Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách dọn bàn thờ để không phạm phong thủy

Ngày nay, không còn nhiều người biết cách dọn bàn thờ theo phong thủy và mang lại may mắn như phong tục cổ nhân.
Cách dọn bàn thờ để không phạm phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Phần quan trọng nhất là bàn thờ tổ tiên, do đây là nơi được coi là nơi linh thiêng, ngày thường không được tùy ý động chạm di chuyển mà chỉ lau chùi sạch sẽ, người xưa cho rằng nếu xê dịch sẽ làm kinh động đến chỗ của thần, thần không được an vị thì không muốn ở lại lâu, không chăm sóc cho nhà mình được. Ngày nay do thời gian có hạn hoặc một số kiêng kị không được lưu truyền trong dân gian nên không còn nhiều người biết cách dọn bàn thờ theo phong thủy và mang lại may mắn như phong tục cổ nhân.

Trước khi dọn ban thờ, người xưa thường phải tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị đĩa hoa quả đặt lên, sau đó thắp một nén hương thông báo cho tổ tiên và thần linh biết ngày hôm nay sẽ thu dọn ban thờ, mời tổ tiên và thần linh tạm lánh sang một bên để con cháu thực hiện công việc. Sau đó gia chủ chuẩn bị một chiếc bàn bên trên trải vải hoặc giấy đỏ để đặt bài vị, nếu bàn thờ có đặt chung bài vị gia tiên với các thần thì phải để ra hai chỗ khác nhau, không được lẫn lộn. Đợi sau khi hương cháy hết rồi mới bắt đầu công việc.

Khi lau rửa bài vị của tổ tiên thì phải dùng nước ấm, không được dùng nước lạnh. Khi làm vệ sinh, nếu có bài vị của thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Người xưa quan niệm như vậy là bất kính, mạo phạm với thần phật, thần phật có ngôi vị cao hơn nên dễ khiến tổ tiên bị chèn ép.

Sau khi lau bài vị xong mới đến phần dọn bát hương, công việc này cũng rất quan trọng, ngày nay đa phần mọi người đều rút chân hương rồi cầm bát hương đổ hết tro ra ngoài, theo người xưa như vậy rất dễ gây “tán tài”, vì vậy người ta dùng chiếc thìa nhỏ xúc từng thìa đổ ra ngoài rồi mới rửa sạch bát hương đặt sang một bên.

Khi bát hương khô ráo, nếu là bát hương thờ thần phật thì dùng bảy tờ tiền vàng, bát hương của tổ tiên thì dùng ba tờ tiền vàng đốt hơ quanh, cháy một nửa thì bỏ vào trong, đợi tiền vàng cháy hết thì đổ tro vào một lần, như vậy gọi là “ra nhỏ vào lớn”, ý là “tiền ra nhỏ giọt, tiền vào như thác đổ”, nếu lúc đầu đổ ra hết sau đó múc từng ít một vào thì gọi là “ra lớn vào nhỏ”, tức “tiền ra thì nhiều mà tiền vào thì ít”.

Ngày nay có nhiều người đem tro bát hương đổ cũ ra sông, thay vào bát hương tro mới, nhưng người xưa thì dùng chiếc rổ mắt nhỏ để lọc tro cũ, lọc xong lại đổ vào bát hương chứ không đổ đi. Việc lọc tro cũng phải bắt đầu từ bát hương thờ thần phật.

Sau khi lau rửa sạch sẽ, người ta sẽ đem bài vị thần Phật và tổ tiên đặt lại chỗ cũ và công đoạn này cũng rất phức tạp. Trước hết phải chuẩn bị một chiếc lò nhỏ trong có đốt than hoa, đặt dưới bàn thờ khoảng 15 phút, sau đó đốt bảy tờ tiền vàng làm dấu hơ ở bốn hướng trên dưới trái phải, ý là dùng lửa để khai quang, làm sạch, tiền vàng chưa cháy hết thì bỏ vào lò than hoa.

Đốt tiếp bảy tờ tiền vàng làm sạch vị trí muốn đặt tượng/bài vị thần Phật và bát hương sau đó mới đặt các đồ vật vào vị trí cố định. Sau khi đặt xong thì đốt 12 que hương cắm theo thứ tự hướng thời gian, que thứ nhất cắm ở vị trí 1g, khi cắm thì đọc “niên niên thị hảo niên”, tức mỗi năm đều là năm tốt; que thứ hai cắm ở vị trí 2g, khi cắm đọc “nguyệt nguyệt thị hảo nguyệt”, tức mỗi tháng đều là tháng tốt; cây thứ ba cắm ở vị trí 3g, khi cắm đọc “nhật nhật thị hảo nhật”, tức mỗi ngày đều là ngày tốt; cây thứ tư cắm ở vị trí 4g, khi cắm đọc “thời thời vị hảo thời”, tức mỗi giờ đều là giờ tốt; cứ tuần tự như vậy cho đến thời điểm vị trí 12g. Các vị trí bài vị, bát hương của tổ tiên và bà tổ cô cũng làm như vậy.

Trên đây là tập tục của người xưa ghi chép lại trong các thư tịch cổ, những công việc tỉ mỉ khi chăm sóc bàn thờ gia tiên cũng là cách để tăng thêm phần không khí ngày Tết. Nhưng ngày nay, do cuộc sống bận rộn nên không hẳn tất cả những tập tục trên còn phù hợp. Xin nêu lại tập tục cổ nhân như một cách để bạn đọc tham khảo, thêm phần hiểu biết về phong tục tập quán của người xưa trong những ngày xuân đang tới với hi vọng mọi người sẽ gặp những may mắn mới, thành công mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách dọn bàn thờ để không phạm phong thủy

Cách yểu mệnh ở trẻ con - Giờ kim xà thiết tỏa

Cách yểu thọ ở trẻ con, cách tính các giờ kim xà thiết tỏa, giờ tướng quân, bàng giờ, giờ quan sát, giờ diêm vương, giờ dạ đề trong lá số tử vi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách yểu mệnh ở trẻ con - Giờ kim xà thiết tỏa

Cách yểu mệnh ở trẻ con - Giờ kim xà thiết tỏa

Cách yểu mệnh ở trẻ con (kim xà thiết tỏa, bàng giờ, giờ quan sát, giờ tướng quân, giờ diêm vương, giờ dạ đề):

Giờ kim xà: Phạm giờ kim xà, triển vọng của đứa trẻ rất bấp bênh. Cho dù có sống cũng hết sức khó nuôi vì đau yếu luôn luôn. Nếu Bản Mệnh đứa trẻ bị cha (hay mẹ) khắc hành, thì càng khó sống.

Cách tính giờ kim sà rất phức tạp:

- dùng cung Tuất, kể là năm Tý, đếm theo chiều thuận đến năm sinh;

- đến cung nào, kể cung đó là tháng giêng, đếm theo chiều nghịch đến tháng sinh;

- đến cung nào, kể cung đó là mùng một, đếm theo chiều thuận đến ngày sinh;

- đến cung nào, kể cung đó là giờ Tý, đếm theo chiều nghịch đến giờ sinh thì dừng lại ở cung này.

Nếu là trai, mà cung này là cung Thìn hoặc cung Tuất thì phạm giờ kim sà. Còn nếu cung này là cung Sửu hay Mùi thì phạm vào bàng giờ.

Nếu là gái, mà cung này là cung Sửu hoặc Mùi thì phạm giờ kim xà, còn nếu rơi vào cung Thìn hay Tuất thì chỉ phạm bàng giờ.

Trong các trường hợp phạm giờ kim xà, trai hay gái, dễ yểu trước 13 tuổi. Còn nếu chỉ phạm bàng giờ thì có cơ may tồn tại, nhưng sẽ hết sức khó nuôi. Tuy nhiên, nếu Bản Mệnh đứa trẻ bị Bản Mệnh người mẹ hoặc người cha khắc thì ít hy vọng, đứa nhỏ sẽ có thể yểu, sau nhiều lần đau yếu. Tuy nhiên, trong trường hợp có hy vọng tồn tại, còn phải xem thêm các sát tinh thủ Mệnh đứa trẻ để quyết đoán cho chắc chắn.

Giờ quan sát: Phạm giờ quan sát, trẻ con hoặc hay đau yếu, hoặc bị tai nạn bất ngờ đe dọa sinh mệnh. Cách tính chỉ dựa theo giờ, tháng sinh theo bảng dưới đây:

 Tháng Sinh  Giờ Quan Sát
 1  tỵ
 2 ngọ 
 3 mùi 
 4 thân 
 5 dậu 
 6 tuất 
hợi 
tí 
sửu 
10  dần 
11  mão 
12  thìn 

Cần lưu ý rằng tai nạn sơ sinh có ảnh hưởng sâu rộng đến tính nết đứa trẻ. Thông thường, tai nạn đó khiến đứa trẻ sau này rất ngỗ ngược, liều lĩnh, ngang tàng.

Giờ tướng quân: Phạm giờ này, trẻ hay bị bệnh, đặc biệt là ghẻ lở và thần kinh không quân bình, thẻ hiện bằng tính khóc hoài không nín, khóc rất dai. Tuy nhiên, tính mạng đỡ lo, có hy vọng tồn tại nhiều hơn hai giờ kim sà và quan sát. Cách tính giờ tướng quân theo mùa và giờ sinh theo bảng dưới đây: 

 Mùa sinh  Giờ Tướng Quân
 Xuân: 1-1 tới 30 tháng 3  Thìn - Tuất - Dậu
 Hạ: 1-4 tới 30 tháng 6  Tý - Mão - Mùi
 Thu: 1-7 tơi tháng 9  Dần - Ngọ - Sửu 
 Đông: 1-10 tới 30 tháng 2  Thân - Tỵ - Hợi 

Giờ Diêm vương: Phạm giờ này, trẻ con thường có nhiều chứng dị kỳ, như hay giật mình, hốt hoảng, trợn mắt, lè lưỡi, hầu như bị một ám ảnh nào lớn lao trong tâm trí mà đứa trẻ cơ hồ như ý thức được. Cách tính giờ Diêm vương theo tháng và giờ sinh như sau: 

 Mùa sinh  Giờ Diêm Vương
 Xuân: 1-1 tới 30 tháng 3  Sửu - Mùi
 Hạ: 1-4 tới 30 tháng 6  Thìn - Tuất
 Thu: 1-7 tơi tháng 9  Tý - Ngọ
 Đông: 1-10 tới 30 tháng 2  Mão - Dậu

Giờ dạ đề: Phạm giờ này, trẻ chỉ hay khóc về đêm. Cách tính cũng dựa theo tháng và giờ sinh âm lịch:

 Mùa sinh  Giờ Dạ Đề
 Xuân: 1-1 tới 30 tháng 3  Ngọ
 Hạ: 1-4 tới 30 tháng 6  Dậu
 Thu: 1-7 tơi tháng 9  Tý
 Đông: 1-10 tới 30 tháng 2  Mão

Trường hợp Mệnh Không, Thân Kiếp: cho dù cả hai sao đắc địa cũng nguy kịch đến tính mạng, nhất là cung Mệnh hoặc cung Thân có Thiên Đồng, Thiên Lương hoặc Phá Quân tọa thủ, cho dù có cát tinh nào tốt đi cùng cũng vậy. Càng có thêm hung tinh, hao tinh, bại tinh, hình tinh, càng chắc yểu. Cung Phúc ở đây không quan trọng vì đối với trẻ mới sinh, 1 tuổi thì xem cung Mệnh. Dù Phúc có tốt cũng không đỡ nổi vì cung Phúc chỉ ứng vào 5 tuổi.

Trường hợp Mệnh Kiếp, Thân Không: Gặp Thiên Đồng hoặc Thiên Lương hoặc Phá Quân ở Mệnh hay Thân hội với Kiếp, Không thì yểu. Ngoài ra, nếu Mệnh vô chính diệu mà có Đào, Hồng và sát tinh khác hội tụ thì cũng chết non hoặc yểu sinh.

Trường hợp xung khắc Bản Mệnh với người mẹ: Nếu Bản Mệnh của Mẹ khắc Bản Mệnh con sơ sinh thì càng nguy kịch cho đứa trẻ. Nếu gặp thêm hai trường hợp trên thì chắc chắn không thọ. Nếu bị Bản Mệnh người cha khắc, không nguy kịch bằng.

Những xung kỵ khác:

Sinh năm Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu vào bốn giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tối độc.

Sinh năm Dần, Hợi, Tỵ vào giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi thì khắc cha, cha chết trước lúc con còn nhỏ tuổi nhưng nếu qua 16 tuổi mà chưa mồ côi cha thì sự hình khắc đó coi như tiêu tán và cha con có thể chung sống lâu dài được.

Sinh năm Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi vào giờ Tý, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu thì khắc mẹ trước.

Ba loại xung khắc này phải được tính chung với ba cung Mệnh, Phúc và Phu để có thêm yếu tố xét đoán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách yểu mệnh ở trẻ con - Giờ kim xà thiết tỏa

Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân, tu vi Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân

Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân, người tuổi Thân có một mối nhân duyên khiến cho rất nhiều người khác phải ngưỡng mộ. Họ thuộc tuýp người nhiệt tình, trầm tĩnh, ổn định nhưng cũng khá bảo thủ. Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân

Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân

Xem bói nữ giới tuổi Thân là những người rất ghét bị bó buộc trong cuộc sống. Vì vậy, sau khi kết hôn, họ vẫn yêu cầu người chồng cho mình có một cuộc sống tự do, không cam chịu chỉ là một người phụ nữ của gia đình và cũng không thể chịu đựng được việc cả ngày chỉ loanh quanh với công việc nhà, với chồng, với con. Họ thích tham gia vào các hoạt động, công việc trong xã hội để cuộc sống có nhiều ý nghĩa hơn.

Nữ giới tuổi Thân không giỏi trong việc sắp xếp kinh tế trong gia đình. Họ cũng không thể làm tốt được những công việc khác như dọn dẹp, lau chùi hoặc giặt quần áo. Thậm chí, đôi khi họ sẽ đẩy hết những công việc nhà đó cho chồng. Tuy nhiên, họ lại rất biết cách giáo dục con cái và luôn tự tin rằng mình có thể dạy dỗ chúng trở thành những đứa trẻ giỏi giang, thông minh, hoạt bát.

Trên phương diện tình yêu, người tuổi Thân có một mối nhân duyên khiến cho rất nhiều người khác phải ngưỡng mộ. Họ thuộc tuýp người nhiệt tình, trầm tĩnh, ổn định nhưng cũng khá bảo thủ. Cuộc sống vợ chồng không xảy ra những cơn bão lớn, tuy vẫn có những đợt sóng nhỏ nổi lên nhưng cuối cùng, mọi chuyện vẫn sẽ trở nên tốt đẹp.

Người tuổi Thân thường có cuộc sông gia đình ấm êm, hạnh phúc. Họ cũng luôn đối xử chân thành, hiền hòa với những người khác. Họ cũng luôn biết trân trọng những tình cảm đã có giữa hai vợ chồng, hai người tương thân tương ái và sẽ chung sống với nhau cho đến đầu bạc răng long. Tuy nhiên, họ vẫn luôn mong muốn người bạn đời của mình sẽ ủng hộ những ý kiến của mình trong mọi việc.

2.  Đối tượng kết hôn của người tuổi Thân

Trong xem tuổi vợ chồng, người tuổi Thân giống như những đứa trẻ ngây thơ mà cũng rất đỗi trưởng thành. Họ luôn chu đáo, tận tâm với những người khác, nhưng vì tình cảm không ổn định nên rất khó tìm được hạnh phúc đích thực cho mình. Quan hệ với những người bạn khác giới của họ cũng không mấy lý tưởng vì họ có quá nhiều bạn khác giới, lại luôn trong tư thế tấn công vội vàng.

