Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Sao Tuần Không

Loại: Ám tinh Đặc Tính: Sự trắc trở, dai dẳng, xoay trở bao giờ cũng chậm chạp. Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Tuần Trung Không Vong. Mộ...
Sao Tuần Không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Loại: Ám tinhĐặc Tính: Sự trắc trở, dai dẳng, xoay trở bao giờ cũng chậm chạp.
Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Tuần Trung Không Vong. Một trong 4 sao của bộ Tứ Không là Thiên Không, Địa Không, Tuần Không, Triệt Không.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Mệnh

  • Tuổi trẻ lận đận, nghèo, cực, bôn ba, đau ốm.
  • Có thể mồ côi sớm hay sớm ra đời để lập nghiệp.
  • Sinh bất phùng thời.
  • Nếu vô chính diệu có Tứ hay Tam Không thì làm nên danh phận nhưng không bền, tuổi niên thiếu vất vả.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Phụ Mẫu
Cha mất sớm, nhất là nếu Nhật, Nguyệt lạc hãm hay bị Không Kiếp chiếu. Cần cân nhắc với hai sao Nhật, Nguyệt và cung Phụ mẫu có Tuần, Triệt.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Phúc Đức
  • Phúc đức bị trục trặc trên phương diện nào đó.
  • Triệt, Dương: Dòng họ thất tự, phải lập con nuôi.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh lận đận, khó nhọc mới làm nên.
  • Phải chịu vất vả trong một thời gian.
  • Thiên Tướng, Triệt, Tuần: Có thể bị bãi chức, hay bị tai nạn trong công vụ.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Nô Bộc
  • Tuần ở cung này có nghĩa tôi tớ thay đổi, ra vào luôn, không ai ở lâu dài.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Tật Ách
Rất cần có Tuần, Triệt tại cung Tật Ách vì nhờ hai sao này mà bệnh, tật và họa sẽ tiêu tán hay giảm thiểu đi rất nhiều. Sức khỏe và may mắn sẽ được bảo đảm nhiều hơn.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Điền Trạch, Tài Bạch
Tuần ở hai cung Điền Trạch, Tài Bạch có thể có nhiều nghĩa:
  • Không có tài sản, hoặc chỉ có trong một giai đoạn nào đó.
  • Làm ra của nhưng phải chật vật.
  • Không được hưởng di sản tổ phụ.
  • Không có của để lại cho con.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Tử Tức
  • Sát con, nhất là con đầu lòng.
  • Sinh con đầu lòng khó khăn, khó nuôi.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Phu Thê
  • Tuần ở cung này tiên quyết nói lên sự trắc trở hôn nhân, nhất là sự thất bại của mối tình đầu.
  • Lấy người khác làng, khác tỉnh mới tốt, nhưng nhân duyên phải gặp khó khăn.
  • Tuần gặp Mã: Vợ chồng bỏ nhau rất dễ dàng.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em xung khắc hoặc ít anh chị em.
  • Anh cả, chị cả mất sớm.
Tuần Khi Vào Các Hạn
  • Nếu gặp sao sáng sủa thì hạn lại mờ ám, mưu sự trắc trở, thất bại.
  • Nếu gặp sao xấu xa thì hạn được sáng sủa, dù có gặp trắc trở ban đầu.
Đặc biệt cung Hạn gặp Tuần rất đáng lưu ý vì sao này có hiệu lực mạnh ở các đại, tiểu hạn.
Tóm lại, Tuần là sao hết sức quan trọng, chi phối các cung, các sao, biến tốt thành tương đối xấu, biến xấu thành tương đối tốt, Hiệu lực nghịch đảo đó có thể làm lạc hướng luận đoán nếu sự cân nhắc không tinh vị.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tuần Không

Bài trí đồng hồ hợp phong thủy mang lại vận may

Đồng hồ là biểu tượng rất tốt trong phong thủy ngoài chứa năng là đồ trang trí nội thất. Bài trí đồng hồ hợp phong thủy sẽ cải thiện và nâng cao tài vận trong nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa của đồng hồ rất lớn, nó vừa có hiệu ứng vòng tròn vừa có chức năng bát quái, khi vận dụng phong thủy rất tự nhiên.

Theo phong thuỷ hiện đại, sự đung đưa nhịp nhàng của con lắc đồng hồ và tiếng gõ nhịp điệu đều có thể làm tăng thêm khí năng trong nhà. Tiếng “tích tắc” của đồng hồ mang lại cảm giác quy luật và tiết tấu của sinh hoạt gia đình. Vì thế, treo chiếc đồng hồ báo giờ trong phòng khách rất cần thiết, nếu là đồng hồ quả lắc treo tường hoặc kiểu đứng càng tốt.


Bên cạnh đó, chọn đồng hồ làm quà tặng cũng rất ý nghĩa bởi đồng hồ tượng trưng cho sự quý giá của thời gian. Nhưng đồng hồ lại mang một ý nghĩa khác nhau với mỗi lứa tuổi.

Đối với người trẻ, nếu được tặng đồng hồ nghĩa là người đó muốn trở thành một phần trong cuộc sống của bạn. Với người lớn tuổi thì ngược lại, món quà này lại mang ý nghĩa không thọ lâu. Do đó, bạn không nên chọn đồng hồ làm quà tặng cho những người lớn tuổi như cha mẹ, ông bà…

Đồng hồ được xem là vật mang lại nhiều điều xấu trong kinh doanh. Vì thế, bạn cũng không nên chọn đồng hồ làm quà khai trương cửa hàng, tân gia hoặc quà tặng cho đối tác. Bạn nên tặng lại một số tiền tượng trưng cho người tặng với ý nghĩa mua lại đồng hồ để tránh những ảnh hưởng xấu do nó mang lại nếu không may nhận được đồng hồ.

 
Cần chú ý chọn màu theo phong thủy khi bài trí đồng hồ trong phòng khách


Treo đồng hồ trong nhà cần lưu ý một số điểm sau:

- Đầu giường hay đối diện giường ngủ không nên treo đồng hồ vì nó sẽ tạo ra không khí buồn bả, ảm đạm.

- Trên ghế sofa không nên treo đồng hồ vì nó sẽ tạo áp lực lớn về tâm lý cho người ngồi phía dưới.

- Mặt đồng hồ không nên để quay vào trong nhà mà nên quay ra ban công và cửa.

- Treo đồng hồ không nên hướng vào những thứ hình bát quái hoặc giống với hình dáng của nó, điều đó sẽ khiến tinh thần của gia chủ bị bực bội và ức chế.

- Trong nhà, không nên treo những loại đồng hồ có nhiều cạnh sắc hay có góc nhọn vì sẽ gây bất lợi và rối loạn luồng khí tốt khi nó di chuyển vào nhà.

- Để mang lại điều tốt đến với gia đình, gia chủ nên treo đồng hồ ở những vị trí khuất.

Cuối cùng, ngoài những điều kể trên, tuỳ theo cách trang hoàng, bố trí trong phòng, bạn có thể treo, đặt đồng hồ ở vị trí nào thấy đẹp nhất, dễ nhìn nhất là được, không cần câu nệ những điều đã trình bày ở trên. Như vậy, bài trí đồng hồ hợp phong thủy sẽ mang lại cảm giác may mắn, vui vẻ.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí đồng hồ hợp phong thủy mang lại vận may

Trường Lưu Thủy - Ý nghĩa dòng nước dài trường tồn

Trường Lưu Thủy có một khuyết điểm: chỉ chú trọng đại cuộc mà quên mất tiểu tiết, đôi khi do sơ sót mà hỏng việc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trường Lưu Thủy - Ý nghĩa dòng nước dài trường tồn

Trường Lưu Thủy - Ý nghĩa dòng nước dài trường tồn

Tìm hiểu về khái niệm Trường lưu thủy

Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điền chép: Nhâm Thìn Quí Tỵ, Thìn là thủy khố mà Tỵ là Trường Sinh của kim, kim sinh thủy vượng. Đã vượng mà còn chứa vào kho nước không bao giờ hết nên gọi bằng Trường Lưu Thủy.

Trường mang nghĩa vĩnh cửu, Lưu mang nghĩa chuyển động không ngừng, cuồn cuộn vô cùng, thao thao bất tuyệt. Tham vọng to tát nhưng tư tâm không nhiều. Nếu như số là con người giỏi giang có thể giao việc mà không sợ phản bội.

Trường Lưu Thủy có một khuyết điểm: chỉ chú trọng đại cuộc mà quên mất tiểu tiết, đôi khi do sơ sót mà hỏng việc. Mệnh xấu nạp âm Trường Lưu Thủy là người không có cơ sự nghiệp nhưng biết lo xa cũng ấm thân.

Nhâm Thìn Quí Tỵ Thìn thuộc thổ khắc thủy, Tỵ thuộc hỏa bị thủy khắc, đứng trước khó khăn của hung vận Nhâm Thìn vững vàng hơn Quí Tỵ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trường Lưu Thủy - Ý nghĩa dòng nước dài trường tồn

Chọn đào quất "phong thủy" cho năm mới dồi dào tài lộc

Mỗi khi tết đến, xuân sang mỗi gia đình thường lựa chọn cho mình những lọ hoa tươi, hoặc chậu cây đẹp nhất đại diện cho sự tươi tắn để đón năm mới. uy nhiên, cách để lựa chọn, bài trí đào, quất, mai… như nào cho hợp phong thủy không phải ai cũng nắm được.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi khi tết đến, xuân sang mỗi gia đình thường lựa chọn cho mình những lọ hoa tươi, hoặc chậu cây đẹp nhất đại diện cho sự tươi tắn để đón năm mới với hi vọng nhiều may mắn, sức khỏe và tài lộc đến với các thành viên. Trong vô vàn sắc hoa đang đua nhau khoe sắc, đào và quất, mai là những cây “ phong thủy” được người dân ưa chuộng. Tuy nhiên, cách để lựa chọn, bài trí đào, quất, mai… như nào cho hợp phong thủy không phải ai cũng nắm được.

Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn lựa chọn được những cành/chậu đào quất “phong thủy” nhất.

Sắc thắm của hoa đào và tài lộc sẽ đến với gia chủ

Sắc thắm của hoa đào và tài lộc sẽ đến với gia chủ


Cây đào:

Theo quan niệm phong thủy, cây đào được xem là tinh hoa của Ngũ hành, và có tác dụng trị bách quỷ, sẽ có tác dụng thu hút sinh khí mang đến sự may mắn về tài chính, sức khỏe và sự hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình. Tượng trưng cho sự trường thọ sẽ mang đến sức khỏe cho gia chủ.

Bạn có thể lựa chọn hoa thật hoặc giả tùy sở thích của gia chủ. Đối với những căn phòng không đủ ánh sáng và hơi ấm còn có thể lựa chọn những cậu cây đào bằng gốm sứ hoặc đá quý để cải thiện tài lộc và hạnh phúc trong gia đình. Tuy nhiên nếu có điều kiện nên chọn cây đào thật.

Nên chọn cây đào có tên thế chủ yếu lấy theo chữ Nho như ngũ phúc, trực đổ, bạt phong, tam đa…, còn hình dáng của các thế đào gợi lên ý nghĩa về biểu tượng cha – con, gia đình, các con vật trong truyền thuyết như long, phụng.Với loại đào cành, dù chọn cành to, nhỏ thì điều quan trọng nhất đó là tán đào phải tròn, các nhánh phân bố đều.


Mai vàng cho ngày tết

Mai vàng cho ngày tết


Cây mai:

Mai vàng nở rộcó 5 cánh, tượng trưng cho ngũ phúc: khoái lạc, hạnh phúc, trường thọ, thuận lợi, hòa bình . Đây là loài hoa được lựa chọn trở thành biểu tượng ngày Tết của người dân Việt Nam với ý nghĩa  mang đến năm mới sung túc, ấm áp.

Khi chọn lựa mai bạn nên lựa chọn cây có vóc dáng đẹp, có thể là tự nhiên hoặc nha. Bạn nên chọn những vóc dáng mang ý nghĩa may mắn, suôn sẻ: hình Chân quỳ, Hạc bay, Phụng Hoàng...Tiếp theo bạn nên chọn những cây nhánh đẹp cân đối, sự phân chia các nhánh hợp lý trên thân cây. Vỏ đen tự nhiên, không đốm vảy nấm mốc. Để một năm mới được nhiều tài lộc và sức khỏe, bạn nên chọn cây có bông “ bụ bẫm” rải đều, có nụ nhưng mà không nên quá nhiều; nhánh to khỏe, nhánh uyển chuyển, lá non vừa nhú. Không nên chọn cây có lá vàng úa, như vậy nó sẽ không đem đến được sự sống mới cho mọi người trong năm mới.

cây quất theo phong thủy

Cây quất theo phong thủy


Cây quất

Cây quýt/quất cũng thường được chọn để tô điểm cho mùa xuân với ý nghĩa mang đến “cát tường”. Cây quất sai quả, quả vàng đều thể hiện sự trù phú  với hứa hẹn một năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức khỏe.

Thường một cây quất đẹp phải có gốc to, thân ngắn chẻ làm nhiều nhánh nhỏ, thể hiện sự sum vầy của gia đình nhiều thế hệ. Dáng quất phải tròn hoặc hình tháp, chẻ ngang để tạo thế, cành quất  nên trĩu quả.


 Vị trí đặt cây đào, mai, quất:

Màu sắc, đặc tính của cây và màu sơn tường, hướng của phòng đều là những yếu tố quyết định đến việc đặt cây trong nhà. Cây thuộc hành Thủy nên trồng ở phía Tây ngôi nhà (Tây thuộc hành Kim, hành Kim sinh hành Thủy), cây hành Hỏa thì trồng ở phía Đông (phía Đông, hành Mộc sinh hành Hỏa)…Những cây thuộc hành Thủy phần lớn có màu xanh lá thẫm như tùng, bách, quất…  Cây thuộc hành Hỏa có sắc đỏ như thạch lựu, đào, hồng thiết, mai…

Bạn nên đặt cây đào/mai ở khu vực Đông Nam và khu vực phía Đông của phòng khách, muốn cải thiện sức khỏe của các thành viên trong gia đình nên đặt ở hướng Đông của căn phòng/ngôi nhà, muốn kích hoạt cung danh Vọng nên đặt ở phía Nam của căn phòng.Còn cây quất bạn nên đặt ở phía Đông của căn phòng/ngôi nhà để sức khỏe và tài lộc luôn dồi dào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn đào quất "phong thủy" cho năm mới dồi dào tài lộc

CÁC HỌC THUYẾT PHONG THỦY

Phong thủy cùng vì một mục đích, đó là thực tiễn quá trình thiết kế, xây dựng, bày trí không gian kiến trúc, nhà cửa. Thế nhưng trong quá trình phát triển, mỗi một nhà phong thủy nghiên cứu ở một bình diện, khía cạnh khác nhau, cho nên bộ môn này đa dạng về các học thuyết và trường phái. Sau khi nghiên cứu, người ta tổng hợp thống kê lại, gồm có các học thuyết lớn sau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

     Trong quá trình hình thành và phát triển, phong thủy phân hóa thành nhiều học thuyết, nhiều trường phái khác nhau. Tất cả các phái đều có những tinh hoa và hạn chế riêng. Với phạm vi một bài viết, tôi không có tham vọng đi sâu về nội dung các thuyết, chỉ có thể giới thiệu sơ lược về các trường phái phong thủy hiện hành mà thôi.

Các học thuyết phong thủy

    Phong thủy Bát trạch Phái này được Phong thủy sư Thái Kim Oanh, xâu chuỗi, hệ thống hóa, khái quái hóa trong tác phẩm “Bát trạch minh cảnh”.  Phái này có nguồn gốc từ thuyết âm dương ngũ hành, từ Thái cực phân chia thành Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát quái. Dựa vào năm sinh của gia chủ, xác định phân chia mệnh chủ thành  Đông tứ ( Khảm – Bắc, Ly – Nam, Chấn – Đông, Tốn -  Đông Nam), Tây tứ ( Đoài – Tây, Khôn – Tây Nam, Càn – Tây Bắc, Cấn – Đông Bắc). Từ mệnh cung xét các quan hệ với các phương vị khác tạo ra bốn hướng tốt Sinh khí, Thiên y, Phục vị, Phúc đức. Và lâm phải bốn hướng xấu Tuyệt mệnh, Họa hại, Ngũ quỷ, Lục sát.

    Phái này có một hạn chế là không tính đến sự hài hòa của môi trường xung quanh. Không xét đến vận khí của thiên thời biến đổi qua từng thời kỳ, từng giai đoạn…

    Dương trạch tam yếu: Tương truyền phái này do Triệu Cửu Phong đời Tống sáng lập. Phái này xét ba bình diện cơ bản của nhà ở. Bao gồm : Môn (là hướng của chính, cổng chính khi vào nhà), Táo (là nhà bếp), Chủ (là phòng ở của chủ gia đình)

 Phân ra Tịnh trạch, Động trạch, Hóa trạch, Biến trạch

 Nhưng khi vận dụng vào thực tiễn, có những căn nhà thiết kế chuẩn mực ba yếu tố trọng yếu kia, nhưng vẫn không gặp may mắn như mong đợi.

   Phái cảm xạ: Được khởi xướng bởi các nhà ngoại cảm, thông linh. Những người lựa chọn đất làm nhà, táng mộ theo thuyết này đều là các nhà ngoại cảm, theo Mật tông, khoa học nhân điện. Mục đích chính là tìm ra các vùng có tầm số năng lượng cao thấp mạnh yếu, để an định cửa nhà hoặc táng mộ. Dụng cụ họ sử dụng thường là đũa từ, con lắc, quả cầu năng lượng, hoặc dùng chính huyệt luân xa của mình để cảm nhận.

Phái này ít người học tập và tu luyện thành công

   Phái Huyền không: Dựa vào Tam nguyên, cửu vận, lập ra hệ thống tinh bàn. Để dự đoán cát hung, suy vượng của căn nhà theo từng thời kỳ, từng giai đoạn.

Nội dung phương pháp của trường phái này căn cứ trên những quy ước về sự vận động của cửu tinh trên 9 phương vị (8 phương và ở giữa – Trung cung), tùy theo thuộc tính quy ước của cửu tinh và vị trí của nó để luận cát hung cho căn hộ. Qua phần sơ lược về các trường phái nêu trên thì chúng ta đều nhận thấy: Đối tượng để nghiên cứu của các trường phái đều giống nhau (tức là con người với môi trường, điều kiện và hoàn cảnh sống của họ); nhưng lại được xem xét dưới các góc độ khác nhau mà chưa bao quát toàn bộ vấn đề cần nghiên cứu. Khái niệm thời gian và không gian và đối tượng nghiên cứu được mỗi trường phái xem xét và nâng tầm quan trọng dưới nhiều tiêu chí khác nhau.

    Phái Loan đầu: Do Dương Tùng Quân sáng lập. Phái này căn cứ xem xét ảnh hưởng của môi trường xung quanh, bao gồm, đặc điểm địa hình, sông ngòi, núi non, đường sá, và các công trình khác đối với nhà ở.

Nhà ở khi thiết kế xây dựng phải hài hòa với môi trường tự nhiên, để tránh thiên tai, địch họa, đảm bảo an toàn về sức khỏe, và gặp nhiều may mắn thuận lợi trong làm ăn.

Nhà ở phải tọa sơn, hướng thủy. Nhất vị, nhì hướng. Tức là dựa lưng vào chỗ cao, có thế tọa vững chắc, hướng nhìn rộng rãi, thoáng đãng, phong tầm mắt ra vô tận, thì mới đón được cát khí, vượng khí, tiền đồ mới rộng mở.

    Phái Tứ trụ : Phái này dựa vào năm yếu tố của cá nhân gồm có giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh và giới tính lập nên lá số Tứ trụ. Phân tích lá số tứ trụ sẽ thấy rõ được các yếu tố sinh vượng, mạnh yếu, khiếm khuyết về ngũ hành của mệnh cục. Biết được điều này sẽ chọ được dụng thần, bổ khuyết, điều hòa làm cân bằng hệ thống ngũ hành trong mệnh. Khi đạt tới sự cân bằng,(không bất cập, hoặc thái quá, không quá vượng, quá suy) thì cuộc sống con người sẽ đầy đủ, ấm no, về vật chất, hạnh phúc về tinh thần.

Môn dự đoán này do Trần Đoàn tiên sinh đời Tống sáng lập, Trần Đoàn truyền lại cho học trò là Thiệu Khang Tiết.  Nhà thơ Tản Đà nước ta cũng rất tinh thông môn dự đoán này. Gần đầy, Thiệu Vĩ Hoa (cháu của Thiệu Khang Tiết), Lý Cư Minh, nghiên cứu kỹ lưỡng môn dự đoán này, áp dụng cải vận thành công cho nhiều người. Hai nhà đẩu số này có biên soạn nhiều tài liệu để lại.

Áp dụng vào cuộc sống cá nhân, khi nắm được dụng thần, con người ta có thể đi về phương hướng có lợi, lựa chọn ngành nghề phù hợp, chọn tên, đặt bút danh, biệt hiệu, dùng trang phục, vật phẩm phong thủy là dụng thần của mình. Đối với phong thủy, việc lựa chọn hướng nhà theo hướng dụng thần, trồng thêm cây cối và tăng thêm đồ gỗ đối với người dụng thần là Mộc, đặt bể phong thủy, làm bể bơi, hồ bán nguyệt đối với người dụng thần là Thủy…

    Học thuật mênh mông vô bờ bến, những điều ta biết chỉ là một giọt nước nhỏ nhoi, giữa đại dương mênh mông. Nhưng khi chúng ta quyết tâm. Không gì là không thể. Việc lựa chọn đất, thiết kế, xây dựng phải được tính toán một cách chi tiết, tỷ mỷ, vận dụng nhuần nhuyễn, các nguyên tắc cơ bản của phong thủy. Tục ngữ có câu “An cư, lạc nghiệp”. Có được căn nhà hợp phong thủy, vận mệnh của bạn sẽ không ngừng hanh thông, thuận lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: CÁC HỌC THUYẾT PHONG THỦY

20 vị trí nốt ruồi may mắn trên cơ thể bạn gái

Nốt ruồi ở môi không bao giờ rơi vào nghèo túng; sau gáy là người có quyền lực; hay lòng bàn tay là người phú quý...
20 vị trí nốt ruồi may mắn trên cơ thể bạn gái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nốt ruồi trên đỉnh đầu

Con gái có nốt ruồi ở vị trí này thì từ khi lọt lòng đã khiến người khác phải ngưỡng mộ vận số tốt đẹp của họ, nếu có gặp phải khó khăn thì sẽ có quý nhân phù trợ tai qua nạn khỏi. Họ không phải vướng bận nỗi lo vật chất, người khác phải phấn đấu vài chục năm còn họ ngay từ khi sinh ra đã được ở trong điều kiện sống rất tốt.

2. Nốt ruồi mọc trong lông mày

Đây cũng là một vị trí cực kỳ may mắn, không phú thì quý, là con trai thì dễ dàng có được quyền lực, con gái thì vượng phu ích tử.

3. Nốt ruồi ở trung tâm trán

Phần phía trên của trán là nốt ruồi đại phú đại quý, có nhà có xe, tài vận tốt. Nếu có nốt ruồi ở vị trí này thì các bạn tuyệt đối không nên xóa nó đi nhé ^^.

4. Huyệt Thái Dương có nốt ruồi

Gặp quý nhân phù trợ, xuất ngoại sẽ càng được lợi, thích hợp đi làm ăn xa hoặc ra nước ngoài định cư.

5. Nốt ruồi trên tai hoặc thùy tai

Bạn có phúc khí, trường thọ và tài vận tốt. Vành tai có nốt ruồi thì thông minh hiếu thuận, mặt sau tai có nốt ruồi thì tiềm lực tài chính lớn.

6. Nốt ruồi ở xương gò má

Bạn có quyền lực, địa vị ở nơi bạn làm việc, có thể trở thành nhà lãnh đạo tài ba và thành công.

Untitled-1-2939-1425094186.jpg

7. Môi trên có nốt ruồi

Bạn sẽ không bao giờ rơi vào nghèo túng, thường được thưởng thức sơn hào hải vị, mà thường là được người khác bao ăn.

8. Môi dưới có nốt ruồi

Tác phong làm việc cẩn thận tỉ mỉ, dễ dàng đạt được tín nhiệm của người khác.

9. Gần cằm có nốt ruồi

Bạn sẽ thành công trong lĩnh vực bất động sản, hơn nữa có thể có được những trợ thủ đắc lực.

10. Sau gáy có nốt ruồi

Nốt ruồi này đại diện cho quyền lực, có nền tảng hoặc chỗ dựa vững chắc. 

Xem tiếp

Kunie (theo Astro)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 20 vị trí nốt ruồi may mắn trên cơ thể bạn gái

Cử chỉ tự xoa dịu bản thân

Trong quá trình trưởng thành, con người có những cử chỉ tự trấn an dưới nhiều dạng thức khác nhau nhằm giúp cơ thể điều hòa căng thẳng.
Cử chỉ tự xoa dịu bản thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ thường biểu lộ cử chỉ này bằng cách mút ngón tay cái, nhai nhai rìa tấm chăn hoặc với tay đòi người nào đó có thể làm chúng an tâm. Lớn hơn một chút, chúng tự có sự điều chỉnh hành vi cho thích hợp hơn.

Để xoa dịu bản thân, người ta thường cọ nhẹ 2 chân với nhau, kéo cổ áo, khoanh tay và xoa 2 tay vào nhau hoặc tự ôm lấy bờ vai mình. Cũng có khi họ đặt bàn tay này vào lòng bàn tay kia và nhẹ nhàng massage các ngón tay. Cách này không chỉ giúp xoa dịu mà còn tạo nên một sự tự vệ cho cơ thể.

Mọi tiếp xúc giữa tay và cơ thể đều có tác dụng xoa dịu. Những cử chỉ tự tiếp xúc này thường biểu lộ các cảm giác xấu hổ, nghi ngờ, lo lắng và ngạc nhiên...

Sự đụng chạm ấy có hiệu quả rõ rệt ở những vùng nhạy cảm như mặt và cổ. Vỗ mặt, xoa trán, kéo hoặc massage dái tai bằng ngón cái và ngón trỏ hay nghịch tóc có thể được xem là những cử chỉ xoa dịu. Cắn hoặc gặm móng tay hay bút chì cũng là một phản ứng thường thấy khi người ta căng thẳng.

Vuốt hoặc xoa cổ là một trong những cử chỉ xoa dịu thường xuyên và quan trọng trước các tác nhân gây căng thẳng bên trong hoặc bên ngoài. Kéo cổ áo có thể là cách gián tiếp thể hiện sự ngột ngạt. Cằm là nơi tập trung nhiều dây thần kinh, do vậy khi vuốt cằm, áp lực máu và nhịp tim sẽ giảm đi, giúp người đó tĩnh tâm lại.

Ở phụ nữ, điệu bộ sờ cổ nhằm xoa dịu bản thân có sự khác biệt so với nam giới. Đôi khi, họ chạm hoặc xoắn sợi dây chuyền đang đeo, cũng có thể chạm hoặc che đi phần lõm ở cổ khi cảm thấy bất an, sợ hãi hoặc lo lắng.

(Theo Sức mạnh của ngôn ngữ không lời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cử chỉ tự xoa dịu bản thân

Thất Tịch – Có thể bạn chưa biết về ngày lễ Valentine châu Á

Thất Tịch hay còn gọi là ngày lễ Valentine châu Á là ngày chúng ta cùng cầu nguyện cho tình cảm thiêng liêng của đôi lứa giờ đây đã mang nhiều màu sắc của
Thất Tịch – Có thể bạn chưa biết về ngày lễ Valentine châu Á

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phương Tây.     Mỗi năm cứ đến những ngày đầu tháng 7 âm lịch, khi bầu trời ban đêm lất phất những cơn mưa ngâu, là thời điểm báo hiệu cho một ngày lễ truyền thống ca ngợi tình yêu nam nữ - đó chính là tết Thất Tịch mùng 7 tháng 7 âm lịch.    Một ngày lễ bắt nguồn từ một câu chuyện thần thoại cảm động về chàng chăn trâu nghèo hiền lành tốt bụng tên là Ngưu Lang và cô tiên xinh đẹp này chính là cô gái út của Ngọc Hoàng và Tây Vương Mẫu tên là Chức Nữ. Vì quá si mê nhan sắc nàng mà anh chàng chăn trâu đã lấy bộ xiêm y của Chúc Nữ khiến cô không thể về trời được. Cảm mến trước tình cảm của chàng và đồng ý kết duyên, ở lại cùng anh mong kết duyên trăm năm. Tây Vương Mẫu biết được sự tình nên đã nổi giận sai thiên binh thiên tướng bắt nàng về trời. 
 
Tình cảm của hai người sau nhiều sóng giá cuối cùng đã cảm động được Tây Vương Mẫu, bà liền sai Thái Bạch Kim Tinh truyền lệnh cho hai người 7 ngày có thể gặp nhau 1 lần, nhưng vì tuổi cao nên khi truyền lệnh của Tây Vương Mẫu, ông đã nói nhầm thành một năm gặp nhau 1 lần vào ngày mùng 7 tháng 7. Và thế là mỗi năm một lần cứ đến ngày mùng 7 tháng 7 hàng năm họ được gặp nhau trên cây cầu “Ô Thước” này, hai vợ chồng đã mừng rỡ ôm nhau vui mừng đến bật khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc này đã biến thành những cơn mưa lất phất chợt đổ rào trên trần thế.   Câu chuyện thần thoại này chính là nguồn cảm hứng, là nguồn gốc của những phong tục, tập quán trong ngày tết Thất Tịch truyền thống của người dân mỗi độ tháng Bảy về. 
 
 

That Tich – Co the ban chua biet ve ngay le tinh nhan chau A
 
Những điều có thể bạn chưa biết về ngày Valentine Châu Á:
 
1. Ngày lễ Thất Tịch hay còn được phương Tây gọi là Valentine châu Á có nguồn gốc xa xưa được người Hoa đem theo đến Việt Nam trong quá trình di dân của mình. Ngày này còn có những tên gọi khác như "Ngày của những số 7" , "Lễ hội của những cô con gái", "Ngày sinh nhật của nàng tiên thứ 7", "Ngày của những kĩ năng" hoặc "lễ hội Chim Ô Thước".   2. Con bò trong truyền thuyết thực ra là một vị tiên, vì mắc tội mà phải xuống trần đầu thai thành con bò của chàng Ngưu Lang.
 
3. Nếu như đêm 7/7 trời mưa hoặc có quá nhiều mây, Ngưu Lang và Chức Nữ phải chờ đến tận sang năm mới có thể gặp nhau.
 
4. Ngày hội truyền thống bắt nguồn từ Trung Quốc, được gọi là ngày lễ Qixi, bắt đầu từ thời nhà Hán (từ năm 206 trước CN đến năm 220 sau CN). Không chỉ có Trung Quốc mới có lễ Qixi. Còn ngày lễ này tại Hàn Quốc được gọi là Chilseok và khi du nhập vào Việt Nam thì nó thành lễ Thất Tịch.  Nhật Bản cũng kỷ niệm lễ hội này để kỷ niệm ngày gặp gỡ của Orihime (tức sao Chức Nữ) và Hikoboshi (tức sao Ngưu Lang), gọi là lễ Tanabata. Điều đặc biệt là riêng ở Nhật ngày lễ Thất Tịch diễn ra vào ngày 7/7 dương lịch chứ không phải âm lịch như các quốc gia khác.
 
Tham khảo thêm: Lễ Thất Tịch tại Nhật Bản: Lễ hội lời chúc
 
Nhieu doi lua duoc se duyen trong ngay le tinh nhan chau A
 
5. Ngày lễ Qixi giờ đây được tổ chức theo cả phương thức truyền thống lẫn hiện đại. Trước kia, đây là ngày lễ dành cho các cô gái chưa chồng cầu nguyện cho Chức Nữ. Các cô gái mong muốn mình sẽ có được đôi bàn tay khéo léo trong các công việc nữ công gia chánh, đặc biệt là thêu thùa dệt vải. Nhưng giờ đây, thông thường người ta tổ chức lễ Qixi không khác gì nhiều so với lễ Valentine phương Tây. Đôi lứa dành tặng nhau hoa hồng, chocolate, thậm chí nhiều gia đình đã chọn ngày này để tổ chức các sự kiện gia đình hoặc họ tổ chức sự kiện đặc biệt để "ghép đôi" cho các đôi lứa. 

Xem thêm bài viết sau: Ngày Thất Tịch 7/7 - câu chuyện truyền cảm hứng yêu
 
Ở Việt Nam, khi mà truyền thuyết Ngưu Lang - Chức Nữ rất thân thuộc thì giới trẻ cũng bắt đầu coi đây là một dịp đặc biệt để thể hiện tình cảm với người thương. Đêm Thất Tịch, chòm sao Chức Nữ sẽ tỏa sáng vô cùng, nếu bạn nhìn lên bầu trời phía Bắc, ngôi sao sáng thứ hai chính là sao Chức Nữ. Truyền thuyết nói rằng nếu cùng người bạn yêu ngắm sao Chức Nữ vào đêm Thất Tịch, tình yêu ấy sẽ vững bền mãi mãi.
 
Cho đến thời điểm hiện tại, tết Thất Tịch vẫn là một ngày lễ truyền thống đầy màu sắc lãng mạn với truyền thuyết Ngưu Lang - Chức Nữ, cùng những mơ ước của các bạn trẻ về một lương duyên mỹ mãn bền lâu như tình yêu của họ.

Minh Minh
  Người có diện mạo thế nào sẽ tạm biệt đời độc thân trong dịp Thất Tịch? 4 con giáp tỏ tình trong lễ Thất Tịch nhất định thành công Tỏ tình liền tay, thoát ngay kiếp ế với 3 chòm sao may nhất mùa Thất Tịch
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thất Tịch – Có thể bạn chưa biết về ngày lễ Valentine châu Á

Con giáp nào đủ tài vận để đổi đời vào năm Bính Thân 2016? - Tử vi - Xem Tử Vi

Con giáp nào đủ tài vận để đổi đời vào năm Bính Thân 2016?, Tử vi, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Con giáp nào đủ tài vận để đổi đời vào năm Bính Thân 2016?, tu vi Con giáp nào đủ tài vận để đổi đời vào năm Bính Thân 2016?, tu vi Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con giáp nào đủ tài vận để đổi đời vào năm Bính Thân 2016?

Tuổi Thân, Tí, Thìn là 3 con giáp gặp nhiều may mắn nhất về tài lộc trong năm Bính Thân 2016.

Tuổi Thân

Tuổi Thân gặp nhiều may mắn về tài lộc trong năm nay. (Ảnh: Internet)

Theo cách tính âm lịch, tuổi Thân xếp thứ 9 trong 12 con giáp. Số 9 tượng trưng cho trí tuệ, tham vọng và phiêu lưu. Trong năm nay, dù là năm tuổi nhưng do phúc tinh phò trợ những người tuổi Thân có nhiều cơ hội để phát triển sự nghiệp, đặc biệt trong đường tài lộc.

Nhà phong thủy Marties Allen cho biết: “Khác với năm tuổi thông thường, năm 2016 Bính Thân sẽ tạo đà cho những người tuổi Thân có bước phát triển lớn trong cuộc sống”. 

Tuổi Tí

Nằm trong tam hạp với tuổi Thân, người tuổi Tí cũng đón chờ một năm 2016 đầy may mắn. (Ảnh: Internet)

Nằm trong tam hạp cùng tuổi Thân, người tuổi Tí cũng đón chờ một năm Bính Thân 2016 với nhiều điều may mắn. Đường tài lộc của bạn sẽ khá rạng rỡ, đặc biệt vào những tháng cuối năm. Có thể đến hết năm nay, bạn sẽ dành dụm đủ tiền để thực hiện một kế hoạch nào đó, một chuyến đi xa, mua nhà, mua xe…

Để chuẩn bị tốt cho những thành công vào khoảng cuối năm, người tuổi Tí cần đầu tư vào những mối quan hệ mới vào đầu năm, tập trung thật nhiều vào công việc hiện tại, tránh việc “đứng núi này, trông núi nọ”.

Tuổi Thìn

Người tuổi Thìn sẽ gặp phải một số khó khăn nhất định nhưng rồi cũng vượt qua. (Ảnh: Internet)

Mặc dù một số người tuổi Thìn vẫn chưa thật sự may mắn vào năm Bính Thân 2016 nhưng về mặc tài lộc bạn cũng có cơ hội tích lũy một tài sản kha khá vào năm nay. Người tuổi Thìn cần nhớ hãy tiết kiệm cho các kế hoạch lớn của nhiều năm sau.

Trong suốt năm nay bạn sẽ gặp rất nhiều thị phi, cạnh tranh từ những kẻ không mấy thiện chí. Thế nhưng bạn cũng hãy yên tâm, mọi sóng gió chỉ là tạm thời, nếu biết chăm chỉ phấn đấu, thành công đang đón chờ bạn ở phía trước.

Thay lời kết

Dù là con giáp nào, để có được thành công và sự giàu có trong cuộc sống, bạn cần cố gắng học tập, lao động chăm chỉ. Chúc cho các con giáp sẽ có một năm Bính Thân 2016 với nhiều điều may mắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào đủ tài vận để đổi đời vào năm Bính Thân 2016? - Tử vi - Xem Tử Vi

Ăn chay - hình thức dưỡng tâm, dưỡng thân đơn giản mà hiệu quả

Ăn chay là một hình thức tâm linh tôn giáo, đồng thời cũng là một cách thức giữ gìn sức khỏe rất tốt. Hãy cùng tìm hiểu ăn chay theo Phật giáo để biết thêm về
Ăn chay - hình thức dưỡng tâm, dưỡng thân đơn giản mà hiệu quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nghi thức này.

An chay - hinh thuc duong tam, duong than don gian ma hieu qua hinh anh
 
Theo Phật giáo, ăn chay là hình thức dưỡng tâm, dưỡng thân rất có lợi. Dưỡng tâm là nuôi dưỡng lòng từ bi, không sát sinh và tinh thần bình đẳng giữa người với người, giữa người với vật. Dưỡng thân là tốt cho sức khỏe, thanh lọc cơ thể, tránh khỏi bệnh tật.
 
Chữ “chay” nguyên âm là “trai”, theo nghĩa tiếng Phạn là “thanh tịnh”. Ăn chay có hai cách gọi, “thời thực” là ăn bữa trưa vào giờ Ngọ và “phi thực” là ăn bữa trưa sau giờ Ngọ.
 
Ăn chay dùng những chất thanh đạm, không ăn thịt, cá và các thứ có mùi vị nồng thuộc ngũ tân vị (hành, hẹ, tỏi, kiệu, hưng cừ). Chất thanh đạm tránh sát sinh, tránh gây nghiệp ác lại giúp con người buông bỏ tham lam, ham muốn về vật chất mà sinh lòng tranh đoạt. Không dùng những gia vị mùi nồng để tránh tanh hôi, tránh ham muốn nhục dục, giữ cho tâm hồn thanh thản. Thịt cá, gia vị cũng chứa những chất gây hại, tích tụ trong cơ thể, loại bỏ đi thì nhẹ nhàng, sảng khoái.
 
Ăn chay có hai loại: ăn chay trườngăn chay theo kỳ. Ăn chay trường là suốt đời tự nguyện dùng những chất thanh đạm kể trên. Còn ăn chay theo kì là ăn chay một số ngày trong tháng, trong năm, gồm có Nhị Trai, Tứ Trai, Lục Trai, Thập Trai, Nhất Ngoạt Trai, Tam Ngoạt Trai.
 
Theo đó Nhị Trai là ăn chay mỗi tháng hai lần vào ngày mùng một và rằm. Tứ Trai là ăn chay bốn lần trong tháng, vào ngày mùng một, mùng tám, rằm, hăm ba (hoặc ba mươi, mùng một, mười bốn, hôm rằm).
 
Lục trai là ăn chay trong các ngày mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30. Thập Trai là ăn chay mười ngày trong mỗi tháng.
 
Nhất Ngoạt Trai là ăn chay trong một tháng, vào tháng giêng, tháng bảy, hay tháng mười. Tam Ngoạt Trai là ăn chay liền trong 3 tháng ấy.
 
Thông thường, ăn chay trường dành cho những người tu tập, quy y cửa Phật. Ăn chay theo kỳ dành cho Phật tử, những người tín Phật, tin theo lời Phật dạy. Đây cũng là cách để các Phật tử dần dần làm quen với đồ chay mà bỏ hẳn đồ mặn.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ăn chay - hình thức dưỡng tâm, dưỡng thân đơn giản mà hiệu quả

Các lễ hội ngày 16 tháng 3 Âm Lịch - Hội Đền Kim Liên

Các lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 16 tháng 3 âm lịch gồm có : Hội Gò Tháp, Hội Đền Tiên La, Hội Yên Thế, Hội Đền Kim Liên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 16 tháng 3 Âm Lịch - Hội Đền Kim Liên

Các lễ hội ngày 16 tháng 3 Âm Lịch - Hội Đền Kim Liên

Một số lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 16 tháng 3 âm lịch:

1. Hội Đền Kim Liên

Thời gian: tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: phường Phương Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Cao Sơn (Nguyễn Hiền) Thần trấn Phương Nam và Qúy Minh (Nguyễn Sùng) là em ruột (tướng của Tản Viên đánh thắng Thủy Tinh, bảo về Vua Hùng).

Nội dung: Đình và đền Kim Liên (hay còn gọi là đền Cao Sơn) là trấn phía Nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long. Đền vốn được lập nên để thờ Cao Sơn Đại Vương (theo tín ngưỡng dân gian, thì đây là một người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ). Theo tài liệu lưu giữ tại đền, đền này được xây dựng dưới thời vua Lý Thái Tổ ngay khi Hoàng đế rời đô tới Thăng Long với mục đích để bảo vệ kinh thành mới ở hướng Nam.

Đình mang uy danh của thần Cao Sơn nên lễ hội rất náo nhiệt. Trước đây, lễ hội đình Kim Liên thường diễn ra từ ngày 11/3 đến 16/3 âm lịch nhưng nay chỉ gói gọn trong hai ngày 15 - 16/3 và lễ hội chính là ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm (ngày sinh của Thần), sau giỗ tổ Hùng Vương. Ngoài lễ chính còn các lễ Sóc Vọng hàng tháng, lễ Kỳ An và lễ hoá vào ngày 12 tháng 8.

Những ngày này rất tưng bừng. Sáng ngày 15 diễn ra hội cắt tóc với các tay thợ trẻ vào cuộc đua tài trước sự "giám sát" kỹ lưỡng và công bằng của một ban giám khảo toàn các bậc cao niên có uy tín và tay nghề trong làng. Trống điểm ba hồi, các anh thợ trẻ dong gương ghế "vào xới" khoe tài. Từ cách choàng khăn đến cách cầm kéo, khua kéo, những đường cắt tỉa... và sau cùng là thời gian để hoàn thành một kiểu đầu đều được chấm điểm một cách tỉ mỉ. Bởi làng Kim Liên này xưa nay vẫn nổi tiếng với những "tay thợ" vừa cắt tóc, vừa múa kéo như một thứ nghệ thuật với những tiếng lách cách đều đặn và vui tai, cả cách quàng khăn đúng theo chiều gió vừa để giữ gìn sức khoẻ cho người cắt tóc, vừa thể hiện phong cách diệu nghệ và cũng để quảng bá và phát triển một làng nghề truyền thống của người Hà Nội. Sau cuộc thi là các trò chơi đẩy gậy, đập niêu… buổi tối là liên hoan ca múa nhạc.

Trong ngày chính hội (16/3), 6 giờ sáng người làng đã làm lễ Tế ở chính điện. Các bậc "bô lão" trong đội tế nam của làng thành kính đứng trước sân đình Tế Cáo với Thượng Đẳng thần Cao Sơn Đại Vương, "mở lối đi linh thiêng" để người dân bước vào ngày chính hội 16/3 âm lịch cùng những đại lễ bái rất bài bản của đội tế lễ mũ mão cân đai chỉnh tề. Vang vọng và linh thiêng còn ở tiếng thỉnh chiêng trống dứt khoát và "nặng cái tâm"... Sau đó lễ dâng hương kính cẩn diễn ra trước sân đình, rồi các dòng họ dâng những mâm cỗ cầu kỳ tái hiện ẩm thực của người Hà Nội. Đã từng có những mâm cỗ 7 tầng chất ngất, đẹp như một tác phẩm nghệ thuật nhưng mang đầy đủ ý nghĩa của mối giao hoà giữa con người và trời đất, có những mâm cỗ "khắc" ông Lã Vọng áo tơi nón lá ngồi câu cá bên bờ ao mà tất cả chỉ bằng xôi và gà...

Để làm được mâm cỗ ấy, người ta phải cầu kỳ chuẩn bị cả tháng trời. Tiếp sau đó là lễ rước với 4 kiệu: kiệu Long đình, kiệu ông, kiệu bà và kiệu võng, người dân theo địa phận của làng đi từ phố Kim Hoa đến Đào Duy Anh rồi trở về đình Kim Liên tạo nên một hình ảnh rất đẹp.

Trong lễ hội đình và đền Kim Liên còn có nhiều trò chơi truyền thống như: chọi chim, cờ người, bóng bàn, thi đấu võ thuật thu hút đông đảo nhân dân trong và ngoài vùng tham gia.

2. Hội Yên Thế

Thời gian: tổ chức vào ngày 16 tháng 3 dương lịch:

Địa điểm: thị trấn Gầu Gồ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Hoàng Hoa Thám (lãnh tụ nhân dân đã lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp suốt 30 năm trời).

Nội dung: Vào ngày 16 tháng 3 dương lịch. Từ tờ mờ sáng, khắp các ngả đường trong vùng Yên Thế, Tân Yên, người người kéo nhau đi hội. Từng đoàn, từng tốp... tưng bừng phấn khởi, chật cả đường đi. Tại khu tập kết, các đoàn tham gia lễ hội quần áo chỉnh tề, hoá trang... sẵn sàng chờ giờ xuất phát hành lễ.

Lễ diễu hành qua kỳ đài được cử hành để bắt đầu cho Lễ hội Yên Thế. Đây là cuộc biểu dương sức mạnh, biểu dương sự uy nghi, đẹp đẽ và cũng là lúc làm cho không khí ngày hội trở lên sôi động nhất. Các đoàn quân lần lượt tiến qua lễ đài với biểu tượng và trang phục riêng của mình trong tiếng trống, tiếng chiêng ngân vàng trong núi rừng Yên Thế.

Sau lễ diễu hành, các trò vui được tổ chức ở nhiều địa điểm. Học sinh các trường thi cắm trại ở sườn đồi đối diện khu đồn Phồn Xương. Sới vật được mở ra và bắt đầu trong khu vực đền Thề. Các đô vật lên làm lễ xe đài và vào trận thi đấu. Các đội văn nghệ, văn công chuyên nghiệp cũng mở màn biểu diễn ban ngày cho bà con xem. Các môn thi đấu thể thao như: bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, đu quay, mô tô bay... Cứ như thế, chỗ nào trong khu vực Phồn Xương cũng thu hút rất đông người xem và tham dự. Trong khu đền Thề, chùa Lèo, đền thờ Bà Ba Đề Thám, các cụ, các già, các vãi dâng hương lễ Phật, lễ đền. Người ra người vào không lúc nào ngơi. Khu nhà trưng bày về cuộc khởi nghĩa Yên Thế cũng đã mở cửa phục vụ nhân dân các nơi đến hội.

Ngoài các nội dung trên, lễ hội còn có những hình khác mới được bổ như: tổ chức diễu ngựa từ đình Hả - Tân Trung (Tân Yên) lên Phồn Xương, rước từ Nhã Nam vào tham dự. Tổ chức tiết mục "Trai Cầu Vồng Yên Thế gặp gái Nội Duệ, Cầu Lim", tiết mục lễ tế cờ của Hoàng Hoa Thám... các tiết mục này đã làm cho nội dung của lễ hội mỗi ngày một phong phú và có bản sắc văn hóa riêng.

3. Hội Đền Tiên La

Thời gian: tổ chức vào ngày 16 tới ngày 18 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Bát Nàn Vũ Thị Thục - một nữ tướng tài ba của vua hai Bà Trưng.

Nội dung:  Lễ hội đền Tiên La được tổ chức công phu, bao gồm các nghi thức tế lễ, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao hấp dẫn như: rước kiệu, rước nước, đánh đáo, thổi sáo trúc, chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử... Ngoài ra, nhiều đoàn nghệ thuật của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận cũng đến biểu diễn các tiết mục đặc sắc như các vở chèo: Quan âm Thị Kính, Lưu Bình - Dương Lễ, Phạm Tải - Ngọc Hoa...

4. Hội Gò Tháp

Thời gian: tổ chức vào ngày 16 tháng 3 và ngày 16 tháng 11 âm lịch.

Địa điểm: xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.

Đối tượng suy tôn: thờ cụ Đốc Binh Kiều và miếu chùa Bà Xứ.

Nội dung: Hàng năm tại khu di tích Gò Tháp thường tổ chức lễ hội lớn với lễ vía bà Chúa Xứ (16 tháng 3 âm lịch) và ngày giỗ cụ Đốc Binh Kiều (16 tháng 11 âm lịch) thu hút rất đông người đến tham dự. Phần lễ gồm có lễ cầu an, tế Thần Nông, lễ cúng Ông (Đốc Binh Kiều), hoặc cúng Bà Chúa Xứ. Bên cạnh phần lễ là phần hội: tổ chức múa lân, hát bội, đấu võ, trận lửa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 16 tháng 3 Âm Lịch - Hội Đền Kim Liên

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

SAO TỬ TRONG TỬ VI

tử (Thủy) *** 1. Ý nghĩa của tử: - thâm trầm, kín đáo - hay suy nghĩ sâu sa, tính toá...
SAO TỬ TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tử (Thủy) 



***

1. Ý nghĩa của tử:             - thâm trầm, kín đáo             - hay suy nghĩ sâu sa, tính toán kỹ lưỡng, có kế hoạch             - đa sầu đa cảm, bi quan             - làm giảm phúc thọ, chủ sự chết chóc, tang thương, sầu thảm

2. Ý nghĩa của tử  ở các cung:
a. ở Tài, Điền:             - có tiền của bí mật             - có quý vật chôn giấu             - có khả năng giữ của, tính cẩn thận khi tiêu cài, cần kiệm nếu không nói là hà tiện
b. ở Phúc, Tử: Tử Tuyệt Tướng Binh: trong họ có người chết trận hay bị ám sát - làm giảm số con cái



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO TỬ TRONG TỬ VI

Bí quyết chọn và treo tranh làm đẹp không gian

Căn phòng hay ngôi nhà sẽ thiếu hẳn nét tinh tế hay một nét nghệ thuật thú vị khi thiếu đi những bức tranh. Đó không chỉ là giải pháp trang trí nội thất mà còn thể hiện phong cách, sự hiểu biết cũng như chiều sâu và cá tính của gia chủ. Để có những bức tranh ấn tượng, làm đẹp thêm cho ngôi nhà, chọn tranh và treo tranh là 2 yếu tố quan trọng nhất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Căn phòng hay ngôi nhà sẽ thiếu hẳn nét tinh tế hay một nét nghệ thuật thú vị khi thiếu đi những bức tranh. Đó không chỉ là giải pháp trang trí nội thất mà còn thể hiện phong cách, sự hiểu biết cũng như chiều sâu và cá tính của gia chủ. Để có những bức tranh ấn tượng, làm đẹp thêm cho ngôi nhà, chọn tranh và treo tranh là 2 yếu tố quan trọng nhất.

Chọn tranh

Có rất nhiều loại tranh để bạn lựa chọn: như tranh sơn mài, tranh gỗ, tranh màu nước, màu bột, ảnh nghệ thuật, ảnh gia đình, tĩnh vật... cũng như rất nhiều kích cỡ to, nhỏ khác nhau.

Biệt thự rộng thì bố cục tranh phải hoành tráng, có thể dùng tranh cẩn xà cừ, các bức tranh sơn dầu với kích thước lớn.

Nhà phố thường có những góc nhỏ, lối lên cầu thang, vách phòng khách, phòng ngủ, đầu giường hoặc phòng làm việc… hay các không gian trong nhà chung cư, nên chọn những bức tranh có kích cỡ vừa phải, thể hiện cái tôi cá nhân của chủ nhà hay đơn giản chỉ là vận dụng hình ảnh của gia đình để làm nên những bộ tranh rất gần gũi.

 

Chọn tranh cũng cần lưu ý tới phong cách nội thất của ngôi nhà, với nhà hiện đại, bạn nên chọn tranh phong cảnh, màu sắc trang nhã, nội dung không quá cầu kỳ để thư giãn mắt.

 

Nhà mang đậm nét cổ điển, truyền thống thì chọn những bức tranh sơn mài, sơn dầu kinh điển. Tuy nhiên, chú ý rằng treo ít, nhưng tính thẩm mỹ phải đặt lên hàng đầu. Những khung ảnh gia đình cũng là một kiểu tranh đơn giản nhưng cũng phải biết sắp xếp sao cho hợp nhất.

 

Xu hướng hiện nay, nhiều người thích tranh nghệ thuật, tranh handmade, tranh thạch cao, giấy, nỉ,…với đường nét mới lạ. Đôi khi chỉ là những khung gỗ bên trong treo bên trong là bức tranh đơn giản như hình hoa, lá. Điều quan trọng là cách kết hợp, và bố cục hài hòa.

Cách treo tranh

Không nên chọn mua các bức tranh trước sau đó mới tìm chỗ để treo chúng. Hãy quan sát căn phòng rồi quyết định những mảng tường nào có thể treo tranh.

Treo nhiều tranh trên tường

Đây là kiểu treo tranh phổ biến trong các nhà hiện đại, không đòi hỏi cao về nội dung những bức tranh. Treo tranh theo nhóm sẽ rất hiệu quả nếu chúng có cùng kích thước, hình dáng. Có thể treo theo nhóm hình chữ nhật, nhóm hàng ngang, nhóm hàng dọc, tuỳ thuộc vào hình dáng bức tường và ý đồ của người chơi tranh. Khoảng cách giữa các mép tranh 8 - 10 cm là đẹp. Trong trường hợp các tranh có kích thước khác nhau, có 3 cách treo theo nhóm là: có cùng độ cao đáy tranh, hoặc cùng độ cao đỉnh tranh, hoặc cùng độ cao tâm tranh.

 

Trong cùng một không gian, bạn có thể chọn chung một phong cách tranh nếu muốn làm điểm nhấn cho căn phòng. Nhưng màu sắc và hình thức thể hiện nên khác nhau, không nên treo cùng nhau nhìn sẽ không đồng nhất.

 

Treo khung ảnh gia đình

Khung ảnh cá nhân nên treo ở những khu vực riêng như phòng ngủ, phòng thư giãn hay phòng làm việc. Như vậy sẽ không làm ảnh hưởng đến các bức tranh nghệ thuật khác của bạn. Dành riêng một khoảng tường để lưu lại các khoảnh khắc yêu thương của gia đình, chúng vừa trang trọng, gần gũi mà tất cả các thành viên gia đình đều có thể ngắm được.

 

 

Treo tranh trong phòng trẻ

Trong phòng trẻ, sẽ rất thú vị nếu treo những bức tranh do chính trẻ vẽ. Nên sử dụng khung tranh dạng đơn giản, thay kính bằng mica để tránh nguy hiểm do trẻ đùa nghịch dễ làm rơi khung tranh.

 

Lưu ý khi treo tranh:

Tránh treo tranh ở những chỗ bị ảnh hưởng trực tiếp của ánh nắng mặt trời, những nơi có nhiệt độ hoặc có độ ẩm cao. Cách tốt nhất là dùng ánh sáng nhân tạo, vừa điều chỉnh được hướng và lượng ánh sáng chiếu vào tranh.

Treo những bức tranh quá cao khiến chúng trở nên lạc lõng với bố cục xung quanh. Vì vậy, độ cao vừa phải là từ 10 – 15cm cách mặt bàn. Vị trí này sẽ giúp bức tranh có thể nằm trong tầm ngắm khi bạn ngồi nghỉ ở ghế sofa.

Bài viết được sưu tầm từ:
Nguồn: www.baomoi.com
Tác giả: Kiều Vân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết chọn và treo tranh làm đẹp không gian

Luận những tướng người có cơ duyên cửa Phật

Phật dạy người trí tuệ, Phật dạy người giác ngộ, sửa đổi bản thân, tu nhân tích đức, hoàn thiện bản thân. Người có duyên tu hành thì thần vững tâm an, thế nhưng
Luận những tướng người có cơ duyên cửa Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Phật dạy người trí tuệ, Phật dạy người giác ngộ, sửa đổi bản thân, tu nhân tích đức, hoàn thiện bản thân. Người tới cửa Phật thì thần vững tâm an, thế nhưng không phải ai phải cũng có duyên với chốn cửa chùa.


Luan nhung tuong nguoi co co duyen cua Phat hinh anh 2
Ảnh minh họa
1. Người có đường trí tuệ cong xuống   Người có đường trí tuệ dài lại cong xuống thời trẻ rất có hứng thú với chuyện tu hành và tìm hiểu tôn giáo, mà người này lại sớm gặp nhiều chuyện không như ý, tinh thần suy sụp về những chuyện như chuyện gia đình, chuyện công danh sự nghiệp hay chuyện tình cảm… Người này thường mang cảm xúc bi quan nên sẽ tìm tới chốn cửa chùa để nương náu, để tĩnh tâm.   2. Người có ấn đường cao và nổi hẳn lên
 
Người này thích hợp với chuyện tu hành, hai lông mày lớn hoặc ấn đường cao hơn người thì có cơ hội tới chốn cửa Phật lớn hơn, bản thân có mối thâm giao rất lớn với nhà Phật.
3. Người có nốt ruồi giữa trán
 
Thời trẻ, người này mang tinh thần quá bi quan, suy sụp, trong nhà bất ổn, trong sự nghiệp gặp nhiều thất bại, chuyện tình cảm không thành… thì rất nhanh chóng tìm tới chốn cửa chùa nương náu để trốn tránh cuộc sống hiện thực.   4. Người có vết gạch ở chính giữa trán

Luan nhung tuong nguoi co co duyen cua Phat hinh anh 2
Ảnh minh họa
Người có nếp nhăn chạy dọc từ trên xuống dưới ngay giữa trán, nếu lấy tay sờ thì có thể thấy một cái khe. Nếu khe này rõ rệt thì chính là “Khai thiên nhãn”. Người có vết gạch kéo dài xuống tận Ấn đường thì là người có một chút căn khí.   5. Người có dái tai to
 
Người này tâm an từ nhỏ, sớm tiếp xúc với nhà Phật, dái tai to và kéo dài. Người này được hưởng phúc mấy đời, cuộc sống xung quanh người này cũng đều liên quan tới nhà Phật.
6. Người có búi tóc dày và lớn   Xem tướng người có duyên tu hành thì tâm kinh ảnh hướng tới tóc, tóc và tâm lại tương hỗ với nhau. Nhịp tim của Phật tổ khác người thường nên tạo hình tóc cũng khác, là hình xoắn ốc. Người có tóc mềm mại là người tính tình hiền hòa, biết nghe kinh giảng đạo.   7. Người có bàn tay mềm mại
 
Phật giáo có câu: "Chỉ tiêm, thủ phì, phú hậu thính kì". Người có ngón tay tròn trịa là vận tài tốt và có thể nắm bắt được những thông tin độc đáo. Người đàn ông tay mềm mại, phụ nữ tay tròn búp thì dễ vướng phong trần. Cả đời không thể quên đi mối tình đầu, cũng không hết hôn, dễ dàng vì tình yêu mà tuẫn tiết.
8. Người có giọng nói tốt   Người có giọng nói tốt có 2 loại: một là người nhỏ mà tiếng lớn, hai là người có giọng nói trầm ấm nhưng vang vọng, rõ ràng. Đây đều là những âm thanh giống như âm thanh của Phật.
 
Lichngaytot.com Dung mạo và khí chất theo quan điểm Phật giáo
Dung nhan không chỉ là biểu hiện của sự đẹp hay xấu mà còn ẩn tàng khí chất. Khí chất là thứ tô điểm cho dung nhan, khiến dung nhan trở nên sâu sắc và nội hàm
Thái độ của Phật tử đối với tà ác nên thế nào?
Ý nghĩa của câu chuyện về 5 vị đạo nhân ở trong một miếu am vào lúc đêm khuya cho chúng ta biết cách mà người tu hành nên đối phó với tà ác

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận những tướng người có cơ duyên cửa Phật

Xem tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Tị

Tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Tị: Người tuổi Tỵ có quan hệ lục hợp với Nguyệt Lệnh tưởng rằng yên ấm nhưng lại gặp nhiều vấn đề. Thân Tị gặp nhau chủ khó khăn
Xem tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Tị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Tị: Người có quan hệ lục hợp với Nguyệt Lệnh tưởng rằng yên ấm nhưng lại gặp nhiều vấn đề. Thân Tị gặp nhau lại chủ về các khó khăn và mâu thuẫn quan hệ.


tu vi thang 7 am lich cua tuoi Ti hinh anh
Tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Tị

Tử vi tháng 7 âm lịch của t
uổi Tị cho thấy nhân duyên tốt nhưng lại mang điềm xấu, quan hệ vợ chồng xa cách vì tư tưởng rời rạc. Người này có thể hi vọng vào mặt tài lộc, vì Thân gặp Tị sinh Can Lộc quý nhân chủ vận tiền tài. Tuy nhiên bạn cần lưu ý quan hệ lục hợp, mâu thuẫn ăn chia luôn chực chờ bùng nổ. Khổ tận cam lai, chỉ cần bạn chăm chỉ quý nhân tài lộc sẽ ra mặt giúp đỡ. Kiếp Sát hung tinh lại chủ những điều tốt đẹp.

Vận trình tháng 7 này, có thể coi như hung trước cát sau. Những lúc khó khăn, người tuổi Tị nên tâm niệm mình đang được trường đời đào tạo, cố gắng vượt qua thì sẽ không còn nặng nhẹ chuyện hung cát nữa.
 

Sự nghiệp

tu vi thang 7 am lich cua tuoi Ti hinh anh
Ảnh minh họa

Tị Hỏa gặp Lục hợp với Thân Kim, tưởng rằng cát tường nhưng lại mang tới sự ràng buộc vô hình. Lục Hợp đại diện cho sức mạnh quý nhân mạnh mẽ, nhưng để được sự giúp đỡ đó người tuổi Tị sẽ phải phục tùng vô điều kiện. Với các yêu cầu đưa ra từ Nguyệt Lệnh người này sẽ phải vượt qua nhiều cửa ải vất vả, tới bước đường cùng mới được giúp đỡ.   Thân Tị tương hợp là loại quan hệ mẫu thuẫn, vừa nâng đỡ vừa quản lý ngặt nghèo. Người tuổi Tị sẽ gặp một tháng mà quan hệ với lãnh đạo luôn rơi vào tình trạng căng thẳng. Cấp trên giao cho bạn nhiều việc nhất và luôn theo sát bạn từng bước chân. May nhờ có Kiếp Sát thần tú xuất hiện, người tuổi Tị giỏi hơn trong việc ứng biến, tư duy nhanh nhạy nên công việc được giải quyết thông suốt.   Ngoài ra, người tuổi Tị cần phải tránh để người thân can thiệp vào công việc, không để tình cảm gia đình ảnh hưởng tới sự nghiệp của mình.  

Tài lộc

tu vi thang 7 am lich cua tuoi Ti hinh anh
Ảnh minh họa

Theo tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Tị, Hỏa gặp Can Lộc quý nhân tại Bính Hỏa, chủ về đường tài vận phong phú. Can Lộc là cát tinh ám chỉ bản mệnh “tay trắng lập nghiệp”, ban đầu vất vả hay bị mất tiền bạc nhưng càng về cuối tháng vận trình tiền tài của người tuổi Tị càng vững chắc. Nhưng vì Tị Hỏa hình Bính Hỏa nên bạn cần lưu ý chuyện tiền tài tiêu hao. Quá coi trọng số lượng trước mắt chỉ khiến bạn mất đi lợi ích về lâu dài.
  Người mang Lộc Thân trong cung mệnh sẽ luôn có cảm giác nắm bắt phúc lộc, một đời coi trọng chữ “tiền”. Vậy nên, dù có khả năng tính toán tốt dễ đem tới lợi lộc cho mình nhưng lại hủy hoại nhân cách vì sự tham lam vô đáy. Đứng trước món hời nào đó, bạn hãy kiềm chế bản thân, suy nghĩ kĩ càng và cần nghĩ cho người khác nữa nhé!   Và quan hệ Lục Hợp với Nguyệt Lệnh cũng nhắc nhở bạn tránh cho người thân vay mượn trong tháng này. Nữ mệnh có Lộc Thần e gặp phải kẻ tiểu nhân, tiếp cận vì tiền chứ không phải vì yêu.  

Tình cảm

tu vi thang 7 am lich cua tuoi Ti hinh anh
Ảnh minh họa

Tử vi tuổi Tị
cho thấy, chuyện tình cảm trong tháng Nguyệt Lệnh và Thái Tuế tương hình không hề có lợi cho bản mệnh. Cho dù có Nguyệt Lệnh là quý nhân phúc đức nhưng bạn sẽ không tránh khỏi sự mâu thuẫn do Lục Hợp đem lại. Lục Hợp là quan hệ cao nhất trong vòng tương tác Địa Chi, tuy nhiên Tị Hỏa Thân Kim vốn tiềm tàng bất hòa khó có thể hóa giải ngày một ngày hai.

May mắn rằng quan hệ này lại đánh trực diện vào mối liên kết giữa người tuổi Tị và người thân cận. Có thể bạn sẽ nảy sinh nhiều quan điểm trái chiều trong cuộc sống với cha mẹ hoặc anh chị em trong gia đình. Người độc thân thì vận trình đào hoa lại nở rộ, Kiếp Sát chủ mệnh khiến các mối quan hệ xã giao tự động tìm đến, giúp bạn mở rộng vòng tròn xã hội. Nhưng mặt trái của nó là lòng tham trong sâu thẳm khiến bạn dễ dàng “bắt cá hai tay”, tự mình cắt mối nhân duyên tốt đẹp.
 

Sức khỏe

tu vi thang 7 am lich cua tuoi Ti hinh anh
Ảnh minh họa

Lá số tử vi về sức khỏe của người tuổi Tị xuất hiện trong tháng âm lịch này sẽ bị đe dọa bởi Kiếp Sát hung thần. Kiếp Sát thường đại diện cho những tai họa từ trên trời rơi xuống. Cả tháng chăm chỉ làm việc, chỉ để chi dùng cho những việc họa vô đơn chí như làm vỡ đồ trong cửa hàng, làm rơi tiền của cha mẹ, va chạm khiến người khác bị thương…
  Ngoài ra thần kinh của bạn cũng chịu nhiều áp lực, lại thêm tháng âm khí nặng, tự mình tự kỷ ám thị khiến thể lực đi xuống. Thân Kim khắc Tị Hỏa, trong đông y tim chủ Hỏa, phổi chủ Kim, các bệnh về tim phổi thường biến chứng rất nhanh. Vậy nên người tuổi Tị cần lưu ý các bệnh ở hai bộ phận này.   Nhìn chung, tử vi tháng 7 âm của tuổi Tị không nên trông chờ quá nhiều vào mối quan hệ với Nguyệt Lệnh. Bính Thân tự hình gây bất lợi cho bất kỳ con giáp nào, nên nhớ phải tránh xa mọi thị phi trong tháng.   Hành sự cẩn trọng, tiết kiệm lời nói chú trọng kiếm tiền là các tôn chỉ mà người tuổi Tị cần nhớ. Lộc Thần đại diện cho nhân duyên quảng đại, nên vận tài lộc của bạn sẽ càng trở nên phong phú. Chỉ cần tránh xa chuyện vay mượn, hoặc chuyện tố cáo lẫn nhau trong đoàn thể thì túi tiền của bạn sẽ được thắt chặt. Nên lợi dụng trí thông minh hơn người do Kiếp Sát hỷ thần mang lại hỗ trợ cho sự nghiệp tung bay. Tránh kiêu ngạo quá mức hay tính cách hiếu thắng khó kìm chế.

Khó khăn qua đi, cuối con đường thành công đang chờ bạn. Người có gia đình nên thường xuyên nói chuyện với người thân, chia sẻ vài câu chuyện vui ở văn phòng sẽ khiến vận trình tình cảm đi lên. Người độc thân thì kỵ lòng tham vô đáy.
 
► Xem phong thủy, tử vi và những điều ảnh hưởng đến vận mệnh của bạn
  Lichngaytot.com
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng 7 âm lịch của tuổi Tị

Thiên không, một vì sao huyền bí

Bài viết của cụ Hoàng Hạc trình bày về sao Thiên Không. Đây là một kinh nghiệm rất quý báu!
Thiên không, một vì sao huyền bí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Về khoa Tử vi, có cả ngàn chuyện lý thú, kể ra hoài hoài không sao hết được. Trong những câu chuyện lý thú, lại có những kinh nghiệm ly kỳ, làm đề tài thảo luận cho những vị mê Tử vi. Vì Tử vi là một khoa rất khó, bao la, đòi hỏi những kinh nghiệm cả mấy chục năm đối với những người say sưa nhất, cho nên chúng tôi đã thỉnh các vị tài ba nhất về Tử vi để nêu lên đây những câu chuyện về Tử vi để cống hiến quý vị.

Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây có thường xuyên trong mỗi số báo, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những “cách” có sẵn (những thế giao nhau giữa các chánh tinh, trung tinh, ác sát tinh…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến gia giảm, mà chỉ có những nhà Tử vi có thật nhiều kinh nghiệm mới luận đúng.

Bởi thế, chủ đích của chúng tôi là nhân những câu chuyện, nêu lên một số những kinh nghiệm để làm đề tài thảo luận và trao đổi sự am hiểu giữa các quý vị, cũng như góp thêm kinh nghiệm với những vị đương theo dõi Tử vi, đương thích Tử vi.

Với những bạn đọc chưa biết Tử vi, xin cứ đọc những câu chuyện sau đây xuất hiện hàng tuần để tìm những hứng thú và để thích Tử vi. Rồi một thời gian sau, chúng tôi sẽ xin trình bày với quý vị các cách lấy số Tử vi (phép lập thành, phép tính nhẩm và nhanh) cùng với các phép giải đoán (đã được hệ thống hóa)

CỤ HOÀNG HẠC.

Tôi lấy một thí dụ: tôi có coi cho một anh bạn buôn bán làm ăn. Tôi bảo: đúng vì “Tài đa hóa Quỉ” nghĩa là cầu tài mà ứng trên mặt quẻ, toàn là hào tài và tài hào thái vượng, tôi bảo coi chừng tiền vô như vậy…thì sẽ phải trái lại bị họa ương. Anh bạn tôi (hiện là một kỹ sư) không nghe. Anh ấy bảo với tôi rằng: “công việc này là việc làm của kẻ khác, nhưng mình chỉ “hùn” miệng thôi, nếu thành công thì mình ăn chia, còn thất bại thì thôi. Nhưng mà anh ta về bàn với chị vợ. Chị vợ bảo: “Ối, anh dị đoan, tôi xin xâm trên Lăng Ông, ông thầy đoán nói là Đại tài mà. Để đó cho tôi, sắp tiền chia đây.

Vợ chồng ông kỹ sư không tin

Anh chồng thì hơi tin và lo sợ vì tôi miệng ăn mắm ăn muối nói “ẩu” nhưng rồi có khi trúng bất tử, và anh ta đã được nhiều lần chứng kiến việc ấy. Nhưng khi anh ta nghe vợ nói, thì cũng tin: Biết đâu “lạc quẻ”?

Vì thấy số bạc ngon lành quá, dại gì nghi ngờ, cứ tin xăm ở Lãng Ông là phải. Chẳng bao lâu, anh lãnh một số tiền lời, chạy lại cho tôi hay, như cố ý bảo tôi rằng tôi đã coi sai. Hai vợ chồng lấy tiền ấy mua xe hơi, xe kéo cho mướn, khai thác cả số tiền, vì trong bụng cũng ngán là “đồng tiền” ấy nó hóa “quỷ” như lời tôi dã nói. Nhưng một hôm vợ anh chạy hơ hải lại tôi cho hay rằng chồng chị đã bị bắt.

Người vợ ông bạn kỹ sư (nay đương đóng một chức vụ khá lớn) chay hơ hải đến tôi:

- Anh ơi! Nhà tôi bị công an mời, rồi giam luôn. Bây giờ làm sao đây?

- Thì cứ ở tù một thời gian đi. Rồi sẽ được thả, chứ có sao?

Chi ấy la to:

- Anh cứ diễu hoài. Tôi lo gần muốn chết rồi đây.

- Thì biết làm sao? Tôi đã bảo rằng “tài đa hóa quỷ”, vì công việc đã đến mức hoàn thành rồi, trái cây chín muồi thì rụng. Luật “nhân quả” đã kết rồi thì rụng. Ông trời xuống cũng không làm gì được.

- Nói vậy thì nhà tôi phải bị ngồi tù à? Họ cho mời rồi giữ lại điều tra, chứ chưa có giấy tống giam.

- Tôi không biết. Chỉ biết là anh bị “Quỉ” động, nhưng Quỉ là quỉ Câu Trận thì bị lính bắt và bị quản thúc cho nên nói là giữ lại để điều tra, thì cũng là một lối giam chứ gì nữa, nghĩa là mất tự do, dù là tạm.

- Bây giờ làm sao?

- Thì tiền.

- Nghĩa là gì?

- Nghĩa là lấy cái “tài” bị hóa “Quỉ” kia vụt nó ra khỏi nhà thì êm.

Chồng ông kỹ sư trả quả

- Làm sao vụt ra?

- Bây giờ tiền bạc mà hai ông bà đã lãnh về, đã tiêu xài bao nhiêu rồi.

- Chúng tôi lãnh 500.000 đồng.

- Rồi xài hết bao nhiêu?

- Chúng tôi “tậu nhà” và mua một mớ xe kéo cho mướn.

- Vậy hãy bán cái nhà ấy và xe kéo kia và lấy đem nạp cho các ông bắt chồng chị…À quên dặn, đã ăn xài cho bản thân là bao nhiêu trong số tiền ấy.

- Tụi tôi tiệc tùng khai trương nhà mới và ăn xài lối vài vạn bạc thôi.

- Thì cũng chạy vay bợ một số tương đương ấy để “lo” thì mới tiêu tai.

- Trời ơi, tôi bây giờ không còn một đồng trong nhà. Bán cả thảy cũng không không sao đủ, vì bán gấp ai thèm mua giá cao.

- Liệu lấy. Hễ hai ông bà làm sao cho tiêu hết số bạc thì mới hết nạn, bằng không thì chả làm gì cả. Phải chịu nợ rồi, là để trả lại cái “bất lương” và cũng là cái mà số mình không được quyền hưởng. Sở dĩ được hưởng là nhờ thủ đoạn, thì nên trả bằng hai. Nghĩa là chịu khó “ăn gạo lức” một thời gian.

Bà vợ kỹ sư về nhà toan tính lo lót nhưng cũng không xong. Chồng à bị giam mãi…Tức quá bà chạy lại tôi:

- Tôi bán tuốt hết rồi! Sao lại chẳng ra được?

- Nếu chưa ra là vì chưa chả dứt bởi còn trả liền lời nữa.

- Nói thật với anh. Tôi đã cậy trạng sư lãnh ra, nhưng chưa trả tiền vì khất nợ, khi nào nhà tôi ra, chúng tôi sẽ còn trả cho trạng sư nữa.

- Vậy thì đi vay và trả tiền cho trạng sư đi.

- Không! Trạng sư này là bạn thân của nhà tôi.

- Không được, phải đem tiền trả lập tức! Cãi tôi thì ông anh ráng ngồi khám chờ cho bà vợ “thương” đến và hy sinh thêm một chút nữa. Bằng tiếc tiền, cãi tôi, thì xin chị đừng phiền nhé, xin chị đừng đến tôi nữa làm gì. Trước đây chị đã bảo với chồng chị rằng tôi nói ẩu. Thôi chị đi về đi, để nằm nhà chờ ông “trả quả”.

Cách tuần sau, anh kỹ sư của tôi được trả tự do, hai vợ chồng đến cảm ơn tôi.

Tôi bảo:

- Có gì cảm ơn!

………..(bị mất trang)

 

…anh nhất là Đào Hồng đây lại gặp Kỵ, tôi xin lỗi nói và anh cũng thông cảm cho đừng giận: anh đi tu rồi bỏ đàn bà cho ai? Đây 3 điểm là nghiệp anh nặng lắm”. Thứ nhất, cung phối có Tả Hữu chiếu, nhất là có Hóa Kỵ chánh chiếu, việc vợ chồng đủ mệt cho anh. Huống chi Thân Hồng, Đào ngộ Kỵ…thì là kẻ mê dâm…

Đó là điều khó nhất gần như nan giải.

Điểm thứ hai: Mạng anh là mạng vô chánh diệu thì đầu não bất định mà tâm tư cũng không định hướng. Thứ ba: mạng ngộ “Phục binh, Kiếp sát” cùng “Thiên Di” lại bị Tướng quân ngộ Triệt, thì tôi e anh khó thoát các nạn bị ám sát vì anh đa mưu quá. Anh bị cả hai định mạng đau đớn và khó gỡ, nhất là “gian hùng” dù lắm khi anh muốn chạy trốn nó, nhưng rồi anh cũng bị cái “định mạng bên trong” (destinee interieure) là tâm tính anh nó càng làm cho anh dễ sa vào oan nghiệt càng ngày càng tăng. Anh không nên đi tu một mình mà phải kiếm một hoàn cảnh thanh cao trong sạch, gần các bạn tốt để cùng hưởng một thứ Cộng nghiệp (tức là nghiệp chung) của một tu viện, chứ không nên vào những chỗ tên gọi là tu viện mà thích làm chính trị chứ không phải để tu. Như vậy, may ra có giảm được chút nào cái oan nghiệt của anh chăng?

Nhưng anh nên để ý kỹ rằng tiểu hạn năm Ngọ sắp tới hạn ngộ Trúc la lại Mạng vô chánh diệu Đào Hồng Suy Tuyệt. Đào Hồng của anh gặp Mộ, Tuyệt tức là “nô lệ chi địa”…”e tánh mạng nan toàn”…Anh bạn tôi buồn thiu. Ngồi một hồi đứng dậy ra về, nói:

- Tôi đi tu!

Định mạng

Việc đã qua, cách mấy năm thì bỗng một hôm người trong thân của anh đến cho tôi hay: anh ấy ra ngoài Trung và vào một ngôi chùa tu nhưng mới vừa nghe tin bị đạn lạc chết.

Các anh em trong xóm nghe tôi nói xong, hỏi:

- Ai vậy?

- Bí mật nghề nghiệp. Xin cho tôi không nói ra: “từ giã biệt luận”. Nói xong là anh đi tu, nhưng anh không mặc áo cà sao, anh chỉ quyết tâm sửa “số” thôi, chị vợ của anh đâu có cho anh cạo đầu. Thoe anh là một nhà trí thức đã từng phú quí hết sức vì mạng anh là “phú quí khả kỳ” nhưng anh có gan bỏ tất cả phú quý ấy (anh có một biệt thự, có một chiếc xe hơi Hòa Kỳ lộng lẫy, nhất là có một cô vợ nhỏ “đẹp người” nữa, nhưng nếu anh bị tù tội còn đỡ, vì chỉ có 3 cái thứ họa, một là “đau nặng”, hai là bị “ở tù”, 3 là “chết”.

Người ta “sức mấy” mà chống lại với số mạng một khi cái Nghiệp mình nó nặng như thế? Các bạn nghe lời kể chuyện bèn người nào người nấy không ăn nói gì với ai nữa và dường như mỗi người đeo đuổi theo một ý tướng gì…mông lung.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiên không, một vì sao huyền bí

Đặt tên hay cho người tuổi Tỵ

Căn cứ vào đặc điểm về bản tính của loài rắn và các mối quan hệ tương sinh tương khắc với những con giáp còn lại, người xưa đúc rút cách đặt tên hay cho người
Đặt tên hay cho người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tuổi Tỵ.

 

Dat ten hay cho nguoi tuoi Ty hinh anh
Ảnh minh họa


1. Dựa vào đặc tính sinh sống
Rắn thích được ở trong hang ẩn náu, nghỉ ngơi ngủ đông và được đi lại tự do. Theo đó, nên đặt tên cho người ruổi Tỵ bằng các chữ có bộ Khẩu, Miên, Mịch.   Những tên hay cho người tuổi Tỵ: Khả, Tư, Danh, Dung, Đồng, Trình, Đường, Phẩm, Định, Hựu, Cung, Quan, An, Nghi, Bảo, Phú…   Loài rắn thích ở trên cây và thích tô điểm để có sự thăng cách trở thành rồng. Do vậy, có thể dùng những chữ có bộ Mộc, Sam, Mịch, Thị, Y, Thái, Cân.    Những tên phù hợp: Mộc, Bản, Kiệt, Tài, Lâm, Tùng, Sâm, Nghiệp, Thụ, Ngạn, Thái, Chương, Ảnh, Tố, Luân, Duyên, Thống, Biểu, Thường, Tịch, Đế, Phàm, Tường, Lộc, Trinh, Kì, Thái, Thích…   Rắn cũng thích ở đồng ruộng nên có thể đặt tên chứa chữ Điền. Ngoài ra, rắn là loài ăn thịt, nên có thể sử dụng chữ Tâm, Nhục để đặt tên. Những tên phù hợp bao gồm: Nam, Điện, Giới, Lưu, Phan, Họa, Đương, Phúc, Đơn, Huệ, Tất, Chí, Cung, Hằng, Hoài, Tình, Tuệ, Hồ, Cao…   2. Dựa vào mối quan hệ tương sinh với những con giáp khác
 
Tỵ - Ngọ - Mùi là tam hợp, do đó có thể hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Vì vậy, nên đặt tên cho người tuổi Tỵ bằng các chữ như: Đằng, Dịch, Ly, Quần, Nghĩa, Khương…   Theo Địa chi, Tỵ - Dậu –Sửu tam hợp nên có thể dùng các chữ Dậu, Sửu để đặt tên cho người tuổi Tỵ: Kim, Phượng, Dậu, Y, Bằng, Phi, Sinh, Địch, Hàn…   Những chữ có hình dạng tương tự như con rắn như Xước, Cung, Kỉ, Tị, Trùng, Ấp cũng phù hợp để đặt tên cho người tuổi Tỵ: Nguyên, Sung, Tiên, Khắc, Căng, Kiến, Tuần, Thông, Đạo, Đạt, Tuyển, Bang, Đô, Đặng, Na, Thiệu…   3. Những tên cần tránh   Tỵ - Hợi đối xung, do đó không nên dùng chữ Hợi để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Những tên nên tránh: Tượng, Hào, Dự, Gia, Nghị, Duyên…   Rắn và Hổ thuộc hình hại, người xưa có câu “Rắn mà gặp hổ như bị dao đâm”, do đó nên tránh dùng tên có chứa chữ Hổ như: Hiệu, Hổ, Xứ…   Rắn sợ sức nóng thiêu đốt của mặt trời và phần lớn cuộc đời nó sống trong hang động, dưới bóng cây. Do đó, tránh đặt tên cho người tuổi Tỵ bằng các chữ có bộ Nhật như: Tình, Huy, Trí, Hiểu, Thần, Diệu…   Ngoài ra những chữ chứa bộ Thảo, Thủy, Nhân, Mễ, Đậu, Hòa cũng không thích hợp để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Vì rắn sợ bị loài người phát hiện, không thích ăn ngũ cốc…   Những tên nên tránh: Giới, Hoa, Linh, Anh, Nha, Thảo, Minh, Liên, Diệp, Mậu, Bình, Thủy, Cầu, Giang, Hà, Quyết, Tuyền, Thái, Châu, Hải, Hạo, Thanh, Hiếu, Quý, Mạnh, Nhân, Lệnh, Trọng, Đại, Tín, Luận, Thu, Khoa, Tích, Mục, Lê, Phong, Đậu, Phấn, Tinh…
Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp      
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho người tuổi Tỵ

Hay xem xét khi đặt tên cho bé

Việc đặt tên cho con không chỉ đòi hỏi bố mẹ phải tìm được cái tên đẹp, hay, có ý nghĩa với bé mà còn cần đáp ứng một số quy tắc nhất định, phù hợp với bé,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc đặt tên cho con không chỉ đòi hỏi bố mẹ phải tìm được cái tên đẹp, hay, có ý nghĩa với bé mà còn cần đáp ứng một số quy tắc nhất định, phù hợp với bé, tránh phạm phải những cấm kỵ, dẫn đến bất lợi cho bé sau này. Bố mẹ có thể tham khảo thêm một số lưu ý khi đặt tên cho bé.

luu-y-dat-ten

Đặt tên con mang ý nghĩa quá tuyệt đối, cầu toàn, cầu lợi

Bố mẹ nào cũng mong muốn con đạt được những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống nhưng đừng vì mong muốn đó mà gửi gắm vào cái tên của con những ý nghĩa quá cầu toàn, tuyệt đối. Những cái tên như Bạch Tuyết, Hoa Khôi, Trạng Nguyên, Mỹ Nhân, Thiên Tài, Kiều Diễm, Vô Địch,... thường mang lại cảm giác bố mẹ quá cực đoan, vô tình tạo áp lực cho chính đứa con của bạn sau này.

Với những cái tên như vậy, trẻ rất dễ bị người ngoài so sánh bản thân trẻ với cái tên và rất có khả năng trẻ bị chế giễu, trêu chọc nếu không được như cái tên của mình.

Tên trúc trắc, khó gọi, không đúng luật thanh âm

Tên gây khó gọi về mặt ngữ âm hoặc trúc trắc về thanh âm thì vừa gây khó khăn cho người gọi tên, vừa tăng nguy cơ con bạn bị gọi nhầm tên, dẫn đến nhiều rắc rối trong đời sống, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến thủ tục làm giấy tờ.

Một cái tên hay nên được kết hợp cả vần bằng (chữ mang dấu huyền hoặc không dấu) và vần trắc (chữ mang các dấu sắc, hỏi, ngã, nặng). Tránh đặt cho con những tên mang chỉ có một loại vần, đặc biệt là toàn vần trắc như Phạm Thị Thụ, Đỗ Lễ Nghĩa,..., đọc lên tạo cảm giác nặng nề, mệt mỏi.

Đặt tên con khó phân biệt nam nữ

Mặc dù đối với một số người, đặt tên con theo kiểu vừa có thể hiểu là nam, vừa có thể hiểu là nữ nghe rất thú vị nhưng thực chất, cái tên sẽ gây nhiều rắc rối trong cuộc sống của bé. Con sẽ rất dễ gặp chuyện nhầm lẫn giới tính trong các loại giấy tờ, dễ bị bạn bè trêu chọc khi đi học, dễ làm người khác gọi nhầm từ “anh” thành “chị”, từ “ông” thành “bà” và ngược lại, ,... và vô số chuyện dở khóc dở cười khác.

Đặt tên con mang nghĩa xấu hoặc khi nói lái, viết tắt sẽ mang nghĩa xấu

Qua rồi cái thời cha mẹ thích đặt tên con thật xấu để cho... dễ nuôi, để... trời không bắt mất. Ngày nay, hầu hết các ông bố bà mẹ đều muốn đặt cho con những cái tên đẹp, ý nghĩa nhưng bố mẹ vẫn phải hết sức thận trọng, cần thử hết tất cả các trường hợp viết tắt, nói lái của tên để đảm bảo sau này không có người xuyên tạc, bóp méo cái tên của bé. Trí tưởng tượng của con người vô cùng phong phú, bố mẹ nên đề phòng trường hợp con bị trêu chọc, lợi dụng chỉ vì cái tên.

Tên có nghĩa khác ở tiếng nước ngoài

Rất nhiều người Việt Nam có tên Dung hoặc Dũng khi sang nước ngoài phải chỉnh tên mình thành “Dzung” để tránh bị nhầm với từ “Dung” trong tiếng Anh có nghĩa là “phân”. “Chiến” là một cái tên rất đẹp trong tiếng Việt nhưng trong tiếng Pháp, từ “chien” dùng để chỉ loài chó.

Dù sao thì đây vẫn là những cái tên hay, ý nghĩa trong tiếng Việt và mặc dù những kiểu đặt tên này không gây bất lợi đáng kể cho tương lai con nhưng cũng là một điều để các bậc phụ huynh cân nhắc khi đặt tên cho bé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hay xem xét khi đặt tên cho bé

Công việc phất nhanh nhờ soi bát tự chọn bạn làm ăn

Vận khí kinh doanh không chỉ dựa vào năng lực của bản thân. Soi bát tự chọn bạn làm ăn sẽ giúp bạn gặp được quý nhân, công việc phất nhanh như diều gặp gió.
Công việc phất nhanh nhờ soi bát tự chọn bạn làm ăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vận khí kinh doanh không chỉ dựa vào năng lực của bản thân mà còn chịu ảnh hưởng lớn của đối tác. Soi bát tự chọn bạn làm ăn sẽ giúp bạn gặp được quý nhân, công việc phất nhanh như diều gặp gió.


Cong viec phat nhanh nho soi bat tu chon ban lam an hinh anh
 
1. Bát tự có Chính Tài, thích hợp buôn bán

Chính Tài đại diện cho việc phát đạt, lại thuộc dạng thu nhập không ổn định nhưng là đại tài, nếu gặp vận thì tiền vào như nước, không cần lao động vất vả cũng kiếm được khoản lớn.
 
Bát tự có Chính Tài, ý chí đầu cơ sinh lợi rất mạnh mẽ, không chịu làm thuê mà muốn tự mình làm chủ, có tham vọng làm giàu, rất thích hợp với việc buôn bán.
 
2. Bát tự có Chính Quan, thích hợp kinh doanh

Chính Quan đại diện cho công tác, cơ quan công vụ. Soi bát tự chọn bạn làm ăn mà người ấy có Chính Quan thì là người giao thiệp rộng, thích khai mở sự nghiệp mới, táo bạo, thích một mình tạo lập con đường cho riêng bản thân, thích hợp mở doanh nghiệp tự mình làm chủ.
 
3. Bát tự có Thương Quan,  thích hợp làm ăn tự do
 
Người có lá số này đầu óc linh hoạt, không bảo thủ, biết thay đổi cho phù hợp với thời cuộc, dễ thích nghi và có tinh thần học hỏi nhưng lại không hợp với cuộc sống công sở gò bó mà muốn bung ra ngoài làm ăn tự do. 
 
Không sớm thì muộn, người này cũng tự kinh doanh buôn bán hoặc làm về ngành tiêu thụ, thị trường, kỹ thuật sản xuất.

Khi chọn đối tác làm ăn, hãy chú ý xem bát tự của họ có nằm trong các trường hợp kia không. Nếu có, thì đích thị là người có số làm ăn phát đạt, nên chọn để cùng hợp tác, sẽ có lợi cho bạn.
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn
Tâm Lan (Theo 12ky)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Công việc phất nhanh nhờ soi bát tự chọn bạn làm ăn

Kiêng mở cửa hàng trên đường dốc –

Thông thường nền đất của cửa hàng phải ngang bằng với mặt đường cái. Điều này có lợi cho việc khách hàng ra vào dễ dàng, là vị trí lý tưởng cho kinh doanh. Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ. Có hai loại thường gặp: Một là mở cửa hàng trên đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ường dốc. Hai là nền cửa hàng và nền của mặt đường chênh lệch, mấp mô không bằng phẳng, thấp hơn mặt đường.

1. Cửa hàng nằm trên đường dốc

cua-hang-cao-hon-duong

Thông thường mọi người đều cho rằng không nên mờ cửa hàng ở vị trí này. Theo thuyết phong thủy, các loại khí tràn từ trên cao xuống khó mà dừng lại ở nơi đường dốc nên cửa hàng khó tụ được tài khí trong nhà. Xét theo thực tế, xe cộ đang trên đà đi xuống nên không dễ dàng dừng xe, nếu không phải là điếu bất đắc dĩ thì chẳng ai dừng xe trên đường dốc cả.

Tuy nhiên có một số cửa hàng lại gặp phải trường hợp như vậy. Nếu tình hình bắt buộc phải chọn thì nên suy nghĩ kỹ và thiết kế làm sao cho cổng vào của cửa hàng nằm ở vị trí thích hợp giữa cửa hàng và mặt đường để tiện cho khách ra vào. Ngoài ra cách bày trí cửa sổ, hành lang, bày biện hàng hóa phải thuận tiện nhất cho khách hàng chọn lựa.

2. Nền nhà của cửa hàng thấp hơn mặt đường

cua-hang-thap-hon-duong

Trường hợp này cũng coi là vị trí địa lý không thích hợp cho việc mở cửa hàng. Bởi vì, các cửa hàng như vậy thường có âm khí rất nặng dù được ánh sáng của đèn (hoặc của những đồ vật phát quang) bổ sung, nhưng cũng rất khó thay đổi được trạng thái, đồng thời thế đứng của cửa hàng sẽ gây cho người chủ và khách hàng cảm giác ức chế hoặc lửng lơ, lêu dần sẽ không có lợi.

Nhưng đối với thành phố, mỗi tấc đất là một tấc vàng, có được một khoảng đất để mờ cửa hàng cũng chẳng dễ dàng gì. Gặp phải trường hợp này thì nên đặc biệt chú ý tới việc thiết kế cổng của cửa hàng, trần nhà cho bắt mắt để thu hút khách hàng ra vào cửa hàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng mở cửa hàng trên đường dốc –

Điểm danh những con giáp mang niềm vui cho người khác

Có những người sinh ra đã mang trong mình nguồn sinh khí mới lạ, thổi hồn vào mọi sự sống. Đó chính là những con giáp mang niềm vui cho người khác dưới đây.
Điểm danh những con giáp mang niềm vui cho người khác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Lichngayot.com) –

  12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi Tý Top 3 con giáp sau một đêm trở thành TỶ PHÚ Những con giáp khó tránh tình tay ba nửa cuối năm 2016
1. Tuổi Ngọ
  Những người cầm tinh Ngựa có lối suy nghĩ tích cực, lạc quan, chúa ghét những gì rườm rà tạo áp lực cho cuộc sống. Chính vì thế, trông họ lúc nào cũng tràn đầy nhiệt huyết, đi tới đâu là khuấy động bầu không khí ở đó thêm tươi vui, rộn ràng tiếng cười.   Chỉ cần nhìn thấy nụ cười thường trực trên môi con giáp này, mọi người xung quanh cũng thấy ám áp, an bình.    Lối suy nghĩ phóng khoáng giúp người tuổi Ngọ chọn lọc niềm vui trong cuộc sống, dễ dàng bỏ qua những điều không vui, tha thứ và bao dung cho người phạm sai lầm. Vì thế, trong chính tâm hồn họ đã mang nguồn sinh khí mới lạ, có thể thổi bay mọi muộn phiền, mang tới niềm vui phủ sóng khắp nơi.  
Diem danh nhung con giap mang niem vui cho nguoi khac hinh anh
 
2. Tuổi Thân   Vốn tôn sùng chủ nghĩa tự do bay nhảy, người tuổi Thân hiếm khi bị những điều phiền não ràng buộc. Với họ, cuộc sống chính là do mỗi con người làm chủ, sống sao cho thoải mái, thư thái về tinh thần mới là điều quan trọng chứ không phải là tiền bạc vật chất.   Mang trong mình nguồn năng lượng sống tràn trề, đi tới đâu, người tuổi Thân cũng như tỏa ánh hào quang vui vẻ, khiến bầu không khí ở đó cũng tưng bừng phấn khởi.   Nếu nói đời là bể khổ, cuộc sống là những cơn mưa u ám, thì người tuổi Thân chính là ánh mặt trời mang nguồn sống cho vạn vật. Đây cũng là một trong những con giáp mang niềm vui cho người khác, rất đáng trân trọng và dành sự tin yêu.

Xem lịch tránh tháng xấu không nên đi xa cho 12 con giáp 3 con giáp cẩn thận hao tài tốn của 6 tháng cuối năm Người tuổi nào có mối thâm duyên với nhà Phật?
 
Diem danh nhung con giap mang niem vui cho nguoi khac hinh anh
 
3. Tuổi Tuất   Dù cho cuộc sống có khó khăn tới mức nào, hoàn cảnh có thảm thương ra sao, nhưng người tuổi Tuất vẫn luôn tìm thấy được niềm vui, thậm chí còn mang nguồn vui ấy sẻ chia với tất cả mọi người xung quanh.    Con giáp này chúa ghét phải làm điều gì gò bó, bị ai đó quản thúc trong một không gian bí bách, hạn hẹp. Họ thích đi xa, tự mình trải nghiệm và chinh phục thử thách trong cuộc sống, nhằm mục đích tận hưởng niềm vui, tìm thấy nguồn cảm hứng dễ bị mọi người bỏ sót.   Nếu thấy cuộc sống bí bách, muộn phiền, bạn hãy tìm đến người tuổi Tuất để dốc bầu tâm sự. Họ không những cho bạn mượn bờ vai vững chắc để tựa, mà còn đưa ra những lời khuyên cực kỳ chân thành và bổ ích dành cho bạn.  
► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về mười hai con giáp bạn nên xem

Hoàng Lam
Thế giới của những con giáp không thể sống thiếu điện thoại
Xa điện thoại vài phút thôi là những con giáp này đã có một cảm giác bất an không hề nhẹ. Thế giới của họ luôn đi kèm chiếc smartphone xinh xắn, thiếu nó coi

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh những con giáp mang niềm vui cho người khác

Bản gốc của thước Lỗ Ban

Từ xưa đến nay trên thị trường xây dựng, chúng ta thường thấy thước Lỗ-Ban xuất hiện bày bán rất nhiều, trên hình thức thước cuộn từ 3 mét trở lên, trước tiên là thước Lỗ-Ban do T.Q sản xuất, chia chiều dọc làm hai phần, phần trên là thước tấc để đo, phần dưới là thước Lỗ-Ban.
Bản gốc của thước Lỗ Ban

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tất nhiên là ngôn ngữ trên thước cũng toàn là tiếng T.Q, mấy bác thợ nề, thợ mộc cứ thế mà mày mò “khoản đen thì bỏ, khoản đỏ thì dùng”, chứ không hiểu trong thước nói gì ?…Và cách sử dụng cho chính xác ra sao ?…

Sau này các nhà sản xuất trong nước chúng ta nắm được thị hiếu người tiêu dùng, nên đã phiên dịch ra tiếng Việt và thước được bán rất chạy.Sự việc chưa dừng lại ở đó, có nhà sản xuất thước cuộn chia chiều dọc của thước làm ba phần, phần trên là thước tấc để đo, phần giửa ghi rỏ sự tốt xấu …,phần dưới cùng cũng ghi rỏ sự tốt xấu…

Làm người sử dụng không biết đâu mà phân biệt loại thước nào để mà sử dụng, đành phải mày mò theo kiểu hai thước cùng song hành, thôi đành chấp nhận gạn lọc “hai đen cùng trùng thì bỏ, hai đỏ cùng trùng thì dùng”!(Phần đen là cung xấu, phần đỏ là cung tốt).

Thực chất hai thước cùng song hành đó, phần trên là thước “Khổng Tử”, phấn dưới là thước “Lỗ-Ban”, hoặc phần trên là thước “Lỗ-Ban”, phần dưới là thước “Khổng-Tử” tùy vào nhà sản xuất, để mọi người tuỳ thích chọn lựa mà sử dụng.

Nhưng khi bán thước không có kèm theo hướng dẫn sử dụng, nên người dùng không biết tin vào phần thước nào cho phải, thôi đành chọn hai thước cùng trùng “chỗ tốt” cho nó chắc, và cứ gọi nó là thước “Lỗ-Ban” cũng chẳng sao ?!…
Nhưng trong thực tế xây dựng, chúng ta tận dụng đến từng cm khi cần thiết, thế mà trong thước khi tìm được hai khoản đỏ trùng nhau gọi là được “cung tốt” thì lại hơi bị quá xa…thật là khổ cho người ham mê phong thủy, để cầu mong điều tốt lành !

Trong phong thủy từ xưa đến nay, người ta sử dụng nhiều loại thước “Địa lý” để sử dụng trong việc xây dựng và nhiều việc khác, trong đó có thước LỖ-BAN là được mọi người yêu chuộng nhất, vì tác dụng của nó qua hàng ngàn năm được người ta chiêm nghiệm là đúng thật với những gì trong thước đã nói.

Cũng vì được mọi người yêu chuộng sự màu nhiệm của thước Lỗ-Ban, nên thước Lỗ-Ban sử dụng trong nhân gian đã biến dạng đủ loại kích cở khác nhau, người sử dụng không biết đâu là thật, đâu là giả, để mà chọn lựa khi cần dùng, đôi khi đã lỡ dùng rồi, rủi khi gặp họa do kích thước gây ra, cũng chẳng ai nghĩ là do cái thước “Lỗ-Ban biến dạng” kia gây ra….
Cũng vì vậy đa số các bạn ham mê và yêu chuộng thước Lỗ-Ban, đã thắc mắc và nhiều lần hỏi Admin về “Bản gốc của thước Lỗ-Ban” sự thật là như thế nào? để chia sẻ cùng với mọi người, để mọi người cùng tin dùng cho nó chắc, để khỏi phập phồng lo âu khi sử dụng “dị bản của thước Lỗ-Ban” hiện tràn lan trôi nổi trên thị trường.
Cũng chẳng có gì to lớn khi đáp ứng đa số các bạn đã ham mê yêu chuộng thước Lỗ-Ban. Nên nhân đây Admin cũng trao tặng đến các bạn có nhân duyên xem Blog này nguyên “Bản gốc thước Lỗ-Ban” mà Admin đã có nhân duyên được Sư phụ truyền lại cách đây trên 30 năm.

Và đã trên 30 năm nghiên cứu và thực hành phong thủy, trong đó có thước Lỗ-Ban, thì thật sự thước Lỗ-Ban đã mang lại những điều may mắn cho người sử dụng khi làm mới hoặc sau khi chỉnh sửa.

Và khi đem thước Lỗ-Ban đến đo các cửa của những ngôi nhà cũ, thì đến cung tốt hoặc cung xấu, thì các gia chủ đều công nhận là đúng với những gì đã xảy ra cho gia chủ.

Sau đây là nguyên văn “Bản gốc thước Lỗ-Ban”:

1- Cung QUÝ NHÂN: NHẤT TÀI MỘC CUỘC. ( TỐT ).Tham lam tấn hoạnh tài.Ưng ý tự nhiên tai.Tác vật hà hội thứ.Phân minh kỳ bất sai.

Cung QUÝ NHÂN còn có tên NHẤT TÀI MỘC CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Quyền lộc- Trung tín- Xác quan- Phát đạt- Thông minh.

Có nghĩa cửa mà đo được cung QUÝ NHÂN thì gia cảnh sẽ được khả quan, có người giúp đỡ, quyền thế, lộc thực tăng, làm ăn luôn phát đạt, người ăn ở bạn bè trung thành, con cái thông minh trên đường học vấn. Nhưng chớ quá tham lam, làm điều bất chánh thì sẽ bị mất hết.

2- Cung HIỂM HỌA: NHỊ BÌNH THỔ CUỘC. ( XẤU ).Cự môn hiếu phục thường.Du ký tẩu tha phương.Nhất thân ly tật bệnh.Dâm loạn nam nử ương.

Cung HIỂM HỌA còn có tên NHỊ BÌNH THỔ CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Tán thành- Thời nhơn- Thất hiếu- Tai họa- Trường bịnh.

Có nghĩa cửa mà đo được cung HIỂM HỌA thì gia cảnh sẽ bị tán tài lộc, trôi giạt tha phương mà sống vẫn thiếu hụt, con cháu dâm ô hư thân mất nết.

3- Cung THIÊN TAI: TAM LY THỔ CUỘC. ( XẤU ).Lộc tồn nhân đa lãm.Ly biệt hưu bất tường.Phu thê xung khắc mãnh.Nam nử đại gia ương.

Cung THIÊN TAI còn có tên TAM LY THỔ CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Hoàn tữ- Quan tài- Thân bệnh- Thối tài- Cô quả.

Có nghĩa cửa mà đo được cung THIÊN TAI thì gia cảnh coi chừng đau ốm nặng, chết chóc, mất của, cô độc, vợ chồng cắng đắng, con cái gặp nạn.

4- Cung THIÊN TÀI: TỨ NGHĨA THỦY CUỘC. ( TỐT ).Văn khúc chử vạn chương.Đời đời cận quân vương.Tài lộc tái gia phú.Chấp thằng lục lý xương.

Cung THIÊN TÀI còn có tên TỨ NGHĨA THỦY CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Thi thơ- Văn học- Thanh quý- Tác lộc- Thiên lộc.

Có nghĩa cửa mà đo được cung THIÊN TÀI thì gia cảnh rất tốt, chủ nhà luôn luôn may mắn về tước lộc, con cái được nhờ và hiếu thão. Cuộc sống luôn luôn được ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc vô đều.

5- Cung NHƠN LỘC: NGŨ QUAN KIM CUỘC. ( TỐT ).Vũ khúc xuân lộc tinh.Phú quý tự an ninh.Tấn bửu an điền trạch.Thông minh trí tuệ sinh.

Cung NHƠN LỘC còn có tên NGŨ QUAN KIM CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Tử tôn- Phú quý- Tấn bửu- Thập thiện- Văn chương.

Có nghĩa cửa mà đo được cung NHƠN LỘC thì gia cảnh có nghề nghiệp luôn luôn phát triển tinh vi đắc lợi, con cái học giõi,gia đạo phú quý,tuổi thọ.

6- Cung CÔ ĐỘC: LỤC CƯỚC HỎA CUỘC. ( XẤU ).Liêm trinh tửu sắc thanh.Lộ vong nhân đánh tranh.Quân sư lâm ly tán.Đao kiếp mãnh tri hoành.

Cung CÔ ĐỘC còn có tên LỤC CƯỚC HỎA CUỘC. Gồm có năm cung nhỏ là: Bạo nghịch- Vô vong- Ly tán- Tửu thực- Dâm dục.

Có nghĩa cửa mà đo được cung CÔ ĐỘC thì gia cảnh bị hao người, hao của, biệt ly, con cái ngổ nghịch, trác táng, tửu sắc vô độ đến chết.

7- Cung THIÊN TẶC: THẤT TAI HỎA CUỘC. ( XẤU ).Phá quân chủ tung hoành.Thập ác tri nghịch hành.Phá gia tài thối tán.Phiền tất bất an ninh.

Cung THIÊN TẶC còn có tên THẤT TAI HỎA CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Phòng bịnh- Chiêu ôn- Ôn tai- Ngục tù- Quan tài.

Có nghĩa cửa mà đo được cung THIÊN TẶC thì gia cảnh nên đề phòng bịnh đưa đến bất ngờ, tai bay họa gởi, ngục tù, chết chóc.Phải sửa cửa ngay.

8- Cung TỂ TƯỚNG: BÁC BỜI THỔ CUỘC. ( TỐT ).Phụ đồng tể tướng tinh.Kim ngân mẩn thất đinh.Ngũ âm tài đính xuất.Công hầu phú quý kinh.

Cung TỂ TƯỚNG còn có tên BÁC BỜI THỔ CUỘC.Gồm có năm cung nhỏ là: Đại tài- Thi thơ- Hoạnh tài- Hiếu tử- Quý nhân.

Có nghĩa cửa mà đo được cung TỂ TƯỚNG thì gia cảnh được hanh thông đủ mọi mặt: Con cái, tiền tài, công danh, sanh con quý tử, thông minh, hiếu thảo.Chủ gia luôn được may mắn bất ngờ.

KÍCH CỞ CỦA THƯỚC LỖ-BAN:Chiều dài chính xác của thước Lổ-Ban này là 520 mm (= 0,52 m).-Được chia ra làm 8 cung LỚN : Theo thứ tự từ cung QUÝ NHÂN đến cung TỂ TƯỚNG như trên.Mỗi cung LỚN dài 65 mm.

-Mỗi cung LỚN: Được chia ra làm 5 cung NHỎ như trên.Mỗi cung NHỎ dài 13 mm.

Xem thêm tại: http://phongthuy.vietaa.com/

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bản gốc của thước Lỗ Ban

9 thứ kém may mắn này rất có thể đã hiện diện trong nhà bạn

Hãy cẩn thận khi sơn cửa màu đen, tường nhà màu xanh lá cây… bởi theo phong thủy, chúng là những thứ dễ mang đến xui rủi và tai ương cho gia đình bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không ai cổ súy cho mê tín dị đoan, tuy nhiên, theo phong thủy, có một số điều bạn không nên làm hay giữ trong nhà bởi chúng có thể đem đến vận xui, tước đi may mắn của gia đình mình. Dưới đây là 9 thứ kém may mắn rất có thể đã hiện diện trong nhà mà bạn cần điều chỉnh ngay:

1. Đồng hồ hư

Không chỉ mang ý nghĩa xấu theo phong thủy, theo quan niệm của nhiều nước phương Tây, những chiếc đồng hồ báo thức bị hư hỏng là điềm báo của cái chết. Do đó, nó thường được xem là thứ đem đến vận rủi, bạn không nên lưu trữ trong nhà.

2. Cửa sơn màu đen

Theo phong thủy, màu đen là màu sắc của sự sang trọng, quý phái, còn một cánh cửa sơn đen chính là một trong những thứ góp phần đem đến những điều may mắn cho gia đình bạn. Tuy nhiên, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì nếu cánh cửa sơn đen đó hướng về phía Bắc.

3. Gương

Không phải chỉ những chiếc gương bể mới mang đến vận xui. Người xưa quan niệm rằng những chiếc gương có thể đánh cắp linh hồn của bạn. Vào thời Victoria, người dân Anh thường chôn gương theo người chết để linh hồn họ không thể thoát ra ngoài mà quấy phá người sống. “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, vì vậy, đừng nên treo quá nhiều gương trong nhà bạn nhé!

4. Lịch cũ

Không chỉ lịch cũ, mà lịch mới nếu để sai ngày tháng cũng không tốt. Đó là điềm báo về sự trôi qua của thời gian cho nên nếu bạn dùng lịch sai cách, người ta tin rằng điều đó sẽ ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của bạn.

5. Chén đĩa sứt mẻ

Khi phát hiện chén/đĩa/ly… có dấu hiệu sứt mẻ, bạn cần nhanh chóng vứt bỏ chúng đi. Nguyên nhân là vì theo phong thủy, chén bát là thứ tượng trưng cho sự giàu có của gia đình bạn. Khi bạn tiếp tục ăn uống trên những chiếc chén đĩa sứt mẻ, phải chăng bạn đã sẵn sàng đón nhận khó khăn, thất bại?

6. Cây trồng có gai

Hãy suy nghĩ lại nếu bạn đang có dự định mang xương rồng về nhà trong thời gian tới. Bởi theo phong thủy, trồng các loại cây có gai (trừ hoa hồng) chính là rước luồng năng lượng tiêu cực và kém may mắn vào nhà.

7. Cây trồng chết/khô

Nếu bạn quên tưới nước và để cây trồng héo úa thì đó cũng là thời điểm bạn nên nói lời tạm biệt với chúng. Ngay cả việc trữ hoa khô trong nhà, thậm chí chỉ là một nắm nhỏ cũng được coi là xui rủi.

8. Tường màu xanh lá cây

Hãy hạn chế sơn tường màu xanh lá cây. Ở Anh và Mỹ, đây được xem là màu không may mắn kể từ năm 1700, khi nhà hóa học Thụy Điển sử dụng asen để sơn xanh các bức tường và nhuộm vải đã tạo ra một chất độc gây chết người.

9. Ghế lắc để trống

Đây hẳn là tin xấu cho các bà mẹ bởi ghế lắc là đồ vật rất được ưa chuộng khi nhà bạn có trẻ con. Theo quan niệm của người Ai-len, chiếc ghế lắc trống sẽ mời gọi ma quỷ đến ngồi. Và khi chiếc ghế lắc thường xuyên tự động di chuyển có nghĩa là có một thế lực khác đã “định cư” tại đó nên có thể mang đến chết chóc hoặc sự xui rủi cho gia đình bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 thứ kém may mắn này rất có thể đã hiện diện trong nhà bạn

Ứng dụng thuyết Âm - Dương trong phong thủy sân vườn

Phong thủy sân vườn với những yêu cầu về cân bằng âm dương, cân bằng khí trường, tính thẩm mĩ và tính ứng dụng đang được nhiều người quan tâm.
Ứng dụng thuyết Âm - Dương trong phong thủy sân vườn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy sân vườn với những yêu cầu về cân bằng âm dương, cân bằng khí trường, tính thẩm mĩ và tính ứng dụng đang được nhiều người quan tâm. Dưới đây là một số kiến thức cơ bản dành cho những ai đang muốn có một khu vườn đẹp cảnh, đẹp phong thủy cho riêng mình.


Ung dung thuyet Am - Duong trong phong thuy san vuon hinh anh 2
 
Phong thủy sân vườn đòi hỏi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “hữu”, “động” là dương và “hư”, “tĩnh” là âm. Các bối cảnh, cây cối, trang trí đều cần dựa trên sự cân bằng âm dương, làm cho “hư” cùng “hữu”, “tính” cùng “động” biến hóa một cách phong phú.    Ví dụ, ở nơi bóng cây râm mát dựng một nơi nghỉ chân chính là trong âm có dương, nơi ánh mặt trời chiếu rọi thiết kế hồ nước hoặc con suối nhỏ là trong dương có âm. Ngoài ra, hồ nước, dòng suối cùng hòn non bộ, hòn giả sơn; bụi cây cao và bụi cây thấp cũng là một dạng thiết kế âm dương cân bằng.   Phong thủy truyền thống cho rằng, “Thủy quản tài” nên trong khuôn viên vườn nên bố trí thủy cảnh, thác nước, dòng suối, hồ để thu hút tài lộc, thúc giục tài vận. Nhưng việc sử dụng Thủy nhân tạo trong phong thủy cũng phải hết sức thận trọng kẻo cát hóa hung.  
Ung dung thuyet Am - Duong trong phong thuy san vuon hinh anh 2
 
Những nơi có nguồn nước tự nhiên sẵn có thì nên cải tạo và thiết kế hợp lý để dẫn vào nhà, tạo cảnh quan Thủy, như vậy có lợi hơn. Ao, hồ trong vườn cần được quan tâm chăm sóc, thường xuyên cải tạo, vệ sinh, tránh tình trạng khô cạn, ứ đọng, sinh ra âm khí, sát khí, bất lợi cho chủ nhân. 
  Một lưu ý nữa khi dựng Thủy cảnh trong vườn là phải thiết kế sao cho dòng nước chuyển động hướng vào trong nhà thì mới vượng tài, nếu nước chảy ra ngoài thì sẽ thoái tài.   Bày sập gụ trong nhà đẹp chuẩn phong thủy
Sập gụ là vật dụng phổ biến trong ngôi nhà truyền thống. Dù nay đã được thay thế bằng các loại bàn ghế kiểu hiện đại nhưng vẫn rất nhiều nhà

Các bụi cây thấp nhỏ, mọc dày dễ sinh âm khí, uế khí và kí sinh trùng mang bệnh nên thiết kế vườn cần bố trí cây cối thoáng rộng và gia chủ phải thường xuyên vệ sinh, cắt tỉa cây, giải trừ khí xấu.
  Vườn có thể mang tới cho ngôi nhà không khí mát lành và phong thủy tốt lành nếu biết cách bố trí hợp lý. Hãy biến những khoảng đất trống quanh ngôi nhà của bạn trở thành khu vườn tuyệt vời nhé.
=> Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ và phong thủy nhà ở chuẩn

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ứng dụng thuyết Âm - Dương trong phong thủy sân vườn

Mấy tục lệ trong đêm giao thừa

Trong Ðêm Giao Thừa, sau khi làm lễ giao thừa xong, có những tục lễ riêng mà cho tới ngày nay từ thôn quê đến thành thị vẫn còn nhiều người theo giữ.
Mấy tục lệ trong đêm giao thừa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầy phúc cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho gia đình. Và nhân dịp người ta thường xin quẻ đầu năm.

Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người kén giờ và kén hướng.

Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của Trời đất Phật Thần ban cho. Trước cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xòa, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến Với tin tưởng lộc hái về trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho tốt lành may mắn. Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc có nhiều người không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và Ði đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm hoàn toàn may mắn.

Hương lộc: Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin Phật Thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm. Trong lúc mang nấm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nấm hương bốc cháy, người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự.

Xông nhà: Thường cúng giao thừa ở nhà xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Gia đình có nhiều người, thường người ta kén một người dễ vía ra đi từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch, rồi khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về. Lúc trở về đã sang năm mới, người này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Ði xông nhà như vậy tránh được sự phải nhờ một người tốt, vía khác đến xông nhà cho mình. Nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng một Tết đến xông nhà, trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự dễ dãi may mắn lại.

Nguồn: Phongthuyviet

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mấy tục lệ trong đêm giao thừa

Ngày tam nương tương sát tháng 7 Âm lịch có đáng sợ?

Mỗi tháng đều có các ngày tam nương tương sát. Tuy nhiên, ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch được nhiều người coi là xấu hơn những tháng khác. Sự thực thế nào?
Ngày tam nương tương sát tháng 7 Âm lịch có đáng sợ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ngày nào là ngày tam nương tương sát

Theo trang Tử vi số mệnh, ngày tam nương có xuất xứ từ Trung Quốc. Tam nương có nghĩa là “ba người đàn bà”. Theo dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba nàng: Muội Hỉ, Đát Kỉ và Bao Tự (những giai nhân tuyệt sắc làm sụp đổ ba triều Hạ, Thương, Tây Chu trước Công nguyên). Trong suốt thời đại của mình, họ được coi là “hồng nhan họa thủy” mang lại sự xui xẻo cho mọi người liên quan. Ngày tam nương chính là ngày sinh và ngày mất của 3 người này, nên một tháng có 6 ngày tam nương, đó là các ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27 âm lịch.

Theo các nhà khoa học tâm linh, những ngày tam nương tương sát trong phong thủy được tính là các phi tinh (trong Cửu cung bát quái) có Ngũ hoàng (trung cung) xấu nhất, bay tới đâu mang họa tới đó và cứ phi tinh hết các cung (nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử) lại gặp ngũ hoàng. Ngày tam nương tương sát cũng là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn…

Ngày tam nương tương sát còn được kiêng trong các sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ quan niệm: Đón dâu về nhà ngày tam nương tương sát thì vợ chồng sẽ cãi cọ, không ở được với nhau dài lâu, tuyệt đường con cái; Nếu đi sông biển ngày tam nương tương sát sẽ gặp họa vì khó tìm được bến bờ trở về; Nếu có bổ phong, nhận chức vào ngày này thì gặp họa thảm sầu, hoặc phải đi xa biền biệt…

Nhận định về ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch có “xấu” hơn so với các tháng khác trong năm không, ông Doãn Phú, Chủ nhiệm bộ môn Phong thủy (Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người) cho rằng, những ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch cũng như những ngày tam nương trong các tháng khác, không xấu hơn. Cũng theo ông Doãn Phú, không chỉ 6 ngày trên, những ngày 5, 14, 23 (các số cộng lại bằng 5) cũng là ngày xấu, được cho là "nửa đời, nửa đoạn", làm gì cũng không như ý.

Ông Doãn Phú cho biết thêm, người phương Tây cũng có quan niệm về những ngày xấu, gọi là ngày nguyệt kị, rơi đúng vào các ngày tam nương tương sát. Khoa học giải thích rằng, khi Trái đất tự quay quanh nó và mặt trăng quay quanh Trái đất thì khoảng 2 ngày rưỡi, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới, khiến các dòng năng lượng giao động, ảnh hưởng tới toàn bộ sự sống trên Trái đất. Các chuyên gia thiên văn hiện đại cho rằng, vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm trong thiên hà và phát sinh những bức xạ, tia xạ ảnh hưởng lớn đến Trái đất, chi phối đời sống của sinh vật, trong đó có con người. Và những ngày tam nương là thời điểm mặt trăng chuyển sang vùng mới, tránh ngày xấu chính là tránh thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển.

Hạn chế làm việc gì?

Đại đức Thích Pháp Đạt,nguyên trụ trì chùa Trường Sa lớn (huyện đảo Trường Sa), người đã có nhiều chuyến đi về giữa đảo và đất liền nhân tháng Vu Lan đã chia sẻ rằng, nhà chùa không phân biệt ngày tốt, xấu, ngày thường hay ngày tam nương tương sát như trong dân gian. Nhà chùa khuyên mọi người không nên lệ thuộc, sợ hãi quá vào những ngày tốt, xấu. Nhà chùa không kể ngày, giờ tốt hay xấu, đặc biệt khi có người cầu cứu, các nhà sư không chờ ngày tốt, giờ tốt mới đi, hoặc né tránh giúp người vì lý do ngày, giờ xấu.

Với đạo Phật, mọi việc đều do nghiệp quả, quan niệm xui hay không là do con người. Nếu cố chấp, lo lắng nhiều thì khó khăn sẽ đến. Nhưng nếu buông bỏ, không coi trọng những quan niệm đó thì sẽ không có gì. Bỏ đi được quan niệm xấu, tốt, hay không bỏ quan niệm đó cũng tùy “nghiệp” của từng người, nhưng đừng sa đà vào mê tín dị đoan.

Ông Doãn Phú cũng khuyên, ngày tam nương, nguyệt kị là xấu theo dân gian và tâm linh, nhưng thực sự chưa có nghiên cứu, kiểm chứng khoa học nào về những xui xẻo do ngày đó mang lại. Ông Doãn Phúc nhận định: “Quan sát gần đây thấy có những kiêng kị dân gian có cái còn phù hợp, có cái không. Và thực tế nhiều vụ tai nạn máy bay rơi, đắm tàu thuyền lớn… gần đây không hoàn toàn rơi vào những ngày xấu. Đã từng có nhiều việc trọng đại diễn ra vào các ngày 13/6, 13/7 Âm lịch và đều đạt kết quả rất tốt. Như vậy, những ngày này không phải xấu như quan niệm. Người dân không nên quá lo lắng để tìm cách hóa giải”.

Tuy nhiên, ông Doãn Phú cũng khuyến cáo vì các ngày tam nương tương sát thường là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn. Vì vậy, nên thận trọng khi lái xe, điều khiển máy móc, hạn chế các chuyến đi chơi xa, leo núi, tới nơi rừng rú...

Ông Doãn Phú nói: "Quan điểm của tôi là việc kiêng hay không kiêng, tránh hay không tránh ngày tam nương tương sát là tùy mỗi người. Nếu là người làm ăn, hoặc khi triển khai các việc lớn như khai trương, ký hợp đồng, khởi công nhà mới.. thì cần xem kỹ ngày để tránh xui xẻo. Còn bình thường thì không nên xem trọng quá. Ngày tam nương tương sát chỉ nên xem đó là một ngày bình thường, cứ sinh hoạt, làm việc bình thường, đừng để những quan niệm ảnh hưởng đến cuộc sống của mình vì con người vẫn là yếu tố quyết định".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày tam nương tương sát tháng 7 Âm lịch có đáng sợ?

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd