Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

5 con giáp dễ bị tổn thương trong tháng 4

Cuộc sống luôn đặt ra những thử thách cho mỗi người, nhưng sau khi vượt qua tổn thương, bạn chắc chắn sẽ mạnh mẽ hơn.
5 con giáp dễ bị tổn thương trong tháng 4

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1. Tuổi Mèo

Trong tháng này, bạn sẽ đối mặt với không ít thách thức, có thể khiến trái tim vốn mong manh của bạn bị tổn thương và đau đớn. Tuy nhiên, đó chỉ là cảm giác tạm thời mà thôi. Lời khuyên cho bạn là không nên chìm đắm trong mớ hỗn độn trước mặt. Bạn cần có cái nhìn thực tế và rộng mở hơn, tích cực đối diện và đi thật chậm rãi từng bước để vượt qua mọi thử thách.

5-con-giap-de-bi-ton-thuong-trong-thang-4

No2. Tuổi Thìn

Trong tháng 4, vài vấn đề trục trặc trong cuộc sống sẽ khiến tâm trạng vốn hồ hởi của bạn bị tuột dốc và bạn sẽ cảm thấy khổ sở. May mắn là người tuổi Thìn thường biết cách tự giải phóng bản thân - câu châm ngôn sống của bạn là “Khi gặp chuyện không vui, phải nhanh chóng tìm niềm vui khác lấp vào”. Tuy nhiên, điều bạn nên nhận thức lại là khi bạn rơi vào bế tắc, thường thì người khác sẽ xót cho bạn chứ hiếm khi có thể đồng cảm được. Người đủ sức giúp bạn vượt qua khó khăn chỉ có bản thân mà thôi. Hãy suy nghĩ thực tế một chút, không nên mượn tạm “phép thắng lợi tinh thần” mà làm cho vấn đề không được giải quyết triệt để.

No3. Tuổi Dần

Dường như rất nhiều vấn đề tồn đọng trong quá khứ luôn bám lấy tâm trí bạn, khiến bạn trở nên yếu đuối hơn trong tháng 4 này. Với tinh thần ủ dột, khi gặp khó khăn trong thời gian này sẽ khiến bạn dễ lúng túng và không đủ sức vượt qua. Tốt hơn là hãy giải phóng cho trái tim, quên đi quá khứ thì bạn mới có sức mạnh lo cho hiện tại và tương lai.

No4. Tuổi Tuất

Trong tháng này, lời khuyên cho bạn là nên yêu quý bản thân mình hơn, không nên suy nghĩ quá nhiều và đừng lúc nào cũng vì người khác mà bỏ mặc chính mính. Thời gian này, bạn sẽ gặp không ít chuyện ngược với mong đợi, thậm chí có thể bị lợi dụng lòng tốt, vì vậy hãy đối xử tốt với bản thân hơn vì bạn xứng đáng được như vậy.

No5. Tuổi Dậu

Bạn không nên có suy nghĩ mình cho đi cái gì thì người khác cũng sẽ báo đáp lại như thế. Cuộc sống khốc liệt và tàn nhẫn hơn nhiều. Thái độ sống tích cực, biết quan tâm và giúp đỡ mọi người là đúng đắn, nhưng không thể không đề phòng những người có tâm địa xấu. Tháng này, dù là chuyện tình cảm hay khía cạnh nào khác, đòi hỏi bạn phải nâng cao long cảnh giác để tránh thiệt thòi về mình.

Khang Ninh ( theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 con giáp dễ bị tổn thương trong tháng 4

Lý luận trọng tâm của phong thủy Trung Quốc là gì? –

Phong thủy học truyền thống cho rằng: Môi trường khách quan là một cái miếu lớn, con người bên trong đó là một cái miếu nhỏ: tất cả những thử trong cái miếu lớn chẳng qua là Ngũ hãnh: Kim, Mộc, Thủy, Hoa, Thổ, Âm dương là một khái niệm theo kiểu Trun

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

g Quốc xa xưa lâu đời, nó không chỉ đơn thuần tồn tại trong phạm vi phong thủy học, mà còn tồn tại trong triết học truyền thống của Trung Quốc cổ đại.

10154034_390352717774629_1445675940_n
Ví dụ cho rằng: Mặt trăng là âm, mặt trời là dương: buổi tối là âm, ban ngày là dương; yếu là âm, khỏe là dương; thấp là âm, cao là dương; lạnh là âm, nóng là dương; sau lưng là âm, trước mặt là dương; ẩn là âm, lộ là dương, cứ từ đó mà suy luận ra, không có gì là không tổn tại.

Sự bắt đầu của học thuyết Ngũ hành lại không bị lẫn lộn trong âm dương, nó có sự phát triển độc lập, đến một trình độ nhất định, lại kết hợp với học thuyết âm dương, biến thành học thuyết âm dương Ngũ hành, trở thành lý luận hạt nhân của phong thủy Trung Quốc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý luận trọng tâm của phong thủy Trung Quốc là gì? –

Tên con trai mang ý nghĩa mạnh mẽ, thành đạt

Để chọn được cái tên hay cho bé trai, hỗ trợ đem đến nhiều thuận lợi, bình an, may mắn và thành đạt cho cuộc sống của bé sau này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên cho con là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các cặp vợ chồng khi chào đón thiên thần bé bỏng của mình. Đối với những bé trai, bố mẹ nào cũng đặt nhiều kì vọng sau này con sẽ mạnh khỏe, giỏi giang, cuộc đời nhiều niềm vui và điều cực kì quan trọng là công danh, sự nghiệp tốt đẹp. Để chọn được cái tên hay cho bé trai, hỗ trợ đem đến nhiều thuận lợi, bình an, may mắn và thành đạt cho cuộc sống của bé sau này, mời các bậc cha mẹ tham khảo những tên đẹp, ý nghĩa cho bé trai năm 2016 Bính Thân dưới đây

ten-dep-cho-be-trai

Tên "Thiên Phú" là mong con được trời ban cho tài năng, tư chất đặc biệt.

Tên "Quang Khải" là những chàng trai thông minh, sáng láng, cuộc đời nhiều niềm vui

Tên "Duy Khôi" là chàng trai trí tuệ, thành đạt vẻ vang

Tên "Tuấn Kiệt" với mong ước con là người xuất chúng trong thiên hạ

Tên "Tuấn Khang" là người tài giỏi, xuất chúng, gặp nhiều phú quý, hưng vượng.

Tên "Tuấn Minh" với mong ước con sẽ là chàng trai thông minh, khôi ngô, tuấn tú.

Tên "Gia Khánh" là chàng trai niềm vui của gia đình.

Tên "Hoàng Bách" là mong muốn con luôn là cây bách mạnh mẽ, vững vàng, trường tồn.

Tên "Hữu Lộc" với mong muốn đường đời của con luôn suôn sẻ, nhiều tài lộc.

Tên "Thiện Tâm" là chàng trai luôn giữ tâm trong sạch, có tấm lòng nhân ái

Tên "Đại Dương" với hi vọng con sẽ là biển cả bao la, rộng lớn.

Tên "Anh Duy" là chàng trai thông minh, sáng láng.

Tên "Anh Hoàng" là chàng trai thông minh, luôn tỏa sáng.

Tên "Phúc Thịnh" với mong ước con sẽ có cuộc đời gặp nhiều phúc đức, hưng thịnh.

Tên "Xuân Trường" mang ý nghĩa mạnh mẽ, sôi nổi như mùa xuân, với sức sống trường tồn.

Tên "Nhật Minh" sẽ là mặt trời rạng rỡ, sáng láng.

Tên "Hạo Nhiên" là chàng trai luôn sống ngay thẳng, chính trực.

Tên "An Tường" với hi vọng con sẽ luôn sống bình an, vui sướng, gặp nhiều may mắn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên con trai mang ý nghĩa mạnh mẽ, thành đạt

Quẻ Quan Âm: Lý Mật Phản Đường

Quẻ Quan Âm thứ 70 Lý Mật Phản Đường đoán rằng ngày nào cũng như con ong mật đi tlm hoa, bôn ba khắp đông nam tây bắc.
Quẻ Quan Âm: Lý Mật Phản Đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 70 được xây dựng trên điển cố: Lý Mật phản Đường hay Lý Mật phản lại nhà Đường.

Thừ quái mật phong thái hoa chi tượng. Phảm sự lao tảm phí lực dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Lý Mật Phản Đường

Cuối nhà Tùy, Tùy Dạng Đế ngày càng ngông cuồng, xa xỉ, hoang dâm, thu thuế nặng nề, vơ vét của dân, khiến dân chúng lầm than khổ cực, nông dân các vùng lũ lượt dựng cờ nối dậy. Năm Đại Nghiệp thứ 12 (năm 616), sau khi cuộc nổi dậy của Dương Huyền cảm chống lại nhà Tùy thất bại, Lý Mật (582 – 619) có xuất thân quý tộc đã chuyển sang đầu quân Ngốa Cương.

Lý Mật có tài thao lược, sau khi Địch Nhượng bên quân Ngõa Cương chọn dùng kế sách của Lý Mật, đã đánh bại Trương Tu Đà là bề tôi đắc lực của nhà Tùy. Do đó Lý Mật chiếm được chỗ đứng vững chắc trong quân Ngõa Cương, đồng thời xây dựng được doanh trại Bồ Sơn Công, doanh trại này do Lý Mật trực tiếp vũ trang. Vì vậy thế lực của Lý Mật trong quân Ngõa Cương dần dần lớn mạnh.

Cùng với những thắng lợi liên tục của quân Ngốa Cương, mâu thuẫn giữa Lý Mật với Địch Nhượng cũng ngày càng sâu sắc. Sau đó Lý Mật bày tiệc rượu mời đám Địch Nhượng, trong bữa tiệc, đã ra tay giết chết Địch Nhượng cùng mấy trăm tùy tùng thân tín. Lý Tích (vốn họ Từ, tên là Thế Tích, tự Mậu Công) bị trọng thương, còn Đan Hùng Tín thì cầu xin mà được miễn tội chết. Sau khi Lý Mật thay thế Địch Nhượng, công thành chiếm đất, chiến công lừng lẫy.

Năm 618 sau Công nguyên, Vũ Văn Hóa Cập giết chết Tùy Dạng Đế, chính quyền nhà Tùy trong tình thế cấp bách, bèn chiêu dụ Lý Mật, lệnh cho Lý Mật tiêu diệt Vũ Văn Hóa Cập. Đúng lúc Lý Mật nghênh chiến với Vũ Văn Hóa Cập, thì nội bộ Đông Đô nhà Tùy cũng xuất hiện phản loạn, Vương Thế Sung lợi dụng binh quyền trong tay mà lũng đoạn triều chính. Lý Mật lại xuất quân nghênh chiến Vương Thế Sung. Lý Mật đoán trước là có người muốn đầu hàng Vương Thế Sung, nên quyết định tương kế tựu kế, khi Vương Thế Sung đang vượt sông Lạc Thủy tiếp ứng cho quân phản loạn, sẽ nổi dậy tiêu diệt Thế Sung. Nào ngờ khi Vương Thế Sung vượt sông Lạc Thủy, binh sĩ thuộc hạ của Lý Mật lại xao nhãng không nhận ra. Đến khi phát hiện ra thì quân đội của Vương Thế Sung đã sang sông lên bờ toàn bộ rồi. Quân của Lý Mật thất bại như núi lở, chỉ còn cách mang theo một tốp người ngựa nhỏ chạy trốn. Lý Mật ban đầu muổn đi đến chỗ Lý Tích ở Lê Dương, nhưng lại cảm thấy không đáng tin, trong lúc không còn đường nào để đi, chỉ có cách cùng VớI Vương Bá Đương quy thuận Lý Uyên.

Sau khi Lý Mật đầu quân về Đại Đường, cho rằng dựa vào địa vị và uy vọng của mình, chắc chắn sẽ nhận được sự ưu đãi của Lý Uyên. Không dè Lý Uyên lại không hề coi trọng Lý Mật, chỉ cho làm một chức quan hư danh là Quang lộc khanh (thời Tần Hán gọi là Quang lộc huân, phụ trách việc canh giữ cửa cung điện. Từ sau nhà Bắc Tề đều gọi là “Quang lộc khanh”, chức trách được mở rộng là chuyên quản lý việc ăn uống trong triều đình cùng yến tiệc, đồ cúng tế trong triều hộl hoặc tế tự), nên trong lòng rất không vui.

Không lâu sau, Lý Uyên nghe nói những vị tướng cũ của Lý Mật trước kia đã đầu hàng Vương Thế Sung, rất nhiều người đều đã đổi ý, nên sai Lý Mật đi chiêu hàng. Lý Mật trong lòng bất mãn, tính kế bỏ đi. Khi chạy đến Thao Dương, Lý Uyên lại sai người hạ chỉ gọi Lý Mật quay về. Lý Mật nghỉ ngờ Lý Uyên không tin tưởng mình, muốn giết mình, vì thế đã phản lại nhà Đường. Dù Vương Bá Đương hết sức khuyên ngăn, nhưng Lý Mật vẫn không nghe.

Lý Uyên đối với Lý Mật quả thực là nửa tin nửa ngờ, nên sai đại tướng Sử Vạn Bảo, Thịnh Nhan Sư cho quân mai phục ở hang núi, giết hết toàn bộ người của Lý Mật và Vương Bá Đương. Khi Lý Mật chết mới có ba mươi bảy tuổi, hang núi mà Lý Mật bỏ mạng sau này được mọi người gọi là “Đoạn Mật giản” (tức là khe suối giết Lý Mật).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Lý Mật Phản Đường

Chùa Gôi - Nam Định

Chùa Gôi hay còn gọi la Chùa Cao thuộc quần thể Phủ Dày, cách từ Thành phố Nam Định đi về phía Tây khoàng 15km thuộc địa phận Thị trấn Gôi
Chùa Gôi - Nam Định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Gôi hay còn gọi la Chùa Cao thuộc quần thể Phủ Dày, cách từ Thành phố Nam Định đi về phía Tây khoàng 15km, trên trục đường QL 10, chùa nằm trên 1 quả núi tên gọi Núi Gôi “Non Côi” thuộc địa phận Thị trấn Gôi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Xưa kia cứ vào thượng tuần tháng ba âm lịch, chính hội là 3/3, du khách thập phương nô nức hành hương về với hội Phủ Dày, nơi thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, người mẹ linh thiêng của dân tộc Việt Nam. Tục thờ Thánh Mẫu có ở khá nhiều nơi như Phố Cát, Đền Sòng (Thanh Hoá ).Nhưng có lẽ tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định ( nơi Mẫu sinh ) là thu hút khách thập phương hơn cả.

Du khách trảy hội Phủ Dày vừa để dự ngày “giỗ Mẹ”, vừa để thoả nguyện tâm linh và được ngắm nhìn một quần thể kiến trúc lăng, chùa truyền thống vô cùng độc đáo.

Hội Phủ Dày thực sự hấp dẫn khách bởi sự đan xen, hoà quyện giữa những nghi thức trang trọng cùng những hoạt động văn hoá dân gian sôi nổi, đặc sắc.

Tiêu biểu nhất trong hội Phủ Dày là nghi lễ “Thỉnh kinh rước nước” rước Thánh Mẫu từ Phủ Chính (Tiên Hương ) lên chùa Gôi ( chùa Cao ) vào ngày 6/3. Đám rước Thánh Mẫu dài gần 1km , rất trang trọng có đội ngũ nhạc, có phường bắt âm. Đến ngày 7/3 sinh hoạt văn hoá “Hoa trương hội”.

Đây là nét độc đáo nhất của lễ hội. Mỗi lần xếp chữ cần khoảng 100 phu cờ, mặc đồng phục, chít khăn đỏ, áo vàng, thắt lưng xanh, quần trắng, xà cạp đỏ. Mỗi người cầm cây gậy khoảng 2 mét. Người điều khiển gọi là tổng cờ. Vào cuộc chủ lễ xin Mẫu ” ra chữ ” sau đó theo nhịp trống chiêng rộn ràng xếp thành những dòng chữ Hán đầy ý nghĩa.

Trải qua những năm kháng chiến trước đây, ngày nay tục lệ ” Thỉnh kinh rước nước ” về chùa Cao ( chùa Gôi ) đã bị mai một mất đi truyền thống đích thực vốn có của nó. Tuy vậy, chùa Cao ( Gôi ) cùng nhân dân địa phương, thập phương với tâm linh tín ngưỡng của mình và sự tưởng nhớ về cội nguồn mà những năm gần đây cứ tới ngày mồng 6 / 3 lại tổ chức ” rước bóng ” từ chùa Lão lên chùa Cao (chùa Hạ lên chùa Cao ) như hiện nay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Gôi - Nam Định

Những điều lưu ý về phong thủy nơi công sở

Không ngồi đối diện trực tiếp với tường lớn; nên đặt tượng gà trống hay sử dụng ánh sáng trắng… là những lưu ý giúp bạn thúc đẩy sự nghiệp.
Những điều lưu ý về phong thủy nơi công sở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tạo khoảng trống sau lưng an toàn

Một trong những yếu tố quyết định sự thành công trong sự nghiệp của bạn chính là tạo một chỗ ngồi an toàn, chắc chắn. Để tránh sự dòm ngó hay những tai nạn bất ngờ, bạn nên đặt chiếc ghế của mình gần hoặc dựa vào tường. Tránh để lưng quay về phía cửa sổ cũng như ngồi đối diện với cửa sổ. Bạn có thể đặt phía sau ghế ngồi những biểu tượng phù trợ cho sự nghiệp như tranh có hình rùa.

2. Tránh ngồi đối diện với bức tường lớn

Ngồi đối diện với bức tường lớn trước mặt là một trong những điểm xấu nhất trong phong thủy văn phòng. Khi đó, mọi cơ hội thăng tiến cũng như phát triển trong nghề nghiệp của bạn sẽ bị hạn chế. Nếu không thể thay đổi chỗ ngồi, bạn có thể treo trước mặt bức tranh phong cảnh rộng lớn hoặc treo hình phượng hoàng đang tung cánh để tạo cảm hứng công việc.

Nhung dieu luu y ve phong thuy noi cong so hinh anh
Bàn làm việc nên có vách ngăn

3. Đặt tượng gà trống trên bàn làm việc

Trong phong thủy, biểu tượng gà trống được sử dụng để thu hút may mắn, thúc đẩy sự nghiệp, ngăn cản năng lượng xấu và hóa giải xung đột, mâu thuẫn. Nếu thường xuyên gặp phải sự ganh ghét nơi công sở, bạn hãy đặt bức tượng gà trống bằng đồng hoặc sứ trên bàn làm việc hoặc đeo một chiếc vòng mã não.

4. Dùng cầu pha lê để hút xung khí

Cầu pha lê có tác dụng vô hiệu hóa những âm khí và xung khí trong văn phòng, vì thế bạn có thể sử dụng món đồ này với mọi kích thước đặt trên bàn làm việc. Những tinh thể trong suốt này có thể giúp bạn đảm bảo sự hài hòa và cân bằng năng lượng của căn phòng, đồng thời tăng hiệu suất làm việc, giảm căng thẳng.

5.  Tránh kê bàn đối diện với bàn khác

Việc phải đối diện liên tục với đồng nghiệp ở một vị trí cố định sẽ khiến bạn cảm thấy bị áp lực, và không có tinh thần thoải mái, làm mất năng suất công việc. Nếu không thể thay đổi vị trí đối diện, bạn có thể bố trí đặt một chậu cây cảnh đủ lớn để hạn chế việc đối diện hay dựng vách ngăn nhỏ giữa các bàn làm việc.

6. Chọn ghế ngồi hợp lý

Ghế ngồi nơi công sở đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo tư thế và tâm thái thoải mái để làm việc. Vì phải gắn liền với chiếc ghế trong một khoảng thời gian dài (trên 8 giờ đồng hồ), bạn hãy chọn cho mình chiếc ghế có nệm êm, tựa lưng và cổ thoải mái và có thể xoay theo nhiều hướng. Trong khi đó, đối với ghế dùng để tiếp khách, hãy chọn loại ít thoải mái để thời gian tiếp không quá dài, không ảnh hưởng đến quỹ thời gian của bạn.

7. Không ngồi quá gần cửa ra vào

Ngồi quá gần cửa ra vào dễ gây ra những sự cố bất ngờ, nguy hiểm. Hãy cố gắng chọn cho mình vị trí có thể quan sát cánh cửa và hoạt động ra vào của mọi người để giúp bạn tránh khỏi những tình huống không được chuẩn bị trước.

8. Đảm bảo ánh sáng hợp lý

Một văn phòng được thiết kế tốt là nơi có ánh sáng hài hòa, đầy đủ. Cửa sổ có khung cảnh đẹp bên ngoài là lựa chọn tốt nhất. Thêm vào đó, hãy bố trí rèm cửa để lượng sáng bên ngoài không quá chói, tránh dư thừa năng lượng dương trong phòng. Đối với những văn phòng xây dựng dưới tầng hầm, nên sử dụng hệ thống chiếu sáng giống ánh sáng tự nhiên, trong đó, ánh sáng trắng là lựa chọn tuyệt vời. Ánh sáng màu vàng sẽ làm chậm hiệu suất công việc.

9. Ngồi đối diện với nguồn sinh khí

Hướng tốt nhất để đảm bảo sự nghiệp, kinh doanh thành công cũng như danh tiếng, địa vị và giàu sang là ngồi đối diện với hướng có sinh khí của mình theo tuổi, mệnh. Hãy hỏi ý kiến của các chuyên gia phong thủy, dùng bản đồ bát quái để tìm hiểu hướng sinh khí của bản thân.

 Theo VnExpress


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều lưu ý về phong thủy nơi công sở

Kiêng kị đối với phòng thờ, bàn thờ –

Tránh bố trí tủ quần áo bên cạnh bàn thờ Trong các điều, nên tránh bố trí tủ quần áo bên cạnh bàn thờ vì trong quá trình sử dụng ngưòi trong nhà có thể sơ ý sẽ làm động bàn thờ, theo phong thủy là không tốt. Trong trường họp không gian quá chật hẹp p

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tránh bố trí tủ quần áo bên cạnh bàn thờ

Trong các điều, nên tránh bố trí tủ quần áo bên cạnh bàn thờ vì trong quá trình sử dụng ngưòi trong nhà có thể sơ ý sẽ làm động bàn thờ, theo phong thủy là không tốt. Trong trường họp không gian quá chật hẹp phải để tủ quần áo bên cạnh bàn thờ thì cần bố trí một khu vực khác để thay quần áo.

Phòng thờ kiêng bị ánh nắng và gió chiếu vào

Một trong những yếu tố nguy hiểm trong phép đặt bàn thờ mà ít chuyên gia phong thủy biết cũng như người dân không hề biết, đó là bàn thờ bị nắng, gió chiếu vào qua cửa sổ và cửa chính.

kieng-ki-ban-tho

Phân tích theo khoa học năng lượng phong thủy thì nắng và gió có chứa nhiều “tia khí đen” và các “xạ khí”, những tia khí xấu này có chứa nhiều dương khí mà dương khí này còn rất xấu, sẽ làm cho phòng không thể tụ được âm khí của người âm khi họ về. Do ngưòi âm muốn về được nhà con cháu thì phải đảm bảo âm khí trong phòng thờ và không bị dương khí cản trở.

Bàn thờ bị ánh nắng chiếu vào hay gió thổi vào sẽ làm cho những người trong gia đình gặp các vấn đề sau:

– Gia đình luôn bất an, vì khi thắp hương mời gia tiên về, không có ai về được, nên người âm tìm mọi cách để làm cho con cháu thay đổi lại bàn thờ, và gây khó khăn cho con cháu trong làm ăn.

– Công việc hay bị đình trệ, họp đồng hay bị hỏng, làm ăn thua lỗ và kém dần.

Những kiêng kị khác

– Không đặt bàn thờ tại nơi nóng bức, nhất là trên tum của tầng thượng hay bị nắng nóng làm cho âm khí không tụ.

– Bên trên phòng thờ (tầng trên tầng có phòng thờ) thẳng lên không được có bể nước, vì nếu có bể nước sẽ phạm Thủy Hỏa tương xung, làm cho người trong nhà ốm đau bất an.

– Không để ti vi hay máy tính trong phòng thờ, vì sẽ có nhiều từ trường làm cho sóng âm không về và tụ lại được.

– Không tự tiện kê chuyển bàn thờ, vì nếu tự tiện kê chuyển vị trí bàn thờ sẽ làm “động” bàn thờ, đây là điều không tốt trong phong thủy.

– Nếu có kê chuyển sang vị trí tốt hơn thì phải làm lễ xin chuyển và xin đài âm – dương thì mới chuyển.

– Không để bàn thờ đối diện với cửa sổ hay thẳng cửa ra vào.

– Phòng thờ không nên làm nhiều cửa, hạn chế có cửa sổ rộng trong phòng thờ.

– Không dùng điều hòa nhiệt độ trong phòng thờ.

– Không để phòng thờ trên tầng thượng có mái tôn, cửa kính hay tường kính, vì có rất nhiều xạ khí từ tường kính, cửa kính.

– Không được để nhiều đồ đạc trong phòng thờ, nhất là các đồ có góc nhọn.

– Phòng thờ mà để tại tầng 1 thì cũng không đưọc để bên trên bể nước ngầm hay bể phốt, vì cũng phạm Thủy Hỏa tương xung.

– Cửa phòng thờ không đối diện với cửa phòng khác, nhất là kiêng kị đối diện với của phòng vệ sinh.

– Không đặt bàn thờ bên dưới là lỗ thoáng hay cửa sổ.

– Không đặt bàn thờ đối diện với cửa chính và cửa sổ.

– Không đặt bàn thờ ngoài tròi.

– Bàn thờ không được dựa vào nhà vệ sinh.

– Bàn thờ không được dựa vào bếp.

– Bàn thờ không được đặt trong phòng ngủ, nhất là phòng ngủ của vợ chồng.

– Bàn thờ kiêng kị bị dầm nhà đè xuống.

– Không được để vật nhọn xung chiếu vào bàn thờ.

– Không để các linh vật thú dữ trong phòng thờ: Sư tử, hổ, chó, kỳ lân.

– Bàn thờ đại kỵ đặt ở lối đi

– Bàn thờ đại kỵ dùng gỗ đã dùng rồi.