Với nữ giới tuổi Thân thì cơ hội có tình yêu thường đến với họ từ khá sớm. Sau khi đã hiểu hết mọi điều về tình yêu, họ thường yêu đối phương một cách toàn tâm toàn ý chân thành và nồng nhiệt nhất. Họ có một linh tính khiến cho những người khác khó quên được. Trong cuộc sống hàng ngày, họ cũng luôn nở nụ cười và thường là nhân vật trung tâm thu hút sự chú ý của đám đông.

Đường tình yêu hôn nhân của nam giới tuổi Thân với các tuổi khác

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Tý: Đây quả là một cặp trời sinh. Hai người sẽ thương yêu và sống hạnh phúc bên nhau suốt đời.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Sửu: Tình yêu giữa hai người rất hòa hợp. Người vợ sẽ rất yêu chồng; người chồng thông minh thì luôn biết cách giải tỏa hết những mâu thuẫn trong gia đình để luôn cảm thấy vui vẻ, thoải mái và hạnh phúc.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Dần: Người chồng tuổi Thân nên chủ động chia sẻ những ý kiến của mình để tạo điều kiện cho người vợ tuổi Dần bộc bạch những suy tư ẩn dấu ở trong lòng. Nếu người vợ không thể thổ lộ những suy tư đó thì dễ rơi vào tình trạng chán nản, mệt mỏi trong cuộc sống.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Mão: Hai người có thể cùng nhau xây dựng nên một gia đình nhỏ hanh phúc. Cùng tìm ra mục đích để phấn đấu, để cùng nhau gây dựng thì sẽ có được thành quả lớn lao.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Thìn: Hai ngưòi có thể chung sống với nhau. Người đàn ông rất có sức thu hút đối với người phụ nữ. Và tuy đôi khi cảm thấy thất vọng nhưng họ cũng sẽ không để lộ cho người khác biết cảm giác đó của mình.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Tỵ: Hai người có thể cùng nhau xây dựng nên một gia đình hạnh phúc mỹ mãn, với điều kiện người đàn ông phải có tình cảm thực sự trước khi tiến tới hôn nhân với người phụ nữ tuổi Tỵ

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Ngọ: Hai người có suy nghĩ rất tốt về nhau. Tình cảm của người vợ thì trong sáng còn người chồng rất đỗi yêu thương và chăm lo cho gia đình.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Mùi: Hai người có thể sống bên nhau. Người vợ có thể khơi dậy những hứng thú của chồng, nhưng ngưòi chồng cũng cần phải cố gắng tạo lập sự nghiệp để giúp vợ thực hiện những ước muốn của mình.

 

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Thân: Hai người khá hợp nhau, cả hai có thể làm chung một công việc đó. Chính công việc này sẽ mang lại niềm vui và củng cố để cuộc hôn nhân giữa hai người ngày càng trở nên tốt đẹp hơn.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Dậu: Người chồng cho dù thật sự yêu thương người vợ nhưng cần phải học hỏi để biết cách thể hiện tình yêu này ra bên ngoài. Tạo dựng niềm tin cho người vợ mình là một chỗ dựa vững chắc cho người phụ nữ tuổi Dậu.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Tuất: Cả hai cần khoan dung và nhẫn nhịn lẫn nhau thì mới mong có  kết quả tốt đẹp. Đôi lúc, người vợ sẽ không thể hiểu được những suy nghĩ của người chồng cho nên người tuổi Thân phải biết cách chia sẻ tâm tư của mình để tin tưởng và hiểu nhau hơn.

- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Hợi: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Cả hai luôn biết cách để đối phương cảm thấy vui vẻ, thoải mái. Tình yêu, hôn nhân của họ luôn tràn ngập những niềm vui và tiếng cười.

Đường tình yêu hôn nhân của nữ giới tuổi Thân với các tuổi khác

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Tý: Hai người có thể sống vui vẻ bên nhau. Rất có thể người chồng sẽ có đôi lúc làm cho vợ phải buồn lòng, nhưng anh ta cũng luôn nhận được sự tha thứ thông cảm từ vợ. Điều này khiến người chồng rất cảm động và làm cho cuộc sống vợ chồng càng thêm hạnh phúc.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Sửu: Hai ngưòi có thể chung sống với nhau. Người chồng sẽ yêu vợ tha thiết, sẵn sàng hy sinh, nhượng bộ tất cả vì vợ của mình.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Dần: Tuy việc chung sống của hai người là không hể dễ dàng, nhưng thực sự tình yêu của hai người là chân thành. Nếu bỏ qua cái tôi cá nhân hơn, biết tôn trọng và lắng nghe nhau nhiều hơn thì chắc chắn cuộc hôn nhân này ai cũng muốn có.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Mão: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân rất hạnh phúc. Cả hai người luôn cảm thấy vui vẻ, thoải mái mỗi khi được ỏ bên nhau.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giói tuổi Thìn: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Người chồng biết cách bảo vệ cho vợ, còn người vợ thì luôn biết cách đưa ra những ý kiến và lời khuyên chân thành, hữu ích cho người chồng đầy tự tin của mình.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Tỵ: Cuộc sống hòa thận, ít tranh cãi hay mâu thuẫn lớn. Hai vợ chồng không có sự khác biệt nhau nhiều về sở thích và quan niệm sống do đó tương đối bình yên trong hôn nhân.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Ngọ: Thực tế cuộc sống có thể kéo hai người ở lại bên nhau cho dù có chuyện gì xảy ra. Rõ ràng có một sự gắn bó nào đó mà bản thân hai người phải tự mình tìm hiểu và cảm nhận về nhau.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Mùi: Không ít người mơ ước cuộc sống của cặp đôi này vì trong tình yêu họ nồng cháy nhưng trong hôn nhân họ rất êm đềm và trôi lắng.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Thân: Hai người có thể sông bên nhau và cùng nhau làm được nhiều việc rất có ý nghĩa.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Dậu: Người vợ có thể có được rất nhiều điều tốt đẹp do người chồng mang lại. Người chồng luôn biết rằng tình yêu của người vợ đối với mình là chân thành và tận tụy.

 

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Tuất: Có thể hai người sẽ rất hợp nhau vì cả hai đều không thích huyễn hoặc và luôn chú trọng đến thực tế.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Hợi: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân vô cùng hạnh phúc. Người vợ ngưỡng mộ tài năng của người chồng còn người chồng thì luôn cố gắng để đáp ứng được hết những yêu cầu của vợ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói tình duyên vợ chồng người tuổi Thân - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

13 mẹo đơn giản để nhà bếp hợp phong thủy

Không phải đi hỏi những người bậc thầy, bạn cũng có thể đảm bảo nhà bếp hợp phong thủy bằng những cách đơn giản nhất nhưng cũng rất quan trọng sau.
 13 mẹo đơn giản để nhà bếp hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không phải đi hỏi những người bậc thầy, bạn cũng có thể đảm bảo phong thủy cho nhà bếp bằng những cách đơn giản nhất nhưng cũng rất quan trọng sau.

  Bếp là nơi nấu những món ăn ngon, bổ dưỡng, mang lại cho bạn và gia đình bạn năng lượng làm việc mỗi ngày. Khó có thể bỏ qua phong thủy cho nhà bếp vì nơi đây có nhiều năng lượng hỏa nên nó liên quan trực tiếp tới sức khỏe, tiền bạc của từng thành viên trong gia đình. Ai cũng dễ dàng nhận ra rằng kiểm soát yếu tố hỏa là điều có lợi vì một ngọn lửa vô ý cũng có thể phá hủy mọi thứ mà nó đi qua. Điều này cũng đúng cho "yếu tố hỏa” trong nhà bếp.  
 
Nhà bếp đúng phong thủy là nhà bếp có thể hạn chế những năng lượng tiêu cực đồng thời, tăng cường năng lượng tích cực trong nhà. Năng lượng tích cực này lan rộng vào căn nhà của bạn làm các thành viên sống hạnh phúc, khỏe mạnh và lạc quan hơn. Do đó, điều quan trọng là luôn luôn phải đảm bảo phong thủy cho nhà bếp của bạn.  
 

13 điều nên làm:

  1. Bếp phải được bố trí phía sau cửa nhà.
 
2. Phải luôn giữ cho nhà bếp luôn sạch sẽ và gọn gàng.
 
3. Nhà bếp phải sáng sủa và thoáng khí.
 
4. Khi đứng nấu trong nhà bếp mặt bạn phải hướng về phía Đông.
 
5. Hãy bố trí cửa sổ ở phía Đông hoặc phía Tây của nhà bếp.
 
6. Hãy đảm bảo để những đồ vật có trọng lượng nhẹ ở phía Đông và Bắc phòng bếp.
 
7. Bạn có thể có bồn rửa ở phía Bắc hoặc Đông Bắc của căn bếp.
 
8. Bếp phải để cách tường vài centimet.
 
9. Giữ khoảng cách giữa bếp lửa và bồn rửa tay ít nhất 50-60 cm. Nếu không cách nào khác có thể đặt cây, bình trồng rau thơm hoặc cái gì đó màu xanh lá ở giữa bếp và bồn rửa. 
 
10. Những điều trên cũng áp dụng cho tủ lạnh đặt trong bếp; cũng phải giữ khoảng cách 50-60 cm giữa bếp và tủ lạnh.
11. Sửa chữa tất cả các vòi nước bị rò rỉ trong nhà bếp (hoặc bất cứ nơi nào trong nhà của bạn) vì điều này đồng nghĩa với việc nhà bạn bị thất thoát hết tiền, của cải.
 
12. Nếu bếp đủ rộng, có thể đặt bàn ăn ở phía Tây Bắc hoặc phía Tây của bếp.
 
13. Nên dùng màu vàng, cam, hồng, sôcôla hoặc màu đỏ làm màu sàn và tường của nhà bếp.
 
 
 

13 điều cần tránh:


1. Tránh đặt bếp gần cửa chính.
 
2. Tránh bếp ở giữa nhà.
 
3. Không bao giờ bố trí bếp dưới nhà vệ sinh. 
 
4. Tránh bếp để bếp dưới phòng ngủ.
 
5.Tránh để đồ đạc và nền nhà bếp bẩn qua đêm.
 
6. Không bao giờ được xây bếp ở phía Tây Bắc ngôi nhà. Nếu không còn cách nào khác thì sơn nhà bếp bằng màu xanh lam hoặc màu đen hoặc thay đổi gạch lát nền sang màu đen.
 
7. Không bao giờ để bếp trực tiếp lối vào cửa nhà bếp.
 
8. Tuyệt đối không để bếp ga ở phía Tây Bắc của căn bếp.
 
9. Tránh cửa nhà bếp đối mặt với phòng ngủ, nhà vệ sinh hoặc cửa chính; Nếu không còn cách khác có thể đặt cái gì đó làm phân vùng sao cho từ bếp không nhìn thấy được các cửa ra vào khác.
 
10. Tránh để bếp nầu nằm dưới xà ngang; Nếu không có lựa chọn nào khác thì làm một trần giả để hóa giải lỗi này. Cách khác đơn giản hơn rẻ hơn là đặt hoặc treo tranh đám mây, chim bay phía trên xà nhà.
 
11. Đảm bảo rằng người đứng nấu không quay lưng của mình về phía cửa bếp; Nếu phạm phải thì đặt một tấm gương như thế nào đảm bảo người nấu có thể nhìn thấy cửa nhà bếp trong khi nấu nhưng lửa bếp không được phản chiếu trong gương. 
 
12. Lối vào bếp không nằm ở góc nào của ngôi nhà.
 
13. Người đứng nấu mặt không được hướng về phía Tây vì nếu không người này sẽ có vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe. Nếu người nấu đối mặt với phía Nam trong khi nấu thì gia đình phải đối mặt với tổn thất về tiền bạc.
 
Đây là tất cả các nguyên tắc chung mà bạn phải làm theo để có một nhà bếp hợp phong thủy. Tất cả những gì bạn cần bây giờ là áp dụng các mẹo trên cho nhà bếp và cảm nhận những thay đổi tích cực sẽ xảy ra trong cuộc sống của bạn.

HaTra

Lưu ý phong thủy cho từng loại phòng ngủ để hạnh phúc viên mãn 19 điều nên và không nên đối với phong thủy phòng ăn Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi phát tài phát lộc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 13 mẹo đơn giản để nhà bếp hợp phong thủy

Những chàng trai khiến phái nữ ‘tự đổ’ mà không cần ‘cưa’ –

Con giáp nào khiến phải nữ tự đổ không cần tán? Những người này họ biết nắm bắt tâm tư tình cảm và suy nghĩ của phái đẹp, khiến các nàng cứ gọi là thi nhau 'đổ đứ đừ' mà... chẳng cần 'cưa'. Các bạn đang thắc mắc những chàng trai đang nói đến là những

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con giáp nào khiến phải nữ tự đổ không cần tán? Những người này họ biết nắm bắt tâm tư tình cảm và suy nghĩ của phái đẹp, khiến các nàng cứ gọi là thi nhau ‘đổ đứ đừ’ mà… chẳng cần ‘cưa’. Các bạn đang thắc mắc những chàng trai đang nói đến là những con giáp gì? Để có câu trả lời chúng ta cùng tìm hiểu bài viết sau nhé!

Nội dung

  • 1 Những chàng trai khiến phái nữ ‘tự đổ’ mà không cần ‘cưa’
    • 1.1 Thứ 1: Chàng trai tuổi Tý
    • 1.2 Thứ 2: Chàng trai tuổi Thân
    • 1.3 Thứ 3: Chàng trai tuổi Dần
    • 1.4 Thứ 4: Chàng trai tuổi Ngọ

Những chàng trai khiến phái nữ ‘tự đổ’ mà không cần ‘cưa’

Thứ 1: Chàng trai tuổi Tý

Những anh chàng cầm tinh con giáp này thường hiểu biết, có tài ăn nói, đặc biệt là khả năng nắm bắt tâm lý người khác vô cùng nhạy bén. Người tuổi Tý nói chuyện như rót mật vào tai khiến các nàng phải mê mẩn.

ty-1669-1408588549

Họ còn có khả năng tiếp cận và làm thân với các cô gái một cách tự nhiên. Bởi vậy họ không cần phải chủ động tán tỉnh, các nàng tự “xiêu lòng” lúc nào không hay.

Thứ 2: Chàng trai tuổi Thân

Tính cách điềm tĩnh, thông minh, hài hước và ga lăng là điểm nổi bật và dễ nhận thấy ở những chàng trai tuổi Thân. Họ biết cách nâng niu, chiều chuộng phái yếu như công chúa.

than-6789-1408588549

Đôi khi hành động đơn giản như mở cửa trước khi vào quán ăn, kéo ghế ngồi cho bạn gái, xách đồ giúp khi thấy con gái bê nặng của người tuổi Thân cũng đủ để lại ấn tượng tốt trong mắt các nàng.

Thứ 3: Chàng trai tuổi Dần

Người tuổi Dần thường tính cách mạnh mẽ, tư duy nhạy bén và biết cảm thông, chia sẻ với mọi người. Trong mắt phái nữ, những chàng trai tuổi Dần có vẻ đẹp kiểu “trong nóng ngoài lạnh”. Lớp ngoài trái tim ấm áp là vỏ bọc lạnh lùng, có vẻ như xa cách và bí ẩn khiến các nàng phải tò mò và muốn tìm hiểu.

dan-3693-1408588549

Teen girl sẽ dễ tò mò và khát khao chinh phục nếu đã cảm nắng một anh chàng tuổi Dần. Chỉ cần nhìn thấy nụ cười tươi rói xuất hiện trên miệng chàng trai này, các bạn nữ sẽ ngất ngây vì sung sướng, coi đó như tín hiệu mà chàng đã bật đèn xanh cho mình.

Thứ 4: Chàng trai tuổi Ngọ

Bản tính chân thành và kiên định của chàng trai tuổi Ngọ tạo cảm giác ấm áp và tin tưởng cho phái đẹp. Nó là nền tàng cho một mối quan hệ lâu dài và bền chặt. Đôi khi, sự chân thật ấy còn pha chút ngốc nghếch, dễ thương khiến các cô nàng cá tính hứng thú và muốn chinh phục.

ngo-4531-1408588549

Trong cuộc sống hiện nay, mẫu hình những anh chàng chân thật dường như đang rơi vào tình trạng “tuyệt chủng” nên thường được mến mộ hơn là những “chàng cáo”. Bởi họ mang lại cảm giác an tâm tuyệt đối cho nữ giới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chàng trai khiến phái nữ ‘tự đổ’ mà không cần ‘cưa’ –

Lễ Tế Ngu (Văn khấn trong tang lễ)

Văn khấn Lễ Tế Ngu (văn khấn trong tang lễ) là lễ ba ngày sau khi mất hoặc ba ngày sau khi chôn cất xong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Ý nghĩa:

Lễ ba ngày sau khi mất hoặc ba ngày sau khi chôn cất xong

2. Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

- Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương

- Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân

- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ.

Hôm nay là ngày…….tháng……..năm……….

Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………

Vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.

Nay nhân ngày lễ Tế Ngu theo nghi lễ cổ truyền,

Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.

Trước linh vị của: Hiển……………..chân linh

Xin kính cẩn trình thưa rằng:

Than ôi! Trên tòa Nam cực, lác đác sao thưa; (nếu khóc cha hoặc đổi là Bắc vụ nếu khóc mẹ).

Trước chốn Giao trì, tờ mờ mây khóa.

Cơ tạo hóa làm chi ngang ngửa thế, bóng khích câu, khen khéo trêu người.

Chữ cương thường nghĩ lại ngậm ngùi thay, tình hiếu đễ chưa yên thỏa dạ.

Ơn nuôi nấng áo dày cơm nặng, biển trời khôn xiết biết công lao;

Nghĩ sớm hôm ấp lạnh quạt nồng, tơ tóc những hiềm chưa báo quả;

Ngờ đâu! Nhà Thung (nếu là cha hoặc Nhà Huyên nếu là mẹ) khuất núi, trời mây cách trở muôn trùng;

Chồi Tử mờ sương, âm dương xa vời đôi ngả.

Trông xe hạc lờ mờ ẩn bóng, cám cảnh cuộc phù sinh chưa mấy, gót tiên du đã lánh cõi trần ai.

Rồi khúc tằm. áy náy trong lòng, thương thay hồn bất tử về đâu, cửa Phật độ biết nhờ ai hiện hóa.

Suối vàng thăm thẳm, sáng phụ thân (hoặc mẫu thân) một mình lìa khơi,

Giọt ngọc đầm đìa, đàn con cháu, hai hàng lã chã.

Lễ Sơ Ngu (hoặc Tái Ngu, Tam Ngu) theo tục cổ, trình bày:

Nhà đơn bạc, biết lấy gì để dóng dả.

Đành đã biết: đất nghĩa trời kinh, nào chỉ ba tuần nghi tiết, đủ lễ báo đền

Cũng gọi là: lưng cơm chén nước, họa may chín suối anh linh, được về yên thỏa

Ôi! Thương ôi!

Chúng con lễ bạc tâm thành, thành tâm kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.

Kính cáo!

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Tế Ngu (Văn khấn trong tang lễ)

Nhận diện nét tướng phụ nữ có số sướng

Đâu là nhứng nét tướng phụ nữ có số sướng? Sở hữu một trong những đặc điểm tướng cách dưới đây, bạn hoàn toàn có thể tự hào bởi đó là dấu hiệu của cuộc sống
Nhận diện nét tướng phụ nữ có số sướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sở hữu một trong những đặc điểm tướng cách dưới đây, bạn hoàn toàn có thể tự hào bởi đó là dấu hiệu của cuộc sống giàu sang, sung sướng.


1. Hai cằm
 
Trong Nhân tướng học, cằm được coi là kho tiền tài của người phụ nữ, cằm càng dày dặn, tròn đầy thì càng nhiều tiền của.
 
Những phụ nữ có hai cằm thường có số mệnh sung sướng, cuộc sống vật chất đầy đủ, gia đình hạnh phúc. Hơn thế, tướng phụ nữ có số sướng này còn trợ giúp đắc lực cho sự nghiệp của chồng.

Net tuong o phu nu co menh suong hinh anh
Ảnh minh họa
 
2. Mắt đẹp

Đôi mắt đẹp ở đây ý chỉ ánh mắt có thần sắc, lông mày dài và mỏng, lông mi cong. Phụ nữ có tướng mắt đẹp dễ được nhiều người yêu mến, cuộc sống yên bình, hạnh phúc.
 
Nếu thêm đặc điểm đôi mắt to thì nhìn càng có sức sống hơn. Nhờ đôi mắt đẹp này mà những mối quan hệ xã giao của họ hài hòa hơn, khi làm việc gì cũng được quý nhân trợ giúp nên đều thuận buồm xuôi gió.

3. Trán cao, rộng và nhẵn
 
Đa phần nữ giới có trán cao rộng và nhẵn đều được gả vào nhà giàu sang, quyền quý. Bản thân tướng phụ nữ có số sướng này vốn cũng rất thông minh và tài hoa nên cuộc sống luôn thuận lợi, hưởng vinh hoa phú quý suốt đời.
 
4. Mũi tròn đầy
 
Chiếc mũi tròn đầy là biểu hiện của tiền tài, sự nghiệp phát triển thuận lợi. Phụ nữ có tướng mũi tròn đầy thường cũng có nhân duyên tốt, có chí tiến thủ và tài quản lí tiền bạc nên có duyên làm lãnh đạo, hưởng cuộc sống giàu sang, phú quý.

5. Đôi tai hồng hào, rủ xuống vai
 
Theo Nhân diện học, tai hồng mà nhuận là tướng người có công danh, địa vị. Nữ giới có đôi tai hồng pha lẫn trắng ngà hoặc tai có đường nét cong tròn là tướng phú quý, được hưởng cuộc sống an nhàn.
 
Ngoài ra, nếu đôi tai rủ xuống vai và hướng về miệng thì lại là tướng phú quý vô cùng. Ngay từ khi sinh ra người này đã có cuộc sống sung sướng, lớn lên mọi sự đều thuận lợi, viên mãn.
 
6. Xương gò má cao vừa phải
 
Tướng phụ nữ có số sướng có xương gò má cao vừa phải luôn tháo vát trong công việc, biết cách quán xuyến gia đình sao cho trong ấm ngoài êm. Do đó, cuộc sống gia đình của người này thường hạnh phúc, không phải trải qua quá nhiều sóng gió.
 
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

ST
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện nét tướng phụ nữ có số sướng

Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

Quan lại, những người giàu có ngày xưa thường sở hữu khối tài sản khổng lồ, một kho báu giá trị vô cùng lớn. Để bảo vệ của cải khỏi sự nhòm ngó của những tay
Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trộm và tai mắt người xung quanh, họ thường chọn một nơi kín đáo để giấu chúng. Họ chọn một mảnh đất tốt, chôn của cùng với một “trinh nữ” làm thần giữ cửa với mong muốn kho báu đó bất khả xâm phạm. 


Với những quy tắc tâm linh kì dị cùng giá trị tại sản cực lớn chôn theo nên những người làm lễ đặc biệt cẩn trọng trong khâu lựa chọn thần giữ cửa và quá trình chuẩn bị cho buổi lễ. Gia chủ mời một thầy phù thủy cao tay, am tường thiên văn, địa lý, lịch pháp, kinh dịch, thậm chí phải giỏi cả nghề thuốc để chủ trì buổi lễ. Đặc biệt, đây phải là người mà gia chủ tuyệt đối tin tưởng giao phó cho bí mật lớn này. Theo sự chỉ dẫn của thầy phù thủy, gia chủ tìm một mảnh đất tốt, hợp tuổi, nhiều linh khí và phải có vận chuẩn. Kế đến là chọn một cô gái còn trinh làm vật tế, chôn theo cùng để làm thần giữ của.
 
Buỗi lễ chôn của thường diễn ra ban đêm, lấy bóng trăng làm dấu đưa đường vừa tránh tai mắt người đời, vừa thuận lợi cho con cháu đời sau đến lấy kho báu ông cha. Bởi giấu của vào thời điểm nào trong năm thì khi lấy cũng phải đúng thời điểm đó. Chôn ngày 14 thì phải lấy ngày 14, lệch đi một ngày, một giờ thì bóng cây, bóng núi đã dịch chuyển sang địa điểm khác.
 
Của chôn đi phải có thần canh giữ để bảo vệ, nên sau đó tiến hành xây hầm mộ cho thần. Của và thần không nhất thiết phải nằm cùng một chỗ, chỉ cần của nằm trong phạm vi ảnh hưởng của thần là được. “Đất có thổ công, sông có hà bá”, khi động thổ thì biện lễ xin phép thổ công, để thần chứng cho mà đồng ý, không thì xây không thành. Cách thức xây dựng hầm mộ phụ thuộc vào nguồn gốc, truyền thống cũng như trình độ của thầy phù thủy. Nhưng mục đích chung vẫn chỉ có một là ngăn chặn những kẻ bên ngoài hóa giải lời nguyền.
 
Những cô gái được chọn làm thần giữ của rất trẻ, từ 13 đến 18 tuổi, có khi chỉ 9, 10 tuổi; đều còn trinh trắng để đảm bảo sự tinh khiết của thần. Những người giàu có thường mua các cô từ khi còn nhỏ rồi nuôi đến lớn hoặc giả cưới những cô gái nghèo khó về làm vợ lẽ, nhưng thực chất là để làm thần giữ của. Cô gái càng xinh đẹp càng tốt, bởi theo quan niệm, càng đẹp thì chết oan càng ấm ức, bùa càng linh nghiệm. Cô gái được chọn được chăm sóc đặc biệt ở một nơi riêng, tuyệt đối không tiếp xúc với đàn ông. Trước khi đưa đi làm lễ, họ được tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm, ăn đồ chay tịnh.   Đến ngày đã chọn, để tránh cô gái chống cự, họ cho uống một loại thuốc gây tê khiến dù vẫn tỉnh táo nhưng không cử động, nói năng được. Cô gái bất động được đưa lên kiệu, khiêng đến căn hầm đã xây dựng sẵn. Lễ bắt đầu, người ta đặt cô nằm trong quan tài, miệng ngậm sâm, phù thủy làm phép để cô sống được đúng 100 ngày mà không cần ăn uống. 
 
Cô gái trẻ trung, xinh đẹp phải sống mòn mỏi trong cảnh chờ chết, rất oan ức, tuyệt vọng, hận thù nên khi chết thành thần giữ của. Chỉ những ai biết thần chú, được thần giữ của cho phép mới được vào. Bất kỳ ai cố tình xâm phạm đều mất mạng hoặc tâm thần điên loạn. Nếu vì lý do gì mà lấy được của cải trong kho thì thần cũng sẽ đeo bám, hành hạ đến khi trả lại thì thôi.

Ky bi phep dung trinh nu lam than giu cua hinh anh
Những cô gái trinh trắng chết oan trở thành thần canh giữ kho báu

Ở Việt Nam có nhiều câu chuyện ly kì mà người ta thường truyền tai nhau về những kho báu có thần giữ của là gái trinh. Nhiều người dân xã Vân Côn, huyện Hoài Đức, Hà Nội kể dưới chân ngôi miếu nằm trên bốn tảng đá trắng ở đỉnh núi Bạch Tuyết có đến hàng tấn vàng bạc châu báu được chứa đầy trong một cái hầm đá rộng bằng gian nhà. Kho báu đó do người Tàu để lại từ hàng ngàn năm trước, nhưng không ai có thể đột nhập để lấy đi bất cứ cái gì vì nó đã được yểm bùa bằng “linh hồn trinh nữ” 13 tuổi và một con rùa ngay cửa hầm. Có người bạo gan hám của, thuê thợ thuyền đào bới, truy tìm, lúc đào thấy một con rùa đang nằm với hàng tấn vàng bạc chói lóa, sáng lòa dưới hố nhưng mang lên chỉ toàn bùn đen đất đỏ. Từ đó, gia đình mấy anh thợ khoán vì cách này hay cách khác đều suy kiệt, đau ốm liên miên. Cũng có người kể lại từng thấy trăn rắn, gà vàng, cóc bạc chui ra từ kẽ đá dưới chân ngôi miếu vào những hôm trời nổi gió, mưa dông.
 
Hay như quá trình tháo dỡ ngôi nhà cổ gần 100 tuổi của cụ Nghị Dong ở làng Si, thị trấn Nam Sách, tỉnh Hải Dương để xây dựng công trình của huyện cũng gặp nhiều chuyện kì quái. Vị cán bộ huyện kí quyết định tháo dỡ ngôi nhà chết bất đắc kì tử, máy xúc thi công chết máy rồi gãy răng ở gầu xúc dù nền đất rất mềm. Khi nhồi cọc bê tông, công nhân phát hiện ra 3 cái chum đựng xác người, máy xúc vào đào nhưng gầu xúc cứ chạm đất là khựng lại. Chủ công trình mời thầy cúng về làm lễ thì thầy cho hay, dưới mảnh đất này có 8 cái chum đựng 8 xác trinh nữ theo trận đồ bát quái để “yểm” long mạch. Vì động vào đất của thần nên thần “vật”, gây cản trở. 
 
Những câu chuyện trên truyền đi khiến người ta tin rằng việc dùng trinh nữ làm bùa chú là có thật và linh thật. Nhưng đó mãi chỉ là những câu chuyện đồn thổi, kể cho nhau nghe, còn thực hư thế nào thì chẳng có ai dám khẳng định. Những điều mà người ta cho là “mắt thấy tai nghe” cũng chỉ qua lời kể của đôi ba người, không rõ đúng sai. Vì thế, dùng trinh nữ làm thần giữ của dẫu có cũng là chuyện của những thế kỉ trước, khi còn mê tín lạc hậu, giờ kể cho nhau nghe như câu chuyện tâm linh rùng rợn mà thôi.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

8 loại cây xanh chiêu vận may nên trồng trang trí nhà bếp

Trồng cây xanh trong phòng bếp không chỉ giúp hài hòa phong thủy mà còn tạo không gian tươi mới, giàu sức sống cho phòng bếp nhà bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cây bạc hà: Đây là loại cây phổ biến vì có nhiều công dụng đối với sức khỏe. Loại cây xanh trong phòng bếp này có tác dụng chữa bệnh, làm đẹp, rất nhiều loại mỹ phẩm có công thức từ bạc hà. Ngoài ra những chiết xuất tinh dầu bạc hà cũng được sử dụng phổ biến, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

8 loai cay xanh chieu van may nen trong trang tri nha bep - Anh 2

Húng quế: Cây húng tây hay còn có tên gọi khác là húng quế. Đây là loại cây gia vị có vị hơi cay cay, hơi ngọt, hợp với những món ăn đi kèm với cà chua như súp, salad, pizza. Húng quế làm cho món ăn có vị tươi mát.

8 loai cay xanh chieu van may nen trong trang tri nha bep - Anh 3

Cây xô thơm: Đây là loại cây mang đặc tính thảo dược có thể chữa được một số bệnh đau cổ họng, tiêu hóa kém,... Cây xô thơm được sử dụng trong ẩm thực vì có hương vị nồng ấm và có vị cay nhẹ, có pha chút đắng, với hương thơm hoang dại và man mát.

8 loai cay xanh chieu van may nen trong trang tri nha bep - Anh 4

Cây hương thảo: Là loại cây có khả năng làm giảm stress, đuổi muỗi, làm gia vị, chế biến mỹ phẩm,… Ngoài ra, cây hương thảo còn được biết đến như loại cây cảnh bởi vóc dáng nhỏ gọn và nhiều công dụng.

8 loai cay xanh chieu van may nen trong trang tri nha bep - Anh 5

Cây phất dụ: Trong phong thủy nhà bếp thì đây chính là loại cây mang đến sự may mắn cho gia chủ cũng như toàn thể thành viên trong gia đình. Cây phất dụ thường được gọi là cây phát tài, loài cây này có lá xanh quanh năm. Theo phong thủy nhà bếp thì loại cây này nên trồng ở hướng Đông hoặc Đông Nam của ngôi nhà, chỉ nên trồng trong một chậu nhỏ.

8 loai cay xanh chieu van may nen trong trang tri nha bep - Anh 6

Lan quân tử: Đây là loại cây mang biểu tượng cho sự văn minh và giàu có. Loại cây này hoa của nó thưởng nở vào khoảng tết dương lịch cho đến hết tết âm lịch. Một đặc điểm rất thú vị của loại cây là nó có thể cảm nhận được hòa khí trong gia đình của bạn. Nếu như gia đạo của nhà bạn bất hòa, xích mích, hoặc đang ở trong giai đoạn bị vận hạn thì tuyệt đối nó không nở hoa. Nhưng khi gia đạo hưng thịnh, không khí trong gia đình vui vẻ hoặc sắp có niềm vui thì nó sẻ nở hoa bảo trước.

8 loai cay xanh chieu van may nen trong trang tri nha bep - Anh 7

Hồng vận đương đầu: Đây là loại cây thuộc họ nhà Dứa cảnh với nhiều độ lớn nhỏ, màu sắc cũng như hình thái khác nhau. Loại này có lá khá sum sê, hoa của nó mọc ở thân cây hoặc trên đỉnh, hoa nở vào 2 mùa là đông và xuân. Ý nghĩa của loại cây này mang đến sự an vui, may mắn và thịnh vượng.

8 loai cay xanh chieu van may nen trong trang tri nha bep - Anh 8

Tiên khách lai: Đây là loại cây được mệnh danh là vua của các loài hoa trồng trong chậu. Hoa có ý nghĩa chỉ sự may mắn, chào đón khách quý và .


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 loại cây xanh chiêu vận may nên trồng trang trí nhà bếp

12 chòm sao nữ với những tính cách không lạc đi đâu được

Để thấu hiểu và chiều lòng những người phụ nữ xung quanh bạn như bạn gái, em gái hay mẹ thì nhất định phải đọc vị 12 chòm sao nữ thông qua những nét tính cách
 12 chòm sao nữ với những tính cách không lạc đi đâu được

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đặc trưng của họ được kể sau đây.    

Cung Bạch Dương nữ
 

Những người phụ nữ cung Bạch Dương thích di chuyển và đây là lý do bạn bè thân thiết của họ là những người có lối sống năng động giống Bạch Dương. Họ không chịu đựng được những người chậm chạp, ù lì và cũng không thích ở một nơi quá lâu. 
 
Thích thay đổi là thế nhưng phụ nữ cung Bạch Dương là người bạn chân thành, người tình chung thủy. Họ thích là người kiểm soát những mối quan hệ này bằng sự nhiệt tình và vô cùng nhiệt huyết của mình. 
 
Luôn chủ động và tràn đầy đam mê là đặc điểm dễ thấy của những cô nàng cung Bạch Dương. Đối với họ, sự độc lập đồng nghĩa với hạnh phúc. Họ không chịu được sự gò bó hay có ai đó kiểm soát, chỉ bảo họ. Và đó là lý do họ thường trốn tránh việc kết hôn cho tới thời điểm việc đó là thực sự cần thiết.

Xem thêm: Những mặt tối cung Bạch Dương muốn giấu cũng không được
 
tinh cach 12 chom sao nu (1)
 
 

Cung Kim Ngưu nữ

  Đối với những người phụ nữ cung Kim Ngưu, gia đình là điều vô cùng quan trọng đối với họ và họ sẽ cố làm mọi thứ như chuẩn bị bữa ăn ngon, nhà cửa sạch sẽ để đảm bảo một cuộc sống gia đình ấm êm, thuận hòa. Họ là những người chăm chỉ và sống hết mình cho bạn bè và gia đình. 
 
Kim Ngưu sáng tạo, lãng mạn, sống thiên về cảm xúc. Cô ấy cũng khá độc lập và muốn cuộc sống diễn ra theo cách riêng của mình. Họ cũng luôn giữ tinh thần lạc quan nên mỗi lần gặp họ bạn dều thấy họ tươi cười vui vẻ.   

Cung Song Tử nữ

  Phụ nữ cung Song Tử thực sự là người phức tạp. Họ là con người kết hợp giữa sự thông minh, giỏi giao tiếp, sống khao khát, nhờ đó, điều đó mang lại cho họ tinh thần chiến đấu rất cao, sẵn sàng đối mặt với những trở ngại và những cuộc phiêu lưu. 
 
Những cô nàng cung Song Tử rất tò mò và luôn mong muốn tìm hiểu những điều mới lạ. Để đi tìm những kiến thức mới, họ ham mê đọc sách.
Họ dễ bị thay đổi cảm xúc hơn bất kỳ ai trong bất kỳ 12 cung hoàng đạo nữ. Họ luôn sẵn sàng đi du lịch hoặc học một ngôn ngữ cũng như những kỹ năng mới.
   
tinh cach 12 chom sao nu (4)
 

Cung Cự Giải nữ

  Cự Giải rất biết cách xử sự với những người khó tính hay giải quyết những vấn đề khó khăn. Cô ấy có thể là một người phụ nữ rất cảm xúc, nhưng đồng thời cô ấy là một người phụ nữ quyết tâm. Sự bền bỉ này vẫn tiếp tục trong tình bạn của cô ấy. 
 
Họ có trái tim nhân hậu và có sức hút đặc biệt với những người tương tự như mình. Từ bé, họ đã bộc lộ ra rằng mình rất yêu thương và quan tâm đến bạn bè cũng như người thân trong gia đình. 
 
Người phụ nữ cung Cự Giải thường có một thái độ khá bình tĩnh trước mọi vấn đề có thể xảy ra. Tuy nhiên, điểm yếu của họ là ngại giao tiếp, rất nhút nhát khi nói chuyện với mọi người.


Tham khảo thêm bài viết sau: Tiết lộ về con người cung Cự Giải nam
 

Cung Sư Tử nữ

  Cung Sư Tử nữ luôn muốn mình là trung tâm của mọi sự chú ý. Cô ấy thích nói lớn và luôn đầy năng lượng. Họ rất dễ tính và hướng ngoại, nhờ tính cách này mà họ càng được nhiều người biết đến, thỏa mãn sở thích được chú ý của Sư Tử. 
 
Những cô nàng cung Sư Tử luôn sẵn sàng đối mặt với những thách thức mới trong cuộc đời. Họ là người mạnh mẽ và độc lập, thích được làm chủ mọi vấn đề và không muốn làm theo bất cứ ai. Tuy nhiên, họ chỉ cần kiểm soát tính hung hăng của mình mỗi khi mong muốn mọi người tôn trọng, lắng nghe mình.  

Cung Xử Nữ nữ
 

Những cô nàng Xử Nữ có thể làm hạ cơn giận của bất cứ ai bằng giọng nói êm dịu và sự quan tâm nhẹ nhàng. Họ có khả năng đặc biệt trong việc "dẹp loạn". Cô ấy rất đơn giản, hào phóng. Vốn là người thực tế nên họ luôn sẵn sàng đối phó với các tình huống phức tạp nhất có thể xảy ra.    Phụ nữ cung Xử Nữ trung thực, tỉ mỉ và có đầu óc tổ chức, sắp xếp. Đây là ưu điểm nổi trội của những người thuộc cung hoàng đạo này so với  12 chòm sao nữ còn lại.
tinh cach 12 chom sao nu (3)
 
 

Cung Thiên Bình nữ
 

Những người phụ nữ cung Thiên Bình rất giỏi trong việc tạo không khí hài hòa và khôi phục sự cân bằng trong cuộc sống. Cô ấy phù hợp với những công việc đòi hỏi hòa giải. 
 
Họ luôn tin tưởng vào việc giải quyết tranh luận một cách hài hòa. Người phụ nữ cung Thiên Bình không bao giờ bị lúng túng bởi những lời nói “làm màu” của bất cứ ai hay những lời cầu xin đầy mủi lòng.    Họ luôn mong có cuộc sống cân bằng và thanh bình vì thế, không bao giờ họ muốn xúc phạm hay cõi cọ với ai nhằm mục đích có được môi trường hài hòa, vui vẻ. Có đôi lúc họ lạnh lùng và xa cách vì như thế mới mang lại cho họ cảm giác an toàn.
Xem thêm: Phản ứng của 12 chòm sao khi gặp chân tình 
 

Cung Hổ Cáp nữ

  Hổ Cáp cực kỳ chu đáo và hào phóng với bạn bè của cô ấy, và sẽ trả lại bạn gấp mười lần cho sự tử tế nhỏ nhoi. Cô ấy có thể bí mật trong giao dịch của mình và không sẵn sàng chia sẻ cuộc sống cá nhân của cô ấy một cách dễ dàng. Tính cách năng động của cô làm cho cô trở thành một ông chủ mà không nghi ngờ gì.    Phụ nữ là những cá nhân độc lập và quyết tâm. Cô ấy dẫn dắt cuộc sống không cân bằng. Gần như mọi khía cạnh của cuộc sống của cô dường như đang ở trên cùng hay khác. Cô ấy là một nhà lãnh đạo giỏi và có kỹ năng giao tiếp tuyệt vời.     

Cung Nhân Mã nữ
 

Người phụ nữ Nhân Mã là những người sành điệu là thích chia sẻ những câu chuyện về xu hướng thông qua những cuộc trò chuyện của mình. Họ là người ưa mạo hiểm, thích cuộc sống với những chuyến phiêu lưu, vì thế thực sự là người bạn thú vị ngay từ lúc mới tiếp xúc.     Tính cách đặc trưng của những cô nàng Nhân Mã đó là sự tò mò, họ có cái nhìn triết lý về cuộc sống và bản thân mình, và sẽ áp dụng một cách logic vào cuộc sống của họ một cách thường xuyên.  Tư duy của họ khá rõ ràng vì thế họ cũng không ngại nói ra những suy nghĩ của mình với bất cứ ai.
tinh cach 12 chom sao nu (2)
 
 

Cung Ma Kết nữ
 

Bạn bè của Ma Kết chắc chắn sẽ cảm thấy vinh dự khi có người bạn như họ, vì họ là những người sống chân thành, mạnh mẽ, biết yêu thương, quan tâm tới người khác.

Cô ấy không phải là dễ thể hiện cảm xúc của mình đối với mọi người. Vì vậy cô ấy có thể bị hiểu nhầm là xa cách và thờ ơ nhưng thực tế không phải như vậy. Họ có trái tim ấm áp và coi trọng gia đình.
  Là người bản lĩnh, họ luôn quyết tâm hoàn thành bất cứ mục tiêu nào đã đề ra. Ngoài ra họ là người chăm chỉ và tháo vát với mức độ tự tin cao.   

Cung Bảo Bình nữ
 

Những phụ nữ thuộc cung Bảo Bình sẽ nghĩ, cảm nhận và làm bất cứ điều gì cô ấy hài lòng mà không phải lo lắng về việc những người khác đánh giá về mình như thế nào. Cung Bảo Bình nữ  là một trong những người độc đáo và sáng tạo nhất trong 12 chòm sao nữ. Cô ấy là người thích hợp để bạn tìm đến khi gặp những vấn đề mà không ai có thể giúp bạn.      Họ chỉ hanh phúc khi cảm nhận được sự tự do, thoải mái. Họ rất thông minh, sáng tạo và là một người biết lắng nghe. Và họ không quan tâm nhiều đến sự ổn định tài chính.   

Cung Song Ngư nữ

  Cung Song Ngư nữ là những người sáng tạo, trực quan, và luôn luôn tìm cách để thể hiện cá tính của mình. Nhờ sự nhạy cảm và óc quan sát, ho rất hiểu tâm lý mọi người và sẵn lòng giúp bất cứ ai thoát khỏi rắc rối. 
 
Song Ngư là người chín chắn và phức tạp nhất trong  12 chòm sao nữ. Có đầu óc sắp xếp và logic, Song Ngư nữ luôn có vẻ biết những gì họ làm ngay lúc này và cả những bước tiếp theo.
 

Kate Nguyễn

12 cung hoàng đạo nếu làm chồng sẽ như thế nào 12 cung hoàng đạo đi xe gì cho “hợp với dáng em” Bí kíp làm đẹp sinh ra để dành riêng cho 12 sao nữ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 chòm sao nữ với những tính cách không lạc đi đâu được

Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình

Qua câu chuyện, ta thấy con người trong đời đã tích đức hành thiện, nên mới có được cuộc sống hạnh phúc và ra đi một cách bình yên, thanh thản như vậy.
Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhờ cả một đời hành thiện, cứu giúp người khốn khó mà ba mẹ tôi, gia đình tôi đã tích được đại đức, sống cuộc sống hạnh phúc, bình an …

Tháng 11/2014, tôi trở về quê nhà, nghe chị gái kể chuyện về “con trâu trắng chuyển sinh” mà bản thân chị đích thân trải nghiệm.

Những năm đầu thập niên 50, nhà tôi ngụ ở một vùng núi ở đông bắc, ba mẹ tôi là những người thuần phác, thiện lương, sống bằng nghề làm rẫy. Quanh năm suốt tháng chẳng kiếm được bao nhiêu tiền, cuộc sống mỗi hộ thời bấy giờ đều rất túng quẫn. Nói một cách tương đối thì nhà tôi cũng có cuộc sống khá tốt. Những năm đó, mọi người trong thành thị đều đến nông thôn cày đất trồng trọt, mong sao có được một bữa cơm no, bụng không bị đói là tốt lắm rồi. Lúc này có một người đàn ông họ Bạch đến làng, dựng một căn nhà đơn giản ở ngay hốc núi, mỗi ngày đều khai hoang, trồng trọt. Về sau, căn nhà đã đổ sập xuống, không thể ở tiếp được nữa, ông liền đến ở nhờ nhà của con gái nuôi trong làng, chẳng được bao lâu, người con gái nuôi đó cũng đuổi ông ra khỏi nhà.

Ông cụ lúc này đã 73 tuổi rồi, không làm việc được nữa, lại không có tiền. Đến giữa trưa những người qua đường không quen biết đều bảo ông đến nhà ăn cơm rồi hãy đi tiếp, buổi tối có những người qua đường cũng bảo ông đến nhà ở tạm một đêm, hôm sau hãy đi tiếp. Mọi người trong làng đều biết ba mẹ tôi tốt bụng, luôn đối xử tốt vơi mọi người. Ông cụ liền đến nhà tôi cầu xin ba mẹ, muốn được ở nhà chúng tôi qua hết mùa đông này, sang năm sẽ nghĩ cách khác. Ba mẹ thấy ông cụ thật sự rất đáng thương, liền đồng ý với lời thỉnh cầu của ông.

Tuy ông cụ không phải họ hàng thân thích gì với nhà chúng tôi, nhưng chúng tôi sống chung với nhau cảm thấy rất vui vẻ, một nhà bảy người đều một tay ba mẹ chăm lo. Nhưng những ngày tháng tươi đẹp không được bao lâu. Ông cụ đổ bệnh, không còn đứng dậy được nữa. Ba mẹ tận sức chăm lo cho cuộc sống hàng ngày của ông. Ông vô cùng cảm động, nói rằng mình đã gặp được người tốt, còn nói nếu như bệnh khỏi rồi, sang năm sẽ hồi báo mọi người, nếu như chết đi, kiếp sau nhất định sẽ trả.

Ông cụ nhờ ba tôi viết một lá thư cho em trai của ông. Ba vẫn khuyên ông cụ đừng nên suy nghĩ nhiều quá, nhất định sẽ sớm khỏi lại thôi, hết năm rồi sẽ tránh được cái rủi của tuổi 73 thôi. Từng ngày từng ngày trôi qua như vậy, không ngờ rằng vào một buổi của mùa đông năm ấy, ông cụ không còn tỉnh lại nữa, không sống qua được mùa đông này.

Một thời gian sau khi ông cụ mất, em trai của ông đã đến nhà chúng tôi để đón ông đi, nhưng không ngờ đã đến quá muộn rồi, ông ấy nói: “Anh đi sớm quá, cảm ơn gia đình các vị đã chăm sóc cho người anh của tôi, kiếp sau anh tôi sẽ chuyền sinh thành một con trâu trắng để báo đáp đại ân đại đức của mọi người, cô bé này có thể gặp được (ám chỉ chị gái tôi, chị tôi lúc đó vào khoảng 8, 9 tuổi)”. Ba mẹ tôi nghe vậy, nhưng cũng không để trong tâm.

Những năm đó chỉ có trâu đen, trâu nước, trâu vàng, chứ chẳng có ai từng nghe là có trâu trắng bao giờ. Mấy năm sau, nhà chị gái tôi có nuôi mấy con trâu, một con trâu mẹ trong đó quả thật đã đẻ ra một con trâu trắng, con trâu trắng vừa mới sinh ra, lông trên người còn chưa khô hẳn, đi đường vẫn còn chưa vững, vậy mà nó đã đứng dậy đi lên đường núi nhắm thẳng hướng con mương mà đi, dọc đường đã băng qua bảy, tám ngôi mộ đều không dừng lại, cho đến khi đứng trước ngôi mộ của ông Bạch. Khi ấy, nó không hề nhúc nhích mà đứng ở đó một hồi rất lâu. Dọc đường chị kể lại rằng chị cũng không hề ngăn nó lại, trâu mẹ cuối cùng cũng đến nơi đó. Trâu con vẫn không muốn rời đi, chị không có cách nào, đợi đến khi thằng cháu làm việc từ ngoài đồng về mới đi lên đỉnh ngôi mộ ôm chú trâu con này về nhà.

trâu con
Đám trâu lớn, trâu con này người nào nhìn thấy cũng đều thích cả

Dần dần, con trâu trắng này cũng đã lớn lên thành một con trâu mẹ, trong tất cả bầy trâu, nó là xuất sắc nhất, vừa lớn, vừa khỏe, lại đẻ được tốt, mỗi năm đều đẻ được một chú trâu con, mà năm nào cũng đều có thể bán được giá rất cao. Đám trâu lớn, trâu con này người nào nhìn thấy cũng đều thích cả.

Ba mẹ tôi lần lượt qua đời trong khoảng năm năm trở lại đây, khi mất đều là hưởng thọ 91 tuổi. Mọi người đều nói ba mẹ trong đời đã tích đức hành thiện, nên mới có được cuộc sống hạnh phúc và ra đi một cách bình yên, thanh thản như vậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện luân hồi: Trâu trắng chuyển sinh trả nợ ân tình

Chùa An Xá - Quảng Bình

Chùa An Xá được xây dựng vào khoảng năm 1900. Di tích chùa An Xá có giá trị lịch sử cực kỳ tiêu biểu trong thời kỳ tiền khởi nghĩa tháng Tám ở Quảng Bình.
Chùa An Xá - Quảng Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa An Xá tọa lạc tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Từ Trung tâm huyện Lệ Thủy, đi bằng đường bộ về phía Tây 8 km là đến di tích chùa An Xá. Nếu đi bằng đường thủy, từ bến đò chợ Tréo, xuôi thuyền theo dòng Kiến Giang thơ mộng đi qua một vùng quê được mệnh danh là vựa lúa của tỉnh nhà.

Chùa An Xá là ngôi chùa di tích lịch sử – văn hóa quốc gia nằm ngay bên cạnh nhà Đại tướng tại làng An Xá. Đây là ngôi chùa mà mỗi lần về thăm nhà, thăm quê, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều dành thời gian tới thăm và dâng hương lễ Phật.

Hội nghị thống nhất Đảng và cử cơ quan lãnh đạo của tỉnh là bước ngoặt lịch sử quan trọng mở ra thời kỳ mới – thời kỳ thống nhất tổ chức, thống nhất lãnh đạo, thống nhất hành động trong toàn tỉnh; tạo ra sức mạnh mới, niềm tin mới cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vượt qua mọi gian nan thử thách, vươn lên cùng toàn Đảng, toàn dân giành thắng lợi quyết định trong giai đoạn cách mạng mới. Điều này ghi nhận vị trí, ý nghĩa tác dụng to lớn của hội nghị cán bộ Đảng tại chùa An Xá.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, di tích chùa An Xá đã bị giặc Pháp đốt phá, vì chúng cho rằng chùa là nơi ẩn náu, tụ họp của cán bộ Việt Minh. Sau kháng chiến chống Pháp, chính quyền địa phương đã có bước tu sửa, tôn tạo bằng công sức tiền của nhân dân địa phương. Thời kỳ chống Mỹ, máy bay giặc đã nhiều lần ném bom, bắn phá chùa, làm cho di tích lịch sử này thành phế tích.

Chùa An Xá đã được các chiến sĩ cộng sản từng hoạt động trên địa bàn về thăm nhiều lần như các đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Đoàn Khuê, Trần Hữu Dực và nhiều vị cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Được sự quan tâm của Nhà nước và các cấp chính quyền, chùa An Xá đã được trùng tu, tôn tạo và đã phát huy tác dụng. Di tích chùa An Xá là địa chỉ đỏ chứng minh cho bao thế hệ những người con Quảng Bình tìm về để tưởng nhớ, để nhắc nhở động viên nhau phát huy truyền thống cách mạng, quyết tâm xây dựng quê hương “Hai giỏi” ngày càng giàu đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa An Xá - Quảng Bình

Tổng hợp những lời chúc buổi sáng hay và ý nghĩa nhất

Tổng hợp những lời chúc buổi sáng hay và ý nghĩa nhất. Dành tặng người thân, bạn bè và nhất là người yêu bạn nhé. Cùng tham khảo bài viết để xem gợi ý tốt
Tổng hợp những lời chúc buổi sáng hay và ý nghĩa nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp những lời chúc buổi sáng hay và ý nghĩa nhất. Dành tặng người thân, bạn bè  và nhất là người yêu bạn nhé. Chỉ 1 vài thao tác nhỏ với những lời chúc buổi sáng hay và ý nghĩa nhất được tổng hợp sau đây là bạn đã chiếm được cảm tình người ấy rồi đấy.

Tổng hợp những lời chúc buổi sáng hay và ý nghĩa nhất

Nắng buổi sáng ấm áp và ông mặt trời đang mỉm cười! Em chúc anh buổi sáng tốt lành, một ngày thật tuyệt và làm việc hiệu quả nhé!

———

Tặng em người con gái anh yêu món quà có tên “buổi sáng tốt lành” được gói bởi sự chân thành, buộc bằng sợi dây quan tâm và đính kèm một lời nguyện cầu cho em được bình an và hạnh phúc trọn ngày.

———-

Đêm lạnh đã qua và bắt đầu ngày mới ấm áp. Chúc em luôn mỉm cười như những vệt nắng lấp lánh lúc bình minh và một ngày thật tuyệt em nha.

———-

Chúc em buổi sáng tốt lành, nhớ ăn sáng trước khi đi làm em nhé. Cả ngày phải nhớ là luôn vui vẻ và hạnh phúc nghen.

———-

Sáng rồi kìa em, tạm chia tay giấc mơ hồng đêm qua, thức dậy và đánh răng đi nhé. Chúc em ngày mới tốt lành và một ngày vui vẻ.

Ê đồ lười! Dậy ăn sáng đi chứ. Chúc anh buổi sáng ấm áp và ngày mới thật tuyệt nha. Good morning!

Nếu như anh có một điều ước ngay lúc này, anh sẽ ước người yêu anh có một ngày vui vẻ và hạnh phúc. Buổi sáng tốt lành em nhé.

Mỗi ngày, khi Chúa mở cánh cửa thiên đường, Ngài nhìn em và hỏi: “Điều ước hôm nay của con là gì?”. Em trả lời: Xin Người hãy bảo vệ người đang đọc tin nhắn này!

Anh có nhờ một thiên thần đến đánh thức em dậy vào sớm nay, nhưng đáng tiếc thiên thần ấy cũng ngái ngủ giống em nên anh phải tự mình nhắn tin đánh thức em dậy. Dậy đi nhé, chúc em một buổi sáng tốt lành.

Đêm qua em ngủ ngon chứ? Anh nhắn tin để chúc em một ngày mới hạnh phúc và luôn mỉm cười nhé. Yêu em!

Anh gửi cho em tin nhắn này để chúc em một ngày tốt lành. Hy vọng

rằng mỗi ngày em sẽ luôn cười nhiều và hạnh phúc nhé.

Mỗi ngày khi anh thức dậy, điều anh ước trước tiên là mong người nhận được tin nhắn này sẽ luôn vui vẻ và đón ngày mới với nhiều may mắn!

Tặng em một món quà: Đây là lời bác sĩ khuyên: Ăn sáng đều đặn, nhiều nước, đừng quên ăn vitamin C và nhắn tin cho anh ít nhất 3 lần/ngày”. Chúc em một buổi sáng ấm áp nhé.

Anh biết em vẫn còn đang nằm lười, tay em cố gắng để cầm chiếc điện thoại và cặp mắt dễ thương kia chỉ mở được 1 nửa để đọc tin nhắn của anh thôi phải không. Đến lúc thức dậy rồi đấy… Good morning.

Chúc buổi sáng tốt lành. Chúc bạn có một ngày tràn ngập những khoảnh khắc hào hứng và tuyệt vời.

Trên thế giới này chỉ có 2 loại người hạnh phúc… thứ nhất là kẻ điên và thứ hai là trẻ con. Hãy bị điên để thực hiện điều mà bạn mong muốn và hãy trẻ con để tận hưởng những gì bạn có. Buổi sáng tốt lành nhé!

Có hai điều anh thích nhất đó chính là em và công việc. Và có một điều anh ghét nhất là có công việc mà không có em. Đi làm đi nhé, anh đợi em ở công ty.

Em à, quen biết em là điều anh thích nhất, yêu em là điều anh hạnh phúc nhất và mỗi sớm mai thức dậy anh lại có thêm động lực bởi người anh nghĩ đến đầu tiên là em.

Em này, em đừng để công việc bận rộn của mình cuốn em đi mất khỏi anh nhé! Mỗi ngày hãy dành cho anh mấy giây trong tâm trí em. Ngày mới tốt lành em nhé!

Anh đã dậy để đi làm chưa hay vẫn còn cuộn tròn trong chăn ấm thế, anh đừng nướng kỹ quá nhé, muộn giờ làm đấy. Chúc anh ngày mới vui vẻ và làm việc hiệu quả!

Nếu bạn vẫn đang loay hoay không biết gửi tin nhắn với nội dung như thế nào đến nửa kia của mình thì những lời chúc buổi sáng lãng mạn chính là những gợi ý tuyệt vời dành cho bạn. Tuy nhiên, đừng làm dụng quá nhiều một tin nhắn nhé.

Nắng buổi sáng ấm áp và ông mặt trời đang mỉm cười! Chúc bạn buổi sáng tốt lành, một ngày thật tuyệt và làm việc hiệu quả nhé!

Chúc cậu buổi sáng tốt lành, nhớ ăn sáng trước khi đi làm nhé. Cả ngày phải nhớ là luôn vui vẻ và hạnh phúc nghen.

Ê đồ lười! Dậy ăn sáng đi chứ. Chúc cậu buổi sáng ấm áp và ngày mới thật tuyệt nha. Good morning!

Mỗi ngày, khi Chúa mở cánh cửa thiên đường, Ngài nhìn tớ và hỏi: ”Điều ước hôm nay của con là gì?”. Tớ trả lời: Xin Người hãy bảo vệ người đang đọc tin nhắn này!

Tin nhắn này chẳng có chất béo, cholesterol hay các chất phụ gia, hoàn toàn chiết xuất từ tự nhiên, ngoại trừ có rất nhiều đường. Nhưng chắc chắn nó chẳng bao giờ ngọt hơn người đọc nó. Cười lên bạn nhé cho ngày mới rạng rỡ!

Chúc cậu thành công lớn vào thứ 2 – Không trở ngại ngày thứ 3 – Không căng thẳng thứ 4 – Không có lo lắng cho ngày thứ 5 – Nụ cười vào thứ 6 – Bên nhau hạnh phúc ngày thứ 7 – Tràn đầy niềm vui vào chủ nhật! 1 tuần mới tuyệt vời và hạnh phúc nha!!!

Con gà gáy le té le te sáng rồi ai ơi
Gà gáy té le té le sáng rồi ai ơi
Nắng sớm lên rồi dậy đi em hỡi em này em ơi!
Dậy mau đi nào! Chúc em ngày mới tốt lành!

Đây là lời bác sĩ khuyên: Ăn sáng đều đặn, uống nhiều nước, đừng quên vitamin C và nhắn tin cho anh ít nhất 3 lần/ ngày. Chúc cậu ngày mới nhiều niềm vui!^^

Cậu à, đi ăn với tớ nhé. Tớ có thể nghe thấy bụng cậu than thở với tớ qua đầu dây rằng: chủ nhân của nó chưa cho nó ăn sáng kìa…Hi, chúng mình cùng đi ăn để chuẩn bị cho một ngày mới dồi dào năng lượng nhé.

Khi nhận được tin nhắn này thì bạn hãy cười đi nhé, vì ít nhất đâu đó quanh đây có một người mong bạn hạnh phúc, vui vẻ và luôn yêu đời. He, chúc cô nương một ngày tươi trẻ nhé!

Mỗi sớm mai, thay vì tắt đồng hồ để nướng thêm một chút nữa như ngày thường, tớ lại thức sớm hơn để chuẩn bị một tin nhắn thật dễ thương gửi đến cậu buổi sáng tốt lành. Một ngày của tớ bắt đầu bằng niềm vui của cậu. Chúc cậu ngày mới tốt lành!

Dưới địa ngục có 6 con quỷ: 3 con quỷ đang chơi đùa, 2 con quỷ đang nói chuyện, còn 1 con đang ngáy ngủ. Đứa là ngày ngủ là em đó, dậy mau mau anh đưa lên thiên đường này.

Em/anh ơi, dậy chưa? em/anh đừng nướng kỹ quá, khét rồi! anh/em nhìn thấy từ phía nhà em/anh…”Ôi! có khói bốc lên cao rồi kìa”, anh/em sợ ko nhận ra em/anh mất.

Sorry có nghĩa là… SORRY… SORRY… Hehe. Đừng hiểu nhầm nha! Sorry có nghĩa là: S-Some, O-One Is, R- Really, R-Remember, Y-You = Someone’s really remember you = Có một ai đó đang thực sự nhớ cậu! Chúc cậu một buổi sáng tốt lành!

Cậu này, cậu nợ tớ thì phải trả đi chứ! Tính xù hả? người đâu mà … Cậu nợ tớ 1 NỤ CƯỜI ĐÓ! Chúc 1 ngày đầy niềm vui và những bất ngờ! Hihi

Tin nhắn này không chứa đường, cũng chẳng chứa mật ong, nhưng sao nó ngọt ngào thế nhỉ. Kiểu này chắc em bị tiểu đường mất thôi. Đọc tin nhắn rồi cười lên em nhé, chúc em ngày mới tốt lành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng hợp những lời chúc buổi sáng hay và ý nghĩa nhất

Tình yêu tính cách người sinh tháng 12 - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Tình yêu tính cách người sinh tháng 12, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tình yêu tính cách người sinh tháng 12, tu vi Tình yêu tính cách người sinh tháng 12, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu tính cách người sinh tháng 12

Cùng xem bói tình yêu, tính cách những chàng trai, cô gái sinh tháng 12 để xem việc sinh vào “ngày cùng tháng tận” ảnh hưởng gì tới họ.

Những chàng trai cô gái sinh vào tháng 12 của năm thường là người trung thành và tử tế. Nếu là con gái chắc hẳn bạn rất quyến rũ. Bạn có nhiều tham vọng nhưng đôi khi lại dễ bị nhận định của đám đông làm ảnh hưởng. Bạn có tư duy logic và thích sống hòa mình vào với cộng động. Bạn rất thích được khen ngợi và thích được mọi người quan tâm chú ý. Nếu là con trai bạn rất đáng yêu – đáng yêu theo đúng nghĩa một cậu “em út” đôi khi tỏ ra rất người lớn trưởng thành, là chàng trai đĩnh đạc nhưng đôi khi lại tỏ ra rất trẻ con, ưa được chiều chuộng và thích được nâng niu. 

tinh-yeu-tinh-cach-nguoi-sinh-thang-12

Tình yêu, tính cách chàng trai cô gái tháng 12

Trong tất cả các mối quan hệ bạn rất chân thành, thật lòng và không giả dối. Bạn không đặt nặng cái tôi của mình nhưng tính cách của bạn lại có đôi chút “sớn nắng, chiều mưa” tuy nhiên bạn lại rất vui vẻ, trẻ trung, bạn đặc biệt không thích việc bị ai đó quản thúc, bạn có năng khiếu hài hước nên thích làm trò đùa, mang lại nhiều niềm vui cho người khác. Điểm nổi bật trong tính cách của những người sinh tháng 12 là thiếu kiên nhẫn và hay vội vàng.

 

Nếu bạn đang yêu một chàng trai cô gái sinh tháng 12 bạn sẽ luôn phải nhường nhịn, đôi khi còn phải nuông chiều, nịnh nọt nữa. Nhưng sự hấp dẫn trong tình yêu của họ lại nằm chính ở điểm này. Bời họ dễ hờn, dễ giận nhưng lại không bảo giờ để bụng, họ giận đấy tức đấy rồi lại quên ngay. Tình yêu của người sinh tháng 12 sẽ luôn vui vẻ rộn rã tiếng cười.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu tính cách người sinh tháng 12 - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Đi chùa lễ Phật đã trở thành một nét đẹp tâm linh của người Việt bao đời nay. Đi chùa đầu năm không phân biệt nam nữ, nhưng thông thường các bà các mẹ
Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi chùa lễ Phật đã trở thành một nét đẹp tâm linh của người Việt bao đời nay. Đi chùa đầu năm không phân biệt nam nữ, nhưng thông thường các bà các mẹ là những người thường xuyên đến chùa hơn.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm để thuận lợi công việc

Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt có được đi chùa lễ Phật? 5 ngôi chùa cầu được ước thấy nên đi lễ đầu năm
Di chua dau nam vao nhung ngay nay thi ca nam tien bac rung rinh hinh anh
 
Đi chùa đầu năm không đơn giản chỉ là để ước nguyện mà còn là khoảnh khắc con người hòa mình vào chốn tâm linh, rũ bụi trần, mà còn là chốn thanh tịnh để con người thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhàng hơn.   Mùng 1 Tết: Theo phong tục xưa của người Việt, việc lên chùa vào mùng 1tếtđã trở thành tục lệ quen thuộc, thậm chí họ sẽ lên chùa ngay đêm giao thừa. Họ cầu cho bản thân, gia đình mạnh khỏe, tai qua nạn khỏi, hạn ách tiêu trừ, gia đình hòa thuận, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.   Nên đi chùa vào mùng 1 cũng đồng nghĩa cả năm bạn sẽ có được sự an lạc, cả năm may mắn. Hứa hẹn một năm mới tràn ngập tin vui.
Mùng 2,3 Tết: Ngày mùng 2, 3 là lễ đón Hỷ thần (may mắn, hạnh phúc), đón tài thần. vậy nên, đi chùa vào 2 ngày này sẽ được cầu nhiều tài lộc, tiền bạc dư giả nguyên năm.
Mùng 4 Tết: Thông thường, ngày mùng 4 là ngày các gia đình đón các vị thần từ thiên đình về hạ giới cai quản một năm. Nếu đi chùa vào ngày này và thành tâm, thì điều bạn mong muốn sẽ được linh ứng và dễ thành hiện thực, ngày này cầu gì sẽ được nấy, nên nhưng ai muốn cầu tình duyên có thể chọn ngày này.   Mùng 6 Tết: Theo quan niệm của ông bà ta thì mùng 6 là ngày bình an, và mùng 6 năm nay cũng là ngày rất tốt để xuất hành cho các chuyến đi. Vậy nên, đi chùa vào ngày này cầu mong bình an, sức khỏe, gia đạo sẽ rất tốt.   * Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, chiêm nghiệm!

Lễ chùa đầu xuân - đừng để mất phúc vì hiểu sai Điều dễ phạm phải khi đi đền chùa đầu năm Lễ chùa mà phạm phải 7 điều thì công quả mất hết
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh

Những câu nói về sự thành công và thất bại trong cuộc sống

Những câu nói về sự thành công và thất bại trong cuộc sống. Mỗi người đều có ít nhất một vài lần gặp thành công và thất bại, tham khảo câu nói hay sau đây
Những câu nói về sự thành công và thất bại trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói về sự thành công và thất bại trong cuộc sống. Mỗi người chúng ta ai cũng có ít nhất một vài lần gặp thành công và thất bại nhưng dù gặp phải những khó khăn hay là thuận lợi thì bạn phải đối diện với nó như thế nào và đưa ra giải pháp xử lý ra sao để vượt qua những tình huống mình đang gặp phải. Với những câu nói hay về sự thất bại và thành công dưới đây sẽ là gợi ý cho bạn khi gặp phải những chông gai phía trước.

Những câu nói hay và ý nghĩa về sự thành công trong bài viết này sẽ giúp bạn tích lũy những kinh nghiệm quý báu cho mình. Con đường đi đến sự thành công trải qua rất nhiều những khó khăn và chông gai vì thế nếu bạn luôn biết lắng nghe và tìm tòi thì con đường ấy sẽ rút ngắn lại. Nào cùng tham khảo những câu nói hay về sự thành công và thất bại trong cuộc sống dưới đây nhé!

Những câu nói về sự thành công và thất bại trong cuộc sống

Thành công được thực hiện bởi những người luôn biết rằng: thất bại là điều không thể tránh khỏi – Coco Chanel.

———

Để vươn tới thành công, ham muốn thành công của bạn phải cao hơn nỗi sợ về thất bại – Bill Cosby.

———

Chỉ những người dám thất bại thì mới có thể đạt được thành công – Robert F. Kennedy.

——–

Không biết đã bao nhiêu lần con người buông tay từ bỏ khi mà chỉ một chút nỗ lực, một chút kiên trì nữa thôi là anh ta sẽ đạt được thành công – Elbert Hubbard

Bạn có thể thất vọng khi bạn thất bại, nhưng bạn sẽ không thể thành công nếu không cố gắng – Beverly Sills

Để thành công trong cuộc sống, bạn cần hai thứ: sự ngu dốt và lòng tự tin – Mark Twain

Mọi người có thể thành công khi họ thấy niềm vui trong những công việc mình đang làm – Dale Carnegie

Cơ hội không đến một cách tự nhiên mà bạn phải tạo ra nó – Chris Grosser

Những người thành công luôn luôn tìm kiếm cơ hội để giúp đỡ người khác. Những người không thành công luôn luôn hỏi, “Tôi được lợi gì?” – Brian Tracy

Người ta hiếm khi thành công nếu không làm điều mình thấy vui thích -Dale Carnegie

Cuộc sống không phải là học cách vượt qua 1 cơn bão, mà là học cách để khiêu vũ dưới những cơn mưa – Monica Fish

Rút kinh nghiệm từ thành công là quan trọng nhưng học hỏi từ thất bại là yếu tố quan trọng quyết định thành công – Jason Platnick

Hãy thay đổi suy nghĩ và thế giới của bạn cũng sẽ thay đổi – Norman Vincent Peale

Thành công là một chuyến hành trình, không phải là định mệnh – Ben Sweetland

Thành công không phải là cuối cùng, thất bại không phải là chết người: lòng can đảm đi tiếp mới quan trọng -Winston Churchill

Tôi không hề thất bại chỉ là thành công của tôi đang bị trì hoãn mà thôi!

Một vài người thường mơ thấy thành công, còn một vài người khác thì thức dậy và đi tìm thành công.

Thành công là sự vấp ngã chín lần và đứng dậy sau những vấp ngã mười lần.

Hãy đi theo ý chí của mình và thành công sẽ đi theo bạn.

Thành công chỉ đến với những người luôn luôn bận rộn đi tìm kiếm nó – Henry David Thoreau

Hãy mơ ước bất cứ điều gì bạn muốn mơ. Đó là vẻ đẹp của trí tuệ con người. Hãy làm bất cứ điều gì bạn muốn làm. Đó là sức mạnh của ý chí con người. Hãy tin tưởng vào bản thân để thử thách những giới hạn của mình. Đó chính là lòng can đảm để thành công.

Những ước mơ lớn có thể tạo ra nỗi sợ hãi bị thất bại. Không có ước mơ đảm bảo thất bại xảy ra.

Thành công là đạt được thứ bạn muốn. Hạnh phúc là muốn thứ bạn đạt được.

Thành công không phải là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Nếu bạn yêu điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.

Bạn được tha thứ cho hạnh phúc và thành công của mình chỉ khi bạn sẵn sàng hào phóng chia sẻ chúng.

Đừng phấn đấu để thành công mà hãy phấn đấu để mình có ích.

Chinh phục bất cứ một sự khó khăn nào luôn đem lại cho người ta một niềm vui sướng thầm lặng, bởi điều đó cũng có nghĩa là đẩy lùi một đường ranh giới và tăng thêm tự do của bản thân.

Cơ bản là có hai loại người. Người làm nên chuyện và người tuyên bố mình làm nên chuyện. Nhóm đầu tiên ít đông hơn.

Tôi tìm thấy lạc thú lớn nhất, và cũng như phần thưởng, nằm trong công việc vượt qua điều mà thế giới gọi là thành công.

Xây dựng thành công từ thất bại. Sự chán nản và thất bại là hai bước đệm chắc chắn nhất dẫn tới thành công.

Hãy vận dụng những cau noi hay ở trên vào cuộc sống cũng như sự nghiệp của bạn để đạt được những thành công như mong đợi và thường xuyên vào blogtraitim.info để tham khảo những kinh nghiệp bổ ích trong cuộc sống nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói về sự thành công và thất bại trong cuộc sống

Hướng tài lộc, may mắn của 12 con giáp

Độc giả có thể bày cây cối, linh vật phong thủy ở hướng tài vận của mình để gia tăng may mắn.
Hướng tài lộc, may mắn của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-1 quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-2
Sửu Dần
quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-3 quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-4 quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-5
Mão Thìn Tị
quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-6 quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-7 quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-8
Ngọ Mùi Thân
quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-9 quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-10 quy-nhan-phu-tro-va-huong-quy-nhan-cua-12-con-giap-11
Dậu Tuất Hợi

Alexandra V (Tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng tài lộc, may mắn của 12 con giáp

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Chọn hướng kê giường phát tài cho quý cô tuổi Hợi

Muốn có cuộc sống thuận hoà, sức khỏe dồi dào, người tuổi Hợi đừng bao giờ bỏ qua việc sắp xếp và lựa chọn giường ngủ phù hợp với mệnh của mình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc bố trí giường ngủ rất quan trọng trong phong thủy. Nó không chỉ ảnh hưởng đến giấc ngủ mỗi ngày mà còn tác động tâm linh, đến con đường công danh, sự nghiệp và cả sức khỏe của mỗi người.


chon huong ke giuong phat tai cho quy co tuoi hoi - 1 

Để có cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc, người tuổi Hợi nên cố gắng kiêng kị những điều sau khi sắp xếp phòng ngủ:

- Tránh đặt gương đối diện giường ngủ, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe, tài lộc, tình cảm.

- Tránh kê giường dưới xà ngang. Nếu phạm phải lỗi này, rất có thể khi ngủ bạn sẽ có cảm giác bị đè nén, nhức đầu, bất an, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe.

- Tránh đặt giường ngủ gần bếp vì điều này dễ làm nảy sinh các bệnh về tim, gan, tính tình hay cáu gắt.

- Tránh đặt đầu giường ngủ gần cửa sổ, nó sẽ gây cảm giác bất an.

- Tránh để đầu giường hướng thẳng ra hướng mở cửa phòng vì nó dễ làm mất ngủ, trí tuệ sụt giảm.

- Tránh để đầu giường hướng vào toilet, điều này gây khó ngủ, ảnh hưởng không tốt tới hệ thần kinh.


chon huong ke giuong phat tai cho quy co tuoi hoi - 2

Hướng kê giường hợp phong thủy cho những người tuổi Hợi.

Xem hướng giường ngủ cho người sinh năm 1959 (Kỷ Hợi), 1995 (Ất Hợi)

Quẻ mệnh: Khảm Thủy. Thuộc Đông tứ mệnh, ở nhà hướng Đông tứ trạch.

Các hướng giường tốt:

Hướng Đông Nam: đặc biệt tốt cho tài lộc, công danh, sự nghiệp.

Hướng Nam: tốt cho tình cảm, tình duyên may mắn, vợ chồng, con cái hòa thuận.

Hướng Đông: tốt cho sức khỏe.

Màu sắc chăn ga gối, rèm cửa nên dùng gam sáng màu hơi lạnh hoặc sáng tối xen kẽ như hoa văn kẻ caro. Đặc biệt, các quý cô sinh năm 1959 và 1995 nên tránh màu đỏ, vàng.


chon huong ke giuong phat tai cho quy co tuoi hoi - 3

Hướng giường ngủ cho các bạn sinh năm 1971 (Tân Hợi), 2007 (Đinh Hợi)

Quẻ mệnh: Tốn Mộc. Thuộc Đông tứ mệnh, ở nhà Đông tứ trạch

Các hướng giường tốt:

Hướng Bắc: đặc biệt tốt cho tài lộc, công danh, sự nghiệp, thuận lợi cho việc học tập.

Hướng Đông: tốt cho tình cảm, tình duyên may mắn, vợ chồng và con cái đều hòa thuận, vui vẻ.

Hướng Nam: tốt cho sức khỏe.

Màu sắc chăn ga gối, rèm cửa… nên dùng màu xanh mát nhẹ nhàng, màu ghi tối, màu đậm. Tránh màu trắng, vàng, sáng. Màu đỏ, hồng cũng không tốt cho sức khỏe.

Hướng giường ngủ cho quý cô tuổi Quý Hợi (1983)

Quẻ mệnh: Đoài Kim. Thuộc Tây tứ mệnh, ở nhà Tây tứ trạch

Các hướng giường tốt:

Hướng Tây Bắc: đặc biệt tốt cho tài lộc, công danh, sự nghiệp.

Hướng Đông Bắc: tốt cho tình cảm, tình duyên may mắn.

Hướng Tây Nam: tốt cho sức khỏe.

Màu sắc chăn ga gối, rèm cửa… nên dùng màu vàng, nâu, trắng. Tránh màu đỏ, hồng, tím, các màu xanh, màu lạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng kê giường phát tài cho quý cô tuổi Hợi

Tuổi Kỷ Tỵ 1989 hợp làm ăn với tuổi nào

Xem tuổi làm ăn, những người sinh năm 1989 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn muốn biết được tuổi 89 hợp làm ăn với tuổi nào? Nên chọn bạn làm việc hướng nào,... Tất cả đều có tại bài viết xem tuổi hợp làm ăn với Kỷ Tỵ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tuổi làm ăn, những người sinh năm 1989 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn muốn biết được tuổi 89 hợp làm ăn với tuổi nào? Nên chọn bạn làm việc hướng nào,... Tất cả đều có tại bài viết xem tuổi hợp làm ăn với Kỷ Tỵ.

Tuổi Kỷ Tỵ 1989 hợp làm ăn với tuổi nào

Vài nét về tuổi Kỷ Tỵ

Tuổi Kỷ Tỵ sinh năm 1989, thuộc cung Cấn mệnh Hỏa, mạng Cốt tinh Mộc.

Vài nét chung bề tuổi Kỵ Tỵ: là người thông minh giàu trí tưởng tượng, thích những nơi có phong cảnh đẹp, đa tình đa cảm. Nhân hậu, tính tình điềm đạm, hòa nhã.

Nghề thích hợp với tuổi Kỵ Tỵ: Những người sinh năm 1989 tốt nhất nên theo những nghề văn hóa xã hội như nhà văn, nhà báo, nhạc sĩ, nghệ sĩ, giáo viên, họa sỹ,... Nếu chọn con đường làm ăn, hợp nghề thì sẽ sẽ phát huy hết tài năng của mình và sẽ đạt được đỉnh cao danh vọng. Còn các nghề khác thì chỉ từng bước một tiến vững chắc mà thôi.

Xem thêm: Tuổi Mậu Thìn hợp làm ăn với tuổi nào?

Tuổi Kỵ Tỵ hợp làm ăn với tuổi nào?

Tuổi Kỵ Tỵ làm ăn hợp với tuổi  nào? Nên chọn những người có mệnh Thủy  (gồm Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu) thì làm ăn thuận lợi, được thịnh vương.

Nếu người sinh năm 1989 kết hợp làm ăn với những người có mệnh Hỏa gồm các tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi. Với những tuổi này tuy làm bạn bè có thể kết hợp làm ăn được, nhưng người Kỷ Tỵ sẽ bị thua thiệt, cho nên khi người tuổi Kỷ Tỵ làm ăn với các tuổi này thì phải làm cấp dưới hoặc trợ lí cho những người đó công việc mới thuận buồn xuôi gió.

Tuổi 89 hợp làm ăn với tuổi như Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu  là những người thuộc mệnh Mộc thì được bình hòa, không ai hại ai, cùng nhau bàn bạc làm ăn.

Kết hợp với những người có mệnh Thổ gồm Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi thì có điều kiện để tiến lên.

Tuổi Kỷ Tỵ không nên kết hợp làm ăn với các tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi thuộc mệnh Kim vì sẽ gặp trở ngại trong công việc làm ăn, có khi bị hại và sẽ bị thua thiệt nhiều.

Màu sắc hợp với tuổi Kỵ Tỵ: Màu đen, xanh biển đậm, xanh lục, hồng cánh sen nhạt.

Hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Kỵ Tỵ: Phương vị tài thần hợp  với Nam giới là nhìn hướng Tây Bắc. Nữ nhìn hướng Tây Nam.

Trên đây là tổng hợp những tuổi làm ăn hợp với người sinh năm 1989, hay trả lời cho câu hỏi sinh năm 1989 hợp làm ăn với tuổi nào, tuổi kỷ tỵ hợp làm ăn với tuổi nào,...

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại: Xem tử vi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Kỷ Tỵ 1989 hợp làm ăn với tuổi nào

21 nốt ruồi cực may mắn, 'hóa hung thành cát' trên cơ thể phụ nữ

Đây đều là những vị trí nốt ruồi cực tốt, không chỉ đem lại vận đỏ cho người sở hữu chúng mà còn phù hộ họ tai qua nạn khỏi, luôn có quý nhân phù trợ khi gặp nạn.
21 nốt ruồi cực may mắn,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nốt ruồi trên đỉnh đầu

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu

2. Nốt ruồi mọc trong lông mày

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-1

3. Nốt ruồi ở giữa trán

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-2

4. Nốt ruồi ở huyệt Thái Dương

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-3

5. Nốt ruồi ở tai

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-4

6. Nốt ruồi ở gò má

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-5

7. Nốt ruồi ở môi trên

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-6

8. Nốt ruồi ở môi dưới

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-7

9. Nốt ruồi ở gần cằm

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-8

10. Nốt ruồi ở sau gáy 

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-9

11. Nốt ruồi ở cổ bên phải

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-10

Xem tiếp trang sau

Alexandra V (theo F.C


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 21 nốt ruồi cực may mắn, 'hóa hung thành cát' trên cơ thể phụ nữ

Cách cục Cơ Lương gia hội

Hai sao Thiên Cơ và Thiên Lương Trấn mệnh tại cung Thìn Tuất lại có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội là hợp cách cục này, phần nhiều chủ về học hành giỏi giang, kiến thức uyên bác, quan tâm đến chính trị, có khả năng dự đoán, tính toán, nắm giữ binh quyền. Gặp được nhiều cát tinh, chủ đại phú, đại quý. Cát tinh ít thì phần nhiều theo những công việc liên quan đến quân đội, cánh sát, tư pháp. Nếu gặp sát tinh, phần nhiều trở thành giáo chủ về tôn giáo, hoặc người sáng lập nên tà giáo, nhà nghiên cứu thần học, triết gia, nhà tư tưởng, đại sư khí công. Nếu không gặp cát tinh cũng không gặp sát tinh là phá cách, chủ về tư duy kỳ quặc lập dị, có tài hùng biện, hợp với các nghề thuật sĩ giang hồ, tăng ni đạo sĩ, kỹ nghệ.
Cách cục Cơ Lương gia hội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ca Quyết:
Cơ Lương nhập miếu tối kham ngôn
Đắc địa giao quân phúc thọ toàn
Diệu toán thần sách ưng cái thế
Uy phong lẫm lẫm chưởng binh quyền

Nghĩa là:

Cơ Lương nhập miếu chẳng phải bàn
Đắc địa được phúc thọ song toàn
Dự đoán, tiên tri tài nức tiếng
Uy phong lẫm liệt nắm binh quyền

Trong kinh văn có viết: "Thiên Cơ lại gặp Thiên Lương ắt có tài nghệ cao cường". "Thiên Lương đi cùng Thiên Đồng làm đến hàn lâm, có tài binh lược". "Thiên cơ, Thiên Lương gặp Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc theo nghiệp văn thì thanh cao hiển đạt, theo nghiệp võ là trung thần lương tướng".

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Cơ Lương gia hội

Rước tài lộc vào nhà bằng bể cá cảnh

Nếu được đặt ở các vị trí phù hợp trong không gian nhà ở gia đình, bể cá cảnh sẽ mang lại tài lộc, may mắn cho gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Theo quan niệm phong thủy, bể cá cảnh có yếu tố của Thủy nên có tác dụng rất lớn trong việc điều hòa âm dương, tăng cường sinh khí và có thể làm mạnh thêm luồng khí cát hoặc thậm chí cả khí hung ở hướng đó.

Hướng tốt nhất để đặt bể cá là hướng Bắc hoặc Đông Nam. Hướng Bắc thuộc cung Quan Lộc, tượng trưng cho sự may mắn, tài lộc. Hướng Đông Nam thuộc cung Phú Quý, tượng trưng cho sự giàu có. Đặt bể cá theo hai hướng này được xem là sẽ mang may mắn tới cho gia chủ.

Dù mang ý nghĩa tốt nhưng bể cá tuyệt đối không nên để ở vị trí giữa cửa ra vào, ngăn cản luồng sinh khí vào nhà, đồng thời gây cản trở cho giao thông đi lại trong nhà. Bể cá nên đặt ở vị trí dễ nhìn trong phòng khách, tuyệt đối không nên đặt trong phòng ngủ vì phòng ngủ mang tính âm trong khi đó bể cá mang tính dương, rất kỵ nhau.

  

Ngoài ra, bể cá cảnh cũng không nên bố trí ở quá gần bếp nấu – khiến thủy khí của bể cá và hỏa khí của bếp nấu xung khắc. Phòng vệ sinh hay những nơi tối tăm ẩm thấp cũng không phải là vị trí thích hợp để đặt bể cá cảnh. Nếu phạm phải điều này, sức khỏe của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng và thường xuyên bị đau ốm, bệnh tật.

Một điều đặc biệt quan trọng trong phong thủy mà bạn nên “khắc cốt ghi tâm” đó là việc tuyệt đối tránh đặt tượng của thần Tài hai ba ông tam đa Phúc – Lộc - Thọ phía trên bể cá cảnh. Theo quan niệm phong thủy, cách bố trí này sẽ phạm phải cách cục “chính thần hạ thuỷ”, khiến gia chủ làm ăn thất bại, khuynh gia bại sản.

Khi lựa chọn loài cá để nuôi, bạn cũng nên chú ý mua những loại cá như Long Thổ Châu, Huyết Anh Vũ, cá Rồng, cá La Hán… giúp kích thích sự phát triển của tiền tài, danh vọng cho các thành viên trong gia đình.

  

Tùy theo mệnh của chủ nhà mà bạn chọn màu sắc của bể cá cho phù hợp. Tuyệt đối tránh những màu khắc mệnh, sẽ khiến bạn hao tốn tiền của và dễ thất thoát khi làm ăn. Với những người mệnh Hỏa thì phong thủy khuyên không nên đặt bể cá cảnh trong nhà.

Theo đó, nếu chủ nhà mệnh Mộc, nên chọn bể cá màu xanh lá cây; mệnh Thổ nên chọn màu xanh dương, mệnh Kim nên chọn màu trắng, mệnh Thủy chọn màu trắng hoặc xanh lá cây.

(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rước tài lộc vào nhà bằng bể cá cảnh

Cách sắp đặt con đường dẫn sinh khí vào nhà

Vận dụng thuật phong thuỷ trong thiết kế và sắp đặt nhà cửa thực chất là nghệ thuật hướng dẫn và hấp dẫn sinh khí, ngăn chặn tà khí vào nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh khí là vô cùng quan trọng trong một căn nhà. Không có sinh khí tức là không có sức sống. Để giúp độc giả nắm rõ hơn về vấn đề này, thầy phong thuỷ Bùi Cao Thế sẽ bàn tới những con đường dẫn sinh khí bao gồm lối vào và cửa chính của ngôi nhà - nơi đón tiếp sinh khí, vị thần may mắn của phong thủy Dương trạch.

1. Lối vào nhà

Lối vào căn nhà có thể là một con đường nhỏ, cũng có khi chỉ là những cấp bậc từ đường, cổng, hoặc từ sân vào nhà…Cho dù thế nào chúng ta cũng phải ghi nhớ những nguyên tắc cơ bản sau:

- Lối vào nhà không nên là một đường thẳng để tránh dù là tà khí, hay sinh khí dồn vào nhà quá mạnh đều gây sự bất ổn cho gia chủ. Tốt nhất tạo thế uốn cong nhẹ nhàng. Đối với nhà phố, đa phần lối vào nhà là một đường thẳng thì gia chủ có thể đặt một vài hòn đá hai bên theo hình zích zắc…cũng có thể bố trí chậu hoa cây cảnh…

- Lối vào nên rộng rãi, sáng sủa để hấp dẫn sinh khí, nên bằng phẳng. Nếu là bậc cấp không nên quá dốc. Nếu lối vào quá hẹp không nên trồng hoa, cây cảnh hai bên.

-Cây cối hai bên nên cắt tỉa gọn gang, tránh quá um tùm cản trở sinh khí vào nhà. Không bố trí những tảng đá quá dày…

-Lối vào nhà phải có bề ngang bằng nhau, nếu rộng trước cửa chính mà hẹp phía cổng thì sẽ ảnh hưởng đến sụ phát triển nghề nghiệp và giới hạn về tài chính.

-Lối vào nhà là những bậc cấp thì tốt hơn là trong cao, ngoài thấp. trong trường hợp nhà thấp hơn mặt đường người chủ sẽ vất vả, khó vươn lên như ý muốn…cần phải đặt ngọn đèn phía sau nhà để “nâng” ngôi nhà lên cao. Ngược lại nhà quá cao so với đường, lối lên quá dốc, thì phải trồng những chậu hoa hai bên để giữ sinh khí lại, hoặc đặt vài ngọn đèn phía ngoài đường để phản hồi sinh khí.

Như vậy lối vào của căn nhà là nơi dẫn khí ..như người đón khách. Người đón khách mà đẹp đẽ, tươi tắn… thì khách thấy vui vẻ, niềm nở, thoải mái. Khách sẽ thích hợp tác với gia chủ hơn.

2. Cửa chính của ngôi nhà

Cửa chính là nơi đón nhận sinh khí, còn gọi là khí khẩu của căn nhà. Cần phải tuân thủ những nguyên tắc sau:

- Cửa chính hướng phải phù hợp với cung mệnh của gia chủ.

- Cửa chính phải tạo được cảm giác hấp dẫn sinh khí vào nhà. Do đó từ hình dáng cánh cửa, màu sơn, tay vặn, màu sơn, ổ khoá… cũng phải tạo cảm giác thân thiện mời mọc.

- Cửa chính phải ở vị trí sáng sủa, có ánh sáng mặt trời là tốt nhất…nếu là hành lang thì nên thắp sáng bằng đèn điện

-Cửa chính phải tạo cảm giác an toàn cho sinh khí, tránh không bị “những mũi tên độc”…

- Kích thước cửa chính phải phù hợp với kích thước của căn nhà. Cửa nhỏ quá sẽ giới hạn sinh khí vào nhà, hạn chế may mắn, hạnh phúc, tài lộc đến với gia chủ, ngược lại …sinh khí vào quá nhiều sẽ gây mất quân bình, bất ổn cho gia chủ.

-Cửa chính không nên đối diện với cửa sau, nếu đối diện tiền tài khó giữ.

-Cửa chính không nên để nhiều nhửng vật cản như gạch, đá, đồ vật…cản sinh khí vào nhà. Cũng không nên đối diện với cửa nhà vệ sinh, cửa bếp, gầm cầu thang, bức tường chắn…

Như vây cửa chính ngôi nhà vô cùng quan trọng…được ví như gương mặt một con người phải luôn được sáng sủa, sạch sẽ, cởi mở…tạo cảm giác bình an, thân thiện hấp dẫn sinh khí.

3. Những biểu tượng bảo vệ cửa chính


Việc thường xuyên quan tâm và bảo vệ cửa chính là điều cần thiết, song với điều kiện kiến trúc đô thị hiện nay thì chúng ta không thể tránh khỏi những “mũi tên độc” do vậy chúng ta phải có những biện pháp hoá giải phù hơp.

- Gương bát quái treo phía ngoài cửa chính có tác dụng phản hồi những mũi tên độc.

- Súng đại bác để hoá giải những vật thể lớn như: cây cầu, cây thập tự giá, ăng ten khổng lồ, nhà cao tầng lớn…đặt đại bác trước cổng, cửa hướng về vật mà ta cần hoá giải.

- Mũi tên, cung, nỏ…có thể cheo cung nỏ hướng về phía vật cần hoá giải, hoặc gắn mũi tên lên mái nhà hướng về phía đó.

- Thú bảo vệ có thể dùng những biểu tượng thú dữ bằng đá như sư tử, kỳ lân, cọp, diều hâu…đặt ngoài cửa. Nhưng tốt nhất nên dùng biểu tượng chó đá vừa có ý nghĩa trấn tà, vừa bảo vệ tài sản cho gia chủ.

- Dùng cây để ngăn cản tốt nhất dùng cây xương rồng. Đặt hai chậu xương rồng, hoặc hai cây xương rồng đặt trên lưng hai con voi bằng sành sứ hai bên cửa chính.

- Nếu “mũi tên độc” từ bên trong thì chúng ta dùng những vật như chậu hoa, cây cảnh, phong linh, mành rèm, cầu thuỷ tinh, bóng đèn…để hoá giải.

Trên đây là những nguyên tắc cơ bản trong việc bố trí, sắp xếp, khắc phục... để đón tiếp sinh khí cho ngôi nhà của bạn mà thầy phong thuỷ đã sưu tầm qua kinh nghiệm của những người đi trước. Rất mong quí bạn độc giả nghiên cứu và vận dụng cho phù hợp với ngôi nhà của mình, để ngôi nhà bạn luôn tràn đầy sinh khí!


Thầy Ái Nhân – Bùi Cao Thế
Công ty Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Trang Kim
(Theo Dothi)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sắp đặt con đường dẫn sinh khí vào nhà

Tướng phụ nữ hiếm muộn đường con cái –

Tướng người phụ nữ hiếm con hoặc không có con thể hiện qua các đặc điểm khuôn mặt và thân hình như sau: - Tóc thô vàng và khô; lông mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng, hầu như không có. - Trán nhô quá cao; mắt lõm sâu, khu vực Lệ Đường (dưới mắt) khuyết lõm
Tướng phụ nữ hiếm muộn đường con cái –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ hiếm muộn đường con cái –

Các lễ hội ngày 15 tháng 4 Âm Lịch - Hội Chợ Bản

Vào ngày 15 tháng 4 có diễn ra lễ hội đó là Hội chợ Bản, được tổ chức quy mô tại xã Định Tường và Định Tăng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 15 tháng 4 Âm Lịch - Hội Chợ Bản

Các lễ hội ngày 15 tháng 4 Âm Lịch - Hội Chợ Bản

Hội Chợ Bản

Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 4 âm lịch (hội 3 năm mới mở một lần).

Địa điểm: xã Định Tường và Định Tăng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Ông Bà La Sát.

Nội dung: Buổi sáng ngày hội có lễ dâng hương tưởng nhớ công đức của Bà La Sát. Hội chợ bản thực chất là hội vui xuân, hội chợ buôn bán, người ta đến đây để trao đổi mua bán trâu bò, nông cụ sản xuất và sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên mục đích chính là để mua bán lấy may.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 15 tháng 4 Âm Lịch - Hội Chợ Bản

Luận sơ lược Tử vi Tuổi Dậu

QÚI-DẬU: 21 TUỔI: (Sinh từ 23/1/1993 đến 9/2/1994) Mệnh: Kiếm Phong Kim (Vàng gắn trên kiếm).
Luận sơ lược Tử vi Tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NAM: Cung Đoài, sao Thủy-Diệu, hạn Ngũ-Mộ : Tánh tình thẳng thắng, tôn trọng sự công bằng và đời sống đạo hạnh. Thông minh, chịu khó, nhẫn nhục, bình tỉnh. Tiền vận biết chịu đựng được nghịch cảnh. Trong gia đình là người con hiếu thảo. Có thể tự lập khi đi xa. Cuối đời thích tu hành hướng thượng. Nếu sinh mùa Xuân, Hạ tiền vận gian nan.  Sinh mùa Thu, Đông công danh rạng rỡ.  Hướng nhà cửa và làm ăn hạp với Tây-Nam, chính Tây và Đông-Bắc. Sau này lập gia đình nên chọn tuổi Mậu-Dần(1998), Qúy-Dậu(1993), Canh-Thìn(2000), Tân-Tỵ( 2001), Bính-Tí(1996), và Đinh-Sửu(1997).

“ Sinh mùa Xuân Hạ gian nan

Thu Đông phú qúi giàu sang một đời

Lúc tri thiên mệnh, yêu người

Thong dong phước lộc, ấy ơn Phật Trời.”

Năm nay tháng 4 tháng 8 chính mình, hay trong gia đình có người ốm đau bệnh hoạn hoặc tang chế bà con. Tuy nhiên muốn đổi môn học, đổi chỗ ở hay chuyển trường đi xa đều có cơ hội thực hiện. Phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng trước khi lái đi xa để tránh bị nằm đường.

NỮ: Cung Cấn, sao Mộc-Đức, hạn Ngũ-Mộ: Tánh nết hiền lương biết tu tâm dưỡng tánh chuyên cần học tập, con đường khoa bảng sẽ hanh thông. Hãy lạc quan và kiên cường để thực hiện cho bằng được những ước vọng của đời người. Bình dị, dí dỏm và tự tin nhưng đừng quá phô trương cường điệu! Bạn nào sinh ban đêm vào mùa Thu, Đông thì từ tình duyên gia đạo cho đến công danh đều thông suốt. Làm ăn hạp hướng Tây-Bắc và chính Tây. Lấy chồng hạp tuổi Tân-Mùi(1991), Qúy-Dậu(1993), Giáp-Tí(1984),  Qúi-Hợi(1983), Đinh-Mão(1987), Giáp-Tuất(1994). Cưới hỏi nên chọn ngày giờ trong tháng 1, hay 7 âm lịch là tốt nhất, bất luận năm nào.

“ Nữ nhân khả ái từ lương

Tu tâm dưỡng tánh tình trường thong dong

Cố công học tập tiến thân

Qúi nhân ái mộ ân cần trao duyên”

Năm nay gặp nhiều thuận lợi trong việc xin học bỗng, vay tiền đi học hay chuyển trường đi xa. Tốt nhứt trong mùa Đông. Tuy nhiên phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng trước khi lái đi xa, để khỏi bị nằm đường. Mọi tình cảm yêu đương đều phải gác lại, giành ưu tiên cho việc học mới vượt qua những khó khăn.

TÂN-DẬU 33 TUỔI: (Sinh từ 5/2/1981 đến 24/1/1982).

Mệnh: Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây thạch lựu).

NAM: Cung Khảm, sao Vân-Hớn, hạn Thiên-La: Rất sáng trí thông minh, đa tài, tốt bụng với bạn bè, ham chơi ham vui nên thường có những quyết định nông nổi, thiếu suy nghĩ chín chắn. Điều quan trọng là giờ nào việc ấy, đó mới là chìa khóa của cánh cửa thành công. Mặc dù chịu nhiều thăng trầm, đa số vẫn lạc quan, vô tư, không thấy âu lo.  Khi nào muốn tiến đến hôn nhân, nên chọn những tuổi Tân-Dậu (1981), Bính-Dần (1986), Đinh-Mão (1987), Mậu-Thìn (1988) và Kỷ-Tỵ (1989). Hướng nhà cửa và kinh doanh tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.

“ Đa tài sáng trí thông minh

Ham vui nóng nảy, giữ gìn lòng nhân

Buồn vui cũng bởi căn phần

Công danh sự nghiệp tự lần tiến thân”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Oc”: không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Đầu năm không nên đầu tư chứng khoán. Tất cả công việc dính liếu tới may rủi đỏ đen đều đem tới thảm họa. Tuy nhiên việc làm ăn có chiều hướng phát đạt đi lên. Bạn nào kinh doanh thương mãi sẽ phát tài. Bạn nào làm công chức hay hãng xưởng đều được lên chức, lên lương. Muốn đi xa xuất ngoại cũng thực hiện được.

NỮ: Cung Cấn, sao La-Hầu, hạn Diêm-Vương: Rất thông minh tự tin, hăng say trong học tập cũng như công vụ nên công danh thành đạt. Bạn nào sinh ban ngày vào mùa Thu, Đông, thường may mắn giàu sang. Mẫu người nhiều cá tính sâu sắc, nhưng  hiền lành nhẫn nại nên chung cuộc cũng đạt thành ý nguyện. Người hạp tuổi với mình là Tân-Dậu (1981), Giáp-Dần (1974) và Qúi-Sửu (1973). Bất luận năm nào, khi tổ chức cưới hỏi, nên chọn ngày giờ tốt trong các tháng 1, hay 7 âm lịch là tốt nhứt. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“ Hăng say học tập kỹ càng

Chuyên cần nghiên cứu dễ dàng đỗ cao

Trắng trong hạnh đức má đào

Rồng mây tương hội, anh hào trao duyên.”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Oc” không tốt cho việc xây cất nhà cửa, chỉnh trang cơ sở thương mãi.  Tháng 1, tháng 7 trong gia đình có người bị ốm đau hay tang chế bà con. Lái xe cũng phải cẩn thận trong hai tháng nói trên. Tuy nhiên công việc làm ăn phát đạt thịnh vượng, tiền vào nhanh như ngựa chạy. Bạn nào làm công chức cũng được lên chức lên lương. Nếu muốn có con thì nên có thai sau tháng 6, để sinh con Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ 20 năm.

KỶ-DẬU 45 TUỔI: (Sinh từ 16/2/1969 đến 5/2/1970).

Mệnh: Đại Dịch Thổ (Đất ở một vùng rộng lớn).

NAM: Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người thông minh, có chí lớn, bén nhạy dễ thích ứng mọi lãnh vực. Tuy nhiên đôi lúc tự ái tự cao nên việc lớn khó thành. Bạn nào sinh tháng 6, 7, 11 thích làm công ích xã hội, đời sống dễ sung túc ổn định. Trước 30 thành bại gian nan. Hôn nhân tình cảm nhiều phen trắc trở, có khi đi tới chia ly. Tuy nhiên ly hương sẽ thành công trong sự nghiệp. Người độc thân có thể tiến đến hôn nhân nếu gặp những tuổi Kỷ-Mùi (1979), Tân-Hợi (1971), Canh-Tuất (1970), Mậu-Thân (1968) và Đinh-Mùi (1967). Kỵ tuổi Giáp-Dần (1974) và Ất-Mão (1975). Hạp màu đỏ. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.

“ Mẫu người rất mực hiền lành

Thủ thường an phận lợi danh chẳng màng

Mai sau hết mọi gian nan

Giao duyên kỳ ngộ chàng nàng đẹp đôi”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tam Địa Sát”: không tốt cho việc xây cất nhà cửa, hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tuy nhiên công việc làm ăn có chiều hướng tiến lên thuận lợi. Đi buôn phát tài. Làm hãng xưởng được lên chức lên lương. Tốt nhứt trong mùa Đông.

NỮ: Cung Khôn, sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Mẫu người thông minh cố gắng thích nghi được mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên đôi khi quá do dự để mất những cơ hội có thể thành công lớn. Trước 30, từ tình cảm đến công danh đều gặp trở ngại. Tình duyên có khi phân cách chia ly. Tuy nhiên, ly hương tự lập, nhờ nhẫn nại và tốt bụng mà nên mọi việc.  Nếu sinh mùa Thu, Đông thường có số nhờ chồng. Hôn nhân hạp với những tuổi Tân-Hợi (1971), Giáp-Thìn (1964), Qúi-Mão (1963), Tân-Sửu (1961) và Đinh-Dậu (1957). Hạp màu đỏ.  Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“ Tình sâu nghĩa nặng thảo ngay

Hy sinh gian khổ có ngày yên vui

Cũng nhờ nhẫn nại rèn trui

Trăm năm hạnh phúc hưởng mùi vinh quang”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát”: Không nên xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tháng 4 tháng 8 trong gia đình có người bệnh hoạn ốm đau hay tang chế bà con. Lái xe ban đêm cũng phải cẩn thận đề phòng rủi ro trong 2 tháng nói trên. Trước khi lái xe đi xa, phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường.

ĐINH-DẬU 57 TUỔI: (Sinh từ 31/1/1957 đến 17/2/1958).

Mệnh: Sơn Hạ Hỏa (Lửa dưới chân núi).

NAM: Cung Đoài, sao Thủy-Diệu, hạn Thiên-Tinh:  Lúc nhỏ hay ốm đau lặt vặt khó nuôi. Khi thành nhân ngoài xã hội, bạn là người có tư cách, tự trọng, luôn phấn đấu để vươn lên. Trong gia đình, là người cha mẫu mực, nhịn nhục vô bờ bến, hết lòng vì vợ con. Qúi ông sinh mùa Xuân, Hạ sớm thành sự nghiệp. Hiền nội sẽ là người tri kỷ nếu nhằm vào các tuổi Ất-Tỵ (1965), Giáp-Thìn (1964), Kỷ-Dậu (1969) thứ đến là Kỷ-Hợi (1959), Mậu-Thân (1968) và Tân-Sửu (1961). Nhà cửa và kinh doanh tốt nhất trên hướng Tây Nam, Đông Bắc và chánh Tây. Tối kỵ màu đen, đi xe đen.

“ Thành nhân xã hội trọng tài

Tánh người mẫu mực miệt mài tiến thân

Vợ con đối đãi ân cần

Gia đình hạnh phúc nhờ ân đức dày.”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Ốc”: không tốt cho việc xây cất hay chỉnh trang nhà cửa cơ sở kinh doanh. Tháng 4, tháng 8 gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hay tang chế bà con. Trước khi lái xe đi xa phải bảo trì kỹ lưỡng tránh bị nằm đường. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Xấu nhứt là 2 tháng nói trên.

NỮ: Cung Cấn, sao Thái-Am, hạn Hùynh-Tuyền: Hay bị tai nạn ốm đau lúc nhỏ. Mặc dù tài giỏi thông minh, có nhiều cá tánh và tự tin nhưng làm việc gì lúc đầu cũng gặp trở ngại. Từ tình duyên cho tới sự nghiệp đều không được thông suốt trong hồi tiền vận. Qúy bà sinh mùa Xuân, Hạ dễ làm giàu. Sinh tháng 1, 5, 12 gia đình bền vững yên lành. Trong gia đình, bạn là người sống nhiều về nội tâm, nhẫn nhục, chịu đựng, lo cho chồng, hy sinh cho con. Hôn nhân chỉ yên khi nào đúng vào các tuổi Tân-Sửu (1961), Đinh-Dậu (1957), Qúi-Tỵ (1953), Tân-Mão (1951), Đinh-Hợi (1947) và Giáp-Thân (1944). Rất kỵ màu đen, hạp màu đỏ. Tối kỵ tuổi Ất-Mùi (1955). Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“ Thâm trầm sâu sắc nội tâm

Công dung ngôn hạnh âm thầm tự lo

Chồng con luôn được ấm no

Vợ hiền dâu thảo phước kho hưởng đầy”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Ốc”: không tốt cho công cuộc xây cất hay chỉnh trang nhà cửa và cơ sở thương mại. Qúy bà làm việc phải xử dụng nhiều về computer, nên chăm sóc kỹ lưỡng cho đôi mắt. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc gây tán hao tiền bạc nặng nề.

ẤT-DẬU  69 TUỔI: (Sinh từ 13/2/1945 đến 1/2/1946).

Mệnh: Tuyền Trung Thủy (Nước giữa dòng suối).

NAM: Cung Khảm, sao Vân-Hớn, hạn Địa-Võng: Tính tình ngay thẳng, tốt bụng, hay giúp đỡ người nhưng hay bị người lừa đảo phản trắc. Thiếu niên tân khổ. Phải tha phương tự lập mới thành sự nghiệp. Qúy ông là người đã thành công trên sự gian nan tân khổ. Từng gánh vác trọng trách và tạo thành tích vẻ vang. Trong gia đình, suốt đời yêu thương vợ con, hoàn thành nhiệm vụ làm chồng làm cha. Ngoài xã hội, luôn hy sinh cho gia đình thân thuộc với một tấm lòng sâu hơn biển. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.

“ Tánh tình ngay thẳng hiền lành

Là người tốt bụng rạng danh với đời

Nghĩa nhân mẫu mực tuyệt vời

Tấm lòng chung thủy trọn đời sắc son”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát”: Không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Đầu năm không nên đầu tư chứng khoán. Cuối năm bị ngộ nhận, hiểu lầm gây miệng tiếng thị phi.Tuy nhiên qúy ông kinh doanh thương mãi vẫn thủ đắc tài lộc dồi dào. Qúy ông còn làm công chức, công vụ vẫn vững vàng. Muốn đi xa xuất ngoại cũng thực hiện được.

NỮ: Cung Cấn, sao La-Hầu, hạn Địa-Võng:  Mẫu người thông minh tự tin. Nhiều cá tính sâu sắc thâm trầm, tế nhị và nhẫn nại. Qúy bà là người đa năng, đa hiệu. Đắc dụng từ trong gia đình ra tới ngoài xã hội. Trong gia đình, nội trợ đảm đang hoàn thành nhiệm vụ với chồng con. Ngoài xã hội, được người trên tín nhiệm, người dưới kính nể. Qúy bà sinh tháng 3, 6, và11 thường hưởng một đời sung túc vững bền. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“ Thục nữ son sắc tự tin

Thâm trầm tế nhị tự mình lo thân

Tình tiền danh lợi duyên phần

Phước tồn được hưởng chẳng cần lo xa”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm“Tam Địa Sát” không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh. Trong gia đình có người bệnh hoạn ốm đau hay tang chế bà con. Xấu nhất là tháng 1, tháng 7. Lái xe phải cẩn thận đề phòng rủi ro trong 2 tháng nói trên. Tuy nhiên, cũng có tin vui như thêm cháu nội, ngoại. Muốn đi xa xuất ngoại có thể thực hiện được.

Nguồn Vietstar

Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận sơ lược Tử vi Tuổi Dậu

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd