Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đặt tên cho con theo Mệnh Thổ –

Mệnh của con người là do trời ban, mỗi năm sinh sẽ có một mệnh khác nhau thuộc vào 1 trong 5 mệnh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cha mẹ muốn con cái có cuộc sống sau này được thuận lợi, may mắn thì nên đặt tên con hợp phong thủy, hợp mệnh của con cũng nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ư nên xem xét kỹ cả giờ, ngày sinh và tháng sinh của con trước khi đặt tên cho con.

Theo phong thủy, tất cả vạn vật trong vũ trụ đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Theo nguyên lý cơ bản, năm ngũ hành này tương sinh, tương khắc với nhau.

– Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

– Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Với mệnh Mộc cha mẹ có thể đặt tên con liên quan đến lửa (Hỏa), kim loại (Kim) hay đất (Thổ) bởi Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.

Đặt tên cho con

Hành Thổ chỉ về môi trường ươm trồng, nuôi dưỡng và phát triển, nơi sinh ký tử quy của mọi sinh vật. Thổ nuôi dưỡng, hỗ trợ và tương tác với từng Hành khác. Khi tích cực, Thổ biểu thị lòng công bằng, trí khôn ngoan và bản năng; Khi tiêu cực, Thổ tạo ra sự ngột ngạt hoặc biểu thị tính hay lo về những khó khăn không tồn tại.

– Tích cực: Trung thành, nhẫn nại và có thể tin cậy.
– Tiêu cực: Có khuynh hướng thành kiến.

Đặt tên cho con gái

– Cho bé gái, có những cái tên đẹp như:

  • Anh
  • Bích
  • Cát
  • Châm
  • Châu
  • Diệp
  • Diệu
  • Khuê
  • Liên
  • Ngọc
  • San
  • Trân…

Đặt tên cho con trai

– Cho bé trai, có những cái tên đẹp như:

  • Anh
  • Bằng
  • Bảo
  • Công
  • Đại
  • Điền
  • Đinh
  • Độ
  • Giáp
  • Hòa
  • Hoàng
  • Huấn
  • Kiên
  • Kiệt
  • Lạc
  • Long
  • Nghị
  • Nghiêm
  • Quân
  • Sơn
  • Thành
  • Trường
  • Vĩnh…

Đó là những cái tên thật ý nghĩa để các bạn có thể lựa chọn và đặt tên phong thủy mệnh Thổ cho bé. Những cái tên này sẽ đơn giản hóa cho các mẹ mỗi khi phải bỏ nhiều thời gian để lựa chọn một cái tên phù hợp với con yêu của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con theo Mệnh Thổ –

Các chàng trai hoàng đạo vì sao bị bồ đá

Bị bồ đá thì hẳn là buồn rồi, nhưng các chàng trai đã bao giờ nghĩ xem lý do vì sao mình bị bồ đá hay chưa? Cùng xem các anh chàng hoàng đạo mắc lỗi gì nhé
Các chàng trai hoàng đạo vì sao bị bồ đá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bị bồ đá thì hẳn là buồn rồi, nhưng các chàng trai đã bao giờ nghĩ xem lý do vì sao mình bị bồ đá hay chưa? Cùng xem các anh chàng hoàng đạo mắc lỗi gì mà đến nông nỗi ấy nhé.
Người trẻ mà, chuyện tình cảm khi tan khi hợp là chuyện quá đỗi bình thường. Lý do chia tay thì có cả trăm điều, nhưng chắc chắn hầu hết là vì bạn có điều gì đó khiến đối phương không thể chịu đựng nổi nữa.
  Có người thì vì so đo tính toán quá mức mà bị bồ đá, có người thì người yêu không chịu được vì bị bám dính lấy cả ngày, mất tự do nên cũng “say goodbye”… Các chàng trai, các bạn vì sao mà bị bồ đá? Lịch ngày tốt xin chia sẻ lý do có thể khiến cho các chòm sao nam bị bồ đá, cùng theo dõi xem có chuẩn không nhé.


chang trai hoang dao vi sao bi bo da
 
 

Chàng trai Bạch Dương: Vì “bám dính” nên bị đá

  Thường thì con gái mới là người hay dính lấy người yêu, nhưng khi các chàng ra tay sử dụng chiêu này cũng có thể khiến cho các nàng xiêu vẹo vì độ đáng yêu maximum lắm đó. Tuy nhiên, cái gì cũng có giới hạn thôi, nếu bạn chỉ thi thoảng đôi lần tỏ ý muốn “bám dính” lấy nàng thì không sao, chứ thường xuyên như thế thì nguy cơ bị đá tung nóc nhà cao lắm đó.   Con gái dù sao thì vẫn thích những chàng trai mạnh mẽ và độc lập, khiến họ cảm thấy an toàn và được chở che. Chàng trai cung Bạch Dương khó tránh khỏi những phút yếu lòng mà bám lấy người yêu thì trong mắt các cô gái, bạn sẽ trở thành người yếu đuối, thiếu đi chất nam tính, chẳng sớm thì muộn cũng khiến cho cô gái chán nản mà tìm người mới thôi.   

Chàng trai Kim Ngưu: Vì quá “kẹt sỉ”


vi keo kiet
 
Anh chàng này vốn là người chỉn chu trong chuyện tiền nong, rất biết tiết kiệm và chi tiêu hợp lý, nhưng mặt khác, điều đó khiến cho chàng ta dễ trở thành người keo kiệt và nhỏ nhặt. Mới tiếp xúc thì điều này không dễ phát hiện, nhưng lâu ngày tính đó của bạn dễ khiến cho các nàng “bỏ của chạy lấy người” lắm đó.   Đến cả đi mua sắm với bạn gái còn không ngại trả giá mặc cả các kiểu thì không ổn rồi. Ừ thì tiết kiệm là tốt nhưng cái gì cần tiêu vẫn phải tiêu, đúng không nào? Đàn ông con trai thì phóng khoáng chút xíu nha, tiền bạc mình làm ra được thì mình cũng phải hưởng thụ những tiện ích mà nó mang lại. Hơn nữa, tiêu tiền cho người mình yêu thì cũng là một cảm giác thỏa mãn mà. Đừng để bị bồ đá vì thói xấu đó nhé Kim Ngưu!  

Chàng trai Song Tử: Vì quá sến sẩm

  Có thể nói đây là chàng trai có giàu tình cảm nhất trong số 12 cung hoàng đạo. Chàng trai Song Tử cảm xúc phong phú, nhất là khi yêu thì càng chẳng có điểm dừng, từ sáng tới tối có thể nói toàn những lời ngọt ngào, phong hoa tuyết nguyệt.   Rõ ràng là bình thường chỉ có con gái mới hay hỏi cái câu sến sẩm “Anh có yêu em không?”, nhưng nếu yêu chàng trai hoàng đạo này thì bạn sẽ thấy mình mới là người suốt ngày nghe mấy cái câu thiếu muối đó. Đường đường nam tử hán đại trượng phu mà tối ngày nói mấy câu khiến người ta nghe xong thấy ngọt tới sâu răng, sởn cả gai ốc, nghe thôi cũng mệt chứ đừng nói đến trả lời, bị đá cũng chẳng có gì ngạc nhiên.

Mời bạn đọc thêm: Những điều cần thay đổi khi bạn vừa chia tay.
 

Chàng trai Cự Giải: Vì quá thâm trầm, ít nói

  Bạn muốn có một người đàn ông của gia đình, chọn ngay anh chàng Cự Giải! Nhưng mà chàng ta cũng có nhược điểm, đó là chàng trai này quá mức ít nói, thâm trầm im lặng cả ngày, không phải ai cũng đủ vững vàng về tâm lý để tiêu hóa nổi.   Cảm giác khi ở bên chàng trai Cự Giải rất khó tả, như thể đang nói chuyện yêu đương với không khí vậy. Bạn muốn chút phản ứng từ người yêu còn khó chứ đừng nói gì đến chuyện lãng mạn. Đừng có mơ đến mấy cái màn tặng hoa tặng bóng trái tim tỏ tình hay sinh nhật các kiểu nhá, không có đâu.    Người yêu mà nổi hứng tự làm cho chàng bất ngờ thì càng tụt cảm xúc hơn, phũ phàng không thể tả được. Nhận quà chỉ biết cầm, tổ chức sinh nhật thì ngại ngùng ngồi như ông phỗng… Cô đơn, nhạt nhẽo trong chính cuộc tình, các nàng không chịu được thì bấm nút “Next” thôi.  

Chàng trai Sư Tử: Vì quá ngạo mạn, tự kiêu


vi ngao man
 
Kì thực anh chàng này rất có sức hấp dẫn với người khác phái, nhưng đau khổ thay là chẳng ai hoàn hảo. Là mẫu người đam mê quyền lực, anh chàng đem cả điều đó vào trong tình yêu. Tự tin là một chuyện, nhưng khi nó biến thành tự kiêu, ngạo mạn thì chắc chắn sẽ gây phản cảm. Đã bao lần anh chàng Sư Tử khiến bạn gái phật lòng vì cái thói đó rồi.   Ngạo mạn quá mức, đó chính là lý do chàng trai hoàng đạo này bị bồ đá không thương tiếc. Suy cho cùng thì đâu có ai muốn tìm một người ở bên suốt ngày lên giọng dạy bảo cơ chứ. Ừ thì người yêu có thể góp ý cho mình, nhưng tuyệt đối không phải là lên lớp nhé. Hơn nữa các cô nàng hay thích mấy chàng khi yêu thì nghe lời mình, chiều chuộng mình mọi điều, đâu có thích bị người yêu gia trưởng áp đặt đâu. Chia tay là điều tất yếu thôi.  

Chàng trai Xử Nữ: Vì cằn nhằn nhiều quá

  Nói anh chàng này lắm lời không hề khoa trương làm quá chút nào đâu ạ! Chỉ có ai đã từng chứng kiến mặt này của anh chàng Xử Nữ mới thấy cái sự cằn nhằn không ngơi nghỉ của chàng ta khiến cho người khác muốn phát điên!   Tất nhiên anh chàng này là người vô cùng chu đáo và tỉ mỉ, làm bạn gái chàng ta thì được chăm sóc tới tận răng, như công chúa vậy. Nhưng đôi khi điều đó khiến cho anh chàng giống với quản gia, mẹ em bé hơn là người yêu. Cái này cũng quản, cái kia cũng muốn quản, cả ngày đi cùng nhau mà bị nhắc nhở hết chuyện này tới chuyện khác thì ai mà chịu nổi chứ. Bớt nói nhiều đi chút Xử Nữ nhé, uhm, nếu bạn không muốn bị bồ đá!  
Bạn có biết Những cung hoàng đạo có duyên, chia tay rồi cũng sẽ quay lại là ai không?

Chàng trai Thiên Bình: Vì độc mồm độc miệng

  Anh chàng này trời sinh giỏi khoa ăn nói, nhưng chẳng được ngọt ngào như Song Tử đâu, nói 3 câu thì phải châm chích người ta ngay mới được. Dường như đó là tài năng của anh chàng Thiên Bình, khi mà người đối diện càng không thích nói đến điều gì thì chàng ta nhắc ngay tới điều đó, lại còn thản nhiên như chẳng có gì nghiêm trọng nữa.   Đôi khi cái sự ấy nó quá đà thành vô duyên, anh chàng này rất dễ bị bồ đá vì cái mồm độc địa, khiến cho người yêu luôn trong tình trạng “muốn bùng cháy”. Bản thân chàng ta chỉ nghĩ rằng mình đang nói sự thực mà thôi, nhưng mà này, ai bảo con gái lúc nào cũng thích nghe mấy lời nói thật phũ phàng ấy chứ???  

Chàng trai Hổ Cáp: Vì quá ghen tuông


vi ghen tuong
 
Một trong những tính xấu của anh chàng này chính là hay so đo tính toán, dù là với người mình yêu đi chăng nữa. Lần đầu tiếp xúc có lẽ khó để nhận ra, chẳng gì thì người ta cũng phải cố thể hiện mình để tạo ấn tượng tốt mà. Nhưng có lẽ “cái kim trong bọc cũng có ngày lòi ra”, dần dần người yêu cũng phát hiện ra thói xấu đó của anh chàng Hổ Cáp.   Chỉ chuyện bé bằng cái kẹo, chàng ta cũng có thể ghen tuông, tức giận. Dù bạn gái có xin lỗi, dỗ dành thế nào chàng Hổ Cáp cũng không chịu xuôi. Đã dỗ không được thì cho tức hoài hoài luôn, gì chứ tính cách trẻ con vậy thì bị bạn gái đá vài lần mới chừa được.  

Chàng trai Nhân Mã: Vì quá giàu tình cảm

  Cũng không hẳn là anh chàng này quá đào hoa, đem tình yêu rải khắp chốn với trái tim nhiều ngăn. Song tình cảm dạt dào quá mức, chàng ta chẳng những tốt với người yêu mà còn tốt cả với những cô gái khác nữa. Người đâu mà bạn gái thân với em gái nuôi một lô một lốc, bảo sao người yêu thấy thiếu cảm giác an toàn.   Con gái chỉ thích người mình yêu đối tốt với bản thân mình, thích độc chiếm người yêu, nào có ai muốn chia sẻ tình cảm. Chẳng thà đau một lần để tìm cho mình bến đỗ an toàn và ổn định còn hơn lúc nào cũng thấp thỏm sợ bị phản bội, đó chính là lý do các cô nàng quyết định “đá bay” anh chàng Nhân Mã đó!  
Bạn đã biết Những lý do chia tay bá đạo của 12 chòm sao nữ chưa?

Chàng trai Ma Kết: Vì quá nghiêm túc

  Kì thực thì anh chàng hoàng đạo này chẳng có điểm gì là không tốt, mỗi cái “thanh niên nghiêm túc” quá thôi. Không biết nói đùa, mà nghe người khác nói đùa cũng tưởng là thật. Nếu bạn gái anh chàng là cô nàng hài hước, thích đùa vui thì có lẽ khó mà chịu được việc bạn trai mình chẳng có chút hài hước nào. Ngược lại chàng ta cũng khó lòng hiểu nổi những câu chuyện cười của bạn gái. Đôi bên chẳng ai hiểu ai, dần dần ai cũng thấy mệt mỏi, chia tay là điều tất yếu!  

Chàng trai Bảo Bình: Vì quá lạnh lùng


vi lanh lung
 
Có một thói quen mà nam Bảo Bình nên sửa ngay, rõ ràng là thích người ta là lúc nào cũng trưng ra bộ mặt lạnh như “băng tảng ngàn năm” là sao chứ? Đã là người yêu rồi thì nên lạnh lùng với người khác thôi, với bạn gái thì phải biết trưng ra mặt dịu dàng chứ cứ lạnh lùng mãi thì ai mà chịu nổi.   Cho dù người ta có thích bạn đến thế nào mà thấy tình cảm cho đi cứ như đang đánh bóng với bờ tường, chẳng nhận được chút phản hồi thì dần dần cũng thấy nản lòng, chẳng thà đá bay bạn mà đi tìm anh chàng khác ấm áp hơn cho rồi, đỡ phải suy nghĩ nhọc lòng.  

Chàng trai Song Ngư: Vì quá bá đạo

  Anh chàng này lúc nào cũng thích làm theo ý mình, tỏ rõ sự gia trưởng và độc đoán, ngay cả với bạn gái cũng sai khiến hết chuyện này tới chuyện nọ, hoàn toàn chẳng coi trọng cảm xúc của đối phương. Nói thật nhé, bạn trai độc đoán như anh chàng Song Ngư chẳng cô nào ham đâu. Bạn cứ mãi cố chấp, khăng khăng làm theo ý mình vậy thì cứ sống độc thân thôi, đừng hỏi vì sao bị bồ đá nữa nhé.   Tanny

Khắc khoải thời điểm 12 chòm sao nữ đau khổ nhất khi chia tay 5 điều giúp bạn thức tỉnh sau khi thất tình Lời chia tay chất như nước cất của 12 chòm sao nam

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các chàng trai hoàng đạo vì sao bị bồ đá

6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà

Sai lầm phong thủy "truyền miệng" có thể khiến gia đình bạn gặp họa với lửa hoặc nước.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Di chuyển cóc phong thủy

Trong phong thủy, cóc ngậm tiền hay còn gọi là Thiềm Thừ là một linh vật rất được ưa chuộng sử dụng để cầu tài lộc. Theo kinh nghiệm trong phong thủy, Thiềm Thừ thông nhân tính nên khi khai quang tốt nhất chỉ nên có 1 mình gia chủ. Sau ngay khi khai quang, cóc ngậm tiền nhìn thấy ai đầu tiên thì sẽ mãi mãi phù hộ cho người đó.

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 1

Có nhiều gia đình hay hay trưng bày cóc ngậm tiền ở bàn thờ thổ địa, thần tài, ban ngày cho cóc hướng ra ngoài cửa, tối đến quay cóc hướng vào trong nhà. Tuy  nhiên, đó là một sai lầm phong thủy xua đuổi "tài vận", vì những linh vật khi đã trưng bày không nên quay đi quay lại nhiều lần, theo nhiều hướng. Cách tốt nhất và đúng nhất là đặt cóc hướng vào phía trong nhà, hướng vào bàn thờ ông địa, thần tài tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc nhảy vào trong nhà.

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 2

Ngoài ra, cũng có thể đặt cóc ngậm tiền dưới gầm bàn làm việc, ghế, trong tủ, trong két sắt với đầu hướng vào bên trong, lưng quay ra ngoài.

Một số vị trí cực kỳ kiêng kị khi đặt cóc ngậm tiền: trong phòng bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh. Nếu đặt ở những vị trí này thay vì mang tài lộc đến thì cóc lại trở nên hung dữ mang lại vận rủi, tàn phá năng lượng tốt đẹp của gia chủ.

2.    Lưu trữ nước các nhiều càng tốt

Tất cả mọi nhà đều cần nhiều nước – yếu tố phong thủy giúp thu hút nhiều lợi nhuận và tài lộc. Nhiều gia đình quan niệm khi bị hết nước thì tài lộc sẽ ngừng do vậy họ hay tích trữ nước trong các chai nước lớn ở khắp các ngõ ngách trong nhà.

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 3

Tuy nhiên, theo các chuyên gia phong thủy thì điều đó hoàn toàn bất hợp lý. Nguồn nước tốt nhất khi dòng chảy được xuyên suốt, và trong phong thủy cũng vậy. Sai lầm phong thủy khi tích trữ nước chỉ khiến cho tiền tài ứ đọng và không được sinh sôi, nảy nở.

3.    Nhà của bạn là một nơi tôn nghiêm

Nhiều người thích sống gần chùa chiền, nghĩa trang, nhà thờ. Họ cho rằng những nơi đó tôn nghiêm và sẽ giúp mang đến nhiều điều tốt lành. Tuy nhiên, những khu vực này sẽ tích tụ nhiều năng lượng âm khiến phong thủy suy giảm.

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 4

Những gì một ngôi nhà cần nguồn năng lượng tổng thể nghiêng về dương một chút bởi vì đó là một ngôi nhà của người sống – cần có rất nhiều ánh sáng, sự chuyển động, và hài hòa của các yếu tố. Do đó, gia chủ nên chọn sống ở những khu vực có bầu không khí sôi động với phong cảnh đẹp xung quanh nhà cùng nội thất bắt mắt. Khi một ngôi nhà bị thiếu năng lượng dương, gia chủ sẽ gặp các vấn đền về sức khỏe, thiếu tiền, các mối quan hệ gặp khó khăn, tai nạn, thương tích, v.v.

4.    Treo cầu thủy tinh lên tất cả các cửa nhà

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 5

Treo một quả cầu thủy tinh lên cửa sổ để phản xạ ánh sáng mặt trời là một trong các biện pháp phong thủy thu hút năng lượng tốt. Tuy nhiên bạn đừng lạm dụng nó. Cầu thủy tinh hình tròn – tượng trưng cho nguyên tố đất. Do đó nếu treo nhiều sẽ mang năng lượng âm rất lớn đến cho căn nhà, thậm chí không khác gì âm khí ở nghĩa trang vậy.

5.    Phòng tắm luôn ảnh hưởng xấu đến phong thủy

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 6

Không phải tất cả các phòng tắm đều làm ô uế nguồn năng lượng phong thủy của ngôi nhà. Trong thực tế, bạn không cần quá để ý đến nó vì có thể giúp gia tăng phong thủy trong nhà bằng cách kích hoạt năng lượng trong các góc của căn nhà tương ứng với phòng tắm. Ví dụ, nếu phòng tắm của bạn là ở góc Đông Nam - ảnh hưởng đến tiền tài, bạn có thể tập trung đẩy mạnh phong thủy ở góc Đông Nam của phòng khách của bạn để giúp tạo ra nhiều của cải hơn và thu hút nhiều tài lộc.

6.    Hài hòa tất cả mọi thứ

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 7

Quá nhiều nước sẽ gây họa chết đuối

Đôi khi mọi người cố gắng hài hòa tất cả mọi thứ và chính sai lầm phong thủy này gây ra vấn đề. Ví dụ như dùng tông màu đỏ tươi cho nhà bếp để kết hợp với nguyên tố lửa. Tuy nhiên, bạn biết đó: nhiều lửa sẽ gây cháy. Cũng tương tự như vậy với phòng tắm được dùng tông màu xanh dương và những rèm cửa hình bãi biển. Nhiều nước sẽ gây lụt lội, chết đuối. Hài hòa là tốt nhưng khi cái gì quá lên thì sẽ là vấn đề.

Đừng chỉ mù quáng tin vào các mẹo phong thủy truyền miệng. Thậm chí nhiều trong số các thầy phong thủy cũng chỉ là các tay mơ ba hoa phét lác để kiếm tiền mà không có chút kiến thức nào cả. Nhiều gia đình thậm chí còn đặt gương ở phía trên bồn cầu và buộc ruy băng đỏ vào vòi nước bồn rửa chén - không có một tác dụng nào cả. Phong thủy không chỉ là vấn đề tâm linh mà nó chỉ thực sự có tác dụng khi hợp lý và thực tế. Ngôi nhà bạn sẽ có phong thủy tốt khi được bài trí đẹp và hợp lý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà

Xem tướng qua sắc khí –

Sắc khí của Diện tướng cũng là phần tham khảo quan trọng trong khi xem xét hình tướng một ai. sắc khí thể hiện ở mặt là đại diện và dễ dàng nhận thấy. Nhưng sắc khí thuộc “duy biến” và cả “thường biến”. Tuy nhiên muôn định được những thông tin thì ta

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chỉ để ý đến “duy biến” sắc diện khi người đó đang ổn định, khỏe mạnh. Như vậy sắc khí chỉ nặng về tham khảo.

1397838897_news_92

1. Sắc khí bị thường biến (hay thay đổi) nên cho ta nhận định nhất thời mà thôi, như do: Bệnh, thời tiết, sự kiện… ví dụ như bệnh tật. Nó có giá trị cho các thầy thuốc chẳng hạn:
– Da vàng khè, đột nhiên trên hình thể yếu kém là dấu hiệu bệnh gan, sốt rét v.v…
– Da sám đen: nhiễm độc nặng v.v… Về tướng sắc khí, ta không quan tâm đến khía cạnh đó nhiều. Và sau đây là những biểu hiện tướng sắc: hay, dở, thiện, ác, được, mất.

2. Các tướng sắc khí duy biến (thay đổi do mệnh số).
– Tướng sắc khí có hai phần: sắc là màu sắc của da mặt. Trong đó quan tâm đến sắc tổng thể của mặt và của ngũ nhạc, ngũ quan, gò, tiểu khu…
– Khí lại có hai phần nhỏ:
+ Thần khí của mặt tổng thể và thần khí của năm giác quan và năm nhạc.
+ Khí là hơi thở ra của người đó thường xuyên “duy biến” và đột biến (đột ngột).

3. Sắc tương đối ổn định – duy biến gồm:
– Sắc mặt tổng thể:
+ Trắng trẻo tươi nhuận: Tướng phong lưu, thiện tâm.
+ Đen sạm: tâm đức không thiện, mưu mô.
+ Hồng phớt hai lưỡng quyền: Nặng tình cảm luyến ái. sắc này người ta gọi là sắc hoa đào.
+ Sắc nhạt, mặt phình phình: Người dâm loạn, nhẫn tâm, kẻ “tú bà” như cụ Nguyễn Du nói trong truyện Kiều.
+ Mặt đỏ tía: Nghĩa khí dũng cảm.
+ Mặt trắng bệch: Yểu tướng (không thọ).
+ Mặt vàng bóng: Quý, hiền nhân.
+ Mặt xanh ngắt: Yểu tướng, ốm yếu đôi khi là tài nhân.
+ Mặt xanh sạm: Bệnh hoạn, vô lối
Da vàng bình thường là da đặc trưng của người Việt Nam, nó không mang tính khí điển hình và không tham khảo vào tướng lý.

4. Sắc da “thường biến” – thường thay đổi theo nội tạng bị bệnh tật hay do thời khí, do tác nhân kích thích nên không đề cập trong tướng sắc như khi:
– Giận dữ thì sắc mặt hoặc đỏ bừng bừng ở người mệnh Hỏa. Hoặc tái mét ở người mệnh Kim.
– Giận mà nét mặt, sắc mặt không thay đổi là người cực kỳ nguy hiểm, thù dai và hay báo thù.
– Trời nóng thì sắc da hồng hào.
– Trời lạnh thì sắc da nhạt sỉn.
– Uống quá nhiều rượu thì hoặc đỏ gay hoặc tái mét.
– Sợ sệt thì sắc mặt tái sám, tái mét…
Đó là sắc diện bị kích ứng do các loại kích thích không cần quan tâm trong tướng pháp.

5. Trong y học thì Đông, Tây y đều quan tâm sắc khí:
Hải Thượng Lãn Ông viết trong “Đạo y dự vận” rằng:
Con hư thì cướp hai khí của mẹ, cho nên phế hư thì sắc mặt trắng khô, da nhăn lông rụng…” (Phần bàn về y lý – Hải Thượng Lãn Ông).
Người Tây cùng bàn về sắc diện và bệnh lý (Bác sỹ Joself Renald) ông là một bác sỹ gốc Áo (Autralia) là một bác sỹ, đa tài, giỏi về giải phẫu mà còn rất dam mê tướng pháp. Ông có nhiều tác phẩm liên quan và gắn kết cả hai lĩnh vực này. Bệnh lý và tướng pháp (patholofique và Anatolie pathologique et physiognomie et horoscopie) (… malade fait changer la couluer de la figuré…) (đau ốm làm thay đổi sắc da mặt).

6. Khí
Khí: ở đây tướng pháp quan tâm cả thần khí. Duy biến và thường biến, cả hơi thở, khí đột biến và duy biến.
– Thần khí không nên hiểu là “thần thái” sự kết hợp giữa thần khí và thái – phong thái.

7. Thần khí: Người có thần khí tốt thì ung dung, điềm đạm. Người ta hay nói câu: “Mặt thất thần” (mặt như kẻ mất hồn). Và “mắt có thần” nghĩa là nhìn vào đôi mắt: Sáng và sống động ngược với đôi mắt “đờ đẫn” mất “ngơ ngác”, ngái ngủ. Đấy là cái gọi là có thần khí, hay không còn thần khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua sắc khí –

SAO TAM THAI - BÁT TỌA TRONG TỬ VI

bát tọa (Mộc) tam thai (Thủy) *** 1. Ý nghĩa cơ thể: Tam Thai là trán, phần thiên đình trên tướng mặt. Ba...
SAO TAM THAI - BÁT TỌA TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bát tọa (Mộc) tam thai (Thủy) 


***

1. Ý nghĩa cơ thể: Tam Thai là trán, phần thiên đình trên tướng mặt. Bát Tọa là cằm, phần hạ đình trên tướng mặt.

2. Ý nghĩa tính tình: Thai,  Tọa là hai đài các tinh, có nghĩa:             - ưa sự thanh nhàn, hưởng thụ, an phận, ung dung             - từ đó có nghĩa lười biếng, không hiếu động

3. Ý nghĩa tài sản: Nếu ở Điền hay Tài, Thai Tọa có nghĩa:             - có tiền bạc, điền sản             - không lo âu về tiền bạc, điền sản dù ít tài sản

4. Ý nghĩa của thai, tọa  ở các cung:
- Thai,  Tọa, Mộ: chủ sự quý hiển làm nên, nhất là khi cả 3 sao này tọa thủ ở 4 cung Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) Cách này ở cung Mệnh hay cung Quan là thích hợp.
Thai, Tọa, Đào : nếu ở cung Quan thì đắc quan từ lúc tuổi trẻ, ra làm việc sớm. Việc tiếp giáp Thai, Tọa cũng tốt như Thai Tọa tọa thủ.




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO TAM THAI - BÁT TỌA TRONG TỬ VI

Điểm mặt những con giáp có lòng tham vô đáy

Người tham tiền tài, vật chất, kẻ trăng hoa, đa tình nhưng điểm chung lại họ đều là những con giáp có lòng tham vô đáy.Hãy cùng ## tìm hiểu.
Điểm mặt những con giáp có lòng tham vô đáy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tham tiền tài, vật chất, kẻ trăng hoa, đa tình nhưng điểm chung lại họ đều là những con giáp có lòng tham vô đáy. 


Diem mat nhung con giap co long tham vo day hinh anh
 
Tuổi Thân

Người tuổi Thân sở hữu sự thông minh, nhanh nhạy của một chú khỉ, họ biết cách dùng thủ đoạn khôn ngoan để đạt được mục đích. Khi làm việc, mệnh trụ năm Thân ít khi động tay, biết cách dùng người khác phải lăn xả giúp mình.

Về mặt tình cảm, người tuổi Khỉ như đứa trẻ chưa lớn, họ thường dựa dẫm vào người yêu của mình, để đối phương chăm sóc, mọi điều vụn vặn đều được lo liệu tốt, dùng mọi cách để đối phương phải hết lòng vì bản thân mình. Đúng là con giáp có lòng tham vô đáy.
  Đặt tượng Phật Di Lặc chuẩn phong thủy để rước tài lộc, đón niềm vui
– Tùy thuộc vào điều kiện gia đình, văn phòng, gia chủ có thể bày tượng Phật Di Lặc để đón rước nhiều tài lộc cũng như niềm vui trong cuộc

Tuổi Tý

Diem mat nhung con giap co long tham vo day hinh anh 2
 
Người tuổi Tý nổi tiếng phong lưu, luôn có vận đào hoa quấn thân. Tuy nhiên, nếu có sự giận dỗi trong tình cảm, họ sẵn sằng trở mặt, đồng thời chuyện "bắt cá hai tay" thường thấy ở người cầm tinh con Chuột. Con giáp tham lam này cho dù có bị phát hiện sự lăng nhăng của mình, cũng có thể dùng tài ăn nói để thuyết phục đối phương.
Tuổi Mão

Diem mat nhung con giap co long tham vo day hinh anh 3
 
Người tuổi Mão biết cách dùng tấm lòng lương thiện của người khác để giành được sự đồng cảm. Tại sao bát trụ năm Mão luôn thành công? Đó là bởi vì bản thân họ khi sinh ra đã sở hữu vẻ ngoài đáng thương, cộng thêm một chút kỹ năng diễn xuất.

Trước mặt người yêu họ luôn thể hiện bộ dáng không hề gì, tuy nhiên khi cần điều gì sẽ bày ra dáng vẻ đáng thương để van nài đối phương, đối với ai không chịu nổi sự công kích này sẽ dễ dàng thỏa hiệp, từ đó càng làm tăng thêm lòng tham của con giáp ích kỷ ấy.

► Xem thêm: Khám phá những điều bí ẩn về mười hai con giáp

Chi Nguyễn

Xem Clip Mẹo cắm hoa Tết theo ba chủ đề đẹp mà dễ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm mặt những con giáp có lòng tham vô đáy

Đặc tính sao Văn Xương - là một sao về văn

Tướng Mạo: Người có Văn Xương ở Mệnh có vẻ mặt thanh tú, khôi ngô. Người nữ thì có nhan sắc. Thông minh, có học thức, hoạt bát,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính sao Văn Xương - là một sao về văn

Đặc tính sao Văn Xương - là một sao về văn

Tìm hiểu về đặc tính của Sao Văn Xương trong Tử Vi

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Tứ hóa
Vnă xương Trung thiên đẩu Âm kim Văn khôi Khoa giáp Bính: khoa, Tân: tị

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Văn Xương là dương kim, là trợ tinh của chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là văn khôi, chủ về khoa giáp. Sao Văn Xương cùng với sao Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật, thiên Khôi, Thiên Việt được gọi được gọi chung là lục cát tinh. Sở dĩ gọi chúng là cát tinh, vì chúng đều có công năng phò tá, nếu gặp được cách tốt hoặc chính tinh miếu vượng thì chẳng khác nào hổ thêm cánh, làm tăng thêm thuận lợi và phát triển. Nếu gặp phải các sao lạc hãm, cát tinh sẽ là Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, có thể trung hòa sự uy hiếp của sát tinh, thậm chí có thể dẫn chúng tới phát triển theo chiều hướng tốt.

Sao Văn Xương chủ về khoa cử, là đứng đầu trong văn khôi, nhưng cần phải cần cù khổ luyện mới có thành tựu. Sao Văn Xương rất thích gặp sao Hóa Khoa, miếu vượng lại gặp hóa khoa thì tài năng trong lãnh vực văn nghệ và học thuật càng bộc lộ rõ rệt. Sao Văn Xương nếu gặp sao Thái Dương, Thiên Lương, Lộc Tồn tại các cung vị tam phương tứ chính gọi là cách "Dương Lương Xương Lộc", chủ về tiền tài và chức tước càng đẹp, tham dự các kì thi quan trọng chắc chắn sẽ đậu.

Khi sao Văn Xương nhập cung miếu vượng, là có tài năng trong lãnh vực văn nghệ. Khi Văn Xương lạc hãm, thì tài năng khó bộc lộ. Nếu lạc hãm lại gặp Hóa Kỵ chủ về thành tích học tập không cao, có trí cũng khó thành, thường xuyên thi rớt, thậm chí còn dở dang việc học, dễ nảy sinh tâm lý bi quan và chán nản. Tiểu hạn, lưu niên mà gặp Văn Xương lạc hãm Hóa Kị thì cần phải lưu ý những sơ xuất về văn thư đơn từ, nếu không dê vướng vào kiện tụng, học sinh thì cần chú ý tới thành tích học tập.

Sao Văn Xương lạc hãm lại gặp tứ sát tinh là Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà La là chủ về khôn vặt, thích tranh cãi với người khác để khoe tài ăn nói, có thể kiếm sống bằng tài nghệ đặc thù. Sao Văn Xương là sao văn, Sao Vũ Khúc là sao võ, Văn Xương gặp Vũ Khúc là người văn võ song toàn.

Ca quyết

Văn Xương chủ khoa giáp; Thìn Tị thị vượng địa

Lợi Ngọ hiềm Mão Dậu; hỏa sinh nhân bất lợi

Mi mục định phân minh; tướng mạo cực tuấn lệ

Hỉ vu kim thủy nhân; quan quý song toàn mỹ

Tiên nan nhi hậu dị;  trung hiểu hữu thanh danh

Nghĩa là:

Văn Xương chủ về khoa giáp; Thìn, Tỵ là cung vượng

Ưa Ngọ ghét Mão Dậu; sinh năm hỏa là bất lợi

Mặt mày sáng sủa; dung mạo đẹp vô cùng

Người kim, thủy ưa gặp; giàu sang được song toàn

Trước khó mà sau dễ; trung niên có tiếng tăm

Thái Dương nhiều phúc ấm; có nên ở bảng vàng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính sao Văn Xương - là một sao về văn

Phương pháp Cầu An - Giải hạn - Tăng cường phước báu

Đúc kết những phương pháp Cầu An - Giải hạn - Tăng cường phước báu để vượt qua những khó khăn theo tinh thần đạo Phật.
Phương pháp Cầu An - Giải hạn - Tăng cường phước báu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Phuong phap Cau An - Giai han - Tang cuong phuoc bau hinh anh
 

1. SÁM HỐI
 

Nếu bạn biết được bạn đã phạm những lỗi lầm gì trong quá khứ, hãy thành tâm quỳ lạy trước Đấng mà bạn tôn thờ như Đức Phật , hay bàn thờ gia tiên trong nhà bạn..v.v. và thành tâm sám hối, chi tiết, cụ thể từng lỗi, từng lỗi bạn đã phạm phải.
 
Nhưng thường thì bạn sẽ không biết bạn sai ở đâu, vì điều này thường chỉ những người có trí tuệ rất cao mới làm được. Vậy thì, dù bạn biết hay không biết, hãy thực hiện điều sau:
 
Hãy đọc các loại kinh tùy theo tôn giáo của bạn nếu bạn không theo tôn giáo nào cũng có thể đọc Chú đại bi một thần chú có công năng rất lớn hoặc những bộ kinh thư trong đạo Phật tùy duyên bạn thấy thích Kinh nào, tất cả đều có công năng sám hối mạnh mẽ vô biên. Rất, rất nhiều người đã khỏi bệnh, thoát nạn chỉ với việc kiên trì đọc Kinh sám hối hoặc trì tụng Chú Đại Bi. Điều này có ý nghĩa như lấy nước gột rửa những vết nhơ trong quá khứ. Bạn cần lưu ý là luôn tâm niệm lấy việc đọc kinh này để sám hối những lầm lỗi quá khứ. Nghiệp chướng của bạn sẽ theo lời đọc mà tan biến dần dần.
 

2. BÙ ĐẮP BẰNG NHỮNG VIỆC PHÚC THIỆN
Phuong phap Cau An - Giai han - Tang cuong phuoc bau hinh anh 2
 

Sự sám hối của bạn sẽ thực tế hơn rất nhiều, nghiệp chướng của sẽ tan biến nhanh hơn rất nhiều nếu được đền chuộc bằng những việc làm từ thiện. Càng làm nhiều, bạn sẽ càng thấy hiệu quả rõ rệt.

Sau đây, tôi xin giới thiệu với bạn một số việc từ thiện không khó làm, nhưng phước báo cực kì to lớn. Hãy làm, bạn sẽ thấy!
 
TỪ THIỆN CỨU NGƯỜI
 
Bạn có thể tới các bệnh viện, các trung tâm trẻ mồ côi, người già neo đơn, người khuyết tật để trao tặng những món quà, tài vật hoặc tịnh vật tùy điều kiện khả năng của chúng ta.
 
Nhưng nếu có thời gian hãy trực tiếp tìm hiểu những mảnh đời bất hạnh mà họ không đủ phước duyên được nhiều người biết đến để hỗ trợ. Chúng ta có thể tìm được bằng cách đến những nơi hẻo lánh, hoặc trực tiếp tìm hiểu tại các bệnh viện, không gì hạnh phúc hơn là giúp được người khác qua cơn hoạn nạn. Công đức không thể nghĩ bàn.
 
PHÓNG SINH
 
Dù không bằng so với việc cứu người, nhưng cứu sống những con vật tội nghiệp khỏi lưỡi dao đồ tể, khỏi cái chết đau đớn cũng sẽ đem lại cho bạn phước báo lớn lao.
 
Nếu bạn có một khỏan tiền dư ko dùng đến, hãy mạnh dạn mở lòng từ bi trích ra 1 ít Hãy mua những con vật sắp bị giết thịt, rồi thả chúng vào một chốn an tòan. Cuộc sống của bạn sẽ thay đổi vì điều đó.
 
Một điều cần lưu ý, bạn nên ưu tiên những loài vật sau để phóng sinh nếu bạn không đủ sức để phóng sinh tất cả:
 
Chó, trâu bò, ngựa. Đây là những con vật mang đậm tình nghĩa với con người. Dù là động vật, nhưng chúng có tâm tư tình cảm gần giống người nhất. Phóng sinh chúng là một việc làm thực sự ý nghĩa.
 
Rùa, ba ba, lươn, ếch,... Mặc dù là động vật máu lạnh, nhưng tâm linh của chúng rất cao. Những người phóng sinh chúng thường gặp những may mắn kì lạ.
 
Những động vật có sức sống mạnh mẽ như cá trê, cá lóc, ếch nhái... vì thật đáng buồn nếu như sau khi bạn thả vật về tự nhiên, chúng lại lăn ra chết.
 
Những con vật sắp sinh con. Điều này thật dễ hiểu, vì chỉ cần cứu một con là cứu được cả đàn mẹ lẫn con. Đặc biệt với loài cá vì chúng sinh sản với số lượng khủng khiếp.
 
Hãy trực tiếp vào chợ, các lò mổ để mua phóng sanh vì đó là những chúng sinh thực sự cần chúng ta.
 
ẤN TỐNG
 
Đem ánh sáng chân lí đến cho cuộc đời, đem đạo đức, lẽ phải đến cho mọi người. Đó là điều thiện vĩ đại nhất trong các điều thiện. Đức Phật nói “Pháp thí là vua trong tất cả các pháp bố thí”.
 
Vì sao?
 
Vì đó là khởi nguồn cho mọi điều thiện khác được phát sinh, vì chỉ khi mở được cánh cửa của chân lí, của lẽ phải, con người ta mới có thể biết phải làm gì để tìm được hạnh phúc, phải làm gì để chấm dứt khổ đau .
 
Chính vì thế , một lựa chọn cực kì sáng suốt nếu bạn muốn thay đổi vận mạng của mình. Đó là, bạn hãy tìm mua, in ấn những kinh thư hay những sách có nội dung khuyến thiện, hoặc băng đĩa thuyết pháp của quý thầy có tác dụng khiến người xem bỏ ác làm lành, tăng trưởng đạo đức. Sau đó đem tặng cho nhiều người, bạn sẽ bất ngờ vì phước đức ghê gớm mà việc ấn tống này đem lại.
 
Một điều đáng mừng cho chúng ta, trong thời đại công nghệ phát triển, chúng ta có thêm một cách ấn tống vô cùng hiệu quả bằng phương tiện internet. Bằng vài cú nhấp chuột, bạn đã có thể chia sẻ những bài viết hay, những lời pháp ý nghĩa đến cho hàng ngàn, hàng vạn người đọc trên facebook hay các trang mạng khác.
 
Ngoài những việc trên, bạn có thể chọn một nghìn lẻ một cách khác để làm từ thiện, miễn là việc đó đem lại an vui cho mọi người , cho muôn loài như : xây cầu đắp đường, xây chùa đúc tượng, chữa bệnh phát thuốc, trồng cây gây rừng,...
 
Mong rằng qua bài viết này sẽ giúp mọi người có thêm được thông tin hữu ích trong việc giải hạn những nghiệp xấu của mình.
 
=> Mời các bạn xem tử vi năm 2016 theo cung, mệnh bản thân chuẩn xác

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp Cầu An - Giải hạn - Tăng cường phước báu

Đặt tên hay cho người tuổi Thân

Tên hay cho người tuổi Thân là những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người.
Đặt tên hay cho người tuổi Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Thân thích hợp với những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người.


Dat ten hay cho nguoi tuoi Than
 

Thân tam hợp với Tý, Thìn. Nếu tên của người tuổi Thân có các chữ trong tam hợp đó thì họ sẽ được sự trợ giúp rất lớn và có vận mệnh tốt đẹp.

Mặt khác, Thân thuộc hành Kim, Thủy sinh Kim nên những chữ thuộc bộ Thủy cũng rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân. Theo đó, bạn có thể chọn những tên như: Khổng, Tự, Tồn, Tôn, Học, Hiếu, Nông, Thìn, Thần, Giá, Lệ, Chân, Khánh, Lân, Cầu, Băng, Tuyền, Giang, Hồng, Hồ, Tân, Nguyên, Hải…

Rừng cây là nơi sinh sống của khỉ nên những chữ thuộc bộ Mộc là tên hay cho người tuổi Thân, ví dụ như: Bản, Tài, Đỗ, Đông, Tùng, Lâm, Liễu, Cách, Đào, Lương, Dương… Nhưng Thân thuộc hành Kim, Kim khắc Mộc nên bạn cần cẩn trọng khi dùng những tên trên.


Những chữ thuộc bộ Khẩu, Miên, Mịch gợi liên tưởng đến nghĩa “cái hang của khỉ” sẽ giúp người tuổi Thân có cuộc sống nhàn nhã, bình an. Đó là những tên như: Đài, Trung, Sử, Tư, Đồng, Hướng, Quân, Trình, Thiện, Hòa, Gia, Đường, An, Thủ, Tông, Quan, Thất, Dung, Nghi, Ninh, Hoành, Bảo, Hựu, Thực, Khoan…


Người tuổi Thân thích hợp với những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người. Những tên gọi thuộc các bộ đó gồm: Nhân, Giới, Kim, Đại, Nhiệm, Trọng, Tín, Hà, Bảo, Hưu, Nghi, Huấn, Từ, Ngữ, Thành, Mưu, Nghị, Cảnh…


Khỉ rất thích xưng vương nhưng để trở thành Hầu vương và có được uy phong thì chúng phải trả giá rất đắt. Do vậy, những chữ thuộc bộ vương như: Ngọc, Cửu, Linh, San, Trân, Cầu, Cầm, Lâm, Dao, Anh… khá phù hợp với người tuổi Thân. Tuy nhiên, bạn nên thận trọng khi sử dụng những tên đó.


Dùng những tên thuộc bộ Sam, Cân, Mịch, Y, Thị để biểu thị sự linh hoạt và vẻ đẹp đẽ của chúng như: Hình, Ngạn, Ảnh, Chương, Bân, Lệ, Đồng, Thường, Hi, Tịch, Thị, Sư, Phàm, Ước, Hệ, Tố, Kinh, Hồng, Duyên… sẽ giúp người tuổi Thân có được vẻ anh tuấn, phú quý song toàn. Đặt tên hay không hề khó phải không nào.


Theo Bách khoa thư 12 con giáp

 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho người tuổi Thân

Hoa vô ưu - đóa hoa Phật giáo không bao giờ tàn lụi

Hoa vô ưu – loài hoa của Phật giáo, mang trong mình triết lý sâu sắc của đạo Phật về cuộc sống không ưu tư, phiền muộn.
Hoa vô ưu - đóa hoa Phật giáo không bao giờ tàn lụi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vô ưu – loài hoa của Phật giáo, mang trong mình triết lý sâu sắc của đạo Phật về cuộc sống không ưu tư, phiền muộn. Trải qua hàng ngàn năm, loài hoa ấy vẫn lặng lẽ bừng nở trong nắng gió, và nở ở trong lòng những con người hướng Phật.  

Hoa vo uu - doa hoa Phat giao khong bao gio tan lui
 

1. Loài hoa thiêng đất Phật

  Hàng ngàn năm trước, Phật Thích Ca Mẫu Ni sinh ra dưới tán cây vô ưu – loài hoa của vùng đất thiêng, loài hoa mang trong mình vẻ đẹp của sự lạc quan, tinh thần thanh thản. Hoàng hậu Ma Đa khi mang thai Thái tử Tất Đạt Đa – tiền thân của Đức Phật, thấy cây vô ưu tỏa hương thơm ngát bèn ghé vào thăm và vịn cành cây mà sinh ra Thái tử.   Vô ưu – không muộn phiền, tên loài hoa cũng là lý tưởng cao nhất của đạo Phật: thoát khỏi những tham, sân, si của đời người; vượt qua bao muộn phiền, tăm tối để hướng về cõi Niết Bàn. Đây là loài hoa mang ý nghĩa tâm linh ẩn chứa những tư tưởng về xuất thế và nhập thế.
Xem thêm bài viết Tóm lược cuộc đời của Đức Phật để thấu hơn về cõi nhân sinh
 

2. Đóa hoa vô ưu trong lòng mỗi người

  Hoa vô ưu không chỉ được gieo trong đất, tươi tốt nhờ nắng gió thiên nhiên mà trong lòng mỗi người đều có một đóa vô ưu, cần tưới tắm bằng tu tập, hướng đạo để càng ngày càng bừng nở mạnh mẽ, tỏa hương thơm ngát. Chỉ có vô ưu mới không có luân hồi sinh tử, chỉ có vô ưu mới không có nghiệp chướng, không có luẩn quẩn đầu thai.   Vô ưu trong lòng, tự dưng bất thiện thành thiện, không đạo đức thành đạo đức, chẳng những hóa giải được ác nghiệp trong quá khứ mà còn ngăn ngừa ác nghiệp trong tương lai, tạo ra thiện hạnh. Làm thế nào để vô ưu, không ham cầu thì vô ưu. Lòng thanh thản thì vô ưu, lòng tĩnh tại thì vô ưu. Mọi muộn phiền đều từ những ham muốn của con người mà ra.   Lòng càng ít ham muốn thì đóa vô ưu càng tươi tốt. Đạo Phật hướng tới cảnh giới vô vi, vô ngã vị tha, tức là quên đi tất cả những thứ vật chất tồn tại trên đời, quên đi những tham cầu cá nhân, quên đi chính cả mong ước của mình, chỉ hướng tới một điều duy nhất: đạo.
Xem thêm bài viết Vì sao Đức Phật, Bồ Tát ngồi trên hoa sen mà không phải loài hoa khác?
Lý tưởng này của đạo Phật là lý tưởng của cái thiện và lòng thiện. Khi lòng thiện lên ngôi, người ta chỉ hướng thiện, khi hướng thiện thì mọi hành vi đều thiện, không còn tham mà ác, không còn cầu mà bất nhân. Thiện tâm chính là chất dinh dưỡng của hoa vô ưu trong lòng, người thiện ắt vô ưu.   Muốn thiện, muốn vượt qua những ham muốn tầm thường trong cuộc đời con người thì nhất định phải có trí. Trí tuệ sáng suốt, thấu triệt ngọn nguồn của sự sống và tất thảy mọi vật trên trên đời, hiểu nguồn cơn khổ đau và cách thoát khỏi khổ. Người có trí sẽ thấy bản chất vô ngã vô thường ngay trong chính mình, hiểu mình, không thành kiến, không ảo tưởng, vững vàng tiến tới con tưởng thoát khỏi thế tục.
doa hoa vo uu trong long moi nguoi
 
Phật giáo tin rằng, trí tuệ chính là chìa khóa giác ngộ và giải thoát cuối cùng, thanh tịnh nhờ trí, tâm an nhờ trí, tâm tĩnh nhờ trí. Sự nở rộ của đóa hoa vô ưu trong lòng cũng chính là sự nở rộ của trí tuệ, trí tuệ tinh thần và trí tuệ học thức. Trí tuệ của lòng từ bi, hỷ, xả, vị tha, của buông bỏ muộn phiền, thông hiểu nhân quả; trí tuệ của tha mình, tha người, mọi thứ về hư không.
 
Xem thêm bài viết Phật pháp nhiệm màu phải chăng là cầu gì được nấy?
 
Đó mới chân chính là những đóa hoa vô ưu đẹp nhất, bền bỉ nhất chứ không như loài hoa sớm nở, tối tàn, màu sắc rực rỡ nhưng dễ dàng héo úa kia. Tâm mỗi người giống mảnh đất màu mỡ, gieo được đóa vô ưu, tự khắc hưởng hương lành.    Vô ưu xuất thế, là tán vô ưu nâng đỡ sự ra đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni; vô ưu nhập thế là đóa vô ưu sinh trưởng trong lòng mỗi Phật tử. Vô ưu xuất thế đánh dấu sự xuất hiện của đấng linh thiêng, vô ưu nhập thế để đánh dấu sự hướng tiện, nhập đạo của con người.   Hoa vô ưu nở khắp năm châu bốn biển, bất kể tuổi tác sang hèn, bất kể trai gái giàu nghèo, đóa hoa ấy là biểu tượng của Phật giáo, của sự bình đẳng, giác ngộ, của con đường học đạo gian truân, khổ hạnh nhưng kết quả rực rỡ, tuyệt đẹp. Bắt đầu từ ngay hôm nay, hãy tự chăm lo vun vén cho đóa vô ưu trong lòng mình đâm chồi nảy lộc. 
7 loài hoa tránh dâng lên bàn thờ sẽ mất hết Phúc Lộc Các loại hoa dâng lên bàn thờ hút tài lộc Nên và không nên chọn loại hoa nào để đi tảo mộ trong Tết Thanh Minh?
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hoa vô ưu - đóa hoa Phật giáo không bao giờ tàn lụi

10 vị trí nhà phạm "sát khí" xin đừng mua

Phong thủy nhà cửa rất quan trọng, vì nó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình, khiến bệnh tật đeo bám không rời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cấm kị phong thủy 1: Nhà gần cầu vượt 

Khi mua nhà, nếu không phải rất cần thiết, thì không nên mua nhà ở gần cầu vượt. Giao thông ở nơi này không thuận tiện, hơn nữa xe cộ trên cầu khá ồn ào và hỗn loạn, sẽ làm hỏng và đứt đoạn phong thủy, còn có hại cho sức khỏe của người trong nhà. Những người sống ở gần khu vực này dễ mắc các bệnh liên quan đến thần kinh, viêm loét tá tràng.

 10 vi tri nha pham

Cấm kị phong thủy 2: Nhà ở góc ngã tư

Gần ngã tư có thể dùng làm văn phòng, nhưng cần lưu ý một điều, nếu xây nhà không tốt có thể tạo nên góc chết. Một số tòa nhà xây ở khu vực này có khả năng tiêu thụ khá cao, nhưng nếu sống ở đây, sẽ dễ mắc các bệnh như đau dạ dày, ung thư dạ dày, phổi, trúng gió…

 10 vi tri nha pham

Cấm kị phong thủy 3: Nhà gần cột điện cao áp hoặc tháp truyền hình 

Công suất phát điện của tháp truyền hình rất mạnh, các mạng điện thoại cũng có rất nhiều cột tín hiệu, sóng điện từ của nó có thể làm giảm khả năng miễn dịch, gây ra bệnh máu trắng, tinh thần phân liệt, nghiêm trọng hơn có thể dẫn tới ung thư. Nên sống cách cột điện cao áp ít nhất 300m.

 10 vi tri nha pham

Cấm kị phong thủy 4: Nhà gần trạm xăng dầu

Hiện nay các phương tiện giao thông ngày càng nhiều, nên trạm xăng dầu cũng theo đó mà mọc lên như nấm. Có thể vì tiện lợi mà mua nhà gần trạm xăng, nhưng trong dầu có rất nhiều vật chất có hại cho sức khỏe như chì..; hơn nữa lượng xe dừng và khởi động ở trạm xăng nhiều, tạp âm lớn cũng là sát khí trong phong thủy.

Cấm kị phong thủy 5:  Nhà đối diện tường kính

Tường làm bằng kính, cũng giống như gương, có thể sản sinh ra quang sát. Hiện nay có rất nhiều tòa nhà cao tầng dùng toàn kính. Những người sinh sống trong tòa nhà đối diện sẽ bị ảnh hưởng và mắc phải các bệnh về mắt như tăng nhãn áp, tháp truyền hình, đục thủy tinh thể, viêm kết mạc, viêm giác mạc.

 10 vi tri nha pham

Cấm kị phong thủy 6: Đường chạy thẳng về phía ban công 

Rất nhiều người sức khỏe không tốt, loại xung sát này, đặc biệt là khí lưu sẽ rất dễ khiến người ta mắc cảm cúm.

Cấm kị phong thủy 7: Ban công của phòng chính hoặc phòng ngủ đối diện góc nhọn

Cấm kị phong thủy này được gọi là tiêm đao sát, khiến tinh thần của chủ nhân kém, dẫn tới tinh thần yếu.

Cấm kị 8: Nhà gần đường sắt 

Sống gần đường sắt rất dễ mắc các bệnh về tai, thính lực kém, tuổi thọ ngắn.

 10 vi tri nha pham

Cấm kị 9: Tường vây quá cao

Tường vây của sân vườn hay xung quanh biệt thự quá cao không tốt, chủ nhân sẽ cảm thấy mình sống trong một môi trường khép kín, dễ phiền muộn.

Cấm kị 10: Đừng ngoài nhà có thể nhìn ngay thấy ống khói lớn

Như vậy về tâm lý sẽ khiến tinh thần bị ức chế, các chức năng của bộ phận cơ thể bị hỗn loạn, dẫn tới các bệnh về máu não, trúng gió, u não. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 vị trí nhà phạm "sát khí" xin đừng mua

Sao Hóa Lộc

Hành: Mộc Loại: Phúc tinh Đặc Tính: Tiền bạc, phú quý, vui mừng Tên gọi tắt thường gặp: Lộc Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa...
Sao Hóa Lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: MộcLoại: Phúc tinhĐặc Tính: Tiền bạc, phú quý, vui mừngTên gọi tắt thường gặp: Lộc
Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.
Vị Trí Của Sao Hóa Lộc

  • Vượng địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Dần, Mão.
  • Hãm địa ở các cung Tý, Ngọ, Thân, Dậu.
Hóa Lộc ở hãm địa, ít phát huy cái hay về tính tình, tài lộc, phúc thọ.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Hóa Lộc là râu. Vì Hóa Lộc chủ sự phong phú cho nên có nghĩa là nhiều râu, một đặc tính thể chất của phái nam. Do đó, còn có nghĩa là có nhiều nam tính.
  • Hóa Lộc, Tham Lang: Râu rậm, râu quai nón.
  • Hóa Lộc, Phi Liêm: Râu tóc dài, đẹp.
Tính Tình
Sao Hóa Lộc có hai ý nghĩa nổi bật nhất về mặt tâm tính:
  • Nam tính, thẳng thắn, lương thiện.
  • Năng khiếu sành về ăn uống.
Người có sao Hóa Lộc thủ Mệnh rất tinh tế trong việc ẩm thực, biết nhiều món ăn lạ, biết các thứ rượu ngon, có thể biết cả việc nấu nướng, biến chế sành điệu. Đó là người có vị giác linh mẫn, thưởng thức mùi vị các thực phẩm. Nếu đi với Tấu Thư, vị giác này càng vi diệu thêm. Đây là bộ sao rất cần cho người làm bếp, người nấu rượu ngon.
Nếu có thêm Xương Khúc hay Hóa Khoa thì đó là người sáng tác các sách gia chánh, dạy nấu ăn, chế rượu...
Công Danh Tài Lộc
Hóa Lộc là một sao tài, chủ sự phong phú về tiền bạc. Nếu đóng ở cung Tài thì hợp vị, tượng trưng cho lợi lộc về tiền bạc, sự giàu có dưới mọi hình thức (có tiền, có điền sản, có lộc ăn).
Về điểm này, Hóa Lộc đồng nghĩa với Lộc Tồn. Nếu được chính tinh sáng sủa hội họp, thì đây là một đại phú, một thế lực tài phiệt lớn.
Chính vì các nghĩa đó cho nên Hóa Lộc nói lên khả năng tạo ra tiền bạc dễ dàng và mau chóng, sự may mắn đặc biệt về tiền bạc. Thường thì đây là sao của những nhà kinh doanh, buôn bán lớn, phú thương làm giàu nhờ mậu dịch, óc thương mại phong phú và chính xác.
Đóng ở cung Quan, Hóa Lộc có nghĩa là có cơ hội, nhiệm vụ giữ tiền, làm những công việc liên quan đến tiền bạc như thuế vụ, ngân khố, ngân hàng, kế toán. Ở cung Quan, Hóa Lộc có nghĩa như nghề nghiệp tài chính và kinh tế.
Phúc Thọ Tai Họa
  • Hóa Lộc đơn thủ có nghĩa dư dả, giàu có. Nếu đi kèm với Tử, Phủ, Khoa, Quyền tất được hưởng phú và quý cao độ.
  • Giá trị phúc thọ của Hóa Lộc chỉ mạnh khi có cả bộ Tam Hóa đi liền (Khoa, Quyền, Lộc) hay có Tử, Phủ hội họp hay Nhật, Nguyệt sáng hội chiếu.
Những Bộ Sao Tốt
  • Hóa Lộc, Thiên Mã: Giàu có và có tài năng, thịnh đạt về công danh, giữ chức vụ cao cấp có bổng lộc cao, được người trọng nể vì tiền bạc và cả quyền tước.
  • Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền: Đây là bộ sao Tam Hóa đầy đủ nhất của con người, có nghĩa vừa có văn hóa, quyền hành, vừa có tiền bạc. Nhờ ba yếu tố căn bản đó, phúc thọ con người được tăng tiến mau lẹ, tai họa bị giảm thiểu đến tối đa. Bộ sao này có hiệu lực cải xấu thành tốt trên cả ba phương diện học vấn, quyền uy và tài lộc. Cái tốt này có tính chất liên tục, phúc sẽ đến liên tiếp, bất luận cho phái nam hay nữ.
  • Hóa Lộc, Hóa Quyền, Thất Sát: Đây là một cách võ tướng có quyền hành lớn, hiển đạt.
  • Hóa Lộc, Cơ Lương đồng cung: Người giàu có, triệu, tỷ phú, đại tư sản; người hay bố thí, đem của làm việc xã hội.
  • Hóa Lộc, Lương ở Tý, Ngọ: Người có tài năng xuất chúng, sự nghiệp lớn lao và danh tiếng lừng lẫy.
  • Hóa Lộc, Thiên Mã, Tướng Quân: Anh hùng, quyền quý, giàu sang.
  • Hóa Lộc, Thiên Tướng: Đẹp trai, có nhiều nam tính, có sức thu hút quyến rũ phụ nữ.
Những Bộ Sao Xấu
Bất luận sát tinh nào đi với Hóa Lộc đều phá hầu hết lợi điểm của sao này, đặc biệt là Tuần, Triệt, Không, Kiếp.
  • Hóa Lộc, Không, Kiếp: Bị phá sản, hoặc khi có khi phá. Nếu Không Kiếp đắc địa thì thủ đắc tài lộc hết sức bất ngờ và mau chóng. Nếu Không Kiếp hãm địa đi với Hóa Lộc có nghĩa làm tiền bằng các phương pháp ám muội và táo bạo như buôn lậu, tham nhũng, sang đoạt, khao của... hoặc bị người sang đoạt, cướp của.
  • Hóa Lộc, Tam Không (mệnh vô chính diệu): Giàu sang nhưng không bền, phải có lúc bại sản một lần trong đời.
  • Hóa Lộc và Lộc Tồn đồng cung: Hai sao này khắc hành (Lộc thuộc Mộc, Tồn thuộc Thổ) nên xung khắc; có tiền nhưng thường hay bị tai họa vì tiền.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ là người có của cải, giàu có, lương thiện.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phúc Đức
  • Được hưởng phúc.
  • Hay có quý nhân giúp đỡ.
  • Trong họ hoặc cha mẹ có nghề lạ lùng, khéo tay về thủ công hoặc có nghề ăn uống, chế biến sành điệu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Điền Trạch
  • Làm gia tăng lợi ích về việc mưu cầu nhà cửa, có nhiều nhà cửa.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Quan Lộc
  • Gia tăng sự thuận lợi về công danh, quan chức, thi cử, có nhiều bổng lộc, có quí nhân giúp đỡ.

  • Hóa Lộc, Thiên Mã thì làm nghề thương mại thì phát tài, hoặc dễ được thăng chức, dễ có việc làm, sớm có công danh.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, đồng nghiệp tốt, được người chân tay thân tín trung thành, đắc lực.
  • Hóa Lộc, Hóa Quyền, nhờ bạn thân mà làm nên sự nghiệp.
  • Hóa Lộc, Hồng Loan, nhờ vợ mà trở nên giàu có.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài hay gặp được quý nhân nâng đỡ hoặc hay được mời ăn uống, tham dự lễ lộc, có lộc ăn.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được bệnh tật, có quý nhân giúp đỡ về tiền bạc, nhưng nếu có thêm sao Tuần, Triệt, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ thì khổ sở vì tiền, bị sang đoạt, mất trộm, phá sản, nhưng đôi khi cũng có lộc bất ngờ nhưng không bền mà lại hay sinh tai họa.
  • Nếu gặp các sao tốt như Thiên Đồng, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Phủ, đau ốm gặp thầy thuốc giỏi, có tai nạn thì được người cứu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tài Bạch
  • Sao Hóa Lộc đóng trong cung Tài thì làm gia tăng sự thuận lợi về việc mưu cầu tiền bạc, làm ăn phát tài hoặc được thừa hưởng di sản, gia tài, thích ăn uống.

  • Hóa Lộc, Thiên Mã, Thiên Cơ, Thiên Lương hay Lộc Tồn là số giàu có, triệu phú, tỷ phú, đại tư bản.
  • Hóa Lộc, Hồng Loan, Đà La, được hưởng của thừa tự của người trong họ, được chia gia tài.
  • Hóa Lộc, Ân Quang, thịnh đạt về công danh.
  • Hóa Lộc, Đại Hao, kiếm được nhiều tiền rồi cũng hết sạch.
  • Hóa Lộc, Mộ, may mắn bất ngờ về tiền bạc.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tử Tức
  • Làm gia tăng số lượng con cái.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phu Thê
  • Người hôn phối có của hoặc có tài, phong lưu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em đông người, khá giả.
  • Hóa Lộc, Tướng Quân, Lộc Tồn, anh chị em có người quyền quý.
  • Hóa Lộc, Thiên Mã, anh chị em có người buôn bán mà làm giàu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hóa Lộc

Xem tử vi bắt bệnh dựa vào học thuyết ngũ hành

Học thuyết lý luận của Đông y có cơ sở từ triết học âm dương ngũ hành, lấy học thuyết ngũ hành làm chủ. Xem tử vi bắt bệnh là dựa vào ngũ hành dự đoán sức khỏe.
Xem tử vi bắt bệnh dựa vào học thuyết ngũ hành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Học thuyết lý luận của Đông y có cơ sở bắt nguồn từ triết học âm dương ngũ hành, lấy học thuyết ngũ hành làm chủ. Xem tử vi bắt bệnh chính là dựa vào ngũ hành bản mệnh mà dự đoán về tình trạng sức khỏe.


Xem tu vi bat benh dua vao hoc thuyet ngu hanh hinh anh
 
Xem tử vi bắt bệnh, theo “Hoàng Đế nội kinh” gan thuộc tính Mộc, tim thuộc tính Hỏa, tỳ thuộc tính Thổ, phổi thuộc tính Kim, thận thuộc tính Thủy. Trong đó có quan hệ tương sinh tương khắc, tức gan sinh tim, tim sinh tỳ, tỳ sinh phổi, phổi sinh thận, thận sinh gan. Và thận khắc tim, tim khắc phổi, phổi khắc gan, gan khắc tỳ, tỳ khắc thận. Sinh khắc tuần hoàn, tác động qua lại, sinh sôi liên tục.
Xem tu vi bat benh dua vao hoc thuyet ngu hanh hinh anh
 
Phương pháp mệnh lý học trọng yếu lấy ý tưởng ngũ hành có cơ sở lý luận tương tự, như dân gian có câu “nhìn người bắt bệnh”. Xem tử vi bắt bệnh theo nguyên tắc sau.  

1. Người hình Kim nguyên tắc, kiên trì

  Người hình Kim mặt rộng, mũi cao, tay chân gầy gò, thể hình hơi gầy, da trắng. Nói ít nhưng thường nói lời khiến người khác sửng sốt, làm việc kĩ lưỡng, có nguyên tắc. Người này hành động cấp tốc, mạnh mẽ vang dội, tính cách cương trực, nói một là một, dễ dàng thu được uy tín. Tính cách ngay thẳng quá độ dẫn đến tính khí táo bạo, đồng thời không dễ tiếp thu ý kiến của người khác, dẫn đến độc tài, khư khư cố chấp.   Người hình Kim ở vị trí phổi cùng ruột già xuất hiện bệnh tật, đồng thời phải chú ý khí quản và toàn bộ hệ hô hấp.  

2. Người hình Mộc đa sầu đa cảm

  Người mệnh Mộc vóc người gầy, vóc dáng cao. Nam có phong thái ngọc thụ lâm phong, thư sinh yếu đuối; nữ thân thể thướt tha, da trắng, dáng vẻ hoa nhường nguyệt thẹn, là mỹ nhân điển hình. Người này thích tĩnh mà không thích động, không thích tham gia trò vui. Thận trọng mẫn cảm, đa sầu đa cảm, ảo tưởng, có khí chất lãng mạn khí chất.    Tính cách nhược điểm là lòng dạ hẹp hòi, năng lực hợp tác đoàn thể kém, khuyết thiếu sức cạnh tranh. Làm việc do dự thiếu quyết đoán, dây dưa dài dòng, chấp hành lực cũng so với kém, xử lý cảm tình không dứt khoát, đồng thời hay ghen tị.   Người hình Mộc chú ý bệnh về gan, có thể phát sinh những chứng bệnh ngoài mong muốn.  

3. Người hình Hỏa tràn ngập sức sống

  Người hình Hỏa hình thể nhỏ gầy, sắc mặt hồng hào, tinh khí tràn trề, cả người tràn ngập sức sống. Tính cách phấn chấn, tinh thần cao vút, yêu thích mạo hiểm cùng khiêu chiến, đối với người khác nhiệt tình như lửa. Tính cách nhược điểm là tính khí táo bạo, dễ nổi giận, năng lực tự kiềm chế kém.   Người mệnh Hỏa cần lưu ý bệnh tật về tim. Cũng phải đặc biệt cẩn thận phương diện ruột non, hệ thống tuần hoàn huyết dịch, dưỡng sinh chăm sóc sức khỏe.  

4. Người hình Thủy cao thâm khó dò

  Người hình Thủy hình thể mập, da tối màu, nam mệnh bụng to. Đi lại khó khăn, hành động khá là chậm chạp, biểu hiện bất định, làm cho người ta cảm thấy cao thâm khó dò. Tính cách rất dễ dàng cùng mọi người hoà đồng. Hơn nữa là người hiền lành, chưa bao giờ nói xấu ai. Tính cách nhược điểm là đa nghi, cực đoan, lòng dạ chật hẹp, khó lường, làm người nhìn không thấu.   Người mệnh Thủy cần chú ý phương diện thận cùng bàng quang xuất hiện bệnh tật. Đồng thời cũng phải chú ý thêm não cùng hệ thống bài tiết.  

5. Người hình Thổ tài năng ẩn giấu

  Người hình Thổ thể trạng cường tráng, vóc người cân xứng, cơ chắc, bắp thịt đầy đặn, da dẻ màu nâu đồng, dáng đi ổn định, vững như núi, làm cho người ta có cảm giác uy vũ hùng tráng. Tính cách trung thành trung hậu, gặp chuyện cẩn thận trấn định, người tài năng dù vẻ ngoài thô mộc, ngốc nghếch. Tính cách nhược điểm chính là hành động có chút chậm chạp, làm cho người ta cảm thấy chất phác, thật thà.   Xem tử vi bắt bệnh người mệnh Thổ cần lưu ý về khí trong người. Mặt khác ruột và toàn bộ hệ tiêu hoá cũng là bộ phận dễ bị bệnh, nên cần kiểm tra thường xuyên.
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Cách hóa giải cho người có bát tự vượng Thổ Vợ chồng mệnh gì kết hợp với nhau thì đại cát đại lợi? Phương pháp hóa giải bát tự vượng Thủy khuyết Hỏa

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi bắt bệnh dựa vào học thuyết ngũ hành

Mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ

Phòng khách thiết kế không chỉ “nới rộng” không gian sống, tiết kiệm diện tích mà còn đem lại cho căn hộ cái nhìn hiện đại, phóng khoáng hơn rất nhiều.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có thể nói, khi thiết kế một căn hộ chung cư thì phòng khách được lưu tâm nhiều hơn cả. Nếu trước đây, khu vực này thường được “gói gọn” trong bốn bức tường thì hiện nay, các kiến trúc sư lại ưa chuộng mẫu phòng khách thiết kế mở hơn. Nó không chỉ giúp “nới rộng” không gian sống, tiết kiệm diện tích mà còn đem lại cái nhìn hiện đại, phóng khoáng hơn rất nhiều.
Dưới đây là những mẫu phòng khách với thiết kế mở đẹp lung linh mà chúng tôi muốn gợi ý cho căn hộ chung cư của bạn.
mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 1
Phòng khách thiết kế mở với sắc đỏ nổi bật trên tông màu xám trung tính.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 2
Tấm thảm trải sàn ấm áp làm “mềm mại” căn hộ có kết cấu khá “nam tính”.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 3
Quầy bar từ “bức tường một nửa” khéo léo phân vùng bếp - phòng khách.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 4
Phòng khách tận dụng tối đa từng mét vuông để sắp đặt nội thất trang nhã.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 5
Thay thế bức tường ngăn cách bếp và phòng khách bằng sofa sang trọng.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 6
Tạo điểm nhấn bằng thảm trải sàn zíc zắc và tranh treo tường khổ lớn.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 7
Nội thất thấp sàn mang lại vẻ đơn giản mà hiện đại cho không gian mở.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 8
Ánh nắng tự nhiên kết hợp sàn gỗ tươi sáng tạo nên cảm giác rộng rãi.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 9
Trắng kết hợp xám là “cặp đôi hoàn hảo” cho phòng khách mở thanh lịch.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 10
Bộ sofa bọc da sang trọng kết hợp chiếc bàn café thấp rất đẹp mắt.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 11
Sử dụng cửa trượt bằng kính là cách thông minh để phân tách không gian.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 12
Chọn hai màu sơn tường là cách chia khu vực chức năng rất tự nhiên.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 13
Sắp đặt hệ thống kệ nhiều ngăn trong góc phòng để lưu trữ dễ dàng hơn.

mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ 14
Cuối cùng, thiết kế tuyệt đẹp nối phòng khách mở với cả thế giới bên ngoài.

 Theo Hạ Mạt / Trí Thức Trẻ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu phòng khách thiết kế mở tuyệt đẹp cho căn hộ chung cư nhỏ

Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Nếu bạn mơ thấy con đường rộng và đẹp thì có thể bạn sẽ đón nhận cuộc sống hạnh phúc. Giấc mơ này cũng dự báo rằng những người bạn tốt sẽ luôn ở bên bạn.
Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn mơ thấy một con đường rộng và đẹp thì có thể bạn sẽ đón nhận cuộc sống hạnh phúc. Giấc mơ này cũng dự báo rằng những người bạn tốt sẽ luôn ở bên bạn. Ngược lại, giấc mơ về con đường chật hẹp cảnh báo về những rắc rối liên quan đến người thân. Vì vậy, bạn cần hết sức cảnh giác. 


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh

Than trong khi thay con duong trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
Nếu bạn mơ thấy một con đường nhựa rộng và còn trong tình trạng tốt thì có thể bạn sẽ đón nhận một sự tiến triển trong công việc tuy chậm nhưng chắc chắn.    Nếu con đường đó bị hư hỏng và chật hẹp thì rất có thể bạn sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống.    Nếu bạn nhìn thấy con phố rất dài trong giấc mơ là điềm báo rằng bạn cần kiên trì và chăm chỉ hơn trong công việc mới có thể đi đến thành công.    Một con phố lạ xuất hiện trong mơ báo hiệu về những thành công nhờ vào những mối quan hệ mới.    Giấc mơ về con đường quanh co là điều không may vì nó dự báo về những chuyến đi xa không thuận lợi hoặc những bí mật của bạn có thể bị bại lộ.
Mơ thấy mình cùng người lạ đi trên đường là sự nghiệp sắp đạt thắng lợi.

 
Mơ thấy mình cùng đối thủ đồng hành ngụ ý bạn sẽ đánh bại hắn.

 
Mơ thấy bạn bè hoặc vợ cùng mình đi trên đường phản ánh những suy nghĩ của bạn không thống nhất.

 
Mơ thấy bạn độc lập đi trên đường, điều này tượng trưng cho việc trong cuộc sống bạn phải đương đầu với khá nhiều đối thủ.

 
Mơ thấy trước mặt mình có nhiều con đường nhưng không biết chọn đường nào là ngụ ý tin tức tốt đẹp sắp chuyển tới.

 
Mơ thấy mình quên đường đi và lập tức chuyển hướng, ngụ ý bạn sẽ có may mắn.

 
Nam giới chưa kết hôn mơ thấy mình quên đường đi là bạn sẽ tìm thấy người yêu đồng chí hướng.

 
Người bệnh mơ thấy mình quên đường đi là bạn sẽ được trị liệu tốt và sắp bình phục.

 
Nhân viên văn phòng mơ thấy mình quên đường đi là sắp được thăng chức.

 
Mơ thấy mình không đi chung một con đường với bạn bè hay vợ/chồng là ngụ ý tình cảm thêm thắm thiết.
   Lichngaytot.com
 
Sự thật xung quanh giấc mơ về ngôi nhà
Căn nhà là nơi lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất của gia đình mỗi người. Mơ thấy nhà thường là điềm lành, báo hiệu những tin tốt đẹp mà có thể bạn sẽ được đón
Giải mã một vài địa điểm thấy trong giấc mơ
Đôi khi bạn mơ thấy mình ở công viên, nhưng cũng có khi ở trong nhà tù. Địa điểm khác nhau thì ý nghĩa mỗi giấc mơ cũng khác nhau.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Bí quyết trang trí phòng ngủ –

Cách bố trí, thiết kế phòng ngủ (1) Phong cách trang trí phòng ngủ nên tuân theo nguyên tắc sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ấm áp, nhã nhặn, Màu sắc, chất liệu trang trí có thể chọn những loại mà cả thị giác và xúc giác đều có cảm giác về nhiệt độ như vá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1259142371-374988

Cách bố trí, thiết kế phòng ngủ

(1) Phong cách trang trí phòng ngủ nên tuân theo nguyên tắc sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ấm áp, nhã nhặn, Màu sắc, chất liệu trang trí có thể chọn những loại mà cả thị giác và xúc giác đều có cảm giác về nhiệt độ như ván sàn gỗ, nền nhà bằng nhựa, thảm trải nền nhà, tấm gỗ trang trí, thảm treo tường. Phải tránh tối đa sử dụng với số lượng lớn vật liệu cứng như kính, đá cấm thạch, đồng thời chọn lựa những chất liệu hút ẩm như thảm lông, rèm cửa, thảm treo tường.

(2) Rèm cửa phòng ngủ nếu có điều kiện tốt nhất nên làm hai tầng, một tầng dày một chút để tránh ban đêm bị tiếng vang bên ngoài quấy nhiễu; một tầng là vải mỏng nửa trong suốt, dùng vào ban ngày, có tác dụng điều tiết ánh sáng,

(3) Độ lớn nhỏ của không gian phải phù hợp, Trần nhà cách sàn nhà không dưới 2.5m, diện tích phòng ngủ không được nhỏ hơn 12m2, lớn hơn thì càng tốt, nhưng phòng cũng không nên quá rộng không gian quá rộng sẽ khiến con người cảm thấy trống rỗng và mất đi cảm giác gần gũi.

Những điều kiêng ky trọng bố trí phòng ngủ 

Phòng ngủ là nơi con ngưòi nghỉ ngơi và thường xuyên sử dụng, chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong cuộc sống gia đình. Khi bố trí phòng ngủ phải chú ý các điểm sau.

(1) Kỵ tạo cho con người cảm giác ức chế. Khi bố trí phòng ngủ, diện tích kê đồ không được quá lớn nên tận dụng không gian một cách tối đa, tạo cho chủ nhân không gian hoạt động đầy đủ, không nên vừa vào phòng đã có cảm giác ức chế, ngột ngạt đến nỗi không thể thở nổi.

(2) Kỵ thiếu tính thẩm mỹ. Về hình khối, thông qua sự phối hợp của các vật dụng đem đến cho chúng ta cảm nhận về một cái đẹp theo trực quan, vừa sử dụng dễ dàng, gọn gàng ngăn nắp, lại vừa có phong cách đơn giản, thống nhất, sáng sủa.

(3) Kỵ dùng nguyên liệu quá cầu kỳ. Theo nguyên tắc đơn giản, nhẹ nhàng, màu sắc trong phòng nên đơn giản (nên dùng gam màu ấm, thường dùng màu trung gian như màu phối hợp giữa các màu như da cam, đỏ, lục), cố gắng tránh treo đèn treo lớn đầu giường; đèn tường, đèn bàn phải đẹp, ánh sáng cũng phải đẹp.

Tóm lại, bố trí phòng ngủ tuyệt đối tránh màu sắc lòe loẹt, kỳ quái sặc sỡ, tránh phá vỡ không khí an nhàn.

Màu sắc hài hòa

(1) Phối hợp giữa màu sắc và ánh sáng: cùng một màu, trong điều kiện sáng tối khác nhau sẽ có hiệu quả rất khác biệt. Căn cứ nguyên lý này, hướng của căn phòng không giống nhau thì màu sắc trong phòng cũng thay đổi theo. Nếu cửa hướng Nam thì căn phòng thường có đầy đủ ánh sáng, màu sắc dễ thành màu ấm tự nhiên, do đó tường, trần nên chọn màu hơi lạnh, mùa đông không có cảm giác lạnh lẽo, mùả hè cũng không có cảm giác nóng bức. Cửa hướng Bắc thì ngược lại, màu trong phòng có thể ấm một chút.

(2) Phối hợp hài hòa màu sắc: phối hợp hài hòa màu của tường, nền, cửa và đồ dùng có thể làm tăng màu sắc trong phòng, giàu tính nghệ thuật. Nếu tường phòng ngủ dùng giấy dán tường màu xanh lá cây nhạt phối hợp với thảm trải nền màu trám và đồ dùng trên giường màu nhạt, đồ dùng trong nhà màu dưa muối có thể thể hiện cái đẹp trầm lắng. Phòng khách có thể dùng thảm màu hồng phối hợp với sofa trắng, rèm cửa màu xám vừa phải; dùng giấy dán tưòng màu xanh da trời nhạt kết hợp với đồ dùng màu vàng nhạt có thể thể hiện được bầu không khí phong phú, nồng nhiệt, trong sự yên tĩnh lộ ra sức sống mãnh liệt.

Cách đánh giá chất lượng ván lát sàn

Ván lát sàn tốt nhất nên dùng liễu thủy khúc, gỗ cây dó, giáng hương… Khi lựa chọn nên chú ý chất liệu, màu sắc phải thống nhất, kích cỡ hoàn toàn như nhau, độ dày tương đương, không có vết nấm mốc, mọt. Tốt nhất là xử lý định hình bằng sấy khô, chống biến dạng co lại do ngậm quá nhiều nước.

Cách đánh giá chất lượng gia công ván sàn

(1) Việc lát các loại nguyên liệu lên mặt sàn nên tiến hành sau khi hoàn thành cơ bản việc trang trí nhà và tường. Khi lát gỗ, ghép ván sàn thì phòng nên khô ráo, tránh thi công khi không khí ẩm ướt.

(2) Khi lát sàn bằng gỗ, hàm lượng nước trong ván sàn không được lớn hơn 18%. Trên nền xi măng lát một sàn gỗ thì khoảng cách không được lớn hơn 35cm. Đưòng kính thanh ván không được lớn hơn 12cm. Sàn gỗ phải được lắp ghép chắc chắn, bằng phằng.

(3) Lát nền (dính vào nhau) phải chắc chắn, không phát ra âm thanh, không lỏng lẻo, không bị rỗng bên trong.

(4) Mặt sàn gỗ phải được bào nhẵn, đánh bóng, không có vết bào, vỏ bào, vết xước. Nếu đánh véc ni thi hoa văn trên gỗ phải rõ.

(5) Nếu ghép tấm công nghiệp thì chỗ khe nối phải đồng đều, độ rộng khe nối phải bằng nhau, bề mặt sạch sẽ, không có hiện tượng keo dán tràn ra.

(6) Ván ốp chân tưòng phải khít với ván lát nền. Đường trên ván ốp phải thẳng hàng, dán chặt vào mặt tường, không có khe hở.

(7) Ván lát sàn nên lát theo đường thẳng từ ngoài cửa vào trong. Khe giữa các ván ghép phải khít vào nhau, màu sắc tương đương nhau, trên bốn bức tường phải để lại khoảng phát sinh lcm. Ván gỗ nên dùng đinh ghép ván sàn chuyên dụng để cố định.

(8) Ván sàn sau khi lát xong phải đánh bóng rồi mối quét sơn. Ván sàn phải được đánh phẳng lì, độ lệch trong 2m từ mặt sàn phải nhỏ hơn một chút hoặc bằng 5mm, không được có rãnh lõm xuống hay vết cạo. Tại vị trí góc tường dùng máy mài nhỏ để mài.

(9) Khi lau dọn phải chờ cho dầu khô hoàn toàn mối được tiến hành.

Cách chọn lựa đèn

(1) Căn cứ vào diện tích lớn nhỏ của căn phòng để chọn đèn: Đèn sáng thích hợp với phòng lớn. Phòng nhỏ hẹp phải chọn đèn có ánh sáng dịu, vì đèn có ánh sáng dịu có thể làm nổi bật không khí của toàn bộ căn phòng, khiến cho mắt bị đánh lừa mà không chú ý đến sự nhỏ hẹp của căn phòng.

(2) Căn cứ vào chức năng của căn phòng để chọn lựa đèn: Nếu là phòng đọc sách thì nên tạo một môi trường đọc sách ấm cúng. Do đó lựa chọn đèn nên căn cứ vào yêu cầu đọc sách, ánh sáng thích hợp, ổn định thì mắt mới không bị mỏi.

(3) Căn cứ vào mùa để chọn đèn: Để thích ứng với mùa và môi trường khác nhau có thể lắp đặt hai loại đèn có ánh sáng khác nhau. Ví dụ: ánh sáng trắng hơi lạnh, có thể khiến con người cảm thấy mát mẻ; ánh sáng lam, lục có thể khiến con người cảm thấy yên tĩnh, thư thái; ánh sáng vàng hay cam hơi nóng, có thể khiến con người cảm thấy ấm áp. Đèn có ánh sáng lam, lục thích hợp cho mùa hè, ánh sáng vàng, cam thích hợp cho mùa đông.

(4) Căn cứ vào yêu cầu sử dụng để chọn đèn: Nếu để trang điểm, ánh sáng nên chiếu từ hai bên thì mặt người trang điểm nhìn mới rõ. Nếu ánh sáng chiếu từ trên xuống thì phía dưới mắt lại bị tối. Khi xem vô tuyến, ánh sáng yếu từ hai bên hay phía trên vô tuyến hắt lên tường, xuống nền hay lên trần có thể bảo vệ thị lực, cũng có thể tránh nhiễu màn hình vô tuyến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết trang trí phòng ngủ –

Mơ thấy em bé mới sinh –

Nằm mơ thấy em bé mới sinh Giấc mơ thấy em bé mới sinh tượng trưng cho sự cuộc sống đầy vui trẻ, tràn ngập tiếng cười đang chờ đón bạn. Hơn thế nữa giấc mơ còn mang đến tài lộc, cuộc sống no ấm, hạnh phúc mỹ mãn. Giải mã giấc mơ thấy em bé mới sinh:
Mơ thấy em bé mới sinh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy em bé mới sinh –

Tử Vân - Bất động sản của ông chủ Trần

Một bài dịch hay của dịch giả Durobi. Bài dịch từ cuốn sách của tác giả Tử Vân.
Tử Vân - Bất động sản của ông chủ Trần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Durobi trích dịch từ quyển [Đẩu Số luận Điền Trạch], từ trang 22~36)

Năm Nhâm Thân 1992, nhân có dịp đi Cao Hùng công tác tôi tiện thể tới ghé thăm nhà Liễu Vô Cư Sĩ, trong lúc trò chuyện thì ông ấy có nhắc đến lá số của ông chủ họ Trần mà tôi có đề cập trong cuốn [Đẩu Số luận Sự nghiệp] (quyển 2), nhất là đoạn luận về đầu tư nhà đất, sau khi tìm hiểu kỹ tình hình đầu tư của ông Trần thì thấy có nhiều vấn đề khó mà lý giải.

Sau một đêm trò chuyện thì ông Liễu Vô có đề nghị tôi đem cuộc đối thoại này viết lại và đăng lên cho những người mê Tử Vi có thêm tham khảo có liên quan đến luận bất động sản.

(Nam mệnh, ngày XX tháng 10 năm Quí Dậu (AL), giờ Tuất.)

Posted Image

Liễu Vô (LV): Cả cuộc đời ông này đương nhiên là lấy việc buôn bán dược thảo Đông y làm chính, nhưng ông đường lối phát tài của ông lại là ở chỗ rất ham thích mua và xây bất động sản, trên lá số có thể giải thích được không?

Đáp: Tất cả các hiện tượng mệnh lý đều phải lấy tác dụng cách cục của Mệnh-Thân làm cơ sở. Bởi vì tính chất của cung Mệnh-Thân đại biểu cho điều kiện năng lực và tính cách của người đó; hai nhân tố này chẳng những chủ tể sang hèn họa phúc cả cuộc đời, mà còn ảnh hưởng đến tác dụng mệnh lý của mười một cung vị kia của người đó.

Còn về vấn đề ông ta ham thích mua và xây bất động sản, đương nhiên còn phải lấy cung Điền trạch tiên thiên và hậu thiên làm căn cứ.

LV: Có thể nói cụ thể hơn nữa không?

Đáp: Từ cách cục của Mệnh-Thân mà nói, ông ta thuộc cách cục mệnh có song tinh chủ khai sáng [Sát Phá Tham] gia Tả Phụ Hữu Bật, đặc biệt là Hóa Lộc và Hóa Kị tại Thân-Mệnh cùng với Địa Kiếp Địa Không. Kết cấu Thân-Mệnh như thế này, đặc biệt là ở cung Mệnh lại có Xương Khúc giáp, cho nên về hành sự và cầu tài có mấy điểm nổi bật sau:

a- Xử sự linh hoạt biến thông, có tính cố gắng hết sức mình để đạt được mục tiêu.

b- Thấy lợi trước mắt thì nhất định dốc toàn lực tiến tới, có tác phong vì mưu cầu tài lớn mà có thể bỏ lợi nhỏ.

c- Tử Vi Thất Sát có uy quyền, cho nên xử sự đầy niềm tin, năng lượng xung kích mạnh mẽ.

d- Không làm những ngành nghề đầu tư linh tinh mang lại lợi ích kinh tế thấp.

Những tính chất như trên không chỉ xuất hiện ở business kinh doanh dược thảo Đông y của ông mà cũng có biểu hiện ở mảng kinh doanh mua bán bất động sản.

Về cung Điền Trạch của ông này: Cung Điền tiên thiên tại Thìn, Cơ Lương tọa thủ, hội với Lộc Tồn, Đồng Âm cách cục "Thủy trừng quế ngạc" ở cung Tý, tổ hợp sao rất đẹp, Linh Tinh ở cung Thân gia hội như thêu hoa lên gấp, tăng tác dụng cát tường cho cung Điền. (Tử Vân chú: Linh Tinh tuy là một trong lục sát tinh, nhưng sao này hội hợp với sát tinh thì thành hung tượng, hội hợp với cát tinh thì có tác dụng bổ trợ cát tường.)

Cung Điền tiên thiên tốt đẹp, về sau mỗi đại vận mạnh mẽ và thêm cung Điền của đại vận tốt đẹp thì ông ấy hễ vừa có vốn thì đương nhiên sẽ nảy sinh ý niệm và hành vi đầu tư vô lĩnh vực bất động sản.

LV: Ông chủ Trần ra kinh doanh rất sớm thế nhưng mà ông ở nhà thuê mãi đến năm 38 tuổi (Canh Tuất 1970) mới mua miếng đất xây nhà để ở.

Khi ấy ông ta vô hạn Nhâm Tuất, đại vận Điền Trạch tại Sửu, Vũ Tham đều hóa Kị, Không Kiếp Hỏa Dương hội chiếu rất hung, thế sao có thể mua nổi đất xây nhà?

Đáp: Tuy đại vận Điền tại Sửu không hay nhưng đại vận Nhâm Tuất, thiên can Nhâm hóa Lộc, làm cung Điền tiên thiên tại Thìn hội với Lộc Tồn ở Tý xuất hiện thế song Lộc hội chiếu. Đến năm 38 tuổi Canh Tuất, vừa vặn lúc đại hạn và lưu niên trùng điệp, can Canh không chỉ làm cho Thái Dương ở Dần hóa Lộc cùng với Lộc Tồn ở Tý giáp phụ cho cung Sửu, năm Canh lưu Lộc ở Thân cũng hội chiếu cung Điền tiên thiên tại Thìn, làm cho cung này tập hợp 3 lần Lộc tinh xuất hiện, đó là điềm lành.

Cung Điền tiên thiên cát, đại vận và lưu niên cung Điền song Lộc giáp, chỉ cần ông ta có vốn thì sẽ tự nhiên nghĩ đến chuyện giải quyết vấn đề nhà ở.

LV: Nhưng năm đó lưu Điền ở Sửu ngoài vấn đề bản cung hung ra thì lưu Dương Đà từ Dậu Mùi xung hội chiếu Sửu, chẳng lẽ không có tăng tính hung lên chút nào hay sao?

Đáp: Đương nhiên hung tượng của cung Sửu cộng với Dương Đà sẽ càng hung, tôi cho rằng ngoài chuyện mua đất xây nhà ra thì trong lúc mua đất và xây nhà lên thì vấn đề tiền vốn sẽ rất cấp bách, thiếu hụt, đại khái là phải vay tiền nhiều nơi, hoặc vay vốn ngân hàng để giải quyết, nhất định không phải đủ tiền vừa mua đất và mua nhà cùng một lúc.

LV: Tôi xác nhận, ông ta thật sự lúc đó đã vay vốn để mua đất và xây nhà.

LV: Theo dấu hiệu mệnh lý mà luận thì anh xem coi trong vận Nhâm Tuất có còn mua bất động sản nữa không?

Đáp: Mua bất động sản không giống mua cái xe hơi chỉ cần mấy vạn là mua được, ông này vận Nhâm Tuất khá yếu, đại hạn tuy cát hóa cung Điền tiên thiên hóa Lộc, nhưng cung lưu Điền tại Sửu xấu, huống chi cung Sửu lại là cung Mệnh tiên thiên của ông này, cho nên trong vận trình đại hạn yếu, tuy sự nghiệp có đi lên và có kiếm lời thì lưu Điền ở Sửu cũng phá, sẽ làm ông này khó mà tích lũy món tiền lớn, tôi cho rằng giải quyết được vấn đề chỗ ở là đã khó lắm rồi, e rằng không còn dư bao nhiêu để mà đầu tư bất động sản tiếp nữa đâu.

LV: Trong vận Nhâm Tuất quả thực chỉ trong năm Canh Tuất là mua đất xây nhà thôi, ngoài ra không có mua thêm bất động sản nào.

LV: Nhưng mà đại vận vừa vô Tân Dậu thì ông ấy đầu tư rất lớn vào bất động sản, gần như là điên cuồng vậy! Trong vận hạn này đương nhiên ngành kinh doanh chính là dược thảo Đông y ở vào giai đoạn hưng vượng nhất, để cho ông ấy có dư dả tiền vốn để đầu tư cái khác. Theo tôi biết thì tài lực lúc đó hãy còn chưa đủ để ông ấy đầu tư nhiều vào bất động sản. Trên lá số, đại hạn lưu Điền tại Tý, Văn Xương do can Tân mà hóa Kị, làm cho cung vị này cũng biến thành cách hung Dương Đà giáp Kị, không hiểu tại sao ông ấy đầu tư bất động sản ào ạt mà phần lớn lại còn có lợi nữa chứ?

Đáp: Hạn Tân Dậu, sự nghiệp ông ấy phát đạt, trong cuốn [Đẩu Số luận Sự nghiệp] đã luận khá kỹ, so với hạn Nhâm Tuất trước đó thì đương nhiên tài lực tốt hơn rất nhiều. Còn về chuyện ông ấy tích cực đầu tư mảng bất động sản và hoạch lợi, về mệnh lý mà xét thì tôi cho rằng có ba đặc điểm sau:

a- Cung Điền tiên thiên tốt, lưu Điền tại Tý chẳng những là cách đẹp "Thủy trừng quế ngạc" mà hơn nữa Thái Âm là Điền Trạch chủ cho nên tăng tính tốt đẹp.

b- Cung gốc đại hạn có Phá hóa Lộc, lưu Điền cung Tý có Lộc Tồn, hai sao Lộc này có tác dụng dẫn động cát hóa lẫn nhau.

c- Hai cung Điền tiên thiên hậu thiên Thìn và Tý tam hợp chiếu hội, có tính chất tăng cường tác dụng lẫn nhau.

LV: Văn Xương hóa Kị làm cung Tý thành hung cục Dương Đà giáp Kị thì sao?

Đáp: Ở đây có sự nhầm lẫn trong lối coi truyền thống. Văn Xương hóa Kị chỗ này tôi cho là cát chớ không phải hung, có tác dụng do xung mà làm động cát hóa:

a- Cung Lộc Tồn nhất định có Dương Đà giáp, cho nên cung vị này bị nguy khốn. Cung vị này mà là cung Điền tức là lợi về thủ mà nếu khai phát cái mới thì bất lợi.

b- Hóa Kị ở đây là tinh diệu loại B (Văn Xương hóa), vừa vặn có tác dụng làm cho cung Tý xung động mà thoát khỏi nguy khốn. Giả dụ như Hóa Kị do tinh diệu loại A như Thái Âm hoặc Thiên Đồng hóa ra thì mới thật sự có tác dụng tạo thành hung cách "Dương Đà giáp Kị".

LV: Văn Xương hóa Kị hội Linh Tinh chiếu về thì thành tác dụng Kị sát xung hại hay không?

Đáp: Đương nhiên ít nhiều cũng có tác dụng xấu, nhưng tinh diệu ở Thân Tý Thìn cát nhiều hơn hung. Ngoài ra cung gốc đại hạn Tân Dậu tam phương tứ chính hình thành vận trình cát tượng rất mạnh, vận trình như thế tự nhiên sẽ có thể kháng lại tác dụng không hay của lưu Điền. Điểm này tôi hay nhấn mạnh, tất cả luận đoán đều phải qui về cung Mệnh gốc hoặc cung Mệnh của đại hạn mà làm cơ sở sau đó đoán tiếp nguyên nhân.

Giả định cung Tý có Kị sát giao xung tất nhiên có tác dụng bất lợi, có thể ông Trần trong giai đoạn này đầu tư bất động sản sẽ có xảy ra mấy tình huống sau:

a- Tiền vốn không đủ, có thể vẫn phải kêu gọi vốn vay.

b- Có thể mua phải bất động sản có khuyết hãm hoặc mua vào bất động sản ở thế bị ép mua.

c- Bất động sản mua vào trong vận trình này thì cũng sẽ bán luôn trong vận trình này.

LV: Ông Trần trong vận Tân Dậu này, sau khi tôi điều tra chứng thực thì số lượng bất động sản mua được không ít hơn hai mươi (hạng mục). Tôi vẫn còn không rõ là từ dấu hiệu nào trên lá số cho thấy ông ấy đầu tư bất động sản điên cuồng thế?

Đáp: Trừ những nhân tố mệnh lý đã nói ở trên ra, trong vận Tân Dậu này tôi cho rằng còn mấy tình huống có thể giải thích:

a- Vận Tân Dậu là ngay cung Thân cư của ông, mà cũng là vận trình rất mạnh, đặc biệt là can Tân thì Cự hóa Lộc, làm cho cung Mệnh tiên thiên của ông thành song Lộc giáp, cho nên tăng cường ý muốn về đầu tư bất động sản và biến nó thành hiện thực.

b- Cách cục Mệnh-Thân nằm trong tam hợp Sát Phá Tham, hai lần Tả Hữu trùng điệp, Tử Vi chế Sát thành quyền trùng điệp, làm cho ý muốn sở hữu đã mạnh nay càng mạnh thêm. Đại vận Tân Dậu trong tam hợp này trên vấn đề xử lý sự nghiệp đầu tư như là uống phải mật gấu, chả biết sợ là gì, cứ thế mà xốc tới.

c- Cung Điền tiên thiên và hậu thiên đều tốt thì tự nhiên trong vận này ông ấy hễ có vốn và có cơ hội và môi trường đầu tư bất động sản thuận lợi thì không dễ gì vuột mất.

d- Đại vận Tân Dậu (1976-1985) chính là lúc thị trường bất động sản ở Đài Loan đang tạm thời từ vượng chuyển suy, giá nhà đất rẻ đi, và lúc này việc kinh doanh thuốc dược thảo Đông y của ông có lãi lớn, tiền vốn dư ra đổ vào bất động sản giá đang rẻ là hợp lý.

LV: Thời gian này ông ấy đầu tư bất dộng sản chủng loại rất đa dạng, có cao ốc, có nhà chung cư, có mặt tiền kinh doanh, quán ăn, ao nuôi cá, hai mảnh đất dùng cho công nghiệp rất lớn, mua đất xây cao ốc để ở, cao ốc văn phòng. Ngoài ra còn mua vô hai ba nhà xưởng sản xuất thuốc Đông y do kinh doanh lỗ mà phải thế chấp, đó là chưa tính đất nông nghiệp đã qui hoạch, thậm chí còn mua quán bar, danh mục rất nhiều, quá nể. Vậy thì có thể coi ra điều này trên cung Điền được không?

Đáp: Ông ấy đấu tư bất động sản đa dạng như thế đương nhiên không phải vấn đề ở cung Điền tiên thiên và hậu thiên. Tôi cho rằng có liên quan đến tiên thiên mệnh cách của ông ấy cao:

Nhật Nguyệt sáng sủa giáp cung Mệnh, về tác dụng của tinh diệu thì thuộc loại có lợi cho Điền trạch: "Nhật Nguyệt chiếu bích". Cho nên vận Tân Dậu làm Cự Môn hóa Lộc, tạo thành tiên thiên mệnh cách thành Nhật Nguyệt song Lộc giáp, khiến cho ông Trần rất hứng thú với việc đầu tư bất động sản.

Cung Mệnh tại Sửu Tham Lang hóa Kị giáp Xương Khúc là cách cục "Ly chính vị nhi điên đảo", tức là trong mệnh cách và vận thế mạnh như vậy sẽ có tác dụng đi những nước cờ đột xuất, không theo qui trình thường thấy, chỉ cần ông ấy cho là có thu lợi thì bất kể dạng bất động sản nào hễ có cơ hội mua được thì mua trước hẵng nói.

Ngoài ra còn cách cục Mệnh Không Thân Kiếp, tạo nên tác dụng "Dị lộ công danh" cho đương số, tác dụng này thường có tính chất "bắn đại mà trúng".

Đương nhiên hai cách cục như trên đều do sát tinh thành cách do đó cũng khó tránh khỏi những lúc sai lầm.

Ông chủ Trần có thuật lại rằng ông mở quán ăn và quán bar, lại đào ao nuôi cá, những thứ ấy không đẻ ra tiền, đến lúc không kinh doanh được nữa là phải bán thôi, lỗ hơn giá mua vô là cái chắc.

LV: Tôi thắc mắc rằng trong giai đoạn ấy thì ông Tần lấy đâu ra nhiều tiền để đầu tư bất động sản thế? Tuy việc kinh doanh thảo dược Đông y cũng kiếm tiền nhưng nhất định không thể chỉ dựa vào đó để đầu tư bất động sản. Trên lá số có thấy việc này không?

Đáp: Đầu tư bất động sản không như mấy việc kinh doanh nhỏ lẻ, không có tiền nhiều thì đừng hòng rớ vào. Trên lá số ông này, ngoài việc ông ấy có vốn từ kinh doanh thảo dược ra thì tôi thấy có thể có hai phương thức tập trung vốn đầu tư như sau:

a- Ngân hàng cho vay vốn, ông ấy dùng cách mua trước rồi thế chấp cho lần tiền vốn lần mua sau.

LV: Chỗ nào trên lá số chỉ việc ấy?

Đáp: Phá Quân cư Tài Bạch hóa Lộc, gọi là kiểu "Điển đang chi tài" (tiền từ thế chấp). Mệnh bàn Phá hóa Lộc tại Thân cư Tài Bạch, những người như vậy rất giỏi trong việc gọi vốn và vay vốn, dùng tài sản thế chấp để vay vốn. Vận Tân Dậu lại đúng ngay cung vị này, cho nên tôi cho rằng ông ấy thông qua các cơ cấu tài chính ngân hàng để vay kiểu tiền "Điển đang chi tài" này.

LV: Đúng thế đấy! Ông ấy thường hay nói: "Mượn không được tiền thì còn làm ăn gì nữa? Muốn làm kinh doanh ngon thì phải học cách mượn tiền trước đã." Tiền vốn của mấy vụ đầu tư làm ăn lớn trong đời ông ấy đều do từ vay vốn mà ra cả.

b- Cung gốc đại vận tọa hội Không Kiếp và Kị sát giao xung, dù cho là người minh mẫn đến mấy mà vô vận này thì cũng có lúc tính toán sai lầm như thường. Tôi cho rằng ông ấy sẽ kịp thời đem những đầu tư không thỏa đáng bán đi rồi dùng số tiền dư ra làm vốn tái đầu tư.

LV: Làm cách nào đoán ra?

Đáp: Người có kiểu mệnh cách thế này, tính cách quả đoán, bảo đảm không đầu tư vô những khoản lâu dài hao lợi tức và phải ôm giữ hạng mục quá lâu.

LV: Ừ, ông ấy quả như thế thật.

Đáp: Lưu Điền tại Tý, bản cung có Kị Lộc tự xung, dấu hiệu này cho thấy có tác dụng bán ra bất động sản. Ch nên tôi cho rằng ông ấy chỉ cần có người mua là sẽ bán ngay không chần chừ.

LV: Trong vận Tân Dậu, tuy có mua vô rất nhiều nhưng bán ra cũng không ít, và cũng không để cho tiền vốn nhàn rỗi, luôn dùng nó đầu tư vô những hạng mục khác.

LV: Chỉ riêng việc đầu tư bất động sản thì vận Canh Thân sẽ như thế nào?

Đáp: Vấn đề này cũng phải trên hai phương diện mà nói tới:

Cung gốc đại hạn là cung vị vô chính diệu, yếu, so với vận Tân Dậu thì rõ là có yếu hơn. Tuy có can Canh Thái Dương hóa Lộc làm cho cung Mệnh tiên thiên tại Sửu thành cách song Lộc giáp Mệnh, nhưng dù gì thì vận Canh Thân vẫn kém vận Tân Dậu, cho nên về khí phách và đà tiến tới đã không bằng vận trước.

Thứ nữa là can Canh Thái Dương hóa Lộc từ cung Dần hội chiếu đại vận, có sự khác biệt so với Phá Quân hóa Lộc tự tọa đại vận, tác dụng cát hóa kém đi nhiều. Vận Tân Dậu và lưu Điền ở cung Tý mỗi cung đều có Lộc tinh cát hóa hỗ trợ cho nhau, cho nên có tác dụng dẫn động cát hóa rất mạnh với cung Điền. Mà đại vận Canh Thân có lưu Điền tại Hợi, tuy có Thiên Phủ hội Tử Vi là cách cục lớn nhưng không có Lộc tinh cát hóa, cho nên lưu Điền tại Hợi kém hơn lưu Điền tại Tý.

LV: Thiên Phủ có tính chất "Tại số chưởng (nắm)Tài Trạch" mà?

Đáp: Tôi chỉ nói tương đối kém hơn thôi, không nói là rất kém. Cho nên tôi cho rằng ông ấy vào vận Canh Thân sẽ còn tiếp tục mua bất động sản, chỉ có điều là số lượng không có nhiều như xưa.

LV: Từ năm 54 tuổi (1986) đến giờ thì ông ấy chỉ đầu tư ba hạng mục bất động sản. Tuy mấy năm nay liên tục đàm phán đầu tư hạng mục bất động sản nhưng không có đi đến ký kết hợp đồng nhanh như trước.

LV: Theo lý luận của anh thì đại vận Tân Dậu đầu tư nhiếu bất động sản như thế là do có liên quan đến lưu Điền tại Tý. Khi vào vận Canh Thân thì can Canh Thiên Đồng hóa Kị, làm cho cung Tý tiếp theo hạn trước lại hóa Kị lần nữa, cung Tý vì thế sẽ hiển hiện tác dụng xấu, vậy thì có thể coi xấu ở điểm nào chăng?

Đáp: Kị Lộc tự xung, có thể coi là "bán đi", tôi cho rằng vẫn y như vận trước, ông ấy vẫn sẽ giữ lại nhưng hạng mục bất động sản đã mua ở vận Tân Dậu cho tới vận Canh Thân này, và nếu thấy giữ lâu không sinh lời sẽ lựa thời cơ lần lượt bán đi.

LV: Có lỗ vốn không?

Đáp: Chắc là không. Cung Điền tiên thiên không thành hung cách, lưu Điền ở Hợi cũng không phải là hung. Bán đi những bất động sản lúc trước đầu tư còn lại chỉ có thể lời nhiều ít chứ không đến nỗi bán lỗ.

(Hết)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vân - Bất động sản của ông chủ Trần

Tuyển tập những câu nói hay về cuộc đời của mỗi người

Tuyển tập những câu nói hay về cuộc đời của mỗi người. Mỗi con người chúng ta cần phấn đấu cho cuộc sống đó được tốt đẹp hơn.
Tuyển tập những câu nói hay về cuộc đời của mỗi người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những câu nói hay về cuộc đời của mỗi người. Mỗi con người chúng ta ai cũng có cuộc sống riêng của mỗi người và ai cần phấn đấu cho cuộc sống đó được tốt đẹp hơn. Cuộc đời của mỗi con người phụ thuộc vào cách sống, lối suy nghĩ của mỗi người. Mỗi người đều có cuộc đời riêng, có người có cuộc đời tươi sáng đẹp đẽ, có người có cuộc đời đen tối.

Những câu nói hay về cuộc đời của mỗi con người là sự tổng hợp và lựa chọn những câu nói hay nhất và ý nghĩa nhất về cuộc đời cho chúng ta tham khảo và suy ngẫm. Có đôi lúc bạn tự hỏi bản thân mình tại sao cuộc đời của mình lại đen tối và u ám như vậy đó chính là do bạn tự tạo ra, do suy nghĩ và hành động của bạn tạo nên chính cuộc đời bạn, Hãy đọc và rút ra những suy ngẫm có ích cho cuộc đời của bạn nhé.

Những câu nói hay về cuộc đời của mỗi người

1. Bạn không thể điều khiển hướng gió, chỉ có thể điều khiển cánh buồm.Bạn không cần phải thấy hết các bậc thang mà chỉ cần đi bước đầu tiên với một niềm tin.- Martin Luther King.

———–

2. Nghịch lý thường nằm ở chỗ, chúng ta cứ thường phán xét cuộc sống của người khác dựa trên quan điểm cá nhân, rồi lại loay hoay tìm cách sống sao cho hợp với đánh giá theo quan điểm của người khác.- Nguyễn Ngọc Thạch.

———–

3. Điều đáng sợ nhất mà một người phải đối diện không phải là thất bại hay mất mát. Mà chính là lúc tỉnh giấc mỗi buổi sáng, không mong muốn gì, không khát khao gì. Bởi vì trái tim rỗng toác. Bất mãn với cả chính bản thân mình. Khi ấy, có lẽ điều kỳ diệu là một từ ngữ quá xa xỉ và nực cười. Nhưng rồi, chúng ta cũng phải tự cứu chính mình thôi. Bạn luôn có sự lựa chọn, ngay cả khi cùng cực nhất. Là đứng lên và đi hay đứng lại rồi bị quên lãng. Quyền quyết định thuộc về bạn- Phan Ý Yên

4. Bạn sẽ biết rõ một người hơn rất nhiều dựa vào những gì anh ta thể hiện vào những ngày cuối cùng của một mối quan hệ chứ không phải bởi những gì anh ta đã làm vào buổi đầu tiên.- Phan Ý Yên

5. Dường như càng lớn, người ta càng phải đối diện với nhiều sự lựa chọn hơn lúc nhỏ, không chỉ đơn thuần là thích thì có thể chọn. Mọi thứ trở nên rắc rối hơn, và luôn luôn có sự do dự song song tồn tại. Cuối cùng, dù là lựa chọn con đường nào đi nữa, chúng ta sẽ vẫn chịu tổn thương- Khuyết Danh

6. Ra đi không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với một sự từ bỏ, đó cũng có thể là một cách để giữ gìn những gì đã trải qua, nếu người ta biết ra đi trước khi quá trễ…- Marc Levy

7. Mày phải nhớ rõ kịch bản của đời mình — mày không phải là tập tiếp theo của bố mẹ, cũng không phải phần một của con cái mày, cũng không phải ngoại truyện của bạn bè mày.- Khuyết Danh

8. Điều tuyệt nhất khi còn thơ là chúng ta không hề biết mình đang sống những ngày hạnh phúc. Đến khi nhớ lại, ta không khỏi tiếc nuối ngày ta thức dậy và rắp tâm trở thành đàn ông, đàn bà… thay vì cứ là một đứa trẻ!- Chương Đặng

9. Đàn ông nói: “Anh sẽ điện thoại cho em” và rồi không làm điều đó, hắn không quên, hắn không làm mất số điện thoại và hắn cũng không chết, đơn giản vì hắn không muốn mà thôi.- Khuyết Danh

10. Chúng ta thực ra không phải thực sự trưởng thành, chúng ta chỉ là học cách giả vờ trước mặt người khác. Trên bước đường tương lai, nếu muốn học cách sống trưởng thành thì tuổi trẻ phải biết cách gánh vác trách nhiệm, gánh vác cuộc sống của chính mình, gánh vác hoài bão của bản thân, gánh vác những gánh nặng của hiện thực tàn nhẫn mà bạn sắp sửa dấn thân vào.- Hòa Hỏa

11. Khi bạn có một xứ sở để trở về hoặc là để thỉnh thoảng trở về, thì bạn còn có hạnh phúc nhiều lắm. Ở đó bạn có một dòng sông, một ngọn núi, và bạn tìm lại được những đứa bạn một thời tóc xanh nay đã lốm đốm bạc đầu…- Trịnh Công Sơn

12. Trên đời này, có rất nhiều điều là vĩnh cửu, nhưng tuyệt nhiên, tình yêu không phải là 1 trong số đó…- Khuyết Danh

13. Cuộc sống là những lần gặp gỡ và biệt ly, là những lần lãng quên và bắt đầu, nhưng luôn có những chuyện, một khi đã xảy ra, sẽ để lại dấu vết; và luôn có những người, một khi đã tới, sẽ không thể nào quên.- Xuân Thập Tam Thiếu

14. Đôi khi tôi chỉ mong sao được yên tĩnh một mình, không có bất cứ điều gì có thể làm phiền thôi. Đừng nói tôi lạnh lùng, cũng đừng nói tôi vô tình. Tôi thể hiện rằng mình không quan tâm, trên gương mặt tôi thể hiện rằng sao cũng được, nhưng liệu ai biết có những khi trong thâm tâm tôi cuộn sóng lao đến cùng cực của sự thất vọng.- Hòa Hỏa

15. Trong lòng mỗi người đều có nhiều cánh cửa, những đau buồn suy nghĩ, đôi khi không cần thiết phải mở toang cho mọi người cùng thấy.- Khuyết Danh

16. Người nào có thể làm mỗi giây phút đều tràn ngập một nội dung sâu sắc thì người đó sẽ kéo dài vô tận cuộc đời mình.I.Cuôcxơ

17. Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác. Xukhômlinski

18. Đừng che dấu tình yêu và sự dịu dàng của mình cho đến khi bạn lìa đời. Hãy làm cuộc đời bạn tràn đầy sự ngọt ngào. Hãy nói những lời thân thương khi bạn còn nghe được và tim bạn còn rung động. Henry Ward Beecher

19. Bạn có yêu đời không? Vậy đừng phung phí thời gian vì chất liệu của cuộc sống được làm bằng thời gian.Franklin

20. Luôn luôn có niềm hy vọng cho người nào bình tâm suy nghĩ về cuộc sốngKatherine Logan

21. Bao lâu bạn vẫn còn tự tin ở bạn, thì người khác vẫn còn tin bạnCynda Williams

22. Đừng quá xem trọng điều gì. Hãy tiếp nhận mọi sự may rủi một cách nhẹ nhàngJepfecson

23. Đứng vững và không nghĩ rằng mình sẽ ngã thì sẽ chẳng bao giờ ngã H.Andersen

24. Khi tất cả những cái khác đã mất đi thì tương lai vẫn còn.Bové

25. Sự chân thành là điều tốt đẹp nhất bạn có thể đem trao tặng một người. Sự thật, lòng tin cậy, tình bạn và tình yêu đều tùy thuộc vào điều đó cả. Elvis Presley

26. Đời là cuộc đấu tranh liên tục; nó luôn được cải biên với nhưng khó khăn mới. Và chúng ta sẽ chiến thắng nhưng bao giờ cũng phải trải giá.Mirko Gomex

27. Đừng đi qua thời gian mà không để lại dấu vết Bao giờ ta cũng phải luôn luôn có một nơi nào để đến Trí tuệ của con người trưởng thành trong tĩnh lặng, còn tính cách trưởng thành trong bão táp. W.Gơt

28. Hãy sống tốt đẹp đi và nhớ rằng, mỗi ngày có một đời sống riêng cho nó thôi.Seneca

29. Khi bạn sinh ra đời, bạn khóc còn mọi người xung quanh cười. Hãy sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người khóc còn bạn, bạn cười.

30. Ðôi khi trong cuộc sống, có lúc bạn cảm thấy bạn nhớ ai đó đến nỗi muốn chạy đến và ôm chầm lấy họ. Mong rằng bạn sẽ luôn mơ thấy họ. Hãy mơ những gì bạn muốn, đi đến nơi nào mà bạn thích, hãy làm những gì bạn thích vì bạn chỉ có một cuộc sống và một cơ hộiđể làm tất cả trong cuộc đời.

31. Mong rằng bạn luôn có đủ hạnh phúc để vui vẻ, đủ thử thách đểmạnh mẽ hơn, đủ nỗi buồn để bạn trưởng thành hơn và đủ tiền để mua quà cho bạn bè.

Trên đây là những câu nói hay về cuộc đời của mỗi người cho bạn tham khảo và cảm nhận. Ngoài ra bạn có thể cảm nhận đầy đủ về cuộc đời, cuộc sống với những câu danh ngôn về cuộc sống mà bài viết tổng hợp được. Và chúc bạn tìm thấy cho mình một con đường sống tích cực và thành công hơn nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những câu nói hay về cuộc đời của mỗi người

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016 - Tuổi ngọ - Xem Tử Vi

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, Tuổi ngọ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, tu vi Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, tu vi Tuổi ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016

Bạn đang là người độc thân và mong muốn sẽ cập bến tình yêu trong năm 2016. Cùng 12 điềm danh top những con giáp có số dễ kết hôn trong năm Bính Thân này nhé.

1. Người cầm tinh con Ngựa

Trong năm 2016 vận khí của người tuổi Ngọ rất hanh thông, việc gì cũng thuận buồm xuôi gió, đặc biệt là đường tình duyên lại khởi sắc mạnh mẽ.

Chỉ cần những chàng trai, cô gái tuổi Ngựa chịu thay đổi sở thích “xê dịch” của mình, dành nhiều thời gian quan tâm tới đối phương, tình yêu ắt thăng hoa tột độ, tỉ lệ kết hôn cao ngất ngưởng.

top-4-con-giap-de-ket-hon-trong-nam-2016

2. Người cầm tinh con Rắn

Trong danh sách con giáp kết hôn năm 2016, chắc chắn có người tuổi Tỵ. Tuổi tác và những điều kiện về công việc, kinh tế của những con Rắn rất phù hợp cho chuyện hôn nhân.

Theo tử vi năm 2016 , những ai đã có “gấu” cần thúc đẩy mạnh mẽ mối quan hệ để tạo bước đột phá và hai bạn có thể hợp pháp hóa “về chung một nhà”.

Ngược lại, ai còn cô đơn lẻ bóng cần nắm bắt mọi cơ hội để tìm tình yêu đích thực cho mình. Chính bạn, người trong cuộc, cũng phải bất ngờ với tốc độ phát triển tình cảm đôi bên, thậm chí một đám cưới rình rang sẽ được diễn ra vào nửa cuối năm 2016.

3. Người cầm tinh con Hổ

Trong năm 2016 người tuổi Dần bước sang tuổi 30. Lúc này công danh sự nghiệp của người tuổi Dần cũng “hòm hòm”, có được những thành công bước đầu trong cuộc sống.

Vậy còn chần chừ gì nữa, hãy tính chuyện hôn nhân càng sớm càng tốt, kẻo “cái tuổi nó đuổi xuân đi”, bù đầu bù óc phấn đấu đến khi nhìn lại vẫn chỉ có một mình lẻ bóng.

4. Người cầm tinh con Dê

Đối với người tuổi Mùi có thể nói, họ vừa thoát khỏi áp lực trong năm tuổi. Bính Thân chính là năm mở màn cho những dự định lớn lao trong cả sự nghiệp và tình cảm của con giáp này.

Tới giờ, bạn đã đủ chín chắn để có thể chịu trách nhiệm về bản thân mình cũng như gánh vác cuộc sống cho một gia đình bé nhỏ. Tuy không phải vội vàng đưa ra quyết định hôn nhân đại sự, nhưng nếu tình cảm đã “chín muồi”, bạn cũng không nên do dự mà bỏ lỡ cơ hội được cùng người ấy đi tới tận đầu trời cuối đất.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016 - Tuổi ngọ - Xem Tử Vi

Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi

Hay hờn giận và dễ bực bội là điều dễ thấy từ mối quan hệ giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi. Tính khí của 2 người hoàn toàn không giống nhau.
Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hay hờn giận và dễ bực bội là điều dễ thấy từ mối quan hệ giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi. Tính khí của 2 người hoàn toàn không giống nhau.

Sửu là người thẳng thắn, không lãng phí thì giờ vào chuyện tình cảm. Trong khi đó, Mùi lại thiên về tình cảm. Họ dễ cho nhau là sai lầm và đi không đúng hướng. Cả 2 đều có tham vọng và động lực phấn đấu cao, nhưng do tính khí khác nhau nên họ khó có thể đồng hành cùng nhau.

(Ảnh minh họa)

Thường thì người tuổi Sửu thích sử dụng tư duy logic của mình và muốn tự mình phán đoán. Trong khi đó, Mùi thích được tư vấn và lắng nghe ý kiến người khác. Tính bướng bỉnh của cả 2 ngăn trở quan hệ giữa họ, bởi vậy mối quan hệ này thiên về tính chất đối đầu.

Sửu và Mùi đều thuộc hành Thổ, vì vậy khi họ kết hợp sẽ tạo ra quá nhiều năng lượng Thổ, đồng thời sẽ nảy sinh những bất lợi ở nhiều hướng khác nhau.

Biện pháp hóa giải

Trong hôn nhân, 2 tuổi này thật khó kết hợp với nhau. Tuy nhiên, nếu họ quyết tâm đi đến hôn nhân, hoặc đã lấy nhau, phong thủy vẫn có những giải pháp giúp cả 2 giảm bớt xung đột trong cuộc sống.

Chẳng hạn, khi 1 người tuổi Sửu mệnh Thủy và 1 người tuổi Mùi mệnh Thổ kết hôn với nhau, giữa họ sẽ nảy sinh rất nhiều năng lượng Thổ. Bạn có thể làm tiêu hao bớt năng lượng này bằng cách treo chuông gió bằng kim loại ở trong nhà, đặc biệt ở 2 khu vực tương ứng với Sửu và Mùi.

(Theo Phong thủy trong tình yêu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải xung khắc giữa người tuổi Sửu và tuổi Mùi

Sao Cự Môn

Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh Tính: Âm Hành: Thủy Loại: Ám Tinh Đặc Tính: Ngôn ngữ, thị phi Tên gọi tắt thường gặp: Cự
Sao Cự Môn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 4 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Vị Trí Ở Các Cung

  • Miếu địa ở các cung: Mão, Dậu.
  • Vượng địa ở các cung: Tý, Ngọ, Dần.
  • Đắc địa ở các cung: Thân, Hợi.
  • Hãm địa ở các cung: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có sao Cự Môn dù đắc địa hay hãm địa thì thân hình đẫy đà, thấp, da trắng, mặt vuông vắn, đầy đặn, mắt lộ.
Tính Tình
Sao Cự Môn ở cung miếu địa, vượng địa hay đắc địa thì thông minh, nhân hậu, vui vẻ, mưu trí, có khả năng phán xét tinh vi.
Sao Cự Môn ở cung hãm địa thì kém thông minh, hay nhầm lẫn, không có tánh dứt khoát, ba phải, người hay nói khoác, ích kỷ, đa nghi, tính khí hay thay đổi, tham lam, có tài nhưng kém đức, hay lợi dụng. Người nữ thì hay đố kỵ, ghen tuông, đa nghi.
Công Danh Tài Lộc
  • Sao Cự Môn ở cung đắc địa chỉ giàu sang, có uy danh. Người nữ thì tài giỏi, đảm đang, lợi chồng.
  • Sao Cự Môn ở cung hãm địa thì vất vả, khổ sở, nhất là khi Cự Môn tọa thủ ở Thìn, Tuất. Tuy nhiên, có ngoại lệ đối với hai tuổi Ất, Bính gặp Cự Môn hãm địa ở Sửu, Mùi. Trong bốn trường hợp này thì hiển đạt, khá giả.
  • Sao Cự Môn ở Tý được gọi là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, chủ học lực rộng rãi, tài cao có chí. Cách này cần phải có thêm Hóa Lộc đồng cung hoặc TUẦN, TRIỆT án ngữ, hoặc có Đại Hao, Tiểu Hao mới trở thành phú quý mạnh mẽ.
Phúc Thọ Tai Họa
  • Đắc địa: Cự Môn có ý nghĩa phúc thọ.
  • Hãm địa: Cự Môn có ý nghĩa xấu rất nặng nề, hay bị khẩu thiệt, miệng tiếng, kiện cáo, tù tội, tai nạn, bệnh nan y. Yểu tử, nếu không bỏ quê nhà tha phương cầu thực. Người nữ thì khắc chồng hại con. Nhưng ngoại lệ đối với bốn tuổi Quý, Tân và Ất, Bính, trong trường hợp này, tai họa sẽ bị chiết giảm đi nhiều.
  • Tuy nhiên, Cự Môn rất kỵ sao Hóa Kỵ, dù là Cự Môn đắc địa. Nếu hai sao đồng cung sẽ gặp nạn chết đuối, đụng xe hay tai nạn trinh tiết nếu gặp thêm Kình Đà. Ngoài ra, Cự Môn hãm địa còn kỵ thêm các sát tinh như Kinh, Đà, Không, Kiếp, Linh, Hỏa và hình tinh như Thiên Hình tai họa bệnh tật rất nặng và thường phải yểu tử và chết thảm.
Những Bộ Sao Tốt
  • Cự Môn, Thái Dương đồng cung ở Dần: Vinh hiển và danh giá suốt ba đời (ông, cha, mình). Nếu ở Thân thì không bằng ở Dần, chỉ khá giả mà thôi, trước có công danh, sau mới có tiền bạc.
  • Nếu thêm Quyền, Phượng: Sự tốt đẹp tăng thêm, tuy nhiên, nếu gặp Lộc Tồn thì lại xấu suốt đời bất đắc chí, đời lông bông, hao tán của cải, chơi bời lang thang.
  • Mệnh được Cự Nhật đồng cung chiếu: Cũng được tốt đẹp như Cự, Nhật tọa thủ.
  • Cự Cơ ở Mão và Dậu: Có quan chức lớn, tài lộc dồi dào (đại phú). Ở Dậu thì kém hơn ở Mão. Đặc biệt bốn tuổi Ất, Kỷ, Bính, Tân thì càng thịnh đạt và cả hai mặt phú và quí.
  • Nếu có thêm Đại, Tiểu Hao: Rất giàu có và uy quyền, danh tiếng lừng lẫy, nhưng tính tình phóng đãng, ăn tiêu hoang phí.
  • Cự Khoa ở Thìn Tuất: Có biệt tài về ăn nói, có khả năng du thuyết.
  • Tuổi Tân, Mệnh ở Tứ Mộ, Cự tọa thủ: Vẫn khá giả dù Cự hãm địa. Nếu thêm Tả, Hữu, tai họa bị chiết giảm đi nhiều, dù cho có Hóa Kỵ đồng cung.
Những Bộ Sao Xấu
  • Cự hãm, Kình, Đà: Người yếu đuối, bị bệnh nan y. Nếu không bệnh thì trộm cắp, đàng điếm, phá hoại; nữ thì lăng loàn.
  • Cự Hỏa Linh: Rất xấu, có thể bị chết thảm nếu hạn xấu.
  • Nếu thêm Kình hay Đà: Có thể tự tử bằng cách tự trầm hay thắt cổ. Nếu không chân tay bị tàn tật, phỏng nặng, làm bếp, nội trợ giỏi.
  • Cự ở Tý Ngọ gặp Lộc Tồn đồng cung: Có học, có tài nhưng bất đắc chí vì không gặp thời.
  • Cự ở Hợi Tý gặp Lộc Tồn đồng cung: Không phát huy được tài năng, dù được Lộc Quyền hội họp. Đây là trường hợp một người có cao vọng nhưng bất toại chí.
  • Nữ mệnh có Cự Kỵ: Con gái thì thất trinh, đàn bà thì thất tiết.
  • Cự Tham Hao, Cự Tham Riêu: Hạn ở nhà, ngồi tại chỗ thất nghiệp, bị tù tội, bị thưa, bị phạt tiền do sai phạm trong công việc, hạn gặp chuyện phiền nhiễu.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cung Phụ Mẫu có sao Cự Môn: Cha mẹ bất hòa, dù sao Cự Môn đắc hay hãm địa.
  • Sao Cự Môn đơn thủ tại Hợi, Tý, Ngọ: Cha mẹ giàu nhưng khác tính với con.
  • Sao Cự Môn đơn thủ tại Tỵ, Thìn, Tuất: Cha mẹ xa cách nhau, nếu không cha hay mẹ sớm chết.
  • Sao Cự Môn, Thiên Cơ hay Thiên Đồng đồng cung: Cha mẹ song toàn.
  • Cự Môn, Thái Dương đồng cung ở Thân: Cha mẹ phúc thọ, khá giả nhưng không bằng ở Dần.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Phúc Đức
  • Sao Cự Môn đơn thủ tại Tý, Ngọ, Hợi (đắc địa) thì phúc thọ vẹn toàn, gia đình giàu sang. Đơn thủ tại Thìn, Tuất, Tỵ (hãm địa) thì kém phúc, giảm thọ, đời sống khó khăn. Họ hàng ly tán, phiêu bạt.
  • Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung thì lúc trẻ vất vả, về già mới khá. Họ hàng thịnh vượng.
  • Cự Môn, Thiên Đồng đồng cung thì kém phúc, giảm thọ, hay gặp tai nạn. Họ hàng ly tán.
  • Cự Môn, Thái Dương đồng cung thì được hưởng phúc thọ, họ hàng quý hiển.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Điền Trạch
  • Cự Môn đơn thủ tại Tỵ, Thìn, Tuất: có nhà đất nhưng không đáng kể.
  • Cự Môn đơn thủ tại Hợi, Tý, Ngọ: có nhiều nhà đất tự tay tạo lập.
  • Cự Cơ ở Mão Dậu: Rất nhiều nhà cửa.
  • Cự Đồng đồng cung: Có nhà đất chút ít lúc về già.
  • Cự Nhật đồng cung tại Dần Thân: Có nhiều nhà đất ông cha để lại cho và cũng tự tay tạo nên.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Quan Lộc
  • Cự Môn tại Tý, Ngọ: Có nhiều tài năng, nhất là khoa ăn nói, mưu trí, tài tổ chức, được người trọng vọng vì lời nói.
  • Tại Hợi: Có công danh nhưng có cao vọng.
  • Cự Môn tại Tỵ: Công danh trắc trở, chức nhỏ, hay gặp tai nạn.
  • Cự Môn tại Thìn, Tuất: Sự nghiệp về sau mới phát. Có tài xét đoán, lý luận, nhưng thường bị thị phi, oán trách.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Nô Bộc
  • Cung Nô Bộc có sao Cự Môn: Thông thường người giúp việc, bạn bè hay nói xấu, oán trách, hay gây sự thị phi.
  • Cự Môn ở cung hãm địa: Bị phản bội.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Thiên Di
  • Cự Môn đơn thủ tại Tý, Ngọ, Hợi thì ra ngoài được thắng lợi. Đơn thủ tại Thìn, Tuất, Tỵ thì bất lợi hay bị khẩu thiệt, tranh chấp và gặp tai nạn.
  • Cự Môn, Thái Dương đồng cung tại Dần, Thân thì ra ngoài được quý nhân giúp đỡ, mọi người kính nể, tài lộc hưng vượng.
  • Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung thì ra ngoài khá giả, đi buôn bán thì giàu có nhưng hay bị miệng tiếng.
  • Cự Môn, Thiên Đồng đồng cung thì hay được gần quý nhân, nhưng hay bị chê bai.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Tật Ách
  • Cung Tật Ách có sao Cự Môn thì lúc còn bé hay có mụn nhọt, khi lớn tuổi hay bệnh ở hạ bộ, bệnh ở bộ máy tiêu hóa.
  • Cự, Nhật đồng cung thì đầu hay mặt có mụn nhọt.
  • Cự, Cơ đồng cung thì hay có bệnh về khí huyết.
  • Cự, Đồng đồng cung thì có bệnh về tâm khí. Cùng với Kình, Hỏa thì có tật ở mắt và chân tay bị yếu. Cùng với Khốc, Hư thì bị ho nặng.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Tài Bạch
  • Sao Cự Môn đơn thủ tại Hợi, Tý, Ngọ thì làm ăn lương thiện, tài lộc đồi dào.
  • Sao Cự Môn đơn thủ tại Thìn, Tuất, Tỵ thì tiền bạc vào ra thất thường, dễ gặp cảnh túng thiếu, dễ có sự tranh chấp tiền bạc, hoặc thưa kiện. Phải xa xứ làm ăn mới tốt.
  • Sao Cự Môn, Thái Dương đồng cung thì khá giả, giàu có. Dễ kiếm tiền.
  • Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung thì làm kinh doanh, địa ốc, lập vườn, đồn điền, xây dựng, kiến trúc, trở thành khá giả.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Tử Tức
  • Cung Tử có sao Cự Môn thì con cái khá giả nhưng thường kém hòa thuận, sớm xa cha mẹ, hoặc ở với người thân, được sự phụ giúp của người thân.
  • Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung thì có con dị bào hoặc có con nuôi.
Ý Nghĩa Cự Môn Ở Cung Phu Thê
  • Cự Môn ở Tý, Ngọ, Hợi: Vợ chồng đẹp đôi, quí hiển nhưng hay bất hòa.
  • Cự Môn tại Thìn, Tuất, Tỵ: Vợ chồng bỏ nhau. Nam hay nữ phải nhiều lần lập gia đình, hoặc chậm duyên nợ.
Cự Môn Khi Vào Các Hạn
  • Cự Môn, Hóa Kỵ: Tai nạn dưới nước hay xe cộ.
  • Cự Môn: Bị tai tiếng, kiện tụng.
  • Nếu sáng sủa: Cự là Quyền tinh, tất dễ thăng tiến, được tín nhiệm, có kiện tụng cũng thắng. Riêng tại Hợi gặp Lộc, thì có nhiều tiền của nhưng có thể bị hao hụt nếu mưu đại sự.
  • Nếu xấu xa: Bị thị phi, tai tiếng, hao tài, đau yếu, có tang ; có thể bị bãi chức và bị tai nạn xe cộ. Nếu Đại Hạn cũng xấu thì chết.
  • Cự Môn, Tang Môn, Hỏa Linh: Đau ốm, tán tài, có tang, có thể bị cháy nhà.
  • Cự Môn, Tham Lang, Hao: Thất nghiệp, nội trợ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Cự Môn

Xem tướng môi nói lên tính cách và vận mệnh của bạn

Xem tướng môi, môi dầy, môi mỏng, môi cong, môi vều… mỗi loại hình dáng môi là biểu hiện của một loại tính cách khác nhau. Nhìn tướng môi biết tính cách và vận
Xem tướng môi nói lên tính cách và vận mệnh của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Môi dầy, môi mỏng, môi cong, môi vều… mỗi loại hình dáng môi là biểu hiện của một loại tính cách khác nhau. Cùng xem tướng môi để biết tính cách của bạn như nào nhé!


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

Xem tuong moi noi len tinh cach va van menh cua ban hinh anh
Ảnh minh họa

Môi tròn nhỏ

 

Khi xem tướng môi, các cô gái có môi có hình dáng tròn nhỏ, lại có phần mềm mại là những người mang tính cách đặc trưng, rất thành thật. Dù vậy nhưng họ là người rất có năng lực làm việc, phải trái trắng đen rã, họ xác định rõ mục tiêu lý tưởng của mình, khi đưa ra quyết định cũng thường khá chính xác.  

Môi dày

  Những người có môi dày là mẫu người ích kỷ, kiêu ngạo điển hình, nhưng họ lại rất có tài lãnh đạo, có chí tiến thủ, khả năng thành công trong sự nghiệp là rất lớn.  

Môi rộng

  Tướng môi này cho biết người này có dục vọng mãnh liệt với vật chất,  nhưng cũng biết lấy đó làm mục tiêu để phấn đấu, nâng cao năng lực của mình, là một trong ít người “trời sinh có số thành công”. Những người môi rộng tính cách cũng khảng khái, khéo léo trong việc ăn nói nên các mối quan hệ giao tiếp cũng khá tốt.

 

Môi mỏng

  Những người môi mỏng có ý chí phấn đấu ngoan cường, không ngừng nỗ lực, cố gắng để đạt được thành công. Nhưng những người này tính tình lại  vô cùng lãnh khốc và ích kỷ, ít khi nghĩ tới lợi ích của người khác.

Xem tuong moi noi len tinh cach va van menh cua ban hinh anh
Ảnh minh họa

Khóe miệng hơi rủ xuống

  Sợ sệt, lo lắng bị thương tổn, lúc nào cũng đề cao cảnh giác là tính cách của người có khóe miệng  hơi rủ xuống. Tuy rằng các mối quan hệ giao tiếp không rộng rãi nhưng chỉ cần có bạn ở bên cạnh thì bạn và những người này sẽ trở thành bạn bè thâm giao.    

Môi tròn


Người có đôi  môi tròn đều là người toàn thân toát lên vẻ tự tin, tự chủ. Những người này cũng có lập trường khá vững, khi người khác nói, họ sẽ cố kiên trì nghe, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn là ở họ.

 

Môi trên có viền rõ ràng, hơi cong

  Xem tướng môi của người có môi viền trên hơi cong cho biết đây là người khảng khái, thật thà phúc hậu, khả năng đối nhân xử thế rất tốt. Tuy nhiên, dù rất đáng yêu nhưng những người này lại hay bị tổn thương trong chuyện tình cảm.   

Viền môi trên không rõ hoặc không có hình “trái tim”

  Những người này có tính cách vô cùng đặc biệt, bất kể là ở đâu cũng đều có khả năng thu hút sự chú ý của mọi người. Tuy vậy người này lại khá cực đoan, có thể người khác chẳng có ý gì nhưng họ sẽ quan trọng hóa vấn đề, khuyếch đại hành vi, khiến cho mọi chuyện từ không có gì lại trở nên rắc rối hơn.   Hạ Vy   Tướng mặt đàn ông tiền không có lại còn phúc phận khốn khó
Nắm các đặc điểm tướng mặt đàn ông không có tài phúc sẽ cho quyết định đúng đắn khi lựa chọn bạn đời và đối tác làm ăn nhé.
Nhân duyên tốt đẹp thể hiện ở đâu trên khuôn mặt?
Nhìn tướng mặt mỗi người có thể đoán biết đôi điều về tính cách, nội tâm cũng như các mối quan hệ xã giao, nhân duyên tốt hay xấu...
Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm
Có câu “chọn mặt gửi vàng”, điều đó khá đúng trong nhân tướng học. Bởi khi xem tướng mặt thấy có những nét tướng cách tốt, chứng tỏ vận mệnh người ấy cũng tươi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng môi nói lên tính cách và vận mệnh của bạn

Tướng số qua bàn chân |

Những người sở hữu bàn chân nhỏ nhắn nhưng đầy đặn thường có số quý nhân, tiền tài dư dả. Trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen: Nếu trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen, bạn nên vui mừng vì đó là dấu hiệu đáng mừng. Trong nhân tướng học, nốt ruồi đen t
Tướng số qua bàn chân |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng số qua bàn chân |

Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A: Tâm hồn thanh cao

Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A sống biết trên biết dưới, trong công việc luôn lấy đại cục làm trọng. Họ sở hữu tâm hồn thanh cao.
Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A: Tâm hồn thanh cao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Người tuổi Tý nhóm máu A sống biết trên biết dưới, trong công việc luôn lấy đại cục làm trọng. Họ sở hữu tâm hồn thanh cao, nội tâm hàm súc và vô cùng coi trọng hạnh phúc. 

 

Ưu điểm nổi trội của người tuổi Tý nhóm máu A

  Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A sống biết trên biết dưới, trong công việc luôn lấy đại cục làm trọng, vì lợi ích chung của công ty, của mọi người. Họ làm việc chăm chỉ và có tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng kết hợp cùng người khác để thúc đẩy hiệu quả công việc cao hơn bởi vậy, bất kể họ làm việc trong môi trường nào cũng đều được đồng nghiệp quý mến, lãnh đạo ưu ái.

Ngoài khả năng ứng xử, giao tiếp khéo léo thì năng lực làm việc của người tuổi Tý nhóm máu A cũng rất tốt, tài trí hơn người, nhanh nhẹn linh hoạt, làm việc đâu ra đấy, gọn gàng và nhanh chóng, không dây dưa lằng nhằng, chuyện nào ra chuyện ấy, việc ngày hôm nay không để tới ngày mai. 
  Những người tuổi Tý nhóm máu A yêu thích thơ văn, yêu cái đẹp, yêu lao động, thích sự trong sáng thuần khiết nên tâm hồn thanh cao, họ biết cách cân bằng công việc và gia đình đảm bảo cho cuộc sống luôn hài hòa.   
Tinh cach nguoi tuoi Ty nhom mau A Tam hon thanh cao hinh anh
 
Bất kể là phương diện nào thì người tuổi Tý nhóm máu A cũng quan tâm tới từng chi tiết nhỏ, bởi vậy họ dễ dàng nhận ra những thay đổi dù là nhỏ nhất của người đối diện, về cả hình thức lẫn tinh thần, họ có thể thông cảm sự đau khổ, thấu hiểu nỗi lòng và không ngại chia sẻ, cùng người khác vượt qua khó khăn. Không ai có thể phủ định lòng tốt của người tuổi Tý nhóm máu A, họ luôn biết cách hóa chiến tranh thành tơ lụa.  Dù mưu tính sâu xa nhưng nội tâm hàm súc, họ lấy niềm vui và hạnh phúc để làm phương châm sống, mục tiêu của của đời.   Nói như vậy không có nghĩa là người tuổi Tý nhóm máu A đa sầu đa cảm, dễ bị người khác lợi dụng tình cảm. Trên phương diện này, họ rất tỉnh táo và lý trí, họ có khả năng quan sát cũng như phân tích tâm lý rất tốt, sau đó mới đưa ra quyết định. Một khi đã yêu, những người này rất toàn tâm toàn ý với đối phương, luôn tìm mọi cách để khiến đối phương vui vẻ, bất kể nguyên nhân do đâu cũng đều nhận lỗi về mình, luôn tôn trọng và đặt hạnh phúc gia đình lên mức cao nhất.   Nữ mệnh nhóm máu A tính tình hiền dịu, tâm địa thiện lương, sở hữu một nụ cười tỏa nắng khiến đối phương không thể không ngưỡng mộ, là mẫu phụ nữ mà mọi đàn ông luôn khao khát. Sau khi kết hôn, những người phụ nữ này là hình tượng mẹ hiền vợ đảm điển hình, chăm sóc chồng con chu đáo, tôn kính cha mẹ, sắp xếp công việc gia đình đâu ra đấy.    Nam mệnh nhóm máu A thì rất biết quan tâm người khác, thái độ ôn hòa, cũng là mẫu đàn ông của gia đình mà nhiều phụ nữ ao ước. Sau khi kết hôn, họ luôn nhận thiệt thòi về mình, sẵn sàng hi sinh mọi lợi ích bản thân để gìn giữ hạnh phúc, gia đình hòa thuận, tu chí làm ăn để mang lại cuộc sống tốt nhất cho vợ con. Nếu có gì bức xúc, ngoài miệng thì mắng vợ nhưng trong lòng họ không hề muốn như vậy, gia đình luôn thuận hòa, hạnh phúc dài lâu.
 
Tinh cach nguoi tuoi Ty nhom mau A Tam hon thanh cao hinh anh 2
 

Khuyết điểm cần khắc phục của người tuổi Tý nhóm máu A

 

Người tuổi Tý nhóm máu A hành động thường do dự, thiếu quyết đoán nên thường bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt. Khi thời cơ đến, mọi thứ hài hòa nhưng lúc này họ lại thường có thái độ ba phải, thế nào cũng được, không kiên định với ý kiến của mình, kết quả về sau thường hay hối hận. Hơn nữa, vì thường xuyên nghĩ cho người khác nên trong lòng lúc nào cũng có muộn phiền, lâu dần tích tụ tạo thành áp lực tinh thần, đôi khi mắc phải các bệnh liên quan hệ thần kinh.

Lời khuyên dành cho những người tuổi Tý nhóm máu A

  Vào những lúc tâm tình không tốt, không muốn chia sẻ với người khác thì tạm thời không nên suy nghĩ nhiều, tạm gác lại những muộn phiền ấy và tìm niềm vui bằng những hoạt động khác như nghe nhạc, đọc sách, đi mua sắp, vui chơi cùng bạn bè…

Những người này thiếu hụt sự sáng tạo, nếu như họ có tinh thần học hỏi thêm thì sẽ tốt hơn nhiều, dù không hẳn sẽ tạo nên bước đột phá nhưng chắc chắn sẽ tốt hơn hiện tại. Chăm chỉ tích lũy kiến thức là cách rèn luyện năng lực tốt nhất, nhân cách cũng được nâng lên tầm cao mới.
Phương Thùy

Tuổi Tý nhóm máu O: Lanh lợi, phóng khoáng, hậu vận phú quý
Trong công việc, người tuổi Tý nhóm máu O rất có tinh thần trách nhiệm, chăm chỉ làm việc, dốc tâm dốc sức làm việc nên thường được cấp trên tin tưởng và giao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A: Tâm hồn thanh cao

Quan mệnh cái nhìn

Một, quan mệnh đích trung tâm phải có quan, sát vàấn tinh. Quan sát chủ chức vụ, ấn chủ quyền bính.
Quan mệnh cái nhìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có vài loại tổ hợp: Quan sát xứng ấn, quan sát xứng thương quan, quan sát xứng kiếp nhận; ấn xứng tài tinh, ấn xứng thực thương, ấn xứng tỉ lộc. Lấy thượng vài loại loại hình có tố công nói một bực như nhau đều có quan chức, quan chức lớn nhỏ xem tố công như thế nào.

Nhị, quan mệnh đích quan sát và ấn tinh mặc kệ như thế nào tố công, cũng phải có gốc. Quan sát hư làm danh khí xem.

Tam, ấn tinh, quan sát, thương thực hoặc tài tinh tố công, trong đó phải có chủ vị đích chữ, khác vị trí tố công viện nói dễ dàng vốn là phát tài đích. Tố công tố bất hảo, cũng dễ dàng đi hướng lấy tài.

Bốn, quan mệnh tổ hợp trung, như xuất hiện thân, dậu hai chữ tố công, một bực như nhau vốn là kiểm sát, pháp sân, pháp luật có liên quan đích quan chức; như xuất hiện thân, dậu, sửu, dần chữ đích tổ hợp tố công, một bực như nhau cùng công an ngành đích quan.

Năm, xuất hiện dương nhận cùng thất sát tổ hợp, một bực như nhau chấp pháp ngành, thực quyền phái hoặc quân đội ngành đích quan; như xuất hiện thương quan cùng quan sát tổ hợp, một bực như nhau vi thực quyền ngành hoặc kỉ kiểm ngành. Thực thần hợp ấn( Bội ấn) vi tố có chứa tư tưởng văn hóa tính chất đích ngành sản xuất. Thương quan thực thần vượng người dễ làm cho văn hóa hoặc quan văn.

(Chú: Quan sát hư thấu, đại vận chứng thực thời, cũng dễ làm quan.)

Một, chế dụng tố công làm quan

Chế dụng tố công làm quan đích tình huống nhiều nhất, kể cả có:

1, quan sát xứng thương thực tổ hợp, thương thực chế quan sát hoặc quan sát chế thương thực tố công.

Càn: Bính giáp ất giáp

Thân ngọ mão thân  ( Ngọ mão phá, nhưng ất vi tử mộc, không sợ khắc phá? Thân thể ấn lý ứng không được tốt)

Người này ất mộc ngồi lộc hợp thời thượng chính quan, nguyên cục không có thất sát hỗn tạp, cho nên quan chức cao. Giáp mộc đổi lại tượng đến nguyệt ngồi ngọ hỏa thương quan( Giáp ất mộc đồng căn, như địa chi có một mộc, thiên can có giáp ất mộc, cũng vi đồng căn, có thể đổi lại tượng), thêm lộ ra niên thượng bính hỏa vây chế thân kim, vi thương quan chế quan, niên thượng thân kim bị thương quan chế khứ, thời thượng vốn là hợp quan để cho chế. Người này vốn là cao nhất nhân dân pháp sân phó viện trưởng( Mão chích hợp thời thượng thân, không hợp niên thượng thân, có gần trước hợp gần. Mão thân ám hợp, dương nhận giáp làm chính mình xem, thời can rời xa tại nguyệt thượng, ngọ bính chế niên thượng thân).

Càn: Mậu quý canh đinh

Tử hợi tuất sửu

( Bính)  giáp ất bính đinh mậu kỷ

 ( Tử)  tử sửu dần mão thìn tị

Sơn Tây tỉnh công an thính trường. Bát tự kim thủy có khí khứ hỏa thổ, tử hợi mặc dù vượng, nhưng cùng tuất không phát sinh tác dụng vi không làm công, bính mậu [một người/cái] tượng, cũng tòng tuất trung lộ ra, mậu hợp quý, mậu tử hợp, tuất làm quan khố tại ngồi xuống, thìn vận xung khai quan khố hội khởi thủy cục, canh thìn năm lên chức chức, nhâm ngọ năm lên chức vi thính trường. Nhâm ngọ năm đem tuất trung đích đinh hỏa dẫn ra tới.

( Chú: Kinh khóa sau khi nghị nghi, đoạn sư nói có khả năng vốn là đinh giờ sửu, nguyên nhân giờ sửu vi chế rồi tuất rồi, mà sửu tuất loại pháp luật chi tượng.)

( Vốn chế không được tuất, nhưng lộ ra bính mậu, mậu quý hợp chế rồi mậu, tẩu mậu thìn vận, thìn tuất một xung, chế rồi, thìn vận nhâm ngọ năm thăng quan. Thìn vận qua hết lại không được rồi.)

Nhàn chú: Kim thủy thành xu thế chế rồi quan sát khố, sửu vi tỉ kiếp dương nhận khố! Báo giờ tý, nhưng giờ tý chế không sạch sẽ, sửu thì chế đích sạch sẽ! Thương quan quá nặng không vi quân đội, tòng kỉ ủy đi ra đích. Trước kia vốn là nông thôn giáo sư, có một quan viên lão gia tuyển thư ký, thần xui quỷ khiến tuyển thượng hắn! Trước kỉ ủy trông nom quan đích, sau khi tiến hành công an! Sửu vi công an, tẩu thìn vận lên chức!2000 năm canh thìn lên chức một bậc,02 năm nhâm ngọ tái lên chức một bậc( Chế rồi con mình), bính thú năm nên lui, công an thính trường!

Càn: Canh nhâm ất bính

Dần ngọ dậu tuất

quý giáp ất bính đinh mậu

mùi thân dậu thú hợi tử

Này tạo mộc hỏa có xu thế, dậu tuất mặc dậu kim, ngọ hỏa khắc dậu kim, chế sát ý, ất canh hợp, hợp quan vi được quan, nhâm ngọ tự hợp hợp khứ nhâm, dần ngọ tuất hợp hỏa cục khứ dậu kim vi thương quan khứ quan cách. Này tạo vi Sơn Tây tỉnh chính pháp ủy thư ký. Đinh hợi vận, đinh nhâm hợp đem ấn hợp ở, ấn vi quyền, dần hợi hợp, ngọ hợi ám hợp, cũng vi hợp ấn đích ý tứ.( Thính cấp cán bộ)

Càn: Nhâm đinh tân giáp

Ngọ mùi tị ngọ

mậu kỷ canh tân nhâm quý

thân dậu tuất hợi tý sửu

Này tạo vốn là sát chế thương quan, quan sát trọng mà thương quan nhẹ, bộ nhiều mà kẻ trộm ít, hỉ hành kẻ trộm vận. Hành tân hợi, nhâm tử hai mươi năm thủy vận, lên chức tới thính cấp. Sơn Tây thể ủy chủ nhiệm.

Càn: Mậu quý tân tân 

Tuất hợi mão mão 

giáp ất bính đinh mậu kỷ

 tý sửu dần mão thìn tị

Lớp học khảo hỏi: Làm quan đích hay là phát tài đích?

Mão tài hợp tuất quan sát khố, vốn là kéo, chế không tịnh. Cục trung không có quan, quan sát khố làm quan xem, mão tuất, mộc thổ kết cấu, làm cho phòng địa sản. Nguyên là thính cấp đích kiến trúc công ty giám đốc, quốc có đơn vị, sau lại quốc có đơn vị đích xí nghiệp cấp bậc cũng hàng rồi, hiện xí nghiệp sớm đã sửa chế rồi. Lục thân bất hảo,67 năm nhâm tuất năm kết hôn. Năm đó nhị muội tự sát. Cộng [hai người/cái] muội muội.

2, quan sát xứng kiếp nhận tổ hợp, quan sát chế kiếp nhận hoặc kiếp nhận chế quan sát tố công.

Càn: Giáp đinh giáp giáp

Thân mão thân tử

Hạ sư phụ đoạn. Giáp mộc nhật chủ ngồi thất sát, mão thân hợp, hợp rồi dương nhận, thất sát làm công chế rồi dương nhận. Thất sát chủ thông minh tài trí, thất sát hợp dương nhận vi công an hệ thống, thân kim tại ngồi xuống, vốn là trên lưng khoá thương ý. Dương nhận chủ thương, thân kim vi cái mông, tướng hợp cho nên vi mang thương đích. Lão bà con mình đều là tố công an đích, nguyên nhân thân kim vi lão bà chế dương nhận, thất sát vi nhân hợp mão nhận, cố tất cả đều là công an hệ thống đích. Này tạo [một người/cái] ca ca lưỡng tỷ lưỡng muội. Người này86 năm bính dần năm khứ thầy tướng số, muốn hỏi lão bà điều động công việc chuyện, hỏi có thể không điều thành. Dần thân đùng đùng động phu thê cung, thê nghĩ muốn điều động công việc, nhưng86 năm điều không được, được đinh mão năm có thể điều thành. Thân làm vợ, đinh mão năm mão thân hợp, có thể hợp trở về.

Nhàn chú: Kim thủy thành xu thế chế dương nhận mão mộc! Dương nhận hợp sát, thêm thân vi công an, thất sát chủ quyền, có quyền lực! Dương nhận chủ thương, thân vi cái mông, mão thân kết hợp mang thương! Thân vi lão bà, thất sát vi nhân, viện tất cả đều là công an! Bính dần vọt thê cung, vốn là lão bà nghĩ muốn động! Nhưng không động đậy rồi, đinh mão năm năng động thành, mão thân hợp lại, ổn định rồi, điều thành!

Có [hai người/cái] bát tự cùng này tạo tương tự.

Càn: Mậu ất giáp đinh

Thân mão thân mão

Này tạo giáp mộc ngồi xuống thân kim ám hợp mão mộc, vi hợp sát, mặc dù dương nhận hợp sát, nhưng dương nhận thấu can, thời thượng đinh hỏa ngồi mão mộc vi thương quan tiết tú, thương quan chủ văn chương tại thời thượng, thời vi môn hộ, môn hộ vi thủ, vốn là vui đùa cây bút đích. Người này tốt nghiệp đại học, không mang theo thương, chính pháp ủy đích chỗ trường. Quyết: Thương quan tiết rồi dương nhận, chủ văn chủ bút, quan văn. Bởi vì dương nhận mão mộc không vong không vi cầm thương. Sau vận khí canh thân khẳng định mang thương. Dương nhận hư thấu gặp xung tỏ vẻ đổi lại công việc. Nhàn chú: Dương nhận hợp sát nhưng người nào chế không được người nào! Nhưng chỉ phải có công là tốt rồi, thất sát chủ quyền, vốn là một làm quan đích! Niên thượng dần mão không, không thì không mang theo thương. Thêm thương quan tại thời thượng vi văn chương, văn bút! Khác giáp thấy đinh vi tóc hi!( Dần thấy thời buổi sáng cũng ứng giống nhau) khẩu quyết: Thương quan tả rồi dương nhận chủ văn bút!

Càn tạo: Kỷ bính canh kỷ 

Hợi dần thìn mão 

ất giáp quý nhâm tân canh

sửu tử hợi thú dậu thân

Này tạo tố điện tử đích01 năm tư sản qua triệu, vốn là giơ sinh nam sinh nữ đích ví dụ! Nam thất sát bính vi nhân, đầu thai vi nữ nhi( Xem mão? Mặc?) ất dậu năm sinh nhân! Ất hợi bính tử lên tòa án, ất dậu năm cũng lên tòa án phá tài! Không có đào hoa( Mão) cũng nguyên nhân mặc! Thêm một càn tạo: Nhâm dần canh thú nhâm thìn quý mão nơi này mão vi thương quan ấn lý vốn là đào hoa, nhưng thìn mặc, cũng không vốn là lão bà cũng không phải tình nhân! Hôn không có vấn đề, không có đào hoa!

Càn: Bính tân giáp đinh 

Ngọ mão thân mão 

nhâm quý giáp ất bính đinh

thìn tị ngọ mùi thân dậu

Này tạo vốn là Tân Gia Pha một dầu mỏ công ty người phụ trách, không phải chấp pháp ngành, bởi vì thương quan quá nặng, tiết dương nhận( Sát chủ quyền, nhưng thấu rồi đinh hỏa tiết rồi dương nhận, mão ngọ thêm phá, hỏa rất vượng phá dương nhận, cố không phải chấp pháp đích ngành), thương quan chủ tự do không muốn chịu ước thúc. Hơn nữa mão mộc không vong. Giáp ngọ vận bất hảo, ất mùi vận hảo, bính thân vận tốt nhất, thân vận thật tốt quá, giáp thân năm công ty cho luồng phần, phát tài rồi. Hắn là công ty trong đích cao cấp chủ quản. Nhàn chú: Thất sát thân vốn là quyền, mão không rồi không mang theo thương, thấy đinh vi văn rồi, mão chế rồi thân có công, ngọ vận phá mão bất hảo! Mùi vận cấp mão tăng lực, hảo! Thân vận thân đến, lưỡng kẹp chế chế vô cùng làm tài xem, giáp thân năm phát đại tài!

Càn: Tân bính tân quý  

Mão thân mùi tị 

ất giáp quý nhâm tân canh kỷ mậu

 mùi ngọ tị thìn mão dần sửu tý

Lý Tông Nhân tạo. Này tạo mùi thổ tị hỏa vượng, mão mộc thêm sinh, mão thân hợp, mùi thổ hại thân, vốn là chế thân kim kiếp tài. Tị thân hợp vốn là quan hợp rồi kiếp tài. Nguyên cục biểu đạt đích ý tứ vốn là chế khứ thân kim, mão thân hợp đổi lại tượng, vốn là trông nom quân đội đích quan quân. Tị hỏa vốn là trông nom quân đội chi nghĩa( Kim chịu hỏa chế vi quân nhân, đặc biệt kim thủy vi thương quan, thất sát, kiếp tài thời càng rõ ràng), hành mậu tử vận mậu thân năm tử, không dám thấy mậu, thấy mậu vi dụng kim phản cục, đã chết. Nguyên nhân mậu thân ngay cả thể sinh thân, mậu hoàn lại sinh tân, thân tân quan hệ mật thiết, thân không thể đi, mà nguyên cục vi khứ thân ý, cố phản cục rồi. Khác quý thủy thực thần hư thấu sợ thông căn, tử vận thông căn ứng kì tới rồi.)

 Càn: Nhâm bính nhâm bính

Tử ngọ thìn ngọ

Nhâm thủy tự ngồi thất sát làm quan, thêm có vượng tài sinh thất sát, niên thượng nhâm tử thủy cũng nhập thìn khố( Nhiều mà mộ chi, dương nhận khố), dương nhận hợp sát( Sát chỉ huy tài), vốn là một làm quan đích, pháp sân kinh tế đình đình trường, nơi này sẽ không vốn là tham tài mà là trông nom tài đích. Dương nhận hợp sát là đực kiểm pháp đích quan.( Dương nhận khố, thất sát, quan thống tài [ba người/cái] tượng) nhàn chú: Thất sát chủ quyền, tự ngồi chính là chính mình đích, nhưng phải có công

Càn: Nhâm bính nhâm đinh

Tử ngọ thìn mùi

Người này tức không phải quan, cũng sẽ không phát tài. Tử nước trôi ngọ hỏa, thiên can đinh nhâm hợp, hợp tài. Tài vượng thân nhược mà không có tài, canh tuất vận, tuất thổ xung khai thìn khố, đem thìn xung phá hư, chính mình đích cây xung phá hủy, Hác tiên sinh đoạn: Hội nguyên nhân tham tài bỏ tù.

Nhàn chú: Này tạo cùng thượng tạo nên thời thìn bất đồng, lưỡng tạo đều là âm dương gạch chéo sắp hàng, nhưng tiền tạo năm tháng có xung, nhưng nhật thời không hợp, không phản! Này tạo nên bất đồng rồi! Năm tháng chi xung, nhật thời can hợp, mà mùi cũng nhập thìn mộ, cũng có hợp ý, mùi ngọ hoàn lại cách hợp, tiền tạo tử thủy nhập mộ là đang năm tháng một bên! Cho nên, này tạo nguyên cục nhân tiện phản rồi! Thấy thìn có lao ngục!

Nhâm bính nhâm kỷ

Tử ngọ thìn dậu

Làm cho kỹ thuật đích, nguyên nhân thìn dậu hợp, dậu ấn chủ kỹ thuật. Nhàn chú: Này tạo vốn là âm bao chế dương, trong ngoài kết cấu, không phản!

Nhâm bính nhâm nhâm

Tử ngọ thìn dần

Thầy thuốc.

Càn: Quý Đinh Đinh mậu

Tị tị tị thân

Anh quốc Thủ tướng Tony Blair tạo. Quý thủy thất sát ngồi tị hỏa bị hợp chế, mậu thổ thương quan thêm hợp rồi thất sát, chế sát vi được quyền. Chế thật là tốt, quyền đại. Tị thân hợp, chế khứ quan chi nguyên thần, mà chế thật là tốt, làm rồi đại quan. Thương quan tại môn hộ thượng, chủ biểu đạt năng lực, quan chủ pháp luật, cố làm qua luật sư. Nhâm tử vận giáp tý năm làm luật sư, quý hợi nhập hạ nghị sân, đinh sửu năm tháng tư cho dù Thủ tướng, tân tị năm liên nhiệm.

Càn: Ất mậu nhâm quý

Tị tử tử mão

Này tạo tất nhiên khu công an cục kỉ kiểm thư ký. Nhận thấu can hợp sát, ất tị mang tượng, phỏng chừng đến cùng rồi, không lên chức rồi. Mở cửa mặt khứ làm ra tiền rồi. Quý mùi vận tốt lắm, ất dậu năm nên mướn phòng ở, mão dậu xung thuê không ra khứ, hợi nguyệt( Lập đông sau khi ngày thứ hai) sâm rồi mướn hợp đồng.

3, ấn tinh xứng tài tinh tổ hợp, tài tinh chế ấn hoặc ấn chế tài tinh tố công.

Càn: Đinh kỷ quý đinh

Mùi dậu tị tị

Hình cảnh đội trưởng. Này tạo hỏa thổ thành khí thế chế rồi dậu kim ấn tinh, dậu in lại đeo quan mũ, kỷ dậu [một người/cái] tượng, ấn đại biểu quyền lực, người này làm quan. Mùi thổ thất sát chế dậu kim, thất sát tố công chủ công kiểm pháp. Dậu vi âm trung chi âm, vi phạm tội phần tử, chế dậu thì có bộ trảo phạm nhân chi tượng, dương chế âm vi thương tượng, hơn nữa tị hỏa lưỡng trọng, hỏa có thương tượng. Hành kỷ dậu vận tăng lên, tân tị năm thêm tăng lên.

Càn: Mậu nhâm ất kỷ

Thìn tuất mùi mão

quý giáp ất bính đinh mậu kỷ canh

hợi tử sửu dần mão thìn tị ngọ

Chu Dung Cơ tạo. Này tạo vốn là táo thổ khí thế chế khứ thìn trung thủy cùng thiên can thủy( Thìn tuất xung, mùi tuất hình nhâm tuất tự hợp), chế thật là tốt, thời thượng mão mộc vi lộc hợp tuất, hợp đến chính mình chủ vị, vốn là tài khố chế khứ ấn khố, ấn vi quyền lực, chế ấn được quyền, dụng tài chế đích, vốn là trông nom tài đích đại quan. Tẩu mậu thìn, kỷ tị vận hảo. Nhàn chú: Ất= mão, mão thú hợp; táo thổ khí thế chế khứ thìn trung thủy cùng thiên can thủy( Thìn tuất xung, mùi tuất hình nhâm tuất tự hợp), chế thật là tốt, vi lão tử con mình cùng nhau chế rồi, thêm cùng chủ vị liên lạc thượng rồi, vốn là một trông nom tài đích quan!

Kỷ quý Đinh Đinh (Viên Thế Khải)

Mùi dậu tị mùi

Mậu vận vì sao không bảo vệ quý, mà là vận may đây. Thìn vận bất hảo.

Mậu nhâm tân giáp

Tuất tuất hợi ngọ

Đinh mão vận đâu quan bãi chức, mậu vận dậu năm bị xử bắn. Này tạo cùng Chu sắc mặt cơ đồng dạng đích nguyên nhân, là bởi vì phản cục rồi.

 

4, ấn tinh xứng thương thực tổ hợp, ấn chế thương thực hoặc thương thực chế ấn tố công.

Nhất định phải tố công, nhất định phải chế rồi một phương khác.

Càn: Ất đinh giáp bính  

Mùi hợi ngọ tử 

bính ất giáp quý nhâm tân canh

tuất dậu thân mùi ngọ tị thìn

Mộ̣c hỏa có xu thế chế hợi thủy, đinh hợi tự hợp, ngọ hợi ám hợp, thương khứ ấn, khứ ấn được quyền, làm quan đích, nhưng chế đích không sạch sẽ, hợi mùi củng vốn là củng ấn phân quyền, khứ ấn kết cấu, tân tị năm xung ấn từ nhỏ địa phương đến lớn địa phương, tị hỏa thương quan xung hợi ấn, ấn động chủ công việc động. Tòng huyền ủy thư ký đến thị ủy thư ký( Huyền cấp thị, chức cấp không thay đổi), chính chỗ cấp cán bộ. Đây là sống mộc, chế thủy nói tỏ vẻ thân thể có chuyện( Thủy khô rồi, không dưỡng mộc rồi), không nhắc tới đâu quan( Sau tị vận khí). Nơi này lưu niên xung chủ động, không có vấn đề.

Nhàn chú: Giáp mộc sinh tại hợi nguyệt, niên thượng không thể tố cây, vi sống mộc! Mùi hợi củng, không phải chế hợi, vốn là ngọ vọt tử thủy, chế rồi tử thủy ứng! Giác đích nguyên cục có điểm phản cục? Năm tháng hợp, nhật thời xung, gạch chéo xuất hiện. Có thể mùi hợi chỉ là củng, không phải chế, mới có quan làm! Chế rồi hợi, mùi hay là có mộc cây!

Càn: Ất bính giáp giáp

Mùi tuất tử tuất

ất giáp quý nhâm tân canh kỷ

dậu thân mùi ngọ tị thìn mão

Cục trung hỏa cùng táo thổ có xu thế, mặc dù vốn là tài chế ấn, nhưng tài vốn là thực thần chi khố, thực thần vốn là hỏa, cùng văn hóa có liên quan. Nhưng mùi thêm vi dương nhận khố, cũng chấp pháp thêm có liên quan. Thực tế vốn là năm mới tại trường học làm giáo sư( Trường học hiệu trưởng), sau khi làm pháp sân viện trưởng. Lên chức ti pháp cục cục trưởng. Thính cấp cán bộ. Mùi, dương nhận khố, chủ võ. Bính tuất, thực thần( Khố), chủ văn. Tân tị vận chi tị vận, đoạn nhâm ngọ năm hoặc quý mùi năm điều động, thực tế vốn là này hai năm đích giao tiếp thời đề, vốn là bản địa đề bát. Nguyên lai tại mùi vận thời đáng người do Vũ Hán đến biển nam phương xa nhậm chức. Vì sao bây giờ vốn là bản địa đề, nguyên nhân tại tân tị đại vận, bị nguyệt lệnh tạp ở, rất tẩu không được. Thực tế lúc ấy nguyên chuẩn bị điều đến Bắc Kinh khứ đích, nguyên nhân mùi tại niên thượng chủ phương xa, ất dậu năm đoạn bính tuất năm nên điều đến pháp sân đích trường học làm hiệu trưởng, hắn tặng lại nói chuẩn bị nên lên chức phó tỉnh trường. Nguyên nhân tị chủ văn, tuất vốn là thương thực khố, cố đoạn đến trường học. Thực tế ất dậu năm Học viện viện trưởng đã tìm hắn nói chuyện, hy vọng hắn quá khứ làm hiệu trưởng. Phỏng chừng tị vận sẽ không lên chức rồi. Tử mùi hại, thê tinh hại thê cung, hôn nhân bất hảo, bát tự tài nhiều, phỏng chừng nhiều nữ nhân đi.

Càn: Tân kỷ giáp canh

Sửu hợi tử ngọ

mậu đinh bính ất giáp

tuất dậu thân mùi ngọ

Ất mùi vận quý mùi năm lên chức phó huyền trưởng. Chế sạch sẽ không sợ hợp.

Nhàn chú: Ấn chế rồi thực thương, giáp mộc vi sống mộc! Địa chi không gặp kim, mộc cây không xấu! Canh hư thấu, tân sửu quá xa không sợ! Ấn có công chủ vị vi quyền lực! Đại vận ất mùi cùng thời trụ thiên địa kết hợp hợp phan, sẽ không phát sinh tác dụng! Sát canh là xấu đồ vật, hợp rồi sát cũng chủ quyền! Quý mùi năm ấn lý vốn là công thần tử thủy hư rồi, bất hảo? Ngôn đoạn: Đại vận hợp ở muốn đi đích ngọ, mùi vi ứng kì, quý mùi năm đến chưa tới! Đoạn sư: Xung người gặp hợp hoặc chữ đến hai loại ứng kì! Nhâm ngọ năm đổi lại giới, định ra đến nhưng quý mùi năm đến vị! Ngọ năm vi ngọ tới rồi! Ta nghĩ đoạn nhâm ngọ năm rất có thuyết phục lực!02 năm đã tới mùi vận rồi!

 

Nhị, sinh dụng hóa dụng tố công làm quan

1, sinh dụng hóa dụng tố công có: Quan sát xứng ấn, ấn hóa quan sát đích tổ hợp.

Càn: Mậu giáp giáp giáp

Thân tử dần dần

ất bính đinh mậu kỷ canh tân

sửu dần mão thìn tị ngọ mùi

Này tạo giáp mộc nhật chủ có gốc, có ấn sinh thân. Niên thượng thất sát sinh ấn, ấn thêm sinh thân, đây là ấn hóa sát sinh thân đích kết cấu, vốn là làm quan đích. Hiện vi chính chỗ, hoàn lại lên chức.( Đem mậu thổ, thân kim toàn bộ chế rồi, quan cùng quan đích nguyên thần cũng không có rồi, đại quan.)

Thời thượng bính thực, tú khí, văn chương viết được hảo, cổ thể thi viết đích tốt lắm. Như thế nữ mệnh thì tú khí chủ xinh đẹp, nam mệnh tú khí chủ văn chương.

Đinh mão vận, mậu dần năm, bất hảo, lộc xung quan sát vốn là ngã mi ý, xung tài còn lại là được tài, này năm nhàn cư ở nhà, không có bất cứgì bổ nhiệm. Kỷ mão năm, hảo, có tượng, giáp kỷ hợp, thái tuế cùng ta thân hợp, mão thân hợp được quyền. Canh thìn năm, hảo. Tân tị năm, mặc dù hại lộc, nhưng hợp chế rồi thân, cũng có thể. Nhâm ngọ năm, xung ấn rồi, bất hảo, xung ấn chủ điều động. Quý mùi năm, mặc tử thủy ấn, thêm quý hư thấu rồi, không có quyền rồi, đỡ bần đi, năm để điều đến không có quyền đích địa phương rồi. Giáp thân năm, này năm sợ hãi, vốn giáp ngồi thân vốn là tốt lắm đích tổ hợp, nhưng nơi này cấp phá hủy, thay đổi không phải giáp ngồi ở cấp trên cũng hảo, nguyên bổn này năm công khai chiêu sính cán bộ, hắn ban đầu khảo thông qua, vốn đã nội định rồi, kết quả sau lại lần thứ hai cuộc thi lại bị người tễ đi xuống rồi. Thân hợp rồi tỉ kiếp rồi, biểu chính mình đích vị bị người khác chiếm.

Càn: Giáp mậu giáp giáp

Thân thìn dần tử

Nguyên là phó tỉnh trường, sau khi cho dù nhất bộ trường. Mậu thìn, nguyệt lệnh tài tinh, biểu vốn là chính phủ đích quan, không phải đảng đích quan. Tử thủy hóa rồi thân sát, hợp thành thủy cục sinh thân, phó tỉnh trường, lên tới quốc gia kế sinh ủy chủ nhiệm, chính bộ cấp.

Càn: Mậu mậu mậu giáp

Ngọ ngọ ngọ dần

( Tích Thiên Tủy) lệ, này tạo hỏa thổ một mạch, ngọ hỏa ấn tinh hóa sát sinh thân chủ quý, giáp dần thất sát bị vượng hỏa biến thành làm quan. Hóa sát làm quan. Hóa dụng không bằng chế dụng hiệu suất cao, cho nên cấp bậc không lớn.

Càn: Mậu mậu mậu giáp

Tuất ngọ ngọ dần

Bỏ tù chi tạo. Bát tự không có tài, lấy thương quan vi tài. Dần ngọ tuất nguyên nhân trung thần ngọ hỏa song hiện không thể thành cục, nếu như hợp cục thành công nhân tiện đem tân vị đích tài hợp đến chính mình chỗ, nơi này không thể thành cục, tựu thành rồi nguyên nhân tham tài mà ngồi lao đích tượng. Mậu ngọ nhiều mà cũng nhập tuất mộ, tuất trung tân thương thực vốn là tài, tất cả đích ngọ cũng đến đoạt tân, kết quả vào mộ, vì ba nghìn nguyên tiền, vốn là mấy trăm đích hóa đơn, hắn khai thành ba nghìn chi trả rồi, bởi vậy mà vào ngục ba năm. Hắn nguyên là đầu bếp, tân dậu vận, mặc tuất rồi, liên tục thay đổi mấy lần địa phương, đều là liên can khách sạn gục rồi. Tài không thể hại, mặc chủ cùng tài vô duyên.

Càn: Bính tân mậu đinh

Ngọ sửu dần tị

nhâm quý giáp ất bính đinh mậu

dần mão thìn tị ngọ mùi thân

Huyền ủy phó thư ký chủ quản chính pháp. Triệu vũ đoạn: Làm quan tại chính phủ, mậu dần năm phạm tiểu nhân. Ất tị vận tân tị năm ngoại phóng ra, làm huyền ủy phó thư ký, chủ quản chính pháp. Tị nguyệt định thân nguyệt thượng nhậm. Cùng tuổi chỗ dựa nên điều lên chức, lời tiên đoán ngoại phóng ra mười năm lên tới chính thính.2004 năm giáp thân lên chức. Lộc đến niên thượng( Bính), tị dần hại chính mình không thoải mái, dần vi tiểu nhân. Bính tân hợp, năm vi phương xa, bính ngọ vận mười năm bên ngoài lên chức chức, bị hại đi ra ngoài phải kính rồi. Dần sửu ám hợp, tân sửu vi chỗ dựa, tân sửu tại nguyệt lệnh làm đầu cấp lãnh đạo, dần sửu ám kết hợp chỗ dựa, sửu làm cho dần mộc dựa vào. Bính mậu một nhà, bính tân hợp, dần sửu hợp, chế rồi thương quan và thương quan khố. Năm nay bính tuất năm phỏng chừng nên lên chức.( Thất sát tố công, sửu chủ âm u, thời thượng thấy lộc, ấn chế thương, đại quan, bính tại niên thượng, năm chủ ngoại, bính tân hợp đến niên thượng, cố ngoại phóng ra. Dần tị một hại cũng chủ ngoại. Chỗ dựa cũng là niên thượng đích bính hỏa.) nhàn chú: Mậu sợ chính quan không sợ thất sát, bát tự lấy dương chế âm, vi chính pháp công an hệ thống! Tị vi lộc, mặc thân thể bất hảo! Thọ không dài, nhưng là đến muộn năm rồi. Dần vi tiểu nhân, tân sửu vi lão bà, thê cung một hại, hôn khó khăn hảo!

Càn: Bính tân mậu bính

Ngọ sửu dần thìn

bính ấn Thái Hư rồi, hóa không được, không làm quan!

Này tạo chỉ kém [một người/cái] thời thìn, nhưng là không có gì quan, tố công ty, lưu đệ tử chuyển vận. Khắc ở niên thượng, dần ngọ củng hỏa cục, bính tân hợp, nguyên nhân có thìn ẩm ướt thổ, cố sửu chế không sạch sẽ, hắn thực tế làm cho giáo dục chuyển vận, ra nước ngoài lưu học đích người đại lý, thương quan khố ra bên ngoài hợp, thương thực vi đệ tử.

2, ấn sinh lộc đích, lộc tại chủ vị, lộc đương quyền lực, làm quan lộc cách.

Khôn: Ất đinh ất kỷ

Mùi hợi sửu mão

mậu kỷ canh tân nhâm quý giáp

tý sửu dần mão thìn tị ngọ

Khứ quan cùng quan đích nguyên thần, thời thượng thấy lộc, từ hi thái hậu. Hác đoạn: Trông nom hoàng đế đích, loạn hoài bất loạn hướng, khắc phu khắc tử. Nguyên cục tam hợp thành lộc cục, chế khứ quan cùng quan đích nguyên thần, quan cũng lớn đến cực điểm, cho nên vốn là trông nom hoàng đế đích, mão vi triều cương, hội thành triều cương, lập đích rất chính, phụ nữ đích lộc vi thân thể, sẽ tới thời thượng chính là loạn hoài bất loạn hướng, phụ nữ không dám lộc đến lúc đó thượng. Hợi ấn chủ quyền, biểu quốc gia. Sửu vi lão công, đinh vi con gái. Cũng xem như lộc bán đào hoa đi. Ngọ vận phá lộc mà chết, chết vào1908 năm mậu thân năm.

Một khác khôn tạo:

Ất đinh ất kỷ

Mùi hợi mùi mão

mậu kỷ canh tân nhâm quý giáp

tý sửu dần mão thìn tị ngọ

Này tạo vốn là Hác tiên sinh đoạn đích một khác mệnh lệ, lão công rất có tiền, nhưng tìm tiểu tình nhân sinh rồi một hài tử con mình, không biết nên nhận thức cái kia làm cha. Kỳ thật này nữ đích lớn lên không phải rất đẹp, nguyên nhân lộc khắp nơi vốn là, mãn bàn đều lộc, ất mão vừa là đường cong hảo, vóc người đẹp mắt, gợi cảm, cho nên, một câu nam nhân không có không hơn thủ đích! Lộc ấn tướng tùy theo, hội hưởng thụ! Mùi vi lão công, đinh, mùi một nhà, đinh vi tiểu nam nhân, cũng là tiểu hài tử!

3, ấn mang quan mũ, cùng chủ vị phát sinh liên hệ, cũng là quan mệnh.

Càn: Nhâm kỷ nhâm giáp 

Dần dậu thân thìn 

canh tân nhâm quý giáp ất bính đinh

 tuất hợi tý sửu dần mão thìn tị

Này tạo chủ vị đích ấn khứ chế tân vị đích dần mộc, ấn vi quyền lực tại chủ vị, người này vốn là ngân hàng phó chỗ cấp cán bộ( Thương thực vi tài đích nguyên thần, thân vi kim, kim tan ra), bát tự trung ấn vi dụng đại biểu quyền lực thời, sợ đại vận đến phá hư ấn, phá hư ấn thì đâu quan bãi chức. Thực thần vi tài đích nguyên thần, thực thần vi ngân hàng chi tượng, hơn nữa hay là đại biểu kim tan ra đích thân kim, vi ngân hàng, kim tan ra. Ấn mang quan mạo, giáp kỷ hợp đi quan mũ vi đem quan mũ hái được, giáp thìn( Bính thìn?) vận giáp thân năm đâu quan, giáp kỷ hợp, quan mũ không có. Nhàn chú: Kỷ dậu vi ấn mang quan mạo, thìn dậu hợp, thân thìn củng, nơi này bất hảo chính là, giáp kỷ hợp, giáp thân năm đem quan mạo cấp hái được, đâu quan rồi! Tài mạo có thể trích, quan mạo không thể trích!

Một khác lệ giữa trưa mới nhìn đích bát tự :

Càn: Nhâm đinh đinh canh 

Dần mùi tị thú 

mậu kỷ canh tân nhâm quý

 thân dậu thú hợi tử sửu

Đinh nhâm hợp, nhâm dần vi ấn mang quan mạo, dần nhập mùi khố, tị nhập thú khố, dần tị hại! Đinh Đinh mùi ngay cả thể, canh thú vận, tị nhập thú khố, không mặc dần rồi, làm quan! Tân hợi vận, hợi vọt tị cũng giải rồi hại, còn đang làm quan! Này vận đoạn sư đoạn: Ngoại cảnh có rất bí mật chuyện, con mình tị làm công, chứng quyển phòng sản ..., tỉ kiếp làm công, một bên làm quan một bên việc buôn bán! Ứng có chính chỗ lấy thượng. Nhâm tử vận không lo quan rồi, mặc! Việc buôn bán!

Càn: Giáp giáp mậu quý

Ngọ tuất ngọ hợi

Này tạo mộc hỏa thành khí, ngọ hỏa mang kiếp tài đích ấn hợp hợi tài, mậu quý cũng hợp tài, chế khứ quan đích nguyên thần, ngọ hỏa phục ngâm đến niên thượng mang một sát mũ, hóa sát sinh thân, thất sát chủ quân đội, kiếp tài chủ quyền lực( Ngọ hỏa), người này vốn là quân khu bộ tư lệnh đích [một người/cái] phó bộ trưởng chính thính cấp cán bộ. Giáp mộc ngồi ngọ Hỏa Tuyệt mà, giáp mộc là phụ thân, ngọ hỏa thêm nhập tuất khố, chủ phụ chết sớm. Mão vận quý mùi năm nhị ca chết đi, mão ngọ tướng phá phá huynh đệ ngọ hỏa, canh thìn năm người này có hung tai, thìn xung phá hủy tuất khố, canh kim xung khắc rồi giáp mộc, giáp mộc vi đầu, đầu bất hảo.

Càn: Giáp bính mậu quý

Ngọ tử ngọ hợi

Cùng thượng tạo tương tự. Cùng thượng tạo tố công phương thức giống nhau, nhưng bính ngọ xung một tử, vi xung không tịnh cũng chế không xong( Kẹp xung). Mặc dù làm quan nhưng sẽ không rất lớn, quan đích nguyên thần khứ không tịnh, người này vốn là chính khoa cấp cán bộ.

Càn: Mậu canh canh đinh

Thân thân thân sửu

Tài chính quan viên, cấp bậc không lớn, khoa cấp.

Càn: Canh kỷ giáp kỷ

Tử mão thìn tị  

canh tử mang tượng, tử thìn hợp= thìn sinh rồi canh, qua sông rồi, muốn đem tử chuẩn bị trụ là tốt rồi!

Hác tiên sinh đoạn vốn là [một người/cái] phó huyền trưởng. Canh tử mang tượng, ấn mang quan mũ. Tử ấn cùng chủ vị thìn phát sinh củng cục, nói rõ cái này quan vị cùng chính mình phát sinh liên hệ rồi. Hành nhâm ngọ, quý mùi hại xung niên thượng ấn tinh, lên chức chức, quý mùi năm lên chức thường vụ phó huyền trưởng. Vì sao có thể mặc, thừa số tại tân vị, qua sông đoạn cầu nguyên lý. Trung thần tại tân vị, phó chức, giáp kỷ hợp, nhiều nữ nhân, đào hoa nhiều, không rời hôn.

Càn: Giáp quý tân kỷ

Ngọ dậu mão hợi

giáp ất bính đinh mậu kỷ canh tân

tuất hợi tý sửu dần mão thìn tị

Này tạo niên thượng sát tinh mang tài mũ, sát tại tân vị, nhưng kỷ ngọ tương thông, tới rồi chủ vị, bị chủ vị hợi thủy hợp chế, tố công. Cố vốn là một tài chính cục trưởng, hành sửu vận, hại ngã ngọ, cát, lên chức huyền tài chính cục trưởng, độc lãm quyền to. Đến dần vận thật lên chức phản hàng, không có thực quyền rồi. Cũng là qua sông đoạn cầu. Kỷ hợi tự hợp chế rồi kỷ, giáp ngọ mang tượng, thông đến chủ vị( Thời thượng kỷ), trông nom tài đích quan. Đinh sửu vận, vận may, hại ngã ngọ thăng quan. Mậu dần vận không tốt lắm, lên chức chức rồi, nhưng không có quyền rồi, mười năm phó chức, không có tái lên chức, do huyền tài chính cục cục trưởng điều đến khu tài chính cục phó cục trưởng. Kỷ vận bính tuất năm bất hảo, tân dậu ngay cả thể rồi( Kim thủy một nhà), hại lộc, tai nạn xe bỏ mình, thìn nguyệt tử.

Nhàn chú: Chủ vị đích mão tài sinh rồi tân vị đích ngọ sát, mặc dù không phải mão trực tiếp sinh đích, nhưng mão hợi bán hợp, kỷ= ngọ, thông qua giáp mộc sinh ngọ mang tượng đến thể hiện! Cũng cùng loại qua sông đoạn cầu! Sửu vận lên chức huyền tài chính cục trưởng, nguyên nhân sửu phá hủy ngọ, lên chức! Đến dần vận lên chức mà khu tài chính phó cục trưởng, nhưng thực quyền không có! Minh lên chức ám hàng! Nguyên nhân dần sinh rồi ngọ hỏa! Kỷ mão vận năm thứ nhất bính thú năm tai nạn xe đã chết! Kỷ vi kiêu thần, giáp kỷ kết hợp kiêu đoạt thực! Bính tân hợp mão thú hợp, dậu thú hại! Ngay cả thể đích chữ không thể phá hư, lưu niên cũng phản cục rồi! Đoạn sư đoạn: Lên chức không được!

Càn: Tân canh bính quý  

Sửu tý tuất tị  

kỷ mậu đinh bính ất

hợi tuất dậu thân mùi

Nguyên cục không có ấn, quan thấu tới rồi lộc thượng, vi xí nghiệp quản lý đích quan, xí nghiệp giám đốc người. Năm nay tiến ất mùi vận, hỏi bính tuất năm như thế nào?1, lên chức chức,2, tăng lương,3, điều động? Thực tế vi3 điều động. Hỏi bính thân vận,1, bình vận, khổ cực.2, vận may, tiền nhiều? Thực tế vi1 bình vận, khổ cực.

Ất mùi vận hảo, chủ yếu là
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan mệnh cái nhìn

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd