Mơ thấy mưa to và bệnh giảm thị lực –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Bài viết của tác giả Phong Nguyên
Trên bước đường nghiên cứu và học hỏi về tử vi, tôi có thể nói rằng việc giải đoán vận hạn khó khăn, phức tạp nhất vì ta phải cân nhắc và phối hợp quá nhiều yếu tố, mặc dù trong nhiều sách số có bàn tới khía cạnh này nhưng tôi rất tiếc là hơi tổng quát và không được rõ rang. Thực vậy, nếu cứ tra trong sách thì đại tiểu hạn gặp sao này bị nạn, gặp sao kia phát tài, hoặc đại hạn nhiều sao tốt hơn là sao xấu là tốt, hoặc đại hạn xấu mà tiểu hạn tốt cũng không hay…v.v…..như thế chúng ta làm sao có thể đi tới kết luận và như thế cũng quá giản dị, dễ dàng và thiếu linh động, uyển chuyển, trái hẳn với tinh thần tử vi
Vì vậy tôi cố gắng thử triển khai cách giải đoán đại tiểu hạn (trong bài này tôi không đề cập tới nguyệt và nhật hạn vì đi quá sâu vào chi tiết rất khó khăn, dễ sai lầm và dễ bị thất vọng) nhưng sẽ bỏ qua những nguyên tắc thường được các sách nêu ra cho khỏi rườm
1/ ĐẠI HẠN:
Nếu so sánh với tiểu hạn thì đại hạn dễ giải đoán hơn nhiều vì đại hạn bao trùm chu kỳ 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các đại hạn không bao giờ giống nhau vì ở đại hạn ở 1 cung không trùng nhau như tiểu hạn (tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đoán tổng quát Mệnh – Thân thì đại hạn vẫn khó tìm hiểu vô cùng.
Nói chung, khi giải đoán đại hạn, quý bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự):
- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của đại hạn
- Tương quan giữa ngũ hành của bản mạng (hoặc cục) và ngũ hành của cung nhập đại hạn
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam đẩu hoặc Bắc đẩu
- Phối hợp cung Phúc với đại hạn
- Phối hợp cung liên hệ đến hoàn cảnh xảy ra trong đại hạn (nếu cần)
- Lẽ tất nhiên quý bạn phải xem xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra vì các sách đã có bàn tới, ngoài những nguyên tắc nêu trên
Bây giờ xin đưa ra những ví dụ cụ thể để quý bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây:
2. TIỂU HẠN
Bàn về tiểu hạn (tức là vận hạn trong 1 năm) quý bạn sẽ thấy khó khăn, phức tạp hơn đại hạn nhiều vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn. Tôi bất giác thương hại các thầy tử vi hành nghề cứ phải giải đoán cấp kỳ theo như yêu cầu của than chủ, vì dù cho các thầy có giỏi đến đâu cũng không thể kết hợp được đúng mức, sau có 1 vài phút đồng hồ, nhất là khi phải bấm trên tay (trường hợp thiếu thị giác) và như thế làm sao chính xác được. Ngay cả khi rảnh rang, cứ ngồi mà cân nhắc, kết hợp cũng chưa chắc đã giải đoán được chính xác vì yếu tố này bổ túc hoặc chế hóa yếu tố khác thì ta đi đến kết luận nào. Do đó, dù có được biết đủ các nguyên tắc để giải đoán tiểu hạn, việc đoán cao thấp tùy thuộc óc kết hợp, nhận định tinh vi của người giải đoán.
Nếu đặt vấn đề nguyên tắc thì tiểu hạn tạm căn cứ vào các điểm sau (mà 1 vài điểm theo quy tắc đã được các sách nêu ra):
- Tương quan giữa đại hạn và tiểu hạn
- Tương quan giữa ngũ hành bản mạng với các chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn
- Tương quan giữa lưu đại hạn, địa bàn và thiên bàn
- Tương quan giữa ngũ hành của năm nhập hạn với cung và sao nhập hạn
- Các phi tinh (tức là các sao lưu) ngoài ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách thường nêu ra
Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để các bạn hiểu rõ ràng:
a. Khi xét đến tương quan giữa đại hạn và tiểu hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ đại hạn theo các nguyên tắc đã nêu ra. Tôi có thể nói mối tương quan này rất quan trọng, cũng như mối tương quan giữa đại và tiểu hạn nên ta không bao giờ giải đoán 2 tiểu hạn giống nhau mặc dù 12 năm lại trở lại 1 cung, tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục này tôi xin đưa ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng:
- Ví dụ đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới hoạt động. Chẳng hạn như đại hạn có Thái Tuế, Bạch hổ, Quan phù, Không Kiếp, Khốc Hư thường chỉ đoán tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi tiểu hạn có Cô Quả, Kình Đà, hình, Linh Hỏa thì dễ bị tai họa….(không thể nhìn thấy chữ)… nếu không có không sao. Tiểu hạn đó vẫn chẳng tai hại gì, có thể chỉ bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình….
- Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu đại hạn có Vũ khúc, Thiên Phủ hợp mệnh mà tiểu hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng. Hoặc giả đại hạn có tử vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đứng ở đó) hợp Mệnh mà tiểu hạn có Khôi Việt, Thai Tọa, Tả Hữu, Long Phương, Đào hồng Hỉ, Xương Khúc… thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh quy mô
- Nếu thấy các sao nhập Đại và tiểu hạn họp thành bộ rồi, cần phải xét xem các chính tinh (không bao giờ xét đến phụ tinh) của đại hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các chính tinh của tiểu hạn hay không. Nếu đại hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì tiểu hạn cần có Cự Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có Sát Phá Tham…Về điểm này, quý bạn nên xem phần tiểu luận trong sách Tử Vi đẩu số tân biên của VĐTTL cũng đầy đủ và dễ hiểu. Vì thế, tiểu hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy
- Nếu chú ý về cá nhân mình thì cần đại hạn tốt đi vào 1 trong những cung liên hệ trực tiếp đế mình thời tiểu hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc). Ví dụ mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà đại hạn còn ở cung phụ mẫu hoặc cung Tử tức thì dù cho tiểu hạn có tốt vẫn chưa phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại hạn chuyển sang cung tài bạch (nhưng nếu xui xẻo, gặp cung Tài xấu thì cũng như vô vọng) mới hanh thông được
- Sau hết tôi xin nêu ra 1 trường hợp rất khó đoán: đương số mạng Tham Lang cư Thì, tức là tổng quát là lả lướt và đào hoa, cung Thê có Đào hồng, Tả Hữu chiếu tức là có sự lựa chọn, mai mối nhiều và đại hạn lại đi tới cung Thê, như thế là đủ hết các yếu tố đi tới hôn nhân. Do đó các thầy tử vi đều đoán đương số lấy vợ ở các tiểu hạn có Đào hồng Hỉ, tả Hữu, Xương Khúc….nhưng ai ngờ đương số lại lập gia đình trong tiểu hạn có Cô Quả, Tang Hổ, Nhật Nguyệt hãm hội Hóa Kị và lại không ngó thấy đại ha5hn ở cung Thê (vì thông thường các nhà tử vi hay lựa tiểu hạn hội chiếu với cung Phối hoặc trùng phùng ngay vào cung Phối để đoán hôn nhân). Tuy trường hợp này hơi kỳ lạ nhưng nếu suy luận 1 chút là thấy hợp lý vì theo nguyên tắc “tồn hữu dư, bổ bất túc” trong Dịch học, ta thấy các yếu tố về hôn nhân quá nhiều (tức là dư) thì cần phải có sao tiết giảm như Cô Quả, tang hổ Kị thời con thuyền mới có bến đậu được, chứ không “trăm mối tối nằm không”, nhất là tiểu hạn lại vào cung Giải Ách, tức là tránh né, không nhìn thấy cung Phối là cung đại hạn đi tới để khỏi chịu ảnh hưởng quá mạnh của các sao Hỉ. Điều may là trường hợp này ít khi xảy ra hoặc ít khi gặp nên quý bạn cũng đừng quá hoang mang, cứ đoán như thường lệ.
b. Thường thường, đoán tử vi ai cũng thích các chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hoàn toàn vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa mạng khắc 2 sao này hơn là được 2 sao này sinh (lẽ dĩ nhiên 2 sao này khắc mạng là điều tối kị) vì bộ CNĐL không ưa 2 chính tinh này nên tốt hơn hết là mời 2 sao đó đi chỗ khác, tức là trường hợp mình có mạng khắc 2 sao này. Ngay cả trường hợp mệnh mình có bộ sao chế ngự được Tham Phá (như bộ TPVTL chẳng hạn) cũng không nên liên hệt đến 2 sao này vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ khi đương số là loại người thích đi vào con đường đó thì không kể. Còn như chính tinh nhập hạn như Tử Phủ, Đồng Lương…..bao giờ cũng cần sinh bản mạng hoặc ít ra cùng 1 hành với mạng, dù cho đại hạn có bộ sao đối kháng với các sao tiểu hạn
Về tương quan giữa ngũ hành bản mạng với cung nhập hạn thì bao giờ cung sinh bản mạng cũng tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa thì vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản mạng, còn như mạng sinh cung hoặc khắc cung cũng có khi dung được tuy không phải là hay. Ví dụ như hạn đến cung Tử tức có các sao tốt nếu sinh được cung tức là mình lo được cho con cái thành công hoặc đầy đủ,chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả 1 chút vì con cái nhưng nếu cung Tử tức xấu thì đương nhiên là mình khổ vì con (hoặc vì chúng đau yếu, chết non, hay cao bồi, du đãng mình vẫn thương yêu chúng). Còn gặp trường hợp khắc cung cũng vậy, có khi hay mà có khi dở, nếu gặp tiểu hạn đi tới cung Nô bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hoàn cảnh. Còn như tiểu hạn đi tới cung Phụ Mẫu thì mình hay bất hòa với cha mẹ (nếu cung phụ mẫu xấu quá có thể mình phải xa cách cha mẹ…Những điểm trên đây quý bạn có thể áp dụng cho cả đại hạn
c. Về vấn đề lưu đại hạn, Địa bàn (tức là tiểu hạn theo vị trí cố định của các cung, như năm nay Quý Sửu, xem địa bàn ở cung Sửu) và Thiên bàn (tức tiểu hạn theo hàng chi an ở ô giữa lá số), tôi thấy không quan trọng lắm vì thật ra chỉ xét kỹ cung Thiên bàn là đủ và đỡ rắc rối quá mức. Chỉ trừ khi nào ta thấy Thiên bàn quá xấu hoặc k rõ chút nào mới cần kết hợp them lưu đại hạn và Địa bàn để xem có yếu tố gì cứu giải hoặc soi sang them không. Về cách lưu đại hạn trong cuốn TVĐSTB có ghi rõ rồi
d. Về ngũ hành của hàng can năm nhập hạn ảnh hưởng tới tiểu hạn nhiều hay ít thì cụ Song An Đỗ Văn Lưu khi còn sinh tiền có cho tôi hay là rất quan trọng. Cụ có nêu 1 ví dụ cho dễ hiểu như sau: 1 người mạng Kim có Cự Kị thủ mệnh, đại hạn có Không Kiếp, tả Hữu, SPT (tức là hạn trúc La) đã chết đuối trong tiểu hạn năm Nhâm Thân vì chữ Nhâm là Thủy và cung nhập hạn cũng là Thủy, trong khi đó mạng Kim lại sinh Thủy, cho nến nước quá nhiều, Kim phải chìm lỉm. Suy ra những trường hợp khác cũng dễ: ví dụ tiểu hạn đến cung Điền có Tang hỏa và nhiều sao Hỏa nếu gặp năm Nhâm hoặc Quý thì vẫn không đáng ngại về hỏa hoạn vì đã được thủy dập tắt rồi. Như vậy, mục (d) này quý bạn cũng không nên bỏ qua khi đoán tiểu hạn, và đây cũng là 1 điểm cho thấy là 2 tiểu hạn cùng 1 cung đã có sự khác biệt
e. Phần chót là về các phi tinh (sao lưu). Tôi thấy các phi tinh không quan trọng lắm, chỉ là để xác định them 1 chút những yếu tố đã tìm rra. Ví dụ như biết hạn xấu rồi thì nếu có them lưu Kình Dương gặp KD cố định đồng cung ta có thể tin chắc là nguy nan. Nếu tiểu hạn tốt thì dù có 2 sao này cũng chẳng hề hấn gì. Cũng có nhà tử vi căn cứ vào vòng trường sinh (lưu) để tìm ra vận hạn cho những người liên hệ trực tiếp với mình (như cha, mẹ, vợ, con…) nhưng tôi thấy chưa có gì chính xác và hợp lý nên xin miễn bàn trong mục này
Qua những điều tôi trình bày trên đây, quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn rất rắc rối, khó khăn, có thể làm ta chán nản vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra mới thấy rõ cái hay của tử vi, và vì thế tôi thấy học tử vi không gì hay bằng việc chiêm nghiệm thật nhiều lá số mà mình đã theo dõi. Chứ nếu chỉ cố học thuộc các câu phú hoặc nguyên tắc giải đoán thì chẳng bao giờ có thể giải đoán được vững vàng.
(Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí)
Đại diện cho mệnh Mộc là màu xanh lá cây, màu gỗ, các chế phẩm từ gỗ, hoa cỏ và những vật trang trí hình hổ và thỏ hay mèo.
Theo quan niệm tương sinh trong ngũ hành, Thủy sinh Mộc, do đó, màu sắc có lợi nhất cho người mệnh Mộc là đen và xanh lam. Tiếp đến là các màu bản mệnh của mộc như xanh lá cây, màu gỗ, và các gam màu thuộc Hỏa như đỏ, hồng, tím.