– Bàn thờ đại kỵ đặt trên nóc tủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kị đối với phòng thờ, bàn thờ –

Vận may không tốt cần ngó lại phong thủy

Mặc dù cũng không ít người không tin vào phong thủy cho lắm thế nhưng đó là những kinh nghiệm của người xưa để lại, việc tin hay không tin đó là do cá nhân mỗi người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rất nhiều người chỉ sau khi mua xong nhà thấy việc gì cũng không thuận buồm xuôi gió hoặc chuyển đồ đạc đến nơi ở mới rồi mới thấy xui xẻo, lúc đó mới có cảm giác hối hận. Vậy bạn có biết đã có điều gì xảy ra hay không? Việc chọn nhà không chỉ cần khoa học mà cũng cần chú ý cả phong thủy nữa. Trước khi bạn chọn mua một ngôi nhà hay dọn đến một nơi ở mới hãy thử chú ý những vấn đề cấm kỵ sau đây nhé:

 van may khong tot can ngo lai phong thuy - 1

1. Nơi bạn đến ở có gần chùa đền hay miếu thờ, nghĩa trang, bệnh viện, nhà tang lễ, các lò giết mổ, nhà giam, bãi rác, cây xăng hay không? Những nơi này là nơi âm khí rất nặng, làm tiêu tán tất thảy những vận may của bạn.

2. Nhà nằm sát trạm biến thế, cột điện cao áp và tháp vô tuyến điện. Bởi những nơi này sẽ sinh ra nhiều từ trường, sóng bức xạ lớn, nó không chỉ ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh của con người mà còn phá hoại cả hệ thống miễn dịch của cơ thể.

3. Nhà nằm gần chân cầu vượt, đường quốc lộ, đường sắt. Những phương tiện giao thông trên đường cao tốc sản sinh ra lượng tạp âm lớn và cả những lực hút lớn khi nó di chuyển với tốc độ cao. Điều này sẽ gây hại không chỉ với kiến trúc của ngôi nhà mà còn ảnh hưởng tới cả sức khỏe tinh thần của gia chủ, phá vỡ con đường tài vận của bạn.

4. Nhà xây trên sườn núi hoặc nơi địa hình dốc. Không chỉ không an toàn, kiên cố mà còn mang ý nghĩa trôi tiền hụt của, phân ly. Đứng trên góc độ phong thủy mà nói thì cầnchọn lựa nơi có địa thế bằng phẳng, không gian mở, thoáng đãng mới hợp lý.

5. Kiến trúc chủ yếu của ngôi nhà là hình tam giác. Việc ở một nơi có điều kiện phong thủy như vậy trong thời gian dài sẽ dễ ảnh hưởng đến vận may của gia chủ. Không chỉ không tiết kiệm được diện tích mà thậm chí nhiều phần diện tích sẽ không bao giờ sử dụng đến. Trên góc độ phong thủy thì một căn hộ như thế thuộc vào dạng đại bất lợi.

 van may khong tot can ngo lai phong thuy - 2

6. Kiến trúc chủ yếu là căn phòng hình đa giác. Ở lâu dài trong một nơi như thế này sẽ khiến gia chủ đầu óc càng ngày càng không minh mẫn, không có chủ kiến, nghe bên đông lại nhòn bên tây, việc gì cũng không làm đến nơi đến chốn.

7. Kiến trúc ngôi nhà giống hình con dao. Đó là chỉ hình dạng của một ngôi nhà giống như hình cái kiếm hoặc con dao, một ngôi nhà như vậy tồn tại khuyết điểm cực kỳ lớn, không đủ ánh sáng, không thông gió, chủ yếu ánh sáng có được là ánh sáng nhân tạo. Phong thủy cực kỳ cấm kỵ điều này, tốt nhất nên tránh xa.

8. Kiến trúc ngôi nhà giống hình khẩu súng. Nhìn sơ đồ thiết kế cả ngôi nhà giống như một khẩu súng chuẩn bị lên nòng, đó cũng là một thiếu sót cực kỳ nghiệm trọng, tuyệt đối không có lợi chút nào cho gia chủ. Bạn cũng nên tránh xa ngôi nhà như thế này.

 van may khong tot can ngo lai phong thuy - 3
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận may không tốt cần ngó lại phong thủy

Những đặc điểm nổi bật của doanh nhân tuổi Thân

Doanh nhân tuổi Thân là những người sinh năm 1956, 1968, 1980, 1992... Họ thông minh, hoạt bát, vui tính. Đây cũng là những người có hiểu biết sâu rộng.
Những đặc điểm nổi bật của doanh nhân tuổi Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Doanh nhân tuổi Thân là những người sinh năm 1956, 1968, 1980, 1992... Họ thông minh, hoạt bát, vui tính. Đây cũng là những người có hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực của đời sống.

 
doanh nhan tuoi than
 

Doanh nhân tuổi Thân có tính kiên định. Dù phải đối mặt với tình thế khó khăn, nguy hiểm nhưng họ không hề nao núng, dao động. Trái ngược với doanh nhân tuổi Hợi vốn tính ôn hòa, doanh nhân tuổi Thân là người ưa tranh đấu. Tuy nhiên, họ thường giữ bí mật về các kế hoạch của bản thân và vì vậy thường nắm được thế chủ động trước đối phương trong các dự án đầu tư làm ăn. 

Người tuổi Thân không chỉ giỏi trong lĩnh vực kinh tế mà còn là những nhà hoạt động xã hội xuất sắc. Họ luôn có phương pháp tiến hành công việc hợp lý để đạt hiệu quả cao. Đây cũng là những người khá sòng phẳng trong cuộc sống. Vốn tính thông minh, người tuổi Thân luôn tự tin và điều này đôi khi khiến họ trở nên chủ quan. 

Doanh nhân tuổi Thân hợp với người tuổi Tý, tuổi Thìn và không hợp với người tuổi Tỵ, Dần.

(Theo Việt Báo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những đặc điểm nổi bật của doanh nhân tuổi Thân

Mẹo phong thủy cho tình yêu thăng hoa trong Giáng Sinh

Một mùa lễ hội lãng mạn lại sắp tới gần, người có đôi có cặp hay vẫn còn cô đơn hãy nhanh tay áp dụng ngay những mẹo phong thủy giúp tình yêu thăng hoa trong
Mẹo phong thủy cho tình yêu thăng hoa trong Giáng Sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một mùa lễ hội lãng mạn lại sắp tới gần, người có đôi có cặp hay vẫn còn cô đơn hãy nhanh tay áp dụng ngay những mẹo phong thủy giúp tình yêu thăng hoa trong Giáng Sinh này. 


► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết hai bạn có hợp nhau không

Meo phong thuy cho tinh yeu thang hoa trong Giang Sinh hinh anh
 
1. Trang hoàng lại phòng ngủ 
 
Nếu muốn thu hút đào hoa trong Giáng Sinh này, hãy giành thời gian trang trí lại phòng ngủ của bạn bằng những gam màu ấm áp, vượng đào hoa như đỏ, hồng, vàng hoàng yến. Tuy nhiên, tránh dùng màu đỏ thẫm, vì không tốt cho sức khỏe của chủ nhân. Những màu trung tính như xanh lam, xanh lục không có lợi cho đào hoa.
 
2. Kê lại giường ngủ
 
Mẹo phong thủy giúp tình yêu thăng hoa trong Giáng Sinh rất đơn giản mà lại hiệu quả là thay đổi giường ngủ của bạn một chút. Cô gái còn độc thân thì kê giường dựa vào tường để mau chóng tìm được chỗ dựa cuộc đời. Chàng trai độc thân thì đổi chăn gối thành màu cà phê, nâu trầm.
 
Muốn có hỷ sự, kích hoạt ngay sao Hồng Loan, Thiên Hỷ
Mãi chưa tìm được người thương, chuyện hôn nhân chậm trễ dù đã tích cực, chủ động, cố gắng rất nhiều? Ấy là vì bạn chưa biết cách kích hoạt sao Hồng Loan và
3. Gia tăng đào hoa ở vị trí giữa nhà
 
Vị trí giữa nhà thông thường là phòng khách. Nếu Giáng Sinh này bạn muốn tìm thấy người thương thì nơi đây nên đặt một vài đồ vật trang trí nhỏ màu hồng như đèn, hoa. Những vật trang trí màu đỏ - màu của Giáng Sinh cũng rất có lợi cho vận đào hoa của bạn. Tích cực trang hoàng phòng khách không chỉ mang không khí lễ hội tới nhà mà còn mang tình yêu tới nữa đấy.
 
4. Bố trí lại đầu giường ngủ
 
Đến thời điểm Giáng Sinh, hãy áp dụng phong thủy tăng đào hoa vận bằng cách đổi vị trí đầu giường ngủ. Nếu đầu giường đang kê sát cửa sổ thì kê lại cho xa ra để tránh những từ trường có hại quấy nhiễu mà đào hoa vận cũng bay đi. Thêm vào đó, để tình cảm không bị hao hụt, tránh kê giường quay đầu về hướng Tây.   Trần Hồng (Theo k366)


Xem Clip "Chìa khóa mở cửa hạnh phúc" tìm thấy tình yêu trong đêm Giáng Sinh
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo phong thủy cho tình yêu thăng hoa trong Giáng Sinh

Bói tướng số - Đoán tính cách qua dáng đi - Xem dáng đi đoán tính cách

Mỗi người đều có tư thế đi của mình. Tuy tư thế này trên mức độ rất lớn là do hình thể mỗi người khác nhau tạo nên, nhưng căn cứ vào bước đi, nhịp đi hoặc những đặc điểm khác mà nói, cũng vì mọi người có tâm tính và bẩm sinh khác nhau nên mơi có tư thế đi khác nhau.
Bói tướng số - Đoán tính cách qua dáng đi - Xem dáng đi đoán tính cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có thể khẳng định rằng, tâm trạng, tính tình hoàn toàn có thể thay đổi tư thế đi của một người. Khi nhịp đi của người đó nhanh hơn bình thường, chúng ta có thể đoán rằng anh ta đang phấn khởi ; nếu một người đi lang thang thì nhất định anh ta đang bị cú sốc nào đó ; nếu một người đi hai vai rũ xuống, bước đi nặng nề thì khẳng đình trong lòng anh ta cũng đang nặng trĩu.

Vậy bước đi, nhịp đi hoặc tư thế đi cụ thể của một người trong giao tiếp thường ngày đại biểu cho những đặc trưng tính cách và hàm nghĩa tâm lý cụ thể gì ?

* Dáng đi chữ bát: Đi chữ bát tức là khi đi hai gót bàn chân hướng vào hai đầu bàn chân hướng ra thành hình chữ bát. Khi đi tuy dùng lực, nhưng tỏ ra rất vội vàng, nửa thân trên hay lắc sang trái sang phải. Dáng đi này có hàm nghĩa tâm lý và đặc trưng tính cách như sau:

- Tính cách bảo thủ: Nói chung dáng đi chữ bát không đẹp tí nào, nhưng vì họ đã quen đi như thế, điều đó chứng tỏ: trong cuộc sống dù phát sinh sự việc gì họ cũng có thái độ chấp nhận. Họ không dễ dàng thay đổi hành vi của mình. 

- Không thích giao tiếp: Về điểm này, hiện nay vẫn chưa có một cách nói chuẩn xác, nhưng nhìn chung loại người này có đầu óc thông minh: làm việc khoa học mà không ồn ào. Có thể vì đầu óc thông minh nhưng tư thế đi không đẹp đã tạo cho họ thích kiểu đi lặng lẽ một mình này

* Dáng đi lắc đảo: Dáng đi lắc đảo tức là bước đi rất tuỳ tiện, nói chung không có quy luật cố định nào. Có lúc họ đút hai tay trong túi, hai vai rụt lại mà đi; có lúc đánh tay thoải mái, ưỡn ngực. Qua bước đi của loại người này ta có thể đoán biết được thế giới nội tâm của họ như sau:

- Tính cách hào phóng: Loại người này có tính cách giống như cách đi của họ, rất hào phóng, không câu nệ tiểu tiết. Xưa nay họ không vì những lời khen, chê của người khác mà thay đổi hành vi của mình. " Đi theo cách của mình, ai nói gì kệ họ" là qui tắc hành động của loại người này.

- Mong muốn cao xa: Người đi kiểu này nói chung rất thông minh. Họ có ý chí tạo dựng sự nghiệp, ước mong cao xa. Nhưng nhược điểm là có lúc quá đề cao vai trò của mình, vì thế mà hay tranh chấp, đặc biệt trong trường hợp họ có lý thì không dễ gì nhường nhịn người khác.

* Đi có tiếng dội: Đi có tiếng dội tức là chân đặt lên đất có tiếng kêu, khi đi ưỡn ngực, bước đi hơi nhanh. Người đi kiểu này có những hàm nghĩa tâm lý và đặc điểm tính cách sau:

- Giàu chí tiến thủ: Loại người này giàu chí tiến thủ. Tính cách giống như bước đi, cho người khác thấy rõ bản thân, họ thường không dấu giếm khuyết điểm của mình. Làm việc gì cũng đều coi trọng kết hợp giữa lý trí và tình cảm.

- Đầu óc tản mạn: Người đi kiểu này, có một số người tinh thần tản mạn. Tuy trong lòng ôm ấp chí lớn, nhưng không chủ động tiến thoái mà thường có thái độ "đã thế thì đành sống thế".

* Dáng đi thẳng: Dáng đi thẳng tức là khi đi chân và tay song song nhau, người không lắc đảo, gây cho người khác cảm giác họ có tác phong nho nhã. Người đi kiểu này có tính cách hướng nội điển hình. Nói chung loại người này nhút nhát, bảo thủ, thiếu ý chí rộng lớn. Điều đáng nói là gặp việc họ thường bình tĩnh, không dễ cáu giận. Cho nên họ giao tiếp tốt với người khác.

* Dáng xung phong: Thông qua tên gọi chúng ta cũng có thể tưởng tượng được dáng đi tiên phong là: bước chân nhanh, không lùi, cho dù chỗ chen chúc đông người hay chỗ yên tĩnh, vắng lặng. Loại người này khẳng định có tính cách nóng vội. Họ thẳng thắn, bộc bạch, thích giao kết bạn bè, ham nói chuyện, tuy nhiên tính cách nóng vội. Điều khiến người khác yên tâm là họ không làm sai lời hẹn.

* Dáng đi song song: Dáng đi song song tức là chân bước chậm, giống như sợ trước mặt có hố sâu bất ngờ. Loại người này tính cách khá nhu nhược. Khi gặp việc thường đo trước đắn sau. Nhưng loại người này có cái tốt là nặng về tình cảm, có thể chọn làm bạn.

* Dáng vừa đi vừa xem: Vừa đi vừa xem tức là dáng đi chậm chạp, thỉnh thoảng nhìn sang phải, ngó sang trái. Người đi kiểu này có hàm nghĩa tâm lý và đặc điểm tính cách sau:

- Không có chí lớn: Loại người này điển hình là không có chí lớn. Họ thích sống đơn độc. Đặc điểm nổi bật của họ là không thích giao tiếp bạn bè, hiệu suất công tác thấp.

- Ngưỡng mộ hư vinh: Trong cuộc sống hiện thực, loại người này thường hay ngưỡng mộ những điều xa xôi, không làm việc một cách chắc chắn, thực sự. Tuy họ có tính hiếu kỳ, nhưng đáng tiếc là không có tính kiên nhẫn, thiếu ý chí bền bỉ. Loại người này trong cuộc sống ít thành công.

* Đi treo chân: Đi treo chân tức là đi như nhảy, hầu như gót chân không chạm đất. Người đi kiểu này có đặc trưng hàm nghĩa tâm lý sau:

- Làm việc không chắc chắn: Tính cách loại người này giống như tư thế đi : trôi nổi, không có lực. Làm việc không chắc chắn. Tuy trong cuộc sống họ gặp được dịp tốt nhưng đều bỏ lỡ trong sự vội vàng, cập rập.

- Tính tình không ổn định: Loại người đi như thế thường là người rất thông minh, nhưng ý chí bạc nhược, tính tình không ổn định. Họ thường làm việc đầu voi đuôi chuột một cách không tự giác, vì vậy dễ mất tín nhiệm đối với người khác.

* Dáng đi lay người: Tư thế đi lay động, lắc lư như cây liễu gặp gió, trong mệnh tướng học cổ gọi là "rắn bò". Tư thế đi này có những đặc điểm tính cách sau.

- Hay giả vờ: Người đi như thế hay làm vẻ giả vờ. Họ làm việc nói chung không có tinh thần trách nhiệm.

- Độ tin cậy thấp: Người đi kiểu này phần nhiều gian trá. Cho dù là làm việc hay trong giao tiếp đều gây cho người khác cảm giác khó tin cậy. Làm bạn với loại người này phải rất cẩn thận, nếu không dễ bị thiệt

* Dáng đi lang thang: Dáng đi lang thang tức là bước đi thất thểu, lúc lên trước, lúc như lùi về sau. Loại người này thường là người sôi nổi. Đặc trưng tính cách của họ là ý chí bạc nhược, làm việc cẩu thả, vô ý. Tuy họ an phận giữ mình, nhưng cũng có quy tắc nhất định. Tuy tư tưởng đơn giản, nhưng làm việc cũng thường kín đáo.

* Dáng đi chắp tay sau lưng: Người đi kiểu này có hàm nghĩa tâm lý sau:

- Tính cách ôn hoà, hơi có thành tích: Loại người này trong sự nghiệp có những thành đạt nhất định. Nói chung tính cách của họ tương đối ôn hoà. Tư thế đi thể hiện lòng họ như cảm thấy tự mãn và thoải mái sau khi đã đạt được thành tích nào đó.

- Thích làm thầy người khác: Người đi theo tư thế này còn có ý thích làm thầy người khác. Vì dáng đi chắp tay sau lưng thường để lại cho người ta ấn tượng là người tự cao tự đại, loại người này quả thực đúng như thế.

* Dạng đi cúi đầu: Đi cúi đầu tức là khi đi đường đầu hơi cúi xuống, chân bước chậm. Người đi kiểu này có đặc điểm tính cách và tâm lý sau:

- Tính cách hướng nội: Loại người này tính cách hướng nội, ngoài đời thường không chủ động, cho nên ít bạn tri âm.

- Suy nghĩ sâu sắc: Loại người này suy nghĩ chu đáo. Tục ngữ có câu: "Ngửa mặt là bà già, cúi đầu là hảo hán", hảo hán đây chính là loại người này. Nói chung họ không muốn nhìn trực diện vào người khác và cũng không muốn người khác nhìn thấu tâm can mình, cho nên họ thường hay cúi đầu.

* Dáng đi vội vàng: Dáng đi vội vàng tức là khi đi đường chân bước vội vàng, bước chân nặng nhưng không loạn nhịp. Người đi như thế có đặc điểm tính cách cởi mở, bụng thẳng miệng nhanh, có tài nǎng lãnh đạo. Nhưng có lúc vì tính tùy tiện của mình mà làm tổn thương đến người khác.

* Dáng đi tự mãn: Dáng đi tự mãn tức là khi đi đường mặt hơi nâng lên, nhịp tay vung vẩy thoải mái, hai chân hơi cứng, bước đi thận trọng. Người có dáng đi như thế có đặc điểm tự cao tự đại điển hình. Dáng đi đó phản ánh chân thật thế giới nội tâm. Họ muốn thông qua cách đi đó để gây ấn tượng sâu sắc cho người khác.

* Dáng đi như vác nặng: Dáng đi như vác nặng có tư thế điển hình sau: hai vai hơi nhô lên, đầu hơi chúi về phía trước, mắt như nhìn xuống chân. Người đi đường như thế có các đặc điểm tính cách, tâm lý sau.

- Tự ý thức về mình sâu sắc: Loại người này tự ý thức mạnh mẽ. Nói chung họ ngưỡng mộ hư vinh. Ngoài đời họ quá tự tin, hay ǎn to nói lớn, dễ mắc lỗi nên thiếu bạn tri âm.

- Cô độc và đau khổ: Người đi đường với tư thế ấy vì không nhìn thẳng vào cuộc đời cho nên cũng không nhìn thẳng vào mình, thường rơi vào hoàn cảnh cô độc và đau khổ.

* Dáng đi còng lưng: Dáng đi còng lưng điển hình là nửa thân trên hơi hướng về phiá trước, để bảo đảm cho mắt nhìn được xa hơn thì phải ngẩng mặt lên. Người có kiểu đi như thế thường có đặc điểm tính cách và tâm lý sau:

- Không có lý tưởng cao xa: Loại người này nói chung không có lý tưởng rộng lớn, đối với tương lai cũng ít hy vọng, đối với chung quanh thiếu nhận thức tỉnh táo.

- Mơ màng, hồ đồ: Loại người này đối với mọi việc chung quanh thường có thái độ bi quan, thất vọng. Làm việc gì cũng không có kế hoạch chu đáo. Họ thường làm theo cảm tính, suốt ngày sống một cách hồ đồ.

* Đi từ từ chậm chạp: Dáng đi từ từ chậm chạp là tư thế đi : miệng hơi mở, hai tay buông thõng, tuy mắt nhìn phía trước nhưng nhãn thần bất định, tỏ ra rất mơ màng. Người đi như thế thường có đặc điểm tính cách và tâm lý sau.

- Đù đờ như người nộm: Loại người này điển hình là đù đờ không có hồn. Họ thường để lại cho người khác ấn tượng không có sinh khí, thiếu sức sống, đối với mọi việc chung quanh thờ ơ, không quan tâm, đồng thời thiếu khả nǎng ứng phó khi gặp sự biến.

- Có sức mạnh tích tụ: Người đi đường như thế nội tâm tiềm tàng nǎng lượng tích tụ. Có lúc nguồn nǎng lượng này vì một nguyên nhân nào đó mà được giải phóng ra một cách bột phát mạnh mẽ. Nhưng điều không thể hiểu nổi là sau khi bột phát, họ lại trở về trạng thái ban đầu như chưa hề xảy ra việc gì

*Dáng đi điệu đài các: Dáng đi điệu đài các là tư thế đi : hai vai như nhô lên do thở mạnh, nửa thân trên dùng lực gưỡng gạo. Người có dáng đi như thế thường có các đặc điểm tính cách và hàm nghĩa tâm lý sau:

- Bụng dạ hẹp hòi: Khí chất của loại người này thường hẹp hòi, ý chí bạc nhược, muốn sống đơn độc.

- Hư trương thanh thế: Loại người này thường hy vọng dựa vào sức mạnh của người khác hay tập thể để thể hiện mình. Bản thân họ không có bản lĩnh gì đáng kể, nhưng lại muốn núp dưới bóng của người khác mạnh hơn để đạt được mục đích "sói mượn oai hùm".

* Dáng đi quay đầu lại: Điển hình của dáng đi quay đầu lại là lúc đi, không phải quên cái gì, cũng không phải chia tay với người thân, càng không phải như đang tìm một vật gì đó nhưng vẫn thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn. Người có kiểu đi này có đặc điểm tính cách và tâm lý sau:

- Lưu luyến quá khứ: Đặc trưng tính cách của loại người này là thường nhớ lại quá khứ. Vì họ luôn nhớ đến từng kỉ niệm xưa nên đi đường hay quay đầu lại.

- Tính cách cố chấp: Loại người này có tính cách cố chấp. Nói chung họ rất khó tiếp thu sự phê bình và chê trách của người khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói tướng số - Đoán tính cách qua dáng đi - Xem dáng đi đoán tính cách

Những chòm sao nam luôn coi vợ là ‘number one’ –

Chòm sao nam nào luôn coi vợ là 'number one'? Câu hỏi này rất được nhiều cô gái đặt ra. Vì những ai mà có được những chòm sao này làm chồng thì quả là may mắn lắm. Củ thể ra sao chúng ta cùng đọc bài viết sau để hiểu sâu thêm nhé! Những chòm sao nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chòm sao nam nào luôn coi vợ là ‘number one’? Câu hỏi này rất được nhiều cô gái đặt ra. Vì những ai mà có được những chòm sao này làm chồng thì quả là may mắn lắm. Củ thể ra sao chúng ta cùng đọc bài viết sau để hiểu sâu thêm nhé!

Nội dung

  • 1 Những chòm sao nam luôn coi vợ là ‘number one’
    • 1.1 Bạch Dương
    • 1.2 Kim Ngưu
    • 1.3 Cự Giải
    • 1.4 Thiên Bình
    • 1.5 Bò Cạp
    • 1.6 Song Ngư

Những chòm sao nam luôn coi vợ là ‘number one’

Bạch Dương

Là chàng trai luôn đứng ra bảo vệ và bênh vực vợ mình trong mọi trường hợp

bachduong-9895-1397814846

Kim Ngưu

Là chàng trai chung thủy, sẵn sàng từ chối mọi mê hoặc, cám giỗ bên ngoài để về bên vợ

kimnguu-3725-1397814847

Cự Giải

Là chàng trai siêng năng, chịu khó. Những việc lớn nhỏ trong nhà đều dành làm hết.

cugiai-7039-1397815516

Thiên Bình

Thiên bình lại là chàng trai luôn ân cần chu đáo.

thienbinh-8744-1397814848

Bò Cạp

Chàng trai cung bò cạp là người hay sợ vợ, và coi vợ là số một.

bocap-5752-1397814849

Song Ngư

Song ngư là chàng trai yêu vợ, tất cả tiền bạc đều muốn vợ giữ, khi làm việc gì,

songngu-1663-1397814851


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao nam luôn coi vợ là ‘number one’ –

Những bí quyết kinh doanh của người Trung Quốc xưa (Phần 1) –

Biết địa hình sẽ thắng, chọn địa hình sinh tài Trong binh pháp có viết: "Địa hình hỗ trợ cho việc binh, biết địch mới mong cầu thắng, tính đến lúc hiểm nguy, xa gần là đạo của người làm tướng. Biết đạo lý đó ắt sẽ thắng, kẻ không biết điều đó ắt thua

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Biết địa hình sẽ thắng, chọn địa hình sinh tài

Trong binh pháp có viết: “Địa hình hỗ trợ cho việc binh, biết địch mới mong cầu thắng, tính đến lúc hiểm nguy, xa gần là đạo của người làm tướng. Biết đạo lý đó ắt sẽ thắng, kẻ không biết điều đó ắt thua”. Điều này chứng tỏ địa hình từ xưa rất quan trọng đối với chiến đấu, là người tướng không thể không quan sát địa hình để bày binh bố trận. Thương trường cũng như chiến trường, người chủ kinh doanh cũng giống như đang điều khiển hàng ngàn quân mã. Người tướng có trí tuệ, mưu lược luôn chiếm giữ vị trí địa hình có lợi, cuối cùng mới giành được thắng lợi.

Phạm Lãi – Một nhà mưu lược đầy tài ba thời Xuân Thu chiến quốc là một người như vậy. Với con mắt của nhà chiến lược, ông cho rằng: Đào địa là phần đất trong thiên hạ, thông với các chư hầu, là nơi lý tường để giao dịch hàng hóa. Vì thế ông đã chọn Đào địa làm nơi kinh doanh. Quả nhiên, trong vòng 10 năm tiền ông kiếm được nhiều vô số kể. Cái tên Đào Chu Công được mọi người yêu mến truyền tụng đến ngày nay.

kinh-doanh-trung-quoc

Trong “Sử ký” có ghi chép: Sau khi diệt được nước Triệu, nước Tần tiến hành chính sách di dân. Khi đó có rất nhiều người hối lộ quan lại để không phải di dời đi nơi khác, họ muốn ở lại vùng đất cũ vì sợ phải thay đổi. Duy chỉ có phú thương họ Trác yêu cầu được chuyển đến vùng Văn Sơn xa xôi. Ông nhìn thấy ở đó đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú, dân cư sống thanh bình, nồng hậu, họ rất thích buôn bán, thương nghiệp sẽ dễ dàng phát triển.

Mấy năm sau, Trác thị trở thành phú ông gần xa đểu biết tên, quan niệm chọn đất của ông cũng được các thương nhân coi là cẩm nang. Dương Châu – Giang Tô là một nơi giao thông phát triển, vận chuyển bằng đường thủy cũng thuận tiện, hàng hóa phong phú, thương nhân từ các nơi khác đến đây sinh cơ lập nghiệp, có người chỉ từ hai bàn tay trắng mà làm tạo nên gia nghiệp khổng lồ, tiếng tăm lừng lẫy bốn phương.

Hàng rẻ mua vào, hàng lên nhanh chóng bán ra

Phạm Lãi và Bạch Giai – ông tồ nghề thương nghiệp cho rằng hàng rẻ mua vào, tuy quý nhưng rẻ; hàng đắt bán ra, tuy rẻ nhưng quý. Điều này nhấn mạnh người kinh doanh giỏi về cách nắm bắt thời cơ để mua vào bán ra. Lợi nhuận kinh doanh có được từ khoản lãi chênh lệch. Một khi thấy thời cơ đến, bằng mọi giá phải hành động ngay, nếu không sẽ không kiếm được tiền thậm chí còn lỗ vốn.

Thời Ngụy Ván Hầu, người dân chỉ chú trọng nghề nông, thế mà Bạch Giai lại rất vui với điều này. Khi lương thực phong phú, được mùa, ông ta cho người thu mua hết ngũ cốc, bán ra tơ, sơn. Đợi khi tơ tằm được tung ra thị trường, ông ta lại thu mua số lượng lớn, bán hết lương thực. Ỏng từng nói: Người nào làm ăn buôn bán có mưu kế giỏi như Y Doãn và Khương Thái Công, giỏi phán đoán như Tôn Tẫn và Ngô Khởi thì mới có thể nói được làm được.

Có một số người đầu óc của họ không thể ứng phó thời cơ một cách nhanh nhẹn được, lại có người dũng cảm nhưng cứ đâm đầu kinh doanh mà không biết lựa chọn thời cơ, có người lại nhu nhược không kiên định nguyên tắc. Những loại ngưòi như vậy mà đi theo ta học kinh doanh, ta cũng không dạy họ. Những kinh nghiệm và nguyên tắc kinh doanh của Bạch Giai được những nhà kinh doanh đời sau dùng làm cẩm nang. Ông tận dụng hết khả năng mưu lược của mình để kinh doanh và gặt hái được thành công vô cùng vang dội.

Thấy ngắn mà biết tương lai, dự báo sinh tài sinh lộc

Việt Vương Câu Tiễn thời Xuân Thu khi biết được nước Ngô đang bị đại hạn đã ngầm thu mua hết lương thực của nước Ngô. Hai năm sau, nước Ngô thiếu lương thực, nhân dân đói khổ, tiếng than oán hận khắp nơi. Nước Việt nhân cơ hội đó đem quan sang tiêu diệt Ngô, cuối cùng Việt Vương đã thành bá nghiệp, trờ thành một trong ngũ bá thời Xuân Thu.

viet-vuong-cau-tien

Điều Việt Vương Câu Tiễn làm ở đây chính là làm một cuộc mua bán lớn. Thứ ông đạt được không phải là vàng bạc châu báu mà có được một đất nước, xưng hùng xưng bá thiên hạ. Đây là một thành công điển hình trong cách vận dụng kinh doanh để làm chính trị.

“Di kiên trí” đã ghi chép: Vào thời Tống, có một lần thành Lâm An bị cháy rất to, cửa hàng của một người họ Bùi cũng bị bắt lửa, nhưng ông ta không vội chạy đi chữa cháy mà sai người cầm ngân lượng ra ngoài thành mua những vật liệu xây dựng như gỗ, tre, ngói…Sau khi lửa đã dược dập tắt, tất cả trờ thành đống đổ nát hoang tàn, thị trường vật liệu xây dựng trở nên khan hiếm. Lúc này người họ Bùi kia nhân thòi cơ tung hàng ra bán, tiền kiếm được gấp hàng chục lần giá trị cửa hàng đã bị cháy kia, đồng thời cùng đáp ứng được nhu cẩu của thị trường và nhân dân.

Hay quan sát, nhạy bén và phán đoán chính xác là khởi nguồn của người kinh doanh giỏi và đó cũng là một trong những năng lực cần phải có của các nhà kinh doanh.

Lợi ít nhưng bán được nhiều

Kế Nhiên – Một nhà lý luận kinh tế thời Tiên Tần đã cho rằng: “Quý thượng cực tắc phản tiện, tiện hạ cực tắc phản quý” (đắt hết mức lại thành rẻ, rẻ hết mức lại thành đắt). Tư Mã Thiên đã nói: “Tham mua 3 đồng, rẻ mua 5 đồng”. Nghĩa là người kinh doanh tham lợi nhuận chỉ có thể lãi được 30% còn người lấy lãi ít nhưng bán được nhiều thì có thế lãi 50%. “Úc li tử” ghi chép: Có ba thương nhân cùng kinh doanh một loại hàng hóa giống nhau trong một chợ, trong đó có một người bán hàng với giá thấp nhất, người mua đông như kiến cỏ, trong một năm đã phát tài. Hai người còn lại không muốn giảm giá, kết quả lợi nhuận không bằng người kia.

Trương Lương – mưu sĩ của Hán Cao Tổ Lưu Bang khi còn nhỏ theo Hoàng Thạch Công học chữ. Ban ngày ông phải đi bán dao kéo, tối về học bài, sau này ông thấy thời gian học không đủ, cần tranh thủ bán hàng xong để về học. Vì vậy ông liền chia dao kéo thành ba loại tiền khác nhau: loại đắt, loại vừa và loại rẻ. Loại đắt giá vẫn không đổi, loại vừa giá rẻ hơn một chinh, loại rẻ giá rẻ hơn hai chinh. Kết quả, chỉ trong vòng nửa ngày số lượng dao kéo bán ra gấp ba lần, tiền kiếm được gấp đôi ngày thường. Vì thế dân gian có câu: “Trương Lương bán dao kéo, hàng đắt rẻ như nhau”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bí quyết kinh doanh của người Trung Quốc xưa (Phần 1) –

Phong thủy bàn thờ: Không nên trang trí bằng đồ kim loại

Trong bát hương trên bàn thờ tổ tiên của người Việt, nhiều gia đình vẫn giữ thói quen đặt một cây trụ sắt để thắp hương vòng. Tuy nhiên, việc cắm trụ sắt như vậy có hợp lý hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày 23/12 âm lịch hàng năm được cho là thời điểm không "động" bát hương, nên nhiều gia đình chọn bao sái bát hương (tỉa chân hương), sau đó cắm trụ sắt thật thẳng, vững vào đúng giữa bát hương. Khi việc dọn dẹp ban thờ, khấn vái đã hoàn tất, chủ nhà sẽ thắp hương vòng lên trụ sắt.

Tuy nhiên, một số nhà tâm linh thì cho rằng, bát hương cần tĩnh và nghiêm trang, vì thế không nên tùy tiện cắm các vật dụng linh tinh vào bát hương, điều này có thể sẽ làm “động” bát hương, mang vận không tốt cho chủ nhà...


Phong thủy bàn thờ hợp lý giúp chủ nhà bình an và gặp nhiều vận may. Ảnh minh họa

Theo ông Nguyễn Mạnh Cường (một nhà nghiên cứu đạo Phật thuộc Viện Nghiên cứu Ứng dụng Tiềm năng con người), một số nhà tâm linh từng chứng thực chuyện bát hương có liên quan tới cái đầu của chủ nhà. Cụ thể, khi bốc bát hương mà lèn quá chặt, hoặc bát hương bốc tơi nhưng một thời gian sau tro hương sẽ chắc lại, nếu không biết làm tro tơi lên, gia chủ có thể bị đau đầu.

Vì thế, về mặt tâm linh, việc đặt trụ sắt vào bát hương lấy chỗ đốt hương vòng không tốt cho gia chủ. Họ có thể bị những cơn đau đầu bất chợt, không rõ nguyên nhân hành hạ. Chỉ khi bỏ trụ sắt này ra, đầu của gia chủ sẽ nhẹ hẳn.

Các nhà tâm linh cũng cho rằng, một ban thờ nếu có đủ yếu tố ngũ hành thì rất tốt (tức gồm đủ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Tuy vậy, những đồ vật bằng kim loại như đỉnh đồng, lư đồng, hạc đồng hoặc chân nến… không nên bày biện quá nhiều trên ban thờ.

(Theo Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy bàn thờ: Không nên trang trí bằng đồ kim loại

Nhà ở vuông vức, vừa phải có tốt hay không? –

Trong phong thủy học, nhà ở vuông vức là tốt lành. Đó là những ngôi nhà có hình vuông hoặc hình chữ nhật, bôn phía không có góc khuyết, lại đôi xứng trái phải. Sông trong những ngôi nhà như vậy, theo nguyên tắc phong thủy học, hình dáng nhà vuông vức
Nhà ở vuông vức, vừa phải có tốt hay không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy học, nhà ở vuông vức là tốt lành. Đó là những ngôi nhà có hình vuông hoặc hình chữ nhật, bôn phía không có góc khuyết, lại đôi xứng trái phải.

Sông trong những ngôi nhà như vậy, theo nguyên tắc phong thủy học, hình dáng nhà vuông vức thì năng lượng khí sản sinh dòng lưu động tuần hoàn cân bằng, đem lại ảnh hưởng tốt đôi với thể chất và tinh thần cho chủ nhà, còn đôi với kiểu nhà nhiều góc cạnh thì khí bên trong ngưng trệ hoặc lưu chuyển không theo quy luật nào, khiến cho sự phân bố của trường năng lượng không đồng đều, mất cân bằng, gây ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe và tinh thần của chủ nhà.

Nhìn từ quan niệm khoa học hiện đại, hiệu suất sử dụng của căn phòng vuông vức là rất cao, sắp xếp đồ gia dụng cũng thuận tiện và rất có lợi cho việc thông gió, lấy ánh sáng tự nhiên, ở trong những căn phòng như vậy, chủ nhà sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu.

Tuy vậy, đã có rất nhiều công ty đầu tư và phát triển nhà đô thị ngoài việc thiết kế ra những toà nhà có nhiều phòng vuông vức thì họ cũng tạo ra những căn phòng có nhiều góc cạnh với giá rẻ hơn những căn hộ kia, vừa để tận dụng mặt bằng vừa có thể thu được lợi nhuận cao nhất trên khu đất họ khai thác Bởi vậy, khi chọn mua nhà chung cư, nếu bạn chỉ đủ tiền để mua một căn hộ có nhiều góc cạnh thì phải chú ý đến môi trường xung quanh để khắc phục hung tướng.

Ngày nay nhiều người cho rằng, để chứng tỏ được mức độ giàu có của mình thì phải sống trong “nhà cao cửa rộng”, mặc dù nhà có bốn người nhưng vẫn sống trong căn hộ hơn 200m2. Trong điều kiện kinh tế cho phép, sống trong căn nhà có diện tích rộng rãi một chút sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu, song phong thủy học cho rằng, nhà ở cần tụ khí, diện tích nhà quá lớn mà nhân khẩu ít, khí trường của người (hay còn gọi là hơi người) tán mà không tụ, âm khí nặng mà dương khí suy giảm, sẽ dẫn tới sự mất cân bằng trạng thái khí trường

Trái với trường hợp trên, có người eo hẹp về điều kiện kinh tế, chỉ có thể ở trong căn nhà cấp 4 chật chội. Bốn, năm người sông trong một căn hộ vài chục m2. Điều này cũng không tốt bởi sông trong không gian chật hẹp, không khí tù túng, rất khó lưu thông hô hấp, đương nhiên là không có lợi cho sức khỏe và tinh thần của người sông trong căn nhà. Nhìn từ góc độ phong thủy học, không gian quá tù túng thì trạch khí bị đình trệ, đó là điều đại kỵ.

Vì vậy, diện tích nhà và nhân khẩu theo một tỷ lệ vừa phải, sẽ mang lại cho người sống một không khí đầm ấm, vui vẻ, thịnh vượng. Để chọn được căn hộ thích hợp, bạn có thể tính diện tích theo những cách sau:

–   Lấy tổng số tuổi của những người trong gia đình nhân với 1,1 m2.

Ví dụ: người chồng 30 tuổi, người vợ 25 tuổi, đứa con nhỏ 1 tuổi, tổng số tuổi là 56. Vậy diện tích thích hợp của mặt sàn nhà ở khoảng 56 x 1,1 = 62m2 là vừa.

–   Cách tính diện tích nhà cho 3 thế hệ

+ Ông bà và các cháu trên 18 tuổi cần khoảng 20m2/người

+ Hai vợ chồng cần 50m2

+ Các cháu từ 16 – 18 tuổi cần 15m2/cháu

+ Trẻ nhỏ chưa đến tuổi đi học cần 10m2/trẻ

Thực tế, diện tích nhà ở đã vừa phải chưa chủ yếu quyết định bởi số người ở là bao nhiêu và cũng không có một chuẩn mực chính xác. Nguyên tắc chung là: Rộng mà không bỏ trông, hẹp mà không chật chội, thuân tiên dễ chiu, hài hoà là đươc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà ở vuông vức, vừa phải có tốt hay không? –

Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

Chùa Cầu Hội An không chỉ là biểu tượng của phố cổ đất Quảng Nam nổi tiếng mà nó còn là một công trình kiến trúc độc đáo, đậm chất tâm linh.
Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Cầu không chỉ là biểu tượng của phố cổ Hội An nổi tiếng mà nó còn là một công trình kiến trúc độc đáo, đậm chất tâm linh.


Là một trong những địa danh nổi tiếng, Chùa Cầu Hội An gây ấn tượng không chỉ bởi lối kiến trúc độc đáo mà còn những bí ẩn mà công trình này mang trong mình. Chùa Cầu (hay còn gọi là Cầu Nhật Bản) được xem là linh hồn, là biểu tượng của người dân Hội An. Đây cũng là công trình kiến trúc độc đáo, gồm hai cá thể là cầu và chùa được xây dựng bắt ngang qua một lạch nước rộng gần 10m chảy ra sông Thu Bồn.

Giai ma bi an tam linh mang ten Chua Cau Hoi An hinh anh 2
Chùa Cầu - Biểu tượng nổi tiếng của phố cổ Hội An

 
Cầu có chiều dài gần 18m. Kết cấu các phần của cây cầu được thiết kế khá công phu, tỉ mỉ theo kiểu ‘thượng gia hạ kiều’ (trên là nhà, dưới là cầu, tức cầu có mái che) gồm 7 gian, trong đó 5 gian giữa nằm trên mặt nước, 2 gian hai đầu nằm trên bờ phía Tây và phía Đông được thiết kế như cổng dẫn vào. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là ‘Lai Viễn Kiều’, do năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu đến thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa là ‘Cầu đón khách phương xa’. Tương truyền, chiếc cầu do người Nhật cất lên vào đầu thế kỷ 17, còn ngôi Chùa do người Minh Hương (cộng đồng người Hoa vốn sinh sống vào đời nhà Minh đã chạy sang Việt Nam khi nhà Thanh lên nắm quyền) xây dựng vào năm 1653 để thờ Bắc Đế Trấn Vũ. Trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn dưới thời vua Tự Đức (1847 – 1883) chép rằng: “Cầu ở xã Cẩm Phô về phía tây phố Hội An, huyện Diên Phước, nước khe chảy về phía Nam đổ vào sông Cái, cầu bắc ở trên. Tương truyền cầu này do người khách buôn Nhật Bản bắc, dưới cầu xây đá, trên lát ván, gác mái gồm bảy gian lợp ngói”.  

Theo đó các thương nhân người Nhật Bản tại Hội An đã góp tiền xây dựng cầu vào khoảng thế kỷ 17. Theo truyền thuyết, những người Nhật đầu tiên sinh sống gần chùa Cầu thường xuyên nhìn thấy trên mặt sông xuất hiện sống lưng con quái vật Namazu (một loài thuỷ quái mà người Việt gọi là con Cù, người Nhật gọi là Mamazu, người Hoa gọi là Câu Long). Trong văn hóa thần thoại Nhật Bản, Namazu là một con cá trê có cơ thể khổng lồ. Do vậy, mỗi khi di chuyển, đuôi của nó quẫy mạnh khiến Trái đất rung chuyển. Thần Kashima trị thủy quái Namazu. Namazu được miêu tả là bị các thần linh giam giữ trong lớp bùn dưới các hòn đảo của Nhật Bản, khi các vị thần không cảnh giác, Namazu sẽ quẫy cơ thể và gây nên những trận động đất kinh hoàng. Chỉ có thần Kashima, vị thần của sấm sét và kiếm đạo, mới có đủ khả năng chế ngự con cá trê khổng lồ này. Tuy nhiên, thỉnh thoảng khi thần Kashima mệt mỏi hay phân tâm thì Namazu lại có cơ hội quẫy mình, gây ra các trận động đất, thậm chí có cả núi lửa phun trào, gây ra đại họa. Người dân tin rằng, quái vật khổng lồ Namazu trừng phạt sự tham lam của con người. Bằng cách gây ra những trận động đất, Namazu muốn con người phân chia của cải ngang bằng nhau. Vì vậy, Namazu còn được coi là thần của cải.

Thủy quái Namazu được cho là có kích thước rất to lớn, có đầu ở Nhật Bản, lưng vắt qua khe ở Hội An và đuôi kéo dài tới Ấn Độ. Mỗi khi con thuỷ quái đó quẫy mình thì nước Nhật bị động đất và Hội An không được yên ổn để người Nhật, người Hoa, người Việt được bình yên làm ăn buôn bán. Do vậy những người Nhật định cư ở Hội An đã tìm thầy phong thủy giỏi để xem thế đất và xây dựng cầu ở nơi đây, tượng trưng cho thanh kiếm đâm ngay xuống sống lưng thủy quái, khiến nó không thể gây ra động đất thiên tai nữa. Phía tây cầu còn được đặt 2 tượng khỉ đá, phía đông đặt 2 tượng chó đá. Đây cũng là một nét đặc trưng trong văn hóa xứ Phù Tang (Nhật Bản) như: mái ngói mềm mại, uyển chuyển với độ dốc thấp, những cột vuông, nền cầu lát vát hình vòng cung, nhưng “Thần Khỉ” và “Thần Chó” (những con vật người Nhật luôn quý trọng) thờ ở hai đầu cầu. Khỉ và chó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Vì vậy người Nhật dựng tượng thần Khỉ và thần Chó để trấn yểm con quái vật Namazu, người dân gọi đây là Thần Hầu và Linh Cẩu.

Giai ma bi an tam linh mang ten Chua Cau Hoi An hinh anh 2
Quái vật Namazu trong truyền thuyết

 
Một thuyết khác cho rằng những bức tượng khỉ và chó xuất hiện trên cầu vì công trình này được động thổ vào năm Thân, hoàn thành vào năm Tuất. Ngoài ra ở nơi Thần Hầu và Linh Cẩu trấn giữ còn được khắc những dòng chữ Hán. Đôi câu đối chữ Hán ở phía cửa Đông của cầu như sau: ‘Thiên cẩu song tinh an cấn thổ, Tử vi lưỡng tỉnh định khôn thân’. Tạm dịch là: ‘Hai sao thiên cẩu trấn an đất cấn, Hai tướng tử vi định giữ cung khôn’ Đôi câu đối chữ Hán ở cửa phía Tây của cầu có nội dung: ‘Ngoạn nguyệt khách du châu vĩ điện, Khán hoa nhân đáo mã đề lôi’. Tạm dịch là: ‘Khách ngắm trăng thuyền nhanh như chớp, Người xem hoa vó ngựa sấm vang’. Cho đến năm 1633, tình hình Nhật Bản có biến động, Nhật Hoàng ban bố lệnh đóng cửa không quan hệ giao thương với nước ngoài, đồng thời yêu cầu những người Nhật kiều đang sống và buôn bán ở nước ngoài phải hồi hương. Phố Nhật Bản tại Hội An dần rơi vào thời kỳ suy tàn và chùa Cầu được giao lại cho người Việt cai quản.

Năm 1644, Trung Quốc xảy ra biến động, nhiều người nhà Minh vì sợ nhà Thanh truy sát nên mới vượt một chặng đường dài đến đất Hội An để xin Chúa Nguyễn Phúc Lan gia nhập quốc tịch Việt Nam và thành lập nên làng Minh Hương tại cảng thị Hội An. Sau đó, chúa Nguyễn đã giao cầu Nhật Bản cho người Minh Hương quản lý và có nhiệm vụ chăm lo sửa chữa cầu. Những người Minh Hương cũng tin rằng dưới chân cầu này là hang ổ loài thủy quái dữ tợn, khi gặp điều kiện sóng to, gió lớn, nước dâng cao mới tỉnh giấc trở mình quẫy đuôi làm nước sông dâng ngập cả phố cổ gây nhiều thiệt hại cho dân làng. Để yểm trừ, người dân cho xây dựng thêm ngôi chùa nhỏ nằm sát cầu để thờ Bắc Đế Trấn Vũ. 

Tại chùa Cầu, tượng Bắc Đế Trấn Vũ được thờ ở vị trí trung tâm của chánh điện. Bắc Đế Trấn Vũ (hay Huyền Vũ Thánh Quân, Đãng Ma Thiên Tôn, Huyền Thiên Bắc Đế) là một trong những vị thần lớn được tôn sùng trong Đạo giáo của Trung Quốc. Bắc Đế Trấn Vũ tượng trưng cho sao Bắc cực, thống trị phương Bắc, kiêm quản lý các loài thủy tộc nên cũng được coi là thủy thần hay hải thần. Tượng Bắc Đế Trấn Vũ được thờ tại Chùa Cầu. Tượng của Bắc Đế thường không mang giày dép, chân đạp lên một con rùa và một con rắn, được lý giải theo nhiều cách khác nhau. Một số người cho rằng, con rùa và con rắn chính là những thiên tướng trên trời, dưới quyền cai quản của ngài. Một số người lại cho rằng con rùa và con rắn đó chính là những con quái vật đã bị ngài thu phục và đạp dưới chân, gọi là là Linh Quy và Thần Xà, tượng trưng cho sự trường tồn và trí tuệ.

Ở Hội An, từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch thường xảy ra lũ lụt kèm theo giông bão. Mỗi khi lũ dâng, những dãy nhà ven sông thường ngập chìm trong biển nước, phải đến 3 – 4 ngày sau, thậm chí cả tuần nước mới rút. Bắc Đế Trấn Vũ là vị Thần có khả năng trị thủy, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi những cơn địa chấn diễn ra ở Hội An, ổn định về mặt phong thổ, giúp cho cư dân làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió. Do đó, người Minh Hương thờ Bắc Đế Trấn Vũ làm chỗ dựa về mặt tinh thần của mình trong quá trình định cư tại vùng đất mới, giúp họ yên lòng vượt qua những khó khăn và có thêm niềm tin trong công cuộc mưu sinh. Không chỉ là một công trình chứa đựng những giá trị kiến trúc đặc sắc, Chùa Cầu còn là nơi giao thoa của 3 nền văn hóa Nhật – Việt – Hoa. Dù những câu chuyện huyền bí xung quanh Chùa Cầu chưa có được những lời giải thích rõ ràng, nhưng  người dân Hội An vẫn luôn tin rằng nơi đây được xây dựng để trấn yểm một con thủy quái, thờ tự vị thủy thần với ước vọng ngăn chặn, đẩy lùi được những cơn địa chấn, lũ lụt, giúp cho cư dân tại đây làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió.
ST.

Vong hồn, ma quỷ, yêu tinh và Thần Phật khác nhau như thế nào? 10 điềm báo tâm linh khiến tài vận gia đình không ngóc đầu lên được Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

Chiếc cằm nói gì về tính cách, tương lai của bạn?

Người cằm nhọn rất cá tính, thu hút nhưng thất thường và khó đoán; người cằm gãy thường yếu đuối, hay mau nước mắt...
Chiếc cằm nói gì về tính cách, tương lai của bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hàm

- Hàm rộng: Người sở hữu chiếc hàm rộng thường rất quyết đoán, hơi kiêu ngạo nhưng thẳng thắn và đáng tin. Họ có may mắn trở thành những người quyền lực trong tương lai. Ngoài ra, họ cũng rất cứng đầu, luôn tin tưởng vào những điều đã chọn, rất khó bị ảnh hưởng bởi những ý kiến, tác động từ xung quanh.

- Hàm ngắn: Thường là những người có tính tình trầm lắng, nhút nhát và không thích thể hiện bản thân. Họ không thích “vác tù và hàng tổng” mà chỉ muốn làm theo những gì được chỉ đạo, giữ cho bản thân tâm hồn nhẹ nhàng và thảnh thơi.

2. Cằm

- Cằm tròn: Những người này thường rất tò mò, ham học hỏi. Một khi đã thắc mắc vì điều gì, họ quyết tâm tìm hiểu cho ra mới thôi. Họ yêu thích những bằng chứng, câu trả lời xác đáng chứ không mấy tin tưởng vào những điều thuộc về tâm linh, cảm giác.

1-9026-1410409929.jpg

- Cằm vuông: Người cằm vuông tính tình thẳng thắn, có gì nói nấy, không toan tính và rất được mọi người yêu quý. Trong cuộc sống họ gặp nhiều may mắn, đặc biệt là về vấn đề tiền bạc.

- Cằm nhọn: Là người cực kỳ cá tính, thu hút, nhưng cũng thất thường và khó đoán. Họ rất độc lập và quyết tâm, luôn khao khát mạnh mẽ và theo đuổi tới cùng những gì mình đã chọn. 

- Cằm nhỏ, hẹp: Những người này thường rất kín đáo, sống ích kỷ và sở hữu “cái tôi” cực kỳ cao.

- Cằm rộng: Là người vui vẻ, dễ tính, dễ gần, rất đáng yêu và thường được nhiều người yêu quý. Họ cũng gặp nhiều thành công trong cuộc sống, nhưng không phải nhờ bản thân mà nhờ may mắn và sự trợ giúp của mọi người.

- Cằm ngắn: Những người sở hữu chiếc cằm ngắn rất thông minh, có đầu óc và năng khiếu kinh doanh. Họ gặp nhiều may mắn và thành công lớn khi tham gia vào các hoạt động thương mại, đầu tư buôn bán… ngay cả khi tuổi đời còn rất trẻ.

- Cằm dài: Những người này cũng sở hữu “cái tôi” rất cao, hay tự ái, hay dỗi hờn và rất khó chiều.

- Má lúm đồng tiền: Họ có tính tình dễ thương vui vẻ, hay mơ mộng, sống không thực tế, rất đáng yêu và luôn chăm chỉ trong mọi việc.

- Cằm gẫy: Thường có tính cách yếu đuối, nhạy cảm, dễ bị tổn thương, mau nước mắt.

Fon Fon (theo Zodiac)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiếc cằm nói gì về tính cách, tương lai của bạn?

Phóng sinh sai cách mang nghiệp ác

Nhiều nhà sư giảng giải rằng, phóng sinh làm không đúng cách, chọn không đúng loài vật hoặc phóng sinh vào môi trường không phù hợp có thể vô tình giết hại sinh vật, tác động xấu đến môi trường sống.
Phóng sinh sai cách mang nghiệp ác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phóng sinh không đúng cách còn mang thêm tội

Theo nhà Phật, phóng sinh là cách nuôi dưỡng lòng nhân hậu, từ bi, nhưng gần đây nhiều người đã phát hiện ra những chiêu trò phóng sinh thành “phóng tử”, họ cho chim dùng thuốc để yếu rồi bán, phóng sinh xong chim chỉ bay được đoạn ngắn, rồi lại bị bắt về bán cho người khác. Trên mạng mới đây xôn xao clip một nhóm từ thiện phóng sinh lượng lớn rắn vào rừng, dù thả dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của kiểm lâm... Nhưng vẫn có nhiều ý kiến cho rằng, phóng sinh là thả những loài động vật ít gây hại (như chim, cá, cua, lươn, ốc), không nên thả rắn độc, rắn hổ mang. Đạo Phật quan niệm, phóng sinh tức là người có thiện tâm nhìn thấy chúng sinh bị bắt nhốt, giam cầm, sắp sửa bị giết hại thì phát lòng từ bi tìm cách cứu chuộc, giải thoát, phóng thích, cứu mạng sống của chúng sinh. Đại đức Thích Đức Thiện - Trụ trì chùa Phật Tích (Bắc Ninh) cho rằng, nếu phóng sinh đúng nghĩa công đức cũng rất lớn. Nhưng phóng sinh thực hiện không đúng cách không đem lại hiệu quả mà còn trở thành mê tín, thêm tội, nhất là hành động “mua danh phóng sinh” lấy việc phóng sinh để phô trương, khoe khoang, muốn được nhiều người biết đến việc làm của mình. Phóng sinh có thể làm quanh năm chứ không cứ dịp Rằm tháng Bảy. Ảnh: T.G

Nhà chùa không khuyến khích phóng sinh

Thượng tọa Thích Chơn Không (Trụ trì chùa Thiên Tôn, Quận 5, TP Hồ Chí Minh) – ngôi chùa từ lâu không khuyến khích phóng sinh cho biết: “Không nên phóng sinh trong điều kiện như hiện nay ở Việt Nam” trên web Hướng từ bi (Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng). Theo đó, nếu phóng sinh mà chúng sinh (chim, cá, ốc, hến, lươn, lạch…) được sinh tồn, thì rất nên làm. Nhưng thực tế phóng sinh là duyên cớ để người ta đi bẫy chim, bắt cá… có yếu tố làm tổn hại chúng sinh. Theo Thượng tọa Thích Chơn Không, các phật tử ở Mỹ không thể tìm mua được con vật để phóng sinh như ở Việt Nam vì không có ai bán chim, bán cá để phóng sinh cả! Còn ở Việt Nam vào ngày vía, lễ, sóc vọng, có nhiều người phóng sinh, nên chim, cá bị bắt cũng nhiều. Chính nhu cầu mua chim, cá phóng sinh đã tạo nên cái vòng luẩn quẩn và khiến bao nhiêu con chim được mua thả thì bấy nhiêu con chim bị vây bắt… và số chim bị giăng bẫy đánh bắt bị chết rất nhiều. Cá cũng vậy. Phóng sinh hiện nay vô tình đang thúc đẩy người khác làm ác, tạo ra tà mạng. Còn mắc tội thúc đẩy sát sinh, vì hành động tìm mua sinh vật gián tiếp làm hại sinh vật từ nhu cầu phóng sinh. Quá trình phóng sinh con vật bị bắt, bị thả nhiều lần cho đến khi chết: Trước khi phóng sinh thì con vật bị đánh bắt do nhu cầu phóng sinh; Con vật bị giam cầm, khủng hoảng, sợ hãi, bỏ ăn uống, kiệt sức, có nhiều con đã chết ngay trong lồng, trong chậu. Thực tế gần đây cho thấy, chim phóng sinh bị cắt cụt cánh, bị đánh thuốc nên không được tự do, bay vài mét lại rơi xuống, bị bắt lại bán tiếp cho đến chết. Cá thả xuống sông từ trên cao đổ xuống con thì giập mật, con thì hoảng loạn… lại tiếp tục bị chích điện, bủa lưới để bắt lại. Con vật bị thả là ảo, mà bắt là thật. Chưa kể một số loại cá nuôi khi thả ra môi trường tự nhiên rất khó sống, hay phóng sinh một số con vật có thể hủy hoại môi trường như rùa tai đỏ… Nhiều nhà sư giảng giải rằng, phóng sinh làm không đúng cách, chọn không đúng loài vật hoặc phóng sinh vào môi trường không phù hợp có thể vô tình giết hại sinh vật, tác động xấu đến môi trường sống. Nếu phóng sinh thực hiện do tính toán đầu tư để được phước báo, trường sinh, hay lợi ích thực dụng khác thì đều vô nghĩa. Quan điểm của nhà Phật là phóng sinh phải phát xuất từ lòng từ bi vô lượng, vì thương yêu, vì sự sống của chúng sinh, chứ không phải vì vụ lợi, đầu cơ công đức. Phóng sinh bằng cái tâm chứ đừng theo phong trào, không chạy theo số đông. Không có quy chuẩn về phóng sinh, nhưng các nhà sư đều hướng dẫn người dân phóng sinh sao để khơi lòng hiếu sinh, thương yêu của con người với vạn vật, chứ không phải tạo công đức thực dụng. Các nhà sư khuyên, không nên mua loài phóng sinh nhiều lần ở một cá nhân, địa điểm và không có tính chất định kỳ… để tránh chúng sinh bị đánh bắt lại. Gặp con gì thì mua con đó, không đặt trước, không phân biệt nhiều hay ít, lớn hay nhỏ mà tùy tâm, thành tâm. Dân gian còn kiêng phóng sinh loài nào thì không nên ăn ngay loài đó (thể hiện tâm từ bi không phân biệt chỗ cứu, chỗ ăn). Nhiều chùa thường gần tới giờ phóng sinh mới đưa các loài phóng sinh đến. Nghi lễ nhanh gọn, rồi nhanh chóng chở loài phóng sinh đi thả ngay. Việc này nhằm để chúng sinh giảm sợ hãi, ngột ngạt, tù túng và tránh cho chúng sinh không bị chết trước khi được phóng sinh. Cần hiểu việc phóng sinh chỉ có lợi ích duy nhất là tập cho chúng ta biết yêu thương muôn loài, góp phần giảm bớt cái ác do trục lợi từ việc làm hại chim, cá… phóng sinh. Việc phóng sinh nên thành tâm làm phúc, cứu khổ, cứu nạn và ngẫu nhiên chứ không nên định sẵn và có thể làm quanh năm chứ không cứ dịp Rằm tháng Bảy. Nếu phóng sinh ở nhà, người dân nên: Chọn nơi chúng sinh có thể sống ở đó lâu dài không bị bắt, hay do môi trường xấu quá mà chết. Không nên cầm cả xô, hay túi vứt ra ao, hồ, sông, suối. Hãy cứu vớt đến cùng bằng cách bốc từng nắm nhẹ nhàng thả xuống ở nhiều nơi, không tập trung một chỗ. Cá chờ nó bơi khuất hãy về. Thả các chim thú về với môi trường thiên nhiên cần làm đúng nơi đúng chỗ, đúng thời điểm để chúng sống được, không nhất thiết thả ở ao hồ quanh chùa (nhất là chùa đô thị sẽ làm người tham đánh bắt lại và thêm tội).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phóng sinh sai cách mang nghiệp ác

Sự tích ngày rằm tháng Bảy

Trong tháng Bảy có 2 ngày lễ lớn là: Lễ Vua lan - báo hiếu cha mẹ và Lễ Xá tội vong nhân - cúng chúng sinh. Lễ xá tội vong nhân được cử hành vào ngày rằm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tháng 7 có hai ngày lễ lớn với người Việt đó là lễ báo hiếu Vu Lan và ngày xá tội vong nhân mà dân gian gọi nôm na là ngày cúng chúng sinh.

Xuất xứ lễ Vu Lan

Xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.

Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tránh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.

Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".

Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời 

Sự tích ngày xá tội vong nhân: 

Sự tích lễ cúng cô hồn như sau: Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên".

A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là "thả quỷ miệng lửa", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành "tha tội cho tất cả những người chết". Vì vậy, ngày nay mới có câu : "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân".

Nhưng lễ cúng cô hồn khác với lễ Vu Lan dù được cử hành trong cùng Ngày Rằm. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ nhiều đời được siêu thoát, một đằng là để bố thí thức ăn cho những vong hồn chưa được siêu thoát, những vong hồn không nơi nương tựa, không người cúng kiếng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích ngày rằm tháng Bảy

Ông Bà Tổ Tiên

Giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Việt liên hệ với việc truyền giáo Lm Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Ðại Học Công Giáo Phụ Nhân, Ðài Loan
Ông Bà Tổ Tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?

1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên

Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.

Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:

"ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
uống nước nhớ tới nguồn"
, hoặc:

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con"
.

Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:

"Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân"
.

hay ở đoạn khác:

"Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời"
.

Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).

"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".

Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.

Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).

Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".

Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.

Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.

2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.

Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.

Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.

Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?

Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.

Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.

Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:

- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.

- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".

3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"

Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.

Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.

Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?

Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.

Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.

4. Kết luận

Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ông Bà Tổ Tiên

10 điều quan trọng khi nhập trạch, chuyển nhà mới mà gia chủ cần biết:

Điều quan trọng nhất trong việc nhập trạch về nhà mới là việc xem ngày, chọn ngày tốt để nhập trạch. Nếu bạn không có kinh nghiệm trong việc chọn ngày tốt để về nhà mới thì bạn có thể nhờ đến các thầy phong thủy hay tham khảo công cụ xem ngày nhập trạch của ## chúng tôi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong những phong tục hay quan niệm của ông cha ta khi chuẩn bị về nhà mới, hay có nơi còn gọi là lễ nhập trạch là điều quan trọng nhất. Khi làm nhà mới thì có ba nghi lễ không nên bỏ qua là Lễ động thổ ( xin phép Thổ Công ở khu đất đó để đào móng bắt đầu quá trình xây dựng), thứ 2 là lễ Cất Nóc ( đổ mái nhà hay nhiều nơi là đổ trần nhà, quan trọng nhất là lần đổ trần đầu tiên), lễ quan trọng thứ 3 là lễ Nhập trạch hay dọn về nhà mới.

10 điều quan trọng khi nhập trạch, chuyển nhà mới mà gia chủ cần biết:

Vậy sau khi xây nhà xong, gia chủ muốn dọn về nhà mới cần phải báo cáo với tổ tiên, thổ công thổ thần sau đây là 10 điều cần biết khi nhập trạch chuyển nhà mới:

  1. Đầu tiên cần chọn ngày tốt nhập trạch hay chuyển nhà, ngày được chọn phải hợp với tuổi và ngày tháng năm sinh của gia chủ. Thông thường việc chuyển nhà được thực hiện vào buổi sáng để lấy sinh khí và kiêng kị chuyển nhà vào buổi tối.
  2. Ngày chuyển nhà mới hay nhập trạch không phải là ngày tân gia, nên vào ngày nhập trạch về nhà mới thì chỉ cần có những người ở trong nhà mới được có mặt vào lúc này.
  3. Tránh nói những điều dở, không hay trong ngày nhập trạch.
  4. Không nên cãi vã, to tiếng, khóc lóc, bất hòa trong ngày chuyển nhà. Vì đây là ngày đầu tiên bước bào căn nhà, có thể gây ảnh hưởng đến cuộc sống ssau này. Ông cha ta có nói: Đầu xuôi đuôi lọt, muốn ở lâu dài, gia đình êm ấm thì ngày đầu tiên phải vui vẻ trọn vẹn.
  5. Ngay khi đầu tiên về nhà mới bạn nên bật sáng tất cả bóng đèn, xả các vòi nước để lưu thông đường ống, khởi động các thiết bị trong nhà.
  6. Vào ngày đầu tiên nên nổi lửa nấu gì đó, nếu gia đình chưa nấu ăn thì nên nấu một ấm nước pha trà, hoặc một phích nước  sôi, nên nấu bằng bếp ga hoặc bếp củi hay bếp than tổ ong, không nên nấu bếp điện vì bếp điện không tạo ra ngọn lửa.
  7. Những vật như bài vị cúng gia thần, tổ tiên thì nên đích thân gia chủ cầm vào là người đặt chân vào ngôi nhà đầu tiên, các thành viên khác theo sau động thời cần theo tiền vàng, vật dụng khác để thể hiện sự giàu có thịnh vượng cho ngôi nhà. Tránh đi tay không vào nhà.
  8. Người mang thai không được tham gia vào việc chuyển nhà.
  9. Trong trường hợp chuyển nhà nhập trạch chỉ để lấy ngày tốt thì gia chủ phải ngủ lại đó một đêm tại ngôi nhà mới.
  10. Trong nghi lễ nhập trạch hay bất kỳ nghi lễ nào thì đầu tiên gia chủ cần cúng khấn các thần linh trước sau đó mới cúng gia tiên sau. Sau khi đọc xong văn khấn nhập trạch thì mới được phép sắp xếp đồ đạc trong nhà.

Trên đây là một số lưu ý khi chuyển nhà, nhập trạch về nhà mới, điều quan trọng nhất vẫn là việc xem ngày, chọn ngày tốt để nhập trạch. Nếu bạn không có kinh nghiệm trong việc chọn ngày tốt để về nhà mới thì bạn có thể nhờ đến các thầy phong thủy hay tham khảo công cụ xem ngày nhập trạch của ## chúng tôi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 điều quan trọng khi nhập trạch, chuyển nhà mới mà gia chủ cần biết:

Tướng người phụ nữ đa tình

Tính dục của mỗi người không giống nhau do những đặc tính sinh lý trong cơ thể chi phối. Căn cứ vào những nét tướng sau, ta có thể biết được người quá coi trọng nhục dục (sự ham muốn xác thịt) hay không.
Tướng người phụ nữ đa tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Dưới đây là những tướng điển hình dễ nhận biết phụ nữ có tính dục cao:

- Sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng nhạt (đào hoa sắc) hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang; Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt.

- Mắt lớn và sáng, phía dưới mắt (lệ đường) có nhiều nếp nhăn xếp lên nhau hoặc nốt ruồi đen nổi rõ, có gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt.

- Mắt đào hoa, thấy người đàn ông khác thì thường hay cười tình, liếc xéo hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt.

- Miệng lớn và khóe miệng đi xuống; tiếng nói liến thoắng, mỗi khi trò truyện thường hay có thói quen liếm mép hoặc nhắm mắt lại rồi mới phát âm.

- Nhân Trung (phần ngấn rãnh môi trên thẳng từ mũi xuống) gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên chứ không phải vì bệnh tật.

- Có thói quen lấy đầu lưỡi khua động nướu răng hoặc chân răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng.

- Eo lệch, rốn quá sâu, lưng ong.

- Khi ngồi, hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung đùi liên tục.

- Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh đầu lại phía sau.

- Trong trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, người đó có thói quen thở khói rất mạnh.

Ngoài những nét tướng trên, ta còn có thể căn cứ vào các khu vực sau để đoán định mức độ ham muốn tình dục của một người phụ nữ.

- Nhân trung có tía đỏ: Phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc, nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đỏ hoặc hồng nhỏ như sợi tơ nhện xuất hiện ở nhân trung. Với đặc điểm này phải quan sát kỹ mới thấy được. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể chắc chắn rằng người phụ nữ không còn trinh tiết, có những quan hệ bất chính.

- Mắt tam bạch: Bình thường những phụ nữ đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh tròng đen bị thu hẹp dần, nhường lại chỗ cho tròng trắng, khiến tròng đen đều bị tròng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời.

- Khu vực Lệ Đường (phía dưới mắt): Bình thường khu vực này không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến thành màu xanh đen.

- Khu vực Sơn Căn (khoảng cách giữa 2 đầu mắt) và Ngữ Vi (đuôi mắt) đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường.

Tất cả những dấu hiệu về màu sắc ở vị trí như trên cho thấy người phụ nữ đó rất coi trọng nhục dục. Người có nét tướng này thường có khuynh hướng ái ân vụng trộm, quan hệ bất chính ngoài vợ ngoài chồng.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người phụ nữ đa tình

Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Góp mặt trong danh sách những con giáp có tình hình tài chính ổn định trong tháng 6 là những cái tên như tuổi Tý, Sửu, Thìn, Mùi…
Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

Tuổi Tý
 
Nhìn chung, tình hình tài chính của người tuổi Tý trong tháng 6 khá ổn định. Nếu có ý định đầu tư hoặc kinh doanh một lĩnh vực mới thì nên triển khai trong tháng. Lưu ý, cần hoạch định rõ thị trường trước khi tiến hành đầu tư. Nên bắt đầu từ cái nhỏ, đơn giản trước vừa không bỏ lỡ thời cơ lại không quá mạo hiểm.
 
Tuổi Sửu
 
Xét về tổng thể, tài vận của người tuổi Sửu trong tháng 6 khá ổn định, có được phúc tinh chiếu mệnh nên ngoài lương chính còn có các khoản thu nhập phụ khác. Dù là đầu tư ngắn hay dài hạn, trong tháng này và sang đầu tháng tới, nhất định sẽ gặt hái được thành quả tốt. Đây là một trong những con giáp có tình hình tài chính ổn định nhất nhì trong tháng này.
 
Tuổi Thìn

Diem mat nhung con giap co tinh hinh tai chinh on nhat thang 6 hinh anh
Ảnh minh họa

Tình hình tài chính của người tuổi Thìn khá ổn định và thuận lợi. Tuy nhiên, để tạo bước đà cho những nguồn thu từ các hạng mục đầu tư sắp tới, không tránh khỏi việc tiếp khách tăng cường mối quan hệ xã giao, nên phải tính toán thật cẩn thận kẻo khoản thu về không bù nổi khoản chi ra.
 
Tuổi Mùi
 
Vận thế về sự nghiệp của người tuổi Mùi có xu hướng tăng lên trong tháng 6. Công việc và các hạng mục đầu tư, kinh doanh đều thuận lợi và có dấu hiệu sinh lời, nên tình hình tài chính khá ổn định, lúc nào cũng rủng rỉnh tiền tiêu xài.
 
Tuy nhiên, cần lưu ý đầu tư phải biết điểm dừng hợp lí, tránh quá đà sẽ gây phá tài lớn. Nếu tình hình trước mắt không khả quan thì phải bình tĩnh làm tốt các công tác chuẩn bị, đợi thời cơ để tạo bước đột phá. 
 
Tuổi Dậu
 
Nhìn chung, tình hình tài chính trong tháng 6 của người tuổi Dậu khá ổn định, tuy nhiên các nguồn thu nhập ngoài gần như không có. Con giáp này có thể cân nhắc giữa việc làm chủ và góp vốn để xem bên nào mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Đồng thời phải cân nhắc tiềm lực của mình, tránh được những tổn thất tài chính sau này nếu xảy ra bất trắc.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Sao Đẩu Quân

Hành: Hỏa Loại: Ác Tinh Đặc Tính: Cô độc, khó tánh, ngăn nắp, giữ của lâu bền
Sao Đẩu Quân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: HỏaLoại: Ác TinhĐặc Tính: Cô độc, khó tánh, ngăn nắp, giữ của lâu bền
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Mệnh

Tính Tình
Đẩu Quân có nghĩa là nghiêm nghị, chặt chẽ, khắc kỷ. Người có Đẩu Quân thủ Mệnh thường cô độc, ít bạn do sự khó tính hoặc câu chấp. Về điểm này, Đẩu Quân giống đặc tính của Cô Thần, Quả Tú. Nếu gặp sát tinh thì gian xảo, quỉ quyệt.
Công Danh Tài Lộc
Đẩu Quân chủ sự gìn giữ của cải lâu bền. Do đó, sao này rất đắc dụng ở cung Tài, Điền và biểu tượng cho sự cầm của, giữ của.
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Quan Lộc
Thường làm việc cố định, ít dời chỗ, làm chỗ nào rất lâu. Duy trì được chức vụ, quyền hành. Tuy nhiên, vì Đẩu Quân là sao cô độc nên đóng ở Quan sẽ ít được người giúp việc.
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Thiên Di Hay Nô Bộc

  • Ít bạn, không thích giao thiệp với bạn bè.
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Tử Tức
  • Đẩu Quân là sao hiếm muộn, chủ sự chậm con, hiếm con, giống như sao Lộc Tồn, Cô Thần, Quả Tú, Phi Liêm...
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Phu Thê
Nói chung, sao Đẩu Quân ở cung Phu Thê thì cô đơn, ít được người bạn đời hiểu biết. Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt hai trường hợp:
  • Gặp nhiều sao tốt đẹp: Vợ chồng hòa thuận.
  • Gặp nhiều sao xấu: Thường bị hình khắc, tai ương hoặc ít ra là cô độc, bị bỏ quên (như vợ cả có chồng ngoại tình).
Ý Nghĩa Đẩu Quân Ở Cung Tài Bạch
  • Có khả năng giữ của, hà tiện, tiêu xài kỹ..
Đẩu Quân Khi Vào Các Hạn
  • Hạn có sao Đẩu Quân, Kình Dương, Thiên Hình, là hạn bị hình thương, bị cưa cắt hay bị mổ xẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Đẩu Quân

Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì ?

Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho. Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai chữ "thụ thụ" trái ngược nghĩa: một chữ "thụ" là trao cho, một chữ "thụ" là nhận).
Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!

Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam và người á Đông nói chung, nam nữ vô ý chạm vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.

Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính. Thời phong kiến xưa, chỉ những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải phân biệt đàn ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên phải.

ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường, nhưng xin các bạn lưu ý, ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài đã trở thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà. Nếu các bạn có dịp về thăm bà con họ hàng ở quê thì tốt nhất hai vợ chồng nên tránh nằm chung giường kẻo các cụ còn cảm thấy chướng mà phật ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì ?

kiêng kỵ phòng bếp ở giữa nhà –

Hiện tượng: Trung tâm nhà rơi đúng phòng bếp, đặt biệt là bếp ga đặt đúng vị trí tâm nhà, bố cục như vậy sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định khí trường của ngôi nhà, đồng thời phòng bếp nằm ớ trung tâm thì ga và đường nước nhất định phải đi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Trung tâm nhà rơi đúng phòng bếp, đặt biệt là bếp ga đặt đúng vị trí tâm nhà, bố cục như vậy sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định khí trường của ngôi nhà, đồng thời phòng bếp nằm ớ trung tâm thì ga và đường nước nhất định phải đi qua các phòng khác. Như vậy gây ra bất tiện nhất định cho việc thi công và sự an toàn bị đe dọa.

245_2

Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải không có cách nào khác là nhanh chóng sửa đổi bố cục ngôi nhà cho hợp lý. Nếu hiện tại không tiện thì phải thường xuyên mở cửa sổ phòng bếp và ít mở cửa phòng ngủ, đặc biệt là khi nấu nướng càng cần phài lưu ý, để giảm thiểu những ảnh hưởng đối với khí trường của ngôi nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: kiêng kỵ phòng bếp ở giữa nhà –

Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi - Xem bói - Xem Tử Vi

Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi, tu vi Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi

1. Môi trên và dưới dày bằng nhau

Điều này cho biết bạn tràn đầy hy vọng và cảm xúc trong chuyện tình yêu của mình. Bạn rất quan trọng con đường tình yêu, hôn nhân của mình như thế nào và có xu hướng thích sự lãng mạn. Bạn bước vào cuộc sống hôn nhân một cách điềm đạm, bình tĩnh, luôn giữ sự cân bằng cho gia đình và quan tâm chu đáo đến người bạn đời của mình.

2. Môi trên và dưới đều mỏng

Bạn thích những điều đẹp đẽ và nói ra những lời ngọt ngào. Dù là nam hay nữ, bạn cũng sẽ rất tháo vát với mọi tình huống như bản năng của mình. Đôi khi, bạn lo lắng tình yêu sẽ làm tổn thương trái tim mình, vì thế bạn luôn nghĩ đến việc phải bảo vệ bản thân.

Bạn không phải chỉ biết nói “lời hay ý đẹp” mà bạn còn có một đức tính rất tốt, đó là sự nhẫn nại chịu khó. Điều này sẽ giúp vun đắp cho cuộc sống hôn nhân của bạn sau này. 

3. Môi trên dày, môi dưới mỏng

Làn môi này thể hiện bạn có suy nghĩ khá tiêu cực về tình yêu, đối với chuyện này bạn cảm thấy mệt mỏi. Bạn hay thử thách tình cảm của mình và chỉ tin vào bản thân mà thôi. Đồng thời, bạn ít khi hài lòng với hiện tại và thường tỏ thái độ “khinh miệt, đùa giỡn” với mối quan hệ cần sự nghiêm túc, trong khi đó trái tim bạn cũng chẳng hề yên lòng ngày nào.

4. Môi trên mỏng, môi dưới dày

 Bạn thụ động trong các vấn đề tình cảm vì bạn cho rằng bản thân không thể tin tưởng vào chuyện tình yêu, nó không đáng tin cậy. Điều đó làm bạn trở nên lạnh nhạt với chuyện yêu đương và luôn hoài nghi về tình cảm.

Nếu bạn cứ mãi từ chối sự ngọt ngào của tình yêu, thì cuộc sống bạn sẽ buồn lắm, hãy thử đón nhận nó một lần nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá tình yêu qua độ dày của đôi môi - Xem bói - Xem Tử Vi

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd