Mơ thấy cử chỉ yếu ớt: Dừng bước vì tự ti –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Họ luôn muốn được ở bên người yêu và muốn được người đó quan tâm, chú ý đến mình. Khi đứng trước đối phương, họ sẵn sàng bộc lộ cảm xúc với người đó. Tuy nhiên, nhiều khi họ hành động theo cảm tính chủ quan mà không quan sát thái độ của "nửa kia". Vì vậy, khả năng thất tình của họ là rất lớn.
Hôn nhân của người tuổi Dần thuộc nhóm máu AB ổn định hơn so với người tuổi Dần thuộc nhóm máu khác. Họ luôn biết cách cân bằng giữa gia đình và bạn bè để có được sự cảm giác thoải mái, vui vẻ.
Nam giới tuổi Dần thuộc nhóm máu AB thường khá bảo thủ và độc đoán. Họ chỉ muốn người vợ nhất nhất nghe theo họ.
Bản thân nữ giới thuộc nhóm máu này rất biết cách vun vén và chăm sóc gia đình. Họ có thể quán xuyến mọi công việc trong gia đình để chồng chuyên tâm với công vệc.
(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)
Mơ thấy cầu vồng, giải mã giấc mơ thấy cầu vồng. Nhìn chung theo các sách giải mã giấc mơ, thì giấc mơ thấy cầu vồng mang ý nghĩa gì, giấc mơ đó sẽ mang lại may mắn và cát tường. Dù bạn là nam hay nữ giới thì khi mơ thấy cầu vồng đều là điềm báo tốt lành. Hôm nay chũng mình sẽ cùng đi giải mã các giấc mơ thấy cầu vồng được mơ thấy nhiều nhé.

Nội dung
Giấc mơ này là điềm báo tốt, nó hàm ý bạn sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, tình cảm vợ chồng mặn nồng và sâu đậm.
Đây cũng là giấc mơ tốt lành, nó ngụ ý bạn sắp gặp được một người đàn ông biết quan tâm, chia sẻ và hết lòng yêu thương bạn.
Ngủ mơ thấy cầu vồng: Là điềm báo bạn sắp sửa kết hôn, người vợ mà bạn cưới sẽ là một cô gái hiền hậu và đảm đang
Giấc mơ này hàm ý bạn sẽ có một cuộc sống hạnh phúc và viên mãn bên người con gái bạn đang yêu thương.
Giấc chiêm bao này là điềm báo về sự đoàn viên. Bạn sắp sửa trở về trong thời gian tới.
Giấc mộng này ngụ ý báo cho bạn sẽ gặp được đúng thầy, đúng thuốc và bệnh tình của bạn sẽ sớm bình phục.
Con số liên quan đến giấc Mơ Thấy Cầu Vồng là: 04 – 40 – 45
Con người chưa thể lý giải nổi những yếu tố thiên nhiên xung quanh chi phối mình như thế nào nên các vật như hòn đá, thân cây, con vật có quan hệ mật thiết với họ đều được họ tôn thờ như thần linh. Trong ngôn ngữ nhiều nước ở châu Âu (như tiếng Pháp) mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống đực giống cái.Đó là chứng cứ xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta.
ở ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân dân thờ cúng, coi đó là một biểu tượng, nơi ẩn hiện của một vị thiên thần hoặc nhân thần nào đó. Người ta "Sợ thần sợ cả cây đa" mà cúng cây đa, đó không thuộc vào tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước tượng Phật, tượng Chúa, Lễ Thần, quì trước long ngai của Thần, những Thần đó có thần hiệu rõ ràng, chứ không phải lạy khúc gỗ hòn đá như tục bái vật.
Xưa, xa xưa, ta có tục bái vật không? Ngày nay chỉ còn lại vài dấu vết trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi con dâu về nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm lánh nhưng luôn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ làm vỡ bình vôi thì đem mảnh bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vức ở chỗ ô uế.
Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ thiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Nhân dân không ai được dùng gỗ chò làm nhà riêng. Ngày xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy, lạy gốc chứ đã phải lạy thần đâu!
Còn như tục kiêng vứt chân hương vào thùng rác hoặc chỗ dơ bẩn, kiêng dùng giấy có chữ Nho vào việc uế tạo người ta cũng thận trọng cất đi, đó là vì ý thức tôn sùng thần linh, cụ thể là đức Khổng Tử, chứ không phải là sợ hồn của chân hương hay tờ giấy. Đó không phải là tục bái vật.
![]() |
![]() |
| ►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm |
Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, dưới đây là 35 điều kiêng kỵ tâm linh trong dân gian.
1. Đi đường nếu gặp tiền lẻ hay những vật dụng cá nhân của người khác không nên lượm lặt dù là mục đích gì. Thông thường một số người đang gặp hạn người ta giải hạn bằng cách vứt bỏ những thứ ấy xem như vứt bỏ cái xui của họ, nếu mình nhận lấy thì sẽ lãnh lại cho họ.
2. Trong nhà có người chết vì treo cổ, thì khi lấy tử thi xuống phải lấy sợi dây đó đốt ngay. Đây là câu chuyện có thật, nếu nhà nào đó có người treo cổ chết nhưng không đốt sợi dây đó đi thì một năm sau cũng nhà đó có người chết treo cổ củng ở ngay vị trí ấy, chính vì thế đó được coi là sợi dây oan nghiệt, nếu không đốt đi thì nó vẫn luẩn quẩn quanh nhà đó và cứ mỗi năm thay phiên nhau chết.
3. Nếu đi đám ma lỡ người quá cố ấy có xinh gái hay đẹp trai thì không được khen, vì nếu khen thì họ sẽ đi theo mình.
4. Người khắc tuổi với người chết trong lúc động quan hoặc hạ huyệt thì không được dòm dù là người thân. Vì như vậy sẽ làm cho người chết khó siêu thoát.
5. Ban đêm không được đánh son môi, làm mặt rồi đi ngủ, bởi hồn sẽ sợ chạy mất.
6. Rớt đồ xuống sông phải nhặt lên, nếu không là bị mắc đằng dưới.
7. Người nào có tang (khăn tang) trong người thì không nên tới nhà những người bạn hay người thân vì sẽ "lây" cái tang và đem điều không may đến cho họ.
8. Sau khi an táng, trong vòng 1 tháng ban đêm có ai gọi tên mình thì tuyệt đối không được trả lời, không được mở cửa, không được thưa gởi gì hết. Thông thường người chết vì quá thương tiếc người thân của mình nên về bắt người thân đi theo.
9. Buổi tối, không chơi năm mười, hay còn gọi là cút bắt (trốn tìm) sau 10h, bởi khi chơi, xui xẻo sẽ bị ma dấu.
10. Đi ngủ cũng vậy. Cái đầu không được hướng ra đường, hoặc ngủ quay đầu vô bàn thờ. Bởi có hai lý do ,một là đầu hướng ra đường đó là tư thế nằm của người chết.hai là khi ngủ hồn của ta xuất ra nếu hướng ra đường thì hồn của ta sẽ đi luôn ra đường.
11. Không mặc đồ trắng quá 12h, bởi dễ bị vong theo.
12. Không phơi đồ ngoài sân vào ban đêm, bởi nếu không các linh hồn lang thang sẽ bị cám dỗ "gắn bó" với quần áo và "ám" những người mặc chúng, hơn nữa dễ bị sương gió ngoài trời thấm vào và gây nên bệnh. Việc giặt và treo nên được thực hiện khi có ánh nắng mặt trời vì chúng rất có lợi.
13. Không được gõ chén khi ăn, bởi người ta quan niệm rằng khi ăn mà gõ chén sẽ gọi ma đói tới.
14. Không bao giờ được mang những quả lê làm quà khi đến thăm người bệnh trong bệnh viện vì đây là một biểu tượng liên quan đến sự chia lìa, chết chóc.
15. Không tặng quà với số lượng bốn, vì số bốn có âm thanh như "cái chết". Nếu bạn muốn mang quà khi đi thì nên chọn các loại bánh kẹo hoặc sôcôla.
16. Chưa ăn không được để đũa trên chén, vì giống cúng người khuất mặt.
17. Tránh huýt sáo vào ban đêm: Bạn có thể đi bộ và cảm thấy hạnh phúc, khi đó bạn có thể bắt đầu một cách vô thức huýt sáo một giai điệu nào đó. Theo những người lớn tuổi, làm như vậy chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của những linh hồn lang thang, sau đó bám theo bạn về nhà.
18. Không chải tóc lúc nửa đêm: Quan niệm của ông bà ta, khi chải tóc lúc nửa đêm là chải cho ma xem.
19. Trước khi cúng không được ăn vụng.
20. Không mua bán đinh vào ban đêm: Các bạn cứ thử vào 7h tối tới tiệm tạp hóa mua đinh, đảm bảo chủ quán sẽ ko bán.
21. Đi vào nơi có mồ mả không được nói bậy: Cho nên thường đi thanh minh hay tảo mộ,người ta kỵ không cho con nít theo,vì con nít còn nhỏ thường thắc mắc tò mò, đôi khi lại nói bậy, người lớn cũng vậy khi vào nơi mồ mã cũng không nên nói bậy.
22. Không ngủ chung mèo đen bởi nó sẽ không cho hồn bạn nhập vào xác bạn.
23. Không soi gương chải đầu trên xe bởi bạn sẽ mang lại sự rắc rối cho nhà xe và tất cả mọi người trên xe.
24. Không lật mình cá: Tài xế, người đi biển nếu bạn để ý thì họ ăn cá như sau: Ăn xong một bên mình con cá thì họ rút xương con cá lên ăn tiếp chứ không có lật mình con cá lại vì lật mình con cá theo những người làm tài xế thủy thủ sẽ có điềm gở, lật xuồng, lật xe, lật tàu.
25. Đừng bao giờ thề thốt hay hứa hẹn với người đã chết rồi không làm.
26. Khi đi dự đám tang về nên hơ người bằng lửa ấm, thay quần áo và hạn chế tiếp xúc với trẻ nhỏ.
27. Với các bạn nữ vào những ngày “ấy” không nên đi đến những nơi linh thiêng, xem bói và không nên qua lại trước bàn thờ.
28. Những ngôi nhà bằng gỗ khi có máu (cả người hay động vật) bám trên thân gỗ thì nên thay đổi, hoặc không nên ngủ gần đó.
29. Ai đã lầm lỡ phá bỏ thai nhi con mình thì hãy đặt cho bé cái tên và đem lên chùa gửi.
30. Nếu trước nay chưa cúng cô hồn bao giờ do không có điều kiện thì không cúng luôn, chớ nên cúng rồi lại bỏ.
31. Đặc biệt với con gái, phụ nữ nên hạn chế để quần áo ngoài trời vào ban đêm, đặc biệt là đồ “nhỏ” => Dễ mắc duyên âm.
32. Vào ban đêm tránh soi mình dưới mặt nước.
33. Thực hiện làm ăn hay làm những việc mang tính chất đại sự nên xem ngày để tránh nhằm vào ngày Tam Nương => Tan nát, bất thành.
34. Có câu: Chim sa cá luỵ, thế nên gặp những con vật trong hoàn cảnh đó không nên chiếm hữu nó và đem về nhà.
35. Cây đa là nơi hội tụ âm khí, ma quỷ rất thích những chỗ như vậy, cho nên kỵ đứng, ngồi, nằm, trốn… ở đó.
Thế nhưng trên thực tế hiếm khi các bạn có được cơ hội đó bởi nhiều yếu tố sau:
- Căn nhà hợp với chủ cũ khác tuổi tác của mình nên vấn đề phong thủy cũng có phần sai biệt.
- Sự thiết kế của căn nhà không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong mỗi giai đoạn cuộc đời.
Vì thế khi vào ở một căn nhà chúng ta phải biết rõ khuyết điểm của căn nhà và khoa phong thủy có tác dụng điều chỉnh hay hóa giải những khuyết điểm kể trên để cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.
Phương cách hóa giải thì nhiều và đa dạng phong phú. Thế nhưng để chọn lựa phương cách hóa giải phù hợp với mức độ ảnh hưởng xấu để không gây ra những ảnh hưởng phụ khác đó là điều nên thận trọng. Và để hóa giải phong thủy của một căn nhà chúng ta cần phải nghiên cứu từng bước một.
I/- Nghiên cứu toàn bộ khuyết điểm căn nhà:
Ðây là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại trong việc hóa giải. Nếu công việc này làm không hiệu quả hay thiếu sót thì việc hóa giải chỉ nửa vời không đạt được kết quả mong muốn.
Nhiều người cho rằng gia chủ có một căn nhà hợp hướng là tốt đủ rồi, không cần quan tâm đến những điều khác. Ðây là một điều sai lạc vô cùng. Một căn nhà tốt phải hội đủ và hài hòa tất cả yếu tố phong thủy trong căn nhà chứ không chỉ riêng phương hướng là đủ. Ví dụ một căn nhà đúng hướng nhưng tọa tạc trên một mảnh đất tam giác, đất nghiên trủng, hay là ở trong nhà có bếp lò, nhà cầu, cầu thang nằm ngay giữa nhà thì cũng không tốt. Tóm lại có rất nhiều điều cần phải quan tâm đến khi muốn biết một căn nhà hợp phong thủy hay không.
Khi xét phong thủy một căn nhà là phải tổng hợp tất cả các yếu tố trong và ngoài căn nhà chứ không nên dựa vào một vài đặc điểm nào đó mà bỏ quên đặc điểm khác.
Tìm biết hết tất cả khuyết điểm của căn nhà là một điều cần thiết, vì có như vậy chúng ta mới có thể hóa giải triệt để những ảnh hưởng xấu đối với căn nhà. Có thể tạm phân loại các khuyết điểm về phong thủy như sau :
- Âm dương: Một căn nhà gặp khuyết điểm về âm dương thường rơi vào trường hợp cô dương hay cô âm: Trường hợp cô dương (hay dương thịnh) như sáng quá, chói lòa, màu sắc rực rỡ, ồn ào, náo nhiệt. Hay cô âm (hay âm thịnh) như u tối, thiếu ánh sáng, trống vắng, thiếu sinh khí, màu sắc ảm đạm, âm u, ẩm mốc bẩn thỉu mang nhiều âm khí đều không tốt cho gia chủ, ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng.
- Ngũ hành: Một căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành thường do việc bố trí phòng ốc hay trang trí không thích hợp như là phối trí màu sắc, bông hoa, cây cỏ, bàn thờ, bếp, bồn cá, lò sưởi không đúng phương vị. Nếu có sự xung khắc thường mang lại sự xung đột bất hòa trong cuộc sống.
- Hình thể nhà và đất : Do khuyết điểm của thế đất không bằng phẳng, hình dáng khuyết tật, nhà cửa xây dựng mất cân đối, các cung vị bát quái bị lồi lõm.
- Phòng ốc: Sự bố trí phòng ốc trong căn nhà được hài hòa thuận vị là điều tốt đẹp. Thế nhưng nếu bố trí nghịch vị thì cần phải có sự hóa giải đúng mức và kịp thời. Ví dụ như cửa phòng ngủ trực diện với phòng tắm; phòng ngủ nằm ngay trên bếp, bàn thờ; cầu thang trổ ra cửa vv. Phòng tắm nằm ngay trên, phía trước cửa chính; cầu thang đổ ra cửa; ba cửa nhà thông thương; nhà hay phòng có hai lối rẽ; nền nhà cao thấp hay khuyết góc.
- Những tác hại xấu do bên ngoài: như là ngã ba đâm vào, đòn dông, cột đèn, cây cổ thụ, biển báo, độ dốc, ao hồ sông rạch, núi đồi cản trở.
- Những tác hại xấu từ bên trong: Thường do sự bài trí không đúng phương cách như là kê bàn, ghế, tủ, góc nhà tạo nhiều cạnh đâm vào cửa chính, phòng ngủ, xà nhà chắn ngang đầu… Những yếu tố xấu này thường ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà.
II/- Nhu cầu hạnh phúc của gia đình:
Ðây là bước thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Cần biết đâu là nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong đại vận hiện tại thì mới có thể đề ra những biện pháp hóa giải hữu hiệu. Ví dụ : Một gia đình lớn tuổi nhu cầu hạnh phúc chính yếu nhất là sức khỏe và tuổi thọ. Nếu có hóa giải khuyết điểm căn nhà thì phải chọn lựa những biểu tượng mang tính hòa hợp tươi vui nhưng trầm mặc như là rùa, hồ lô, sáo trúc, tùng, tượng ngư tiều canh độc. Nhà cửa có cửa chính hay nằm ngủ chọn hướng Thiên Y.
Trái lại vợ chồng son trẻ có làm ăn ở nhà, không muốn bị quấy nhiễu hạnh phúc có thể hóa giải phong thủy bằng những biểu tượng mang thể loại mạnh mẽ hơn như thú dữ, xương rồng, thanh kiếm, mũi tên sắc, súng đại bác.
Trường hợp vợ chồng gay cấn, xung đột mong muốn có hạnh phúc thì nên chọn những biểu tượng phong thủy như Long Phụng hòa minh, đôi chim tỉa cánh, bông hoa mang màu sắc tươi mát và thích hợp với ngũ hành của hai người.
Trở lại ví dụ đầu tiên, nếu căn nhà xấu đối với người lớn tuổi mà dùng các biểu tượng như thú dữ, hay vật dụng hung hãn, chẳng những không có tác dụng tốt lại còn gây thêm áp lực nặng nề hay tạo thêm cảm giác lo ngại cho người lớn tuổi.
Chúng ta có thể phân loại nhu cầu hạnh phúc của gia đình như sau : – Tiền tài, – hạnh phúc – sức khỏe, tuổi thọ – con cái . Tùy theo nhu cầu hạnh phúc của gia đình để chọn lựa những biểu tượng hóa giải thích hợp.
III/- Phương cách hóa giải:
Có nhiều phương cách hóa giải thế nhưng trước khi quyết định chọn lựa một phương cách hóa giải thích hợp cần phải quan tâm đến 2 điểm:
1)- Khi dùng hóa giải tại cung nào nên chú ý đến ngũ hành của cung đó, để sử dụng các biểu tượng phong thủy thích hợp với hành của cung đó. Ví dụ khi muốn thay đổi hay phát triển công việc, thì công việc đầu tiên phải tăng cường cung Quan Lộc tại hướng Bắc căn nhà, thì ta phải chú ý hướng Bắc thuộc hành thủy. Do vậy những vật dụng tăng cường cung này phải tương sinh với hành thủy như màu trắng, vật dụng kim loại, tranh sơn thủy, hồ cá, thác nước.
2)- Khi hóa giải một khuyết điểm của căn nhà nên sử dụng đúng mức biện pháp hóa giải, để tránh những ảnh hưởng phụ do hóa giải quá độ gây ra. Ví dụ: khi hóa giải một phòng tắm xấu ở giữa nhà (trung cung) có thể che kiếng là đủ, chứ không nên vừa dùng kiếng, lại thêm cây kiểng hay dùng súng đại bác để bắn tiêu khuyết điểm này.
Ngoài hai yếu tố trên, chúng ta cũng không phải dễ dàng để chọn lựa một biểu tượng thích hợp vì rằng có nhiều biểu tượng hóa giải có cùng tác dụng thì biết chọn biểu tượng nào. Vì thế một biểu tượng hoàn hảo nhất để hóa giải phong thủy phải đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
· Hợp Phong Thủy: Ðây là tiêu chuẩn quan yếu đầu tiên, cần phải đạt được. Trong trường hợp có nhiều biểu tượng có cùng tác dụng thì biết chọn lựa thứ nào. Ví dụ: để hóa giải một cái đòn dông đâm vào cửa chính chúng ta có thể dùng nhiều biểu tượng như là mũi tên sắt, súng đại bác, bát quái, kính lồi, trụ phun nước, dời cửa chính và chúng ta chỉ nên chọn lựa một biểu tượng thích hợp nhất mà thôi. Do vậy trước khi quyết định chúng ta phải dựa đến tiêu chuẩn thứ hai.
· Hợp nhu cầu hạnh phúc gia đình: Như trên đã nói, đối với người lớn tuổi mong muốn bình an dĩ hòa vi quý thì nên chọn lựa những biểu tượng nhẹ nhàng, không gây tác hại cho người khác mà cũng có thể đạt mục đích yêu cầu của mình. Trở lại ví dụ trên, chúng ta có thể chọn lựa biện pháp treo hình bát quái, kính lồi hay trụ phun nước. Thay vì chúng ta chọn những biểu tượng công phá có thể gây hại cho người khác chỉ thích hợp đối với gia đình trẻ tuổi mà thôi. Trường hợp có nhiều biểu tượng đạt được hai tiêu chuẩn trên thì biết chọn biểu tượng nào. Chúng ta nên chọn biểu tượng phù hợp với tiêu chuẩn thứ ba.
· Hợp thẩm mỹ, nhu cầu văn hóa gia đình: Ngoài những biểu tượng căn bản chúng ta cũng có thể sáng tạo những biểu tượng khác đạt được mục đích trên lại phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ, hay địa vị gia chủ trong xã hội nữa. Ví dụ : ở khu vực kinh doanh người Mỹ có khi chúng ta dùng hình bát quái không thích hợp bằng kính soi hay những vật dụng phản chiếu đầy thẩm mỹ khác chẳng hạn.
Hành: Thủy
Loại: Bại Tinh
Đặc Tính: Phiền não, ưu tư, bi quan, phá tán, xui xẻo
Tên gọi tắt thường gặp: Hư
Là sao phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Thiên Khốc và Thiên Hư. Gọi tắt là Khốc Hư. Một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).
Ý Nghĩa sao Thiên Hư Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo: Thiên Hư là sao ưu tư, âu sầu, cho nên thủ Mệnh thì da xanh, mắt có quầng đen, diện mạo buồn tẻ, mặt thiếu khí sắc, mắt kém thần, hay trông xuống, không trông xa.
Tính Tình: Là bại tinh và là sao âu sầu, SaoThiên Hư có nghĩa:
U buồn, ủy mị hay phiền muộn, đa sầu.
Bi quan, yếm thế.
Hay đãng trí, nghĩ đây quên đó.
Hay hốt hoảng hoang mang.
Ăn nói sai ngoa.
Sao Thiên Hư tượng trưng cho nước mắt, lo buồn, xui xẻo. Chỉ riêng ở hai vị trí Tý và Ngọ thì có nghĩa tốt.
Có chí lớn.
Có văn tài lỗi lạc, nhất là tài hùng biện, nói năng đanh thép, hùng hồn.
Có khiếu hoạt động chính trị.
Ý nghĩa này càng rõ rệt hơn nếu đi kèm với cát tinh.
Phúc Thọ Tai Họa
Ở hãm địa, Sao Thiên Hư chủ sự khốn khổ, đau buồn trong tâm hồn, sự xui xẻo dưới nhiều hình thức và sự yểu.
Ở tại Thìn, Tuất thì hay mắc nạn và vắn số.
Đi cùng với Kiếp, Phù, Khách, Cự, Nhật thì suốt đời bi ai, lúc nào cũng đau buồn, than khóc, tiếc thương vì bệnh tật, vì tang tóc.
Khốc, Hư, Sát hay Phá đắc địa đồng cung: Có quyền cao chức trọng, uy danh lừng lẫy, được thiên hạ nể phục vì uy và tài.
Ý Nghĩa sao Thiên Hư Ở Cung Phúc Đức:
Tổn thọ, có âm hồn báo oán nếu hãm địa.
Mã phát, hiển đạt nếu đắc địa ở Tý Ngọ.
Ý Nghĩa sao Thiên Hư Ở Cung Tài Bạch:
Khó kiếm tiền, hay lo âu vì tiền bạc, hao tài.
Nếu ở Tý Ngọ thì trước nghèo sau giàu.
Ý Nghĩa sao Thiên Hư Ở Cung Tử Tức:
Sinh con khó nuôi, sinh nhiều nuôi ít.
Đẻ mất con, sát con.
Ý Nghĩa sao Thiên Hư Ở Cung Phu Thê:
Bại tinh, Sao Thiên Hư ở đâu đều làm xấu cung đó, trừ phi đắc địa.
Xa nhau rồi mới lấy nhau được.
Nhân duyên trắc trở buổi đầu.
Ăn ở với nhau có nước mắt.
Vợ chồng xung khắc nếu có thêm Kình hay Đà.
Sao Thiên Hư Khi Vào Các Hạn
Chỉ đắc lợi nếu đắc địa, nhưng chỉ thịnh trong 5 năm sau (nếu là đại hạn) hay nửa năm sau (nếu là tiểu hạn) mà thôi.
Gặp Tang Môn: Có tang chế, hoặc gặp phải chuyện buồn thấm thía hoặc vì tang khó hoặc vì tình phụ.
iện pháp hoá giải chúng như sau:

– Hoá giải góc khuất:
+ Dùng tủ gỗ hình khôi chữ nhật, tam giác có mặt phẳng hay mặt lồi với kích cỡ phù hợp để che phần góc khuất.
+ Để tăng cường không gian thiên nhiên trong chính phòng khách của mình, bạn có thể đặt một chậu cảnh hoặc xây bệ trồng cây cảnh vào phần góc khuất đó.
+ Đặt một bể cá vàng vừa với góc khuất, sẽ mang lại sự may mắn và phú quý tới cho chủ nhà.
+ Xây kín góc khuất rồi treo tranh chữ hay tranh sơn thủy để làm đẹp gian phòng.
+ Tận dụng không gian góc khuất, bạn có thể xây một giá kệ nhiều tầng với đèn trang trí xung quanh rồi bày những chai rượu quý, đồ gốm hoặc những đồ vật độc đáo do mình SƯU tập được, không những che được góc khuất mà còn gây được sự thích thú cho khách khi đến thăm nhà bạn.
– Hoá giải cột trụ:
+ Với những cột liền tường, bạn có thể dùng các loại tủ quần áo, tủ sách, tủ rượu, tủ bày biện trang trí để che lấp đi hoàn toàn, hòa lẫn tự nhiên với các phần khác trong không gian phòng khách.
+ Với phòng khách có hai cột thì bạn có thể tận dụng khoảng không gian theo chiều ngang giữa hai cột để đặt các loại tủ rượu và tủ sách…
+ Với phòng khách có một cột độc lập, bạn có thể đặt thêm một bức bình phong sát cạnh để biến cột làm giải phân cách trong phòng khách, tạo ra 2 không gian nhỏ trong phòng khách, một bên làm nơi tiếp khách, một bên là dùng làm phòng ăn, nghe nhạc…
Ngoài ra có thể thiết kế một bên cột độc lập tạo thành bậc, tức một bên nền cao, một bên nền thấp khiến người ta có cảm giác ngay thiết kế ban đầu đã là như vậy, về cảm quan sẽ thấy tự nhiên hơn.
+ Nếu không muốn dùng cột độc lập để ngăn phòng khách ra làm hai phòng nhỏ, bạn có thể đặt chậu hoa cảnh quanh chân cột hoặc căn cứ theo thế cột mà đặt giá trên thân cột để các chai rượu quý, đồ gốm, đồ lưu niệm của bạn bè làm vật trang trí cho phòng khách thêm sinh động.
+ Với những chiếc cột quá to, che khuât cả ánh sáng tự nhiên, bạn nên lắp đèn chiếu sáng trên thân cột để tăng ánh sáng cho gian phòng.
Ngoài ra, bạn có thể treo ở dưới xà nhà và cột các loại đèn trang trí, đạo cụ âm nhạc (sáo, tiêu, đàn tranh), hoặc một tấm gương thái cực.
A. Hình dáng các bàn tay của Nam giới
1. 1. Bàn tay ngắn quá : nghĩa là bàn tay không cân đối với cánh tay, hay với một thân hình to lớn quá. Cánh tay dài, hay thân hình to lớn thì phải có bàn tay dài hay to thì mới tương xứng. Người có bàn tay ngắn quá, thì đó là dấu hiệu cho thấy một con người có nhiều tánh tình lạ lùng, kỳ khôi, thường thì việc làm và lời nói không đi đôi với nhau, nói một đường làm một nẻo, hoặc muốn làm khác người.
2. 2. Bàn tay dài quá, và ngón tay thì gút mắt, kẽ giữa các ngón tay thưa thớt, tướng cao lêu khêu, miệng rộng, răng to, râu thưa : Bàn tay như thế, mà cộng thêm với dáng người như vậy, thì đây là hạng người hay nói nhiều, nói dai, nhưng không có cái gì ăn khớp với cái gì, và hay thù vặt.3. 3. Bàn tay dài quá, mà ngón tay lại ngắn, thô kịch, có gút mắt, và ngón tay út cũng quá ngắn : Ðây là hạng người nhẹ dạ, tính tình lại hay thay đổi và quá thiên về vật chất, coi tiền bạc nặng hơn tình nghĩa, hay nói càng nói xiên chẳng vị nể ai cả.
4. 4. Bàn tay đầy đặn và các đường chỉ tay rõ ràng không có những lằn cắt ngang dọc cộng thêm với tướng người cao vừa vặn cân đối, khỏe mạnh, mắt không bị lộ, đây là tướng người có những đức tính tốt, trường thọ, phúc hậu, lời nói bao giờ cũng được suy nghĩ trước khi nói, và phải có lý thì mới phát biểu, chứ không bạ đâu nói đó, nói càng nói bậy.5. 5. Bàn tay dài, lòng bàn tay hẹp, ngón tay không đều (ngón to ngón nhỏ, ngón mập ngón ốm) cong quẹo, đầu ngón tay cái nhọn vót, móng tay cứng, những đường chỉ trong lòng bàn tay không rõ ràng : ta đoán được những người như vậy có tính thái quá, thiếu chừng mực trong mọi việc, bạ đâu vui đó, không thủy chung, có khi còn càn bướng và láo khoét nữa.
6. 6. Bàn tay hơi vuông, đầu ngón tay cái và các ngón khác cũng hơi vuông, lòng bàn tay cứng và có ba dường chỉ chính (Sanh đạo, Trí đạo, và Tâm đạo – sẽ nói về sau) rõ ràng. Cộng thêm ngón út dài, chiều dài của ngón út (mở bàn tay ra và khép các ngón tay lại) dài hơn hai lóng của ngón áp út (ngón đeo nhẫn), đầu ngón út hơi tròn và có vành cao lên. Ðây là bàn tay của người siêng năng cần mẫn, việc làm rất chu đáo, biết xắp xếp, điều hòa mọi việc, biết giữ lời hứa, ít nói, tánh tình ngay thẳng, cương trực, đứng đắn, họ chịu đựng được môi hoàn cảnh của cuộc đời, cần kiệm, sống lâu, ăn uống hay chưng diện không lòe loẹt, đơn giản.7. 7. Bàn tay với lòng bàn tay cứng dẽ, các ngón tay hơi ngắn, móng cứng, có chỉ Tâm đạo xỉa xuống giữa ngón trỏ và ngón giữa : đây là bàn tay của người có tánh lì lợm, kỳ khôo. ít chịu phục tùng ai bao giờ, dầu cho lý lẽ của họ có sai bét đi chăng nữa, họ cũng không chịu thua. Vì sự cố chấp và cứng đầu của họ, nên cuộc đời họ gặp nhiều sóng gío, nhiều lần suy xụp, đảo điên.
8. 8. Bàn tay mà mỏng manh, ngón tay ngắn quá, lưng bàn tay xanh xao, da mặt cũng xanh xao, răng thưa và hô, tướng ốm, tóc sợi nhỏ, lỗ mũi nhỏ và lộ xương, xương cuống họng ló ra dài, người như vậy rất có thể mang chứng bệnh lao, và chết yểu .
9. 9. Bàn tay vuông, các ngón tay cũng vuông, lòng bàn tay cứng dẽ,có một đường chỉ (tâm đạo) nằm vắt ngang bàn tay như chữ nhất (-) đây là bàn tay của những người tánh tình nghêng ngang, hay gây sự, kiêu căng, phách lối, nhưng lại hay làm bộ hiền lành. Phần nhiều những người này lại hay sợ … vợ.
10. 10. Trái lại, bàn tay cũng có đường chỉ (tâm đạo) nằm ngang, nhưng lòng bàn tay thì mềm mại và các ngón tay cân đối, ngón tay cái dài, lóng thứ nhất của ngón cái vừa dài lại vừa vuông, đầu ngón trỏ hơi vuông, ngón tay út dài, và đầu ngón cũng hơi vuông – tướng người to béo, nước da trắng, pha đen, tiếng nói lớn và vang vang. Người như vậy thường là những người có chí sưu tầm những gì tỉ mỉ, trầm tĩnh, ít nói, nếu họ là bậc trí thức, thì họ có những đặc tài riêng, nhưng nhẹ dạ và nhát gan. Nữ giới mà người nào có đường chỉ nằm ngang lòng bàn tay như vậy là người hay hờn lẫy, và ghen tuông. Tóm lại, tất cả người nào có chỉ Tâm đạo nằm trọn ngang bàn tay thì họ là những người quá hà tiện đến độ bần, và cũng thường có những chứng bệnh về bộ phận tiêu hóa như ruột, dạ dày, hoặc yếu tim, phổi v.v.
Bói tay là một môn khoa học có từ lâu đời nghiên cứu về bàn tay (hình dáng, đường chỉ tay,…). Mặc dù đây chỉ là những tiên đoán mang tính tạm thời nhưng có vẻ như đấng tạo hóa đã vẽ sẵn một bản đồ cuộc sống trên bàn tay chúng ta. Mỗi đường chỉ tay thể hiện một lĩnh vực, mang tới một thông điệp.
Trong bàn tay có những đường chính như đường Sanh Đạo, Trí Đạo, Tâm Đạo, Định Mạng, Thái Dương và Hôn Nhân. Phạm vi của bài này chỉ giới hạn trong đường Hôn Nhân. Vị trí của đường này nằm ở ngay dưới ngón tay út, về phía cạnh của bàn tay. Đó là những đường rất nhỏ và ngắn so với những đường khác.
Vì sao tôi ghi tựa của bài này là "Xem chỉ tay người yêu"? Vì khi chúng ta yêu ai thì thường muốn biết người mình yêu như thế nào và hôn nhân sẽ ra sao. Còn nếu đã thành hôn rồi thì cũng muốn biết "nhịp cầu" có sẽ gãy đổ hay tồn tại mãi với sông tình. Ðể giúp tôi viết bài này dể dàng hơn, tôi xin phép đứng về phía các chị để xem chỉ tay của các anh. Tuy nhiên các anh có thể hiểu ngược lại, áp dụng những gì tôi trình bày trên bàn tay của các chị. Mức độ chính xác là tùy hoàn cảnh và sự hiểu biết riêng biệt của từng người. Tôi chỉ muốn đem sự hiểu biết khiêm tốn của mình về khoa xem chỉ tay chia xẻ với các bạn, với nhiều thiện ý.
Người bạn đang yêu có thể nói, "Em thật sự là mối tình đầu của anh". Bạn chẳng cần yêu cầu chàng qua máy Lie Detector (máy phát hiện nói dối) để biết sự thật. Bạn chỉ cần nhìn ở nơi có đường Hôn Nhân (ngay dưới ngón tay út như đã nói ở trên). Nếu bạn thấy 2 đường trở lên thì chắc chắn bạn không phải là người yêu duy nhất của chàng. Nói đến đây, bạn sẽ thắc mắc, "Tôi thấy có hai đường hôn nhân, vậy đường nào là của tôi đây, có thể tôi là mối tình đầu của anh ấy thì sao?". Để trã lời thắc mắc của bạn, tôi xin nói sơ qua về cách đo thời gian ở khoảng có đường Hôn Nhân. Đường Hôn Nhân ở khoảng giửa chân ngón tay út và đường Tâm Đạo. Bạn chia 4 khoảng cách đó, nếu đi từ Tâm Đạo trở lên, ¼ là 21 tuổi, 2/4 là 28 tuổi, ¾ là 35 tuổi.
Bạn có thể phỏng chừng thời gian ở giửa 2 tuổi 21-28 hay 28-35 nêu trên. Nếu anh ấy gặp bạn lúc 28 tuổi, nhưng khoảng 21 tuổi bạn thấy có một đường thì anh ấy đã từng trao thư tình cho ai đó trên đường có nhiều phượng đỏ! Ngược lại, nếu bạn gặp anh ấy vào tuổi 21, thì chắc chắn đây là mối tình đầu (tình đầu nào cũng đẹp, phải không bạn?), nhưng cái đường tình ở tuổi 28 là của ai đây?! Quá khứ, hiện tại, tương lai nằm ngay trên bàn tay là vậy đó.
Bây giờ chúng ta đi sâu vào chi tiết hơn. Thế nào là đường Hôn Nhân tốt hay xấu? Thường đường Hôn Nhân tốt thì thẳng, đậm và dài, tuyệt đối không bị gãy hay có những dấu hiệu gì khác trên đường đó. Nếu đường quá ngắn và mờ thì đó không phải là hôn nhân, mà chỉ là tình cảm sâu đậm, hay chỉ là mối "tình vụn"Trong hình số 2 trên đây, tôi vẽ 4 loại đường Hôn Nhân không tốt để các bạn dễ hiểu, bình thường thì chỉ có một đường thôi. Đường số 1 là đường Hôn Nhân bị gãy đổ (đường gãy và chồng lên nhau). Sau khi đã thành hôn rồi thì cũng phải chia tay thôi. Đường số 2 có cái chĩa hai (fork) ở cuối đường, kết cuộc rồi cũng phải xa nhau hay ly dị sau một thời gian chung sống với nhau. Xin lưu ý là hình số 2, đường chĩa hai (fork) hướng về lòng bàn tay (—-<), nếu hướng về cạnh của bàn tay (>—-), thì đây chỉ là một sự đính ước (engagement) không tiến đến hôn nhân. Đường số 3 tuy thẳng và dài, nhưng có một đảo nhỏ (island) đóng trên đường (—o—). Nó báo hiệu những xáo trộn lớn trong hôn nhân, hòn đảo càng lớn thi thời gian sống cách xa nhau càng kéo dài. Sau cùng là đường số 4, đường này có chỉa hai (fork) và đồng thời chạy xuống đường Tâm Đạo. Ðó là đường xấu nhứt trong 4 đường, có nghĩa là phải ly dị.
Tôi cũng cần nói thêm vài loại đường không ghi trong hình. Ðường Hôn Nhân có gạch chấn ngang là bị ngăn cản trong hôn nhân (—|–). Còn nếu đường Hôn Nhân cong vòng về phía ngón tay út, người này theo chủ nghĩa "độc thân". Sau cùng, tôi cũng xin bạn để ý, nếu đường Hôn Nhân đậm và thẳng, nhưng lại có một đường nhỏ và mờ song song kèm theo, chắc bạn đoán được là gì rồi chứ? Bạn cần kiểm nhận khi anh ấy đi chơi về, có mùi nước hoa lạ chăng?
Ngoài những đường Hôn Nhân nói trên ở dưới ngón tay út, còn có một loại đường khác cũng cho biết hôn nhân thành tựu hay không. Đó là đường chạy từ gò Thái Âm (Luna) về hướng đường Định Mạng (số 5 trong hình). Nếu đường này gặp (chạm vào) đường Định Mạng thì hôn nhân mới thành tựu, còn nếu ngưng nửa chừng thì không được. Một đường nhỏ và ngắn chạy song song với đường Ðịnh Mạng cũng là dấu hiệu thành công của hôn nhân.Bạn có thể thắc mắc là xem chỉ tay trên tay trái hay phải . Người ta thường nói câu "Nam tả nữ hữu" khi xem chỉ tay, có nghĩa là phái nam thì xem tay trái, phải nữ xem tay phải. Nhưng qua những gì tôi học hỏi được, những chỉ tay trên bàn tay trái chỉ về định mạng, thường không thay đổi. Những chỉ tay trên bàn tay mặt thay đổi tùy theo những gì bạn có thể thực hiện được để thay đổi định mạng. Nếu trời dành cho bạn trí tuệ thông minh xuất sắc (được ghi trên bàn tay trái), nhưng bạn không chịu học hỏi, thì tất nhiên đường trí tuệ của bạn xấu hơn trên bàn tay phải. Áp dụng vào đường Hôn Nhân, nếu trên bàn tay trái đường ấy có dấu hiệu đổ vỡ, nhưng vì tình yêu và ý chí của bạn thật tuyệt vời, con đường Hôn Nhân của bạn trên bàn tay phải được hàn gắn lại với thời gian, và đường tình của bạn trở nên rực rở, đầy hoa thơm và mộng đẹp. Vì vậy khi xem chỉ tay các bạn cần xem cả hai bàn tay để đối chiếu và giải đoán chính xác hơn.
Ngày cá tháng tư hay còn gọi là ngày nói đùa, ngày nói dối... Càng ngày, ngày cá tháng tư càng được nhiều người hưởng ứng, đặc biệt là các bạn trẻ bởi họ sẽ nghĩ ra đủ trò vui chơi, tinh nghịch, hài hước... Ngày cá tháng tư là ngày mấy, nguồn gốc bắt đầu từ đâu? Hãy cùng Phong thủy số đi tìm câu trả lời ngay sau đây nhé.

Khi được hỏi ngày cá tháng tư là ngày mấy, vẫn có một số người không thể đưa ra đáp áp chính xác. Xin được trả lời bạn ngay rằng, ngày cá tháng tư rơi vào ngày mùng 1 tháng 4 dương lịch hàng năm. Mặc dù đây không phải ngày nghỉ lễ chính thức nhưng nó là phong tục truyền thống tại nhiều quốc gia.
Mọi người quan niệm rằng, cá tháng tư là ngày nói dối, trong ngày 1 tháng 4 bạn có thể nói dối bất cứ điều gì. Mặc dù ngày này từ lâu đã trở nên cực kỳ phổ biến trên thế giới, nhưng cho tới hiện tại, nguồn gốc ngày này chính xác thì vẫn là bí ẩn với nhiều người.
Xem thêm: Giải mã về hiện tượng nháy mắt trái, nháy mắt phải
Bạn có biết ngày cá tháng tư bắt nguồn từ nước nào không? Chắc hẳn là không đúng không?
Pháp được biết đến là quê hương của ngày nói dối mùng 1 tháng 4. Vào hồi thế kỉ thứ 16 ở Pháp, mùa lễ hội hàng năm sẽ được bắt đầu từ 1 tháng 4, và vào khoảng thời gian đó mùa xuân mới được tính là bắt đầu. Tuy nhiên vào năm 1582, hoàng đế Charles IX đã lệnh chuyển ngày đầu mùa xuân, đầu năm mới về ngày 1 tháng 1.
Vì phương tiện liên lạc thời đó còn rất lạc hậu, nên người ta chủ yến truyền thông tin bằng đường bộ vì vậy không phải người dân nào cũng nắm bắt được thông tin. Còn những người biết nhưng vẫn không chấp nhận sự thay đổi này và vẫn giữ thói quen đón năm mới vào ngày ¼. Luật trên đã trở thành trò cười cho thiên hạ. Một số người biết được đã vui đùa mà nói rằng, ngày 1 tháng 4 là ngày nói dối. Và cũng từ đó mà ngày cá tháng tư ra đời.
Giống như tên gọi là ngày cá tháng tư hay ngày nói dối, vào ngày này mọi người có thể thỏa thích lừa người khác mà không sợ họ giận dỗi, mục đích của mọi người là mang lại tiếng cười sảng khoái cho nhau. Bạn có thể làm mọi thứ, nói mọi điều miễn sao không gây hại cho đối phương
Liệu bạn đã bao giờ nói đùa những câu sau trong ngày tháng tư chưa? Chắc hẳn là rồi chứ nhỉ?
+ Em ơi, anh đang đợi trước cửa, xuống ngay nhé: Xuống rồi, chờ hoài chờ mãi vẫn không thấy anh ở đâu, lúc đầu bạn mới phát hiện ra rằng mình bị lừa =))
+ Hôm nay tới mời cậu đi ăn nhé, thích ăn gì cũng được.
+ Em có bầu rồi
+ Mình chia tay nhé
+ Anh ghét em, em ghét anh...
Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại thư mục: Xem bói
Mọi người khi mua nhà ngoài việc phải tìm hiểu về các yếu tố như giá cả, địa lý, giao thông ra còn phải xem xét đầy đủ ảnh hưởng của nhà đối với sức khoẻ, ví dụ như hướng nhà, vị trí nhà và môi trường xung quanh v.v…

Những năm gần đây mọi người rất thích nhà ở gần với nước, ky thực thì người xưa sớm đẵ có thói quen ở gần với nước, vì mặt nước có thể làm tăng độ ẩm và nồng độ i-on ô xy âm trong môi trường, có thể làm sạch không khí giảm bụi bẩn phù du trong khí quyển, hấp thu nhiệt lượng bề mặt trái đất, điều tiết nhiệt độ môi trường, có lợi cho sức khoẻ con người.
Trái lại, nhà ở quá gần với đường điện cao áp, trạm biến áp điện lớn, ăng ten có cường độ phát xạ mạnh, kiến trúc chiếu sáng có độ sáng cao, do bị ảnh hưởng của các loại bức xạ, điện từ trường, ô nhiễm ánh sáng mà rất dễ gây ra các hiện tượng dị thường như tinh thần bất an, mất ngủ. Nhà ở gần với đường giao thông cao tốc, đường giao thông trên cao, do thường xuyên bị kích thích bởi tiếng ồn lớn, bởi khí phế thải dẫn đến sức khoẻ chịu ảnh hưởng không tốt, cho nên những kiến trúc loại này không thích hợp với nhà ở.
Ngoài ra, nếu trong nhà có người già, trẻ nhỏ, người cơ thể yếu, hay ốm đau thì không nên mua nhà ở gần phố, hoặc nhà có bộ phận lồi ra khỏi kiến trúc tổng thể, bởi vì nhà như vậy chịu sự ảnh hưởng của thay đổi khí hậu khá lớn, chẳng hạn như bị nước mưa, gió lạnh xâm nhập, mùa đông hay ban đêm nhiệt độ trong phòng giảm nhiều so với các phòng khác, mà vào mùa hè thì trong phòng lại rất nóng làm khả năng đau ốm, bệnh tật gia tăng.
Khi mua nhà, sau khi đã chọn được mức giá và khu đất, mục tiêu phải thâm nhập tiếp theo là tiến hành ‘Trinh sát thực địa”, nếu không có vấn đề gì về chất lượng nhưng vẫn phải lưu ý đến các nhân tố chi tiết “phong thuỷ” như hướng, tầng nhà, lấy ánh sáng, thông gió, tầng cao xem có lý tưởng không, vì những nhân tố này sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, độ an toàn và tính thích ứng của bạn.
(1) Hướng
Hướng tốt là hướng bảo đảm đủ ánh sáng, ánh sáng mặt trời có thể chiếu qua cứa sổ vào trong nhà, cải thiện môi trường bên trong nhà. Do góc độ chiếu sáng vào nhà ở mỗi vị trí có sự khác nhau, nếu như không có được nhà “toạ bắc, hướng nam”, “lưng tựa núi, mặt hướng ra biển” thì nhất định phải chú ý đến môi trường bên ngoài cửa sổ, phải biết tránh hại thu lợi, tránh xấu thu tốt. Nếu như cửa sổ nhà đối diện với đường phố hay đường cái thì sẽ ảnh hưởng đến thư giãn, nghỉ ngơi.
(2) Tầng nhà
Tầng nhà là một trong những nhân tố cần được quan tâm. Chọn tầng nhà cần phải xem xét các vân đề là: tình hình che chắn và lấy ánh sáng, mức độ tiện lợi trong sinh hoạt, yêu cầu môi trường, tình hình nhân khẩu trong gia đình, tình hình câu thành tuổi tác và sức khoẻ người trong nhà, tổng số tầng của nhà.
Thông thường nhà cao tầng sẽ ít bị che chắn, lấy ánh sáng tốt, ít bị gây nhiễu, rất thích hợp với người trẻ tuổi ít khi ở nhà. Nhà ở tầng thấp lên xuống nhà thuận lợi, thích hợp với người cao tuổi, dễ có thêm các cơ hội hoạt động bên ngoài.
Tuy nhiên do nhà ở tầng thấp bị gây nhiễu nhiều, tình hình vệ sinh khó được như ý muốn, đặc biệt là dễ bị ẩm ướt, thường không được xem là nhà tốt. Nhà ở tầng trên cũng thì việc lên xuống nhà không thuận tiện, cách nhiệt, chống thấm đều kém, nước cung cấp thường không đủ, không phải là sự lựa chọn tốt. Thông thường trong tình hình không phải xem xét đến yếu tố cá nhân, chọn nhà tốt nhất là ở đoạn 1/3 của tổng số tầng trở lên và 2/3 của tổng số tầng trở xuống.
(3) Lấy ánh sáng
Có thể chia làm hai loại ánh sáng là trực tiếp và gián tiếp. Nhà lấy được ánh sáng tốt sẽ tiết kiệm được năng lượng, tạo sự thoải mái cho tinh thần người trong nhà, thuận tiện cho việc bố trí các khu chức năng trong nhà. Ở trong môi trường nhà thiếu ánh sáng hoặc phải dùng ánh sáng nhân tạo thường xuyên sẽ không tốt cho sức khỏe. Khi chọn nhà, phòng chính trong nhà nên lấy được ánh sáng tự nhiên trực tiếp, tối thiểu thiết kế nhà cũng phải có được một phòng chính trực tiếp lấy dược ánh sáng mặt trời.
(4) Thông gió
Thông gió cho nhà phải thoả mãn nhu cầu cơ bản của người đối với lưu động không khí, khi mở cửa hoặc cửa sổ ra bảo đảm không khí trong ngoài nhà phải lưu thông thuận lợi, nhất là vào mùa hè, gió phải lưu thông qua được các phòng trong nhà. Phải bảo đảm thông gió tốt, vậy thì thiết kế hướng nhà phải thích ứng nhu cầu lưu động không khí, không khí vào được và ra được là tốt, vào được mà khó ra thì chất lượng không khí sẽ kém.
(5) Độ cao tầng nhà
Độ cao của một tầng nhà bình thường vào khoảng 2,8m, nếu trừ đi phần trần nhà, phần phủ nền thì độ cao tịnh của tầng nhà đó chỉ vào khoảng 2,5~2,6m, thậm chí có thể còn thấp hơn, tầng nhà thấp gây cảm giác bị đè nén, gò bó khó chịu. Cho nên khi chọn nhà để có độ cao trần nhà tịnh là 2,8m thì độ cao toàn bộ tầng nhà phải là trên 3m. Cũng không được quá cao, nếu quá cao nhu cầu chiếu sáng và làm mát cũng theo đó lên cao, giá thành nhà và giá thành chỉnh trang cũng cao hơn.
(6) Nhà hàng xóm
Giá trị của nhà ở, đi cùng với môi trường nhân văn của xã hội, đặc biệt có quan hệ mật thiết với vấn đề nhà hàng xóm. Thông thường, sự tốt xấu về môi trường nhân văn của một hạng mục nhà ở được tăng giảm theo tỉ lệ giá trị của nó. Cùng một dạng nhà như nhau, ở vào khu vực hoặc toà nhà có môi trường nhân văn khác nhau thì giá trị của nó cũng có sự khác nhau rất lớn. Nếu có một ngôi nhà ở một khu vực hoặc toà nhà nào đó có biểu hiện môi trường nhân văn đang kém đi, quan hệ hàng xóm không hoà hợp, an ninh trật tự không tốt thì đó không phải là mục tiêu lựa chọn.
Không ai cổ súy cho mê tín dị đoan, tuy nhiên, theo phong thủy, có một số điều bạn không nên làm hay giữ trong nhà bởi chúng có thể đem đến vận xui, tước đi may mắn của gia đình mình. Dưới đây là 9 thứ kém may mắn rất có thể đã hiện diện trong nhà mà bạn cần điều chỉnh ngay:
1. Đồng hồ hư

Không chỉ mang ý nghĩa xấu theo phong thủy, theo quan niệm của nhiều nước phương Tây, những chiếc đồng hồ báo thức bị hư hỏng là điềm báo của cái chết. Do đó, nó thường được xem là thứ đem đến vận rủi, bạn không nên lưu trữ trong nhà.
2. Cửa sơn màu đen

Theo phong thủy, màu đen là màu sắc của sự sang trọng, quý phái, còn một cánh cửa sơn đen chính là một trong những thứ góp phần đem đến những điều may mắn cho gia đình bạn. Tuy nhiên, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì nếu cánh cửa sơn đen đó hướng về phía Bắc.
3. Gương

Không phải chỉ những chiếc gương bể mới mang đến vận xui. Người xưa quan niệm rằng những chiếc gương có thể đánh cắp linh hồn của bạn. Vào thời Victoria, người dân Anh thường chôn gương theo người chết để linh hồn họ không thể thoát ra ngoài mà quấy phá người sống. “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, vì vậy, đừng nên treo quá nhiều gương trong nhà bạn nhé!
4. Lịch cũ

Không chỉ lịch cũ, mà lịch mới nếu để sai ngày tháng cũng không tốt. Đó là điềm báo về sự trôi qua của thời gian cho nên nếu bạn dùng lịch sai cách, người ta tin rằng điều đó sẽ ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của bạn.
5. Chén đĩa sứt mẻ

Khi phát hiện chén/đĩa/ly… có dấu hiệu sứt mẻ, bạn cần nhanh chóng vứt bỏ chúng đi. Nguyên nhân là vì theo phong thủy, chén bát là thứ tượng trưng cho sự giàu có của gia đình bạn. Khi bạn tiếp tục ăn uống trên những chiếc chén đĩa sứt mẻ, phải chăng bạn đã sẵn sàng đón nhận khó khăn, thất bại?
6. Cây trồng có gai

Hãy suy nghĩ lại nếu bạn đang có dự định mang xương rồng về nhà trong thời gian tới. Bởi theo phong thủy, trồng các loại cây có gai (trừ hoa hồng) chính là rước luồng năng lượng tiêu cực và kém may mắn vào nhà.
7. Cây trồng chết/khô

Nếu bạn quên tưới nước và để cây trồng héo úa thì đó cũng là thời điểm bạn nên nói lời tạm biệt với chúng. Ngay cả việc trữ hoa khô trong nhà, thậm chí chỉ là một nắm nhỏ cũng được coi là xui rủi.
8. Tường màu xanh lá cây

Hãy hạn chế sơn tường màu xanh lá cây. Ở Anh và Mỹ, đây được xem là màu không may mắn kể từ năm 1700, khi nhà hóa học Thụy Điển sử dụng asen để sơn xanh các bức tường và nhuộm vải đã tạo ra một chất độc gây chết người.
9. Ghế lắc để trống

Đây hẳn là tin xấu cho các bà mẹ bởi ghế lắc là đồ vật rất được ưa chuộng khi nhà bạn có trẻ con. Theo quan niệm của người Ai-len, chiếc ghế lắc trống sẽ mời gọi ma quỷ đến ngồi. Và khi chiếc ghế lắc thường xuyên tự động di chuyển có nghĩa là có một thế lực khác đã “định cư” tại đó nên có thể mang đến chết chóc hoặc sự xui rủi cho gia đình bạn.
Phụ nữ lấy chồng như chơi bạc, may hơn khôn. Bạn có biết theo nhân tướng học thì xem tướng mũi phụ nữ có thể biết trước tương lai sẽ gả cho người chồng thế nào không? Cùng theo dõi với Lịch ngày tốt nhé. Hôn nhân là một điều thiêng liêng, đặc biệt là đối với phụ nữ. Hai con người về chung sống với nhau, muốn hạnh phúc cần hội tụ rất nhiều yếu tố chứ không chỉ đơn giản cứ gả vào nhà giàu có là sẽ được hưởng thái bình. Theo nhân tướng học, đường hôn nhân của phụ nữ có hạnh phúc hay không cần xem tướng trán, mắt và xương quai xanh. Nhưng quan trọng nhất, yếu tố quyết định vẫn là tướng mũi. Trong tướng khuôn mặt, mũi là vị trí thể hiện cái tôi cá nhân. Với nữ giới, mũi được coi là phu tinh, xem tướng sẽ biết phận chồng con sau này ra sao. Thuật tướng số có câu rằng: Sơn niên thọ biên, trượng phu chí đoản. Mũi được chia làm 4 phần, “sơn, niên, thọ” dùng để chỉ sơn căn, niên thượng, thọ thượng, cùng với tỳ chuẩn tạo thành một chiếc mũi hoàn chỉnh. Mũi còn đại diện cho chí tiến thủ, tham vọng, ý chí, nghị lực và thế giới quan của một người nữa.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Phương Vị: Bắc Đẩu TinhHành: KimLoại: Bại TinhĐặc Tính: Hình thương, tai nạn, bệnh tật, thị phi, khẩu thiệt, hùng dũng.Tên gọi tắt thường gặp: Hổ
Phụ tinh. Sao thứ 9 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.
Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là bộ Long Phượng Hổ Cái.
Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư). Phân loại theo tính chất là Bại Tinh.
Vị Trí Ở Các Cung
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
Sau đây chúng tôi xin sưu tập và dịch rõ phần tổng quát về hình tướng phụ nữ để quí thân chủ và bạn đọc suy nghiệm.
- Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử.
- Lưỡng quyền cao mủi nhỏ là: Hại tử khắc phu.
- Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp.
- Mũi cao lỗ kín là: Có chồng giàu sang.
- Môi xứng với miệng là: Con làm nên danh vọng.
- Mặt chỗ lép chỗ nhọn là: Sạt nghiệp chồng con.
- Mặt sáng ngời như ngọc: Ắt đẻ con sang, con hiếu.
- Mũi nhỏ mặt bạnh là: Đa dâm đa loạn.
- Mình thơm mắt sáng là: Phu quí tử vinh.
- Miệng rộng mồm méo là: Phu cùng tử yểu.
- Trán thẳng mày thanh là: Đàn bà phước đức.
- Mặt lớn má lép là: Người vô phước.
- Mũi tròn da mịn là: Tướng phụ nữ hưng gia.
- Mũi tẹt mặt lớn là: Tướng đàn bà phá sản.
- Môi trắng mỏ nhọn là: Phường ăn không nói có.
- Má cao khắc lỏm là: Tướng khắc chồng con.
- Môi hường tươi: Ắt sanh con quí.
-Con ngươi đỏ như tia lửa là: Khắc sát chồng con.
- Dáng vóc nhàn tịnh khiêm cung là: Nghiêm tướng.
- Mặt đẹp con ngươi vàng là: Sát tướng.
- Tướng hình đoan chính trang nghiêm là: Uy tướng.
- Mặt lớn mồm nhỏ răng thô là: Sát tướng.
- Trên sóng mũi có nhiều lằn gạch là: Sát tướng.
- Ngồi ngay nói thẳng lòng khoan hoà là: Uy tướng.
- Tai lật không có thành quách là: Sát tướng.
- Vẻ mặt hoà dịu, mừng không lộ, sợ không khiếp là: Nghiêm tướng, quí tướng, có con quí chồng sang.
- Mặt đẹp nhưng trắng như vôi, lông mi đen rậm như lưỡi dao lớn, con ngươi như mắt cá đỏ, lông mày thô như chổi, đều là Sát tướng. Dù mặt – tướng diện – có đẹp đẻ đến đâu cũng hình phu khắc tử sát hại chồng con ghê lắm.
Trở lên là tướng hình tốt xấu lẫn lộn, xem rồi suy gẩm ắt thấy điều hay. Sau đây là tướng hình đàn bà hiền đức.
Trán bằng, đầu tròn, tóc mịn đen mướt.
Mặt như khuôn thiên, cằm nở dài mép có một vành. Đi đứng ngay thẳng, ngồi nằm khoan thai. Tóc nỏn nà nhuyễn mượt, mắt dày mày thanh môi hồng răng trắng ngà, da mịn xương nhỏ không lộ, mình trắng hơn mặt, thân mình sắc hoà dịu.
Lưng vai tròn, ngực rộng, vú to không xệ, rún sâu có vành. Bàn tay dài, ngón tay hơi nhọn, tiếng thanh, ít nói cười. Hơi mình thon, xương âm cao nhô ra, thịt dầy, âm đạo thẳng đều là tướng hiền, có phước đức.
Lại có những tướng hình tổng quát lẫn lộn thiện ác, tốt xấu như sau:
Người có tướng đi đứng khoan hoà hiền diệu, tinh thần nghiêm chỉnh, tiếng nói trắng thanh, ngồi nằm đoan chính là tướng đàn bà quí, lập danh cho chồng, để đức cho con, hưởng thọ tuổi cao, sanh toàn con trai.
Người có tướng mặt hơi vuông dài, ngực lớn, tiếng nói lớn mà thanh, tinh thần tươi sáng, cử chỉ đoan chính, chuyện trò êm thấm hoà dịu, vẻ người trang nghiêm chửng chạc, khiến kẻ đối diện nể trọng, ấy là đàn bà có phước đức trinh thuận, liêm chánh.
Người có tướng diện tươi thắm như hoa nở đầy hương nhụy, cười như hoa đào, mắt sáng như sao chớp, đi đứng phong lưu đài trang, làm cho người đối diện phải ao ước mơ tưởng và hình dung điều bất chánh, có khi kẻ đối diện có cảm tưởng như cởi bỏ y trang, để xoi mói vào bên trong thân thể, ấy là tướng tà dâm, rất dễ bị mềm lòng nhẹ dạ. Không tốt.
Tướng người mặt nhọn ngực lép mà bạnh ra, môi ướt răng hô, mắt tròn trắng dả, mũi nguỡng thiên, tiếng nói rè, đi như ma đuổi, đi lắc như phải gió, chưa nói mà ngoắc tay nghiêng mình kiễng chân như con lật đật. Tướng nghèo khó, hình phu, khắc tử.
Má thật cao, mắt lỏm, tóc xoắn, môi mép có lông rám như râu. Xương thịt thân thể cứng rắn, mình miệng và các chỗ kín có mùi hôi hám khó chịu đều là các hình tướng bần tiện, hạ đẳng, ngu độn chỉ làm nô tỳ chớ không thể làm nổi ca kỷ được nữa.
Tướng có gò má thật cao, lông mày xoáy hoặc hình chổi sề, hình lưỡi đao, tiếng nói nhọn bén như ong vò vẻ, mắt như mắt chó sói, như mắt cá đỏ, là tướng đàn bà cùng hung cực ác, khắc sát chồng con dữ lắm.
Lại có tướng người đi đứng không yên như gấp rút vội vàng như sợ sệt gì vậy. Người thì đong đưa nghiêng ngã, tưởng như sắp té đến nơi, giọng nói cợt nhả đỏng đảnh mời mọc, đó là tướng đàn bà ngồi lê đôi mách, bần tiện hạ lưu, chuyên đi nịnh bợ xoi móc hàng xóm.
Cũng có tướng người mặt ngang trán lớn má cao, tiếng nói khao khao, bước đi mông lắc như chim se sẻ, mắt lộ con ngươi đỏ như diều, như cá chép, như mắt rắn là người bạc ác, lòng một dạ hai, bất nghĩa bất tín mà ương ngạnh, ưa nói càng nói bướng.
Vân tay nói lên điều gì? Bạn có biết trên thế giới có hơn 7 tỷ người nhưng không có ai có vân tay giống nhau cả. Bởi thế bạn có thể bói vân tay để đoán vận mệnh và tính cách của một con người.
Để có thể xem bói tốt nhất, Nhân Trắc Học đã cố gắng thống kê và phân loại những được điểm chung của vân tay thành 4 nhóm chính cơ bản nhất. Hãy xem vân tay của bạn thuộc vào nhóm nào nhé.
Bạn là người có tiềm năng không giới hạn. Một người với hầu hết các ngón tay đều Arch: sẽ luôn nghi ngờ, luôn đặt câu hỏi và không tin vào bất cứ điều gì cho đến khi họ thấy được bằng chứng, chứng cứ rõ ràng,xác thực. Những người này rất giỏi trong các công việc thương mại.
Bạn là người theo chủ nghĩa an toàn và thiết thực, tiếp cận trực tiếp với các công việc, nhiệm vụ, có thể tin cậy được.
Bạn thích sự ổn định,yên bình. Chăm chỉ làm những công việc được lặp đi lặp lại hằng ngày.
Bạn luôn tuân thủ vào các quy tắc và các quy định. Bạn từng bước thăm dò để quyết định hành động, thích điều đơn giản,rõ ràng và cụ thể
Bạn là người có khả năng sáng tạo mạnh mẽ, có khả năng quan sát tinh vi, sắc bén. Bạn có khả năng lĩnh hội, nhận thức thấu đáo.
Bạn luôn cho mình là trọng tâm, bạn tự bước đi trên đôi chân của mình và có phương pháp cụ thể để làm thành công 1 việc nào đó. Bạn không thể chấp nhận những suy nghĩ đần độn hoặc chậm chạp. Bạn thích sử dụng những suy nghĩ trái ngược để suy luận và làm việc.
Bạn có óc phán đoán tốt nếu Radial Loop nằm ở ngón cái hoặc ngón trỏ.
Bạn luôn thích gây ấn tượng sâu sắc, sử dụng những phương pháp kì lạ để quản lý công việc, bạn có suy nghĩ rất khác với mọi người và bị xem như bất trị hoặc kì lạ. Bạn thường có những lí luận ngược đời. Bạn thường thích quan tâm đến các tôn giáo thần bí.
Bạn thích suy luận lại, nghiên cứu lại của tất cả tiến trình từ kết quả hiện có. Có khả năng làm và xử lý công việc khi “nước đã đến chân”.
Bạn thuộc tuýp người cổ hủ, không có nhiều sáng kiến hay sáng tạo mới, nhưng bạn có khả năng học hỏi và làm theo người khác rất nhanh.
Bạn thụ động trong giao tiếp. Mặc dù bạn rất thích hòa nhập với đám đông nhưng bạn không bao giờ chủ động thiết lập quan hệ. Nếu bạn cảm thấy không thích hoặc không thể hòa nhập với cộng đồng nào đó thì bạn đồng thời cũng không thể tiếp tục hoạt động hoặc làm việc với cộng đồng đó.
Bạn không thích xung đột, không có mục tiêu rõ ràng, không có tham vọng cao
Bạn thích làm việc 1 cách trình tự, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường kể cả cái tốt và cái xấu từ môi trường đó.
Bạn thường quan tâm tận tình những người thân, bạn bè xung quanh và giữ các mối quan hệ đó rất bền vững.
Bạn là người chỉ hành động khi có mục tiêu cụ thể, đồng ý làm việc khi chấp nhận được các điều kiện hợp lý và hoạch định chiến lược rõ ràng.
Bạn có tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, theo đuổi sự thành công của những việc mang tính khó khăn và thử thách cao. Đối với bạn thì không có gì là không thể.
Bạn tự đòi hỏi và thúc đẩy bản thân hoàn thành tốt công việc và đề cao mục tiêu để tiến bộ.
Nếu chủ quan, mọi người sẽ không dễ dàng giao tiếp với bạn khi người đó thiếu tính hợp lý và mang tính chiếm hữu. Không nên áp dụng phương pháp dạy dỗ độc đoán hoặc đối xử gia trưởng đối với bạn.
![]() |
| Mơ thấy rau húng là sắp được vui vẻ, hạnh phúc |
![]() |
| Mơ thấy ăn cà chua là sức khỏe tốt |
| ►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm |
![]() |
Để coi tuổi vợ chồng hay bạn bè có xung khắc nhau không thường thì thầy bói dựa vào 3 điểm chính sau:

1. Tuổi gồm có 12 tuổi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hơi gọi là THẬP NHỊ CHI.
2. Mạng gồm có 5 mạng :Kim, Hoả,Thuỷ, Mộc, Thổ gọi là NGŨ HÀNH.
3. Cung mỗi tuổi có 2 cung, gồm có cung chính và cung phụ.
Cung chính gọi là cung sinh cung phụ gọi là cung phi.
Cùng tuổi thì nam nữ có cung sinh giống nhau nhưng cung phi khác nhau.
Hai tuổi khắc nhau vẫn có thể ăn ở với nhau được nếu như cung và mạng hoà hợp nhau.
Ngoài ra người ta còn dựa vào thiên can của chồng và tuổi của vợ để đoán thêm.
Thiên can là 10 can gồm có Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ ,Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bây giờ ta xét về tuổi trước.
Lục Xung : Sáu cặp tuổi xung khắc nhau.
Tý xung Ngọ ; Sửu xung Mùi; Dần xung Thân; Mão xung Dậu; Thìn xung Tuất; Tỵ xung Hợi. Xung thì xấu rồi
Lục Hợp : Sáu cặp tuổi hợp nhau.
Tý Sửu hợp; Dần Hợi hợp, Mão Tuất hợp, Thìn Dậu hợp, Tỵ Thân hợp, Ngọ Mùi hợp
Tam Hợp : Cặp ba tuổi hợp nhau.
Thân Tý Thìn; Dần Ngọ Tuất; Hợi Mão Mùi; Tỵ Dậu Sửu.
Lục hại : Sáu cặp tuổi hại nhau (không tốt khi ăn ở, buôn bán…với nhau)
Tý hại Mùi; Sửu hại Ngọ; Dần hại Tỵ; Mão hại Thìn;
Thân hại Hợi; Dần hại Tuất.
Nếu tuổi bạn với ai đó không hợp nhau thì cũng đừng lo vì còn xét đến mạng của mỗi người (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ)
Bạn nhớ nguyên tắc này : Tuổi chồng khắc vợ thì thuận; Vợ khắc chồng thì nghịch (xấu)
Thí dụ vợ mạng Thuỷ lấy chồng mạng Hoả thì xấu, nhưng chồng mạng Thuỷ lấy vợ mạng Hoả thì tốt. Vì Thuỷ khắc Hoả, nhưng Hoả không khắc Thuỷ mà Hoả lại khắc Kim
Sau đây là ngũ hành tương sanh.(tốt)
Kim sanh Thuỷ; Thuỷ sanh Mộc; Mộc sanh Hoả; Hoả sanh Thổ; Thổ sanh Kim (tốt)
Như vậy chồng mạng Thuỷ lấy vợ mạng Mộc thì tốt; vợ được nhờ vì Thuỷ sanh Mộc. Vợ mạng Hoả lấy chồng mạng Thổ thì chồng được nhờ vì Hoả sanh Thổ
Sau đây là ngũ hành tương khắc (xấu)
Kim khắc Mộc_ Mộc khắc Thổ_ Thổ khắc Thuỷ_ Thuỷ khắc Hoả_ Hoả khắc Kim (xấu)
Thí dụ vợ mạng Kim lấy chồng mạng Mộc thì không tốt do Kim khắc Mộc nhưng chồng mạng Kim lấy vợ mạng Mộc thì tốt vì theo nguyên tắc ở trên là tuổi chồng khắc vợ thì tốt, vợ khắc chồng thì xấu.
Về cung thì mỗi tuổi có một cung khác nhau. Sau đây tôi kê trước cho các bạn có tuổi Đinh Tỵ (1977) đến Đinh Mão (1987).Nên nhớ cung phi của nam nữ khác nhau còn cung sanh thì giống nhau
Đinh Tỵ (1977) Mạng Thổ_ cung sanh : khảm_ cung phi khôn (nam), khảm (nữ)
Mậu Ngọ (1978) Mạng Hoả-cung sanh : chấn_ cung phi :tốn (nam),khôn (nữ)
Kỷ Mùi (1979) Mạng Hoả_ cung sanh : Tốn_ cung phi: chấn (nam), chấn (nữ)
Canh Thân (1980) Mạng Mộc_ cung sanh: Khảm_ cung phi :Khôn (nam), Tốn (nữ)
Tân Dậu (1981) Mạng Mộc _cung sanh : Càn_ cung phi : Khảm (nam), Cấn (nữ)
Nhâm Tuất (1982) Mạng Thuỷ _cung sanh : Đoài_ cung phi : Ly (nam), Càn (nữ)
Quý Hợi (1983) Mạng Thuỷ _cung sanh :Cấn_ cung phi : cấn(nam), đoài (nữ)
Giáp Tý (1984) Mạng Kim_ Cung sanh :Chấn _ cung phi :Đoài (nam), Cấn (nữ)
Ất Sửu (1985) Mạng Kim_ cung sanh : Tốn_ cung phi : Càn (nam), Ly (nữ)
Bính Dần (1986) Mạng Hoả_cung sanh : Khảm_ cung phi :Khôn (nam), khảm (nữ)
Đinh Mẹo (1987) Mạng Hoả_ cung sanh: Càn_ cung phi; Tốn (nam), Khôn (nữ)
Muốn biết hai cung có xung khắc nhau hay không thì các bạn xem cách trình bày sau.
Còn các bạn nào cùng tuổi thì tất phải hợp nhau rồi. Người ta có câu nói “Vợ chồng cùng tuổi ăn rồi nằm duỗi”.
Về cung là phần rắc rối khó nhớ nhất nên mới đầu không quen ta ghi lại trên một tờ giấy để tiện tra cứu sau này.
Lại phải nhớ những từ cổ này
Sanh khí, diên niên (phước đức), Thiên y, phục vì (qui hồn)
Đó là nhóm từ nói về điều tốt
Ngũ quỉ, Lục sát (du hồn), hoạ hại (tuyệt thể), tuyệt mạng Đó là nhóm từ nói về điều xấu.
Sau đây là tám cung biến tốt xấu , không cần học thuộc mà khi nào coi thì ta đem ra tra cứu.
Sẽ cho thí dụ để các bạn hiểu cách coi tuổi cụ thể
Bây giờ nói về tám cung biến hoá
Khi tôi viết tắt càn-càn thì hãy hiểu là người thuộc cung càn lấy người thuộc cung càn, hoặc tôi viết cấn- chấn thì hãy hiểu là người có cung cấn lấy người thuộc cung chấn v.v….
1.càn-đoài : sanh khí, tốt; càn-chấn : ngủ quỉ, xấu; càn-khôn :diên niên, phước đức, tốt.; càn-khảm; lục sát (du hồn), xấu; càn-tốn: hoạ hại (tuyệt thể), xấu; càn-cấn: thiên y, tốt; càn-ly: tuyệt mạng, xấu; càn-càn: phục vì (qui hồn), tốt.
2.khảm-tốn: sanh khí, tốt. khảm-cấn: ngủ quỷ, xấu. khảm-ly: diên niên (phước đức), tốt. khảm_khôn: tuyệt mạng,xấu. khảm_khảm phục vì (qui hồn), tốt
3.cấn-khôn: sanh khí, tốt. cấn-khảm: ngủ quỷ, xấu. cấn-đoài: diên niên (phước đức). cấn-chấn: lục sát (du hồn), xấu. cấn-ly: họa hại (tuyệt thể), xấu. cấn-càn: thiên y, tốt. cấn -tốn: tuyệt mạng, xấu. cấn-cấn: phục vì (quy hồn), tốt.
4.chấn-ly: sanh khí, tốt. chấn-cấn: ngủ quỉ, xấu. chấn-tốn: diên niên (phước đức), tốt. chấn-cấn: lục sát (du hồn), xấu. chấn-khôn: họa hại (tuyệt thể), xấu. chấn-khảm: thiên y, tốt. chấn-đoài: tuyệt mạng, xấu. chấn-chấn: phục vì (qui hồn), tốt.
5.tốn-khảm: sanh khí, tốt. tốn-khôn: ngũ quỉ, xấu. tốn-chấn: diên niên (phước đức). tốn-đoài: lục sát (du hồn). tốn-càn: hoạ hại (tuyệt thể), xấu. tốn-ly: thiên y, tốt. tốn-cấn: tuyệt mạng, xấu. tốn-tốn: phục vì (qui hồn), tốt
6. ly-chấn: sanh khí, tốt. ly-đoài: ngũ quỉ, xấu. ly-khãm: diên niên (phước đức), tốt. ly-khôn:lục sát (du hồn), xấu. ly-cấn : hoạ hại (tuyệt thể),xấu. ly-tốn: Thiên y, tốt. ly-càn: tuyệt mạng, xấu. ly-ly: phục vì (qui hồn), tốt.
7. khôn-cấn: sanh khí, tốt. khôn-tốn: ngủ quỉ,xấu. khôn-càn: diên niên (phước đức), tốt. khôn-ly: lục sát (du hồn), xấu. khôn-chấn: hoạ hại (tuyệt thể), xấu. khôn-đoài: thiên y, tốt. khôn-khảm: tuyệt mạng, xấu. khôn-khôn: phục vì (qui hồn), tốt.
8. đoài-càn: sanh khí, tốt. đoài-ly: ngũ quỹ, xấu. đoài-cấn, diên niên (phước đức), tốt. đoài-tốn; lục sát (du hồn), xấu. đoài-khảm: hoạ hại (tuyệt thể), xấu. đoài-khôn: thiên y, tốt. đoài-chấn: tuyệt mạng, xấu. đoài-đoài: phục vì (qui hồn), tốt.
Bây giờ xin nói lại về giờ âm lịch cho chính xác.
(theo tháng âm lịch)
Tháng 2 và tháng 8: từ 3giờ 40 đến 5 giờ 40 là giờ Dần.
Tháng 3 và tháng 7: từ 3g50 đến5g50 là giờ Dần
Tháng4 và tháng 6: từ 4g đến 6g là giờ Dần
Tháng5 : từ 4g10 đến 6g10 là giờ Dần
Tháng 10 và tháng chạp: Từ 3g20 đến 5g20 là giờ Dần
Tháng 11: từ 3g10 đến 5g10 là giờ Dần
Biết được giờ Dần ở đâu rồi thì các bạn tính lên là biết giờ khác. Ví dụ vào tháng 7 âm lịch từ 3g50 đến 5g50 là giờ Dần thì giờ Mão phải là từ 5g50 đến 7g50. Cứ thế tính được giờ Thìn, Tỵ…..
Bây giờ tôi cho thí dụ cách xem như thế này:
Thí dụ nữ tuổi Bính Dần (1986) lấy nam Quý Hợi (1983) thì tốt hay xấu. (nghe các cụ bảo 2 tuổi này -tứ hành xung- nên phân tích xem thế nào ná ):
Xem bảng cung mạng tôi ghi từ 1977 đến 1987 ở trên thì thấy:
1.Xét về tuổi: Hai tuổi này thuộc về nhóm Lục Hợp, như đã nói ở trên, nêú xét về tuổi thì hợp nhau.
2.Xét về mạng: Bính Dần có mạng Hoả, trong khi đó Quý Hợi này có mạng Thuỷ. Xem phần ngũ hành thì thấy Thuỷ khắc Hoả (xấu) nhưng Hỏa không khắc Thủy mà lại khắc Kim. Tức là tuổi chồng khắc tuổi vợ (cái này không tốt cho vợ), vậy là xấu không hợp.
3.Xét về cung: Bính Dần có cung Khảm là cung sanh (cung chính) còn Quý Hợi này có cung sanh là Cấn. Xem phần Tám cung biến thì thấy Khảm – Cấn là bị ngũ quỷ, xấu.
Lại xét về cung phi để vớt vát coi có đỡ xấu không thì lại thấy Bính Dần về nữ thì cung phi là Khảm, Quý Hợi cung phi của nam là Cấn => như trên (xấu)
Như vậy trong 3 yếu tố chỉ có hợp về tuổi còn cung, và mạng thì xấu. Kết luận có thể xẻ đàn tan nghé.
Hai tuổi này còn có thể kiểm chứng lại bằng phép toán số của Cao Ly (Hàn Quốc, Triều Tiên ngày nay). Tôi sẽ trình bày sau phần này, đây là một cách xem dựa vào thiên can và thập nhị chi của người Hàn Quốc xưa.
Sau đây là BÀI TOÁN CAO LY.
Coi cái này phải kết hợp thêm cung, mạng, tuổi đấy ná:
*Nam GIÁP-KỶ lấy vợ tuổi
Tý Ngọ được tam Hiển Vinh
Sửu Mùi bị nhì Bần Tiện
Dần Thân được nhất Phú Quý
Mão Dậu được bị ngũ Ly Biệt
Thìn Tuất được tứ Đạt Đạo
Tỵ Hợi được tam Hiển Vinh
*Nam tuổi ẤT CANH lấy vợ tuổi
Tý Ngọ bị nhì Bần Tiện
Sửu Mùi được nhất Phú Quý
Dần Thân bị ngũ Ly Biệt
Mão Dậu được tứ Đạt Đạo
Thìn Tuất được tam Hiển Vinh
TỴ Hợi bị Nhì Bần Tiện
*Nam tuổi BÍNH TÂN lấy vợ tuổi
Tý Ngọ được nhất Phú Quý
Sửu Mùi bị ngũ Ly Biệt
Dần Thân được tứ Đạt Đạo
Mão Dậu được tam Hiển Vinh
Thìn Tuất bị nhì Bần Tiện
Tỵ Hợi được nhất Phú Quý
*Nam tuổi ĐINH NHÂM lấy vợ tuổi
Tý Ngọ bị ngũ Ly Biệt
Sửu Mùi được tứ Đạt Đạo
Dần Thân được tam Hiển Vinh
Mão Dậu bị nhì Bần Tiện
Thìn Tuất được nhất Phú Quý
Tỵ Hợi bị ngũ Ly Biệt
*Nam tuổi MẬU QUÝ lấy vợ tuổi
Tý Ngọ được tứ Đạt Đạo
Sửu Mùi được tam Hiển Vinh
Dần Thân bị nhì Bần Tiện
Mão Dậu được nhất Phú Quý
Thìn Tuất bị ngũ Ly Biệt
Tỵ Hợi được tứ Đạt Đạo
Thí dụ: Nam tuổi Giáp Dần lấy vợ tuổi Thìn hay Tuất thì được Đạt Đạo (gia đạo an vui)
Bần Tiện là nghèo khổ, bần hàn. Đây là nghĩa tương đối có ý nói không khá được sau này ( có thể 15 hay 20 năm sau mới ứng). Bởi con nhà đại gia lấy con nhà đại gia thì dù có bị Bần Tiện cũng là đại gia, nhưng về sau thì kém lần không được như cũ , có thể suy)
ĐÀN ÔNG LẤY VỢ NĂM NÀO THÌ ĐƯỢC ?
Câu trả lời sau đây.
Đàn ông tuổi Tý lấy vợ kỵ năm Mùi. ( năm Mùi không nên lấy)
………….Sửu ………….Thân.
………….Dần…………..Dậu
………….Mão…………..Tuất
………….Thìn………….Hợi
………….Tỵ……………Tý
………….Ngọ…………..Sửu
………….Mùi…………..Dần
………….Thân………….Mão
………….Dậu…………..Thìn
………….Tuất………….Tỵ
………….Hợi…………..Ngọ
ĐÀN BÀ LẤY CHỒNG NĂM NÀO THÌ ĐƯỢC ?
Đàn bà tuổi Tý kỵ năm Mão. (không nên đám cưói năm Mão)
……………..Sửu ……….Dần.
……………..Dần………..Sửu.
……………..Mão………..Tý.
……………..Thìn……….Hợi.
……………..Tỵ…………Tuất
……………..Ngọ………..Dậu.
……………..Mùi………..Thân.
……………..Thân……….Mùi.
……………..Dậu………..Ngọ.
……………..Tuất……….Tỵ.
……………..Hợi………..Thìn.
Ví dụ:
Nam tuổi Tý lấy vợ thì năm nào cũng được nhưng tránh làm đám cưới vào năm Mùi đi. Hay nữ lấy chồng, nếu cô ấy là tuổi Thìn chẳng hạn, thì tránh làm đám cưới vào năm Hợi.
Chiếu theo bảng trên thì tớ thuộc mạng: Hỏa (Lư Trung Hỏa: Lửa trong lò – nóng tính)
Hợp:
1. Về tuổi: Hợi, Tuất, Ngọ (1983, 1982, 1978)
2. Về mạng: Thổ (1977)
3. Về cung: Tốn, Ly, Khảm (Cí này ai quan tâm thì tìm hỉu ở trên nhé )
Xung:
1. Về tuổi: Thân (1980)
2. Về mạng: Kim (1984, 1985)
3. Về cung: Cấn, Khôn
Trong phong thủy, những vật này cần phải được cất giấu ở một nơi xa khuất văn phòng, đặc biệt là tránh xa cửa chính.
![]() |
| Chổi là vật kỵ nhất trong văn phòng |
Theo phong thủy, cây chổi được xem là vật kỵ nhất. Để cây chổi trong khu vực phòng làm việc sẽ quét sạch tất cả các vận may mang đến trong công việc. Nên cất chổi trong nhà kho hoặc tủ đựng dụng cụ vệ sinh. Tương tự như thế, thùng rác nên đặt ở những chỗ cách xa văn phòng và phải đậy nắp. Hoặc để sọt rác dưới bàn sao cho mọi người đứng ngoài cửa nhìn vào không thấy.
Theo Sách Phong Thủy để thành công trong công việc và kinh doanh
Theo, phong thủy nhà ở nếu đạt được yếu tố hài hòa thì ngôi nhà và cảnh vật xung quanh sẽ tôn vẻ đẹp của nhau, làm cho tinh thần con người sống ở đó dễ chịu, sảng khoái, từ đó thể chất được tăng lên. Họ chủ trương chọn nơi “càn sơn, bàng thủy” đất đai màu mỡ, cây cối xanh tươi. Ở núi xem sơn thế, long mạch, mạch lớn thì khí lớn, mạch khí là gốc. Vùng gò đồi phải chọn nơi bằng phẳng, rộng rãi, không có hang hố, tức là vừa rộng rãi lại vừa tăng phong, đắc khí.
Nơi sơn địa phải chủ ý xem mạch, mạch khí lại ở trong thủy. Còn ở đồng bằng xem ra không có long mạch, phái phong thủy cho rằng: Thổ địa cao nhất thôn gọi là Long, bờ ruộng to nhỏ đều là Long và cũng chú trọng xem nước.
Những điều cấm kỵ khi chọn đất làm nhà sau:
- Nhà không được làm trên nền giếng cũ, không được làm ở ngã ba đường mà có một đường đâm thẳng vào nhà, không được làm ở ngõ cụt hoặc bên cạnh đền miếu, hoặc trước cửa có núi che khuất tầm nhìn.
- Trước nhà không nên có cầu bắc qua chắn cửa, không nên trồng cây dâu, cây dương, không nên trồng một cây độc thụ. Trước cửa nhà không được trồng hai cây song đôi. Trong sân không được có cây to…
- Nhà ở xây dựng ở chân núi hoặc cửa thung lũng thì chủ nhà chịu vô phúc và bệnh tật. Nhà ở ngay vào con đường cụt thì chủ gặp đại hung.
- Nhà ở, mà hướng tây có đường lớn là đại cát.
- Ngay trước của nhà có cây lớn là đem tai họa đến. Miếng đất làm nhà ở mà phía sau cao, phía trước thấp gọi là đất tiến thì chủ sẽ đại cát.
- Phía sau của nhà để lại một khoảng đất trống cũng là đại cát. Móng nhà có hình tam giác, chủ nhà sẽ gặp hỏa tai hoặc giải quyết các công việc đến không dứt điểm.
- Ðất đầm ao trũng, cần phải tôn cao lên 3 thước rồi xây dựng, mới gọi là đại cát.
- Dẫn nước sông, nước suối chảy qua nhà là đại hung. Nhà ở vào nơi đất cao sừng sững mà đứng tách riêng là không tốt, làm ăn không thịnh vượng. không có tài lộc.
-Nhà năm sát vào đường giao thong trọng yếu mà có đường hướng thẳng vào cửa nhà, gọi là “lộ xung” còn có tên gọi là “tiện sát” nghĩa là mũi tên giết người Ai ở vào chỗ lộ xung đó thường bị tai nạn xe cộ, bị thương hoặc bị bệnh phải mổ xẻ…
- Trước nhà mà có con đường vòng cung ngược thì chủ nhà ở vào đất có hình dáng trên, sẽ dần dần trở nên người bất hiểu, bất nghĩa hoặc thần kinh không ổn định và thoát tài. Vòng cung ngược càng cong càng gặp lắm điều hung.
- Ở giữa có con đường hẻm, hai bên hẻm là hai nhà lầu cao, nếu mặt nhà làm đối diện với đường hẻm đó thì chẳng khác nào bị lưỡi dao sắc từ trên trời chem xuống, gọi là “thiên trảm sát” thì chủ nhà sẽ thoát tài, người ở nhà này khó bình yên.
- Nhà ở mà có đường cầu treo bắc ngang qua gọi là “thiên kiều” thì chủ nhà hay bị phá sản, và người trong nhà bị ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
- Nhà ở ngã tư đường mà kẹt vào lưỡi kéo (Nghĩa là trước nhà có 2 đường giao nhau, hay hai nhánh sông giao nhau) thì chủ nhà và người trong nhà dễ chết hoặc hao tốn tiền của.
- Ngay chính mặt trước của nhà có lâu đài mà chiều cao vượt xa so với chiều cao của nhà mình đồng thời lại rất sát nhà của mình thì chủ nhà sinh ra cảm giác bị áp bức, hình thái này gây ách tắc sinh khí trong nhà, ai ở trong nhà này thì sự nghiệp khó thành công, cư trú khó hình yên.
- Nhà ở khắp bốn bề trồng cây cổ thụ gây nên thiếu ánh sáng mặt trời thì âm khí trở nên nặng nề gọi là nhà “âm khi sát”, người ở nhà này khó được hình yên, tai họa bệnh tật đến luôn.
- Ngoại trạch của một ngôi nhà nếu trồng cây thì nên trồng trước nhà 3 cây hòe. Nếu có điều kiện thì phía Ðông trồng đào. Nam trồng mai, táo. Tây trồng thị. Bắc trông lý thì đại cát. Ngược lại là thất cách
Phương Nhâm, Tí, Quý, Sửu hợp với trồng dâu.
Phương Dần, Mão, Giáp, Ất hợp với trồng tùng bách.
Phương Canh, Thân, Tân, Dậu hợp với trồng thạch lựu.
Phương Tị, Thìn, Tốn nên trồng cây lớn.
Phương Tuất, Càn, Hợi nên trông cây thấp.
Phương Tây bắc và Ðông bắc nên có cây to.
Hình dáng nhà cũng liên quan đến cát hung của gia chủ:
Nhà xây hình chữ kim thì phú quý.
Nhà xây hình chữ bát thì cơ bần, bệnh tật.
Nhà xây hình chữ hỏa thì đởm hỏa, tắc kinh;
Nhà xây hình mặt quạt thì chủ nhà mang bệnh.
Vẻ ngoài trạch. người xưa còn đề ra nhiều điều cấm kỵ và nhiều điều nên phải có. Nhưng người xưa vẫn coi trọng nội thất hơn cả. Vì như Kinh dịch nói: Sửa hướng một căn nhà bị đại kỵ không cứ phải phá đi làm lại mới tốt, mà chỉ cần xoay lại hướng cổng, cửa khai môn, xoay lại hướng lò bếp, hướng bàn thờ, hướng cối xay, cối giả gạo, giường nằm, hướng cầu thang, hố xí,… là có thể yểm trấn được hung thần mà còn được may mắn nữa.
Theo Phongthuy
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Tứ trụ là mệnh, vận trình là vận. Mệnh và vận hợp lại với nhau làm thành vận mệnh cả cuộc đời. Mệnh vận kết hợp với nhau sẽ biết được cát hung họa phúc. Mệnh và vận như thuyền với nước, gắn chặt với nhau. Nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật thuyền. Xưa có người nói: “Mệnh tốt không bằng vận tốt, vận tốt không bằng lưu niên tốt”. Về câu này qua kiểm nghiệm thực tiễn tôi thấy có kết luận ngược lại là : có lúc mệnh tốt hơn vận tốt thì lưu niên có thể đi đến đâu được ? Cho nên, mệnh vận và lưu niên cả ba cái là một chỉnh thể không tách rời nhau.
Không có mệnh tốt thì đại vận vẫn chưa ăn thua ; lưu niên tốt cũng giàu không nổi ; không có vận tốt thì mệnh tốt cũng không có ích gì, lưu niên tốt cũng sẽ bị đại vận xấu hạn chế. Không có lưu niên tốt thì dụng thần của Tứ trụ không gặp được tốt, đại vận tuy tốt nhưng thời gian cát ứng cũng không thể xuất hiện được .
Sắp xếp đại vận lấy trụ tháng trong Tứ trụ để tính. Có sự khác biệt là nam xếp thuận, nữ xếp nghịch. Cách tính số đại vận cũng theo nguyên tắc nam thuận, nữ nghịch đó.
1. CÁCH TÍNH THUẬN, NGHỊCH CỦA ĐẠI VẬN
Mệnh nam lấy các chi dương của năm là tí, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, đại vận lấy trụ tháng làm chuẩn để sắp xếp theo chiều thuận. Ví dụ mệnh nam sinh năm bính tí, tháng canh dần, tí là năm dương. Mệnh nam sinh năm dương là theo chiều thuận, nên đại vận lấy canh dần làm chuẩn để sắp xếp theo chiều thuận như sau: tân mão, nhâm thìn, quý tị, giáp ngọ, ất mùi, bính thân, đinh mậu, mậu tuất. Nói chung thường xếp 8 đại vận . Sắp xếp mấy vận không có quy định chặt chẽ mà nói chung theo số tuổi thọ để sắp xếp. Mỗi vận đều là sự tổ hợp của can dương với chi dương hoặc can âm với chi âm.
Mệnh nữ sinh năm dương là nghịch, đại vận lấy trụ tháng làm chuẩn để sắp xếp nghịch. Ví dụ mệnh nữ sinh năm bính tí, tháng canh dần. Tí là năm dương nên phải đếm ngược. Do đó đại vận lấy canh dần làm chuẩn xếp ngược như sau: kỷ sửu, mậu tí, đinh hợi, bính tuất, ất dậu, giáp thân, quý mùi, nhâm ngọ.
Mệnh nữ sinh vào các năm : sửu , mão, tị , mùi, dâu, hợi là âm, nữ sinh năm âm là thuận nên đại vận lấy trụ tháng để xếp thuận. Ví dụ nữ sinh năm đinh sửu tháng nhâm dần thì lấy nhâm dần làm chuẩn để xếp đại vận như sau: quý mão, giáp thình, ất tị, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, kỷ dậu, canh tuất.
Mệnh nam gặp năm âm là nghịch nên khi xếp đại vận lấy trụ tháng làm chuẩn xếp ngược. Ví dụ nam sinh năm đinh sửu, tháng nhâm dần, lấy nhâm dần làm chuẩn xếp ngược đại vận như sau : tân sửu, canh tí, kỷ hợi, mậu tuất, đinh dậu, bính thân, ất mùi, giáp ngọ.
2. LẤY SỐ ĐẠI VẬN
Có thể từ 1 tuổi đã bắt đầu bước vào đại vận. Tham khảo các sách bàn về vận mệnh ta thấy lấy đại vận từ 1 tuổi đến 11 tuổi cũng có. Ví dụ : vận thứ nhất là từ 2 tuổi, vận thứ hai là vận từ 12 tuổi.... vận thứ tám là vận từ 72 tuổi.
Lấy số của đại vận thì dù thuận hay nghịch đều căn cứ theo tháng tự nhiên mà tăng lên từng bước. Số năm của đại vận đều lấy 10 năm tăng dần lên theo từng đợt.
Phương pháp lấy số đại vận là : cứ ba ngày chập lại thành một tuổi để tính, tức một ngày tương đương với bốn tháng, hai ngày tương đương với tám tháng. Khi tính, ví dụ tổng số ngày để tính đại vận là 18 ngày, chia cho 3 được 6, tức 6 tuổi bắt đầu lấy đại vận. Khi tổng số ngày không chia chẵn cho 3 thì cứ thừa một ngày, tính thêm 4 tháng. Ví dụ tổng số là 19 ngày sẽ tính là 6 tuổi 4 tháng, hoặc chỉ tính tròn 6 tuổi ; thừa 2 ngày, ví dụ tổng số là 20 ngày thì tính 6 tuổi 8 tháng tính tròn là 7 tuổi.
Phương pháp tính tổng số của đại vận là lấy tháng lệnh của ngày sinh, nam tính thuận, nữ tính ngược. Cách tính thuận ngược của nó giống như cách tính : nam sinh năm dương tính thuận, nữ sinh năm dương tính ngược hoặc nữ sinh năm âm tính thuận, nam sinh năm âm tính ngược.
Nam sinh năm dương thì lấy tổng số ngày đếm từ ngày sinh đến kết thúc lệnh tháng, ví dụ người sinh tháng dần, lệnh tháng là lập xuân. Khi kết thúc lập xuân tức là giao với tiết lệnh kinh trập tháng mão. Ví dụ : nam sinh năm 1994, tháng giêng, ngày 8 âm lịch, nam sinh năm dương, từ ngày 8 đếm đến này 25 (ngày 25 là kết thúc lệnh lập xuân, giao với kinh trập của tháng mão ) tất cả có 18 ngày. Lấy 18 chia 3 được 6, tức 6 tuổi bắt đầu hành đại vận thứ nhất. Nếu đó là ngày sinh của nữ, vì nữ sinh năm dương nên từ ngày 8 đếm ngược đến ngay lập xuân ( tức ngày 24 tháng 12 âm lịch năm 1993 ) cộng được 14 ngày, chia 3 được 4 dư 2 tức là 4 tuổi 8 tháng bắt đầu hành đại vận. Trong tính số đại vận có thể áp dụng nguyên tắc vê tròn chưa đến nửa năm thì bỏ hoặc qua nửa năm thì tăng lên lấy tròn. Nếu nữ sinh năm âm, cách tính cũng như nam sinh năm dương. Độc giả tự đặt ra ví dụ để tập sắp xếp cho thuần thục.
3. MƯỜI THẦN LÀM CHỦ CÁC VẬN
Sau khi đã lấy số và sắp xếp được các đại vận, thiên can của mỗi vận nên phải kết hợp với nhật can của Tứ trụ để xét về sự sinh khắc, nêu ra mười thần để cùng xét chun với Tứ trụ. Mười thần của đại vận cũng xuất hiện từ sự sinh khắc giống như mười thần lộ ra hoặc mười thần tàng trong các chi của Tứ trụ. Mười thần của đại vận là hỉ của dụng thần thì vận đó tốt ; Mười thần của đại vận là kỷ của dụng thần thì vận đó xấu . Đương nhiên tốt hay xấu đến mức nào không phải là nói một cách chung chung mà phải căn cứ vào quan hệ sinh khắc hình xung giữa các tổ hợp của chúng để đoán cho chính xác. Nếu nắm vững được mức độ sinh khắc hình xung đó càng cao thì sự dự đoán càng chính xác. Hỉ, kỵ của mười thần đại vận lại có quan hệ đến vận khí tốt xấu của từng năm (tức lưu niên). Nắm vững được hỉ kỵ của đại vận cũng tức là nắm được mạch chính của mệnh. Chỉ có như thế mới có thể gọi là biết được mệnh và vận một cách chân chính. Chỉ trên cơ sở cảm nhận được một cách chắc chắn sự tồn tại của vận mệnh thì mới có thể nói đến hướng về cái tốt, tránh xa cái xấu.
Dưới đây sẽ đưa ra các ví dụ về nữ sinh năm âm và nam sinh năm âm, cách sắp xếp Tứ trụ, thiên can Tứ trụ lộ ra và mười thần của các can tàng trong các địa chi, cách lấy số đại vận, sắp xếp đại vận, can của các đại vận thấu ra mười thần và cách sắp xếp chúng. Đến đó thì các bước cơ bản để đoán Tứ trụ đã hoàn thành. Những dự đoán cát hung về sau đều được tính toán trên cơ sở đó ( thần sát được chú thích ở một bên Tứ trụ hoặc cũng có thể chú thích riêng ).
Ví dụ . Nữ sinh năm âm.
Năm 1995 tháng 2 âl ngày 4 âl 8 giờ
Kiếp tài nhật tài
At hợi mậu dần giáp ngọ mậu thìn
Mệnh : nhâm giáp giáp bính mậu đinh tị mậu ất quý
Kiêu tỉ tỉ thực tài thương tài tài kiếp ứng
Tài sát quan kiêu ấn tỉ kiếp thực
Tị canh tân nhâm quý giáp ất bính
Vận: mão thìn tị ngọ mùi thân dậu tuất
1 11 21 31 41 51 61 71
ví dụ : nam sinh năm âm : năm 1995 tháng 2 ngày 4 lúc 8 giờ sáng. Mười thần của Tứ trụ lộ ra và mười thần của các can tàng trong chi cũng giống như trên. Còn đại vận lấy trụ tháng mậu làm chuẩn xếp ngược, lấy số vận và cách tính đại vận đếm ngược. Mỗi đại vận 10 năm , cụ thể như sau:
thương thực kiếp tỉ ấn kiêu quan sát
đinh bính ất giáp quý nhâm tân canh
Vận: sửu tí hợi tuất dậu thân mùi ngọ
10 20 30 40 50 60 70 80
I. TUẾ VẬN CỦA TỨ TRỤ
Chương này vừa bàn về đại vận vừa nói về lưu niên thái tuế. Vì sao phải bàn chung hai vấn đề đó? Vì sau khi xác đinh được nhật can của Tứ trụ là mạnh hay yếu và định được dụng thần thì phải tổng hợp với đại vận và lưu niên thành một thể để dự đoán sự việc.
Các sách về mệnh lý học đã xuất bản, đều tránh né vấn đề làm sao từ đại vận lưu niên để đoán ra những cát hung hoạ phúc của cả cuộc đời. Cho dù đôi cuốn có bàn tới thì cũng chỉ dưới góc độ kết hợp sự có ích hay làm hao tổn của các cách cục trong Tứ trụ để bàn đến cách cục. Cách thức bàn về các cách cục này không những không đáng tiếp thu mà còn làm rắc rối phức tạp thêm đối với những người mới học, hơn nữa trong dự đoán cũng không tìm ra được đầu mối để phân biệt cát hung. Đối với người cần đoán mà họ chỉ mong biết được là sự việc cát hay hung , vì vậy nếu nói một cách hàm hồ hoặc chung chung thì không thể đạt được mục đích dự đoán. Cho nên muốn từ đại vận lưu niên đoán ra được cát hung thì điều cơ bản nhất là phải biết bắt đầu từ đâu, hay nói cách khác điều muốn làm sáng tỏ là mỗi đại vận quản năm năm hay là quản mười năm.
Nói chung các sách đều giống nhau ở chỗ cư mỗi đại vận mười năm đều lấy lệnh tháng làm chuẩn, nam nữ tính thuận hay tính ngược để xác định. Điều đó phù hợp với nguyên lý âm dương. Song cứ phân mỗi vận thành mười năm thực chất có hợp tình, hợp lý, hợp thực tế không .?
Trong luận thuyết về phân tách các can chi của đại vận có cách phân : thiên can quản năm năm đầu, địa chi quản năm năm sau. Trong đó khi bàn về thiên can, địa chi phải chiếm 3 phần , khi bàn về địa chi, không có trọng can, thiên can quản bốn năm, địa chi quản sáu năm. Còn có cách phân nữa là : thiên can quản ba năm, địa chia quản bảy năm. Những cách chia này đều nói khi bàn đến can phải chú ý đến chi, khi bàn đến chi phải chú ý đến can, tuyệt đối không được bàn riêng. Điều đó chứng tỏ can chi không thể phân khai, nhưng thực tế lại là phân chia tách bạch. Đã đành can không thể rời chi hay ngược lại chi không thể rời can, điều đó giống như cán cân với hòn cân không thể rời nhau hay giống như vợ không thể lìa chồng vậy.
Hành đại vận là bắt đầu từ lệnh tháng, nếu tính thuận thì tính đến nguyệt khí của tháng sau, nếu tính ngược thì tính đến lệnh tháng của tháng trước. Phàm là can chi của lệnh tháng đều quản chung sự việc của một tháng, không có can quản nửa tháng, chi quản nửa tháng. Đại vận tất nhiên là tham chính chung với Tứ trụ nên không có chuyện phân chia can hoặc chi của đại vận quản mấy năm.
Thiên can trong mệnh cục Tứ trụ là thiên tượng, là chủ tượng. Cho nên thiên can là thiên nguyên còn gọi là địa chi là địa tượng, là tượng bổ trợ nên gọi là địa nguyên. Giữa chúng có mối quan hệ thiên địa, âm dương, quân thần, phu thê. Đại cục do thiên định, hợp tình hợp lý là vì dựa vào một đạo lý chung mà mọi người đều biết, đó là : thấu lộ thì rõ, tàng thì ẩn nên gọi là minh hiển hay ám tàng. Thiên can thấu ra thì việc thấu rất rõ, trước hết sẽ bị khắc hoặc được sinh trợ, sự xung đột lợi hại tự nhiên đó cũng rất rõ ràng, dễ thấy, còn các can tàng trong địa chi thì khó nhìn rõ hơn. Trong thực tế dự đoán, nếu là người tài vượng và lộ rõ thì nhất định khảng khái, đại phóng, nhưng nếu kị tỉ kiếp mà gặp phải thì trước hết sẽ bị cướp đoạt. Người tài tàng mà có mộ kho là càng giàu thì càng biển lận, nhỏ nhen. Nếu vừa có can tàng, can lộ thì người đó vừa có thể tích luỹ lại vừa không bị mất đi sự đại phóng. Có người địa chi tàng sát, thiên can của Tứ trụ để xét về quan hệ sinh khắc chế hóa thì từ trong sự việc cần đoán mới có thể đoán ra giai đoạn phát sinh. Địa chi của đại vận kết hợp với địa chi của Tứ trụ để bổ trợ cho sự phán đoán, có tác dụng thấy được sự cát hung tăng hay giảm.
Một vận mười năm bao hàm sự lưu chuyển mười năm của mười thiên can, thiên can của đại vận gặp vận tốt nhưng lưu niên thì không phải trong mười năm năm nào cũng tốt như nhau. Những năm tốt nhất là mấy năm dụng thần đắc lực, trong những lưu niên này còn vì các tổ hợp hình xung khắc hợp tốt hay xấu mà hạn chế tác dụng của dụng thần. Trong những năm dụng thần bị khắc, bị hao tổn thì sẽ gặp một số không thuận, cũng có thể vì tổ hợp hình xung khắc hợp mà làm tổn hại đến dụng thần, song khi thiên can đại vận là vận tốt thì những điều không thuận chỉ là tạm thời. Nếu thiên can đại vận không tốt thì hoàn toàn ngược lại.
Giữa can chi của đại vận có mối liên hệ lẫn nhau, ngũ hành của can chi tương sinh , tương khắc hay tương đồng đều là tăng hay giảm sự tốt xấu của đại vận. Nếu can trên khắc chi dưới thì khí của can trên bị tổn hao ; can trên sinh chi dưới thì khí của can trên bị xì hơi, chi dưới khắc can trên sẽ áp chế khí của can trên, chi dưới sinh cho can trên, hoặc cùng loại với can trên là sinh phù cho khí can trên. Ngoài ra đại vận và lưu niên giống như trụ thứ năm và trụ thứ sáu, không những chúng tham gia vào sự cân bằng tổng hợp của Tứ trụ mà còn trực tiếp chia mười năm thành một giai đoạn, lưu niên là một thái tuế để thể hiện sự cát hung.
Thiên can của đại vận đang ở vận tốt, ngũ hành địa chi của đại vận nếu sinh phù cho thiên can thì có ích cho dụng thần, nếu khắc, hao , tổn thiên can thì tổn hại cho dụng thần. Độc giả nên tham khảo sự hình, xung, khắc hợp của địa chi trong Tứ trụ đối với mười năm của đại vận có tác dụng tăng hay giảm cát hung để biết.
Lưu niên ngoài bản thân sự sinh khắc của các can chi phía trên hay phía dưới để có ích hay làm tổn hại dụng thần ra, thiên can của lưu niên cũng nằm trong phạm trù hoặc sẽ có tác dụng thần ra, thiên can của lưu niên cũng nằm trong phạm trù hoặc sẽ có tác dụng tốt hay có tác dụng xấu đối với đại vận mười năm. Về điều nay nên tham khảo mục sinh, khắc, chế, hóa của đại vận và Tứ trụ. Địa chi của lưu niên có hình, xung, khắc hợp với đại vận và Tứ trụ, còn thiên can của lưu niên thì có tác dụng làm tốt hay xấu cho năm đó.
Ví dụ lấy vận tốt mà nói, nếu theo phương pháp cho rằng can phân nhau quản các năm, khi thiên can hành tài vận thì nên là phát tài, nhưng thiên can của lưu niên lại không lợi cho dụng thần thì năm đó sẽ không có của, tức là không có tài để mà phát ; mấy năm sau của đại vận, nếu theo cách nói các chi quản các năm sau thì đó không phải là năm tài, nhưng nhờ thiên can của lưu niên mà sinh tài, vượng tài thì tài vẫn phát lớn. Điều đó là hiện tượng phổ biến trong thực tế dự đoán. Vì vậy có sự tranh luận : không bằng đại vận tốt. Đó là vì sự mâu thuẫn do quan niệm không hợp lý cho rằng thiên can và địa chi của đại vận chi quản mười năm . Cho nên cách nói, đại vận quyết đinh sự tốt hay xấu của 10 năm, còn lưu niên xác định cát,hoặc hung của vận đó là hợp lý.
Thế nào gọi là vận tốt ? Trong cả cuộc đơì người ta, thời gian tốt nhất là lúc dụng thần lên ngôi, đó gọi là đang hành vận tốt. Trong mệnh cục nếu có dụng thần thì gọi là dụng thần có nguyên cục, mỗi lần dụng thần được sinh là mỗi lần tăng thêm có ích, nếu mệnh vận không có tác dụng thần thì cuộc đời gập ghềnh không thuận lợi. Nguyên cục không có dụng thần thì chỉ còn hy vọng hành đến gặp vận gặp được dụng thàn đang thiếu. Cho dù là mệnh tốt hay mệnh xấu ( tức là tổ hợp của mệnh không tốt ) thì khi hành đến vừa gặp được dụng thần nhất định sẽ là thời kỳ thuận lợi nhất trong cuộc đời, đối với mệnh cục tốt mà nói thì đó là giai đoạn huy hoàng nhất.
Hành đến vận gặp được dụng thần nói chung muốn nói đó là thời kỳ có lực nhất, cũng tức là khoảng mười hai đến mươi năm. Ví dụ nói nếu hành quan vận thì thời kỳ quan vận sẽ đạt được chức tước cao nhất. Sau đó sát vận cũng là quan vận, dụng thần là chính quan, nếu là thiên quan thì cũng không phải là điều kị , vì vận thiên quan cũng có thể thăng quan tiến chức. Hành đến tài vận cũng sẽ được thăng quan vì chính tài sinh chính quan, thiên tài sinh thiên quan, chính sinh thiên hoặc thiên sinh chính đều không bằng chính sinh chính chính hoặc thiên sinh thiên. Tài vận được xem là dụng thần thứ hai, tuy còn có thời cơ thăng quan, nhưng vận khí phải kém hơn dụng thần của chính vận đó.
Sau khi đã xác đinh được thân vượng hay thân nhược thì dụng thần đã rõ. Mệnh cục của Tứ trụ chỉ cung cấp những điều kiện cơ bản về sự cát hung, tốt xấu của đại vận và lưu niên, còn như trong cả cuộc đời, lúc nào là vận tốt, lúc nào là vận tốt vừa, lúc nào là bại vận, lúc nào là đại bại vận thì phải bắt đầu từ dụng thần hành đến vận nào. Lưu niên chỉ là nói rõ thêm một bước trong vận tốt hay vận xấu, sẽ tốt ở năm nào, hoặc sẽ xấu ở năm nào ( người thành thục điêu luyện thậm chí có thể tính được tốt hay xấu rơi vào ngày tháng nào. Nguyên lý của nó vẫn là căn cứ vào sự sinh khắc giữa dụng thần và ngũ hành ).
Phàm người thân vượng, dưới tiền đề trong mệnh cục không bị hình xung khắc hợp làm hại, hơn nữa ngũ hành thiên khô ( thiên khô tức là các tổ hợp trong Tứ trụ xấu nhiều hơn tốt ), tổ hợp không thích hợp thì chế vận là : quan vận, sát vận, hao vận ; chính tài vận, thiên tài vận ; xì hơi vận : thương quan vận đều được xem là các vận tốt. Các vận : chính ấn, thiên ấn sinh thân ; các vận : ngang vai, kiếp tài giúp trợ thân, đều được xem là bại vận. Trong đó vận khắc dụng thần là hung vận.
Phàm người thân nhược, cũng dưới tiền đề như trên, khi hành đến các vận : chính ấn, thiên ấn sinh thân, các vận : ngang vai, kiếp tài giúp trợ thân đều được xem là vận tốt. Khi hành đến quan vận, sát vận khắc mình, hoặc các vận thương quan, thực thần làm xì hơi mình, hoặc các vận chính tài, thiên tài làm hao tổn mình thì đều được xem là bại vận hoặc hung vận.
Thế nào gọi là tốt, thế nào gọi là bại ? Sự tốt hay xấu của vận khí cuộc đời con người chỉ có thể so sánh với bản thân mình. Tục ngứ nói : “Người so với người, tức chết đi được”. Sự tốt xấu của mệnh cục mỗi người sẽ quyết định sự tốt xấu của vận khí. Mệnh khác nhau thì vận cũng khác nhau, cho nên mỗi người khác nhau ắt phải trải qua những cuộc sống khác nhau. Vậy so sánh như thế nào? Cách so sánh trực tiếp nhất và rõ nhất là từ thân vượng hay thân nhược, hành vận bị áp chế hay được phù trợ để có thể thấy rõ. Nếu lấy thực tế con đường cuộc sống để so sánh thì rất phức tạp, vì ở đây vận mệnh của mỗi người còn gắn với vận mệnh chung của quốc gia, của khu vực. Quốc vận ngày nay đang bằng phẳng, xã hội tiến bộ, con người có cuộc sống hiện đại, tuy trong đất nước còn có những khu vực nghèo khó, lạc hậu, nhưng phổ biến đều có ti vi, điều kiện cuộc sống đã được nâng cao. Chúng ta không thể so sánh vận mệnh đất nước với vận mệnh kinh tế của mỗi con người, mà chỉ nên lấy người đó mấu chốt nhất lại không thể tách rời với vận mệnh của đất nước . Có người hành vận được sớm, có một mệnh cục rất tốt, nếu trong điều kiện dễ làm giàu như hiện nay thì đáng lẽ đã trở thành người giàu, nhưng khi đất nước có sự dao động, có những phong trào do con người tạo nên làm cho mọi người không thể giàu được thì dù người đó hành đến tài vận nhưng cĩng chỉ cơm no, áo ấm hơn người khác một chút mà thôi, hoặc chỉ tăng thêm được một bậc lương nào đó. Nếu trước kia đã trải qua vận không tốt, nhưng chỉ có một Tứ trụ tốt, ngày nay hành đến tại vận lại gặp được quốc vận đang đổi mới thì người đó sẽ thuận lợi. Nếu quốc vận ngày càng tốt, mà Tứ trụ và các điều kiện khác của hai người khác nhau thì trong cuộc sống của người có mệnh cục tốt nhất định sẽ tốt hơn. Tự mình khó so sánh với mình, nhưng nếu ta chú ý tới sự khẳng định của xã hội thừa nhận địa vị của người đó để so sanh mức độ cống hiến của người đó cho xã hội thì tức là ta đã gắn việc đánh giá với cục mệnh cục một cách rõ ràng hơn. Ví dụ người làm thương nghiệp, có quy mô lớn, giá trị buôn bán to thì xã hội thừa nhận đó là người giàu có, người có năng lực chính trị cao thì xã hội thừa nhận địa vị lãnh đạo của người đó ; người có trí thức uyên thâm và chuyển hoá nó thành của cải cho xã hội đem lại lợi ích cho nhân dân thì xã hội thừa nhận địa vị và công danh của người đao càng cao, càng rộng rãi. Người mà ngũ hành trong mệnh cục có tình, dụng thần có lực, lại gặp vận tốt thì nói chung phú quý, công danh, quyền ấn đều có. Song thông thường số người đó chỉ đếm trên đầu ngón tay. Vì trong một vòng sáu mươi giáp tí có đến hơn 52 vạn tổ hợp Tứ trụ khác nhau, ngoài ra tướng tay, tướng mặt, cốt tướng của mỗi người còn khác nhau, rồi cộng thêm gen di truyền, khu vực sống còn chênh lệch nhau nữa. Cho nên tuy mệnh cục đều lấy tài làm dụng thần nhưng rất ít người giàu có, còn đa số chỉ là người có ăn hơn so với người bình thường. Còn một vấn đề nữa , tuy cùng có dụng thần là tài nhưng người đó có đạt được mệnh cục như thế hay không là còn có thể phát tài ở phương Nam, đến sống ở phương Nam thì giàu có rất nhanh, bản thân trở thành Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty hay Xí nghiệp, mức sống rất cao so với những người bản địa. Song quan niệm giàu có ở mỗi vùng một khác. Ví dụ ở đây người có một vạn được xem là phát tài, nhưng đến vùng khác của phương Nam một trăm vạn mới được xem là giàu, thậm chí như ở Oxtrâylia phải có tiền triệu vạn mới được xem là giàu có. Giá trị ứng dụng của mệnh học là ở đây. Đến được vùng có lợi cho dụng thần hoặc sinh trợ cho dụng thần thì mới phát tài và phát tài rất nhanh ,con đường công danh cũng mới bằng phẳng. Cho dù vận mệnh không tốt lắm, dụng thần không đắc lực nhưng đến được phương vị hợp với dụng thần thì cuộc sống cũng sẽ thuận lợi hơn. Chúng ta từng thấy có một số người ăn xin, thậm chí ở những thành phố trù phú vùng duyên hải phương Nam số người ăn xin cũng có nhiều nhưng họ không bị chết rét. Cho nên đi sai phương vị , tức là đi không đúng với phương có lợi cho dụng thần tất sẽ rủi ro, cho dù gặp vận tốt cũng không bằng được nên đi về phương vị mà trong vận, trong mệnh nên đi. Đó là chưa nói đến khi hành bại vận còn thảm thương hơn, hoạ vô đơn chí. Ngược lại có những người mù quáng đi về phương Nam là phương không đáng đi thì không những không cạnh tranh nổi với người bản địa mà thậm chí còn bị cuộc sống đắt đỏ, hoặc rơi vào cảnh bị trộm cướp , phá sản.
Trong cuộc đời một người nói chung đều gặp khí tốt hay xấu, chỉ có điều gặp ít hay nhiều , gặp sớm hay muộn mà thôi. Nói chung tuổi trẻ hay tuổi già có thể hành vận xấu, nhưng cũng có lúc không gặp phải vận xấu nhất. Theo quy luật tự nhiên mà nói, ngày nay số người thọ 80 tuổi không còn là cổ lai hy. Đối với những người từ tuổi nhỏ cuộc sống nghèo khổ hơn, đến tuổi trung niên do học hành mà thành đạt, đến tuổi già được hưởng cuộc sống bình thường, như thế là tốt. Người mà mấy chục năm của quãng giữa cuộc đời gặp vận trình tốt là người có phúc, đến lúc tuổi già do bệnh già mà chết thì đó là người không gọi là tốt cũng đã rất tự nhiên. Chỉ sợ từ tuổi nhỏ đã hành vận tốt, hưởng hết phúc đến cuối đời cuộc sống mới thê lương. Thậm chí có những người chưa gặp được vận tốt đã gặp phải những vận khắc hại dụng thần làm cho đoản thọ hoặc vì nghèo khổ quá mà chết non. Những người mà ngũ hành trong Tứ trụ tương cân bằng thì nói chung cuộc đời ít có thay đổi. Người mà Tứ trụ các đại vận khí giúp đỡ được nhiều thì cuộc sống dễ dàng hơn, vận khí giúp đỡ ít thì suốt đời trầm lắng.
Dụng thần vì sự thay đổi của đại vận và lưu niên nên có lúc mạnh lúc yếu, cuộc đời cũng theo đó mà lúc tốt lúc xấu. Ví dụ người trong mệnh cục có dụng thần là hỏa, khi gặp thiên can của đại vận là bính đinh tức là gặp vận tốt, giáp ất sinh bính đinh nên vận giáp ất là vận tốt ; không có dụng thần thì giáp ất chỉ có thể bổ trợ cho dụng thần chứ không thể thay thế được dụng thần bính đinh. Điều cần nói rõ ở đây là: nếu giáp ất là thương quan, khi thương quan trong mệnh vượng quá thì đó là vận ở dưới mức bình thường vì thương quan gặp năm quan sẽ lớn. Nếu giáp ất bính đinh là vận tốt sinh phù thì mậu kỷ canh tân nhâm quý đều là các vận trợ giúp kị thần, hoặc là đương vận kỵ thần. Do tổ hợp của mỗi vận khác nhau, nên mức độ cát hung của sự việc cũng khác nhau, điều đó thông qua sự sinh khắc, hình xung hội hợp với kỉ thần để thể hiện ra, có thể tính toán được. Hơn nữa những việc tốt xấu của quá khứ và tương lai đều có thể căn cứ vào các tổ hợp đó để đoán ra.
Trong thực tế cho dù là cân bằng cho Tứ trụ hoặc dự đoán cho từng vận, từng năm đều phải luôn luôn nhớ rõ : thân vượng thì nên gặp vận hoặc năm là xì hơi, hao tổn, áp chế là tốt ; thân nhược thì nên được năm hoặc vận tương sinh hay trợ phù là tốt. Có một số mệnh học đưa ra lý thuyết cho rằng : tuổi già sợ gặp vận vượng, tuổi trẻ sợ gặp vận suy, tuổi trung niên sợ gặp các địa chi rơi vào tử, tuyệt, thai. Cách nói đó là căn cứ vào quy luật trưởng tự nhiên của con người mà nói. Nhưng vận trình của con người là căn cứ vào thiên can, dụng thần và các tổ hợp với địa chi để xác định vận tốt hay xấu. Tuổi già, tuổi trẻ và trung niên, dụng thần đương vận căn bản không có gì liên quan với vận vượng hay vận suy, cho nên nhiều độc giả mới học đã không nắm vững điều đó nên bị lý luận trên làm cho hoang mang về nhận thức. Đó là điều nên kiên quyết dứt bỏ.
- Trích trong KHÁM PHÁ BÍ ẨN CON NGƯỜI QUA KHUÔN MẶT, DÁNG HÌNH của Đặng Xuân Xuyến -
Theo thuật xem tướng của người phương Đông thì bất luận là nam hay nữ, nếu tập trung nhiều dấu hiệu được liệt kê dưới đây thì đấy là mẫu người chung thủy trong tình yêu.

- Đầu tròn nhưng hơi mảnh dẻ và cổ cao.
- Đầu tròn vừa. Cổ tròn nhưng không nổi gân.
- Đầu suôn nhọn như hình quả trứng.
- Đầu to nhưng thân mình lại nhỏ. Hoặc đầu lớn nhưng đầu lại vuông.
- Tóc đen, chân tóc khít rậm và to sợi.
- Tóc mềm nhưng lại nằm rạp xuống đầu.
- Tóc mềm sợi và lượn sóng.
- Hai bên mang tai có xương nổi cao.
- Cổ tròn, vững và tương đối xứng với đầu và vai.
- Vai nở rộng và eo lưng đầy đặn.
- Ngực nẩy nở vừa phải và dài.
- Phụ nữ vú lớn nhưng không xệ xuống. Núm vú hướng lên phía trên.
- Bụng đầy đặn và hướng lên phía trên.
- Rốn cao lên phía trên, cách xa hạ bộ.
- Tiểu tiện vọt như hạt châu (tua ra như mưa).
- Lông ở âm bộ và dương bộ mượt, mọc không quá nhiều. Đàn bà thì âm bộ hướng lên trên.
- Hai mắt tròng đen nhiều, tròng trắng ít.
- Nếu là phụ nữ mắt bên phải nhỏ hơn mắt bên trái, còn nếu là đàn ông thì mắt bên trái nhỏ hơn mắt bên phải.
- Hai mắt lớn, tươi sáng và có thần.
- Chân mày to và đầy đặn.
- Lông mày mọc rủ quắp xuống mắt.
- Tai cứng và mọc cao.
- Hai tai lớn, dầy, cả hai lỗ tai cùng lớn.
- Lưỡng quyền thon nhỏ và ít thịt.
- Lưỡng quyền là hai gu xương nổi thấp, má no đầy nhưng không xệ.
- Trán cao, tròn hơi dô và có vài nếp nhăn cách xa chân lông mày.
- Thân mũi dài, to đều đặn, sống mũi có chiều hơi cong.
- Sống mũi nhỏ, đầu mũi to và tròn.
- Mũi to nhưng cân xứng với khuôn mặt, đầu lỗ mũi to nhưng tròn đẹp, hai cánh mũi nở.
- Nhân trung sâu, rộng như cái máng và tươi sáng. Hoặc nhân trung dài, rộng và ngay ngắn.
- Nhân trung bề ngang hơi hẹp nhưng dài và sâu.
- Khóe miệng hai bên hướng lên trên.
- Miệng ngay ngắn, hai môi đều có lằn vạch đứng.
- Môi trên, môi dưới hài hòa, cân xứng và cùng hướng lên phía trên.
- Hai môi vừa dầy và đều đặn.
- Ngủ thường nằm nghiêng, tay đặt lên người, dáng người ngay ngắn.
- Dáng điệu từ tốn, khoan thai, chắc chắn.
- Cánh tay phía trên hơi gầy, nhỏ, dưới bắp tay đến cườm hơi mập, lớn.
- Cánh tay dài, nhỏ, không cân xứng với dáng hình.
- Bàn tay ướt và gò Kim Tinh nổi cao.
- Bàn tay gầy và mềm yếu.
- Bàn tay khuyết lòng nhưng ngón tay tròn trịa, no đủ.
- Bàn tay mềm nhưng hơi thô kệch.
- Bàn tay cứng và có phần hơi thô.
- Các đầu ngón tay tròn trịa hoặc vông vức, nghiêm chỉnh.
- Lòng bàn tay có ít đường chỉ chằng chịt, rối loạn.
- Móng tay dài và cứng nhưng không dễ gẫy.
- Bàn tay có sắc đỏ đậm hoặc hồng nhạt.
- Phía sau lưng bàn tay có nhiều lằn nhăn.
- Phía sau lưng bàn tay có những chỗ lòm hóp.
- Gò Kim Tinh được no đầy và hồng hào.
- Chân nhỏ, ít nổi gân, ít thịt và xương.
- Bàn chân hơi cong và có ít lông.
- Bàn chân có lũm (lõm) và cứng rắn.
- Các ngón chân cân xứng, đều đặn nhau.
- Nốt ruồi mọc ở gò má bên trái.
- Nốt ruồi mọc ở tại yết hầu, gu xương giữa cổ.
- Nốt ruồi mọc ở dưới gan bàn chân.
(Trích trong KHÁM PHÁ BÍ ẨN CON NGƯỜI QUA KHUÔN MẶT, DÁNG HÌNH của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015
Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:

– Nằm mơ thấy lên trời: sinh quý tử.
– Nằm mơ thấy trời sáng: vui lớn.
– Nằm mơ thấy trời: sống lâu.
– Nằm mơ thấy Đế Thích: đại cát.
– Nằm mơ thấy trời: được tiền của.
– Nằm mơ thấy mặt trăng, mặt trời chiếu vào mình là điều đại quý.
– Nằm mơ thấy vái lạy mặt trăng, mặt trời: đại cát.
– Nằm mơ thấy cửa trời thì sống lâu.
– Nằm mơ thấy trên trời có người xuống trần là điềm đại cát.
– Nằm mơ thấy cửa trời mở: thế nào cũng có chuyện quân sự.
– Nằm mơ thấy lên trời: sinh quý tử, đại cát.
– Nằm mơ thấy trời hiện rõ: đại cát đại lợi.