống. 2. Người đi đứng đàng hoàng, lúc nào cũng trầm mặc, đoan trang. Tính cách: Tính tình kiên trì, nhẫn nại. 3. Cử chỉ luôn dè dặt, giữ ý tứ khi giao tiếp
Vòng Bác Sĩ cũng có tên gọi khác vòng Lộc Tồn vì Bác Sĩ đứng cùng một cung với Lộc Tồn, gồm mười hai sao, mỗi sao an một cung trên lá số: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỉ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Vòng này an theo hai chiều thuận nghịch âm dương, cũng như vòng Tràng Sinh Tử Vi Việt an theo chiều thuận đối với Dương Nam Âm Nữ và nghịch đối với Âm Nam Dương Nữ.
Có câu quyết về sao Bác Sĩ rằng: “Bác Sĩ thông minh, Lực Sĩ quyền”. Câu này bất túc, không hẳn là như thế. Bác Sĩ phải có Tả Hữu thì mới phát huy đặc tính tốt kể trên.
Bác Sĩ gặp Xương Khúc mới thông minh, hội Khôi Việt mới vinh dự được người đề đạt, đồng cung với Phụ Bật mới có người thưởng thức nâng đỡ. Nếu không Phụ Bật, không Xương Khúc, không Khôi Việt thì Bác Sĩ trở nên vô dụng. Có thuyết cho rằng lưu niên Bác Sĩ đi cùng Xương Khúc khả dĩ hóa giải được cái xấu do Hóa Kị mang đến. Bác Sĩ đóng cung Phúc Đức mà gặp Cô Quả thì cô đơn, trầm lặng, ít người thân thích và không ưa giao du. Bác Sĩ thuộc Thủy.
LUẬN VỀ LỰC SĨ:
Lực Sĩ chủ quyền lực đóng vào sinh niên mệnh cung tác dụng khác hẳn. Tỉ dụ sinh năm Ngọ mà Mệnh lập tại Ngọ cung gặp Lực Sĩ.
Không phải cứ có Lực Sĩ là có quyền. Lực Sĩ là một tạp diệu nó chỉ phụ giúp cho những sao trên cấp để mà thể hiện tính chất. Như Vũ Khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền mà được thêm Lực Sĩ là chứng triệu nắm quyền tài chánh. Như Thiên Cơ Thiên Lương mà đứng bên Lực Sĩ là chứng triệu nắm quyền về kế hoạch. Lực Sĩ bởi vậy cần đi bên Hóa Quyền mới thành Quyền. Nếu Hóa Quyền ấy phụ giúp cho Phá Quân, Thái Dương, Tham Lang, Vũ Khúc càng tốt lắm. Lưu niên Lực Sĩ cũng cần lưu niên Hóa Quyền, nếu lưu niên Lực Sĩ lại đứng đối xung với Lực Sĩ cố định thêm sao Hóa Quyền sức mạnh tăng hơn. Lực Sĩ kị hội ngộ hung sát tinh nhất là sao Kình Dương căn cứ vào câu phú: Kình Dương ngộ Lực Sĩ Lý Quảng bất phong (Mệnh hạn thấy Kình Dương Lực Sĩ như tình cảnh Lý Quảng ngày xưa bị giáng chức). Lực Sĩ thuộc Hỏa.
LUẬN VỀ THANH LONG Có câu quyết: “Thanh Long hỉ khí, Tiểu hao tiền”. Sao Thanh Long thường mang tin vui. Thanh Long cùng Hồng Loan Thiên Hỉ chủ tin mừng về hôn nhân, về sanh con. Thanh Long gặp Khôi Việt, Thiên Quí, Thiên Quan, Thiên Phúc chủ thăng chức. Thanh Long có khả năng hóa giải hung họa do Bạch Hổ gây ra như quan tụng, tang sự. Thiên Phủ Thanh Long Hóa Khoa đóng vào cung Tài Bạch thì lấy vợ hoặc gặp hỉ sự mà phát tài (vớ được vợ giàu chẳng hạn) Khoa Tử Vi Việt đưa thêm nhiều tác dụng của Thanh Long: - Thanh Long ở Mệnh mà không bị sát tinh thì có tài biến hóa công việc. - Thanh Long gặp Lưu Hà giống như rồng vào biển khơi có lợi cho thi cử công danh - Thanh Long bị Đà Kị Khốc Hư Không Kiếp hãm lại thành con người hèn nhát - Thanh Long đứng với Hóa Kị ở Thìn Tuất Sửu Mùi như rồng ẩn trong mây có thể dễ xoay chuyển thời cơ. Thanh Long thuộc Thủy
LUẬN VỀ TIỂU HAO Tiểu Hao chủ về hao tổn, mất mát. Tiểu Hao gây cho tâm ý điều hối hận, tiếc thương. Tiểu Hao kị gặp Văn Khúc và Hóa Kị, nếu thấy những sao này hội tụ vào Mệnh, Tài Bạch hoặc Phúc Đức thì cả cuộc đời hay mất mát những đồ vật đã mua sắm, nhất là lơ đễnh để mất những đồ vật lặt vặt. Tiểu Hao đi với Phi Liêm thì mua sắm mà chẳng suy tính, mua rồi mới hối tiếc. Khoa Tử Vi Trung Quốc đối với sao Đại Hao với cùng hai lập luận riêng biệt. Trong khi khoa Tử Vi Việt lại bàn luận Song Hao làm một thể (sẽ nói khi tới sao Đại Hao). Tiểu Hao thuộc Hỏa
LUẬN VỀ TƯỚNG QUÂN Có câu quyết: “Tướng Quân uy vũ Tấu Thư phúc”. Do hai chữ uy vũ trên đây nên Tướng Quân rất cần gặp Hóa Khoa, nhất là Tử Vi Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Khoa, Vũ Khúc Hóa Khoa, hay Văn Xương Hóa Khoa. Những sao trên mà đóng Quan Lộc thì phong quan vinh dự tăng thêm. Tướng Quân đứng với Hóa Kị sẽ đưa đến tình trạng vì có thời đắc ý mà dương dương tự đắc đưa đến hiềm thù ghét bỏ. Tướng Quân tính chất can trường, nếu đứng cùng Thiên Tướng đắc địa gọi bằng cách lưỡng Tướng, có quyền tất hiển hách. Tướng Quân đứng với Thiên Hình, Quốc Ấn, Thiên Mã, Thiên Khốc theo võ nghiệp tốt. Số nữ mà có Tướng Quân hay Thiên Tướng tính hay ghen và thích đoạt quyền chồng. Tướng Quân thuộc Mộc.
LUẬN VỀ TẤU THƯ Tấu Thư là sao mang phúc trạch đến, nhưng đồng thời nó cũng liên quan đến văn mặc từ chương, ăn nói, hùng biện. Tấu Thư đứng ở cung Phúc Đức, Quan Lộc giỏi về viết lách, nhưng đứng với Hóa Kị thì thiên hướng về công kích phê bình.Tấu Thư đóng Mệnh bên cạnh Hồng Loan số nữ ăn nói thật có duyên. Tấu Thư có tài về từ tụng đi cùng Khôi Việt Hóa Khoa dễ thắng trong việc tranh cãi mà không gây oán hận. Tấu Thư đứng cùng bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương làm “đao bút lại” đắc lực. Tấu Thư đứng với Bạch Hổ từ tụng ngôn luận đanh thép. Tấu Thư có thêm Xương Khúc ăn nói thuyết phục hay. Tấu Thư nói giỏi người theo ngay về là vậy. Tấu Thư thuộc Kim
LUẬN VỀ PHI LIÊM Có câu thuyết rằng: “Phi Liêm khẩu thiệt Hỉ Thần diên”. Vậy thì Phi Liêm chủ về cái vạ miệng. Bởi thế khi Phi Liêm gặp Thiên Hình dễ xảy ra kiện tụng. Sách Trung Quốc có hai sao Phi Liêm lận, mà cả hai đều chung một tính chất. Như vậy là thừa, một sao Phi Liêm là đủ. Có nhiều sách Tử Vi Việt cho rằng Phi Liêm chủ sự vui vẻ, nhanh nhẹn, điều này sai. Rồi lại nói Phi Liêm gặp Bạch Hổ ví như cọp mọc cánh, gặp Long Phượng như rồng phụng lên cao càng sai nữa. Vì không phải chữ Phi mang nghĩa bay mà mang nghĩa loại côn trùng mối mọt. Phi Liêm trước sau chỉ là cái họa nhỏ gây thành khẩu thiệt tranh tụng. Phi Liêm không nên gặp Hóa Kị Văn Khúc sinh lắm chuyện. Câu phú: Đào Hoa ngộ Phi Liêm Nguyễn Tịch Tấn triều vi túy khách thì Phi đây chính là con sâu rượu đấy. Phi Liêm thuộc Hỏa.
LUẬN VỀ HỈ THẦN Hỉ Thần không phải chỉ là dấu hiệu của vui mừng qua nghĩa chữ. “Hỉ Thần diên” trong câu quyết ý nói tình trạng kéo dài, lần khần, không dứt khoát. Nó cũng là mừng vui với điều kiện gặp các sao khác như Mệnh cung đứng với Xương thì cuộc đời dễ vui, những may mắn nho nhỏ như người khác lo cả cho mình. Tỉ dụ vợ quán xuyến, anh em phù trì. Nhưng nếu nó gặp Văn Khúc ở Mệnh thì những chuyện mừng vui thường bị hoãn, kéo dài, việc hôn nhân cứ lần lữa, càng nặng nếu thấy luôn cả Hóa Kị. Hỉ Thần gặp Phượng Các đem đến tin vui cho mưu sự, thi cử. Hỉ Thần Hoa Cái tốt ghê Khẩu thiệt thường đoản mọi bề đảm đang Hì Thần thuộc Hỏa
LUẬN VỀ BỆNH PHÙ Bệnh Phù chủ bệnh, đau yếu. Bệnh Phù tuyệt đối không nên đứng với Hóa Kị ở Mệnh cung và Tật Ách cung. Bệnh Phù gặp Đào Riêu ở Tật Ách thì suy nhược vì sắc dục quá độ. Bệnh Phù gặp Thiên Cơ Tham Lang có bệnh về gan. Bệnh Phù gặp Liêm Trinh, Hóa Kị bệnh về thận. Bệnh Phù lại có Thiên Hình thường đưa đến giải phẫu. Bệnh Phù vào Tài Bạch buôn bán ngành dược có lợi. Bệnh Phù Hình Kị phong, sang. Không Kiếp cung Tật mọi đàng huyết hư. Bệnh Phù thuộc Thổ đới Mộc.
LUẬN VỀ ĐẠI HAO Theo lý luận của các sách Trung Quốc thì Đại Hao có hai sao. Một an theo năm sinh và một an theo lưu niên. Đại Hao an theo năm sinh mang nhiều tính chất đào hoa, còn ăn theo lưu niên thì chỉ thuần túy là hao tán thôi. Lý luận này rườm rà không cần thiết. Vì Đại Hao gặp Đào Hoa (Hàm Trì) thì dự hao tổn mang tính chất đào hoa rồi. Đại Hao đi với Liêm Trinh, Tham Lang, Xương Khúc hoặc mấy sao Kị cũng vì tửu sắc mà hao tổn. Đại Hao ở Mệnh mà Thiên Hư ở cung Phụ Mẫu thì không được hưởng của cải mẹ cha. Đại Hao ở cung Tử Tức mà Tài Bạch có Thiên Hư thì con cái phá của. Sách Tử Vi Trung Quốc mới đưa ra nguyên tắc: “Đại Hao không nên có hàng xóm là Thiên Hư”. Ở cung vận hạn nào thấy Hao với Hư đứng chung thì sự hao tổn tăng thêm. Khoa Tử Vi Việt có cái nhìn khác về song Hao mà không thấy ở các sách Trung Quốc không rõ xuất xứ từ đâu. Trên ngũ hành sở thuộc hai sao Hao đều là Hỏa. Song Hao đắc địa Mão Dậu, Dần Thân hãm địa Tí Ngọ. Hãm với đắc không thấy ghi trên các sách Trung Quốc. Mệnh song Hao dáng dấp nhỏ nhắn, bộ tiêu hóa không khỏe mạnh. Mệnh song Hao theo Việt thì tính tình khôn ngoan ưa hưởng thụ, dễ đam mê (cờ bạc, tửu sắc). Hao gặp Tuyệt đồng cung là người khôn ngoan nhưng không trung thực (chỉ Đại Hao thôi) Song Hao gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh thường mắc nghiện thuốc sái. Song Hao đi với Phá Quân dễ lâm túng thiếu. Song Hao Mão Dậu gọi bằng cách chúng thuỷ triều Đông như trăm con sông đổ vể biển Đông làm ăn tiền bạc có lúc như nước, thêm Cự Cơ Mão Dậu càng tốt nữa. Cách này tuyệt đối không hề thấy sách Tử Vi nào của Trung Quốc đề cập song Hao gặp Thiên Hình, Địa Kiếp vào vận hạn thì mất trộm. Cách chúng thủy triều đông đã nói ở phần đầu sách này nhưng ý nghĩa khác hẳn.
Những câu phú về song Hao: - Mão Dậu Cự Cơ rất hay Công danh vinh hiển lại tay hoang tàn Gặp song Hao là làng quán thế - Lao đao sớm một tối ba Đại Hao Hóa Kị đồng gia mệnh vì - Lưỡng Hao Cự Vũ Hóa Quyền Chiếu sai trấn thủ giặc phiên bên ngoài - Song Hao Tỵ Hợi nhi ngộ Sát Hình Giáp Canh dương nữ thủ cách yểu bần (Người dương nữ mệnh đóng Hợi tuổi Giáp Canh mà gặp song Hao thủ Mệnh đứng với sát tinh, và Thiên Hình thì nghèo hoặc yểu) - Hao ngộ Tham Lang tài sinh dâm tình ư tinh đế (Tham Lang gặp Hao ở Mệnh thì dâm ngầm) - Lưỡng Hao thiết kị ư Điền Tài (Hai sao Hao không nên đóng vào các cung Tài, Điền) - Tài Phúc nhi phùng Hao Kiếp cô bần (cung Tài cung Phúc xuất hiện Hao, Kiếp thường cô đơn và nghèo) - Thân cư Tài Bạch lai kiến song Hao, Lộc Quyền, Kiếp Hóa tất thành thương nghiệp (Thân ở Tài Bạch có song Hao Lộc Quyền và Kiếp Hóa buôn bán hoạnh phát nhưng cũng phải đề phòng hoạnh phá).
LUẬN VỀ PHỤC BINH Phục Binh đứng với Thiên Riêu ở Mệnh là người quyền thuật âm mưu nhiều thủ đoạn. Đứng một mình thì chỉ xảo trá vặt mà hay phản bội. Bởi thế mới có nguyên tắc Tướng Quân ở Mệnh, Phục Binh ở Thiên Di là hay vì nội Tướng ngoại Binh, ngược lại nội Binh ngoại Tướng chỉ không lớn mà hay man trá hoặc làm việc bằng mẹo vặt. Nếu Phục Binh hay Phục Binh Thiên Riêu mà đứng vớinhiều sao bất lợi cho Mệnh cung thì lại là nạn nhân của thủ đoạn quyền thuật. Phục Binh gặp Đà La mọi chuyện mưu tính cứ kéo dài không xong. Phục Binh gặp Linh Tinh Địa Kiếp dễ rơi vào phiền lụy mắc bẫy. Phục Binh gặp Quan Phù chiếu xung có rắc rối khẩu thiệt quan tụng. Phục Binh gặp Bệnh Phù đồng cung hoặc chiếu xung thì bệnh tật triền miên.
Có những câu phú về Phục Binh như sau: - Đào Hồng Diêu Hỉ trong ngoài Lại gia Binh Tướng gái trai ngang tàng - Đào Hoa Thai Hỉ trong cung (Huynh Đệ) Phá Quân Tướng Phục chiếu xung ở ngoài Có chị em gái theo trai Say mê đến nỗi hoang thai bỏ mình - Trong thời Tướng Phá Phục Binh Ngoài thời Hoa Cái liên minh Đào Hồng Bản cung đối chiếu tinh tường Anh em có kẻ tư thông hẳn là (Ở cung Bào) - Vợ chồng nay thuận mai hòa Phục Binh Hóa Kị đóng tòa Phối cung - Binh Hình gặp Hóa Kị xung Đêm ngày cư xử ra lòng bạc đen - Khốc Hư ngộ Dưỡng không đành Tướng Binh xung phá hẳn danh hoang thai (Ở cung Tử Tức) - Tử cung Thai Tướng Phục Binh Vợ chồng ắt hẳn tư sinh thủa nào - Gian tà Kiếp Sát Phục Binh Khúc Xương Thái Tuế mưu sinh tảo tần (Ở cung Tài Bạch) - Cự Kị nên tránh đò sông Phục Binh Hình Việt mắc vòng gươm đao (Ở cung Tật Ách) - Phục Binh Thái Tuế Thiên Hình Cùng người tranh cạnh tâm tình chẳng vui (Ở cung Phối) - Phúc cung có kẻ chiến chinh Tướng Binh Đế Tuyệt đóng thành ba phương - Tướng Binh Tử Tuyệt phải là Có người tử trận phương xa thuở nào (Ở cung Phúc Đức) Sao Phục Binh trong khoa Tử Vi Việt phong phú hơn hẳn
LUẬN VỀ QUAN PHỦ Vòng Thái Tuế có sao Quan Phù, đây là Quan Phủ. Quan Phủ vĩnh viễn sẽ đứng với Kình Dương hay Đà La (Như vậy thì vòng Tràng Sinh lại tiếp tục có nghi vấn nghịch thuận vì nếu đi thuận thì chỉ có đứng với Đà La thôi) Quan Phủ chủ khẩu thiệt thị phi không nên gặp thêm Hóa Kị hoặc Thiên Hình càng rắc rối nhất là đối với vận hạn. Không gặp Hình Kị tự nó vô lực. Có câu phú: Quan Phủ Thái Tuế một miền Đêm ngày chầu chực cửa công mỏi mòn Căn cứ vào câu phú trên đây thì gặp Thái Tuế còn nặng hơn Hình Kị. Quan Phủ thuộc Hỏa.
Phong thủy văn phòng kỵ ngồi dựa vào cửa sổ bên của lối đi –
Kỵ ngồi dựa vào cửa sổ bên cửa lối đi Cửa sổ là một cổng khí vào của căn phòng, sẽ thu nạp sinh khí hoặc hung khí. Nhưng những cửa sổ nằm ở phía lối đi nhiều người qua lại, không những sẽ thu nạp những tạp khí đi qua đi lại, còn cả những âm thanh, n
Cửa sổ là một cổng khí vào của căn phòng, sẽ thu nạp sinh khí hoặc hung khí. Nhưng những cửa sổ nằm ở phía lối đi nhiều người qua lại, không những sẽ thu nạp những tạp khí đi qua đi lại, còn cả những âm thanh, những tiếng ồn ào của người đi đến và những loại nhiễu âm thanh khác làm ảnh hưởng đến công việc của mình. Nếu đặt bàn làm việc ở nơi người đi lại như vậy thì tương đương với việc đặt bàn làm việc ở dưới một số hình hung; nếu cần phải nghiên cứu việc cơ mật của công ty tự nhiên sẽ luôn lo ngại những người tạp nham nhìn ngó. Những bàn làm việc mà chỗ ngồi dựa vào cửa sổ công việc sẽ không thể yên tâm để làm tốt.
Phương pháp hoá giải là: Bàn làm việc cần cố gắng rời xa cửa sổ càng xa càng tốt, khoảng cách xa với cửa sổ đó để người qua lại sẽ không nhìn rõ những giấy tờ trên bàn làm việc của mình. Đồng thời cũng cần phải sử dụng rèm cửa sổ, thường xuyên kéo rèm để che cửa sổ lại, tránh bóng người qua lại ngoài cửa sỏ ảnh hưởng đến tư duy làm việc.
Kỵ chỗ ngồi sau lưng có cửa sổ
Hiện nay có rất nhiều văn phòng cao cấp có những cửa sổ rộng đến tận chân tường, cúi đầu xuống quần thể toà nhà, có cảm giác cao chót vót. Có người thích đặt bàn làm việc ngang bằng với cửa sổ, đặt chỗ ngồi ở giữa bàn làm việc và cửa, đưa cửa sổ làm điểm tựa, vị trí sắp đặt bàn làm việc như vậy là sai lầm. Cửa sổ là cửa vào của ánh sáng và khí, giống như lý luận ngồi quay lưng ra cửa chính.
Bức tranh tử vi toàn cảnh của người tuổi Mùi năm 2015 không có nhiều khởi sắc, trong đó đáng lưu tâm nhất là chuyện tình duyên. Con giáp này luôn bị mang tiếng với danh “háo sắc”, cho nên mọi người thường nghĩ người như vậy không đáng tin cậy để trao gửi tình cảm. Đó cũng là lý do phần nào cho thấy công cuộc tìm kiếm một nửa đích thực của họ khó khăn hơn những con giáp khác.
Tuy nhiên, trên thực tế, tính lãng tử, hơi thiếu thực tế mới là nguyên nhân dẫn tới chuyện lận đận trong tình duyên của họ. Khi đã yêu, họ không thể tập trung đầu óc vào bất kỳ việc gì, mà luôn để “tâm hồn treo ngược cành cây”. Họ để con tim lấn lướt lý trí quá nhiều. Điều này làm giảm lòng tin, sự mong chờ vào một bờ vai vững chắc của đối phương.
No2: Tuổi Thìn
Số đào hoa của người tuổi Thìn rất hưng vượng trong năm tới. Tuy nhiên, lợi thế đó lại tỷ lệ nghịch với sự bền chặt trong tình yêu của con giáp này. Vốn bản tính phóng khoáng, hòa đồng nên người tuổi Thìn không muốn mất lòng bất kỳ ai. Vậy nên, nếu được ai đó dành tình cảm, họ sẽ thể hiện thái độ lập lờ như một câu trả lời bỏ ngỏ để người kia nuôi hy vọng.
Lâu dần, số lượng câu trả lời bỏ ngỏ ấy càng nhiều hơn, đồng nghĩa người yêu của họ phải suy nghĩ, nảy sinh nghi ngờ về tình cảm chân thành của con giáp này. Thật may mắn là đến nửa cuối năm Ất Mùi, tình yêu của người tuổi Thìn dần ổn định, đi vào quỹ đạo, gắn kết khăng khít hơn.
No3: Tuổi Sửu
Người tuổi Sửu không bồng bột như tuổi Thìn, không lãng mạn như tuổi Mùi, mà họ luôn chín chắn trong mọi quyết định của tình duyên. Điều đáng nói là suy nghĩ quá người lớn, quá cầu toàn khiến cho họ gặp cản trở trong tình duyên.
Để “ưng mắt” một ai đó, người tuổi Sửu phải suy xét nhiều yếu tố, như hoàn cảnh gia đình, công việc, các mối quan hệ, tương lai sau này.... Vậy nên, việc người tuổi Sửu có người yêu chẳng khác nào bạn trúng số độc đắc. Chưa hết, việc quá cầu toàn còn khiến cho cách yêu, bày tỏ của con giáp này trở nên nhạt nhẽo, cứng nhắc. Chỉ khi thực sự tìm được một nửa hiểu được tính cách này của họ, tình yêu mới thực sự trở nên thăng hoa, đi đến một “happy ending”.
Người tuổi Tuất có nhân duyên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
Người tuổi Tuất thành thật, trung thành, trọng đạo nghĩa, luôn mang lại cảm giác tin cậy cho đối phương. Tự mình có thể lập nên sự nghiệp, nhưng nếu có sự kết hợp với tuổi khác thì sẽ thành công hơn nữa.
Người tuổi Tuất giỏi việc đối nhân xử thế, thường mang lại cảm giác tin cậy cho người khác, đôi khi không cần nói nhiều người khác cũng có thể hiểu được. Bởi vậy, trong lĩnh vực kinh doanh, việc giao tiếp với đối tác thường đạt kết quả tốt. Người tuổi Tuất cũng làm việc khá chăm chỉ, tuy nhiên, không có ai là hoàn hảo cả, người này cũng có vài khuyết điểm như không có khả năng nhìn xa trông rộng, năng lực làm việc cũng không tốt, nên khó có thể theo đuổi mục tiêu lâu dài.Người tuổi Tuất nên kết hợp làm ăn với tuổi nào?Với tuổi Tý: Hợp tác không tốt lắm bởi người tuổi Tuất luôn lý tưởng hóa mọi chuyện nên khi hợp tác thường khó thành công.
Hợp tác với tuổi Tý khó đạt được thành công
Với tuổi Sửu: Hai tuổi này có sự khác biệt rất lớn về tính cách, chiến lược kinh doanh cũng khác nhau nên hợp tác gặp nhiều khó khăn Với tuổi Dần: Đôi bên có thể hợp tác nhưng khó có thể hòa bình khi đụng tới chuyện chia sẻ vật chất.Với tuổi Mão: Người tuổi Mão rất thông minh hơn nữa lại rất khách quan nên có thể trợ giúp cho người tuổi Tuất, người tuổi Tuất cũng sẽ không phản bội lại người tuổi Mão nên hợp tác là rất tốt.Với tuổi Thìn: Không thể hợp tác lâu dài bởi người tuổi Tuất có khả năng hiểu thấu lòng dạ người tuổi Thìn, còn người tuổi Thìn thì lòng tự cao tự đại quá lớn, dễ bị tổn thương nên khó hợp tác. Với tuổi Tị: Có hi vọng hợp tác thành công nên cũng không nên ôm hi vọng quá lớn. Tính cách 2 người có thể bù trừ cho nhau nhưng sự hợp tác không phải là lý tưởng.Với tuổi Ngọ: Hợp tác rất tốt bởi cả hai đều rất coi trọng hiệu quả thực tế, hòa hợp khi giải quyết những công việc chung, có thể giúp nhau cùng tiến bộ. Với tuổi Mùi: Không dễ để hợp tác bởi người tuổi Tuất thường rất coi trọng công việc của mình, luôn cho rằng mình gánh trọng trách lớn lao, người tuổi Mùi lại không như vậy, họ dùng “con mắt nghệ thuật” để đánh giá người tuổi Tuất. Với tuổi Thân: Tuy rằng có thể hợp tác nhưng người tuổi Tuất luôn phải cảnh giác, người tuổi Tuất không muốn người tuổi Thân thành công hơn mình.
Không dễ để hợp tác với người tuổi Mùi
Với tuổi Dậu: Không tốt để hợp tác, người tuổi Dậu luôn phải cảnh giác. Hai người có thể hợp tác nhưng trong lòng lại luôn cạnh tranh ngầm với nhau.
Với tuổi Tuất: Trong quá trình hợp tác kinh doanh thì cả đôi bên đều không cảm thây hứng thú, cả hai cũng không có năng lực kinh doanh, thất lại là chuyện có thể đoán trước được. Với tuổi Hợi: Có thể hợp tác, nhưng người tuổi Hợi thực lòng không tình nguyện, chủ yếu là do người tuổi Tuất quá khảng khái nên người tuổi Hợi cảm thấy có chút không thoải mái. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Trong Mệnh tướng học, nốt ruồi trên ngón tay cái hoặc ở các vùng lân cận có ý nghĩa rằng quý nhân phù trợ bạn chính là cha mẹ, nếu nốt ruồi trên ngón tay trỏ thì quý nhân đó là anh chị em ruột thịt. Nốt ruồi trên ngón tay trỏ được coi là tướng phú quý, nam giới thì thành công trong sự nghiệp
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
1./ Nốt ruồi trên ngón tay cái
Người có nốt ruồi ở ngón tay cái có vận mệnh khá đào hoa. Nếu là nốt ruồi đen thì phải trải qua mối tình đầu lận đận, sẽ đứt gánh giữa đường. Mối tình tiếp theo nếu cố gắng thật sự, yêu thương nhau vượt qua khó khăn thì mới có thể hạnh phúc. Nếu là nốt ruồi son thì lại báo hiệu cuộc sống sung túc, giàu có khi về già.
2./ Nốt ruồi trên ngón tay trỏ
Đây được coi là nốt ruồi phú quý, nam giới thì thành công trong sự nghiệp, nữ giới đảm đang việc gia đình và trợ giúp tích cực cho công danh sự nghiệp của chồng. Ngoài ra, đường tình duyên của người này thuận lợi hay không phụ thuộc vào sự mai mối và vun đắp của cha mẹ hoặc người thân. Nhưng hậu vận sau này của người này sẽ rất tốt, gia đình hạnh phúc, tiền tài dồi dào.
3./ Nốt ruồi trên ngón áp út
Ngón áp út hay còn gọi là ngón tay đeo nhẫn, không những tượng trưng cho nửa kia của mỗi người mà còn có hàm ý chỉ sự lãng mạn trong tình yêu. Đa phần người có nốt ruồi ở ngón áp út dễ gặp vận đào hoa, được nhiều người yêu mến. Người này sẽ phải trải qua nhiều mối tình mới có thể thực sự tìm được nửa kia của mình. Người này có vận đào hoa nên dù có gia đình vẫn có thể gia đình tan vỡ nếu không biết vun vén.
4./ Nốt ruồi trên ngón tay út
Nốt ruồi này báo hiệu về đường tình duyên của bạn. Nếu có nốt ruồi trên ngón tay út mà là nốt ruồi đen báo hiệu tình duyên gặp trở ngại, ngược lại nếu là nốt ruồi son thì nhân duyên tốt đẹp và hôn nhân hạnh phúc.
5./ Nốt ruồi ở lòng bàn tay
Xét về phương diện tướng học, người mà lòng bàn tay có nốt ruồi thường tính tình tỉ mỉ, cẩn thận, biết tính toán kĩ càng nên thích hợp làm những ngành nghề như kĩ sư, kiến trúc sư, luật sư, kế toán…
Người này cũng khá chung thủy trong tình yêu, cuộc sống sau hôn nhân ổn định, yên bình, không phải trải qua sóng gió lớn do tình cảm bền vững và ý chí kiên định. Tuy nhiên, nếu là nam mệnh thì tính tình khô cứng, thiếu lãng mạn trong tình yêu. Nếu là nữ thì tính tình sẽ dễ chịu, dễ dung hòa với mọi người, tháo vác việc gia đình, là người phụ nữ đảm đang biết chăm lo cho hạnh phúc gia đình.
Tâm tịnh thì ngoại cảnh cũng tịnh, tâm động thì ngoại cảnh ắt động. 4 ghi nhớ Phật dạy về nhân sinh dưới đây sẽ giúp thanh tâm tịnh thân, xóa bỏ muộn sầu.
Tâm tịnh thì ngoại cảnh cũng tịnh, tâm động thì ngoại cảnh ắt động. Vì thế, mọi ưu phiền sầu não đời người đều xuất phát từ trong lòng mỗi chúng ta. 4 ghi nhớ Phật dạy về nhân sinh dưới đây sẽ giúp thanh tâm tịnh thân, xóa bỏ muộn sầu.
Tư vấn: Giải đáp những thắc mắc về nguyên tắc thờ Phật tại gia10 đạo lý kinh điển của nhà Phật ai ngẫm cũng thấy đúngNghe kinh niệm Phật là nhất đẳng hưởng thụ của đời ngườiNỗi khổ lớn nhất và niềm vui lớn nhất của đời người 1. Trên đời không có người xấu, người ác, kẻ thù. Cái gọi là người xấu thực ra vì sai lầm trong nhận thức dẫn tới sai lầm trong hành vi. Cái gọi là người ác, thực ra vì ham muốn quá nhiều mà không từ thủ đoạn. Cái gọi là kẻ thù thực ra vì không cùng ý chí, không cùng con đường.2. Phật dạy, nhân sinh như mây, cuộc đời chỉ có một, đừng vì hoan lạc, đừng vì khổ đau, đừng vì hoang tưởng mà để phí hoài tháng ngày. Tất thảy những điều đó đều là hư ảo, không mang lại bất kì ý nghĩa hay niềm vui đích thực vào trong cuộc sống. Hãy tự hỏi bản thân, ta có đang hạnh phúc hay không để nghe câu trả lời từ trái tim.3. Phật giáo xem tất thảy chúng sinh đều là Phật, hiện tại là Phật, tương lai vẫn là Phật, không tăng không giảm. Mỗi người khởi nguồn đều có thiện tính, vì sinh tham sân si nên thiện tính mất dần, mỗi người sinh ra đều là Phật, vì không biết tu dưỡng nên Phật tính mai một. Vì thế, tu thân và bao dung hơn với người đời, đừng cho rằng bản tính xấu xa không thể chuyển dời.
4. Kết thù kết oán tức là kết nghiệp vào thân. Thời gian kiếp người ngắn ngủi mà lại cùng người ta không ưa dây dưa, cùng người đó ngu muội, cùng người đó làm điều hung họa, hãm hại lẫn nhau. Lúc đó, chính bản thân ta cùng thành người có dã tâm, lập thành nghiệp xấu. Phật dạy về nhân sinh, nhớ và làm theo thì không chỉ thanh thản hơn mà còn tích cực hơn, lạc quan hơn. Trên đời có ai mà không muốn thanh thản, có ai mà không muốn thanh tâm. Chỉ vì nỗi nhân tình thế thái chuyển dời, tạo hóa xoay vần đưa đến những tình huống chớ trêu. Những lúc ấy, đôi ba dòng ngắn ngủi ở trên hi vọng sẽ giúp các bạn tự tìm thấy lối ra cho riêng mình.Chìa khóa ở ngay trong tim ta, Phật soi đường, ta tự đi tìm. Thấy hay không còn nhờ vào cơ duyên và tu tập của từng người.
=> Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất
Trình Trình Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
1-Chuẩn bị mua sắm lễ vật theo hướng dẫn của Thầy cúng: Bàn thờ và bát hương mua về trước khi bày đặt phải được lau chùi, rửa tẩy sạch sẽ bằng nước ngũ vị hương. Mỗi một bát hương để bốc lập thờ cần có: 1 thất bảo, 1 giây chỉ ngũ sắc, 2 đồ
1-Chuẩn bị mua sắm lễ vật theo hướng dẫn của Thầy cúng:
Bàn thờ và bát hương mua về trước khi bày đặt phải được lau chùi, rửa tẩy sạch sẽ bằng nước ngũ vị hương. Mỗi một bát hương để bốc lập thờ cần có: 1 thất bảo, 1 giây chỉ ngũ sắc, 2 đồng xu là tiền âm dương bằng đồng; 1 tờ giấy châm kim màu vàng vuông rộng từ 35-40 cm, 1 túi giấy bóng vuông ( để gói bài vị gồm 1 thất bảo, 1 giây chỉ ngũ sắc, 2 đồng xu tiền âm dương bằng đồng. khi gói bài vị phải nhớ phần trên và phần dưới để tránh đặt ngược bài vị.Gói đặt đứng bên trong bát hương, mặt tên và phía trên áp sát mặt nguyệt phía trước của bát hương), 1 quả cau, 1 lá trầu đẹp ( gói đặt dưới đáy bát hương) tuỳ theo bát hương to nhỏ mà chuẩn bị lượng tro sạch vừa đủ để đổ vào bát hương; tro thường được lấy từ cành lá chuối khô đem đốt là tốt nhất, bởi vì lá chuối héo khô vẫn không rời thân cây thể hiện như lòng hiếu nghĩa vẹn tình của con người, hoặc dùng rơm chấu sạch đốt lấy tro rây mịn.Mua 6 con ngựa kèm theo ngựa có đủ mũ cờ kiếm giầy áo quần gồm các màu: Ngựa đỏ 2, ngựa trắng, xanh, vàng, tím mỗi màu 1 con cùng 5 tập tào quan, 5 tập giấy tiền, 5 tập vàng lá, 5 loại nến 5 màu để cắm đốt theo ngựa màu nào đốt nến đó, hương 10 bó. Mua ngũ vị hương 3 gói, lấy nước sông lớn sạch cho vào ấm đun dùng các việc: 1 bát để thầy cúng làm lễ; phần nữa để tuỳ theo nhà to hay bé mà để 1,2,3 bát để vẩy tẩy uế 3 gian nhà hay 3 tầng nhà khi lễ xong; để 5 bát con rồi đổ chung và 1 chậu hoà 5 loại đất lấy ở 5 nơi mỗi nơi một ít gồm: (Đất ở chùa, đất chợ, đất miếu, đất đền, đất ngã ba đường) nghiền bóp nhỏ để hoà tan vào nước ngũ vị hương để đọng cặn gạn chia 5 bát nước mỗi bát ghi rõ tên từng hướng đông, tây, nam , bắc và ở giữa, 5 bát nước cúng xong đặt giữa nhà 1 bát, 4 hướng nhà 4 bát theo 5 con ngựa, 5 mũ, 5 lễ tiền vàng 5 màu cụ thể ngựa đỏ (đặt ở hướng nam), ngựa trắng( đặt ở hướng tây), ngựa vàng (đặt Chính giữa nhà ), ngựa tím ( đặt ở hướng bắc), ngựa xanh ( đặt ở hướng đông) khi cúng lễ xong mang ngựa ra các hướng hoá đốt cháy hết ngựa, mũ, giầy cờ kiếm …tiền vàng thì lấy nước ở bát hướng đó vẩy nước vào tro đã hoá.Mua hoa hồng đỏ 10 bông để cắm làm 2 lọ hoa mỗi lọ 5 bông, 3 đĩa hoa đặt ở 3 bàn lễ, 10 quả cam, 10 quả đào, 3 nải chuối, 3 quả thanh long, 3 quả táo, oản chay 5 đĩa, xôi 6 đĩa, gà 1 con, thịt lợn luộc 1kg chia cắt 3 đĩa, rượu bia, chè, thuốc, 1 bát gạo, 1 đĩa muôí, 3 ngìn hàn the, tiền thật tuỳ điều kiện mà chọn 15đồng, 17, 19, 21 hoặc 35 đồng tiền lẻ mới đặt các bàn lễ và 2 bát gạo hoặc 2 cốc gạo dùng để cắm hương khi lễ.2- Bầy đặt lễ nhập trạch: Người Việt lập bàn thờ để làm lễ nhập trạch thường thuận theo hướng nhà vì hướng nhà đã được cân nhắc lựa trọn 1 trong 4 hướng tốt nhất để toạ và quay về hướng tốt đặt cửa chính ( thường gọi là cửa đại hội). Bàn làm lễ phải được lập làm 3 tầng thường gọi là tam cấp; Trên cùng là Bàn Thờ Phật bầy lễ chay gồm hương hoa quả phẩm oản bánh kẹo chè thuốc tiền vàng; tầng 2 thờ đặt lễ vật cúng các vị thánh gồm Ngũ Phương Long Trạch, Thập Vị Kim Cương, Đặt 5 hộp giá mũ từ trái sang phải gồm (1) MŨ ĐỎ ( hướng nam), (2) MŨ TRẮNG ( hướng tây), (3) MŨ VÀNG( Chính giữa), (4) MŨ TÍM ( hướng bắc), (5) MŨ XANH ( hướng đông) thắp theo mũ là nến màu nào đặt vào trước mũ màu đó Đặt gà luộc, xôi, rượu hoa quả bánh kẹo chè thuốc trước mũ; tầng dưới cùng cúng lễ vật dâng thổ công, thổ địa, thổ kỳ, táo phủ thần quân gia trạch bản địa bầy một mũ đỏ của thổ công, 5 lễ tiền vàng thuận theo 5 màu mũ tầng trên tương ứng, thắp nến tương ứng như hàng trên để thổ công nhận từ gia chủ dâng giử thánh thần; bàn thờ thổ công có bia, rượu, thịt, xôi, cau trầu, chè, thuốc, nước. 6 con ngựa đặt chầu ngoài cạnh bàn lễ cũng theo thứ tự trên, bát hương , bài vị để trước mặt thầy cúng để làm lễ. 3- Chuẩn bị đồ chuyển nhà: Việc chuyển nhà đã được ấn định chính xác đến từng giờ và từng khắc ví dụ giờ thìn từ 7 h đến 9 h thường chọn 7h 5phút – 7h 15 phút đầu thìn; hay 8h5 phút hoặc 8h15 phút là giữa thìn. Khi chuyển cần mang ngay những thứ cần thiết mà phải đủ tối thiểu cho cuộc sống, có đại diện cho ngũ hành 5 thứ kim mộc thuỷ thổ hoả gồm: Bếp, ấm đun nước, nồi nấu cơm, gạo, muối, quần áo, dao, thớt, giường, tủ bàn ghế, ti vi…chổi quét nhà. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Ngày Trái Đất - International Mother Earth Day được tài trợ bởi thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Gaylord Nelson như một cuộc hội thảo về môi trường được tổ chức lần đầu tiên vào 22 tháng 4 năm 1970. Trong khi Ngày Trái Đất đầu tiên chỉ được chú ý tại Hoa Kỳ, một tổ chức đã được thành lập bởi Denis Hayes, nguyên là điều phối viên toàn quốc năm 1970, đưa nó lên tầm quốc tế vào năm 1990 và tổ chức các sự kiện ở 141 quốc gia. Ngày Trái Đất giờ đây được điều phối toàn cầu bởi Mạng Ngày Trái Đất (Earth Day Network) và được tổ chức hàng năm tại hơn 175 nước. Nhiều cộng đồng còn tổ chức Tuần Trái Đất, một tuần của các hoạt động xoay quanh các vấn đề môi trường. Năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tuyên bố ngày 22 tháng 4 là Ngày Quốc tế Mẹ Trái Đất (International Mother Earth Day). Tên và các khái niệm lúc đầu được đề xuất bởi John McConnell năm 1969 tại một hội nghị của UNESCO tại San Francisco. Ngày Trái Đất đầu tiên được tổ chức vào ngày 21 tháng 3 năm 1970, ngày đầu tiên của mùa xuân ở Bắc bán cầu. Ngày này sau đó đã được thể hiện trong một lời tuyên bố của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant là một ngày hành động toàn cầu. Ngày nay, Ngày Trái Đất vào ngày Xuân phân (20 hay là 21 tháng 3) vẫn được tổ chức ở nhiều thành phố, như ở San Francisco và các thành phố khác ở California.
Vì sao 20/3 được chọn là Ngày Quốc tế Hạnh phúc?Lời chúc hay nhất cho Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3Để thu hút sự chú ý đến các vấn đề ô nhiễm môi trường, bắt đầu vào khoảng thời gian tương tự, Gaylord Nelson, một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đến từ Wisconsin đã kêu gọi tổ chức một cuộc hội thảo về môi trường, hay Ngày Trái Đất vào ngày 22 tháng 4 năm 1970. Trên 20 triệu người đã tham gia năm đó và Ngày Trái Đất hiện nay được thấy vào ngày 22 tháng 4 hàng năm với trên 500 triệu người và một số chính phủ ở 175 quốc gia.Thượng nghị sĩ Nelson, một nhà hoạt động môi trường, giữ vai trò lãnh đạo việc tổ chức sự kiện, muốn thể hiện sự hỗ trợ chính trị cho một chương trình nghị sự về môi trường. Ông đã lấy những buổi hội thảo rất hiệu quả về Chiến tranh Việt Nam thời đó làm mẫu. Ngày Trái Đất được đề xuất đầu tiên trong một báo cáo gửi JFK bởi Fred Dutton. Tuy nghiên, Nelson quyết định đi ngược lại các tiếp cận từ trên xuống của Dutton, ủng hộ một nỗ lực phi tập trung, quần chúng trong đó mỗi cộng đồng hình thành hành động của họ quang những vấn đề địa phương.Nelson đã truyền bá ý tưởng về Ngày Trái Đất trong chuyến đi của ông đến Santa Barbara ngay sau sự cố tràn dầu khủng khiếp ngoài khơi năm 1969. Tức giận trước sự tàn phá và sự chậm chạp của chính quyền Washington, Nelson đề xuất một buổi hội thảo quốc gia về môi trường được quan sát bởi mọi trường đại học trên toàn nước Mỹ.Năm 2016 tại Việt Nam, để hưởng ứng ngày Trái Đất với thông điệp là: "Nước là cốt lõi của sự phát triển bền vững.Hôm nay ngày 22 tháng 4 năm 2016 Google Doodle đã thay đổi hình ảnh trang chủ của mình bằng những hình ảnh đẹp về các loài động vật trên thế giới. Mỗi lần bạn truy cập Google.com, bạn sẽ nhận được ngẫu nhiên một trong năm hình dưới đây :
Hãy chung tay góp phần làm xanh sạch đẹp môi trường sống cảu chúng ta cũng như bảo tồn các loài dộng vật trên lãnh thổ Việt nam nói riêng và trên Thế giới nói chung nhé!
=> Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com
ST. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Chùa Hương Lãng có tên chữ là Thạch Quang Tự, hay còn gọi là chùa Lạng thuộc thôn Hương Lãng, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Có dịp đến Hưng Yên, bạn không nên bỏ qua một chuyến tham quan, vãn cảnh Chùa Hương Lãng, để có thể tìm đến chốn thanh tịnh, xua tan đi mọi mệt mỏi, lo toan của cuộc sống và khám phá những nét đẹp về văn hóa, truyền thống nơi đây.
Tương truyền chùa do Nguyên Phi Ỷ Lan xây dựng từ thế kỷ XI. Chùa có quy mô lớn, trên diện tích ngót một héc ta, gồm nhiều tòa, bố cục kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”. Từ ngoài vào là Tam quan, có ba lối vào, rồi bậc tam cấp dẫn lên một nền phẳng. Từ cấp này lên cấp thứ hai cũng có ba lối lên. Cấp thứ ba là khu chính, bao gồm nhà tăng, nhà hội đồng, phật điện. Đáng tiếc là chùa bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, từ năm 1955 bắt đầu được trùng tu lại.
Chùa Hương Lãng hiện còn lưu giữ nhiều di vật thời Lý, rất đặc sắc và độc đáo. Giá trị nổi bật là tượng sư tử, còn gọi là ông Sấm. Tượng được tạo bằng phiến đá lớn, dài 2m80, rộng 1m50, cao 0m90 dùng làm bệ cho một pho tượng nào đó nay không còn nữa. Hai đầu của phiến đá chạm khắc thành hình đầu và phía sau của con sư tử. Mặt sư tử tạo tác dũng mãnh, mũi to căng tròn, cặp mắt lồi như hai quả trứng, vầng trán cao. Mông sư tử căng tròn, trang trí dày đặc hoa văn xoắn ốc và hoa cúc dây. Chùa có mười đôi tay vịn bằng đá, chạm phượng và chồn, hoa cúc dây; bốn cột đá vuông bốn góc đỡ các xà bằng đá của công trình trước đây và nhiều tảng đá chân cột chạm khắc cánh sen và hoa cúc.
Bệ tượng đá sư tử trong chùa
Ngoài ra chùa Hương Lãng còn một tấm bia đá ghi lại việc trùng tu chùa vào thế kỷ 16. Tượng sư tử, các bức tay vịn bằng đá là những tác phẩm điêu khắc đá vô giá của thời Lý hiện còn trên đất nước ta.
Bạn đọc Vương Hải Dương (Thường Tín, Hà Nội) hỏi, anh sinh năm 1976. Phòng khách nhà anh sử dụng gạch lát màu đen có phù hợp không ? Lưu ý, nhà không được lớn lắm, là nhà tường gạch, xà gỗ, mái ngói ?
Chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty Cổ phần Nhà Xuân cho biết, theo quan niệm phổ biến hiện nay, những người sinh năm 1976 mang mệnh Thổ thường lo ngại lát đá màu đen mang hành Thủy vì sợ Thổ khắc Thủy.
Tuy nhiên, đây là quan niệm chưa đúng. Bởi theo quy luật phong thủy, sàn nhà tượng trưng cho trời mang tính âm, trần nhà tượng trưng cho đất mang tính dương. Vì vậy, việc chọn màu tối cho sàn nhà và màu sáng cho trần về cơ bản là phù hợp với đạo âm dương của trời đất.
Với những căn nhà có diện tích hạn chế, chật chội về phong thủy được đánh giá là mang tính âm. Nếu lát sàn màu tối thì âm tính. Lời khuyên trong trường hợp này là nên sử dụng màu sắc sáng sủa làm cho không gian có cảm giác rộng rãi, sáng sủa và sạch sẽ hơn.
(Theo Kienthuc) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Việc bốc mộ là một việc vô cùng quan trọng mà con cháu nên lưu tâm. Với một ngôi mộ Kết hoặc đang Kết con cháu không biết mà bốc lên sẽ xảy ra tai họa cho gia đình, nặng thì chết người, nhẹ thì đau ốm, làm ăn lụn bại, con cháu mất đoàn kết, hư hỏng,
trong nhà xảy ra nhiều chuyện quái dị,.. Dưới đây là tử vi những điều cần biết khi cải tán.Tuvikhoahoc.com
I. Kiểm tra ngày bốc và di dời mộ
A/ Trước hết cần lưu ý trong việc chọn ngày :
Theo lịch Âm , tháng đủ có 30 ngày , tháng thiếu có 29 ngày . Tuy lịch xếp là vậy , xong , trong việc chọn ngày không phải cứ giở lịch ra thấy ngày 29 hoặc 30 đã là hết tháng . Ta cần phải căn cứ vào 24 tiết khí hay chỗ nào hòa trực ( Tức là hai trực giống nhau nằm kề ngày nhau ) , lúc đó mới sang tháng khác . Bởi vậy , nhiều khi đã leo qua tháng mới theo lịch 5-7 ngày mà vẫn phải tính theo tháng cũ . Nên để ý là đầu tiết bao giờ cũng đi liền 2 trực giống nhau , một trực là ngày cuối tháng , một trực là ngày đầu tháng . 12 trực KIẾN – TRỪ – MÃN – BÌNH – ĐỊNH – CHẤP – PHÁ – NGUY – THÀNH – THÂU – KHAI – BẾ , mỗi ngày là một trực . Các trực tốt (màu xanh biển) nên sử dụng như sau :
KIẾN, PHÁ, gia trưởng bệnh
TRỪ, NGUY, phụ mẫu vong
MÃN, THÀNH đa phú quý
CHẤP, BẾ, tổn ngưu dương
BÌNH, ĐỊNH, hưng nhân khẩu
THU, KHAI, vô họa ương
B/ Một lưu ý nữa là khi coi ngày: Coi ngày giờ tẩm liệm, chôn cất, bốc mộ thì phải coi theo tuổi của người chết. Cũng nên chọn ngày giờ đẹp để bốc mộ, chọn ngày giờ tại Xem ngày tốt xấu!
C/ Tuổi và ngày nên chọn theo Tam hợp , Lục hợp , Chi đức hợp , Tứ kiểm hợp . Tránh các ngày Lục xung , Lục Hình , Lục hại . Về Ngũ hành nên chọn ngày tương sinh hay tỷ hòa , tránh chọn ngày tương khắc .
D/ Tùy theo tháng mà khi bốc hay di dời mộ , cần phải tránh thêm các ngày Trùng tang , trùng phục , Tam tang , Thọ tử Sát chủ , Nguyệt phá , Thiên tặc Hà khôi …
Thông thường, khi bốc hay di dời mộ , người ta tránh làm vào các tháng hè nóng nực mà thường chọn vào các tiết từ cuối thu (Thu phân khoảng 23/09 dương lịch hàng năm) cho tới trước tiết Đông Chí (khoảng 22/12 dương lịch hàng năm). Sau đó qua năm thường chọn từ Kinh chập (khoảng 5/03 dương lịch hàng năm) tới tiết Thanh Minh (khoảng 05/04 dương lịch hàng năm).
E/ MỘT SỐ NGÀY CẦN QUAN TÂM :
1/ NGÀY ÁC SÁT : Các ngày Giáp , Canh Tý – Giáp Tuất – Quý Mùi – Mậu Thìn – Ất Hợi – Mậu Dần . Không kể tháng nếu gặp các ngày này là Ác Sát . 2/ NGÀY THẬP ÁC ĐẠI BẠI : Giáp , Canh Thìn – Ất , Tân Tỵ – Bính , Nhâm Thân – Đinh Dậu – Mậu Tuất – Kỷ Sửu , Hợi . 3/ NGÀY BẠCH HỔ ĐẠI SÁT : Tuần Giáp Tý : Ngày Thìn , Tuất . Tuần Giáp Tuất : Ngày Đinh Sửu . Tuần Giáp Thân : Ngày Bính Tuất . Tuần Giáp Ngọ : Ngày Ất Mùi . Tuần Giáp Thìn : Ngày Quý Sửu . Tuần Giáp Dần : Ngày Nhâm Tuất . 4/GIỜ THIÊN LÔI :Ngày Giáp , Ất giờ Ngọ . Ngày Bính , Đinh giờ Tuất . Ngày Canh , Tân giờ Sửu . Ngày Nhâm , Quý giờ Mão . 5/ THIÊN SƯ SÁT THEO GIỜ : Ngày Dần , Thân , Tỵ , Hợi giờ Thìn , giờ Hợi . Ngày Tý , Ngọ , Mão , Dậu giờ Thìn , Dậu . Ngày Thìn , Tuất , Sửu , Mùi giờ Thìn , Mùi . 6/ GIỜ KHÔNG VONG : Ngày Giáp Thân giờ Kỷ Dậu . Ngày Ất Mùi giờ Canh Ngọ . Ngày Bính Thìn giờ Tân Tỵ . Ngày Đinh Mão giờ Nhâm dần . Ngày Mậu Tý giờ Quý Sửu . 7/ GIỜ NHẬP QUAN KIÊNG HỒN NGƯỜI SỐNG : Ngày Giáp , Ất giờ Mão . Ngày Bính , Đinh kiêng giờ Sửu . Ngày Mậu , Kỷ kiêng giờ Hợi . Ngày Canh , Tân kiêng giờ Sửu . Ngày Nhâm , Quý kiêng giờ Thìn . 8/ NGÀY SÁT SƯ : Ngày Giáp Tý , Canh Ngọ : xấu với người nhà . Ngày Bính Tý , Ất Mùi : Sát người Thày . Ngày Nhâm Tý : Không lợi cho tất cả . 9/ NGÀY THẬP ÁC ĐẠI BẠI KIÊNG VIỆC HUNG : – Năm Giáp Kỷ – Tháng 3 – Ngày mậu Tuất .Tháng 7 – Ngày Quý Hợi . Tháng 10 ngày Bính Thân . Tháng 11 ngày Đinh Hợi . Năm Ất , Canh – Tháng 4 ngày Nhâm Thân . Tháng 9 ngày Ất Tỵ . Năm Mậu , Quý : Tháng 6 ngày Kỷ Sửu . Năm Bính , Tân : Tháng 3 ngày Tân Tỵ . Tháng 9 ngày Canh Thìn . Tháng 10 ngày Giáp Thìn . Năm Đinh , Nhâm không phải kiêng . 10/ GIỜ LIỆM KIÊNG MỘC VÂY QUANH QUAN TÀI : Ngày Tý giờ Dậu . Ngày Sửu giờ Ngọ . Ngày Dần giờ Dần . Ngày Mão giờ Sửu . Ngày Thìn giờ Tuất . Ngày Tỵ giờ Tỵ. Ngày Ngọ giờ Thìn . Ngày Mùi giờ Hợi . Ngày Thân giờ Thân . Ngày Dậu giờ Mùi . Ngày Tuất giờ Mão .
II/ CÔNG VIỆC CẦN CHUẨN BỊ TRONG NGÀY BỐC HAY DI DỜI MỘ.
Thông thường sau khi chọn được ngày bốc mộ , người Thày cũng cần phải xem giờ bốc mộ cho thân chủ . Tùy theo giờ tốt mà bốc , nhưng tất cả cùng phải chung một điều là bốc mộ phải làm vào ban đêm . Việc này nhằm tránh cho xương cốt gặp ánh sáng sẽ bị đen đi . Khi bốc mộ , người ta thường đào trước phần lớp đất ở phía trên trước , sau đó đúng giờ tốt mới bắt đầu mở tấm ván Thiên lên ( Tấm ván Thiên là tấm ván trên nóc quan tài ) .
Trước khi tiến hành bốc mộ , người nhà phải có làm một cái lễ tại Gia tiên để trình báo Tổ tiên . Tại nơi bốc hài cốt ngoài nghĩa trang cũng phải có một cái lễ trình Quan Thần Linh sở tại . Thông thường là một bộ đồ Quan Thần Linh ( Áo , mũ , ủng ) , ngựa và 1000 vàng hoa màu đỏ , giấy tiền vàng bạc , trầu cau , rượu , thuốc , đèn nến , gạo muối . Nhiều nhà còn cúng thên Tam sên ( trứng vịt luộc + Thịt lơn luộc và một nhúm tôm khô bóc vỏ ) , xôi , gà trống luộc nguyên con ….
Vật dụng cần thiết cho quá trình bốc mộ là một cái tiểu sành , một cái quách đặt làm sẵn , một miếng vải đỏ , một tấm ni lông , vài chai rượu nặng và nước Vang ( Còn gọi là nước ngũ vị hương – Đừng nhầm với gói ngũ vị hương để nấu Ca ri – Gói Vang có bán sẵn ở tiệm thuốc Bắc ) . Một vài cái xô , chậu nhựa để rửa xương .
Phần lớn việc bốc mộ diễn ra vào lúc nửa đêm, tuy nhiên tốp thợ thường phải thức trọn đêm cùng gia chủ làm công việc chuẩn bị như cúng bái và chuyển hài cốt sang mộ mới. Trung bình để bốc xong một ngôi mộ, mỗi tốp thợ phải làm việc quần quật suốt hơn một tiếng đồng hồ. Trước khi đào, họ phải xác định vị trí huyệt thật chính xác, nhiều ngôi mộ do chôn thời gian lâu, quá trình tu sửa bị sai lệch vị trí so với ban đầu, nếu không biết cách sẽ phải đào rất vất vả, có khi đào nhầm sang mộ bên cạnh.
Công việc bốc mộ thường là do những người chuyên môn bốc mộ đảm nhiệm . Khi ván Thiên được cậy ra , người ta phải đổ vài chai rượu có nồng độ cao vào quan tài để tảy rửa âm Khí . Sau đó mới tiến hành lấy cốt . Nhiều khi gặp trường hợp hài cốt chưa phân hủy hết , người ta phải dùng xăng đổ vào mộ và đốt cháy thịt còn sót , sau đó phải dùng dao dóc những mảnh thịt còn lại và đem rửa bằng nước vang . Sau khi nhặt hết cốt , rửa sạch , người ta trải tấm ni lông ở dưới , tấm vải đỏ ở trên và lần lượt xếp xương theo thứ tự của người . Riêng cái sọ phải dùng trà hoặc vải kê để cho mặt hướng lên trên . Mọi thứ xương phải kiểm tra cho đủ , không được phép thiếu .Có một cách mà dân gian thường sử dụng để kiểm tra đó là: sau khi “đãi cốt” xong, người ta thường cắm một bó hương to giữa lòng đáy huyệt, nếu làn khói quyện lại, bay thẳng lên có nghĩa đã hết cốt, nếu làn khói tỏa xuống, lởn vởn trong lòng huyệt có nghĩa là xương cốt của người chết chưa hết, cần phải kiểm tra lại.
Khi trồng cây trong vườn cũng cần chú ý đến những yếu tố phong thủy để cuộc sống của con người hài hòa hơn vói thiên nhiên. Khi quy hoạch tổng thể sân vườn cần phải chú ý đến bố cục chung trong đó, cây cỏ hoa lá là một trong những yếu tố quan trọng.
Khi trồng cây trong vườn cũng cần chú ý đến những yếu tố phong thủy để cuộc sống của con người hài hòa hơn vói thiên nhiên.
Khi quy hoạch tổng thể sân vườn cần phải chú ý đến bố cục chung trong đó, cây cỏ hoa lá là một trong những yếu tố quan trọng.
Khi trồng cây phù hợp với yêu cầu phong thủy sẽ có lợi cho sức khỏe, tài vận và sự nghiệp của con người.
Đây cũng là một phương thức tạo cảnh quan môi trường thuần chất trong phong thủy truyền thống.
Lưu ý khi trồng các loại cây
– Những cây trồng trong vườn nên chọn loại cây có thân thẳng đều, vươn cao như chuối, tre, trúc, cau, dừa… sẽ mang lại nhiều may mắn và thuận lợi trong công việc của các thành viên trong gia đình.
– Nếu cành lá của cây cối xung quanh sinh trưởng hướng về các phòng trong nhà đều có lợi, nếu ngược lại là bất lợi.
– Hướng Tây Bắc là hướng Càn, cây cối là Mộc tinh, vì thế hướng nhà ở hướng Tây Bắc nên trồng cây to sẽ bảo vệ được chủ nhân của nhà đó.
– Bạn có thể trồng xung quanh sân vườn một dãy tre, trúc để mang lại những điều tốt lành cho người trong nhà. Tre, trúc cũng là các loại cây dễ sống, cành lá tươi tốt bốn mùa nên có chức năng cải thiện môi trường và điều tiết phong thủy rất tốt.
– Nếu như cây cối trong vườn luôn xanh tốt là biểu hiện cho đất đai màu mỡ, môi trường trong lành.
– Nếu cây cối sinh trưởng thưa thớt là biểu hiện một môi trường không tốt, đó cũng là cách giúp bạn cải thiện môi trường, tránh những ảnh hưởng bất lợi đối với sức khỏe.
Lưu ý với hướng khi trồng cây
– Theo quan niệm của phong thủy, khi trồng cây nên trồng hướng cát tránh hung. Nên trồng những loại cây mang vận cát và chú ý hướng trồng cây.
Ví dụ đào nên trồng trước nhà; liễu nên trồng bên cạnh ao, bể nước; trồng các loại cây hoa trước hiên nhà, “trước cau sau chuối”…
Bên cạnh đó, nên tránh trồng những loại cây như hoa sứ vì nó chỉ thích hợp trồng nơi chùa chiền, miếu mạo.
– Nếu nhà hướng Tây hoặc Tây Bắc thì nên chọn những loại cây chịu nắng tốt, đó là những cây mang khí dương như hoa mai, hoa đào, thiên thanh, đinh lăng…
Nếu nhà hướng Bắc hoặc Đông Bắc thì cây trồng nên có lá màu sáng để phản xạ thêm ánh sáng, hoặc lá dày thân chắc để ngăn gió lạnh như cau, dừa, bàng, mật cật…
Những điều không nên khi trồng cây trong vườn
– Trước cửa ra vào hoặc cửa sổ không nên để các cây khô héo hoặc cây to che lấp cửa.
– Với vườn trước nhà, đặc biệt là vị trí trước cửa ra vào hay cửa sổ không nên trồng những cây có hình dáng không đẹp, cây có nhiều gai.
– Không nên trồng nhiều loại cây lá rộng, rậm rạp trước nhà làm mất cân bằng âm dương cho sân vườn.
Mơ thấy chim bồ câu: Gia đình hòa thuận, cuộc sống ổn định –
Trong văn hóa truyền thông phương Đông và phương Tây, bồ câu chính là biểu tượng hòa bình, nó tượng trưng cho gia đình hòa thuận, cuộc sống ổn định. Tuy nhiên, nếu mơ thấy chim bồ câu với hình dáng bải hoải, rã rời lại là hình ảnh tượng trưng của sự
Thái Lan là đất nước sùng Phật giáo, vì vậy đời sống văn hóa có nhiều điểm gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trong đó, có tục xăm kinh văn lên người. Tục xăm hình này của người Thái mang ý nghĩa tâm linh, được coi là nghi thức linh thiêng, ẩn chứa pháp thuật.
Tục xăm hình kinh văn ở Thái Lan có lịch sử từ lâu đời, xuất phát từ lòng tín nhiệm Phật giáo và tôn sùng tín ngưỡng của dân tộc này. Trước khi tiến hành xăm hình, cần tổ chức nghi thức tổ sư, cầu khấn tổ sư ban cho pháp lực để có thể mang kinh văn trên người. Tiếp theo là chọn hình phù hợp. Tất cả những kinh văn xăm lên người đều như một dạng phù chú nên chỉ xăm một lần và không sửa đổi.Các hình xăm thường được lựa chọn là bản tôn hoặc thần bảo hộ, trong đó tiêu biểu nhất là hầu thần, hổ thần, tượng thần, song vĩ diêm xà, chiêu tài nữ thần, những vị thần tượng trưng cho sự dũng mãnh, bảo hộ bình an, tiễu gian trừ ác, tăng cường nhân duyên và may mắn. Nhưng xăm kinh văn thông thường người Thái sẽ lựa chọn một đoạn trong kinh Phật bằng tiếng Phạn. Đây được coi là thứ ngôn ngữ tâm linh bí ẩn có tác dụng cực cao khi xăm lên mình. Một số các đoạn kinh văn phổ biến nhất bao gồm:1. Ngũ điều kinh văn, đại biểu cho bình an, thuận lợi, nhân duyên, tài vận, khỏe mạnh.2. Ngũ điều kinh Kim Cương đem bình an, thuận lợi, nhân duyên, tài vận, khỏe mạnh, chắc chắn ổn định bình an, không dễ dàng bị ngoại lực ảnh hưởng.
Nếu xăm cả ngũ điều kinh văn và ngũ điều kinh Kim Cương thì tác dụng tăng lên vô hạn: (1) Bình an: kẻ thù đều rời xa, vấn đề giải quyết dễ dàng, tai nạn rời xa bên người. (2) Thuận lợi: đi đến đâu cũng có quý nhân trợ giúp, sự nghiệp thuận buồm xuôi gió, mục tiêu đều có thể thực hiện được. (3) Nhân duyên: xinh đẹp như a phổ tiên nữ, kết bạn với rất nhiều bằng hữu. (4) Tài vận: tài phú sẽ không mất đi, chịu khó làm việc còn có tài phú, công tác tốt. (5) Khỏe mạnh: cường tráng sẽ không sinh bệnh, ốm đau tiêu biến.3. Hầu thần cáp nô mạn: thông minh, thích hợp nhân viên công vụ, thăng quan phát tài.4. Lạp hồ thiên thần: phòng tiểu nhân, tránh tiểu nhân, khai vận chiêu tài, ác linh không dám tới gần.5. Hồ Điệp vương: gia tăng nhân duyên, tăng mị lực, cảm tình thuận lợi, được hoan nghênh. Xăm mình - dấu hiệu của quỷHai hình xăm chữ cực tốt theo phong thủyKhám phá hình xăm biểu trưng của 12 chòm saoTâm Lan Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Ngày xá tội vong nhân: Những con giáp gặp may mắn nhất
Con giáp may mắn trong ngày xá tội vong nhân: Trong khi mọi người quan niệm phải kiêng đủ thứ thì mới có thể vượt qua tháng cô hồn dễ dàng, những con giáp này
Trong khi mọi người quan niệm phải kiêng đủ thứ thì mới có thể vượt qua tháng cô hồn dễ dàng, những con giáp này lại đủng đỉnh, thậm chí gặp nhiều may mắn trong tình cảm và công việc.
► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự
1. Người tuổi Thân
Mặc dù bước vào tháng xá tội vong nhân, thường mang đến những điều xui xẻo, nhưng những người cầm tinh con Khỉ lại có bước ngoặt lớn trong chuyện tình cảm. Các mối quan hệ được mở rộng, tình yêu đôi lứa thêm bền chặt.
Ảnh minh họa
Hơn thế, người tuổi Thân còn được nhiều quý nhân phù trợ nên công việc thuận buồm xuôi gió. Đặc biệt, những người kinh doanh buôn bán sẽ có cơ hội kiếm bội tiền khi thay đổi phương thức làm việc hoàn toàn mới lạ. 2. Người tuổi Dậu Khác với người tuổi Thân, người tuổi Dậu gặp may mắn chủ yếu về phương diện tài chính chứ không phải tình cảm. Khi quyết định đầu tư vào bất cứ hạng mục nào, con giáp này đều có khả năng thắng lớn. Ngày xá tội vong nhân là thời điểm lí tưởng để bạn phô diễn khả năng kinh doanh nhạy bén của mình.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, có điểm cần lưu ý là bạn phải cẩn trọng trong các mối quan hệ với đối tác hoặc khách hàng. Chỉ cần sự hiểu nhầm nhỏ sẽ dẫn tới tranh chấp lợi ích cá nhân, thậm chí là phải ra tòa kiện tụng. 3. Người tuổi Hợi
So với những con giáp còn lại, người tuổi Hợi vượng vận quý nhân hơn nên làm việc gì trong tháng cô hồn cũng thuận lợi, gặp hung hóa cát. Tài ăn nói khéo léo và cách xử lí thông minh của bạn sẽ hóa giải được những mối quan hệ phức tạp, giải quyết được những vấn đề tồn đọng của tháng trước.
Ảnh minh họa
Ngoài ra, nếu có cơ hội được đi công tác xa hoặc học chuyên sâu kiến thức, người tuổi Hợi phải nhanh chóng nắm bắt cơ hội, tạo bước đà thăng tiến vững chắc. 4. Người tuổi Sửu
Ảnh minh họa
Xét về tổng thể, vận thế của người tuổi Sửu tăng trong tháng cô hồnxá tội vong nhân. Dù là công việc, sự nghiệp hay tiền tài, tình cảm đều thuận buồm xuôi gió. Đặc biệt, người độc thân có thể tìm được đối tượng phù hợp và có bước ngoặt quan trọng trong tình yêu. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Tuy tai đột nhiên nóng lên là phản ứng tự nhiên của cơ thể nhưng có thể bói ra sự kiện có thể xảy ra trong tương lai. Hãy cùng ## tìm hiểu thêm.
tai nóng
Nhiều lúc tai đột nhiên nóng lên không vì lý do gì, tuy nhiên phản ứng tự nhiên của cơ thể đó có thể chỉ ra những cát hung của người đó trong tương lai. Sau đây là cách bói đơn giản của hiện tượng trên dựa theo giờ thần phát sinh:
Giúp vợ chồng hiếm muộn cầu tự thành công với 4 mẹo phong thủy Phong thủy phòng ngủ không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tài vận và sự nghiệp của chủ nhân mà còn quan hệ chặt chẽ với việc mang thai của người vợ. Sau đây là 4 Giờ Tý (23 giờ - 1 giờ)Khi tai đột nhiên nóng vào giờ này có nghĩa là sắp có tai họa bất ngờ tìm đến gia chủ, hãy đến miếu thờ hoặc chùa chiền dâng hương xin ban phúc để giải trừ tai họaGiờ Sửu (1 giờ - 3 giờ)Chuyện vui sắp đến, tuy nhiên chuyện vui này không phải của bản thân mà là người nhà, anh chị em.Giờ Dần (3 giờ - 5 giờ)Gia chủ có tai đột nhiên nóng lên vào giờ này nhất định được mời ăn, nhanh chóng hội họp với người thân hoặc bạn bè.Giờ Mão (5 giờ - 7 giờ)Sẽ có bạn lâu ngày không gặp đột nhiên liên hệ, gia chủ phải bỏ chút tiền để mời bạn đi ăn.
Giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ)Tai phát nóng vào giờ này chủ tài hỷ, đại cát, điều này có nghĩa tài vận của gia chủ vào ngày hôm đó sẽ hanh thông, thích hợp đầu tư kinh doanh, nhận được nhiều đơn hàng.Giờ Tỵ (9 giờ - 11 giờ)Khác với giờ Thìn, tai nóng lên vào giờ Tỵ chính là biểu hiện của hao tài tốn của, bị trộm cướp, gia chủ cần phải chú ý.Giờ Ngọ (11 giờ -13 giờ)Tai đột ngột nóng lên vào giờ này có nghĩa là việc vui sắp đến, đại cát đại lợi, có dấu hiệu được mời ăn.Giờ Mùi (13 giờ -15 giờ)Sẽ có người đến nhờ gia chủ giúp đỡ, nếu có thể giúp hãy cố gắng hoàn thành, nếu không thì cũng nên vui vẻ cự tuyệt.Giờ Thân ( 15 giờ - 17 giờ)Khi tai đột ngột nóng lên vào giờ này có nghĩa là sắp có cơ hội gặp bạn bè ăn uống, gặp được quý nhân, đại cát đại lợiGiờ Dậu (17 giờ - 19 giờ)Khi tai đột ngột nóng lên vào giờ này có nghĩa là sắp có cơ hội gặp bạn bè ăn uống, gặp được quý nhân, đại cát đại lợi
Giờ Tuất (19 giờ - 21 giờ)Nếu tai nóng lên vào giờ này có nghĩa là không thể tránh khỏi thị phí sắp tìm đến, khi gặp tình huống này không nên nói gì vì "lùi một bước trời cao biển rộng"Giờ Hợi (21 giờ - 23 giờ)Vào giờ Hợi tai nóng lên cũng có nghĩa là gia chủ gặp thị phi, tuy nhiên nếu vào giờ Tuất là thị phi liên quan đến sự nghiệp thì giờ Hợi là tranh chấp thường ngày, sẽ có sự việc nguy hiểm liên quan đến tranh đoạt phát sinh Dưỡng sinh đúng cách khi vào tiết Tiểu Mãn
Xin chớ lầm vì một số những câu phú, dù là những câu phú đã “nổi tiếng” như:
• Đẩu quân ở Tử Tức cung Đến già không thấy tay bồng con thơ. • Mấy người bất hiển công danh Bởi vì Nhật, Nguyệt đồng minh Sửu, Mùi • Chỉ hiềm Khôi, Việt phùng Không.
Ông Phong Nguyên kể mấy câu chuyện lý thú về những cách đó để tặng quý bạn.
1) Đẩu Quân ở cung Tử Tức
Tất cả những ai đã biết về Tử Vi, dù chưa giỏi, cũng đều biết câu phú
Đẩu Quân kỵ Tử Tức cung Đến già chẳng thấy tay bồng con thơ.
Cũng chỉ vì câu phú này mà tôi đã bị một người bạn chê trách và giận tôi khá lâu. Tôi còn nhớ rõ hồi anh bạn tôi mới lấy vợ có nhờ tôi coi số Tử Vi cho cả hai vợ chồng để xem tương lai có tốt đẹp không, nhất là về phương diện con cái vì anh bạn tôi rất chú trọng đến vấn đề nối dõi. Trong phần này tôi chỉ nói đến cung Tử Tức. Qua lá số của anh, tôi thấy cung Tử Tức có Cô Quả, Riêu Hình Kỵ, Kình Đà Linh, còn lá số của vợ anh có Đẩu Quân, Cự, Kỵ…. ở cung Tử Tức. Sau một phút đắn đo, tôi đi tới kết luận là số anh rất hiếm con, nếu không muốn nói là tuyệt tự. Anh ta thất sắc và hỏi gặng lại xem có đúng thế không. Hồi đó tôi mới biết sơ về Tử Vi nên chỉ biết căn cứ vào mấy cuốn sách thông thường (như cuốn Tử Vi Lập thành của Nguyễn Phúc Ấm chẳng hạn), và do đó tôi liền mở một cuốn ra cho anh ta coi về đoạn nói về câu phú kể trên để xác định lời quyết đoán của mình. Vì thấy sách nói rõ như vậy nên anh ta đành phải tin và vẻ mặt trông thẫn thờ, thật tội nghiệp…
Cách độ mười năm sau, tình cờ tôi gặp lại anh bạn tôi và xem ý anh ta không niềm nở mấy trong khi tôi tay bắt mặt mừng. Nhưng chỉ một phút sau là tôi hiểu lý do, vì anh ta có “mạt sát” tôi liền về lời giải đoán của tôi hồi trước và cho biết rằng anh đã có hai con trai khôi ngô đĩnh ngộ. Anh còn nói thêm là nếu không kiêng cữ thì có lẽ lúc anh gặp tôi ít ra anh cũng có năm sáu con rồi. Bị trách móc nặng nề như vậy tôi rất lúng túng và chỉ còn biết thú tội là tôi đâu có rành về Tử vi mà tin quá vậy, nhưng anh lại trách thêm là nếu không có khả năng thì đoán làm chi. Sau khi nói chuyện với nhau một cách bình thường tôi bèn bảo anh ta đưa lại hai lá số của anh và vợ xem tại sao lại có sự sai lầm nặng nề như vậy, không lẽ giờ sanh của hai người cùng sai. Vừa mới nhìn sơ qua lá số của vợ anh tôi giật mình là hồi trước mình chỉ biết một mà chẳng biết hai, cứ áp dụng câu phú “Đẩu Quân kỵ Tử
Tức cung…” một cách máy móc. Vì thực ra, bất cứ ai đã theo dõi, chú trọng đến các câu chú đều biết câu:
“Hiếm hoi gặp được Thiên Hình Cát tinh trước cửa lại sinh quý hòe”
Câu này cũng không phải là câu xa lạ gì lắm vì tôi có được đọc trong một hai cuốn sách Tử vi đã xuất bản nhưng những người mới học Tử Vi có lẽ không thể hiểu rõ nổi câu này.
Hai chữ “hiếm hoi” ứng vào sao Đẩu Quân (vì sao này nếu không có Thiên Hình thì hiếm thật) và khi đã có Thiên Hình đồng cung (tam hợp không ứng nghiệm) mà lại được tam phương có cát tinh củng chiếu (như Quang Quý, Long Phượng, Thai Tọa, Nhật Nguyệt thành bộ) thì nhất định là vẫn sinh nhiều con như thường, không những thế, con cái lại thành danh (quý hòa). Đây chính là trường hợp lá số của vợ bạn tôi, do đó, lời giải đoán hổi trước của tôi sai lầm một trăm phần trăm rồi. Tuy nhiên về cung Tử Tức của anh và vợ anh vẫn có điểm khác đúng vì các sao Cô Quả Kình Đà Linh Kỵ nếu nói theo một cách thực thế thì thường chủ về vấn đề kiêng cữ sinh đẻ hữu hiệu (bởi thế mình đừng nên nói là mình có thể cải được số bằng cách kiêng cữ, vì nếu không có sao tiết chế thì còn lâu mới chống lại được số), do đó anh ta mới chỉ có sanh 2 con thôi, còn lá số của người vợ có Cự Kỵ Hình nên con anh ta có đứa chết hụt về nước và còn bị té gẫy tay nay đã lành, một đứa bị té muốn nứt đầu…
Cũng về sao Đẩu Quân ở cung Tử Tức, có vị (cụ Song An Đỗ Văn Lưu) lại nói với tôi rằng câu phú đầu tiên phải đọc là
Đẩu Quân kỵ Tử Tức cung Đến già còn thấy tay bồng con thơ (Tức là chữ “còn” thay cho chữ “chẳng”)
Vì cụ cho rằng người nào cung Tử Tức có cách đó thì sanh con trễ chứ không hiếm, nếu không sẽ sinh nhiều và tới già còn sanh nữa. Tôi đã chiêm nghiệm nhiều lần thì thấy nhận định của cụ Song An không đúng chút nào. Có nhiều người cung Tử Tức có rất nhiều sao tốt, chỉ vì bị sao Đẩu Quân mà không có Thiên Hình nên không có người con nào, hoặc cùng lắm thì chỉ có một hai người con gái (thường theo Tử Vi ít ai tính tới con gái). Tuy nhiên, quý bạn cũng nên chiêm nghiệm xem ý kiến của cụ Song An có đúng trong trường hợp nào không?
Vì bị sai lầm nặng nề như trên cho nên tôi ít khi thích trưng câu phú ra để thuyết phục những người coi, chỉ sợ rằng lại có những câu khác “chế hóa” lại mà mình không được biết chăng.
2) Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi
Nếu có người cho rằng Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu hoặc Mùi thì công thành danh toại, chắc chắn quý bạn nghĩ là trái hẳn với câu phú:
Mấy người bất hiển công danh Bởi vì Nhật, Nguyệt đồng minh Sửu Mùi (có sách ghi là “đồng tranh”)
Đây không phải là ý kiến của tôi mà chính là của một người có căn bản về Tử Vi hiện đang sống tại Sài Gòn (mà tôi xin giấu tên).
Vị đó có nêu ra câu: Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi, công danh phỉ hiển (xin ấn công (người in báo) nhớ để dấu hỏi trên chữ “PHỈ” để khỏi hiểu lầm) để chứng minh và bảo rằng chữ “PHỈ” có nghĩa là được thỏa mãn, đầy đủ, nhưng vì bị lầm với chữ “phi” (không có dấu) có nghĩa là không (như trong chữ phi nghĩa, phi dân tộc…) cho nên mới có người đặt ra là “bất hiển” vì chữ “bất” cũng có nghĩa giống như chữ “phi”.
Về phần tôi, tuy nhận thấy ý kiến của vị đó rất hợp lý nhưng tôi nghiệm thấy không ứng vào trường hợp nào cả vì tình cờ trong số bạn bè và cả trong gia đình, họ hàng của tôi có rất nhiều người có cách Nhật Nguyệt đồng minh Sửu Mùi mà chẳng có ai làm nên gì hết. Tôi nghĩ rằng có lẽ câu “phỉ hiển” chỉ ứng nghiệm khi Nhật Nguyệt ở cung xung chiếu, nghĩa là khi mệnh vô chính diệu tại Sửu có Nhật Nguyệt đồng cung tại Mùi hoặc ngược lại, nhất là đối vơi tuổi Bính Tân. Tôi xin ghi nơi đây câu phú liên hệ để quý bạn tiện đối chiếu:
“Nhật Nguyệt đồng cung Sửu, Mệnh an Mùi, Bính Tân nhân cát hầu bá chi tài”
Bởi vậy, nói chung quý bạn cần lấy nhiều lá số và theo dõi, kiểm chứng thì mới mau giỏi về Tử Vi chứ nhiều khi có căn bản vững mà không có kinh nghiệm thì vẫn đoán sai trật như thường, và điều quan trọng bao giờ cũng vẫn là vấn đề giải đoán chính xác.
3) Chỉ hiềm Khôi Việt phùng Không
Tôi có thể nói rằng chỉ vì câu “Khôi Việt phùng Không” mà tôi đã đem hết tâm trí vào việc nghiên cứu khoa Tử Vi. Tôi hãy còn nhớ rõ hồi tôi còn ít tuổi tôi cùng với một người bạn thân đi coi một thầy Tử Vi già ở ngoài Bắc về phương diện học vấn. Tôi ngồi nghe thầy đó đoán cho anh bạn tôi, còn tôi không coi vì hồi đó tôi không tin về khoa tướng số, tử vi. Sau chừng một phút bấm Tử Vi trên bàn tay (vì thiếu thị giác) thầy đó chép miệng cho anh bạn tôi hay rằng anh ta khó có thể học được tới đích cao khoa và kỳ thì sắp tới bị trục trặc nhưng không rớt. Vì hồi đó tôi chưa biết gì về Tử Vi nên tôi chỉ nhớ sơ qua thầy ấy nói rằng mạng anh bạn tôi thiếu văn tinh (tức là Xương Khúc, Khôi Việt, Hóa Khoa, v.v…) mà đại hạn tuy có Khôi Việt nhưng lại ngộ Thiên Không và xung chiếu có Triệt trong khi tiểu hạn lại trùng phùng với đại hạn. Rồi cuối cùng thầy đó cứ nhắc đi nhắc lại câu “chỉ hiềm Khôi Việt phùng Không” để đi đến kết luận như trên.
Một tháng sau, anh bạn tôi đi thi trung học đệ nhất cấp (hồi đó quen gọi là “diplôme”) với tinh thần hơi xáo trộn vì bị ám ảnh bởi lời giải đoán của thầy Tử Vi đó. Nhưng rồi anh ta làm bài vở rất ngon lành và đã đậu kỳ thi viết khiến anh ra rất đỗi vui mừng và nghĩ là thầy đó đoán trật. Đến khi thi vấn đáp anh ta không còn lo âu nữa và trong thâm tâm rất lạc quan, nhưng không ngờ anh ta lại rớt chỉ vì một môn chính bị số không. Lúc đó tôi mới khâm phục thầy Tử vi đó và mới bắt đầu quan tâm đến khoa lý số.
Bây giờ, sau khi đã có chút vốn liếng về Tử vi, tôi lập lại lá số của anh bạn tôi (mà tôi còn giữ ngày giờ sanh để chiêm nghiệm) thì thấy rằng khía cạnh đó cũng không có gì khó đoán. Sở dĩ anh bạn tôi chỉ bị trục trặc về kỳ thi vấn đáp (sau anh đậu kỳ nhì) vì Thiên Không tuy cũng ứng vào câu phú, tức là hại cho Khôi Việt, nhưng không ngăn trở mạnh bằng Triệt, Tuần, hơn nữa mạng anh bạn tôi là Hỏa tương hợp với Thiên Không là hỏa nên không bị trở ngại mạnh mẽ, cho nên tuy rớt kỳ nhất nhưng đậu kỳ nhì. Anh ta bị phá ngang vì mệnh thiếu sao văn học, chứ không do đại hạn bị Thiên Không. Tôi còn cần nói thêm là trong đại hạn này còn có Song Hỉ, Cáo-Phụ, Quan Phúc, Đào Hồng là những sao chủ về may mắn, thành công, công danh nhẹ bước, như thế làm gì mà bị cản trở mạnh.
Ngoài ra, tôi cũng còn cần lưu ý quý bạn về một điểm chung là không phải trường hợp nào Khôi Việt cũng sợ Tuần, Triệt, Thiên Không. Nếu Khôi Việt ở chỗ hãm địa như Sửu chẳng hạn) thì lại rất cần gặp Không thì mới thành đạt về khoa cử được. Tôi đã chiêm nghiệm thấy rất đúng vì tôi có vài người bạn đã đậu rất cao ở ngoại quốc nhờ có Khôi Việt ngộ Triệt ngay tại Mệnh.
Những người này đến với tình yêu bằng tình cảm chân thành và trong sáng. Vì người yêu, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Họ mong muốn "nửa kia" đáp lại tấm chân tình của họ.
Một số người thuộc nhóm máu này khá tin tưởng vào duyên số. Khi tìm kiếm được người lý tưởng, họ cho rằng định mệnh đã đưa họ đến với nhau. Họ sẽ chủ động tiếp cận và gây dựng tình cảm với người ấy. Đợi thời điểm thích hợp. họ sẽ ngỏ lời yêu.
Trong tình yêu, họ khá lãng mạn. Họ luôn làm vừa lòng người ấy bằng những lời nói ngọt ngào, tràn đầy tình yêu thương.
Người tuổi Thìn nhóm máu AB luôn coi gia đình là nền tảng quan trọng. Họ rất yêu thương, tôn trọng người bạn đời của mình và luôn tạo không khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc.
Để mọi thành viên trong gia đình được hòa thuận, vui vẻ, nam giới tuổi này nên tìm bạn đời là những người phụ nữ chín chắn, độ lượng và biết cảm thông. Người vợ như vậy sẽ giúp chồng xoá bỏ những ưu phiền và có được thành công trong sự nghiệp. Nữ giới nên kết hôn với những người đàn ông trầm tính và có chí tiến thủ.