Lựa chọn đen và xanh lam làm gam màu chủ đạo để trang trí nhà sẽ đem lại may mắn cho người mệnh Mộc.

Nội thất đen vừa là điểm nhấn hiện đại cho ngôi nhà, vừa tốt cho người mệnh Mộc.

Do Kim khắc Mộc, người mệnh Mộc kỵ với màu trắng, nên hạn chế sử dụng màu này để trang trí nhà.
Người mệnh Mộc sử dụng các đồ dùng có màu xanh lá cây và màu gỗ. Ngoài ra, người mệnh này cũng có thể bổ sung thêm các vật dụng màu đỏ, hồng, tím để tô điểm cho không gian nhà nhưng chỉ với số lượng vừa phải.

Vật liệu thuộc Mộc điển hình là gỗ. Nó có nguồn gốc tự nhiên, mang tính dương và có tác dụng làm lưu thông không khí. Để tăng cường thêm tính Mộc, người thuộc mệnh này nên dùng các loại đồ gỗ gia dụng, phổ biến nhất là cửa, giường, tủ, giá sách, gỗ lát nền nhà.

Một tủ đựng sách gỗ cũng có ý nghĩa như một vật phong thủy hữu hiệu đối với người cần bổ sung tính Mộc trong nhà.

Bạn có thể chọn cho mình một chiếc giá sách độc đáo.

Các chế phẩm từ mây, tre, cói cũng thuộc Mộc. Chúng có tính âm nên mang lại cảm giác mát mẻ.

Các loại rèm cửa, mành che bằng bông, đay cũng là những vật liệu thuộc mộc khiến ngôi nhà bạn trở nên gần gũi với thiên nhiên.

Theo quan hệ tương khắc trong ngũ hành, người mệnh Mộc không nên sử dụng đồ kim khí, do vậy nên hạn chế sử dụng những đồ trang trí làm bằng chất liệu này.

Người mệnh Mộc nên hạn chế sử dụng các đồ trang trí bằng kim loại. Đại diện cho Mộc là hổ và thỏ hay mèo. Người mệnh thổ nên có các đồ vật trang trí hình các con vật này để thêm phần thuận lợi trong công việc, sức khỏe.

Người mệnh Mộc nên trồng 3 hoặc 8 chậu cây sau để luôn được may mắn: Vân trúc, thủy tháp hoa, cau trúc (dừa Hawai), kim tiền, cây cọ, cây gừa, vạn niên thanh.

Cây vân trúc.
Thủy tháp hoa.
Cây cau trúc.
3 và 8 là hai con số đại diện cho Mộc. Người thuộc mệnh này nên ở nhà có số tầng và số nhà có đuôi là 3 hoặc 8. Các số thuộc Thủy là 1 và 6 cũng tốt cho người mệnh Mộc, nhưng cần tránh các tránh số thuộc Kim là 4 và 9.
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Xem tướng số biết vận mệnh chuẩn xác |
Quan sát tướng mặt của người khó thành công, dễ thất bại
Chùa Quang Ân có diện tích trên 10.000m2, bên bờ Ngọc Thanh Đàm, thôn Trung, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa được dựng vào năm 1694, là một am tranh vách đất. Đến năm 1704, Thiền sư Như Liên, trụ trì chùa Linh Tiên, cho xây lại chùa, đặt cột đá thạch trụ thiên đài trước chánh điện để kỷ niệm. Chùa xây đơn sơ, cạnh ngòi Đồng Đú, nên còn có tên là chùa Ngòi.
Năm 1747, Hòa thượng Tri Giác (1692 – 1769) về trụ trì chùa trong 22 năm đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa khang trang. Chùa tiếp tục được trùng tu năm 1832. Năm 1913, Thiền sư Thích Thanh Hanh – Tổ Vĩnh Nghiêm (1840 – 1939) là người bản xã, về tổ chức sửa chữa chùa. Ngài ủy thác đệ tử Thông Đạt chủ trì xây dựng, mở rộng quy mô chùa từ năm 1935 đến năm 1941.
Trong nhiều năm chiến tranh, chùa lại bị hư hỏng. Từ năm 1988 đến nay, chùa lại tổ chức trùng tu, sửa chữa thành ngôi cổ tự uy nghiêm. Chùa còn giữ được nhiều hiện vật cổ, như bia trùng tu (1694) và 7 tấm bia cổ khác, đại hồng chung (1826).
Chùa Quang Ân đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1995.
Tình yêu luôn là chủ đề ‘hot’ của teen girl, nhưng đối với Xử Nữ, Nhân Mã, Cự Giải và Kim Ngưu thì lại trái ngược. Tại sao lại như thế? Hãy cùng đọc bài viết những chòm sao nữ không dám yêu vì sợ ngay dưới đây nhé!
Nội dung
Nguyên nhân “dị ứng” chuyện tình yêu: Lo sợ tình yêu thực tế không tươi đẹp như trong tưởng tưởng.
Những cô nàng Xử Nữ thường chủ động kiếm tìm cho mình đối tượng phù hợp với tính cách và những tiêu chuẩn khá cao đã đề ra, nhằm có được tình yêu đẹp như trong chuyện cổ tích. Nếu may mắn tìm được anh chàng ưng ý, trái tim Xử Nữ gần như hoàn toàn thuộc về người đó, đồng thời luôn tìm cách làm đối phương cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc.

Tuy nhiên, vì cách nhìn nhận vấn đề khá bi quan và đa sầu đa cảm, chòm sao này luôn lo sợ những điều ở hiện thực sẽ trái ngược với điều mình nghĩ, rồi tự tỏ ra thất vọng và chán nản. Xử Nữ không dễ dàng trao tình cảm của mình cho người khác. Để có được tình yêu của những nàng này, đối phương phải khá kiên nhẫn, có sức chịu đựng tốt và chỉ có thể thực hiện phương án “mưa dầm thấm lâu” mới hiệu quả.
Nguyên nhân sợ chuyện yêu đương: Tôn sùng chủ nghĩa độc thân.
Đối với chòm sao tôn sùng chủ nghĩa độc thân như Nhân Mã mà nói, trong suy nghĩ của mình, các cô nàng này thường mường tượng ra hình hài của tình yêu như sau: “Thời gian đầu khi mới yêu thì nồng nàn, hạnh phúc, cả hai trao cho nhau lời yêu thương mật ngọt cả ngày không hết. Nhưng một thời gian sau, bản thân mỗi người sẽ coi đối phương như toàn bộ cuộc sống của mình, lúc nào cũng phải quan tâm, nhường nhịn, thậm chí là kè kè bên nhau”. Kiểu tình yêu như vậy không phù hợp với cá tính độc lập của Nhân Mã chút nào.

Nhân Mã ghét nhất là sự gò bó, thiếu tự do và đánh mất cá tính bản thân. Chòm sao này cho rằng khi yêu là phải dành nhiều thời gian cho đối phương, tự biến mình thành một người nào đó phù hợp với người ấy…đó là điều mà Nhân Mã không làm được. Vậy nên, Nhân Mã đã tự “gia nhập đội quân” mắc chứng sợ hãi và dị ứng với chuyện yêu đương.
Nguyên nhân sợ chuyện yêu đương: Phải suy nghĩ quá nhiều chuyện và lo lắng suốt ngày vì đối phương.
Mặc dù trong thâm tâm Cự Giải luôn muốn tìm cho mình một chỗ dựa tinh thần vững chắc để có thể cùng nhau đi hết cuộc đời. Nhưng vì chòm sao này quá nhạy cảm, lại luôn lo xa nên thường tưởng tượng ra nhiều điều khiến bản thân phải nghĩ ngợi và lo lắng.

Khi đã thực sự vướng vào lưới tình, Cự Giải sẽ suy nghĩ rất nhiều về chuyện tình yêu của hai phía, về việc làm thế nào để luôn giữ lửa cho tình cảm nồng cháy, về công việc của hai người, về gia đình hai bên…Rồi những cô nàng này tự tưởng tượng ra muôn điều sẽ xảy tới trong tương lai, nghĩ quẩn quanh rồi thành ra hoài nghi và không vững tin vào chính bản thân mình chứ chưa nói tới sự tin tưởng vào đối phương.
Nguyên nhân sợ chuyện yêu đương: Từng thất bại trong tình yêu, nỗi đau khổ ám ảnh theo suốt cuộc đời.
Kim Ngưu bề ngoài tỏ ra mạnh mẽ là vậy, nhưng bên trong lại ẩn chứa một trái tim yếu mềm và rất dễ bị tổn thương. Khi yêu, những cô nàng Kim Ngưu sẽ gửi trọn niềm tin và tình cảm của mình cho đối phương, đồng thời không mong muốn gì hơn là người ấy phải biết trân trọng điều đó.

Nhưng một khi tình yêu rạn nứt, Kim Ngưu thấy mình như một kẻ bại trận, rồi quay sang trách móc bản thân đã không có đủ khả năng để níu kéo đối phương. Càng nghĩ như vậy lại càng khiến chòm sao này đau khổ tột cùng. Chỉ cần một lần thất bại như vậy, Kim Ngưu sẽ khép chặt lòng mình và sợ phải nhắc đến nỗi đau đó thêm một lần nào nữa.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
![]() |
| ► Xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác |
Tác dụng
Chuông gió Kỳ Lân có lực hoá sát khá mạnh. Những hình sát mà nó hoá giải là Thương Sát, Pháo Đài Sát.
Chuông gió 5 thanh có tác dụng đẩy lùi khí xấu đối với loại sao chiếu mạng hàng năm.
Chuông gió 6 và 8 thanh dùng để vừa trấn khí xấu, tăng cường năng lượng, vừa chiêu tài lộc.
Cách dùng
Có thể treo, đặt ở cửa chính hoặc cửa sổ, nên đặt chỗ có gió thì càng tốt vì âm thanh chuông gió phát ra sẽ có tác dụng hoá giải khí xấu rất hiệu quả. Khi dùng nên kết hợp với quả cầu đa diện treo và xâu tiền ngũ đế.
Tuy nhiên cần liên hệ với các chuyên gia phong thủy để được khai quang và đặt đúng ngày giờ, đúng phương vị và hướng thì mới thực sự hiệu quả.
ST
Hiện nay đa phần mọi người đều thường chỉ biết đến Thước Lỗ Ban mà ít biết đến các loại còn lại. Trong phong thủy cổ có 4 loại thước phổ biến được dùng. Đó là các loại thước:
1- Thước Tử Phòng
2- Thước Gập ( hay còn gọi là Khúc Thước)
3- Thước Lỗ Ban
4- Thước Huyền Nữ ( mỗi thước gồm 9 tấc)
*** Loại Thước Lỗ Ban trong bài này nói đến không phải loại Thước Lỗ Ban thông dụng hiện nay ( Loại thước mà mỗi tấc là 1 cung, gồm 8 cung :tài, ly, bệnh, nghĩa, quan, kiếp, hại, bản )
1- Thước Tử Phòng:
Thước Tử Phòng là loại thước gồm 9 tấc tương ứng với 9 bộ: Kim Tinh (cát); Hỏa Tinh (hung), La Hầu (hung), Mộc Tinh( cát), Tử Khí( cát), Văn Tinh( hung), Kế Đô( hung), Nguyệt Bột( hung), Thủy Tinh( cát)
2- Thước gập:
Thước gập là loại thước gồm 9 tấc tương ứng với 9 bộ : một tấc là Nhất bạch ( cát ), 6 tấc là Lục Bạch( cát), Tám tấc là Bát bạch ( cát); Còn 2 tấc, 3 tấc, 4 tấc, 5 tấc, 7 tấc đều là hung
3- Thước Lỗ Ban
Thước Lỗ Ban cổ là loại thước gồm 9 tấc chia làm 13 bộ :
+ Tài Toại Điền Tăng ( thêm của thêm ruộng);
+ Sinh Tai Khẩu Thiệt ( sinh tai họa thị phi),
+ Phân Định Tổn Thê ( tổn hại đến vợ)
+ Ly Hương Tuyệt Nghĩa ( Xa quê dứt nghĩa)
+ Chiêu Tài Tiến Nghiệp ( được của phát nghiệp)
+ Vượng tài cát lợi ( vượng của tốt lành)
+ Sinh Quý Tử cát ( Sinh được quý tử)
+ Tiến Tài sinh tử( Rước của sinh con)
+ Hoành Họa Hung Thần ( gặp vạ hung thần)
+ Trường Bệnh Sư Lữ ( Bệnh lâu quân dịch)
+ Quan Ty Khiên Liên( Kiện Tụng Vạ Lây)
+ Ôn hỏa thoái tài( dịch bệnh hao của)
+ Tiến bảo cát lợi ( rước của tốt lành)
Xem thêm loại thước lỗ ban đang được sử dụng phổ biến
4. Thước Huyền Nữ:
Thước Huyền Nữ là loại thước gồm 9 tấc, chia làm 8 bộ
Quý Nhân ( Cát); Thiên Tai ( Hung), Thiên Họa ( Hung), Thiên Tài ( Cát), Quan Lộc ( Cát); Cô Độc ( Hung); Thiên Bại (Hung); Phụ Bật ( Cát)
Phàm là kích thước của nhà ở, cửa, cổng, bàn thờ, giường ngủ...đều phải dùng cả 4 loại thước trên để đo đạc, chọn kích thước mà cả bốn loại thước đều tốt. Dùng một tấm gỗ rộng bốn tấc, dài chín tấc để đo thử bốn loại thước này, thì chỗ hung cát sẽ rõ ràng. Nói tóm lại, số không khỏi chín, gặp số chín là cát. Chín tấc là một thước, chín thước là một trượng, lại cộng thêm nửa tấc tài, thì tất cả các loại thước đo đều ra cát
Ngũ nhạc là chỉ trán, cằm, mũi và hai bên gò má trái phải. Các nhà tướng thuật cho rằng. Ngũ nhạc có sự cân xứng, hài hòa với nhau là quý. Ngũ nhạc không ngay ngắn, cuối đời sẽ nghèo khổ.
Mũi phải cân xứng hài hòa, như thế mới là phú quý; ngược lại, nếu không có sự tương xứng sẽ là tướng phá hại.
Mũi nên cao lớn bằng thẳng, gò má trái nên bằng, cũng không có sự hướng bên phải nổi cao, như thế không hình thành nên được thế tương hỗ với mũi, như vậy người này sẽ chẳng có quyền thế, chỉ là một người dân bình thường, tuổi thọ không dài.
Người có mũi gầy bằng, do nó ở chính giữa mặt, cho nên 4 nhạc khác không thể dựa vào nó được, 4 bộ vị khác đều tốt cũng không có cách gì bổ sung khiếm khuyết. Người sinh ra mà có hình tướng như thế cả đời sẽ chẳng được phát đạt, tuổi thọ cũng chẳng dài lâu.
Người sinh ra có mũi nổi cao nhưng lại quá dài cũng là tướng không tốt, cũng chẳng được trường thọ.
Người có mũi tương đối nhọn lại gầy, như thế cuối đời chẳng được điều như ý, gia nghiệp có khả năng bị phá hoại.
Người có trán dài mà không có sự đối xứng với các bộ vị khác, lại có thế nghiêng lệch, người đó cả đời chẳng được phát đạt.
Người có cằm thấp lõm, lại có thế thu vào trong, người có tướng đó cả đời cũng không có nhiều thành tựu, cuộc sống vất vả tầm thường. Hai bên gò má mà không có sự cân xứng, không ngay ngắn, như thế là không được thế, lại có nhân phẩm không tốt, lòng hiểm độc, không có chút lòng nhân từ.
Ngũ nhạc ứng với 5 chòm sao trên trời, cai quản 5 phía Đông Nam Tây Bắc và ở giữa. 5 ngọn núi sừng sững giữa đất trời là kết quả của sự tương hỗ giữa chúng.
Trán là Hoành sơn, vuông vắn và rộng là tướng cát lợi. Hàm dưới là Hằng sơn, tròn và dày là tốt.
Xương gò má trái là Thái sơn, xương gò má phải là Hoa sơn, tròn và đoan chính là tốt.
Mũi là Tung sơn, cao và cân xứng là tốt.
Năm bộ phận này đầy đặn, hài hòa, nổi lên mà không bị lõm xuống mới là tướng tốt.
1. Sao Thiên Mã (Lộc Mã) trùng với Bạch Hổ (xấu): tốt cho việc xuất hành, cầu tài lộc, giao dịch buôn bán
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Giáp; tháng 2: ngày Tý; tháng 3: ngày Dần; tháng 4: ngày Thìn; tháng 5: ngày Ngọ; tháng 6: ngày Thân; tháng 7: ngày Tuất; tháng 8: ngày Tý; tháng 9: ngày Dần; tháng 10: ngày Thìn tháng 11: ngày Ngọ; tháng 12: Thân.
![]() |
| Tranh cát tường |
2. Sao Thiên Tài: trùng với Kim Quỹ (tốt): tốt cho việc cầu tài lộc, khai trương
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Thìn; tháng 2: ngày Ngọ; tháng 3: ngày Thân; tháng 4: ngày Tuất; tháng 5: ngày Tý; tháng 6: ngày Dần; tháng 7: ngày Thìn; tháng 8: ngày Ngọ; tháng 9: ngày Thân; tháng 10: ngày Tuất; tháng 11: ngày Tý; tháng 12: ngày Dần.
3. Sao Địa Tài: tốt cho việc cầu tài lộc, khai trương
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Tỵ; tháng 2: ngày Mùi; tháng 3: ngày Dậu; tháng 4: ngày Hợi; tháng 5: ngày Sửu; tháng 6: ngày Mão; tháng 7: ngày Tỵ; tháng 8: ngày Mùi; tháng 9: ngày Dậu; tháng 10: ngày Hợi; tháng 11: ngày Sửu; tháng 12: ngày Mão.
4. Sao Nguyệt Tài: tốt cho việc cầu tài lộc, khai trương, xuất hành, di chuyển, giao dịch
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Ngọ; tháng 2: ngày Tỵ; tháng 3: ngày Tỵ; tháng 4: ngày Mùi; tháng 5: ngày Dậu; tháng 6: ngày Hợi; tháng 7: ngày Ngọ; tháng 8: ngày Tỵ; tháng 9: ngày Tỵ; tháng 10: ngày Mùi; tháng 11: ngày Dậu; tháng 12: ngày Hợi.
5. Sao Nguyệt Ân: tốt cho việc cầu tài lộc, khai trương, xuất hành, di chuyển, giao dịch
Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):
Tháng 1: ngày Bính; tháng 2: ngày Đinh; tháng 3: ngày Canh; tháng 4: ngày Kỷ; tháng 5: ngày Mậu; tháng 6: ngày Tân; tháng 7: ngày Nhâm; tháng 8: ngày Quý; tháng 9: ngày Canh; tháng 10: ngày Ất; tháng 11: ngày Giáp; tháng 12: ngày Tân.
Theo Bàn về lịch vạn niên
| ► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
![]() |
![]() |
Bói tình yêu để nhận biết được người có được hạnh phúc trong tình yêu. Tình cảm yêu đương nam nữ phải xuất phát từ lòng ái mộ mới có thể yêu thương, quý mến nhau, xuất phát từ khát vọng hạnh phúc cuối cùng hai người mới kết hợp với nhau. Tình yêu hạnh phúc sưởi ấm cuộc đời của một con người. Đó là tình yêu đáng quý, rất khó có thể đạt được, và chính từ tướng tay bạn có thể biết được tình yêu của mình như thế nào.

Tướng tay ngón tay út dài và thẳng
Ngững người này đại đa số biểu hiện tình yêu một cách thẳng thắn, biểu hiện tình cảm của mình rõ ràng. Họ có thể hiểu được người mình yêu thương, do đó có thể tăng cường mối quan hệ với người này, vun đắp cho tình yêu.
Đường Tình cảm cong, đoạn trước có đường phân nhánh
Báo hiệuhọ là người có tình yêu ấm áp. Là người thông minh, lanh lợi, có thể đem đến cho đối phương cảm giác hạnh phúc. Họ yêu người khác và được người khác yêu lại, có thể, cùng nhau xây dựng nên mối quan hệ tình cảm ngọt ngào, hài hòa.
Gò Kim tinh dầy đặn, màu hông nhuận, có đường đuờng chỉ tay nhỏ
Đây là người trọng tình trọng nghĩa, nhân phẩm tốt. Là người có khả năng tình dục tốt, biết hưởng thụ tình yêu một cách trọn vẹn. Nhưng nếu trên gò Kim tinh có quá nhiều đưòng chỉ nhỏ, ngầm báo hiệu đây là người sẽ chịu nhiều vất vả.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Vậy vòng Thái tuế thực chất là gì, tôi trong quá trình tìm hiểu thấy rằng, vòng Thái tuế chính là vòng năng lượng địa chi năm sinh.
Như ta biết hệ thống sao Thái tuế có 12 sao, gồm : Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn, Thiếu âm, Quan phù, Tử Phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ, Phúc đức, Điếu khách, Trực phù.
Coi vòng Thái tuế là vòng năng lượng thì Thái tuế chỉ sự thái quá, mạnh quá, nên ứng với vị trí Đế vượng của năng lượng. Từ đó suy ra Bạch hổ chính là vị trí Trường sinh, Phúc đức là vị trí Mộc dục, Điếu khách ở vị Quan đới, Trực phù vị Lâm quan, Thiếu dương vị trí Suy, Tang môn vị trí Bệnh, Thiếu âm vị trí Tử, Quan phù vị trí Mộ, Tử phù vị trí Tuyệt, Tuế phá vị trí Thai, Long đức vị trí Dưỡng.
Để chứng minh điều này, ta sẽ kiểm tra tính lý các sao của hệ Thái tuế, nếu đó đúng là vòng năng lượng địa chi trải qua 12 giai đoạn thì các sao phải có tính chất nào đó của các vị trí mà nó rơi vào, dù có thể nó không được đặt ra hoàn toàn để chỉ cái mức năng lượng đó. (Ví dụ: sao Thái tuế không phản ánh hết ý nghĩa mạnh mẽ, thái quá, kích phát xung động của vị trí Thái tuế, theo tử vi truyền thống, sao Thái tuế chỉ lời nói, biện thuyết, cãi cọ, lạnh lùng khinh người)
Quả vậy, Bạch Hổ có tính chất Trường sinh rất mạnh, rất rõ, hạn gặp Bạch Hổ thường có những sự phát sinh đột ngột, mới mẻ, có hoạt động mới sinh ra, có nhiều việc phát sinh bận rộn khiến người ta phải hoạt động đến mệt mỏi.
Phúc Đức có đặc tính yếu kém, phải cầu mong sự hỗ trợ, giúp đỡ, làm phúc, đó chính là đặc tính của Mộc dục, non yếu, bại, vô lực.
Điếu Khách có tính khoe khoang khoác lác, đó là vì tương ứng vị trí Quan đới đang tiến tới, đi lên thịnh trị, gặp lúc thịnh mà ra vẻ, thể hiện.
Trực Phù ở vị Lâm quan, nhưng lại nhiều cái xấu vì nó luôn đồng cung với Thiên Kiếp, ngôi sao rủi ro, xui xẻo.
Thái Tuế vị trí Đế vượng rõ rồi, nó kích phát các tổ hợp sao rất mạnh, vì vị trí đó chứa mức năng lượng tối đa.
Thiếu Dương ứng với vị trí Suy, chú ý là Thiếu dương đi sau Thái tuế nên luôn có sao Thiên Không chỉ sự đổ vỡ suy bại rất rõ.
Tang Môn ứng với vị trí Bệnh, nên Tang Môn có tính u buồn, không hoạt bát vui vẻ, khi đang yếu mệt bệnh tật thì người ta vui sao được.
Thiếu Âm ứng với vị trí Tử, đặc tính kín đáo, khéo léo của Thiếu âm rất rõ, giống tính lý sao Tử.
Quan Phù ứng vị trí Mộ, tính lý truyền thống sao này không có ý thu tàng nhưng sau này ta sẽ thấy nó có đúng các đặc tính đó.(Điếu khách vung phí, Quan phù giữ gìn cẩn thận)
Tử Phù ứng với vị trí Tuyệt, thực tế Tử phù có ý nghĩa là buồn thảm, u uất, chính vì nó bị tuyệt khí, hết sức sống, hết năng lượng mà ra như vậy.
Tuế Phá ứng vị trí Thai, Tuế phá được cho là có hành động chống đối, phá phách, thực ra chính vì đặc tính Thai nên Tuế phá u mê tăm tối, hành vi nhầm lẫn, trái khoáy, ngược đời.
Long Đức ứng vị trí Dưỡng, điều này rất rõ, vì Long Đức có tính trợ giúp, cẩn thận, phù trì lâu dài.
Như vậy tất cả các sao trong hệ thống Thái tuế đều có một số tính lý cơ bản giống như các vị trí tương ứng của vòng Tràng sinh, với Bạch Hổ ứng vị trí Trường Sinh khởi đầu, Thái Tuế ứng vị trí Đế vượng, Quan Phù vị trí Mộ. Vậy vòng Thái tuế chính là một phản ánh của vòng năng lượng địa chi, thể hiện sự phát triển đi lên tuần tự theo chu kỳ 12 giai đoạn của mức năng lượng.
Vòng năng lượng địa chi chính là mẹ đẻ, cội rễ của vòng Thái tuế. Tam hợp Thái tuế chính là 3 vị trí Sinh, Vượng, Mộ của khối năng lượng địa chi nên có sức mạnh lớn, khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ.
Việc coi trọng vòng Thái tuế của phái Thiên Lương là có cơ sở, đó chính là vòng năng lượng rất mạnh trong lá số. Cũng như hàng năm đều có Thái tuế lưu niên, sự chuyển vận của thời gian tạo ra sức mạnh thể hiện bằng can chi lưu niên, trong đó chi lưu niên được coi là Thái tuế, được rất nhiều các môn huyền học khác coi trọng, sử dụng trong luận đoán.
Tam hợp Thái tuế có tính xung động, tiến lên, phát triển, trợ lực nên về cơ bản là tốt. Khi gặp các sát tinh thì vòng năng lượng này tiếp tay cho sát tinh, kích phát hung tính đến cực điểm nên xảy tai vạ, đổ vỡ dữ dội, đó chính là lý do vì sao Mệnh, Thân, hạn đắc vòng Thái tuế mà xấu, bị họa.
Hiểu được ý nghĩa vòng năng lượng địa chi này sẽ thấy rằng phái Thiên Lương cho tam hợp Thái tuế toàn nghĩa tốt là chỉ nhìn thấy một mặt của vấn đề, đó là tính tích cực của năng lượng. Vậy mặt tiêu cực của vòng Thái tuế là gì ? Cũng như chất kích thích, dùng sai chỗ tất có hại. Thái tuế gặp sát tinh ví dụ Không Kiếp Kình Đà hãm chả khác nào nối giáo cho giặc, khiến tai vạ thêm nặng nề. Cho nên sát tinh rơi vào tam hợp Thái tuế phải được chú ý đặc biệt, vì chúng luôn sẵn sàng bùng nổ dữ dội !
Theo http://dichhoc.wordpress.com/
Thái tuế chính là vị trí của địa chi năm sinh, Thái tuế du hành theo năm trên 12 cung, vị trí Thái tuế có tính kích phát, xung động, Thái tuế là cái xe thời vận chứa đầy động năng. Để cho rõ, hãy nghĩ đến hình ảnh cái xe ô tô đang chạy trên đường, cái xe là hình ảnh của Thái tuế, chứa động năng mạnh mẽ để tiến tới. Tất cả hành khách trên xe (tức chính, phụ tinh) bất luận tâm tính tốt xấu đều được cái xe đưa tiến lên rất đều đặn. Phía trước cái xe là Thiên Không, tức vượt quá lên mà thành không, có thể hình dung là kẻ cầm đèn chạy trước ô tô, có nhanh đấy, giỏi đấy nhưng luôn tiềm ẩn tai vạ bị xe đâm chết. Tức là anh dùng cái khôn, cái nhanh của mình thì dù có chạy trước được cái xe Thái tuế vẫn rất dễ bị họa, từ nguồn động năng đằng sau luôn chực húc đổ, đè bẹp, biến ra thành không.
Ngược lại, đằng sau cái xe ô tô Thái tuế là khói đen xả ra, theo nguyên tắc cân bằng năng lượng, có động năng thì có tiêu thụ, có xả chất thải, phía sau cái xe đầy chất thải độc hại chính là tình trạng đen đủi Địa kiếp ! Đi sau xe Thái tuế sẽ phải hứng chịu những cái khói bụi độc hại, bệnh tật, nguy cơ có tai nạn khi cái xe đằng trước bỗng chạy chậm, phanh lại đột ngột. Phái Thiên Lương ít nhiều nhận ra điều này khi họ cho sao Trực phù (luôn sau Thái tuế) có ý nghĩa là phụ thuộc, bị bạc đãi, chịu thiệt thòi. Chính do bị án ngữ bởi cái xe thời vận, nên dù anh có giỏi, có mạnh cũng khó mà đi lên trước được, chỉ tà tà theo đuôi, theo đuôi mà còn bị hít khói độc, dù có tốt cũng không làm sao thỏa mãn hoàn toàn được. Việc hiểu vị trí Thái tuế qua hình ảnh cái xe thời vận, dễ dàng thấy ý kiến cho tam hợp Thiếu Âm, Long Đức, Trực Phù có tính phụ thuộc chỉ là điều tất yếu đẻ ra từ tình trạng chạy sau xe ô tô Thái tuế. Các bài sau tôi sẽ mổ xẻ chi tiết về phái Thiên Lương.
Vì sao Trực phù không phản ánh hết ý nghĩa đặc biệt của vị trí sau Thái tuế nên tôi cho rằng cung sau cung Thái tuế phải có riêng một sao phản ánh sự xấu xa. Tình trạng đen đủi, độc hại, tồi tệ, nguy hiểm sau cái xe Thái tuế có các đặc tính của Không Kiếp, từ ý này, cộng thêm với chữ Thiên trong sao Thiên Không, tôi đề nghị đặt tên cho ngôi sao sau vị trí Thái tuế là sao Thiên Kiếp. Chú ý rằng trong tử vi sao Địa Kiếp an theo giờ, và luôn đi sau cung chỉ giờ sinh, ví dụ giờ Tý thì Địa kiếp ở Hợi, Giờ Sửu thì Địa kiếp ở Tý, Giờ Dần thì Địa kiếp ở Sửu. Vậy nếu lấy Địa Kiếp theo Chi năm thì nó rơi ngay vào sau cung Thái tuế, tức vị trí có sao Thiên Kiếp vừa đề xuất ! Vì thế ở khía cạnh nào đó sao Thiên Kiếp đồng lý với Địa Kiếp cả về cách an và ý nghĩa !
Lý thuyết thì như vậy, còn thực tế thì sao ?
Nghiệm lý kiểm tra: Tôi đã kiểm tra tất cả các lá số thực tế mà tôi biết, thấy rằng cung sau Thái tuế quả có những đặc tính xui xẻo, tai vạ, đen tối, tồi tệ của Địa Kiếp. Nếu đấy là cung Phúc thì người đó tâm địa ích kỷ nhỏ nhen, họ hàng có tai nạn. Nếu là Tài thì khó kiếm tiền, có gian lận lừa gạt, bị giật tiền. Nếu là cung chỉ người như Huynh, Nô, Phụ, Thê, Tử thì đối tượng đó có vất vả, xui xẻo, phải cam chịu sự bất ưng nào đó. Nếu là cung Mệnh thì người đó có bản chất Địa Kiếp rõ ràng, ích kỷ, lang độc, tự cho mình là khôn là hay nhưng bị họa, gặp xui xẻo bất ngờ. Nhẹ nhất thì cũng bị vất vả, có điều xui phải cam chịu. Khi hạn đến cung sau Thái tuế thì có đau ốm, xui xẻo, thất bại, bị phản trắc, quịt nợ, xảy cảnh thấp kém bất ưng, thậm chí tai nạn mất mạng (nếu không cho rằng có Thiên Kiếp ở đó thì rất khó lý giải tai nạn nặng kia).
Vậy tại sao tử vi chính thống không có hung sát tinh nào an sau cung Thái tuế như Thiên Không an đằng trước để phản ánh tình trạng này ? Theo tôi có thể do thất truyền, ví dụ Tử vi Trung quốc vốn không có sao Thiên Không, trong khi qua kiểm nghiệm thì Tử vi Việt Nam đã khẳng định sự hiện diện rõ ràng của sao này.
Tôi định tính lý cho Thiên Kiếp như sau: là hung tinh, hành Hỏa, tính âm, sức mạnh vào khoảng 50 – 60% sao Địa Kiếp, tuy nhiên thực tế có trường hợp nó mạnh không kém gì Địa Kiếp thực sự. Thiên Kiếp không có vị trí đắc địa, tất cả đều hãm, xui, rủi, đen tối. Thiên Kiếp vào Mệnh Thân giải thích rõ tại sao lá số có vẻ đẹp mà thực tế lại kém, cứ như bị ma dìm, thực ra chả có ma nào cả, đó là do Thiên Kiếp làm đó. Vào hạn cũng vậy, điều xấu tưởng như không có mà lại xảy ra, chỉ vì cứ ở sau Thái tuế là có rủi ro đen bạc vất vả nhọc mệt tật nghiệp rồi.
Việc phản biện sao Thiên Kiếp này luôn được hoan nghênh!
Nguồn: http://dichhoc.wordpress.com
Linh cảm lâm sàng là một khái niệm phổ biến đối với rất nhiều bác sĩ và chuyên gia chăm sóc sức khỏe – hiện tượng này xảy ra khi họ “cảm thấy” có một loại trực giác hay linh tính nào đó về bệnh tình của bệnh nhân, ngay cả khi không có bằng chứng trên lâm sàng, xét nghiệm.
Hiện tượng này đóng vai trò quan trọng trong những trường hợp cấp cứu và trong các ca nguy hiểm đến tính mạng. Trong một số trường hợp, linh cảm cũng có thể dẫn đến việc phát hiện các phương pháp điều trị y học mới.
Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn 7 trường hợp linh cảm có thật trong lịch sử y học hiện đại:
Theo Trung tâm Tâm linh và Điều trị trực thuộc trường Đại học Minnesota:
“Chứng kiến tình cảnh bệnh nhân mất máu ào ạt trên bàn mổ, bác sĩ chuyên khoa tim mạch, TS Mini Guernari, đã dành hàng tiếng đồng hồ để thử đủ mọi cách cầm máu cho bệnh nhân.
Sau đó, “đột nhiên tôi nghĩ tới một thứ tôi chưa từng sử dụng trước đây và cũng chưa bao giờ nghĩ tới : Gelfoam (1 chất hút nước có khả năng cầm máu)”. Câu trả lời mang tính trực giác này đã khiến cô chớp mắt liên hồi và tự hỏi không biết bản thân có đang gặp ảo giác hay không khi nhận thấy máu đã ngừng chảy. Gelfoam đã cứu sống bệnh nhân của cô”.
Trên trang web của Quỹ Nghiên cứu Bệnh viện Nhi Seattle (Seattle Children’s Hospital Research Foundation):
Ông lắng nghe trực giác của mình và cố gắng phân tích mối liên hệ giữa những vấn đề về tai trong và hội chứng SIDS. Ông đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia khác nhau có dữ liệu thống kê về trẻ. Ông đã phát hiện ra rằng tình trạng suy giảm thính lực tai phải, thường xuất hiện ở những đứa trẻ mắc SIDS, vốn có tỷ lệ thấp hơn trong những đứa trẻ tử vong không phải do SIDS”.
Một y tá đã kể lại câu chuyện về trực giác của mình, được trích dẫn trong một luận văn cao học có tiêu đề “Quan sát mọi thứ, lắng nghe điều không được đề cập: một nghiên cứu hiện tượng luận về trực giác trong thực tập điều dưỡng”, của Lisa A. Ruth-Sahd, tại trường Đại học bang Pennsylvania, Mỹ.
“Một người đàn ông 44 tuổi đã đến bệnh viện sau khi bị tai nạn xe máy, ông đã bị văng ra khỏi chiếc xe của mình và đâm vào lan can bên đường rồi trượt trên mặt đất khoảng 12 m. Vụ tai nạn xảy ra do ông cố gắng tránh đâm phải một chiếc xe hơi đột ngột dừng lại ở phía trước. Tôi đã rất kinh ngạc vì ông không đội mũ bảo hiểm vào lúc tai nạn xảy ra, nhưng vẫn khá tỉnh táo và có thể xác định phương hướng xung quanh trên đường đến khoa cấp cứu, và cũng có thể nhớ lại diễn biến vụ tai nạn. Khi đến nơi, ông vẫn có các dấu hiệu sinh tồn, mạch đập ổn định.
Mặc dù có kết quả khám bình thường, nhưng tôi vẫn cảm thấy lo sợ và không thoải mái nhưng không thể hiểu tại sao. Trước đây, tôi đã từng chăm sóc rất nhiều bệnh nhân bị chấn thương còn nghiêm trọng hơn người đàn ông này, nhưng vì lý do nào đó, tôi vẫn cảm thấy trường hợp này khá khác biệt. Tôi cứ liên tục nghĩ về kết quả khám của mình và tự hỏi tại sao tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó không ổn.
Tôi nhìn các đồng nghiệp xung quanh, nhưng có vẻ không ai quan tâm, vì nỗ lực hồi sức cấp cứu vẫn đang được tiến hành bình thường như đối với các bệnh nhân khác. Mặc dù tôi vừa khám cho ông ta 10 phút trước đó và kết quả khá tốt, nhưng tôi cảm thấy mình cần quay lại và tiến hành kiểm tra toàn diện lần hai.
Tôi lắng nghe những cảm nhận nội tâm rằng có điều gì đó không ổn với người bệnh nhân này. Lần này tôi nhận thấy nhịp tim của ông nhanh hơn lúc trước và thấy xuất hiện một vết bầm tím ở phía ngực trước. Tôi nhìn sang màn hình hiển thị tâm đồ và nhận thấy đường điện tâm đồ (EKG) đã trở nên thẳng băng (tim không đập).
Dựa trên tất cả các triệu chứng này, ngay lập tức tôi thông báo cho bác sĩ phẫu thuật chấn thương cũng như các bác sĩ trong phòng cấp cứu, rồi tất cả chúng tôi nhanh chóng chuẩn bị tiến hành chọc màng ngoài tim, một biện pháp cần thiết để giảm bớt áp lực đang hình thành xung quanh tim bệnh nhân. Vụ tai nạn đã làm vỡ một mạch máu, dẫn đến hiện tượng chèn ép màng ngoài tim thứ phát do chảy máu”.
“Tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại bảo người bệnh nhân đó kể về công việc của anh ta chi tiết hơn’, Bác sĩ Iver A. Juster nói. Khi bệnh nhân của ông – một quản lý ở thung lũng Silicon Valley miêu tả về mối quan hệ không hòa hợp với sếp, BS Juster đã nhận thấy những nét biểu cảm trên khuôn mặt anh trông giống hệt như lúc anh ta kể về vấn đề đau dạ dày.
BS Juster thuyết phục bệnh nhân rằng cảm xúc có thể gây nên những triệu chứng thể chất và đề xuất một liệu trình kép – điều chỉnh cảm xúc và điều trị các triệu chứng thể chất. Bệnh nhân và bác sĩ đều hài lòng với kết quả điều trị”.
Câu chuyện này được chia sẻ trên trang web của trường Đại học Minnesota:
“Bác sỹ chuyên khoa tâm lý Richard Friedman cảm thấy khá bất ngờ về bản thân vào một ngày có lịch hẹn khám bệnh định kỳ với một bệnh nhân đang gặp các vấn đề về tài chính.
Ông cảm thấy biểu hiện của người bệnh nhân tên Mark của ông có gì đó không ổn, BS Friedman ‘đã làm một việc dựa trên trực giác thuần túy mà tôi không thật sự hiểu được vào lúc đó. Khi Mark còn đang ngồi trong văn phòng của tôi, tôi gọi cho bác sĩ nội khoa của anh và đặt lịch hẹn gặp ông ta vài giờ sau đó’.
BS Fried cảm thấy bối rối với chính linh cảm của bản thân mình. Ông thường hay tiếp xúc với những người mắc chứng lo âu và bệnh nhân của ông không có tiền sử bệnh tật trước đó. Ông cũng lo lắng về cảm nhận của người bác sĩ nội khoa đồng nghiệp – liệu ông ta có cười mình không? Khi hai người gặp mặt, bác sĩ nội khoa của Mark không có lý do để cười. Mark không hề bị mắc chứng lo âu, mà anh có vấn đề với phổi. Biện pháp điều trị được tiến hành ngay lập tức và tình trạng của Mark đã được cải thiện”.
Câu chuyện sau đây được đăng trên tạp chí y học Oregon Nurse số ra tháng 9/2013:
“Một bệnh nhân nữ mới được phẫu thuật chuyển đến phòng cấp cứu để bù nước. Cô đã bị ngất vào sáng sớm hôm đó và đã được bác sĩ kiểm tra. Nhịp tim của cô ở mức 133 nhịp/phút khi mới đến viện. Sau khi được truyền tĩnh mạch, nhịp tim của cô đã ổn định ở mức 108 nhịp/phút.
Với các kết quả thí nghiệm và thể chất bình thường, bác sĩ đang cân nhắc cho bệnh nhân xuất viện. Tuy nhiên, một bác sĩ lâm sàng khác cùng tham gia lại cho rằng có thể nhịp tim cao như vậy là dấu hiệu tiềm tàng của huyết khối (cục máu đông) trong phổi, mặc dù bệnh nhân không có biểu hiện đau tức ngực.
Bác sĩ lâm sàng đó tiếp tục theo dõi những dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân và cuối cùng nhận thấy mức độ bão hòa khí ôxy trong máu bắt đầu giảm. Bác sĩ này thảo luận những dấu hiệu đáng lo ngại với một bác sĩ khác, người sau đó đã quyết định tiến hành xét nghiệm thêm. Các xét nghiệm cho thấy những cục máu đông có ở cả hai lá phổi, từ đó xác nhận linh cảm ban đầu của bác sĩ lâm sàng thứ hai là đúng”.
BS Trisha Greenhalgh, Giáo sư về Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Bệnh viện Royal Free và tại trường Đại học Y ở London, Anh, đã chia sẻ câu chuyện sau đây trên bài báo của bà có tựa đề “Trực giác và Bằng chứng – bạn đồng hành khó khăn?” (Intuition and Evidence—Uneasy Bedfellows?), được đăng tải trên tạp chí The British Journal of General Practice vào năm 2002:
“Vào một ngày nọ, một bác sĩ ở Cardiff, Wales đã nhận được cuộc gọi từ một người mẹ đang lo lắng vì đứa con gái 3 tuổi của cô bị tiêu chảy và cư xử khác thường. Bác sĩ đó biết khá rõ về gia đình này và ông rất quan tâm đến nỗi đã hủy bỏ cuộc phẫu thuật vào buổi sáng để ngay lập tức ghé thăm gia đình đó.
Dựa trên linh cảm của mình, ông đã chẩn đoán chính xác và điều trị thành công một trường hợp viêm màng não do vi khuẩn cầu não gây ra chỉ dựa trên hai triệu chứng không rõ ràng được miêu tả qua điện thoại”.
Ngày có sao Sát cống tốt nhất cho làm nhà (chú ý tìm hiểu tuổi gia chủ xem tương sinh tương khắc). Dân gian Việt Nam từ lâu đã có câu : “Lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. Làm nhà thường tránh gặp những năm: Kim Lâu , Tam Tai , Hoang Ốc

| Kim Lâu |
|
| Tam Tai |
|
| Hoang Ốc |
|
1-Chuẩn bị mua sắm lễ vật theo hướng dẫn của Thầy cúng:
Bàn thờ và bát hương mua về trước khi bày đặt phải được lau chùi, rửa tẩy sạch sẽ bằng nước ngũ vị hương. Mỗi một bát hương để bốc lập thờ cần có: 1 thất bảo, 1 giây chỉ ngũ sắc, 2 đồng xu là tiền âm dương bằng đồng; 1 tờ giấy châm kim màu vàng vuông rộng từ 35-40 cm, 1 túi giấy bóng vuông ( để gói bài vị gồm 1 thất bảo, 1 giây chỉ ngũ sắc, 2 đồng xu tiền âm dương bằng đồng. khi gói bài vị phải nhớ phần trên và phần dưới để tránh đặt ngược bài vị. Gói đặt đứng bên trong bát hương, mặt tên và phía trên áp sát mặt nguyệt phía trước của bát hương), 1 quả cau, 1 lá trầu đẹp ( gói đặt dưới đáy bát hương) tuỳ theo bát hương to nhỏ mà chuẩn bị lượng tro sạch vừa đủ để đổ vào bát hương; tro thường được lấy từ cành lá chuối khô đem đốt là tốt nhất, bởi vì lá chuối héo khô vẫn không rời thân cây thể hiện như lòng hiếu nghĩa vẹn tình của con người, hoặc dùng rơm chấu sạch đốt lấy tro rây mịn. Mua 6 con ngựa kèm theo ngựa có đủ mũ cờ kiếm giầy áo quần gồm các màu: Ngựa đỏ 2, ngựa trắng, xanh, vàng, tím mỗi màu 1 con cùng 5 tập tào quan, 5 tập giấy tiền, 5 tập vàng lá, 5 loại nến 5 màu để cắm đốt theo ngựa màu nào đốt nến đó, hương 10 bó. Mua ngũ vị hương 3 gói, lấy nước sông lớn sạch cho vào ấm đun dùng các việc: 1 bát để thầy cúng làm lễ; phần nữa để tuỳ theo nhà to hay bé mà để 1,2,3 bát để vẩy tẩy uế 3 gian nhà hay 3 tầng nhà khi lễ xong; để 5 bát con rồi đổ chung và 1 chậu hoà 5 loại đất lấy ở 5 nơi mỗi nơi một ít gồm: (Đất ở chùa, đất chợ, đất miếu, đất đền, đất ngã ba đường) nghiền bóp nhỏ để hoà tan vào nước ngũ vị hương để đọng cặn gạn chia 5 bát nước mỗi bát ghi rõ tên từng hướng đông, tây, nam , bắc và ở giữa, 5 bát nước cúng xong đặt giữa nhà 1 bát, 4 hướng nhà 4 bát theo 5 con ngựa, 5 mũ, 5 lễ tiền vàng 5 màu cụ thể ngựa đỏ (đặt ở hướng nam), ngựa trắng( đặt ở hướng tây), ngựa vàng (đặt Chính giữa nhà ), ngựa tím ( đặt ở hướng bắc), ngựa xanh ( đặt ở hướng đông) khi cúng lễ xong mang ngựa ra các hướng hoá đốt cháy hết ngựa, mũ, giầy cờ kiếm …tiền vàng thì lấy nước ở bát hướng đó vẩy nước vào tro đã hoá. Mua hoa hồng đỏ 10 bông để cắm làm 2 lọ hoa mỗi lọ 5 bông, 3 đĩa hoa đặt ở 3 bàn lễ, 10 quả cam, 10 quả đào, 3 nải chuối, 3 quả thanh long, 3 quả táo, oản chay 5 đĩa, xôi 6 đĩa, gà 1 con, thịt lợn luộc 1kg chia cắt 3 đĩa, rượu bia, chè, thuốc, 1 bát gạo, 1 đĩa muôí, 3 ngìn hàn the, tiền thật tuỳ điều kiện mà chọn 15đồng, 17, 19, 21 hoặc 35 đồng tiền lẻ mới đặt các bàn lễ và 2 bát gạo hoặc 2 cốc gạo dùng để cắm hương khi lễ.
2- Bầy đặt lễ nhập trạch: Người Việt lập bàn thờ để làm lễ nhập trạch thường thuận theo hướng nhà vì hướng nhà đã được cân nhắc lựa trọn 1 trong 4 hướng tốt nhất để toạ và quay về hướng tốt đặt cửa chính ( thường gọi là cửa đại hội). Bàn làm lễ phải được lập làm 3 tầng thường gọi là tam cấp; Trên cùng là Bàn Thờ Phật bầy lễ chay gồm hương hoa quả phẩm oản bánh kẹo chè thuốc tiền vàng; tầng 2 thờ đặt lễ vật cúng các vị thánh gồm Ngũ Phương Long Trạch, Thập Vị Kim Cương, Đặt 5 hộp giá mũ từ trái sang phải gồm (1) MŨ ĐỎ ( hướng nam), (2) MŨ TRẮNG ( hướng tây), (3) MŨ VÀNG( Chính giữa), (4) MŨ TÍM ( hướng bắc), (5) MŨ XANH ( hướng đông) thắp theo mũ là nến màu nào đặt vào trước mũ màu đó Đặt gà luộc, xôi, rượu hoa quả bánh kẹo chè thuốc trước mũ; tầng dưới cùng cúng lễ vật dâng thổ công, thổ địa, thổ kỳ, táo phủ thần quân gia trạch bản địa bầy một mũ đỏ của thổ công, 5 lễ tiền vàng thuận theo 5 màu mũ tầng trên tương ứng, thắp nến tương ứng như hàng trên để thổ công nhận từ gia chủ dâng giử thánh thần; bàn thờ thổ công có bia, rượu, thịt, xôi, cau trầu, chè, thuốc, nước. 6 con ngựa đặt chầu ngoài cạnh bàn lễ cũng theo thứ tự trên, bát hương , bài vị để trước mặt thầy cúng để làm lễ. 3- Chuẩn bị đồ chuyển nhà: Việc chuyển nhà đã được ấn định chính xác đến từng giờ và từng khắc ví dụ giờ thìn từ 7 h đến 9 h thường chọn 7h 5phút – 7h 15 phút đầu thìn; hay 8h5 phút hoặc 8h15 phút là giữa thìn. Khi chuyển cần mang ngay những thứ cần thiết mà phải đủ tối thiểu cho cuộc sống, có đại diện cho ngũ hành 5 thứ kim mộc thuỷ thổ hoả gồm: Bếp, ấm đun nước, nồi nấu cơm, gạo, muối, quần áo, dao, thớt, giường, tủ bàn ghế, ti vi…chổi quét nhà.
làm việc đều phải kê ở vị trí chỉ huy. Vì vậy, nếu chúng ở chung một phòng, một hoặc cả hai món đồ chủ chốt có thể cùng nằm ở vị trí không tốt. Nếu kê bàn làm việc trong phòng ngủ, hãy dùng bình phong hay màn che để che tâm nhìn từ giường tới bàn làm việc.

Dụng cụ tập luyện cũng “gây rối” trong phòng ngủ, dù nó có nằm dưới đống quần áo hàng tháng trời. Về tiềm thức, nó sẽ nhắc nhở bạn tập luyện cả khi bạn phải ngủ. Thêm vào đó, dụng cụ luyện tập vốn tích bụi trong hàng tháng có thể gây cho bạn cảm giác tội lỗi vì không rèn luyện cơ thể tin không vui vì các bộ phim hài chiếu muộn đều có khả năng ảnh hưởng đến năng lượng của bạn rất lâu sau khi tắt tivi. Nếu cảm thấy cần phải có tivi trong phòng ngủ, hãy đế nó trong tủ có cữa hoặc dùng khăn hay mảnh vải hấp dẫn để che nó vào ban đêm.
Hãy đảm bảo là vật đầu tiên bạn nhìn thấy khi bước vào phòng ngủ và bất cứ vật gì bạn nhìn thấy khi nằm hoặc ngồi trên giường là những hình ảnh mang lại cảm giác yên bình và thư giãn. Khu vực ngang giường ngủ là chỗ thích hợp đế treo tranh ảnh hay hình nghệ thuật cắt dán tượng trưng cho những điều và trải nghiệm mà bạn muốn hút vào cuộc sống của mình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
![]() |
Làm thế nào để mèo Thần Tài hút càng nhiều tiền bạc?| ► Xem tướng số biết vận mệnh của bạn chuẩn xác |
Nhẫn là đồ trang sức được sử dụng phổ biến trong đời sống, đặc biệt là dùng để tượng trưng cho sự gắn bó, kết đôi, cho hôn nhân và hạnh phúc. Nhưng ít người biết rằng đeo nhẫn theo phong thủy còn có tác dụng chiêu tài, khai vận, đặc biệt có lợi cho vận trình tài lộc của chủ nhân nữa đấy.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
ủa phòng làm việc, tiếp đó sẽ ảnh hưởng đến tài vận.
Cửa là vị trí tiếp nhận lấy vượng khí, nên nhớ rằng không nên đặt bình phong, để tránh sự ngăn cản đi vào của vượng khí, cũng như không chắn tài vận. Trừ khi cần thiết, có thể ở vị trí cửa vào. Đặt một cửa phòng kiểu tuần hoàn, để làm thành khu vực giảm xung khí. Cửa nên được thiết kế thành bức bình phong hoa lá thấp, bên trên có thể đặt những bồn hoa cây cảnh. Như vậy cửa phòng vừa mỹ quan vừa đem lại gió tốt, giúp cho trường vượng khí đến. Có điều phải cẩn thận chăm sóc cây cối của bạn, không nên để cho cây khô héo.

Yêu cầu cơ bản của văn phòng tại gia
Bất kể bạn kiêm chức hay là kinh doanh cá thể, đều nên đặt trong nhà mình một gian phòng chuyên dụng, còn có một số người vì sự nghiệp của mình, không thể tránh khỏi việc kiêm nhiệm một số việc mà về đến nhà còn phải chong đèn hay cuối tuần cũng phải làm để hoàn thành. Ví dụ như: giáo viên, kế toán, biên tập tự do về biên soạn. Cho nên văn phòng tại gia vừa cần hiệu quả cao cũng vừa cần thoải mái.
Người Việt tin rằng, đi lễ chùa đầu năm không đơn giản chỉ để ước nguyện, mà đó còn là khoảnh khắc để con người hòa mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao vất vả trong cuộc mưu sinh. Hòa vào dòng người đi lễ, mỗi người trong chúng ta sẽ cảm nhận được sự giao hòa của trời - đất. Mùi khói nhang, sắc màu rực rỡ của đèn, hoa cùng với không gian thanh tịnh của chốn linh thiêng sẽ làm cho lòng người trở nên nhẹ nhàng, thanh thản.
Cũng là lễ chùa đầu năm, nhưng cách thức và nghi lễ ở hai miền Nam - Bắc có những nét khác nhau. Đối với người miền Bắc, khi đi chùa đầu năm thường phải có đồ lễ, hoặc hương hoa. Theo lệ thường, mâm lễ bao giờ cũng đủ cả hương, hoa, tiền vàng và một tờ sớ viết bằng chữ nho, ghi những điều cầu mong của gia chủ cho một năm vạn sự như ý. Đặc biệt, trong lời văn khấn của người miền Bắc thường có vần, có điệu, âm vực thì trầm bổng. Khi thể hiện, lời khấn nghe như thơ, như nhạc ngân nga trong không gian u huyền của đình chùa, tạo nên sự linh thiêng, hư ảo.
Lễ xong, người đi lễ thường xin nhà chùa một thứ gì đó về làm lộc đầu năm. Còn đối với người miền Nam, việc hành lễ đơn giản hơn, đầu năm đi lễ chùa thường không phải đem theo đồ lễ, nếu có cũng chỉ là hoa quả chứ không bao giờ có đồ mặn (xôi thịt) như người miền Bắc. Lời khấn cũng đơn giản, không câu nệ văn vẻ. Người lên chùa ước gì thì cầu đó, không nhất thiết phải dùng sớ bằng chữ nho. Cách khấn như thế người ta hay gọi là khấn nôm.
Tuy phong tục tập quán giữa các miền có khác nhau, nhưng lễ chùa đầu Xuân đã trở thành thói quen, thành nét văn hóa tâm linh của tất cả người Việt. Tại đây, mọi ranh giới về tuổi tác, địa vị đều bị xóa nhòa, tất cả gặp nhau ở miền tâm thức linh thiêng.
Hái lộc Xuân ước phồn thịnh
Ngoài tục lễ chùa, người Việt còn có tục hái lộc vào đêm giao thừa. Theo quan niệm của người xưa, không có loài nào sinh sôi nảy nở và có sức sống mãnh liệt như loài cây. Mỗi độ Xuân về, những chồi non nhú lên thể hiện sức sống tràn đầy sinh lực. Do đó, người ta đi xin lộc đêm giao thừa là để cầu mong có được sức sống dẻo dai, mạnh khỏe và có ích như loài cây. Vào dịp đầu năm, người dân thường ghé lại các đình, chùa để xin một nhánh non đem về treo trước cửa nhà hoặc chưng trên bàn thờ gia tiên với hy vọng rước được phước lộc về cho gia đình. Cành lộc được chọn thường là loại cây có phong cách, dáng dấp của người quân tử, thể hiện được sự bao dung và nhân ái. Cũng theo phong tục cổ truyền và quan niệm của người xưa, lộc Xuân hái từ những cây như đa, sung, xanh, si sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp nhất. Còn hái lộc từ cây tùng, cúc, trúc, mai sẽ mang lại niềm vui, hạnh phúc và sức khỏe cho mọi người trong gia đình.
Nếu ngày xưa, việc hái lộc phải từ những cây ở chùa thì hiện nay, tục hái lộc đã đổi khác và có những phá cách mang tính tích cực. Những năm gần đây, người đi hái lộc đầu Xuân thường hái lộc theo nhiều cách chứ không nhất thiết phải bẻ cành, bứt đọt cây. Lộc Xuân có thể là mua một vài quả khế, cây mía hoặc một chậu cây nho nhỏ… đem về nhà trong ngày đầu năm. Tất cả những điều đó làm tôn lên vẻ đẹp văn hóa truyền thống của người Việt, mãi là một nét chấm phá lung linh trong mùa Xuân của toàn dân tộc Việt Nam !
Lam Điền