Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Màu tím trong phong thủy mang lại vượng khí –

Nếu đang giữ chức vụ cao trong một tập đoàn hay trong cơ quan nào đó, bạn hãy thêm màu tím cho hướng Nam của ngôi nhà, phòng khách hoặc văn phòng để củng cố địa vị. Nếu bạn muốn tăng thêm uy thế và thanh danh, hãy sơn màu tím cho tường phía Bắc. Tro

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu đang giữ chức vụ cao trong một tập đoàn hay trong cơ quan nào đó, bạn hãy thêm màu tím cho hướng Nam của ngôi nhà, phòng khách hoặc văn phòng để củng cố địa vị. Nếu bạn muốn tăng thêm uy thế và thanh danh, hãy sơn màu tím cho tường phía Bắc.

Trong phong thủy, màu tím tương hợp với mọi hướng và cũng là màu sinh vượng khí. Vì vậy, khi cần tăng thêm năng lượng cho không gian, bạn hãy sử dụng màu tím.

vuong-khi

Nếu đang giữ chức vụ cao trong một tập đoàn hay trong cơ quan nào đó, bạn hãy thêm màu tím cho hướng Nam của ngôi nhà, phòng khách hoặc văn phòng để củng cố địa vị. Nếu bạn muốn tăng thêm uy thế và thanh danh, hãy sơn màu tím cho tường phía Bắc.

Tím còn là màu tượng trưng cho tài lộc. Bạn hãy mặc đồ màu tím hoặc thắt cà vạt màu tím để nhận được lợi ích của nó về mặt phong thủy. Điều này đặc biệt có lợi cho người làm trong ngành tài chính, ngân hàng hay lĩnh vực kinh doanh…

Màu tím còn mang lại sự kỳ diệu trong tình yêu. Nếu muốn tình cảm thêm nồng nàn, bạn có thể sử dụng màu sắc này cho hướng Tây Nam của căn nhà hoặc phòng ngủ.

Hãy trang trí màu tím cho khung ảnh cưới để giữ tình yêu thương dài lâu giữa hai vợ chồng. Dùng chăn ga, gối đệm mang màu hoa oải hương hay nước hoa xịt phòng có mùi hương của loại hoa này sẽ mang lại cho bạn cảm giác thư giãn và giúp tình yêu đôi lứa thêm mặn nồng.

Bạn có thể sơn tường màu tím cho phòng trẻ hoặc lựa chọn đồ dùng màu tím để kích thích trí tưởng tượng của bé. Tường nhà phía Tây có màu tím sẽ khơi gợi nhiều ý tưởng hay và tạo cảm hứng sáng tạo cho bé, nhất là khi các bé sớm bộc lộ năng khiếu nghệ thuật như hội họa, múa…

Trong trường hợp sức khỏe của con bạn không tốt, hãy sơn màu tím cho tường nhà phía Đông, có thể giúp cải thiện thể trạng của bé.

Điều cần lưu ý là màu tím thường không dễ để phối hợp với các màu khác. Ngoài ra, màu tím có tính kích thích, bạn không nên sử dụng cho phòng tắm và nhà bếp vì sẽ dễ tạo ra nguồn năng lượng bất lợi cho các khu vực này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu tím trong phong thủy mang lại vượng khí –

Mơ thấy đeo vòng vàng có ý nghĩa gì? –

Vàng là kim loại quý hiếm được con người tìm thấy và sử dụng từ rất sớm. Từ lâu, giá trị của vàng đã được con người khẳng định và bảo vệ một cách đầy nhiệt tình. Vàng được làm trang sức chủ yếu cho phụ nữ và ở một khía cạnh nào đó, nó mang giá trị vậ
Mơ thấy đeo vòng vàng có ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đeo vòng vàng có ý nghĩa gì? –

Xem 4 đặc điểm của tướng mặt may mắn

Chúng ta vẫn thường cho rằng may mắn đơn giản chỉ là “ý trời”, ngẫu nhiên có may mắn, nó là một điều bí ẩn.
Xem 4 đặc điểm của tướng mặt may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuy nhiên, giáo sư Richard Wiseman, ĐH Hertfordshire (Anh) đã tìm ra quy luật may mắn khi tiến hành nghiên cứu với 400 người tuổi từ 18 – 84 trong suốt 10 năm.

Người lúc nào cũng cười “tươi như hoa”

Người này lúc nào cũng mỉm cười, tạo cảm giác thân thiện, gần gũi với người đối diện, đặc biệt là những người có má lúm đồng tiền. Và vận may ghé thăm người này rất thường xuyên.
4 dac diem tren khuon mat tiet lo van may hinh anh
Ảnh minh họa
Trán rộng và cao

Người có trán rộng và cao thường được coi là người thông minh, sáng sủa. Trong cuộc sống họ gặp nhiều may mắn vì được quý nhân phù hộ, giúp đỡ. Sự giỏi giang kết hợp với vận may luôn giúp họ thành công trong mọi lĩnh vực.
 
Dái tai dày

Người có dái tai dày thường được xem là người có phúc lộc đầy mình, may mắn của họ luôn đến bất ngờ. Họ hòa đồng với mọi người, không chỉ vậy mọi người rất quan tâm tới họ bởi sự rộng lượng và tấm lòng khoan dung. Do vậy, mọi người sẽ luôn giúp đỡ và tạo cơ hội cho họ để đạt được những thành tựu lớn trong đời.
 
Cằm tròn

Người có cằm tròn tính tình rất phóng khoáng, họ không thích tính toán với người khác. Những người này sòng phẳng nên rất được lòng mọi người trong công việc. Hạnh phúc và may mắn của họ tuy đến khá muộn màng nhưng viên mãn và bền vững theo thời gian.

► Xem nốt ruồi trên mặt đoán vận mệnh chuẩn xác

Theo Xemtuviso

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem 4 đặc điểm của tướng mặt may mắn

Ý nghĩa của hoa lan trong phong thủy –

Vẻ đẹp của hoa lan được coi là biểu tượng cổ điển tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở trong phong thuỷ. Hoa lan mang lại năng lượng giúp cân bằng những sự đổ vỡ. Lan là tên gọi chung của các loài thực vật thuộc họ lan, trên thực tế phân ra thành hoa,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vẻ đẹp của hoa lan được coi là biểu tượng cổ điển tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở trong phong thuỷ. Hoa lan mang lại năng lượng giúp cân bằng những sự đổ vỡ.

Lan là tên gọi chung của các loài thực vật thuộc họ lan, trên thực tế phân ra thành hoa, cỏ, gỗ (gồm hoa lan, lan thảo, mộc lan). Lan thảo và mộc lan lại có rất nhiều loại, trong “Kim chương lan phả” của Triệu Thời Canh – đời Tống, đã liệt kê ra hai mươi loại, Vương Quý Học trong cuốn “Lan phả” cũng liệt kê ra 50 loại.

Bài trí hoa lan trong nhà hội tụ được năng lượng may mắn, xua bớt tà khí.

hoa-lan-phong-thuy

Lan được mọi người yêu thích, trước hết là ở hương thơm, lan được gọi là “vương giả hương” (hương thơm vương giả), “hương tổ” (tổ tiên của hương thơm). Lan là biểu tượng của sự may mắn, phẩm chất cao thượng.

Vẻ đẹp của hoa lan được coi là biểu tượng cổ điển tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở trong phong thuỷ. Hoa lan mang lại năng lượng giúp cân bằng những sự đổ vỡ. Nó cũng là biểu tượng trong việc giúp tìm kiếm sự hoàn hảo trong bất kỳ lĩnh vực nào cho cuộc sống của con người.

Tiền tài, sự hoàn hảo, của cải, sắc đẹp, trong trắng – với khả năng thu hút những nguồn năng lượng như vậy, hoàn toàn có thể hiểu tại sao lan lại trở thành một trong những giống hoa được trồng trong nhà nhiều nhất ở phương Tây.

Người xưa thường dùng lan để đại diện cho hương thơm, từ đó gán cho lan vẻ đẹp hoa mỹ và rực rỡ. Rất nhiều từ ngữ xuất hiện thêm chữ “lan” như:

– Lan thất: Là căn phòng hương thơm tao nhã.
– Lan thời: Thời gian đẹp đẽ, chỉ ngày xuân.
– Lan chương: Lời văn hoa mỹ, dùng để ca ngợi thơ văn hoặc thư từ của người khác.
– Lan tảo: Ví với ngôn từ đẹp đẽ, tinh tế.

Không chỉ vậy, một số người còn ví phẩm chất của lan với con người, dùng để chỉ nhân phẩm và quan hệ luân thường đạo lý trong xã hội. Những từ có thêm lan như:

– Lan thạch: Hương thơm lâu bền, ví với tư chất tốt đẹp của con người.
– Lan chi: Ví với phẩm cách và đạo đức cao thượng.
– Lan tâm huệ tính: Ví với phẩm cách thanh cao trong trắng của người con gái.
– Lan giao: Chỉ bạn tri kỷ.

Ngoài ra, theo nhiều ghi chép, ngày xưa ái thiếp Yên Cơ của Trịnh Văn Công từng mơ thấy có vị tiên đem cho hoa lan, sau này sinh ra Mục Công – lấy tên là Lan, đây chính là nguồn gốc của “lan mộng”. Người đời sau đã phát triển thành “lan triệu”, chỉ điềm báo may mắn sắp mang thai và sinh con trai.

Lan không chỉ sở hữu hương thơm thanh khiết, còn có thể đuổi được côn trùng, tránh điều không may. Dân gian có tục cầm hoa lan tránh tà, hoặc pha lẫn hoa lan với phấn thơm, bôi lên quần áo, sách vở để đuổi côn trùng. Mùa hè hái lan về gội đầu, sẽ không có gàu.

Treo tranh hoa lan trong nhà cũng mang lại hiệu quả may mắn cát tường giống với bày chậu hoa lan tươi, những loại tranh như: lan hoa đổ, ngũ thụy đổ, quân tử chi giao…

Tuy nhiên, do hương thơm của hoa lan gây hứng phấn cao và dễ làm mất ngủ, vì thế tránh bày lan trong phòng ngủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của hoa lan trong phong thủy –

Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Đinh Sửu là con trâu nuôi ăn cỏ, tính cách cương dũng, chính trực, trung hậu, không có tư tâm.
Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Giai ma van menh nguoi tuoi Dinh Suu theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Đinh Sửu là người không ức hiếp kẻ hiền lành, gặp ác không sợ hãi, dám làm dám chịu, có tài năng, có kiến thức, thông minh nhưng ít hưởng phúc.
 
Giản hạ Thủy xuất phát là con sóng nhỏ, sau trở nên chảy xiết, nối liền dòng Nam Bắc, đứng đối mặt với cung vị Khảm, Ly. Lục Thập Hoa Giáp của Đinh Sửu là mệnh Thủy tụ phúc, ưa nhất gặp Kim; kỵ Tân Mùi, Bính Tuất tương hình, Bính Thìn tương phá. Nếu nạp âm Thủy Mộc vượng khí, âm dương hài hòa tất thành người hiển quý, phát đạt.
 
Thủy này trong xanh, ưa Giáp Ngọ Sa trung Kim, Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim, không ưa Canh Tuất Thoa xuyến Kim và Ất Mùi Sa trung Kim do phạm hình.
 
Nạp âm gặp Thổ, là người ăn chơi trác táng. Nếu là Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ còn có lý trí, hoặc còn biết “quay đầu là bờ”. Nếu là Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ; Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại dịch Thổ chủ tán tài gặp họa, hồ đồ, hết thuốc cứu chữa.
 
Không có Mộc mà có Thổ là tối kỵ. Không có Mộc lại gặp Tam hình, chủ hung tai.
 
Kỵ gặp Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa. Nếu trụ khác có 2 Hỏa mà không có Kim là người hoang dâm vô độ, dung mạo hung ác, lòng dạ đen tối, không thể làm bạn, nhất thiết chớ nên kết hôn. Chỉ ưa Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa, Ất Hợi Sơn đầu Hỏa.
 
Ưa nhất Bính Ngọ Thiên hà Thủy, gọi là Dẫn phàm nhập thánh cách, là tượng hàn môn xuất danh tướng, cá chép vượt vũ môn, trước nghèo sau giàu. Nạp âm có Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy, là người nóng vội.
 
Nếu nạp âm chỉ có Kim và Thủy, không có Thổ, Hỏa, là Thủy nguồn dài và trong, mệnh chủ là người quân tử.
 
Chi khác có Thân hoặc Dậu, phạm Không vong. Tọa thai chi là người mê muội, một đời phiêu bạt, mưu sự bất thành. Tọa nhật chi, vợ hoặc chồng mất sớm. Tọa thời chi, con cái yểu mệnh, cuối đời phá bại.
 
Chi khác có Hợi, mã bị hình, không nên làm kinh doanh. Chi khác có Tỵ, mã bị xung. Chi khác có Dần, phạm Kiếp sát, gặp năm Dần, không nên đi xa; tọa nhật trụ, vợ mất sớm; tọa thời trụ, con cháu bần cùng nghèo khổ.
 
Chi khác có Mùi, con cái duyên mỏng.
 
Can khác có Nhâm, thanh danh không tốt, mệnh nữ ngoại tình.
 
Can khác có Quý, cẩn thận đề phòng những việc tổn hại danh dự. Kỵ nhất Quý Hợi Đại hải Thủy, Quý Tỵ Trường lưu Thủy.
 
Đinh lộc tại Ngọ, ưa chi khác có Ngọ.
 
Người sinh năm Đinh Sửu mỗi khi gặp năm Sửu, Mùi, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.
 
Người tuổi Đinh Sửu chọn bạn đời chớ nên gặp người sinh năm Nhâm, Quý. Nên tìm người sinh năm Canh, Tân.

Theo Tử vi toàn tập
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Đinh Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Zombie - không chỉ ở trong phim

Từ Zombie được bắt nguồn trong ngôn ngữ của Ấn Độ, được ghép từ hai chữ “jumbie” – có nghĩa là thây ma và “nzambi”, có nghĩa là linh hồn người chết.
Zombie - không chỉ ở trong phim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sau khi những chuyện kể về Zombie được truyền vào vùng đất Trung Phi xa xôi, cái tên này đã được chuyển thành nzùmbe với ý nghĩa tương tự.


► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

Zombie - khong chi o trong phim hinh anh
 
Theo một số sách sử tại vùng đất Haiti thuộc Trung Phi có ghi lại, vào thế kỷ thứ 18 một số chúa đất giàu có thường xuyên tìm kiếm những nô lệ rẻ tiền làm các công việc nặng nhọc tại các đồn điền mía, cao su hoặc chăn dắt gia súc trên quy mô lớn. Tuy nhiên, đối với những công việc cần hao tốn nhiều sức lực như vậy, chỉ có những thanh niên với thân hình vạm vỡ và sức khỏe phi thường mới có thể cáng đáng nổi. Điều đáng nói là để thuê được những nô lệ này, chúa đất đều phải trả với giá khá cao.
 
Với mong muốn thuê được những nô lệ to khỏe nhưng lại trả công ở mức rẻ mạt nhất, lúc này tại cả một khu vực rộng lớn ở vùng Trung Phi, có nhiều nhóm người đã nghĩ ra một phương pháp kỳ dị để đạt được mục đích của mình. Phương pháp này có tên là nzùmbe, bắt nguồn từ chữ Zombie từ Ấn Độ- có nghĩa là xác chết hoàn trần.
 
Để thực hiện được phương pháp Zombie, các chúa đất đã chọn lựa và thuê những người vạm vỡ khỏe mạnh nhất. Sau đó những người này sẽ bị đầu độc bằng Tetrodotoxin, một loại độc dược cực mạnh được lấy từ gan của một số loại động vật để làm tê liệt hệ thần kinh con người từ 5 cho tới 7 ngày. 
 
Những nô lệ bị đầu độc bằng chất Tetrodotoxin, sau khi thấm độc cơ thể sẽ bất động như người chết thật. Gia đình sau đó vẫn làm mai táng hậu sự bình thường. Ở vùng Trung Phi thời xa xưa, người bản xứ ít khi dùng quan tài như ngày nay, họ chỉ bó chiếu hay đắp lên cơ thể người qua đời những tảng đá, cành cây... rồi lấp đất lên xác người xấu số.
 
Chỉ vài ngày sau khi người xấu số được chôn cất, các chúa đất đã sai người đến đào xác và cho người trúng độc một loại thuốc giải. Thuốc giải sẽ làm người chết tỉnh lại mà sức khỏe lại không hề giảm sút. Chỉ có điều, tinh thần trí nhớ của họ đã bị triệt tiêu hoàn toàn.
 
Sau khi đưa những nô lệ này trở lại trần gian, những “xác chết hoàn trần” này chỉ còn biết nghe lời chủ làm tất cả các công việc được chỉ định… cho đến khi họ hoàn toàn không còn sử dụng được nữa. Khi chúa đất cảm thấy nô lệ đó đã trở nên vô dụng thì họ không tiếp tục cho thuốc giải, khi này những Zombie sẽ phải chết thật sự bởi chất độc ngấm dần vào cơ thể.
 
Tại một số vùng đất thuộc khu vưc Trung Phi trước đây, cũng có nhiều trường hợp kẻ phạm phải những tội ác nghiêm trọng chống lại cộng đồng sẽ bị biến thành Zombie để trả giá cho tội lỗi của chúng trong quá khứ. Và thường những kẻ phạm tội này khi biến thành Zombie đều trở thành những người vô hại.
ST
 
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Zombie - không chỉ ở trong phim

Chùa Huyền Không Sơn Thượng - Huế

Đặt chân đến Huyền Không Sơn Thượng du khách sẽ bắt gặp một không gian thật yên tĩnh, cảnh quan kỳ ảo đẹp như trong chuyện cổ tích.
Chùa Huyền Không Sơn Thượng - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại thôn Chầm, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đặt chân đến Huyền Không Sơn Thượng du khách sẽ bắt gặp một không gian thật yên tĩnh, cảnh quan kỳ ảo đẹp như trong chuyện cổ tích.

Chùa Huyền Không Sơn Thượng hay còn gọi là chùa Huyền Không 2 để phân biệt với chùa Huyền Không (vẫn thường gọi là Huyền Không 1). Từ trung tâm thành phố Huế, đi ngược lên vùng ngoại ô Kim Long, ngang chùa Thiên Mụ rồi vòng qua một ngôi làng nhỏ có những hàng thông rậm rạp, qua những con đường đất gập ghềnh và những vườn rau xanh thắm, những cánh đồng lúa rập rờn…, bạn sẽ đến núi Chằm. Theo một con đường đất đỏ dẫn lên núi, bạn sẽ tới được chùa Huyền Không Sơn Thượng, nằm yên tịnh giữa những hàng thông rậm rạp cao vút và ríu rít tiếng chim.

Chùa được các sư Viên Minh, Tịnh Pháp, Trí Thâm, Tấn Căn dựng bằng tre nứa vào năm 1973 ở phía Bắc đèo Hải Vân, thuộc xã Lộc Hải, huyện Phú Lộc. Năm 1978, chùa được sư Giới Đức cho chuyển về vị trí hiện nay, cách chùa Thiên Mụ gần 3 km về phía Tây. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông.

Cổng chùa Huyền Không Sơn Thượng có sự khác biệt so với các ngôi chùa khác. Ở đây không có cổng Tam quan to lớn, cổng chùa chỉ như cổng của một ngôi nhà theo kiểu kiến trúc sân vườn Huế. Bước vào phía trong là một khu vườn xanh ngắt với những cảnh quan kỳ ảo, đẹp như trong chuyện cổ tích. Một cây cầu gỗ bắc qua dòng suối nhỏ nở đầy bông súng tím ngát là Phong trúc am.

Khác hẳn với chính điện của những ngôi chùa khác, chính điện ở đây là ngôi nhà nhỏ nhưng thoáng đãng, giản dị mái thấp và đơn sơ vách gió lùa. Chính giữa thờ duy nhất Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni như bất cứ ngôi chùa nào khác thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông.

Bên phải Phật điện là Yên Hà Các, với những đường nét kiến trúc uyển chuyển, được dùng làm nơi đón khách. Đó đây, dưới bóng những cây tre ngà lao xao hay trong khu rừng trúc um tùm là những bộ bàn ghế giả gỗ để khách ngồi nghỉ, tận hưởng sự yên ả thanh bình nơi cửa Phật. Nếu muốn bạn cũng có thể xốc ba lô lên vai, men theo những con đường mòn nhỏ leo lên những sườn núi xung quanh để từ đó thỏa thích ngắm nhìn toàn bộ thung lũng dưới tầm mắt của mình.

Băng qua khu vườn trúc là am Mây Tía. Đây là nơi những người yêu thích văn chương thi phú tìm đến để đàm đạo, bình thơ, ngắm gió trăng mây núi, là nơi các nhà thư pháp tập họp để luyện bút, khoe chữ…Vì lẽ đó, thư pháp hiện diện khắp nơi, khắc trên đá trong vườn, chạm trên gỗ, trang trọng treo trên tường, ghi trên cột cổng tam quan… Đó là những lời Phật dạy, những điều hay lẽ phải răn đời và răn người, những cảm xúc bất chợt của các cây bút, những bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng…

Con đường nhỏ phía sau tăng xá dẫn đến một khu rừng thông cổ thụ rậm rạp trên ốc đảo giữa Hàm Nguyệt trì. Đây là nơi diễn ra những cuộc triển lãm thư pháp trong thời gian có Festival Huế. Trên mỗi cây thông có gắn một cái giá bằng gốc tre. Đêm đêm, những chiếc đèn dầu đặt trên đó tỏa ánh sáng mờ ảo, hư hư thực thực, đầy quyến rũ. Bên kia hồ, ngôi nhà thư pháp lợp tranh nằm dưới chân núi, trầm tư soi bóng xuống mặt hồ quanh năm thơm ngát hương sen…

cầu nhỏ
Cây cầu dẫn vào Phong trúc am

Bên trái ốc đảo là hồ Lãm Thượng tím ngát hoa bèo tây. Khách thường đi trên Lãm Thượng kiều (cầu Lãm Thượng) để ra ốc đảo giữa hồ, nơi có cái chòi tranh nho nhỏ, vừa ngắm những bông sen e ấp nở, vừa trải tầm mắt nhìn những cái am nhỏ nơi lưng chừng núi. Ngắm chữ Phật khắc trên phiến đá phía bờ đối diện, bay bổng và trang nghiêm, chợt thấy tâm hồn bình an kỳ lạ…

Trụ trì chùa Thượng tọa Giới Đức – Minh Đức Triều Tâm Ảnh cũng là một nhà thơ, một nhà thư pháp tài hoa thì bạn sẽ không ngạc nhiên khi nhìn thấy thư pháp hiện diện khắp nơi, khắc trên đá trong vườn, chạm trên gỗ, trang trọng treo trên tường, ghi trên cột cổng …Đó là những lời Phật dạy, những điều hay lẽ phải răn đời và răn người, là những cảm xúc bất chợt của các cây bút, là những bài thơ của các nhà thơ nổi tiếng.

Về Huyền Không Sơn Thượng, giữa đất trời bao la, được trải lòng mình ra với thiên nhiên, để một phút sống thật với chính mình… là những cảm xúc không dễ gì bạn bắt gặp nơi ồn ào, náo nhiệt của chốn thị thành…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Huyền Không Sơn Thượng - Huế

Cách ái tình và các sao tình dục

Các cách về ái tình, sao tình dục của nam và nữ trong khoa tử vi. Tìm hiểu về các bộ sao tình ái.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách ái tình và các sao tình dục

Cách ái tình và các sao tình dục

1. Những sao tình dục chung của hai phái nam và nữ:

 a. Những dâm tinh nặng ý nghĩa nhục dục:

 

Tham Lang: Chỉ sự tham dục lớn lao, nhất là khi hãm địa thì tính nết càng sa đọa, hư đốn, lăng loàn. Thông thương, Tham Lang chỉ hạng người dễ động tình, xấu máu về sắc dục, bị thu hút bởi nhu cầu sinh lý và chạy theo nhu cầu này một cách mù quáng, bất chấp đạo đức, gia đình, dư luận. Nết dục của Tham Lang (võ tinh) có ít nhiều bạo tính, dục động, khó kìm chế. Ngoài ra, Tham Lang thụ hưởng sinh lý một cách ích kỷ, nghĩ đến mình nhiều hơn đến bạn đồng tình, thiếu tế nhị, cao thượng, vị tha. Tham Lang đặc biệt bất lợi cho phái nữ. Nữ có sao này có ít nhiều đĩ tính, nếu Phúc - Mệnh - Thân xấu và có thêm sao tình dục khác: đây là hạng gái giang hồ. Còn Nam số có Tham Lang là kẻ ăn chơi, đàng điếm, hoang dâm, nếu không có đủ sao mạnh chế khắc.

 

Thiên Riêu hãm địa (trừ ở Mão và Dậu): có ý nghĩa sinh lý rất mạnh, chỉ sự chơi bời, sắc dục, trụy lạc, sa đọa, xu hướng tình dục và tính nết dâm đãng. Như Tham Lang, ái tình của Thiên Riêu bừa bãi, mạnh mẽ, đồng thời có khuynh hướng xác thịt. Đối với sao này, không có vấn đề tình yêu lý tưởng hay tinh thần, chỉ có sự thỏa mãn vật chất. Nếu Thiên Riêu đắc địa ở Mão và Dậu, nết tình vẫn mạnh, chỉ được lợi là không bị tai tiếng xấu xa mà thôi.

 

Sao Thai: có ý nghĩa tình dục mạnh, thiên về sự thay cũ đổi mới và có đặc tính tái phạm, dù có cố gắng chừa.

 

Sao Đào hoa: chỉ sự ham thích ái tình, tính nết trăng hoa, đa tình, ham chinh phục để yêu và được yêu, lấy tình yêu làm lẽ sống của tâm hồn, để thỏa mãn một tình cảm chứa chan hoặc một nhu cầu sinh lý nồng nhiệt. Đối với Đào Hoa, hình thái của ái tình không quan trọng bằng cường độ của ái tình nên bao giờ cũng tha thiết, đam mê, si lụy, rung động mạnh trước ái tình và tham lam trong tình trường. Đào Hoa không những phong phú, nhằm nhiều đối tượng cùng một lúc mà còn lẳng lơ, sa đọa, bất chính, phi đạo đức. Sao này đại kỵ cho Nữ Mệnh.

 

Sao Mộc Dục: phóng đãng, ham muốn vật dục, khao khát yêu đương và quyến rũ yêu đương. Tính nết sinh lý của sao này ít nhiều hỗn loạn, không mấy chọn lọc đối tượng, bao hàm nhiều hình thái, từ sự tự thỏa mãn đến vấn đề đồng tính luyến ái. Tình yêu của Mộc Dục hơi quái dị, bất thường.

 

Sao Mộ: sao này chỉ sự dâm đãng thông thường.

 

Liêm Trinh hãm địa: chỉ khi hãm địa (ở Tỵ, Hợi, Mão và Dậu), Liêm Trinh mới có ý nghĩa dâm đãng. Đắc địa (ở Thìn, Tuất, Tý, Ngọ, Dần, Thân, Sửu và Mùi), Liêm Trinh chỉ tính nết hào hoa thông thường.

 

b. Những sao tình dục nặng ý nghĩa tinh thần:

 

Sao Hoa Cái: chỉ sự khao khát tình ái, sự thích thú được người khác phái chú ý và yêu đương, sự trêu cợt để cho bên kia phải chết mê, chết mệt vì yêu đương. Hoa Cái chỉ sự chưng diện, tính thích xa hoa, lộng lẫy để có một bề ngoài đài các, sang trọng, quyến rũ. Hoa cái chỉ sự kiểu cách trong bộ điệu, trong ngôn ngữ cho đến giọng nói uốn lưỡi, sửa giọng, lắm khi không tự nhiên, đôi khi lố bịch; sự ham chuộng các loại thời trang.

 

Sao Hồng Loan: so với Đào Hoa, Hồng Loan chỉ ái tình tương đối có nết hạnh hơn. Hồng Loan thu hút bằng sự quyến rũ do đức tính bên trong. Hồng Loan chỉ sự khéo léo chân tay, khéo léo ngôn ngữ, khéo léo về dáng điệu tức là những nét duyên về công, dung và ngôn.

 

Sao Văn Xương, Văn Khúc: không có ý nghĩa dâm đãng trực tiếp. Người có Xương Khúc có tâm hồn văn chương mỹ thuật, bắt nguồn từ những năng khiếu bẩm sinh về âm nhạc, nghệ thuật, thi ca nhưng rất đa tình, giàu tình cảm, dễ cảm xúc, tiếp nhận và tiếp phát tình cảm rất mạnh. Người có Xương Khúc có sự nhạy cảm, sự mơ mộng, sự kể lể văn chương, thiên hướng về cái tôi rất mạnh.

 

Sao Thái Âm: chỉ sự hữu duyên, hữu tình và đa tình. Người có Thái Âm rất lãng mạn, có khuynh hướng bộc lộ tình cảm, hay mơ mộng viển vông, có thể dâm đãng (nếu hãm địa, ý nghĩa này rất rõ rệt).

 

 

2. Những sao tình dục riêng cho nữ phái:

a. Sao đơn thủ:

Cự Môn hãm địa (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và Tỵ): nếu đóng ở Mệnh, Thân của nữ số. Chỉ tâm trạng bất mãn chung chứ không nhất thiết bất mãn về sinh lý, gặp nhiều ngang trái.

Hỏa Tinh, Linh tinh hãm địa (Tý, Thân, Dậu và Hợi): nằm mơ thấy yêu đương.

Thiên Không ở Mệnh của Nữ số: người dâm tiện, suốt đời bị ách gió trăng, là hàng ca kỹ, tì thiếp lăng loàn.

b. Sao hội họp:

Liêm Trinh, Tham Lang ở Tỵ, Hợi của Nữ số: vừa đắc kép, vừa tham dâm. Sự hội tụ ở 2 cung Tỵ và Hợi, nơi cả hai đều hãm địa, càng bất lợi cho phụ nữ: đó là những gái lầu xanh khả hữu.

Thiên Lương, Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: phóng túng, ham chơi.

Thiên Lương, Thiên Mã ở Tỵ, Hợi: phóng túng, ham chơi, thay đổi bạn liên tục.

Thái Âm hãm, Đà La: đam mê sắc dục. Đà La chỉ sự bất hạnh trong tình trường.

Thiên Đồng, Thiên Riêu: người không chung tình, thường thay đổi tình nhân và nếu có chồng thì ngoại tình.

Tham Lang, Đại, Tiểu Hao: giống như Đồng Riêu, chỉ trường hợp ngoại tình hay song tình, có mối tình thầm kín, được giấu diếm kỹ, không bộc lộ. Đây có thể là người bề ngoài đoan chính nhưng bên trong rất nồng nhiệt, chỉ phạm dâm khi có cơ hội hoặc là người đeo đuổi một lần hai mối tình trong đó phải bảo mật một mối.

Tham Lang, Phá Quân: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê, đổ vỡ về gia đạo. Đi với Tham Lang, người phụ nữ này vì tham dục nên bị liên lụy với gia đình.

Tham Lang, Thất Sát hãm địa (Mão, Dậu, Thìn và Tuất): nghiệp chướng về ái tình khó tránh khỏi. Nữ số có Tham, Sát ở Dần hay Thân là người bạc tình, mới chuộng cũ vong.

Thiên Cơ, Xương, Khúc: Nếu Phúc - Mệnh - Thân xấu gặp bộ sao này rất tham dâm. Nếu đi với Thiên Riêu hay Thai thì rất cuồng nhiệt và lăng loàn, đôi khi bộc lộ qua dâm thư kiểu như Hồ Xuân Hương.

Tham Lang, Đào Hoa: đồng nghĩa với Liêm Tham ở Tỵ, Hợi: người hồng nhan đa truân, gái giang hồ, phụ nữ chủ động cưới chồng.

Mộc Dục, Hoa Cái, Bạch Hổ: phụ nữ cuồng dâm, tính dâm ăn sâu vào máu huyết, thay đổi nhân tình như thay đổi xiêm y.

3. Vị trí các sao tình dục:

a. Sao tình dục ở cung Nô: ý nghĩa dâm đãng của đương số rất rõ ràng, có những mối tình ngoại hôn lang chạ, bừa bãi, không phân biệt giai cấp, đối tượng, kiểu như chủ lấy tớ ... Nết sa đọa của đương số còn tệ hại hơn. Chỉ có ngoại lệ khi có sao khắc chế ở Mệnh mà thôi.

b. Sao tình dục ở cung Phu Thê: hoặc vợ/chồng là người nhiều dục tính, tham dâm, có cuộc sống sinh lý dồi dào; hoặc vợ/chồng có ngoại tình; hoặc vợ/chồng có 2, 3 đời liên tiếp; hoặc vợ/chồng có thể đẹp hoặc duyên dáng, hữu tình.

c. Sao tình dục ở cung Tật: đương số có những bệnh họa liên quan đến sinh lý, tình dục, bộ phận sinh dục.

d. Sao tình dục ở cung Phúc: có thể biểu thị sự dâm đãng di truyền trong dòng họ (nếu cung Phụ hay cung Bào cũng có những sao này).

4. Những sao khắc chế tình dục:

Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương sáng sủa: tượng trưng cho sự ngay thẳng, đoan chính, trung hậu, tiết tháo. Ba sao này quân bình được các sao tình dục, kiềm chế được sự sa ngã đến mức độ đáng kể.

Ân Quang, Thiên Quý: chỉ phẩm hạnh, đức tính chung thủy, sắt son, tín nghĩa, trung thành. Hai sao này tiết giảm rất nhiều ý nghĩa trăng hoa của các sao tình dục.

Thiên Hình: chỉ sự chính trực, ngay thẳng, chính chuyên, mực thước, có ý chí đề kháng các loại cám dỗ của ái tình.

Long Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Thiên Đức (Tứ Đức): tượng trưng cho sự trong sạch, ý thức đạo đức trong vấn đề tình ái. Phải hội đủ Tứ Đức thì hiệu lực mới đủ mạnh vì Tứ Đức chỉ đủ để chế giảm các sao tình dục tầm thường.

Hóa Kỵ: Đồng cung với Liêm, Tham, Hóa Kỵ có thể chế được cái xấu của Liêm, Tham nói chung và từ đó chế cả tình dục mạnh mẽ của Liêm Tham nói riêng.

Lộc Tồn: chỉ sự chậm phát tình yêu, sự phát huy có chừng mực của sinh lý, đồng thời cũng có nghĩa cô độc trước tình yêu. Lộc Tồn là người kén yêu, khó khăn trong ái tình, chỉ yêu những đối tượng chọn lọc và có nhiều tính toán trong tình ái.

 

Triệt, Tuần: chế khắc tính nết dâm đãng khá mạnh. Triệt mạnh hơn Tuần mặc dù chỉ ảnh hưởng mạnh một thời gian mà thôi. Đi với Triệt, các dâm tinh hầu như mất hết ý nghĩa, không thể chi phối hay ảnh hưởng. Đi với Tuần, các dâm tinh vẫn còn chi phối con người một cách tương đối vừa phải suốt đời. Tình dục gặp Tuần, Triệt sẽ thiếu cơ hội bộc phát tự do, bị kìm tỏa trong tiềm thức, trong tư tưởng, không biểu lộ bằng hành động. Đây là trường hợp tình dục thiếu môi trường thuận lợi, bị ngăn trở, gặp ngang trái, bị cạnh tranh, gặp thất bại. Mặt khác, gặp Tuần Triệt, các sao tình dục sẽ có nghĩa là vô duyên, lỡ thì, cái duyên không có ai biết đến, không có điều kiện để trở thành ái tình (trường hợp gái già, trai muộn).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách ái tình và các sao tình dục

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng thường dùng vì khắp nơi đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.
Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Lễ Ban Công đồng thường dùng theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.

Các vị thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.

Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.

Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…

Sắm lễ cúng Ban Công đồng

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

– Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

– Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

– Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

– Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

– Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.

– Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

Hạ lễ cúng Ban Công đồng

Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.

Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.

Văn Khấn lễ Ban Công đồng

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương

– Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế

– Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu

– Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh

– Con lạy Tứ phủ Khâm sai

– Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu

– Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.

– Con lạy quan Chầu gia.

Hương tử con là:……………………

Cùng đồng gia quyển đẳng, nam nữ tử tôn

Ngụ tại:……………………………….

Hôm nay là ngày….. tháng….. năm Tín chủ con về đây……… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Lễ Ban Công đồng

Sao không phải là sao: tiền kình hậu đà; lộc tiền nhất vị, thị kình dương?

Bài viết của tác giả Ân Quang về Tiền Kình Hậu Đà. Một bài viết phân tích sâu sắc.
Sao không phải là sao: tiền kình hậu đà; lộc tiền nhất vị, thị kình dương?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài của Ân Quang

Kình Đà và Lộc Tồn tinh hệ

Trong bài trước, tôi có bàn về điểm dị biệt giữa Tinh, Diệu, Thân và Kình, Đà là hai khí lực luôn ở quanh Lộc Tồn.

Lộc tồn di chuyển đến đâu, thì Kình Đà cũng di chuyển theo bao quanh, ở hai cung giáp Lộc Tồn, theo chiều hướng “Tiền Kình Hậu Đà, Lộc Tiền nhất vị, thị Kình Dương”. Tiền và hậu đây là căn cứ vào vị trí của Lộc Tồn.

Bộ sao Quốc Ấn, Đường Phù cũng luôn luôn di chuyển theo Lộc Tồn, theo một hướng khác: “Thuận Cửu Nghịch Bát”. Thuận Nghịch đây là so với vòng xoay chuyển của địa chi.

Vì vậy, Lộc Tồn tinh hệ gồm cả thảy mười bảy sao. Đó là Lộc Tồn, Kình, Đà, Ấn, Phù, Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, ….

Chỉ vì sự xếp đặt trình bày dưới hình thức Đồ Biểu (xem thì có vẻ Khoa học) mà có sự ngộ nhận rằng Lộc Tồn tinh hệ chỉ có mười ba sao là Lộc Tồn, Bác sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu hao …

Mới đây lại có cuốn sách Tử-Vi, tách Lộc Tồn rời ra, lập thành Bác Sĩ tinh hệ, chỉ gồm có mười hai sao, khởi đầu là Bác Sĩ rồi đến Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu hao...

Tử-Vi tinh hệ chỉ có sáu sao, đó là: Tử-Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.

Thiên Phủ tinh hệ lại có tám sao, đó là: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Không có một định luật nào bó buộc rằng một tinh hệ chỉ có, hoặc phải có đúng mười hai sao. Có thể có mười hai sao, hoặc hơn hoặc kém số đó. Kình Đà luôn luôn ở quanh Lộc Tồn, Ấn, Phù cũng xê dịch tùy theo vị trí của Lộc Tồn tinh hệ. Và như vậy, Lộc Tồn tinh hệ có mười bảy sao.

Vì đâu mà có KÌNH DƯƠNG ở Dần Thân Tỵ Hợi. ĐÀ LA ở Tý Ngọ Mão Dậu.

Trước đây hai mươi mốt năm (1952), cuốn Tử Điển Tử-Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản tại Hà Nội có luận về các sao Kình, Đà như sau:

Kình Dương là Dương Tinh, phù cho người Dương Nam, Dương Nữ. Kình Dương Vượng ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Đắc địa ở Tỵ, Hợi, Dần, Thân. Hãm ở Mão, Tý, Ngọ.

Đà La là Âm tinh, phù cho người Âm Nam, Âm Nữ. Đà La Vượng ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Đắc địa ở Tý, Hợi. Hãm ở Dần, Mão, Tỵ, Thân, Ngọ, Dậu.

Cũng trước đây, trên hai mươi mốt năm (năm 1952), trong Tử-Vi Đẩu Số Quyển Hạ, ở trang 172 tác giả Nguyễn Mạnh Bảo có luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân, và qua trang 173 thấy có ghi là “ở cung Dần thì đắc địa”.

Vài năm sau đó (1957) tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân.Trong cuốn Tử Vi Chỉ Nam xuất bản năm 1957 (cách đây mười sáu năm), tác giả Song An Đỗ Văn Lưu cũng có nói về Kình Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi và Đà La ở Tý Ngọ Mão Dậu.

Và cứ thế tiếp tục, một vài cuốn sách Tử-Vi xuất bản gần đây cũng có luận về sự hung hãn của Kình Dương ở Dần, Thân.

Thế nhưng, áp dụng phương pháp an sao của quý vị tác giả ấy thì không thể nào tính cho có được Kình Dương ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và Đà La ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Quý bạn Tử-vi thử tính lại, hoặc xem lại phần chỉ dẫn an sao thì rõ.

Sở dĩ có sự lủng củng như vậy (luận về ảnh hưởng của Kình ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và Đà La ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu, mà trong phần chỉ dẫn an sao thì không có) là vì đã tách rời Kình Dương và Đà La ra khỏi Lộc Tồn tinh hệ. Rồi từ đó đã áp dụng lần lần câu: “Tiền Kình Hậu Đà, Lộc Tiền nhất vị, thị Kình Dương”.

Kình và Đà là hai khí vận luôn luôn đi theo kèm hai bên Lộc Tồn.

Tuổi Giáp, Lộc Tồn tại Dần

Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Mão, Đà La tại Sửu.

Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Sửu và Đà La tại Mão. Như vậy thì mới có trường hợp Đà La tại Mão (Tý Ngọ Mão Dậu).

Tuổi Ất, Lộc Tồn tại Mão

Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Thìn, Đà La tại Dần.

Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn

Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Dần và Đà La tại Thìn. Như vậy mới có trường hợp Kình Dương ở Dần (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).

Tuổi Bính & Mậu, Lộc Tồn tại Tỵ

Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Ngọ, Đà La tại Thìn.

Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Thìn và Đà La tại Ngọ. Như vậy thì mới có trường hợp Đà La tại Ngọ (Tý Ngọ Mão Dậu).

Tuổi Đinh & Kỷ, Lộc Tồn tại Ngọ

Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Mùi, Đà La tại Tỵ.

Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn

Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Lộc tiền nhất vị, thì Kình Dương tại Tỵ và Đà La tại Mùi. Như vậy mới có trường hợp Kình Dương tại Tỵ (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).

Tuổi Canh, Lộc Tồn tại Thân

Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại Dậu, Đà La tại Mùi.

Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương thì Kình tại Mùi và Đà tại Dậu. Như vậy mới có trường hợp Đà La tại Dậu (Tý Ngọ Mão Dậu).

Tuổi Tân, Lộc Tồn tại Dậu

Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương, thì Kình tại Tuất, Đà tại Thân.

Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại tại Thân và Đà La tại Tuất. Vì vậy mà có Kình Dương tại Thân (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).

Tuổi Nhâm, Lộc Tồn tại Hợi

Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương, thị Kình Dương tại Tý, Đà La tại Tuất.

Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại tại Tuất và Đà La tại Tý (Tý Ngọ Mão Dậu).

Tuổi Qúy, Lộc Tồn tại Tý

Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Sửu, Đà La tại Hợi.

Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn

Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà Lộc tiền nhất vị, thị Kình Dương thì Kình Dương tại Hợi và Đà La tại Sửu. Vì vậy mới có trường hợp Kình Dương tại Hợi (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).

Cụ Song An Đỗ Văn Lưu, khi bàn về Miếu, Vượng, Hãm của các sao có nói Kình Dương Hãm ở Tỵ, và Đắc địa ở Dần, Thân, Hợi.

Cụ Ba La trong khi luận giải kỹ một vài lá số, cũng đã an Kình Đà và luận về sự Đắc, hãm của bộ sao này như vậy. Tuy nhiên, với một vài người chưa thông cảm lắm, hoặc có thái độ chất vấn, đánh đố phiền phức thì Cụ không ham muốn tranh luận phải trái làm gì. Giá trị của Tử-Vi không phải chỉ thu gọn vào một số công thức khô khan để giải đáp những khắc khỏai giây lát mà nằm ở những quan niệm sâu xa, luận giải tế nhị. Luận giải tế nhị với người chưa nắm vững căn bản thì mất nhiều thời giờ, có khi lại đi đến chỗ tranh luận phiền phức, hơn thua chẳng lợi lộc gì.

Trong khi sưu tầm các quan niệm Tử-Vi xưa, tôi không hề có ý dựa vào quan niệm của Cụ Ba La hoặc của Cụ Song An làm tiêu chuẩn cho chân lý Tử-Vi. Tôi chỉ muốn trình bày rằng, sự vội vã công thức hóa Tử-vi, thu gọn Tử-vi vào trong một số đồ biểu, đã làm thất lạc những quan niệm thâm thúy của người xưa. Thọat nhìn qua thì một số công thức, đồ biểu, có vẻ khoa học, dễ hiểu, để áp dụng cho người mới nhập môn. Nhưng khi bình tâm tính kỹ lại thì dễ có điểm mâu thuẫn khó giải quyết, hoặc thiếu ý nghĩa sâu rộng khiến cho người nghiên cứu Tử-vi khó có thể tiến xa được.

Mâu thuẫn không phương hướng giải quyết, vì như bên trong có cuốn sách thì luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân; có đoạn sách nói là Kình Dương ở Dần là Đắc Địa, mà ở phần chỉ dẫn an sao, không tính cách nào cho có được Kinh Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi (chỉ vì đã tách rời Kình Đà ra khỏi Lộc Tồn tinh hệ, áp dụng lầm lẫn câu Tiền Kình Hậu Đà. Lộc Tiền Nhất Vị, Thị Kình Dương).

CÁC CUNG MIẾU, ĐẮC, HÃM ĐỊA CỦA KÌNH DƯƠNG VÀ ĐÀ LA

Phần lớn các sách Tử-Vi đều luận rằng:

– Bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Miếu địa của Kình Dương và Đà La.

– Bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi là Hãm địa của Đà La.

Riêng về Kình Dương thì Hãm địa là cung Tỵ, và Đắc địa là Dần Thân và Hợi.

Theo cụ Song An (tác giả cuốn Tử-Vi chỉ Nam) thì Kình, Đà cũng Đắc địa tại Tý, có đọan lại luận là Bình.

Tôi thiển nghĩ là không nên phân vân, khẳng định hoặc phủ nhận một công thức nào. Các công thức trong Tử-Vi không phải là đã được lập thành bởi những định luật tóan học, vật lý, hóa học, máy móc, mà bởi “kinh nghiệm”. Tử-Vi là một môn Khoa Học luận tương đối. Không có đơn vị nào để đo lường sự sai biệt giữa Đắc và Bình, giữa Miếu và Vượng. Một sao “Bình” mà được đa cát tinh giao hội vẫn đắc lực hơn một sao “Đắc” mà đứng chơi vơi một mình, không được phò tá.

Những công thức Tử-Vi được lập thành do những quan niệm Lý Học, do sự luận giải, chiêm nghiệm, kinh nghiệm. Muốn chiêm nghiệm, rút kinh nghiệm thì cần hiểu ý nghĩa, tính chất các sao ấy. Có hiểu ý nghĩa các Sao thì mới có thể nhìn xâu xa, vì các Vị sao trong Tử-Vi, không phải là những con số. Trên các vị sao ấy (tạm gọi chung là như vậy) có khi còn kéo theo cả một nhân sinh quan, một vũ trụ quan. Người xưa đã ngụ ý rất nhiều khi đặt tên các vị Sao.

Ý NGHĨA CỦA KÌNH DƯƠNG VÀ ĐÀ LA

Trong vòng Lộc Tồn, thì Thanh Long và Bệnh Phù là hai ngôi luôn luôn đối chiếu nhau.

Gặp Bệnh Phù ở cung chính thì ít người để ý, mà lại tập trung cái nhìn của mình vào Thanh long, từ ngoài chiếu lại.
Khi xem cung Thìn là cung chính, gặp Bệnh phù ở đó thì không kể đến, mà lại chú trọng luận giải Thanh Long ở cung Tuất chiếu vào. Bệnh Phù và Thanh Long cùng ở trong một vòng sao, hai ngôi luôn luôn đối chiếu nhau. Vì sao lại bỏ Bệnh Phù ở bên trong, để nhìn vào Thanh Long bên ngoài? Ấy cũng chỉ là thói quen vội vã thông qua những tên sao nào có vẻ rắc rối khó hiểu, chỉ nhìn vào những sao nào có vẻ dễ hiểu, hoặc có vẻ hấp dẫn hơn.

Bệnh phù là cái gì mơ hồ, nghe có vẻ như bệnh hoạn, phù thũng. Thanh long nghe có vẻ sáng sủa hấp dẫn hơn. Thế rồi, khi xem cung Thìn là chính, thấy có Bệnh phù, cũng bỏ đó, hãy luận về Thanh Long ở cung Tuất chiếu vào đã.

Một vài người nghiên cứu Tử vi thường có thói quen như vậy. Nhờ linh tính, trực giác, gặp may nhiều khi cũng đoán đúng. Nhưng, thiển nghĩ rằng sự đoán đúng này, dùng để chứng minh ảnh hưởng của trực giác chứng minh cái thuyết “Phúc chủ lộc Thầy”…thì đúng hơn là để đi tìm cái tinh hoa của môn lý học.

Cũng do sự vội vã thông qua, do thói quen dồn các bộ sao vào một công thức mà không mấy người, không mấy cuốn sách tử vi nói rõ điểm dị biệt giữa Kình và Đà, Linh và Hỏa, Khôi và Việt, Không và Kiếp…

Cứ nói rằng Kình Đà, Không Kiếp, Linh Hỏa, là bộ lục Sát. Rồi thì Kình cũng như Đà, Đà cũng giống Kình, Kiếp cũng như Không, Không cũng là Kiếp, Linh cũng như Hỏa – Hỏa cũng giống Linh hay sao?

Cứ nói rằng “Tọa khôi hướng Việt”, “Tọa Quý hướng Quý” là quý cách, Khôi và Việt là bộ văn tinh, Quý tinh. Rồi Khôi cũng là Việt. Việt cũng giống Khôi hay sao?

Có tìm hiểu ý nghĩa dị biệt giữa Kình Dương và Đà la thì mới thấy được cái Lý Kình Dương luôn luôn đứng chung với Lực sĩ, khi tính Tiền Kình Hậu Đà.

Có tìm hiểu ý nghĩa khác nhau giữa Kình Dương và Đà La thì mới hiểu được, chiêm nghiệm trường hợp, cùng thì người tuổi Tân, Dương Nam Âm nữ có Kình Dương tại Tuất, Âm nam Dương Nữ có Đà la tại Tuất, Kình tại Tuất hay Đà tại Tuất cũng đều nhập miếu. Vậy hai trường hợp nhập miếu này khác nhau ra sao?

Ngày nay, cách viết tên hai vị “Sao” này bằng chữ Hán cũng có một vài trường hợp lủng củng, thất truyền, khiến cho người nghiên cứu ít nhìn thấy điểm dị biệt giữa Kình và Đà.

Những điểm tế nhị còn nhiều, không thể kể hết trong một vài trang giấy, tôi xin trình bày thêm vào những kỳ Giai phẩm tới.

KHHB số 40


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao không phải là sao: tiền kình hậu đà; lộc tiền nhất vị, thị kình dương?

Sinh năm 1992 mệnh gì –

Người sinh 1992, Nhâm Thân, có Ngũ hành năm sinh là Kiếm Phong Kim, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung CẤN, hành THỔ, hướng Đông Bắc, quái số 8, sao Bát Bạch, Tây tứ mệnh (Hướng nhà tốt: Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam). Đeo đá màu
Sinh năm 1992 mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh năm 1992 mệnh gì –

Tướng người yểu mệnh –

Theo nghiên cứu của nhiều học giả tướng mệnh học Trung Quốc cổ đại, con người có tướng mệnh, tướng thanh, tướng hình. Theo một quy luật nào đó, những người có các đặc điểm tướng mệnh theo tổng kết thì mang một số phận, tính cách tương ứng. Về tướng y
Tướng người yểu mệnh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người yểu mệnh –

Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Chàng trai trẻ 28 tuổi kể lại giấc mơ của mình như sau: Trong mơ, tôi thấy mình đang vẽ tranh nơi đồng xanh bao la. Hôm đó, hình như là một ngày đầu hạ, hoa cỏ đua nhau khoe sắc dưới ánh nắng hè. Lúc đấy, một bé gái từ đâu chạy đến gần chỗ tôi, em nh
Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Cầm tay biết ngay người số hưởng nếu kết hôn trễ

Nếu bạn có một trong những đặc điểm bàn tay sau mà vẫn đang lẻ bóng thì hãy mừng đi vì kết hôn càng trễ càng được hưởng lợi đấy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đường tình duyên chia làm hai nhánh song song

Bàn tay phụ nữ mà có đường tình duyên dạng này thường gặp trắc trở, đau thương mà nguyên nhân bắt nguồn từ sự yếu mềm, vị tha của họ. Họ thường yêu bằng hết tâm can, bỏ qua các điểm thiếu sót của đối phương một cách dễ dàng từ đó tạo cho người yêu thói quen xấu, ỷ lại coi thường tình cảm. 

Vì thế, những người này khi kết hôn muộn sẽ chín chắn hơn, thấu hiểu hơn sau nhiều lần va vấp, biết được tình yêu chân thành phải đến từ cả hai phía thì hôn nhân mới viên mãn, tròn đầy được. 

2. Ngón tay lộ rõ vân tiền tài

Vân tiền tài là một đoạn thẳng ngắn nằm giữa khóe giữa ngón út và ngón đeo nhẫn, thường kéo dài đến đường tình duyên rồi dừng lại. Người sỡ hữu vân tiền tài này có số lấy chồng danh gia, vọng tộc, không phải hao tổn trí lực lo chuyện cơm áo gạo tiền. 


ban-tay-1
Ảnh: Internet

Vì thế phụ nữ sở hữu vân tay này, dù có lấy chồng sớm hay muộn thì cũng không cần phải quá lo vì tỉ lệ được chồng giàu đón về dinh là khá cao. 

3. Có nốt ruồi trong lòng bàn tay

Không như câu truyền của ông bà ta để lại là “nốt ruồi trong tay ăn vay suốt đời”, thuật xem tướng lại cho thấy người sở hữu nốt ruồi trong lòng bàn tay là cực kì may mắn. Không những dễ dàng năm giữ tài lộc mà dù có lấy chồng muộn cũng được gia đình bên chồng yêu quý, chồng cưng như trứng mỏng. 

4. Ngón cái mềm, uốn cong dễ dàng

Những người này thường đòi hỏi được yêu chiều, chăm sóc như công chúa trong tình yêu, từ đó khiến đối phương dễ chán nản mà bỏ cuộc. Vì thế người có tướng tay này thường trắc trở, lần đận. Chỉ nên kết hôn khi tuổi đời chín chắn mới mong có hạnh phúc lâu dài.


ban-tay-2


Ảnh: Internet

5. Đầu ngón tay út mềm yếu

Phụ nữ có ngón tay út mềm thường sống chân thành, ruột để ngoài da chính vì thế hay bị người khác lợi dụng. Sau nhiều lần đổ vỡ thường mất niềm tin vào tình yêu, chính vì vậy hôn nhân cũng thường dang dở, không hạnh phúc. Phải về sau này, khi đã tỉnh ngộ, rút ra được nhiều chân lí sau các vấp ngã thương đau mới tìm được hạnh phúc 

(Tổng hợp) 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cầm tay biết ngay người số hưởng nếu kết hôn trễ

Phương pháp tích thiện

I. Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui Mười gương mẫu của người xưa Kinh Dịch nói: một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui. Xưa bà Nhan thị đem con gái gả cho Thúc Lương Hột là bà xét kĩ thấy gia đình đó tổ tông đã từng tích đức lâu đời mà đoán biết trước là con cháu họ về sau sẽ hưng thịnh phát đạt.
Phương pháp tích thiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng đáng.

1.  Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả. Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn.

Kịp cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá, có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ Bách thố vậy.

Sau sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình cháu chắt còn có nhiều người hiền.

2.  Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ.

Nhà rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ.

Về sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó.

3. Xưa vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh.

Tạ Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa.

4.   Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả.

5.  Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ.

6.  Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người thế thân rồi.

Ông ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy như thuở ban đầu.

Ông lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay thật là nhiều vô kể.

7.  Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân.

Phụ thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ.

8.   Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công minh.

Ông lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan, thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan chức hiển hách cả.

9.   Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão.

Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác. Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách.

10.   Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy.

Người vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh.

Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành.

II–Thế nào là thiện ?

1.  Bàn luận rõ ràng về thiện.

Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích.

Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao?

Hòa thượng nói: Người phàm tâm tình chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho.

2. Định nghĩa chữ thiện

Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc thiện mà có lợi ích cho người là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân, còn tư là giả.

Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng.

Thế nào là ngay thẳng,  khuất khúc? Nay ta thấy một người cẩn thận dễ bảo mà vội phân loại ra cho là thiện nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn. Người cẩn thận dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt, nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức. Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy.

Suy rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục.

Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để nhĩ mục sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận.

Thế nào là âm thiện, dương thiện? Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất kì xảy ra. Người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì con cháu họ sẽ được đáp đền, mau chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện cần phải cẩn thận suy xét cho kỹ.

Thế nào là phải và chẳng phải? Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa.

Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, mà cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho cả thiên hạ đại chúng nữa.

Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà thôi. Tuy nhiên, ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng.

Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượi mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác.

Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử sự cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn.

Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng.

Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy.

Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi. Trên đây là một thuyết nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy.

Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy.

Hơn nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi.

Thế nào là đại và tiểu?Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo: Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là: Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân mình thì tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy.

Thế nào là khó và dễ?Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong.

Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu.

Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, khó nhưng mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy.

3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện

Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư, khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật.

Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện?Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa.

Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy.

Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người;

chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy.

Một là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay, không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật lại cho mọi người cùng hay biết.

Phàm những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân tử coi thiên hạ là công mà mình là tư.

Thế nào là giữ lòng kính mến người?Người quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn tâm vậy.

Chỗ tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân, hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ, nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy.

Thế nào là thành toàn việc thiện của người?Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi.

Đại khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưu thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính tình cương trực không trọng bề ngoài, không ưu tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng.

Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì lợi danh. Đối với những người còn mải mê tham danh, tham lợi, tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô biên vô lượng.

Hàm Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết, không có trí tuệ vậy.

Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy.

Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn?Nhỏ như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến thiết có lợi ích c
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp tích thiện

Có phải lông mày dài có tướng làm quan?

Bộ vị Trung chính gồm 11 bộ vị bộ phận, trong đó, ở bộ vị bộ hận là Ngạch giác, nếu lông mày đoan trang, thanh tú kéo dài tới bên trán thì sẽ làm quan.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bộ vị Trung chính trên khuôn mặt xét thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Trung chính, Ngạch giác, Hổ giác, Ngưu giác, Phù cốt, Nguyên giác, Phủ chiến, Hoa cái, Phúc đường, Thái hà, Giao ngoại. Trong đó, bộ vị bộ hận là Ngạch giác là chủ của phú quý, hiển hách. Ở bộ vị bộ phận này, nếu lông mày đoan trang, thanh tú kéo dài tới bên trán thì sẽ có tướng làm quan.

bi-vi-trung-chinh

Ngạch giác là vị trí của phú quý, hiển hách.

Nếu lông mày đoan trang thanh tú kéo dài tới bên trán thì sẽ làm tể tướng, nếu là nữ giới mà có tướng này thì sẽ được làm hậu phi; nếu mày mỏng cong lại nhỏ như hình con giun thì người này có lòng đố kỵ lớn.

Hổ giác, hay còn gọi là “nghi lộ”, chủ vị trí tướng soái, nắm giữ binh quyền. Đồng thời còn chủ quản cả việc xuất hành.

Sắc tốt thì có lợi cho việc xuất hành, khí sắc không tốt thì tránh không ra ngoài là tốt nhất. Người mà có nốt ruồi đen ở vị trí này thì không nên đi xa.

Ngưu giác, chủ quyền quý.

Đầu xương nhô lên và dài như sừng thì có thể làm tể tướng.

Phù cốt, chủ làm chức vị.

Người mà xương to thì làm quan to, xương nhỏ thì làm quan nhỏ, có khiếm khuyết thì cả đời không được làm quan.

Nguyên giác, chủ quan lộc.

Xương nhô lên như hình chiếc sừng thì cả đời có quan lộc, nếu không thì cả đời chẳng thể được làm quan.

Phủ kích, chủ làm võ quan.

Xương mà nhô lên thì có binh quyền. Màu sắc tốt thì là quan võ, thanh quý hiển hách; nếu có khiếm khuyết thì có thể sẽ phải bị bỏ mạng vì họa binh đao.

Hoa cái, chủ việc tà chính.

Sâu mà dày nặng thì trường thọ và được làm quan, ngắn thì đoản mệnh mà còn phải chịu hình thương, nông và mỏng thì có tai nạn. Sắc ác, có nốt ruồi đen và lõm là điềm báo vận mệnh chẳng thể dài lâu. Hoa cái còn được gọi là “Bì bộ”, nếu bộ vị này sắc khô thì kinh doanh bị lỗ vốn.

Phúc đường, chủ phúc lộc.

Nếu đầy đặn thì cả đời làm quan, không có tai họa, giàu có và trường thọ; hẹp và mỏng thì nghèo, khó, đoản mệnh, không được làm quan và thậm chí còn có tai họa xảy đến.

Giao ngoại, chủ vị trí của cát hung khi xuất ngoại.

Màu sắc không tốt thì không thể đi xa, đầu xương nhô lên thì cả đời không nên đi xa; có nốt ruồi đen, khiếm khuyết thì có thể sẽ phải bỏ mạng nơi đất khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có phải lông mày dài có tướng làm quan?

Thơ chúc Tết hay nhất 2017

Những lời thơ chúc Tết hay nhất 2017 dành cho bạn bè, hãy lựa chọn những vần thơ, câu đối Tết thích hợp để tặng cho người thân và gia đình một năm an lành
Thơ chúc Tết hay nhất 2017

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thơ chúc Tết 2017 hay nhất

*

Xuân đến xin chúc bà con

Đàn ông sức khỏe vẫn còn y nguyên

Đàn bà thêm đẹp, nhiều duyên

Trẻ con nho nhỏ có tiền ăn chơi!

*

Màu xuân chim én lượn chao

Đinh Dậu năm mới, ta vào chúc nhau.

Chúc bố sức khỏe dồi dào

Mẹ thêm tuổi mới, ốm đau chẳng còn.

Mãi mãi sống cùng các con

Cùng nhau hạnh phúc, chúng con vui vầy.

Anh em con cùng đến đây

Sum vầy hạnh phúc, đón đầy lộc xuân

*

Năm mới chúc nhau sức khỏe nhiều

Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu

Gia đình hạnh phúc bè bạn quý

Thanh thản vui chơi mọi buổi chiều

*

Tết đến pháo nổ giòn tai

Chúc sếp phát lộc, phát tài, phát xuân

Trong ngoài thuận lợi xa gần

Hợp đồng dễ trúng, mười sân thắng mười.

*

Mong mình năm mới gặp may

Nhà ai vẫn mãi bóng ngây đợi chờ

Tuy rằng năm trước thờ ơ

Năm nay phải ráng qua vơ được nàng

*

Thần thời gian xoay tròn mùa hạ

Thu qua rồi đông mới chia tay

Ngày xuân đã rộng vòng tay

Đón người sum họp vui vầy mừng xuân

Ông bà con cháu quây quần

Gia đình sung túc vang ngân nụ cười

Nếm vị hạnh phúc đầu môi

Chúc cho mọi người năm mới an vinh

Chúc cho cuộc sống thanh bình

Mạnh khỏe sung túc thêm tình thêm vui

Chúc cho vang mãi nụ cười

Ông bà mạnh khỏe nghỉ ngơi an nhàn

Chúc anh chúc chị thăng quan

Công tác thuận lợi chứa chan lộc về

Chúc cho con cháu đề huề

Học giỏi ngoan ngoãn rinh về bằng khen

Vợ chồng tình cảm chứa chan

Mong cho cuộc sống là ngàn ngày vui

*

Năm cũ vừa qua

Ta sang năm mới

Hôm nay con tới

Kính chúc ông bà

Sống lâu vui khỏe

Trẻ mãi không già

Yêu thương thuận hòa

Cửa nhà sung túc

Hạnh phúc khang an

Ơn trên thương ban

Suốt năm may mắn

Làm ăn phấn chấn

Phúc, lộc, thọ, tài

Ông bà hưởng dài dài.

*

NĂM tròn xin tiễn tiết đông qua

MỚI chúc đón xuân đến mọi nhà

CHÚC tặng trên đời thêm chữ Hỷ

MỪNG vui khắp chốn cất lời ca

HẠNH dung lễ nghĩa ngời tâm ngọc

PHÚC lộc, công danh rạng ánh ngà

CHAN chát trống kèn, lân hợp cảnh

HÒA đàn, tấu sáo rộn ràng ca

Những câu đối Tết 2017 hay và ý nghĩa nhất xuân Đinh Dậu

Đón Tết đến trăm điều như ý

Mừng Xuân sang vạn sự thành công

*

Ðắp gốc cây cao, Tết đến thắp hương thơm đèn sáng

Khơi nguồn nước mát, Xuân về dâng trái ngọt hoa thơm.

*

Tân niên hạnh phúc bình an tiến

Xuân nhật vinh hoa phú quý lai

*

Đa lộc đa tài đa phú quý

Đắc thời đắc lợi đắc nhân tâm.

*

Ngào ngạt mùi hương, dẫu tại đất người, không mất gốc

Lung linh ánh lửa, dù xa quê cũ, chẳng quên nguồn.

*

Phúc đầy nhà năm thêm giàu có

Đức ngập tràn ngày một vinh hoa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thơ chúc Tết hay nhất 2017

Bí kíp phong thủy cho phụ nữ độc thân thoát ế hiệu quả nhất

Bạn đang buồn rầu vì cảnh ế và quyết tâm thoát kiếp độc thân? Hãy thử tham khảo những bí kíp phong thủy cho phụ nữ độc thân dưới đây để đổi vận đào hoa
Bí kíp phong thủy cho phụ nữ độc thân thoát ế hiệu quả nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

và sớm tìm được một nửa của mình nhé.   Tình yêu là điều vô cùng kì diệu, khiến cho con người ta không còn cô đơn. Tình yêu khiến chúng ta có người bầu bạn, có nơi nương tựa, có động lực và khát khao theo đuổi hạnh phúc. Đó là lý do mà ai ai cũng mong muốn có được tình yêu. 
 
Trên hành trình tìm kiếm nửa kia của đời mình, có những cô nàng cứ mãi trong vòng luẩn quẩn, không sao gặp được tình yêu đích thực. Rất có thể phong thủy nhà bạn có chút vấn đề, ảnh hưởng đến vận đào hoa của bạn. Hôm nay, chúng ta hãy cùng tìm hiểu và hóa giải những lỗi đó, giúp bạn có phong thủy vượng đào hoa để thoát khỏi kiếp độc thân, sớm có người yêu thương chia sẻ buồn vui của cuộc đời.


Bi kip phong thuy cho phu nu doc than thoat e hieu qua nhat hinh anh
 

Bí kíp số 1: Lợi dụng ánh sáng để thắp lửa tình yêu
 

Trong cuộc sống, những không gian có ánh sáng ấm áp, dịu mắt sẽ khiến cho con người ta cảm thấy thoải mái và ấm cúng. Nếu bạn ở những nơi như vậy, chắc hẳn ít nhiều cũng có cảm giác tình yêu đang lan tỏa muôn nơi, bao bọc và che chở tất cả mọi người, khiến chúng ta đắm chìm trong hạnh phúc.
 
Thông thường, những nơi lãng mạn đều lợi dụng màu sắc ấm áp làm màu chủ đạo, tạo cảm giác nhẹ nhàng ấm cúng. Do đó, hãy thử lắp thêm đèn màu vàng nhẹ để làm ấm căn nhà bạn. Vận đào hoa được đèn sáng dẫn đường, chắc chắn sẽ nâng cao sức quyến rũ của bạn và thúc đẩy tình duyên nảy nở.
 
Trong nhà nên định rõ hướng của sao đào hoa và thắp sáng vị trí của sao này. Tuyệt đối không để sao đào hoa chìm trong bóng tối. Nếu sao đào hoa nằm ở vị trí đầy ánh sáng mặt trời thì nên bố trí để ánh sáng mặt trời luôn chiếu đến, tránh bị đồ nội thất hay rèm cửa ngăn cách.


Bi kip phong thuy cho phu nu doc than thoat e hieu qua nhat hinh anh
 

Bí kíp số 2: Hóa giải những góc khuyết trong nhà
 

Các phòng trong nhà ở tốt nhất nên vuông vắn, không nên có góc khuyết, bởi góc khuyết trong nhà sẽ sinh sát khí. Phương vị của góc khuyết cũng sẽ ảnh hưởng đến vận thế của những người sống trong nhà.
 
Đặc biệt, theo phong thủy nhà ở, hướng Tây Nam và Tây Bắc trong nhà chính là vị trí của cung Tình duyên và Hôn nhân. Nếu có góc khuyết ở vị trí này thì không khó hiểu nếu tới giờ mà tình duyên của bạn vẫn còn gặp nhiều trắc trở, lận đận. Hai vị trí này bị khuyết góc sẽ cực kì bất lợi cho chuyện tình cảm của nam nữ trong nhà, khiến họ khó lòng tìm được người thích hợp để bàn chuyện lứa đôi.
 
Nếu nhà bạn gặp phải tình trạng này, có thể hóa giải bằng cách như sau. Ở góc bị khuyết của căn phòng, dùng đá Thái Sơn đã được khai quang trấn giữ để tăng thêm địa khí. Làm vậy sẽ phần nào thay đổi phong thủy cho phụ nữ độc thân, cứu vãn đường tình duyên của gia chủ, giúp gia chủ thoát kiếp độc thân, tìm được chân mệnh thiên tử.


Bi kip phong thuy cho phu nu doc than thoat e hieu qua nhat hinh anh
 

Bí kíp 3: Dùng hoa tươi để kích thích vận đào hoa
 

Theo phong thủy tình yêu hôn nhân, hoa tươi có tác dụng rất lớn trong việc thay đổi vận đào hoa, giúp nàng độc thân thoát ế. Tốt nhất nên dùng 4 cành hoa (tượng trưng cho sao Tứ Lục Văn Khúc chủ vận đào hoa), đặt theo nguyên tắc “nữ trái nam phải”. 
 
Bình hoa tươi nên để ở gần sô pha trong phòng khách hoặc ở vị trí mà vừa bước vào nhà đã nhìn thấy, như vậy sẽ khiến đào hoa khuếch tán mạnh nhất. Nên chọn hoa có cánh to, tươi lâu, màu sắc tươi tắn, rực rỡ như đỏ, hồng, vàng… Không nên cắm những loại hoa màu đen hoặc sẫm màu.
 
Tuyệt đối không được dùng hoa nhựa hay hoa giả thay cho hoa tươi, làm thế có nghĩa là tình yêu của bạn sẽ bị dễ dàng thay thế bởi bất cứ thứ gì. Khi hoa có dấu hiệu tàn phải lập tức thay hoa mới hoặc cất bình hoa đi, nếu không sẽ tượng trưng cho tình yêu mỏng manh, úa tàn theo năm tháng.
 
Không nên bày bình hoa rỗng trong nhà, bởi bình hoa rỗng tượng trưng cho sự ảo tưởng, vận đào hoa theo đó mà tiêu tan, chuyện tình cảm dễ vấp phải tình đơn phương, yêu mà không được đáp lại.
 
Lưu ý: Những bí kíp phong thủy cho phụ nữ độc thân trên chỉ nên áp dụng với người chưa có gia đình. Nếu bạn đã có gia đình mà làm theo những cách này để tăng vận đào hoa thì rất có thể sẽ vô tình đẩy người bạn đời của mình vào tay kẻ khác hoặc tự chuốc cho mình những rắc rối không đáng có.

Hy Vũ

Tướng người vượng đào hoa, thuận nhân duyên trong năm 2017 Phong thủy đuổi đào hoa dữ, thuận duyên lợi tình trong năm 2017 Thoát kiếp FA, 4 chòm sao đào hoa nhất năm 2017

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí kíp phong thủy cho phụ nữ độc thân thoát ế hiệu quả nhất

Hướng bếp hợp người sinh năm 1970 Canh Tuất –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1970: Năm sinh dương lịch: 1970 - Năm sinh âm lịch: Canh Tuất - Quẻ mệnh: Chấn Mộc - Ngũ hành: Thoa Xuyến Kim (Vàng trang sức) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1970:

215

Năm sinh dương lịch: 1970

– Năm sinh âm lịch: Canh Tuất

– Quẻ mệnh: Chấn Mộc

– Ngũ hành: Thoa Xuyến Kim (Vàng trang sức)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1970 Canh Tuất –

Luận giải lá số tử vi Vô Chính Diệu có một không hai (phần 1)

Trong Tử Vi, Vô Chính Diệu là ở cung đó không có sao chính tinh tọa thủ hay đồng cung. Người có Vô Chính Diệu thường khó luận đoán lá số tử vi.
Luận giải lá số tử vi Vô Chính Diệu có một không hai (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Tử Vi, Vô Chính Diệu là ở cung đó không có sao chính tinh tọa thủ hay đồng cung. Người có Vô Chính Diệu thường khó luận đoán lá số tử vi. 


Luan giai la so tu vi Vo Chinh Dieu co mot khong hai (phan 1) hinh anh
 
Mệnh Vô Chính Diệu

Người có mệnh Vô Chính Diệu thường nhạy bén, có giác quan thứ sáu, linh cảm được chuyện gần xảy ra. Lúc còn nhỏ vất vả, lận đận, hoặc hay đau yếu, khó nuôi, khi lớn lên, thường giảm thiểu được bệnh tật, tai họa do lường trước hoặc cảm nhận trước được sự việc sắp xảy ra. Thường hay mắc bệnh dị ứng hoặc trong đời có lần mắc bệnh dị ứng. 
 
Người có lá số tử vi như vậy rất nhạy cảm khi gần người khác phái. Dễ thích ứng được với hoàn cảnh, không có lập trường tư tưởng vững vàng. Số người này chỉ làm phụ tá thì bền, làm trưởng thì không bền, không thể đứng mũi chịu sào, hoạt động trong bóng tối hoặc ẩn danh là hay nhất. 
 
Cuộc sống không bền, trôi nổi, cho dù đắc cách thì “phú quý cũng khả kỳ” (phú quý trong một giai đoạn), hoặc đang hưởng phú quý thì chết. Nếu là con trưởng thì không sống gần cha mẹ, nên làm còn nuôi họ khác, nếu gần cha mẹ thì dễ chết non hoặc nghèo (phi yểu tắc bần). 
 
Mệnh Vô Chính Diệu cần Hỏa mệnh và Kim mệnh vì như nhà không nóc, cần bản mệnh có hành khí mạnh mẻ cứng cỏi làm nòng cốt. Các mệnh khác như Thổ, Thủy, Mộc mệnh chưa chắc làm chủ được. Trường hợp đắc Tam không thì cần Hỏa hoặc Kim mệnh, có hung tinh độc thủ thì cần đồng hành là tốt nhất, có Nhật Nguyệt hội chiếu thì có thể áp dụng cho tất cả các hành bản mệnh. Thường là con vợ hai, vợ lẽ. Mệnh VCD mà cung Tử cũng VCD thì xấu, cả đời không con hoặc khổ về vấn đề con cái. 
 
Phụ Mẫu Vô Chính Diệu

Phải tự tay tạo lập cuộc sống, không được hưởng di sản của cha mẹ, thường phải xa cách cha mẹ, ly hương lập nghiệp. Gặp Tuần hoặc Triệt án ngữ thì phụ mẫu tốt hơn nhưng lại dễ khắc cha mẹ, hoặc phải sớm xa cách cha mẹ, hoặc làm con nuôi người khác. Nên sớm xa gia đình, xuất ngoại thì mới có thể có công danh. 
 
Phúc Vô Chính Diệu 

Thường phải xa cách họ hàng hoặc anh em. Lá số tử vi sẽ rất tốt, được hưởng phúc, sống lâu nếu được chính tinh sáng sủa xung chiếu và cát tinh hội họp. 
 
Rất cần gặp Tuần, không nên gặp Triệt. Gặp Tuần thì hưởng phúc, sống lâu. Gặp Triệt thì họ hàng khá giả nhưng không bền cho dù gặp nhiều sao tốt hội chiếu, thường phải ly hương lập nghiệp, xa cách họ hàng người thân. Vô Chính Diệu đắc Tam không thì được hưởng phúc lộc dồi dào. 
 
Hung Tinh đắc địa độc thủ thì chỉ được  hưởng phúc trong một giai đoạn mà thôi. Tại Dần, Thân gặp Đà La độc thủ thì hưởng phúc, sống lâu. Nhật Nguyệt sáng sủa hợp chiếu rất tốt, hưởng phúc, sống lâu, được nhờ cậy họ hàng, họ hàng quý hiển, gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt hơn. 
 
Điền Vô Chính Diệu

Điền sản thường rất chậm có (sau 40 tuổi) và hay thay đổi, lên xuống, không bền nếu trong lá số tử vi cung Điền Vô Chính Diệu. Gặp Tuần Triệt án ngữ thì trước trắc trở, sau mới dễ dàng thuận lợi. Thường hay thay đổi chỗ ở, nhà đất mua rồi lại bán, thành bại thất thường, về già mới ổn định nhưng nhà đất trung bình. 
 
Nếu Tuần Triệt án ngữ đồng cung thì cũng vậy. Đắc Tam không thì điền sản tuy khá nhưng cũng không bền. Gặp Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì trước trắc trở nhưng càng về sau càng thuận lợi, rất nhiều nhà đất về sau. Gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt hơn, rất giàu có, nhiều nhà đất. 
 
Hung sát tinh độc thủ, tài sản tạo nên bất ngờ nhanh chóng, nhưng cũng suy bại nhanh, đặc biệt là Hỏa Linh Không Kiếp. Kình Đà thì tuy trướcc phá nhưng sau cùng khá giả. 
 
Quan Lộc Vô Chính Diệu 

Người mà cung Quan Lộc Vô Chính Diệu thì nghề nghiệp thường thay đổi, hoặc chậm có công danh, công danh thấp hoặc bình thường, hoặc không bền. 
 
Nếu rơi vào trường hợp bình thường thì quan lộc không hiển đạt cho dù có nhiều sao sáng sủa xung chiếu hoặc hội chiếu, trường hợp không có nhiều sao sáng sủa hội chiếu thì không có công danh. 
 
Trường hợp có Tuần Triệt án ngữ và được nhiều sao sáng sủa hội chiếu thì công danh cũng trước bị trở ngại, sau tuy khá nhưng không bền vững, thường là hoạch phát hoạch phá, bởi vì Tuần Triệt mang ý nghĩa gây trục trặc cho quan trường, Triệt gặp mạnh hơn Tuần. Tuần Triệt án ngữ đồng cũng thì công danh bình thường cho dù các yếu tố khác như Mệnh, Thân Phúc, Hạn,… tốt.
Trường hợp có hung tinh độc thủ, hoạch phát công danh nhưng không bền. Trường hợp có Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì tuy chậm nhưng công danh cũng tạm khá, thường hoạt động trên lĩnh vực chính trị hoặc kinh tế. Chỉ có trường hợp này thì Tuần hoặc Triệt án ngữ sẽ làm tăng vẻ tốt đẹp của công danh, càng về sau công danh càng tốt tuy ban đầu có gặp trục trặc trắc trở. Cần chú ý rằng gặp Tuần thì hay hơn Triệt nhiều, gặp Triệt thì chỉ khá hơn chút đỉnh và không bền. 
 
Nô Bộc Vô Chính Diệu

Bạn bè và người giúp việc không bền, dễ ly tán nếu cung Nô Bộc Vô Chính Diệu. Hoặc sẽ thay đổi, nô bộc vào ra luôn. Gặp Tuần hoặc Triệt án ngữ thì tốt hơn, tôi tớ đắc lực hơn, trước mướn người khó khăn, sau thì dễ hơn nhưng cũng không bền. Hung sát tinh độc thủ, tôi tớ rất đắc lực nhưng thường hay lấn chủ. Bạn bè tài giỏi, làm ăn táo bạo, thường nằm trong giới giang hồ xã hội đen. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu tốt đẹp, được bạn bè giúp đỡ, bạn bè khá giả, người làm có năng lực. 

► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải lá số tử vi Vô Chính Diệu có một không hai (phần 1)

Chùa Phổ Nghiêm - Nghệ An

Chùa Phổ Nghiêm chọn thế đất đứng chân cho mình với phía sau là một sườn đồi kéo dài hai bên trái và phải của ngôi chùa rồi hòa vào thiên nhiên xứ Nghệ
Chùa Phổ Nghiêm - Nghệ An

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Phổ Nghiêm chọn thế đất đứng chân cho mình với phía sau là một sườn đồi kéo dài hai bên trái và phải của ngôi chùa rồi hòa vào thiên nhiên nơi đây. Chùa Phổ Nghiêm có tên khác là Hoàng Lao hay Trung Kiên. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông.

Đây là một ngôi chùa nhỏ ở xứ Nghệ nhưng kiến trúc chùa lại chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử văn hóa cố đô Huế. Chùa tọa lạc ở làng Trung Kiên, xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chùa đã được Bộ VH – TT công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.

Chùa được dựng vào cuối thế kỷ XVII (1690). Chùa Phổ Nghiêm có lịch sử hình thành không lâu đời như chùa Đại Huệ, Cần Linh hày chùa Bà Bụt… nhưng chùa có một nét khác biệt rất tiêu biểu và độc đáo.

Chùa được xây dựng trên núi cao. Phía sau chùa là một sườn đồi kéo dài hai bên trái và phải của ngôi chùa. Phía trước tuy không có núi án ngữ nhưng chùa đã dựng một bức bình phong, xa xa là những cánh đồng của nhân dân trong làng.

Chùa Phổ Nghiêm được xây dựng có kết cấu kiến trúc của nhà 3 gian. Chùa gồm hai khu vực là chính điện (khu vực chính) dùng làm nơi thờ tự và một khu vực nhỏ hơn dùng làm nơi sinh hoạt và nghỉ ngơi của chư tăng. Chùa cũng có hình tiết diện vuông. Chính điện được xây theo dạng “Trùng thiềm điệp ốc”, các mái chồng lên nhau, nhà nối liền nhà. Đây là nét đặc trưng của kiến trúc Huế có ở chùa Phổ Nghiêm.

Xung quanh ngôi chùa có tường cao bao bọc, cổng đi vào chỉ có một cửa nhưng nếu quan sát ở cửa ra vào khu chính điện ta sẽ bắt gặp ngay phía trên nóc mái có những mái nhỏ có độ cong nhẹ nhấp nhô những cập lưỡng long tranh châu. Đó chính là mô thức của Tam quan.

Đặc biệt, ở chánh điện đã từ lâu có một phiến đá cao 107cm, có hình dáng giống một vị sư, dân gian quen gọi là tượng sư đá. Chùa còn bảo tồn một số tượng, bia cổ, giếng cổ.

Nghệ An là nơi có thiên nhiên khắc nghiệt nên phong cách người xứ Nghệ cũng mang theo sự khắc khổ trong sinh hoạt, thiết thực trong yêu cầu ăn ở, thận trọng trong xử thế, dè dặt trong quy mô xây dựng. Cuộc sống luôn gắn bó thân tộc, gần gũi tập quán. Tất cả đều có ảnh hưởng đến quan điểm hình thành nên phong cách kiến trúc của vùng là đơn giản không cầu kỳ, mộc mạc nhưng tinh tế, khiêm tốn giản dị nhưng kiêu hãnh. Đó là những gì mà thông qua chùa Phổ Nghiêm ta có thể bắt gặp tính cách con người xứ Nghệ trong đó.

toàn cảnh chùa
Toàn cảnh ngôi chùa

Nhiều ngôi chùa mới khang trang bề thế được xây dựng lên những hình ảnh về những ngôi chùa cổ luôn tạo cho ta cảm giác bùi ngùi về quá khứ. Mỗi vùng, mỗi địa phương nên cố gắng giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống từ những ngôi chùa đừng để chúng rơi vào quên lãng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Phổ Nghiêm - Nghệ An

Những điều cần biết về Vũ Trụ

Các phân tích định lượng dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao (như mặt trời) có khối lượng ít nhất gấp ba lần (?) khối lượng Mặt Trời của chúng ta, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa (tức khi mặt trời không còn khả năng cháy) thì hầu như chắc chắn nó sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn, và một lỗ đen được tạo thành.
Những điều cần biết về Vũ Trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


A - Lỗ đen, lỗ trắng và sự hình thành của chúng


1 - Các phân tích định lượng dẫn đến việc tiên đoán một ngôi sao (như mặt trời) có khối lượng ít nhất gấp ba lần (?) khối lượng Mặt Trời của chúng ta, tại thời điểm cuối cùng trong quá trình tiến hóa (tức khi mặt trời không còn khả năng cháy) thì hầu như chắc chắn nó sẽ co lại tới một kích thước tới hạn cần thiết để xảy ra suy sập hấp dẫn, và một lỗ đen được tạo thành.
2 - Lỗ đen là một vùng trong không gian có trường hấp dẫn lớn đến mức lực hấp dẫn của nó không để cho bất cứ một dạng vật chất nào, kể cả ánh sáng thoát ra khỏi mặt biên của nó (Chân Trời Sự Kiện, tức ranh giới mà mọi vật, kể cả ánh sáng không thể thắng được lực hấp dẫn của Lỗ Đen để có thể quay trở lại vũ trụ).
3 - Các lỗ đen siêu lớn có thể có khối lượng gấp hàng triệu, hàng tỷ lần khối lượng Mặt Trời. Chúng có thể được hình thành khi có một số lớn các ngôi sao bị nén chặt trong một vùng không gian tương đối nhỏ, hoặc khi có một số lượng lớn các ngôi sao rơi vào một lỗ đen ban đầu, hoặc khi có sự hợp nhất của các lỗ đen nhỏ hơn.
4 – Cũng giống như những Lỗ Đen chỉ được hình thành từ những Mặt Trời chết (chúng không còn cháy) có khối lượng đủ lớn thì một Lỗ Trắng (phun ra vật chất) cũng chỉ được tạo ra khi một Lỗ Đen lớn tới mức độ M. Lỗ Đen có khả năng lớn tới mức M được gọi là Lỗ Đen M (có thể nó phải hút nhiều hơn số lượng các Lỗ Đen đang khống chế khoảng 170 tỷ Thiên Hà mà hiện nay chúng ta đã phát hiện trong Vũ Trụ).

B - Hệ mặt trời, thiên hà và siêu thiên hà

1 - Một hệ mặt trời thường chỉ có một mặt trời và các vệ tinh bay xung quanh nó theo các quỹ đạo khác nhau (như hệ mặt trời của chúng ta có 8 hành tinh).
2 – Các mặt trời (tức hệ mặt trời) trong vũ trụ thường quần tụ gần nhau tạo thành từng đám được gọi là các thiên hà (như hệ mặt trời của chúng ta nằm trong thiên hà Miky Way - còn gọi là Ngân Hà - có khoảng 300 tỷ mặi trời).
3 - Các kính thiên văn hiện đại ngày nay đã cung cấp bằng chứng cho thấy có khoảng một trăm bảy mươi tỷ thiên hà trong vũ trụ. Trong đó các thiên hà cũng quần tụ gần nhau tạo thành những đám có số lượng khác nhau (khoảng vài chục hay vài trăm và thậm trí tới vài nghìn) và người ta đã gọi chúng là các siêu thiên hà.
4 - Tại tâm của mỗi thiên hà hay mỗi siêu thiên hà có một lỗ đen siêu lớn, cùng với thời gian nó dần tiêu diệt (hút) các mặt trời và các thiên hà vệ tinh xung quanh bằng lực thủy triều (?) và cướp lấy khối lượng của chúng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cần biết về Vũ Trụ

Ý nghĩa văn hóa của câu đối đỏ ngày Tết

Treo câu đối Tết để trang hoàng nhà cửa đón Xuân là phong tục có từ lâu đời của dân tộc ta.
Ý nghĩa văn hóa của câu đối đỏ ngày Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi năm, khi Tết đến, để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ”.


Câu đối cũng còn được gọi là Liễn. Liễn thường là những dải giấy màu đỏ hay hồng đào, hai đầu dải giấy có làm trục bằng gỗ hay bằng tre để khi treo lên thì dải câu đối được ngay ngắn. Cũng có khi Liễn không cần có trục và chỉ là những dải giấy để tiện dán vào những nơi cần treo như ở hai bên bàn thờ, các cột nhà cửa, cổng hay ngõ. Trước đây ở chốn thôn quê, mỗi khi Tết đến, người ta còn cẩn thận dán Liễn đỏ ở cửa chuồng lợn, trâu, bò hoặc ở thân cây dừa, nhãn, ổi… để ngụ ý cầu mong cho mọi sự được tốt đẹp như lợn, trâu, bò hay ăn chóng lớn, sinh đẻ đầy đàn… các cây thì sai quả.


Y nghia van hoa cua cau doi do ngay Tet hinh anh
Treo câu đối Tết
 
Những nhà không có đủ khả năng và phương tiện viết câu đối ngày Tết thường phải nhờ đến những cụ đồ nho chuyên viết và bán những câu đối Tết.  
  Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa văn hóa của câu đối đỏ ngày Tết

Những giấc mơ điềm báo may mắn, phát tài

Ai ngủ cũng nằm mơ, và mỗi giấc mơ đèu mang những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Nhưng 5 giấc mơ sau đây chính là điềm báo cho việc bạn sẽ có một tương lai sáng lạn và cực kì giàu có đấy! Bạn có tò mò không?
Những giấc mơ điềm báo may mắn, phát tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Ai ngủ cũng nằm mơ, và mỗi giấc mơ đèu mang những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Nhưng 5 giấc mơ sau đây chính là điềm báo cho việc bạn sẽ có một tương lai sáng lạn và cực kì giàu có đấy! Bạn có tò mò không?

1. Mơ gặp cấp trên hoặc sếp một cách thân thiết

Giải mã giấc mơ nhận thấy những giấc mơ này chính là phát triển vượt bậc trong sự nghiệp, vận may tốt hơn người. Có người nói, mơ việc quan hệ tốt với đồng nghiệp có được tính không? Tuy nhiên, theo phân tích, dù rằng đây cũng là một việc tốt nhưng sự tăng vọt về mặt tiền bạc cũng không khả quan cho lắm.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

2. Mơ thấy điềm lành nơi công sở

Bao gồm những nơi như chỗ làm việc, công ty, văn phòng hoặc nơi gặp đồng nghiệp có xuất hiện cầu vồng, mây ngũ sắc, thần tài, tỳ hưu, con dơi, con cóc. Nếu phụ nữ mơ thấy con công, phượng, lân, đàn ông gặp mãnh thú (mà trong mơ không hề sợ hãi) đều là những dấu hiệu cho thấy sự may mắn về tiền bạc.

3. Mơ gặp đồ vật kim loại

Bất luận là bạn có tin hay không, rất nhiều người mơ thấy tìm được kho báu trong mơ và thật sự có được may mắn bất ngờ. Năm 2013 đã từng có một việc chấn động, chính là những nhà khảo cổ học đã khai quật được 1000 tấn vàng trong ngôi mộ của vua Ấn Độ từ thế kỉ 19. Điều đặc biệt là, sự việc này đã được tiên tri chỉ qua những giấc mơ. Vì vậy, dù trong mơ bạn chỉ nhặt được một đồng xu nhỏ, tài vận của bạn cũng rất khá đấy.

4. Mơ thấy đi vào ngôi nhà xa lạ nhặt được món đồ đắt tiền

Giấc mơ này có thể đem lại sự thăng tiến cho người mơ thấy nó. Bạn dễ dàng có cơ hội trở thành sếp hoặc có những hồi đáp tốt đẹp.

5. Mơ việc giết hại thú dữ

Khi bạn mơ thấy mình giết hại thú dữ, chắc chắn rằng bạn sẽ dễ dàng lập nghiệp và thành công trong công việc sắp tới.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những giấc mơ điềm báo may mắn, phát tài

Văn khấn Gia tiên ngày mùng Một Tết

Văn khấn Gia tiên ngày mùng Một Tết đầu năm âm lịch. Theo phong tục ngày Tết cổ truyền, thì ngày 30 Tết (hoặc ngày 29 Tết, nếu tháng thiếu), thì nhà nhà đều sắm lễ “Rước Ông bà” về

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn khấn Gia tiên ngày mùng Một Tết đầu năm âm lịch

Theo phong tục ngày Tết cổ truyền, thì ngày 30 Tết (hoặc ngày 29 Tết, nếu tháng thiếu), thì nhà nhà đều sắm lễ “Rước Ông bà” về cùng với con cháu trong 3 ngày Tết, để tỏ lòng hiếu thảo của con cháu với Tổ tiên.

Trong 3 ngày Tết này, thông thường con cháu đều cúng Gia tiên tiền tổ, ông bà, mỗi ngày 1 lần.

Sắm lễ cúng Gia tiên năm mới

văn khấn gia tiên mùng một tết

Lễ vạt dâng cúng trong lễ tạ năm mới gồm:

Hương, hoa, nước, quả (ngũ quả).
Trầu cau;
Rượu;
Đèn, nến;
Lễ ngọt, bánh kẹo;
Mâm cỗ mặn: xôi, gà, bánh chưng, các món Tết đầy đủ, tinh khiết.


Văn khấn Gia tiên năm mới

Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Kính lạy: Các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, bá thúc huynh đệ, đường thượng tiên linh, và các hương hồn nội tộc, ngoại tộc.
Hôm nay là ngày mùng một Tết, tháng Giêng, năm ………
Chúng con là: ………………
Tuổi: ……………………………….
Hiện cư ngụ tại số nhà …….. Đường…….. Khu phố ……
Phường ……………Quận………..Thành phố……………..
Nay theo tuế luật, âm dương vận hành tới tuần Nguyên đán, mồng một đầu xuân, mưa móc thấm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tưởng niệm ân đức Tổ tiên như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo đáp ba xuân. Do đó, chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật, oản quả hương hoa kính dâng trước án.
Kính mời các cụ Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỷ, bá thúc đệ huynh, cô di tỷ muội, nam nữ tử tôn nội ngoại, cúi xin thương xót con cháu, linh thiêng giáng về linh sàng, phù hộ độ trì con cháu, năm mới an khang, mọi bề thuận lợi, sự nghiệp hanh thông, bốn mùa không hạn ách nào xâm hại, tám tiết có điềm lành tiếp ứng.
Tín chủ lại mời các vị vong linh, tiền chủ, hậu chủ ở trong đất này cùng về hâm hưởng.
Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Phục duy cẩn cáo!

Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Gia tiên ngày mùng Một Tết

Hướng bếp hợp người sinh năm 1955 Ất Mùi –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1955: - Năm sinh dương lịch: 1955 - Năm sinh âm lịch: Ất Mùi - Quẻ mệnh: Ly Hoả - Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1955:

bep_gon_o_chung_cu0_00639300_1349755985

– Năm sinh dương lịch: 1955

– Năm sinh âm lịch: Ất Mùi

– Quẻ mệnh: Ly Hoả

– Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ); , nhìn về các hướng tốt Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị); 

Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.

Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1955 Ất Mùi –

Những nét tướng phát tài trong năm 2015 (Ất Mùi) –

Tướng trán hẹp, trán ngiêng, hay cằm dài... về hình thức thì không đẹp, nhưng về tài vận thì sẽ may mắn và dễ phát tài vào năm nay lắm đó nha. 1. Trán hẹp, thần sắc tươi sáng Trán hẹp là người cẩn thận, làm việc rụt rè, có phần thiếu can đảm, thường
Những nét tướng phát tài trong năm 2015 (Ất Mùi) –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nét tướng phát tài trong năm 2015 (Ất Mùi) –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd