Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Nằm mơ thấy mình đi học là điềm gì? –

Việc được đi học, được đào tạo bài bảng ở trường lớp là niềm tự hào của bản thân. Hầu như ai lớn lên cũng được cắp sách đến trường, được vào các lớp học từ bé đến lớn. Đi học là chuyện bình thường diễn ra đối với mỗi người, nhưng khi ngủ nằm mơ thấy
Nằm mơ thấy mình đi học là điềm gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy mình đi học là điềm gì? –

Tạo tính an toàn cao cho ban công như thế nào? –

Vì muốn mở rộng diện tích của phòng sát ban công (một trong ba phòng: phòng khách, phòng thờ hoặc phòng ngủ), trên tầng hai nhiều gia đình đã tìm cách nôi thông ban công thành một phần mới của các phòng này. Điều này có ưu điểm là giúp cho các phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

được cơi nới rộng rãi và thoáng đãng hơn song về mặt hạn chế nó có thể làm hỏng kết cấu của ngôi nhà. Vì vậy, cần tạo tính an toàn cho ban công bằng cách:

–  Đảm bảo nguyên tắc chịu lực.

Ban công thường có kết cấu nhô ra khỏi tường bao ngôi nhà, nên khả năng chịu lực kém. Do đó, khi cải tạo nó phải tính toán thật cẩn thận, sao cho không phá hỏng nguyên tắc chịu lực của toàn công trình.

cac-loai-cay-canh-co-tac-dung-hoa-giai-phong-thuy-o-ban-cong

Khi cải tạo nổi thông phòng với ban công, không nên dùng loại vật liệu quá nặng nề vì như vậy sẽ khiến nhà bạn phải chịu tải trọng lớn hơn thiết kế vốn có.

–  Loại bỏ xà ngang ép đỉnh.

Giữa ban công và phòng sát ban công (một trong ba phòng: phòng khách, phòng thờ hoặc phòng ngủ) trên tầng hai thường có một xà ngang chịu lực, sau khi cải tạo, nối liền một dải mặt sàn giữa phòng cần cơi nới vào ban công, chiếc xà ngang này sẽ đem lại cho người trong phòng cảm giác bị một vật nào đó đè nặng, để vừa đảm bảo mỹ quan vừa không gây tâm lý không an toàn, bạn nên làm một tấm trần giả để làm phẳng, che khuất thật khéo. Nếu muôn tăng hiệu quả bền chắc, thì trên trần ban công có thể lắp đặt thêm đèn chiếu sáng, làm nó khuất trong ánh đèn, lại tạo nên vẻ đẹp lung linh.

Ban công sau khi đã cải tạo nôi liền với phòng khách, thì tường phía ngoài không nên quá thấp.

Ngoài ra, tại nơi vốn là ban công cũ không nên kê đặt những đồ gia dụng có trọng lượng lớn như tủ quần áo, ghế sôfa, giường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tạo tính an toàn cao cho ban công như thế nào? –

Cách chọn nghề hợp ngũ hành bản mệnh của từng người

Chọn nghề hợp ngũ hành sẽ mang tới nhiều may mắn, thuận lợi và hanh thông hơn, hãy cân nhắc thật kĩ trước khi đưa ra quyết định.
Cách chọn nghề hợp ngũ hành bản mệnh của từng người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nghề nghiệp không chỉ mang tới tiền tài nuôi sống bản thân mà còn liên quan tới sự nghiệp, thành tựu của cả cuộc đời.   Ngũ hành bao gồm 5 thuộc tính Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Để tìm hiểu thêm thông tin về ngũ hành, có thể tham khảo bài viết: Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là gì? Ứng với mỗi ngũ hành là những nhóm nghề nghiệp khác nhau. Để bạn đọc có thể chọn nghề hợp ngũ hành, xin giới thiệu cụ thể về các ngành như sau:

Cach chon nghe hop ngu hanh ban menh cua tung nguoi hinh anh 2
 

1. Nghề thuộc ngũ hành Kim

Nghề thuộc ngũ hành Kim là những ngành liên quan tới máy móc, có tính quyết đoán, điều khiển và quyền uy. Bao gồm những nghề cụ thể như sau: nghề liên quan tới sắt thép, kim loại, vật liệu xây dựng, sửa chữa kim khí, buôn bán kim loại, linh kiện điện tử, cung cấp điện khí, điên tử viễn thông, vệ tinh, máy móc cơ khí, máy tính, chế tạo ô tô, sửa chữa ô tô, dây điện cáp điện, chế tạo loa phát thanh, chế tạo mạch điện, sản xuất dao kéo, chế tạo đồ đồng, làm hợp kim nhôm, gia công đồ trang sức, bán công cụ máy móc,…   Ngoài ra những nghề nghiệp mang tính cứng rắn, cần quyết đoán, chủ động như võ sư, đại biểu nhân dân, quan tòa, luật sự, nghề liên quan  tới tài chính, giao thông, đồ điện, nghiên cứu khoa học, khai quật, khai mỏ, bác sĩ ngoại khoa, ngân hàng, kế toán, chứng khoán, bảo hiểm, cảnh sát,… cũng là nghề thuộc ngũ hành Kim.  

2. Nghề thuộc ngũ hành Mộc

  Đặc điểm của nhóm nghề này là tính giáo dục, tôn giáo, trắc ẩn, thực vật, hiền hòa, sinh sôi. Bao gồm các nghề: đồ gỗ, nông nghiệp, trồng trọt, Đông y, làm vườn, vật liệu xây dựng, thực phẩm., văn học, văn hóa, văn phòng phẩm, sản phẩm giáo dục, xuất bản, âm nhạc, giáo viên, tư pháp, chính trị, tôn giáo, nhà nghiên cứu động thực vật, buôn bán vải vóc, hương liệu,….

3. Nghề thuộc ngũ hành Thủy

  Khi chọn nghề hợp ngũ hành, người mệnh Thủy và người mệnh Mộc nên chú ý tới những nghề thuộc ngũ hành Thủy. Đặc tính của nhóm nghề này là trí tuệ, lưu động, có tính hàn.    Bao gồm các nghề: ngư nghiệp, xăng dầu, sản xuất đồ uống rượu bia, sản xuất áo mưa, sản xuất cánh buồm, làm nước đá, nhân viên cứu hộ, nhân viên hồ bơi, vận động viên thể thao dưới nước, phóng viên, nhân viên ngoại giao, trượt băng nghệ thuật, nghiên cứu sinh vật biển, thủy điện, sản xuất sửa chữa mua bán tủ lạnh, bán hàng, chế tạo tàu thuyền, công nhân bến tàu, trinh thám, cứu hỏa, tình báo, giặt là, giao thông, phục vụ, chuyển phát nhanh, khách sạn.
Cach chon nghe hop ngu hanh ban menh cua tung nguoi hinh anh 2
 
Những nghề liên quan tới hàng hải, thủy lợi, thực vật dưới nước, hướng dẫn viên du lịch, vận động viên, vận tải biển, quảng cáo, hàng không, xiếc thú, sản xuất bột giặt, xuất nhập khẩu, cố vấn doanh nghiệp đều liên quan tới ngũ hành Thủy.  

4. Nghề thuộc ngũ hành Hỏa

  Nghề thuộc tính Hỏa có đặc điểm là nhiệt tình, lễ nghi, mạnh mẽ, hung bạo. Bao gồm các nghề cụ thể như sau: ẩm thực, quán ăn, khách sạn, nhà xưởng, bách hóa, quang học, chụp ảnh, sản xuất kính mắt, điện lực, thiết bị điện, pháo hoa, luyện kim, rượu, chất dễ cháy, cắt tóc, mỹ phẩm, trang sức, hỏa dược, đầu bếp, thủ công mỹ nghệ, gia công máy móc, sản xuất thuốc, quân giới, tư pháp, trị an, chính trị, ca hát nghệ thuật, thợ điêu khắc, nhà bình luận, nhà tâm lý học, nhà diễn thuyết, bảo hiểm, điện ảnh, hội họa, công chức, học giải, giáo sư, tác gia, sáng tác, tạp chí, máy tính,….  

5. Nghề thuộc ngũ hành Thổ

  Nghề tính Thổ có đặc điểm là tính bao hàm, ổn định, vững chãi, lý trí. Các nghề chủ yếu như: bất động sản, kiến trúc, công trình, gốm sứ, vật liệu xây dựng, mở đường, nông nghiệp, chăn nuôi, mai táng, nhà địa lý, hộ lý, đồ cổ, châu ngọc, cây nông nghiệp, thổ sản, điền sản, luật sư, thuyết khách, quan tòa, quản lý khách sạn, quản gia, thiết kế, cố vấn, thư kí, kế toán, quản lý cao cấp, nghiên cứu thổ nhưỡng, buôn bán đá,….   Chọn nghề hợp ngũ hành ưu tiên những nghề thuộc ngũ hành bản mệnh của mình và ngũ hành tương sinh với bản mệnh. Ví dụ, người mệnh Mộc nên chọn nghề thuộc tính Mộc và tính Thủy; người mệnh Hỏa nên chọn nghề tính Hỏa và tính Thổ thì sẽ rất tốt.
Treo tranh hợp nghề, phong thủy văn phòng tốt đẹp rực rỡ Chọn nghề theo bát tự để sự nghiệp tiến xa Chọn cây phong thủy để bàn trợ lực nghề nào phát nghề đó

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn nghề hợp ngũ hành bản mệnh của từng người

Chùa Linh Ứng - Hà Nội

Chùa Linh Ứng có tên thường gọi là chùa Hương Hải (Hương Hải Ni viện) tên chữ là Linh Ứng tự, tọa lạc bên cạnh chùa Kiến Sơ ở xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội
Chùa Linh Ứng - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Linh Ứng có tên thường gọi là chùa Hương Hải (Hương Hải Ni viện) tên chữ là Linh Ứng tự, tọa lạc bên cạnh chùa Kiến Sơ ở xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Chùa được khởi dựng từ thời Lý (1009-1225), được xem là Ni viện Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Ni sư Diệu Nhân (1041 – 1113), thuộc đời thứ 17 Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã từng trụ trì và hoằng hóa ở đây. Ni sư tên Ngọc Kiều là trưởng nữ của Phụng Càn Vương. Thưở nhỏ bà được vua Lý Thánh Tông nuôi dạy trong cung. Sau khi chồng mất, bà thủ tiết.

Sau đó, bà cạo đầu xuất gia, xin thọ giới Bồ – tát với Thiền sư Chân Không, ngài ban cho bà pháp danh Diệu Nhân và dạy trụ trì Ni viện Hương Hải. Nơi đây trở thành Ni viện Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam.

Hòa thượng Thích Thanh Từ trong sách Thiền sư Việt Nam (Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992) cho biết bà tên Ngọc Kiều, là trưởng nữ của Phụng Loát Vương, thuở nhỏ được vua Lý Thánh Tông nuôi trong cung. Chồng bà làm quan Châu Mục ở Chân Đăng. Khi chồng mất, bà xuất gia, thọ giới với Thiền sư Chân Không ở làng Phù Đổng. Bà gìn giữ giới luật và hành thiền được chánh định, là bậc mẫu mực trong Ni chúng thời bấy giờ. Ni sư Diệu Nhân gìn giữ giới luật và hành thiền chánh định, là bậc mẫu mực trong Ni chúng thời ấy.

Chùa Linh Ứng là một trong số những ngôi chùa cổ nhất ở Việt Nam. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Linh Ứng - Hà Nội

Những con giáp có biệt tài kinh doanh –

Mỗi con giáp có một đặc điểm riêng biệt không giống nhau. Vì thế những đặc điểm này của họ khi xét về công việc thì mỗi đặc điểm lại phù hợp với một công việc riêng. Vậy con giáp nào có biệt tài kinh doanh? Những con giáp có tài kinh doanh nên có sự

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi con giáp có một đặc điểm riêng biệt không giống nhau. Vì thế những đặc điểm này của họ khi xét về công việc thì mỗi đặc điểm lại phù hợp với một công việc riêng. Vậy con giáp nào có biệt tài kinh doanh? Những con giáp có tài kinh doanh nên có sự nhạy bén và tính quyết đoán trong việc làm ăn. Đặc biệt, họ rất nhạy cảm với tiền ^^.

Nội dung

  • 1 Những con giáp có biệt tài kinh doanh
    • 1.1 Tuổi Dậu
    • 1.2 Tuổi Thân
    • 1.3 Tuổi Thìn

Những con giáp có biệt tài kinh doanh

Tuổi Dậu

Người tuổi Dậu có phong cách làm việc quyết đoán, tự tin, thích sáng tạo. Cộng thêm năng lực thực thụ, sự nỗ lực hết mình, và chút may mắn, họ sẽ kiếm bội tiền khi cơ hội đến.

dau-1791-1412202280

Con giáp này biết cách biến thách thức thành cơ hội cho mình. Trong hoàn cảnh cấp bách và khó khăn nhất, họ vẫn điềm tĩnh nghĩ ra cách xử lý tối ưu. Bởi lẽ họ là một trong số những người có con mắt tinh tường và sáng suốt trong lĩnh vực kinh doanh.

Tuổi Thân

Trong 12 con giáp, người tuổi Thân có sự nhạy bén nhất về các con số. Chỉ cần nhìn thấy tiền, họ sẽ thấy vô cùng hào hứng và tràn đầy ý chí quyết tâm để nắm được nó trong tay. Cá tính này khiến họ không ngừng học tập ngay từ khi còn trẻ và tích lũy nhiều kinh nghiệm để thành công trong việc kinh doanh sau này.

than-3377-1412202286

Người tuổi Thân có tài tổng hợp và đánh giá tình hình kinh doanh một cách khoa học. Họ cẩn trọng trong từng đường đi nước bước nên ít khi bị thất bại hoặc thua lỗ.

Tuổi Thìn

Vốn thích thể hiện và ưa sĩ diện, người tuổi Thìn không bao giờ xuất hiện luộm thuộm hoặc nhếch nhác trước mặt người khác, dù điều kiện kinh tế đang gặp khó khăn. Vì lý do đó, họ luôn nỗ lực kiếm thật nhiều tiền và chủ yếu bằng con đường kinh doanh.

thin-4466-1412202291

Trong lĩnh vực buôn bán, người tuổi Thìn khá nhạy bén và có thái độ điềm tĩnh, khó bị ngoại cảnh tác động, nên thường gặp hái được nhiều thành công. Hơn thế, họ phấn đấu không mệt mỏi, cố gắng kiên trì tới cùng để đạt được mục đích. Do đó, cuộc sống về già sung túc, giàu có là điều thường thấy ở những người tuổi Thìn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp có biệt tài kinh doanh –

Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Một bài viết tổng quan về Tử Vi Đài Loan thời trăm hoa đua nở
Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của TS. Đằng Sơn

Hôm qua ở quán ăn tôi gặp lại một anh bạn. Đang bàn về “duyên” và “nghiệp” chưa ngã ngũ chẳng hiểu sao anh lại gợi chuyện Tử Vi. Nhưng rất có thể cái chẳng hiểu sao đó đã là một nguyên nhân khiến tôi hôm nay tìm cách “tái ghi danh” với Tuvilyso. Ly kì làm sao, khi tái ghi danh tôi mới hay cái tên VDTT đã có người lấy đi rồi. Đành tạm chuyển sang VDTT.1 vậy.

Người vắng mặt lâu tất có nhiều chuyện kể.

Nửa năm trước đây khi đảo qua các mạng mệnh lý tiếng Hoa, tình cờ tôi gặp cùng một bài được trích ở vài blogs khác nhau, trong đó có:

http://blog.sina.com...php?pbgid=40169

http://blog.udn.com/life888/2209417

Nhưng có thể đã bắt đầu từ

http://www.fengshui-...d.php?tid=33533

Nếu đúng thế thì bài này đã được viết năm 1998, tức là mười hai năm trước đây, khi mà khoa Tử Vi vẫn còn ở trong thời trăm hoa đua nở. (Theo nội dung tôi vẫn cho là bài này được viết sớm hơn nữa, khoảng đầu thập niên 1990’s, như 1992, 1993 chẳng hạn và được đăng đầu tiên ở một chỗ khác; nhưng đó chỉ là nghi vấn).

Tên tác giả thấy đề là Axis, có lẽ chỉ là nick trên mạng ảo.

Cảm thấy tác giả đã bỏ ra khá nhiều công lao và suy nghĩ khi đặt bút, tôi đã phỏng dịch lại bài này, hy vọng giúp các vị lưu tâm hoặc tò mò có cái nhìn rõ hơn về tình hình chung của khoa Tử Vi cũng như vai trò trọng yếu của hai nhân vật Liễu Vô cư sĩ và Tử Vân trong thời trăm hoa đua nở rầm rộ ấy ở đảo quốc Đài Loan.

Các vị hiểu bạch thoại có thể đọc thẳng bản Hán văn ở các websites kể trên.

Bài này phải đăng vài kỳ mới hết. Xin bắt đầu

Vài cảm nghĩ về phong trào mệnh lý mười năm qua

Mười năm lại đây, Đài Loan nổi lên phong trào nghiên cứu số thuật, khiến ngành học thuật này, xưa chỉ lưu hành trong giới trung hạ lưu xã hội hoặc trong giới văn nhân không toại chí, một lúc tựa hồ biến thành một môn hiển học. Trong xã hội các loại kỹ xảo, kỳ chiêu bách xuất, tựa như hô phong hoán vũ; thế nhưng cho đến ngày nay, đáo để có bao người suy ngẫm những kỹ xảo này rốt cuộc có lợi hay là có hại cho đời?

Chuyện cố ý làm ác thì trang xã hội của các báo dẫy đầy: Thầy bói lừa tiền lừa tình, thầy bói khiến người ta phá nhà mất mạng v.v… Còn một số người vô ý làm ác thì chẳng lẽ lại coi là được hay sao? Người đề nghị giờ sinh có điểm gì tốt? (dgc = dịch giả chú: Đây chắc ám chỉ những người đề nghị giờ sinh mổ, viện lẽ rằng mổ giờ tốt thì đứa con ra đời có số tốt)… “Số anh tương lai lấy một cô vợ cao thước sáu lăm nặng năm mươi ký”… Cách đoán thế này đầy dẫy khắp nơi trong thị trường bói toán… “Cô thiên tính cô khắc, kết hôn nhất định li dị, gia đình nhất định không hạnh phúc”… Cách đoán thế này cũng thấy rất thường.

Những loại loại thế này, rốt cuộc giúp được gì cho người ta? Nếu không có thái độ và quan niệm mệnh lý chính xác, các cách đoán kể trên chỉ khiến cho người ta kết vào lòng một tầng âm hưởng, đè trong tim một khối đá nặng nề! Bất luận tâm lý hoặc nguyên nhân thế nào, người đề nghị giờ sinh đều có quyền hiểu biết quan niệm mệnh lý chính xác, đều có quyền yêu cầu tự do không bị sợ hãi; nhưng một mặt khác người luận mệnh có nhiệm vụ hiểu dùm cho người ta mệnh lý là thế nào, tác dụng và hạn chế của mệnh lý ra sao… Đây đích xác chẳng phải là nhiệm vụ giản dị, nhưng tôi hy vọng những người luận mệnh tận lực hoàn thành cho bằng được. Bởi vì theo kinh nghiệm học tập Tử Vi nhiều năm của tôi thì số người bị mệnh lý làm hại vượt xa số người được mệnh lý làm lợi. Đây là một kết quả mười phần đau lòng, hy vọng những học giả sau này nhớ kỹ điểm ấy, kẻo không thì người đời sau lại tiếp tục bị nguy hại bởi tư duy sai lầm. Những sai lầm tư tưởng của nhân loại đã quá nhiều rồi, chẳng nên thêm một cái sai lầm nữa.

Tử Vi mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất

Từ khi sách “Đẩu Số chân thuyên” của Tuệ Tâm trai chủ được xuất bản cho đến nay, thời gian đã quá mười năm, nếu bảo trước Dân quốc năm thứ 71 (dgc: tức 1982) Tử Vi còn ở thời tiềm phục, thì Đẩu Số chân thuyên quả thật đã kích khởi mười năm tưng bừng. Đến ngày hôm nay quay đầu nhìn lại những ngày huy hoàng đó thiết nghĩ là một việc làm có ý nghĩa và giá trị. Bởi vì trong quá trình ấy, mặt ẩn của Tử Vi, mặt ám của Tử Vi, năng lực và hạn chế của Tử Vi, nhất nhất đều được phát giác và bị kiểm thảo, lần hồi những phép tắc suy nghĩ có khoa học, hợp lý được đưa vào Tử Vi, trở thành một bộ phận không thể thiếu cho việc đoán mệnh chính xác. Những thay đổi về quan niệm này nếu nhìn từ góc độ triết học thì có thể nói là đã đi từ duy tâm đến tâm vật hợp nhất. Bút giả muốn ghi lại chuyển biến tư tưởng quan trọng này, mong rằng nhờ nó mà chúng ta hiểu rõ và sâu hơn mặt thật của mệnh lý.

Tương truyền Tử Vi do ông Trần Hi Di sáng chế ra, nhưng điểm này không quan trọng, (đáng nói là) sau khi sáng lập mấy trăm năm, Tử Vi tựa hồ bị đóng cứng như băng, không có phát triển nào to lớn. Tương truyền đời Minh ông La Hồng Tiên đã từng làm việc chỉnh lý, nhưng sau đó diễn biến thế nào thì không rõ. “Bí kíp” Tử Vi hiện đại là một quyển sách đời Thanh, phát hành trong thời Đồng Trị, tính đến nay chỉ mới hơn trăm năm (dgc: Hẳn ám chỉ “Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư” hoặc “Tử Vi đẩu số toàn tập”). Việc truyền bá Tử Vi vào các tầng lớp trung và hạ tầng xã hội cũng hình như không được coi trọng, như có thể thấy qua sự phát triển chậm chạp của khoa này. Lúc mà khoa bát tự đã rầm rộ ngàn hoa, rồi được đưa vào tứ khố toàn thư, khoa Tử Vi vẫn chẳng được nghe biết. Mãi đến những năm đầu của chính phủ Dân Quốc mới có sách “Đẩu Số tuyên vi” bình chú tường luận có hệ thống; nhưng chuyện đó xảy ra chỉ mới sáu, bảy mươi năm trước mà thôi

(dgc: Đẩu Số tuyên vi nguyên bản gồm hai tập, phát hành lần lượt các năm 1928 và 1935 ở Hoa Lục; gần đây được nhà xuất bản Vũ Lăng ở Đài Bắc, Đài Loan in lại. Ngoài ra cũng có tối thiểu một bản “man thư” Đẩu Số tuyên vi được phổ biến ở Đài Loan, bản “man thư” này có bảng tứ Hóa khác hẳn Đẩu Số tuyên vi nguyên thủy mà giống hệt chi phái Trung Châu của ông Vương Đình Chi.)

Nói về sự phát triển của khoa Tử Vi từ năm Dân Quốc 38 (dgc: tức 1949, hẳn là ám chỉ sự phát triển ở Đài Loan sau khi Mao chiếm Hoa lục khiến Tưởng phải chạy sang hòn đảo nhỏ này) trở về sau thì phải kể đến hai nhân vật trọng yếu, một vị là ông Thiết Bảng đạo nhân, vị kia là cụ Hà Mậu Tùng. Đương nhiên cũng có những người khác hiểu khoa Tử Vi, nhưng những cống hiến của họ về cách suy luận không lớn. Một học phái muốn phát huy ảnh hưởng thì việc thu thập môn đệ và trước tác lập thuyết đương nhiên tất yếu, nhưng nếu trong môn đồ có người xuất bản dương danh thiên hạ thì có lẽ còn trọng yếu hơn nữa. Trong hai vị đã kể trên, hiển nhiên cụ Hà Mậu Tùng của Thái Cực Huyền Xã là hiện tượng được đề cập. Đại đệ tử của cụ là ông Tử Vân, nhờ viết sách lập thuyết, nói đến những điều người xưa chưa nói, đã thành một đại tông sư của giới Tử Vi ngày hôm nay (dgc: Dĩ nhiên ý là “giới Tử Vi Đài Loan ngày hôm nay”). Ông là một đầu tàu của phong trào hiện đại hóa Tử Vi, mà thành tích sẽ được đề cập tường tận ở phần sau bài này.

Trước năm dân quốc 70 (dgc: tức 1981), việc học Tử Vi hơn nửa xảy ra trong các lớp ít người, nhưng sau khi Tuệ Tâm trai chủ bắt đầu bàn luận Tử Vi trong Trung Quốc thời báo thì Tử Vi đã có một luồng sinh khí mới. Nhờ Tuệ Tâm trai chủ xử dụng ngôn từ hiện đại dễ hiểu thuyên giảng tính chất các sao khiến thuật đoán mệnh cổ truyền này (dgc: tức Tử Vi) trở thành mười phần dễ dàng: Dễ lập lá số, dễ đoán vận mệnh. Bộ sách này (dgc: tức “Tử Vi đẩu số chân thuyên”) có thể nói là đã đạt thành công toàn diện, nghe nói đã bán đến mấy trăm ngàn bản, trở thành sách cầm tay, gối đầu giường của người học Tử Vi. Sau đó bà viết các sách Tử Vi xem hôn nhân, xem tài bạch, luận giới công thương v.v… cũng đều thành công cả, hiện nay bà vẫn viết một cột chuyên môn trên báo…

Sự thành công của “Tử Vi Đẩu Số Chân Thuyên” không phải là ngẫu nhiên, vì sách này giúp độc giả có thể tự an lá số, tự theo từng cung một mà luận mệnh, so với các “bí kíp” thì giản dị dễ hiểu, nhưng nhờ bà xử dụng phép tính từng cung một mà người ta nắm vững được quy tắc và kỹ xảo của khoa Tử Vi. Tóm lại, sách Chân Thuyên đã tạo được sự chú ý rộng rãi. Nhưng vì nội dung hạn chế, nó khiến độc giả không dễ tinh tiến.

Tiếng vang sâu rộng của sách Chân Thuyên dĩ nhiên có tác dụng rất tốt cho sự phát triển của khoa Tử Vi, nhưng nếu xét về nội dung thì nó đã để lại chẳng ít chỗ tranh luận, chẳng hạn vấn đề Hóa Kỵ của can Canh. Điểm chính là Tuệ Tâm trai chủ chủ trương Thái Âm hóa Kỵ vì bà cho rằng Thiên Đồng là phúc tinh không hóa Kỵ. Rốt ráo thì Thiên Đồng có hóa Kỵ không? Đó là một vấn đề đã được tranh luận trong một thời gian dài. Ngoài ra vì bà viết dưới dạng luận văn, mặc dù ý tưởng hiển hiện dễ hiểu, nhưng về những vấn đề nhân gian thực tế thì ít có trường hợp “chích kim thấy máu” (dgc: thành ngữ, ý nói có kết quả thấy ngay được), ấy bởi các điều được viết đa số có tính lý thuyết, gây bối rối cho người mới học. Lại nữa, tác giả tựa hồ thiên về đặc tính cơ bản của các sao, việc đoán vận mệnh tương đối sơ lược, ví như giúp người học đến trường mà không giúp họ vào được trong phòng học vậy.

Từ khi Tử Vi được coi trọng rồi thì rất nhiều người bắt đầu ra sách, thuyết của các nhà tranh tiếng tạo thành cảnh trăm hoa đua nở: có người theo tâm pháp cổ truyền, có người phối hợp văn học với Tử Vi, có người phối hợp Tử Bình với Tử Vi, lại có người theo chủ nghĩa huyền bí, phối hợp Tử Vi với tôn giáo, cũng có người chuyên cổ xúy “bí kíp” của tiên sư… trăm màu nghìn sắc. Trong đó tương đối được coi trọng phải kể đến:

Một: Ngô Tình. Đáng tiếc các tác phẩm của ông cơ hồ đều đã tuyệt bản, trên thị trường khó mà mua được. Tác phẩm lớn của ông là “Tử Vi Đẩu Số thất đoạn thức đoán mệnh pháp”. Trong sách này ông nặng nề phê bình cách xem Tử Vi cổ truyền. Chẳng hạn: “Đa số những sao nhỏ trong Tử Vi đều chẳng có công dụng gì cả”, “Thiên Thương Thiên Sứ thuyết cổ bảo có thể đoán chết sống chỉ là hù người”, “tính miếu vượng lợi hãm cũng không có công dụng” v.v… Tác giả trong sách này nhấn mạnh rằng trọng tâm của Tử Vi là sự biến hóa của tứ hóa, cho nên hóa Lộc và hóa Kị mới là yếu tố quyết định. Đồng thời trong sách này tác giả cũng nói rằng ông nắm trong tay “bí mật thiên cổ bất truyền” v.v… Nói chung thì ông đã lên tiếng đề xuất việc cải cách khoa Tử Vi, tiếc là thái độ của ông có lúc xem mình quí người tệ, rốt cuộc không thể đóng góp thêm nữa cho việc hiện đại hóa Tử Vi.

Hai: Thấu phái. Phái này lấy Tử Vi hợp với bảng phong thần. Họ gọi khoa Tử Vi là “Tử sắc tường vi chiêm tinh thuật” (khoa chiêm tinh dựa trên hoa tường vi sắc tím), ví Tử Vi là con trưởng của Văn Vương Bá Di Khảo; cái gì mà Thiên Đồng là Văn Vương, Phá Quân là Trụ Vương, Vũ Khúc là Hoàng Phi Hổ v.v… Đáng tiếc cách ví von của họ không lớp không lang, với những người Nhật Bản hiếu kỳ bị lừa không biết thì còn được, còn chúng ta người đời sau mà để cho bị lừa thì thật là quá đáng (dgc: “đời sau” đây hẳn ý nói là hậu duệ của người nghĩ ra Tử Vi).

Ba: Sở Hoàng. Vị này viết sách lập thuyết, chủ trương phối hợp Tử Vi với bát tự, và khi luận Tử Vi cũng xử dụng nguyên lý đoán mệnh của bát tự, nào là lý tương sinh tương khắc, cũng sáng chế lý luận “lạp hoàn” (dgc: kéo vòng tuần hoàn) để giải thích liên hệ giữa các sao và phép tính bát tự, cũng thành một cách xem riêng.

Bốn: Chính Huyền Sơn Nhân. Vị này đặt ra Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số, tự xưng rằng kiến thức Tử Vi của mình là do “thần” dạy cho. Trong các tác phẩm khá đồ sộ ông có bỏ rất nhiều giấy mực để viết về tinh thần cầu đạo và quá trình học đạo của mình. Về nội dung thì có thể nói tương đồng với các khóa Tử Vi bổ sung.

Năm: Phan Tử Ngư. Đặc điểm của vị này là hạ bút như đao, chẳng hạn “Người này tất làm trộm cắp”, “Bà này nhất định bay chức” v.v… Trong các sách còn có đặc điểm nữa là hay dùng câu đại loại “Căn cứ theo bản riêng viết tay của tiên sư để lại…” để thiết lập đáp án cho các vấn đề hóc búa.

Các tác giả trên đây, nếu xét theo ngày hôm nay đều có thể nói là không hợp thời nữa, nhưng một khi nghĩ lại sự kiện họ đều đã có lúc phong quang thì không thể nào không lo nghĩ đến việc hiện đại hóa Tử Vi. Bởi người ta có thể hỏi rằng: Những đại sư, nhà tiên tri v.v… có thực là có danh lớn thì cái học cũng thật lớn chăng? Làm thân học giả đời sau tất phải nghĩ sâu về cái đạo lý trong câu hỏi ấy. (Còn tiếp)

Bắt đầu từ năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984), Tử Vi tiến vào một thời đại mới, diễn biến này có thể quy công lao về ông Hoàng Trung Lâm và những người xung quanh ông, vì nỗ lực của các vị này mà việc hiện đại hóa Tử Vi đã lần hồi thành hình, và quan điểm khoa học của mệnh lý đã được thiết lập. (dgc: Riêng cho các vị nghiên cứu tính danh học: “Hoàng” là chữ hoàng của màu vàng, “Trung” của ‘trung thành’ trên trung giữa dưới tâm tim, “Lâm” của lâm li ướt át, trên vũ mưa dưới lâm rừng)

Ông Hoàng Trung Lâm, bút danh Liễu Vô cư sĩ (dgc: Liễu của kết liễu, Vô của vô vi), nghề gốc là ký giả, nhưng sau bắt đầu tiếp xúc với mệnh lý. Năm Dân Quốc 70 (dgc: tức 1981) ông bắt đầu viết sách bát tự. Năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông ra sách “Tử Vi luận mệnh” (dgc: Hẳn ám chỉ sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân”). Lúc ấy chỉ là một đòn “thử lửa” với làng Tử Vi, sách này tạo được phản ứng rất tốt đẹp, và nó đã cho Liễu Vô cư sĩ một cơ hội. Đầu năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông Châu Thật Long của Hi Đại Thư Cục cho Liễu Vô cư sĩ cơ hội đó, và từ năm Dân Quốc 74 đến 75 (dgc: tức 1985-86) Liễu Vô cư sĩ đã hoàn thành bộ sách quan trọng “Hiện đại Tử Vi” gồm 7 tập, thế là việc hiện đại hóa Tử Vi đã đi được bước đầu tiên. (dgc: dịch giả đã từng nhớ lầm, bảo là tập này 20 quyển. Thành thật xin lỗi độc giả).

Nội dung sách “Tử Vi luận mệnh” chủ yếu phê phán những tác phẩm của những người đương thời được coi là “đại sư”, tác giả cũng đưa ra luận chứng, thuyết minh quan niệm mệnh lý chính xác phải như thế nào. Phương thức vừa phá vừa dựng này có thể nói là đã nói dùm cho độc giả. Đương nhiên các “đại sư” phản pháo, thế là tạo ra một trường bốn phương công kích tranh luận tưng bừng.

Sau “Tử Vi luận mệnh”, Liễu Vô cư sĩ đã thành một tên tuổi mới trong làng Tử Vi. Nhờ phương pháp và mô thức suy luận có tính hiện đại, ông được coi là phát ngôn nhân của các phần tử trí thức trong giới nghiên cứu mệnh lý truyền thống. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của “Hiện Đại Tử Vi” chẳng thể coi là ngẫu nhiên vậy.

“Hiện Đại Tử Vi” ra đời trong các năm Dân Quốc 74-75 (dgc: tức 1985-1986), tổng cộng 7 quyển. Tác giả ngoài Liễu Vô cư sĩ ra còn một số nhân sĩ, bao quát tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Phi Vân cư sĩ v.v… “Hiện Đại tử vi” bao quát một bộ phận gọi là “Tử Vi quảng trường”, là chỗ cho độc giả bày tỏ quan điểm, đây có thể coi là một sáng kiến. Ở đây, trong tập thứ 7, một độc giả họ Thái viết về tác dụng của HIệN ĐạI Tử VI: “Quan niệm hình thành từ nhận thức. Rất nhiều người học mệnh lý thiếu nhận thức chính xác về mệnh lý, ông chính là người đã đề nghị (cho độc giả) những nhận thức (chính xác) đó”. Quan điểm loại này đã nói lên cái ảnh hưởng của Hiện Đại Tử Vi.

Mỗi tập Hiện Đại Tử Vi đều có điểm đặc sắc, chẳng hạn: Tập 2 có bài nghiên khảo về thuật “Đẩu Số bí nghĩa” được mệnh danh là thiên cổ bất truyền, (theo đó) nội dung sách tựa hồ tạp loạn bất nhất, nhưng rất nhiều quan niệm trong sách này được trình bày ra…

Trong tập 7, có rất nhiều quan niệm được đề cập. Một là đả phá tính mê “bí kíp”. Năm Dân Quốc 74 (dgc: tức 1985) Tử Vi Đẩu Số bí nghĩa xuất hiện, tạo thành một phong trào cực lớn, được gọi là “bí kíp Tử Vi không gì không đoán được”, mỗi bộ bán 15000 đồng Đài Loan (dgc: khoảng sáu trăm Mỹ kim), sau phát giác có chuyện xuống giá, từ 15000 xuống 5000, rồi 3000 xuống 1500, phảng phất giống như nhiều năm sau này cổ phiếu ở Đài Loan xuống giá vùn vụt vậy. Liễu Vô cư sĩ dùng học lý phê bình loại tâm lý này, đồng thời đề xuất rất nhiều quái chiêu của làng Tử Vi, cho mọi người biết rằng các “trò chơi” trong làng Tử Vi thật ra chẳng phải là ít. Một đề tài hay khác là nỗ lực hiện đại hóa Tử Vi. Giáo sư Hứa Hưng Trí phát biểu quan điểm, như trong tập thứ 3: Quan điểm về mệnh lý của một người trong giới khoa học kỹ thuật vân vân… với những lý luận mạnh mẽ và có cơ sở nhằm hiện đại hóa khoa Tử Vi, những bài viết của ông đề ra nhiều quan niệm và vấn đề, một số ngày hôm nay đã được giải quyết, một số khác còn phải chờ người sau nỗ lực. Nội dung những bài viết này thuộc loại khiến các độc giả ham học hỏi đọc một lần muốn đọc lại để ghi nhận kỹ lưỡng hơn.

Một phương hướng khác của Hiện Đại Tử Vi là xử dụng lô gích để nghiên khảo mệnh lý. Bộ phận này chủ yếu tập trung từ tập 4 trở đi, nhờ dùng tam đoạn luận mà xác nhận ra năng lực và giới hạn của khoa Tử Vi, đây là một bước thực tế rất lớn trên con đường hiện đại hóa Tử Vi. Ấy bởi vì trước đó quan niệm của người xem Tử Vi là: việc gì cũng đoán được, bất luận có liên hệ với người khác hay không, chỉ cần dùng thẳng phép “mượn cung”, người gì việc gì đều có thể dùng lá số mà xem ra được (dgc: Phép “mượn cung”, cũng gọi là phép “đổi cung”, theo đó thì cung hạn là cung mệnh tạm thời, hay là “hạn mệnh”, cung kế tiếp là hạn phụ mẫu, rồi đến hạn phúc, hạn điền v.v… thứ tự y hệt nguyên thủy, chỉ khác là các cung đều vận chuyển theo thời gian). Nhưng Hiện Đại Tử Vi phủ nhận phép bành trướng quá độ này (dgc: vẫn chấp nhận phép mượn cung, nhưng không cho rằng Tử Vi có tác dụng vạn năng), không cho rằng Tử Vi tự nó có khả năng đoán bất cứ sự việc gì liên hệ đến người khác -trừ phi thêm những dữ kiện liên hệ đến người ấy vào lá số. Đây là thành tựu vĩ đại của Hiện Đại Tử Vi, mặc dù chỉ được phân nửa. Về nửa kia -điều kiện thu nhập dữ liệu- thì phải chờ sư phụ là ông Tử Vân giảng giải. (Còn tiếp)

Do sự thành công của Hiện Đại Tử Vi, rất nhiều tác giả bắt đầu xuất bản mạnh mẽ, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh thuật sĩ, ông Tử Vân v.v… Trong đó Tuệ Canh và Tử Vân ảnh hưởng tương đối lớn. Trước tác của Tuệ Canh thuật sĩ là tập “Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập” tiếc là vì một số nguyên nhân mà chưa xuất bản hết, khá đáng tiếc vậy. Sách của ông giải thích kỹ lưỡng quan niệm và ứng dụng 12 cung cũng như tính chất các sao, là tác phẩm hay. Đó là chuyện sau năm Dân Quốc 77 (dgc: tức sau năm 1988). Cùng thời gian ấy ông Tử Vân xuất bản sách “Đẩu số dữ nhân sinh” (dgc: Tử Vi và nhân sinh), tự thuật lại chuyện mình học Tử Vi và giải thích cách đoán 12 cung.

Cũng trong khoảng thời gian này sách Tử Vi xuất bản liên miên, xếp thành hàng trong các tiệm sách xem đến cay cả mắt. Chẳng hạn theo người có khả năng chuyên môn chỉnh lý tác phẩm của người khác báo cáo thì: rất nhiều sách là sao lại, có sách suy diễn cách giải thích của phái hóa Lộc hóa Kỵ của cung can, lại có sách xưng là bí cấp của Khâm Thiên giám v.v… xếp thành đống. Nhưng các sách này dẫu nhiều mà không tạo được khí thế, nhất là sau khi ông Tử Vân làm công việc bổ sung rất nhiều chỗ khuyết rỗng của khoa Tử Vi cổ truyền.

Nói rõ hơn một chút: Về kỹ thuật luận đoán thì ông Tử Vân là bá vương của làng Tử Vi hôm nay (dgc: “Kỹ thuật luận đoán” có lẽ ám chỉ việc đoán người thật việc thật bởi ông Tử Vân một phần thành danh là nhờ chinh phục được niềm tin của nhiều bạn trẻ có ý “thử thầy” bằng cách đoán đúng những lá số hóc búa do họ đưa ra, “làng Tử Vi” nên hiểu là làng Tử Vi Đài Loan thôi). Nhất là từ năm Dân Quốc 80 (dgc: tức năm 1991) ông Tử Vân trong sách “Đẩu Số luận hôn nhân” (dgc: Thực ra tên sách là “Đẩu Số luận nhân duyên”, hay là có ấn bản tựa khác chăng?) đề xuất phép Thái Tuế nhập quái và nguyên tắc tương khế, trưng ra cách giải quyết vấn đề đã tồn tại nghìn năm của khoa Tử Vi về kỹ thuật đoán mệnh, cũng là giải quyết cái khiếm khuyết của Hiện Đại Tử Vi.

Thế là Tử Vi phát triển ra phép du nhập dữ kiện. Tử Vi cải biến thành một loại xu thế, phương hướng, có thể vì dữ kiện du nhập vào mà thành khác biệt. Từ đó Tử Vi có thể phân biệt được vận mệnh khác nhau của những người sinh cùng năm tháng ngày giờ. Đây đúng là một đột phá to lớn so với mệnh lý cổ truyền.

Vì ông Tử Vân (có vai trò) quan trọng như thế, thiết nghĩ cần nói rõ về những suy luận của ông. Cơ bản thì cách xem Tử Vi của ông Tử Vân dựa trên cách xem truyền thống, lấy đó là cái sườn, rồi thêm hoàn cảnh thực tế, thống hợp cổ kim, nối kết trong ngoài với nhau. Lại áp dụng rộng rãi những yếu tố tâm sinh lý của con người. Trên đây là phần bình luận của sư đệ ông là ông Hồng Thạc Phong, mười phần xác thật.

Trước năm Dân Quốc 78 (dgc: tức trước năm 1989), ông Tử Vân qua nhà xuất bản Thiên Tướng đã xuất bản các sách “Đẩu Số dữ nhân sinh”, “Đẩu Số luận danh nhân” v.v… dẫn khởi sự chú ý; nhưng uy danh của ông đã được xác định từ lâu trong Hiện Đại Tử Vi qua ngòi bút hoa bướm của Liễu Vô cư sĩ. Năm Dân Quốc 79 (dgc: tức 1990), đang lúc thị trường cổ phiếu ở Đài Loan chuyển từ thịnh sang suy, mức đầu tư giảm sút trầm trọng, ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu Số luận cầu tài”. Sách này chỉnh lại cách xem của tiền nhân, đề xuất: Phàm tiền do đầu tư hoặc đầu cơ mà có phải xem cung Phúc Đức; lại nói: Tiền kiếm được dễ dàng không tốn thể lực trí lực không xem bằng cung tài bạch. Sau đó năm Dân Quốc 80 (dgc: tức 1991) ông Tử Vân hoàn thành “Đẩu Số luận hôn nhân”. Sách này theo quan điểm của bút giả (dgc: tức người Đài Loan viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì về mặt triết học Tử Vi, lý luận, và kỹ thuật đoán mệnh thực tế có sự phát triển với tính đột phá chưa từng thấy. Sách này có thể coi là một đại tác trong nỗ lực hiện đại hóa của giới nghiên cứu Tử Vi. Bút giả sau đây xin trình bày những tính quan trọng của nó.

MỘT: Triết lý Tử Vi

Tử Vi căn cứ vào lúc người ta sinh ra đời, về mặt thiết kế thì nếu khác giờ mệnh vận sai biệt chẳng ít, nói cách khác cơ bản thiết kế về thời gian thì giờ sinh là chủ, sau đó an bài 12 cung để nghiên phán xu thế đời sống con người. Muốn nghiên cứu đời sống con người, làm cách nào để thêm vào yếu tố của thế giới ngoại tại tất là mối quan hoài trong việc hiện đại hóa Tử Vi.

Phép Thái Tuế nhập quái đề xuất đáp án: thêm năm sinh (địa chi âm lịch). Xét cơ bản cách này phù hợp nguyên lý của Tử Vi, nguyên tắc định vị trí bằng thời gian, còn về phép tương khế, tất ứng với tác dụng hỗ tương của “chủ thể” và “khách thể” trong Tử Vi, tức là tác dụng giữa “ta” và “người”.

Ở đây bút giả muốn thảo luận một nghi vấn nhỏ: Dùng phép Thái Tuế nhập quái đặc tính sao trong lá số có tương tựa lá số thật của đối tượng hay chăng, tại sao? Chẳng hạn: Từ lá số của ta thấy bạn gái ta là điển hình Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng theo giờ sinh của bạn gái ta mà an lá số lại thấy là Tử, Phủ, Tướng v.v… sự kiện này dính líu đến tác dụng giữa chủ thể (ta) và khách thể (bạn gái ta).

Tiến bước nữa, cung vị và tính sao của Tử Vi dựa trên nguyên tắc duy tâm, bạn gái ta xuất hiện trong lá số của ta, phần lớn chỉ quan hệ đến những gì ta hiểu về bạn gái ta hoặc những gì bạn gái ta biểu hiện với ta, mà cách xét những biểu hiện hoặc quan niệm này so với bản tính thật không nhất định phù hợp. Người ta đa số tùy tình hình, như người này tính nóng bạo nhưng đối với một số người lại đặc biệt lịch sự, (những trường hợp như thế khiến) người học phải suy xét kỹ.

Tử Vi lấy duy tâm làm gốc, các cung đều phản ảnh tâm thái liên hệ, cho nên cung phu thê là tâm thái tình cảm hoặc ý muốn người phối ngẫu của mình phải như thế nào, huynh đệ là tâm thái liên hệ đến tình anh chị em, thiên di là tâm thái đối với việc giao thiệp bên ngoài, tử tức là tâm thái với chuyện con cái nhiều ít và với thế hệ sau, tài bạch là tâm thái liên hệ đến việc cầu tài phú v.v… Nhưng nói ngược lại, thiên di là tâm thái của ta đối với việc giao vãng bên ngoài, nhưng đồng thời cũng là người đời nhìn ta như thế nào; quan lộc là tâm thái của ta đối với công việc, nhưng cũng là cái nhìn của người đời về khả năng nghề nghiệp của ta, đây gọi là tác dụng chủ thể và khách thể…

HAI: Lý luận và kỹ thuật xem số

Thái Tuế nhập quái giải quyết vấn đề du nhập dữ kiện, nhưng nguyên tắc và kỹ thuật xử dụng phức tạp hơn cách xem cũ. Ngoài việc du nhập tứ hóa theo năm sinh (của đối tượng) ra, còn phải thêm đại hạn, lưu niên, bản mệnh tứ hóa (của chủ nhân lá số), xét kỹ tác dụng hỗ tương giữa các cung. Dùng lá số để xem liên hệ sinh hoạt giữa hai và có khi ba người thế này quả là đã giúp nâng cao lý luận của Tử Vi hết mực, lại còn chủ thể (ta) và khách thể (người khác), lại còn đối tượng tốt với ta hoặc ta tốt với đối tượng, lại còn ta và đối tượng cùng oán nhau, thêm tác dụng của lưu niên hóa và hạn hóa vào thì quá trình liên hệ hỗ tượng hiện rõ.

Trong quá khứ cách định khách thể không rõ ràng, thông thường là cứ theo phép mượn cung. Phép này khuyết điểm là vẫn bị cảnh cùng lá số phải xem như nhau. Ông Tử Vân đã giải tỏa được cái hạn chế này.

Phép thái tuế nhập quái không những giải được các vấn đề liên hệ đến người, mà còn giúp phân biệt sự và việc nữa. Chẳng hạn năm nay thi vào sở nghiên cứu một lúc thi ba viện, xem tốt xấu ra sao, lại biết năm thành lập của ba viện ấy, cho tứ hóa vào, nếu thấy Lộc thì vận thi tương đối tốt, nếu thấy Kị thì thực lực giảm nhiều. Cùng lý, có hai công ty cùng ngành như nhau, làm sao chọn chỗ làm tốt, có cơ phát triển? Lại cho tứ hóa vào, nguyên tắc tương đồng… Vậy là ông Tử Vân vừa lấp được chỗ đã trống lâu năm, lại giúp cho khả năng tiên đoán cũng như lý tính của khoa Tử Vi tăng cao. (Còn tiếp)

Sau một trận ba đào dữ dội (dgc: không hiểu ám chỉ gì), ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu số luận sự nghiệp”, trong đó đưa cách giải tính thiên biến vạn hóa của của cung sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc), sau đó Dân Quốc năm 82 (dgc: tức 1993), lại một trận ba đào xô tới: Ông Tử Vân đưa ra quyển “Đẩu số luận điền trạch” (dgc: Lại nhắc đến “ba đào” lần nữa, ắt phải có một ý nghĩa nào đó, có lẽ dính líu đến thời thế). Sách này ngoài việc luận cung điền tốt xấu ra, lại đề xuất phép xem địa hình địa vật. Nói cách khác, Tử Vi có thể xem phong thủy, và quý hơn nữa là chỉ cần thêm phương vị vào phần suy luận, ngoài ra cách xem chẳng khác gì các mặt khác của Tử Vi. Sự kiện này giúp phạm vi ứng dụng của Tử Vi được mở rộng, đúng là một bước đại đột phá, cũng bổ sung cho cái khiếm khuyết về địa hình địa vật của khoa Tử Vi. Tới đây bút giả mong mỏi ông Tử Vân tận lực xuất bản “Đẩu số luận tật ách”, tôi nghĩ sách này sẽ lại khai mở một phần trời cho khoa Tử Vi (chú không rõ của ai: Đã xuất bản thêm một số sách rồi).

(Dịch giả chú: Như lời chú không rõ của ai ở trên, ông Tử Vân sau đó đã xuất bản thêm vài tựa sách, trong đó có “Đẩu Số luận tật bệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu Số luận phụ mẫu tình”, đây cũng cần nói rõ tựa đầu là “tật bệnh” mà không phải “tật ách”, vì quả quyển này chỉ luận bệnh tật, không luận tai ách. Theo chính lời của ông Tử Vân tự thuật thì quyển “Đẩu số luận tật bệnh” bán ế nhất trong các sách mà ông đã xuất bản, nhưng trong một cuộc đàm thoại, một cao thủ Đài Loan lại khen ông rằng sách này có tính đột phá học thuật cực cao, tối thiểu hơn “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên, cũng của ông Tử Vân. Mọi lời khen đều có tính cách cá nhân, nhưng có hai điểm cần chú ý về ĐSLTB: Một là trong sách này lý ngũ hành của các sao phối hợp với đông y đóng vai trò hết sức trọng yếu, hai là cách xem tật bệnh của ông Tử Vân không giới hạn trong cung tật ách, mà phối hợp hết 12 cung).

Ước chừng đồng thời một số học giả mới cũng viết sách lập thuyết, trong đó cũng có sách xem được, như “Đẩu số tân quan niệm” của Ngô Đông Tiều, “Tử Vi đẩu số đạo luận” của Trần Thế Hưng, “Đẩu số tâm lý học” của ông Phúc Canh v.v… Những sách này phần thảo luận về tính chất cơ bản của các sao và cách cục cũng có thành tựu, (có thể) coi là những sách đáng đọc của lớp học giả lên sau. Người mới học đi vào khoa Tử Vi bằng các sách này không phải lo ngại, tất sẽ có quan niệm chính xác.

Sau khi nxb Thiên Tướng đóng cửa, “Tử Vi chi lộ” (con đường Tử Vi) của Liễu Vô Cư Sĩ không tái bản được, ông bèn bỏ tâm lực ra làm việc chỉnh lý các sách cổ, (trong đó có) bình chú hiện đại hóa “Đẩu số tuyên vi” và “Tử Vi đẩu số toàn tập”. Tiếp đó ông bỏ rất nhiều công lao đề xuất hệ thống Tử Vi riêng của ông. Lúc này Liễu Vô cư sĩ đã dần dà khác biệt với thầy của ông (dgc: “thầy” đây ám chỉ ông Tử Vân). Ông đề xuất khá nhiều cách xem, chẳng hạn: bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và nhiều sao cấp hai khác, lại đề xuất: bỏ Quyền Khoa không xem, tứ hóa chỉ còn lại hóa Lộc và hóa Kị, ngoài ra còn đề xuất một số nguyên tắc “khoa học thực dụng tính” v.v… (Những đề xuất này) khiến ông về mặt cải cách hệ thống Tử Vi càng xa người khác, nhưng những phát triển này có giúp ích cho khoa Tử Vi hay không e phải chờ người sau phán định.

Coi Liễu Vô cư sĩ là đầu tầu phái cải cách và Tử Vân là đầu tầu phái cổ truyền thì đến nay (cả hai) đều đã có phần đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa Tử Vi; nếu theo cái nhìn của bút giả hôm nay (dgc: Tức người viết những dòng này bằng nguyên văn Hán tự, đến giờ vẫn chưa xác định được là ai) thì phái cải cách chú trọng việc suy tư về các quan niệm, thái độ có tính phê phán; còn phái cổ truyền thì chú trọng kỹ thuật lý luận, tinh thần tập trung ở việc diễn giải (dgc: nói nôm na là phái cải cách thiên về đánh giá và xiển dương các quan điểm, tức là lý thuyết, phái truyền thống chuyên đoán các lá số có thật, tức là thực hành). Hai phái đều có sở trường, các học giả sau này cần suy nghĩ cân nhắc cho kỹ hầu quyết định phương hướng cho riêng mình. (Còn tiếp)

Những năm gần đây Tử Vi có một số sách đáng chú ý nhân đây xin giới thiệu cùng quý vị cùng với ý kiến riêng của tôi (dgc: “Tôi” tức người viết bài này, không rõ là ai, nhưng không phải là dịch giả). Trong đó các sách loại “cơ sở” nên mua trước, các sách tiến cấp tính sau.

Bình sách Tử Vi

Sách cơ sở:

Đẩu số tâm lý học: Tác giả Phúc Canh. Sách này về mặt tính sao có nhiều chỗ hay, về tâm thái (ứng với) các sao có thể nói là mười phần sinh động. Có điều cách dùng chữ hơi lủng củng, có lúc chữ không theo nghĩa, khiến người đọc có thể bỏ sót điểm quan trọng. Ngoài ra các lập luận ở đầu sách có phần cần suy nghĩ lại, chẳng nên vội tin. (dgc: Dù không có liên hệ rõ rệt nào với phái Tử Vân, ông Phúc Canh vẫn triệt để xử dụng phép “Thái Tuế nhập quái”. Đây là một trường hợp điển hình cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ông Tử Vân trong làng Tử Vi Đài Loan).

Đẩu số tân quan niệm: Tác giả Ngô Đông Tiều. Sách này mười phần giản lược, nhưng có cái hay là những điểm chính viết rõ ràng dễ hiểu. Phần sau các cách cục cũng có phần chỉnh lý đáng xem; coi là sách nhập môn hay. Đáng tiếc ưu điểm cũng là khuyết điểm (nhưng) nếu có khả năng tưởng tượng thì không sao. Duy phần bình chú của ông Tử Vân mười phần trọng yếu, độc giả cần xem kỹ.

Tử Vi đẩu số đạo độc: Tác giả Trần Thế Hưng. Điểm quan trọng của sách này là viết theo văn nói. Tác giả có gốc Tử Bình nên cách giải thích nhiều phần nối từ Tử Bình qua, cũng thành ra một cách (đặc thù). Trong sách phần luận tứ Hóa mười phần hoàn chỉnh, có thể dùng để tham khảo một số quy tắc của Tứ Hóa. Sách này chỉ có một khuyết điểm nhỏ là phần luận đặc tính sao cho cảm giác như gãi chưa đúng chỗ ngứa. (dgc: Ông Trần Thế Hưng cũng một thời theo học ông Tử Vân; sau –theo lời tự thuật- thì nhờ một thầy khác ông mới được “mở hai mạch nhâm đốc” nhưng có thể thấy qua các sách là cách luận mệnh của ông Hưng chịu ảnh hưởng của ông Tử Vân rất nhiều, dĩ nhiên tận dụng phép “Thái Tuế nhập quái”).

Tử Vi đẩu số chân thuyên: Tác giả Huệ Tâm Trai chủ. Sách này mười năm trước dẫn đầu trào lưu, những sách liệt kê ở trên đều thuộc hàng vãn bối. Sách này có đóng góp về tính sao. Chỉ cần cẩn thận nắm được ý trong lời ắt có kết quả tốt. Khuyết điểm là luận mệnh theo lối từng sao từng cung, (người đọc) chẳng dễ nắm bắt đặc tính các nhóm sao và cách cục.

Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập: Tác giả Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: Theo dữ liệu phối hợp trong các sách Tử Vi thì ông Tuệ Canh là bạn thân của Liễu Vô cư sĩ từ thuở cả hai đều chưa có tên tuổi trong làng Tử Vi. Trong thời gian này -qua Liễu Vô cư sĩ- Tuệ Canh gặp ông Tử Vân và tham dự một số buổi giảng dạy Tử Vi “dã chiến” do ông Tử Vân chủ trì nên sau người ta coi ông là một đệ tử của ông Tử Vân. Thiết nghĩ chỉ nên coi là ông chịu một phần ảnh hưởng đáng kể của ông Tử Vân thôi.) Sách này mạnh ở nội dung và ý nghĩa 12 cung, có cách xem độc đáo; phần luận tính sao cũng chẳng dở. Khuyết điểm duy nhất là tập sách chưa xuất bản toàn bộ (dgc: Đây có lẽ ý muốn nói khéo là sẽ chẳng bao giờ xuất bản toàn bộ). Riêng quyển sách này phần nói về việc lĩnh ngộ đặc tính các sao mười phần kiệt xuất. Quý độc giả không thể không đọc. Bút giả ở phần sau sẽ khai triển thêm đặc tính các sao, quý vị nhớ đọc. (dgc: Không thấy phần khai triển này. Chẳng biết vì không viết hay là đã bị người trích cắt đi).

Hôn nhân tổng luận: Tác giả Thẩm Bình Sơn. Đặc điểm của sách này là có rất nhiều lá số ly kỳ quái dị; vô cùng đáng tiếc là độ chính xác của những lá số này rất khả nghi. Nhưng mà về tính sao thì có sức tưởng tượng hết sức phong phú; có tính khai phá mở đường cho những người trong cảnh bế tắc. Nhớ kỹ: Trọng điểm của sách này là tính khai phá, chẳng phải phương pháp hoặc quy tắc. (dgc: Có lẽ chỉ là cách viết lịch sự thôi. Hẳn ý muốn nói là ông Thẩm Bình Sơn có điểm độc đáo, nhưng cần đãi lọc thật kỹ mới xử dụng được).

Tử Vỉ đẩu số giảng nghĩa (quyển 2: đặc tính các sao): Lục Bân Triệu biên soạn. Sách theo theo lời truyền thì là bí kíp của Khâm Thiên Giám. Phần luận tính các sao so với các sách cổ truyền không khác bao nhiêu. Sách này do ông Vương Đình Chi bổ chú. Ông Vương Đình Chi có bổ sung một số điểm rất đáng chú ý.

Sách tiến cấp:

Về bộ phận sách tiến cấp (thì nên) bắt đầu với “Đẩu số và nhân sinh” của ông Tử Vân và các sách khác cũng của ông Tử Vân, trong đó sách “Đẩu số luận hôn nhân” quan trọng hơn hết, giới hậu học phải cố gắng hiểu những điểm chính yếu trong sách này. (dgc: Có lẽ vì trong sách này ông Tử Vân chính thức áp dụng cách xem “Thái Tuế nhập quái” để giải quyết một số vấn đề nan giải của khoa Tử Vi).

Bảy tập “Hiện Đại Tử Vi” của Liễu Vô cư sĩ đều đáng đọc. Bộ sách này chứa nhiều quan niệm và cách suy luận của khoa Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn nói đến sự kiện là tập sách này ghi lại cách xem Tử Vi của rất nhiều trường phái khác nhau, kể cả các trường phái cực kỳ quái dị). Đây là sách “chuyển hình” của Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn ám chỉ làng Tử Vi Đài Loan), học giả không thể nào bỏ qua.

Bí kíp cổ truyền

Thập bát phi tinh xách thiên đẩu số toàn tập: Là tư liệu tham khảo duy nhất. Có thể tham khảo thêm “Chính thống phi tinh tử vi đẩu số” của ông Trần Nhạc Kỳ. Tuy nhiên “Tử Vi đẩu số toàn thư” do Trúc Lâm thư cục xuất bản cần đặc biệt thận trọng; nhất là bốn lá số đằng sau, chẳng lá số nào tin được. Học giả thận trọng là hơn hết.

Phái Tử Vân

Ông Tử Vân làm việc cho một nhà xuất bản. Trong sách “Đẩu số dữ nhân sinh” ông kể lại là ông từng có lúc hoàn toàn không tin mệnh lý. (dịch giả chú = dgc: phần tiếp đây có lẽ là giai thoại vì không hề thấy ông Tử Vân nhắc đến trong các sách của ông). Sau một lần ông đi theo một đồng nghiệp có vợ sẽ sinh con năm sau đến nhờ thầy của ông là thầy Hà xem số (dgc: Câu này dễ gây hiểu lầm, vì theo sách đã dẫn cho đến lúc này ông Tử Vân chưa từng gặp thầy Hà, bảo là “thầy tương lai” thì chính xác hơn). Thầy Hà dựa vào lá số mà dự đoán hoàn cảnh sinh sản của vợ chủ nhân lá số năm sau, rằng vì bị gan nóng mà phải tiếp máu, vân vân… Năm sau ông tự chứng kiến thấy kết quả y như vậy.

Khi ông Tử Vân theo thầy Hà học Tử Vi, thì cũng có 3 bạn cùng học trong lớp đêm ấy, nghe thầy Hà giảng các kiến thức cơ sở về các sao Tử Vi (dgc: Phối hợp những mẩu chuyện rời mà ông Tử Vân tự kể trong “Đẩu số dữ nhân sinh” thì các buổi học đều vào ban đêm, lúc đầu có 5 bạn cùng lớp, sau chẳng hiểu sao chỉ còn 3, hai nam mà ông gọi là “sư đệ” một thành công sớm nhưng chết sớm, một di cư sang Hoa Kỳ rồi phát triển thành công, một nữ mà ông gọi là “sư tỷ” là người duy nhất không hút thuốc trong lớp học).

Sau đó ông Tử Vân bôn ba nam bắc Đài Loan, nơi nơi tìm cao thủ mệnh lý, rồi trong diễn trình ấy tìm, hiểu ra những yếu quyết của Tử Vi. Vì nghiên cứu Tử Vi mà ông Tử Vân đã học thêm nhiều môn khác liên hệ đến tử vi, như tâm lý học, đông y v.v… Vì ông giải số cho nhiều bạn bè khi họ có vấn đề cần giải quyết, tiếng tăm của ông lan dần, nhưng vì ông không nói rõ với những người thân ông là thầy Tử Vân, thầy Tử Vân là ông, nên nhiều người nhờ xem số không biết ông là thầy Tử Vân. Sau, trong thập niên 70 hoặc 80 (chú nguyên thủy: nhớ không rõ. Dgc: ‘thập niên 70 hoặc 80’ là theo lịch Trung Hoa dân quốc, bắt đầu từ các năm 1981, 1991), ông bắt đầu viết sách, tiết lộ nhiều bí quyết mà ông đã ngộ ra. Ông đã lập chí viết một quyển sách cho mỗi cung. Hiện nay ông đã viết hơn 10 quyển sách, nhưng có lẽ (sẽ) không viết đủ hết 12 cung (dgc: Năm nay 2010 vẫn còn cung huynh đệ chưa thấy viết đến, hai cung phúc và nô thì chỉ được nhắc thoáng qua lần lượt trong hai quyển “Đẩu số luận cầu tài” và “Đẩu số luận nhân tế quan hệ”, có lẽ sẽ chẳng bao giờ có sách riêng).

Ông Tử Vân qua 30, 40 năm nghiên cứu, ngộ ra các lý: Tam đại luận, Thái Tuế nhập quái, cung Thái Tuế v.v… Sách của ông chứa đầy dẫy các lá số có thực. Hiện nay ông Tử Vân một mặt viết sách, một mặt mở quán xem Tử Vi, một mặt mở lớp dạy miễn phí, đồng thời cũng có các đệ tử riêng (dgc: Nhờ đoạn này ta biết bài này được viết sau khi ông Tử Vân nghỉ hưu, vì theo lời ông tự thuật thì sau khi về hưu được người ta giúp mở quán mệnh lý ở Đài Bắc).

... Người ta bảo ông là thầy đứng sau chỉ đạo Liễu Vô cư sĩ. Bắt đầu bằng cách luận lá số thật rồi sau đưa ra lý luận mới, là đặc tính của sách “Đẩu số luận danh nhân” luận 3 nhân vật Thái Vạn Xuân, Thái Thần Châu và Thái Thần Nam (dgc: Sách này được nhắc tới có lẽ vì là sách đầu của ông Tử Vân, nay đã tuyệt bản, dịch giả cũng chỉ nghe nói qua mà chưa từng được đọc. Tuy nhiên, theo các tài liệu thì sách này viết về ba nhân vật ly kỳ là tay cự phú Đài Loan là ông Thái Vạn Xuân và hai người con trai của ông. Ông Vạn Xuân từ hai bàn tay trắng tạo nên sự nghiệp vĩ đại, nhưng tuổi già bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường trong khi tài sản của ông bị tiêu tan trong tay hai người con trai lớn; ông Thần Châu thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, lại đắc cử vào quốc hội, một thời oanh liệt nhưng rồi chỉ vài năm bị tù và chết trong đó; ông Thần Nam cũng thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, khuếch trương vĩ đại thêm, rồi trong một thoáng giây mất hết tất cả…)

Tác phẩm có “Tùng đẩu số đàm phụ mẫu tình” (luận tình cha mẹ theo Tử Vi), “Đẩu số luận mệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu số khán nhân tế quan hệ”, “Đẩu số luận điền trạch”, “Đẩu số luận cầu tài”, “Đẩu số luận nhân duyên”, “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và đời sống), “Đẩu số luận danh nhân”, “Đẩu số luận sự nghiệp” v.v… (dgc: Ngoài ra còn có “Đẩu số luận tật bệnh”).

Quan điểm Thái Tuế nhập quái:

Đối tượng nhập quái phải có liên hệ mật thiết với người được xem số. Liên hệ càng mật thiết thì tính cát hung của việc nhập quái càng chính xác. Chẳng hạn người làm ăn chung tín hiệu rõ ràng hơn người thuần túy là bạn bè thôi. Sinh cùng năm, nếu hai người có góc cạnh liên hệ khác nhau thì cung nền khác nhau, cát hung tự nhiên cũng khác. Chẳng hạn một người là cấp trên, một người là cha hoặc mẹ ta tất cung nền một là thiên di, một là phụ mẫu. Cùng năm sinh, góc độ liên hệ cũng giống, thí dụ hai người bạn tốt cùng năm sinh giả như phái tính khác nhau thì cát hung cũng khác nhau. Phương pháp là dùng nam bắc đẩu mà phân biệt (nam đẩu ứng nam, bắc đẩu ứng nữ). Nếu cùng năm, cùng phái tính tất cát hung ứng nghiệm rõ hơn trên người mà chủ nhân lá số có ấn tượng mạnh hơn (thích hơn chẳng hạn). Nếu cùng thích hai người như nhau thì cát hung dựa theo xuất hiện trước sau mà khác nhau (dùng năm, tháng, ngày v.v… mà định). Cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người trước, nam đẩu thì ứng người sau. Hai người cùng thích như nhau, xuất hiện cùng lúc, thì theo cá tính mà phân biệt, nếu cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người cá tính tương đối cương cường (tương đối có cá tính hoặc tương đối tích cực). Ngược lại thì… Giả thiết trường hợp khó xảy ra là các yếu tố kể trên đều giống nhau cả chúng tôi cũng có cách phân biệt, chỉ là môn qui đã định phải bảo lưu. Nếu có hứng thú xin chú ý các lớp học của thầy Tử Vân (ở Sáng Kiến Đường, Đài Bắc hoặc Tân Tâm Linh Đường Học Uyển, Đài Trung).

Phụ chú: Liễu Vô cư sĩ

… là nhân vật đại biểu phái hiện đại, một phái thuộc hàng chính trực của làng Tử Vi. Phản đối chủ trương “Tử Bình hợp tham”, đề xướng “Tử Bình quy về Tử Bình, Tử Vi quy về Tử Vi”, không cho thần sát, quan sát… xâm nhập vào Tử Vi (dgc: Ý nói là bỏ hết các sao thần sát). Hết sức hứng thú với lô gích, trước tác phong phú, tính ra có “Hiện đại Tử Vi” tập 1 đến tập 7, “Đương Trần Hi Di ngộ Đổng Mộ Tiết - Thiết Bảng - Đẩu Số - Tham”, “Tử Vi chi lộ: Yên hoa truyền kỳ”, “Tử Vi chi lộ: Uyên ương truyền kỳ” vân vân… (dgc: Đó là chưa kể các tựa Tử Vi “Đẩu Số luận mệnh bất cầu nhân”, “Tinh không xán lạn”, “Minh thiên tha môn hội tác tạp ma”, Tử Bình “Hiện đại nhân đích bát tự”, “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và sách tính danh học…) Được Ngô Hoài Vân gọi là “vệ sĩ của giới mệnh lý”... sách của ông có tính dễ đọc, hiện thật…

“Hiện đại Tử Vi” cộng gồm 7 tập, thời gian xuất bản từ tháng 4 năm 74 đến tháng 6 năm 76 (dgc: tức tháng 4, 1985 đến tháng 6, 1987), khoảng 3 tháng một kỳ. Sau cùng vì Liễu Vô cư sĩ cảm thấy quá mệt mỏi mà kêu đình bản. Tập này về rất nhiều phương diện có những kiến giải hoặc vượt quá tiền nhân hoặc khuếch đại phạm vi của khoa Tử Vi. Về mặt kỹ xảo (dgc: tức cách xem số) cũng như suy luận đều có những cống hiến trọng đại… Tập này bao hàm rất nhiều cách suy luận, chẳng phải chỉ là hệ thống suy luận thuần túy của một người, trong đó có: GS Hứa Hưng Trí (dgc: Tiến sĩ dược, giáo sư đại học ngành dược và là một khoa học gia chủ yếu của Đài Loan), Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: theo lời tự thuật thì tốt nghiệp luật nhưng bỏ sang nghiên cứu mệnh lý, vì quen biết Liễu Vô cư sĩ nên cũng có duyên theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian, nhưng lúc ấy tài nghệ đã cao rồi nên học đây có tính tham khảo mà thôi, tư tưởng vẫn có nhiều độc lập, thiết tưởng chẳng nên coi là đệ tử của ông Tử Vân), Lạc Đà Sinh, thầy Quách, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, Phi Vân cư sĩ v.v… có thể gọi là sáng tác tập thể!

Giới thiệu các sách Tử Vi của ông Tử Vân

Phóng mắt nhìn những sách Tử Vi thấy bày trong tiệm, một loại chủ yếu là giải thích tính sao, nhưng chỉ cần mở xem vài quyển là phát hiện nội dung đại đồng tiểu dị, nếu bảo văn chương thiên hạ sao lại nhau cũng chẳng phải là nói quá. Một loại khác là sách giải số “sống” (hoạt bàn), loại này tương đối không dễ kiếm. Theo cái nhìn cá nhân của tôi, giải số sống là một thách đố to lớn của người học Tử Vi, đây cũng là lãnh vực rất nhiều người học Tử Vi tốn bao tâm huyết mà vẫn không đạt nổi kết quả mong muốn. Tuy rằng mặt này người xưa có giấy mực truyền lại, song một là bài vở không nhiều, hai là đa số tiến hành theo phương thức “án đồ sách kí” (dgc: ý nói là có tính công thức, không có lý luận), hết sức cứng ngắc, chẳng có gì để gọi là giải số “sống”. Thành thử các trước tác của ông Tử Vân về mặt này có một chỗ đứng đặc biệt. Nhân năm nay Dân quốc 88 (dgc: tức 1999) cuối tháng 3 “Đẩu số luận tử nữ” là sách thứ mười của ông được xuất bản, tưởng cũng nên quay đầu nhìn lại.

Dưới đây tôi trước hết liệt kê giản lược các sách của ông Tử Vân rồi sau đó sẽ đề cập điểm chính và nét đặc sắc của từng quyển một.

  1. Tùng đẩu số khán nhân sinh, Thời Báo, bản sửa chữa năm 82 (dgc: tức 1993).
  2. Đẩu số luận danh nhân, Thiên Tướng, in lần đầu năm 77 (dgc: tức 1988).
  3. Đẩu số luận mệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 78 (dgc: tức 1989).
  4. Đẩu số luận cầu tài, Thời Báo, in lần đầu năm 79 (dgc: tức 1990).
  5. Đẩu số luận nhân duyên, Thời Báo, in lần đầu năm 80 (dgc: tức 1991).
  6. Đẩu số luận sự nghiệp, Thời Báo, in lần đầu năm 81 (dgc: tức 1992).
  7. Đẩu số luận điền trạch, Thời Báo, in lần đầu năm 82 (dgc: tức 1993).
  8. Đẩu số khán nhân tế quan hệ, Thời Báo, in lần đầu năm 83 (dgc: tức 1994).
  9. Đẩu số luận tật bệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 85 (dgc: tức 1996).
  10. Đẩu số luận tử nữ, Thời Báo, in lần đầu năm 88 (dgc: tức 1999).

1) Tùng đẩu số khán nhân sinh

Sách này nguyên do Thiên Tướng xuất bản, sau này tái bản đổi thành tựa hiện hành là “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và nhân sinh). Sách này chủ yếu cho biết tác giả đứng ở chỗ nào và có chủ trương gì trong Tử Vi. Quan trọng nhất là không tán thành cách luận mệnh truyền thống “đoán như đinh đóng cột” mà đề xướng phép luận mệnh “chẩn đoán”, lại đề xuất chủ trương “sự thật đã phát sinh tất có dấu hiệu mệnh lý, nhưng có dấu hiệu mệnh lý chưa chắc có sự thật đối ứng phát sinh”. Ngoài ra giới thiệu giản lược diễn trình học mệnh lý và kinh nghiệm của tác giả. Bộ phận này nhắm thẳng vào giới Tử Vi hậu học, trong đó nói đến ảnh hưởng của kinh nghiệm sống đối với mệnh lý. Theo quan điểm của tôi, tất cả những độc giả thích đọc sách Tử Vân đều phải đọc kỹ sách này. Sau khi bạn hiểu rõ cái bối cảnh và suy tư của tác giả rồi nếu vẫn thấy đồng ý với ông thì những sách còn lại tham khảo mới thấy giá trị.

2) Đẩu số luận danh nhân

Sách này cũng xuất hiện rất sớm, đến nay ước đã mười năm, đã tuyệt bản, các tiệm sách trên phố cũng rất khó kiếm thấy. Sách chủ yếu viết về sự nghiệp lên xuống của ba ông Thái Vạn Xuân, Thái Thần Nam và Thái Thần Châu. Cách kiếm tiền (của ba vị này) hết sức phong phú, mà lời giải thích cũng hết sức tường tận. Xét cơ bản thì sách này phân tích theo phép truyền thống, nhưng cũng đề xuất chẳng ít kỹ thuật phân tích hoạt bàn (lá số sống). Bao quát phép “sao hóa dẫn động liên tục”, “cung trọng điểm”, “duyên khởi duyên diệt”, thậm chí cả “Thái Tuế nhập quái” cũng được mơ hồ nhắc tới. Sách này viết theo phương thức chủ yếu là đã phát sinh sự thật thì phải dùng mệnh lý diễn giải như thế nào, cho nên nhiều kỹ thuật không được đặc biệt nhấn mạnh hoặc viết rõ, điểm này khác xa với những sách về sau. Ngoài ra, sách này vì gồm quá nhiều chi tiết nên chẳng dễ gì đọc hết, hoặc đọc được nửa sách là đã nhức mắt rồi, e phải có rất nhiều kiên nhẫn và nghị lực mới mong đọc hết được. Thế nhưng vẫn được cái là sách này đối với những sách về sau không gây chướng ngại quá lớn. (dgc: Câu cuối tối nghĩa, có lẽ muốn nói là sách này có tính độc lập, đọc nó mà không hiểu hoặc bỏ ngang vẫn có thể hiểu các sách sau).

3) Đẩu số luận mệnh

Mệnh lý là một công cụ rất tốt của đời sống, sách này luận những vấn đề tương đối thường thấy như hôn nhân, sự nghiệp v.v… trong đó cũng đề cập vấn đề lịch pháp và thuật số, tỷ như cách xem tháng nhuận. Tác giả chủ trương tháng nhuận dùng tháng thường mà xem là được, không cần xem nửa tháng sau là tháng kế tiếp. Theo kinh nghiệm xem tháng nhuận của tôi (dgc: tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân hoặc dịch giả) thì cách xem này chẳng sai. (dgc: Viết thế e hơi thiếu sót. Thực ra trong sách này ông Tử Vân đề nghị là gặp tháng nhuận thì coi như tháng thường, nhưng vẫn lấy thêm lá tháng kế tiếp để phòng hờ; tức là coi tháng thường là chính, nhưng vẫn có trường hợp phải dùng tháng kế tiếp mới đúng. Lá số thí dụ trong sách này là người sinh nửa sau tháng 8 nhuận, kiểm chứng bằng các dữ kiện đã xảy ra thấy lấy theo tháng 8 đúng, lấy theo tháng 9 sai). Các bài luận số trong sách này thuộc loại đoản thiên, chỉ luận một chuyện, cho nên đọc tương đối dễ; dễ hơn “Đẩu số luận danh nhân” rất nhiều.

Từ sách này trở đi, cách viết của tác giả chủ yếu là đoản thiên. Xét cơ bản sách này có thể gọi là dao trâu chém nhẹ (dgc: Thành ngữ, ý nói cố ý giữ lại chưa phát huy hết công lực), không có đóng góp lớn cho học thuật, nhưng vì tương đối giản dị, có thể coi là một sách luyện xem số sống.

4) Đẩu số luận cầu tài

Tác giả đã phát tâm nguyện viết một quyển sách cho mỗi cung cho đến khi hết 12 cung, sách này coi là đoạn đầu. Tại sao viết sách này đầu tiên thì có thể vì liên hệ đến thị trường cổ phiếu nóng bỏng lúc ấy. Người ta thường cho rằng, muốn kiếm tiền thì phải xem cung tài là chủ. Nhưng tác giả đề xuất: Tiền do công khó làm ra mới coi cung tài là chủ. Nếu động sản do cá nhân quản lý tài sản, hoặc do đầu tư thậm chí đầu cơ mà ra thì phải xem cung phúc là chủ. Nếu đầu tư bất động sản mong kiếm tiền bằng giá sai biệt tất phải coi cung điền là chủ. Đương nhiên, mọi việc đều phải coi hai cung mệnh thân là chủ, rồi phối hợp với cung liên hệ mới có thể căn cứ mà đoán cát hung.

Điểm quan trọng khác của sách này là đề xuất quan niệm “cung trọng điểm”, cũng gọi là kỹ thuật “định cung vị”. Quan niệm và kỹ thuật này kỳ thật hết sức trọng yếu, nhưng tựa hồ không được biết đến nhiều bằng phép “Thái Tuế nhập quái” sau này, thành thử tính trọng yếu của nó không được đặt đúng mức.

Cơ bản nhất của Tử Vi gồm có ba tầng kết cấu là bản mệnh, đại hạn, lưu niên, cứ lấy cung Phúc mà tham chiếu (dgc: Hẳn ý muốn nói có ba tầng kết cấu của Phúc là bản mệnh Phúc, đại hạn Phúc, và lưu niên Phúc); nhưng phải coi cung nào là chủ? Lúc này cần khái niệm “cung trọng điểm”, bằng không rất khó phán đoán cát hung. Cuối cùng cần nói là khái niệm “định cung vị” không phải chỉ có thể dùng cho việc đoán tiền tài, mà rất nhiều sự việc khác cũng dùng được phương pháp ấy.

5) Đẩu số luận nhân duyên

Giả sử cần đề cử một trước tác làm bảng hiệu cho sự phát triển của khoa Tử Vi thì “Đẩu Số luận nhân duyên” có thể đóng trọn vai trò mà không hổ thẹn. Cố nhiên trong rất nhiều sự thành bại ta đóng một vai trò quan trọng, nhưng người kia cũng có phần quyết định sự thành bại đó. Nói cách khác tính “khác biệt cá nhân” đóng một vai trò quan trọng trong các trường hợp cùng lá số khác vận mệnh. Như xem hôn nhân, một đoạn nhân duyên thành công hay không, đối tượng tìm thấy là yếu tố không thể nào bỏ sót được. Dùng biện pháp “khác biệt cá nhân” để tìm sự thật là đề xuất của tác giả, gọi là phép “Thái Tuế nhập quái” hoặc “Thái Tuế nhập cung”. Phép này chẳng phải chỉ giới hạn cho hôn nhân, mà chỉ cần có tương quan nhân tế lợi hại là có thể áp dụng để phán đoán thêm chính xác. Thêm dữ kiện để đoán chính xác hơn là một ưu điểm của Tử Vi so với các môn khác, nhưng phép “Thái Tuế nhập quái” rất khó khăn, chẳng phải dễ như trong sách đề cập, chẳng phải như tác giả nói “chẳng qua chỉ là thế đầu tay” mà thôi, và vì vậy mà đã bị lạm dụng nghiêm trọng.

Khởi đầu, cách xem của tác giả được hâm mộ nhất là phép “sao hóa liên tục dẫn động” còn gọi là “tam đại luận”, nhưng sau khi phép “thái tuế nhập quái” được đề xuất thì biến thành tuyệt kỹ có tính chiêu bài, bị rất nhiều tác giả Tử Vi có sách ra hiện thời dẫn dụng, khiến các quan niệm hoặc kỹ xảo khác tựa hồ bị đẩy vào lãnh cung (dgc: thành ngữ, ý nói không được dùng nữa). Sự thật thì luận Tử Vi là công trình trọng đại, phải phối hợp rất nhiều những phương pháp khác mới mong luận đoán chính xác, chỉ dựa vào một kỹ thuật mà đoán thì kết quả sẽ sai lệch nghiêm trọng. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

6) Đẩu số luận sự nghiệp (Tử Vi luận sự nghiệp)

Người xem số hỏi nhiều nhất về sự nghiệp, tiền tài, và tình duyên. Nhưng dùng Tử Vi luận sự nghiệp kỳ thật rất khó, bởi ngoài kỹ xảo xem hoạt bàn ra, kinh nghiệm sống (của người luận số) cũng quan trọng vô cùng. Các độc giả xem qua sách này tất phát hiện rằng tác giả rất thực tế, lại miêu thuật tượng tốt tượng xấu của các trạng huống thực tế rất tường tận, chẳng hạn đối với một người làm chủ thì tượng tốt có thể cho biết làm xuất cảng thì phù hợp, nhưng nhập cảng thì không; tượng xấu có thể ứng với việc sản xuất mà không ứng với việc nghiên cứu (dgc: tức làm sản xuất thì xấu, mà làm nghiên cứu thì không xấu). Với một người đi làm, tượng xấu có thể ứng với công việc rắc rối đa đoan mà không phải là công việc kém v.v… chẳng phải chỉ ban một chữ “cát” hoặc “hung” như cách xem truyền thống. Muốn tìm cát tránh hung nhất định cần biết cát là cát thế nào, hung là hung ra sao thì mới dùng đúng thuốc đúng chỗ, chỉ nói cát hung không thôi thì chẳng thể làm được.

Ngoài ra, sách này đề xuất nhiều lá số “duyên khởi duyên diệt”. Thế nào là “duyên khởi duyên diệt”? Thưa, ý đây là khởi thủy của một sự kiện trồng “nhân” thì cái “quả” ngày sau ắt phải có ảnh hưởng (dgc: hẳn muốn ám chỉ cái “quả” của cái nhân đó). Xét trên mặt kỹ thuật mà nói, tượng hung của lúc duyên khởi tỷ như hóa Kị (cùng với Kình Đà), nếu ngày sau hành vận lại có tượng hung và lực hỗ ứng, thì tượng hung nặng thêm, cho nên lúc ấy sự kiện chấm dứt. Đương nhiên, nếu tượng tốt lúc duyên khởi cùng với tượng tốt về sau hình thành thế hỗ ứng, thì tượng tốt được tăng cường. Phép này kỳ thật tác giả viết không tường tận, cũng không cứng ngắc mà chứa nhiều tính linh hoạt, độc giả nếu xem không hiểu lắm có thể đọc vài lần thì hiểu được.

7) Đẩu số luận điền trạch

Đương nhiên, sách này chủ yếu thảo luận cung điền trạch. Chủ đề được thảo luận rất trọng yếu, cũng rất thực dụng, chủ yếu bao quát cá nhân thích mua nhà để ở hay muốn làm kẻ ở nhà thuê, có được kế thừa tổ sản không, đầu tư địa ốc có kiếm được tiền không, cùng với việc vận dụng phương vị trong Tử Vi. Trong đó khó nhất là vấn đề phương vị, cũng là vấn đề kham dư của Tử Vi, bởi vì ngoài việc xem xét trắc lượng thực tế, phòng ốc ngày nay không quy củ như xưa, mà thường có hình thể quái dị, thậm chí từ ngoài nhìn thấy có hai cửa lớn hoặc nhiều hơn (như ngũ giác đài của nước Mỹ) hoặc không có cửa lớn (như tòa lầu… vừa bị cháy, tầng một không có cửa, mà vào lầu hai từ một tòa lầu khác); những hoàn cảnh này phải có rất nhiều kinh nghiệm mới mong phán đoán hợp lý. Ngoài ra, tác giả cũng nhắc lại quan niệm và phép luận dùng “cung trọng điểm”, lại đưa thí dụ để giảng giải trong vài lá số, cho thấy quan niệm và kỹ xảo này hết sức trọng yếu, không thể bỏ sót được.

8) Đẩu số khán nhân tế quan hệ

Sách này chủ yếu nói về ý nghĩa và cách luận hai cung thiên di và nô bộc. Theo cách xem của tác giả, thiên di chủ yếu là quan hệ với người trên và đồng đẳng, tỷ như cấp trên trực tiếp, người làm chung hoặc người cộng tác; còn nô bộc thì đại biểu người dưới mình, cũng là người mà mình có thể ảnh hưởng. Cho nên không nên lấy cung nô bộc đổi thành “cung bạn bè” (dgc: nhiều sách Đài Loan gọi cung nô bộc là “giao bằng cung” và dùng để xem liên hệ bạn bè cũng như các người cộng tác trong việc làm ăn; đây tác giả muốn nói rằng ông Tử Vân phản đối quan điểm ấy) kẻo luận theo lý ra không đúng sự thật. Ngoài ra, với phép “Thái Tuế nhập quái” lại giải thích rõ ràng thêm một bước nữa. Nghĩa là, đối tượng được “nhập quái” trừ thiên can năm sinh ra, thiên can của cung có địa chi cũng có tác dụng, cần thêm vào mà suy nghĩ (dgc: Giả như xem số người sinh năm Quý Dậu, muốn biết làm ăn với người sinh năm Giáp Tuất có được không thì theo phép Thái Tuế nhập quái đầu tiên phải xét xem can Giáp ảnh hưởng lá số thế nào, kế đó xem cung Tuất có can gì thì can ấy cũng có ảnh hưởng, đây bởi vì người được xem số sinh năm Quý Dậu nên cung Tuất mang can Nhâm; do đó khi xét ảnh hưởng của người sinh năm Giáp Tuất phải xét ảnh hưởng của hai can Giáp và Nhâm trên lá số). Đương nhiên, tác giả cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng muốn xem bất cứ chuyện gì cũng đều không thể bỏ sót hai cung mệnh thân… Thiên di tốt chỉ là nhận được ảnh hưởng tốt (liên hệ đến di) mà không đủ để luận là tốt. Trong sách có lá số của vài nhân vật chính trị thời đại tỷ như Lý Đăng Huy, Hác Bách Thôn, có thể khác với (các lá số được) các tác giả Tử Vi khác đề nghị, độc giả có thể tham khảo so sánh xem sao.

9. Đẩu số luận tật bệnh

Nói chung chung, đại khái độc giả ít thích xem nhất là sách bàn về tật bệnh này (dgc: Hẳn ý giới hạn trong các sách của ông Tử Vân). Bởi vì đề tài tật bệnh là cái mà tất cả chúng ta đều quan tâm nhưng lại không hứng thú bàn thảo. Cũng bởi vì ngoài kỹ thuật mệnh lý ra, nó lại còn đòi hỏi kiến thức y khoa, nhất là trung y. Sơn, Y, Mệnh, Bốc, Tướng (dgc: “sơn” ám chỉ phong thủy, địa lý) là 5 thuật truyền thống của Trung hoa, mỗi thứ đều có phạm vi học vấn chuyên tinh mênh mông. Một người học một môn đã chẳng rõ hiểu biết được bao nhiêu, hà huống phối hợp học một lúc hai môn?

Cách xem tật bệnh truyền thống là phối hợp các cung mệnh thân và tật lại để đoán xem người ta sẽ bị bệnh gì. Nhưng tác giả cho rằng cung tật chỉ đại biểu lực đề kháng bệnh tật của cá nhân, còn người ta bị bệnh tật gì thì 12 cung đều có thể sinh ra cả. Ngoài ra, lại phải phối hợp tư liệu của cha mẹ vào mới có thể đoán một cá nhân có thể phát sinh bệnh gì, ấy bởi vì mỗi cá nhân đều do cha mẹ sinh ra, bản chất chịu ảnh hưởng di truyền của cha mẹ. Đây cũng là phương pháp giải quyết vấn đề những người sinh cùng giờ không nhất thiết có cùng bệnh tật. Tác giả cũng cho rằng luận tật bệnh bằng Tử Vi là một loại “y học dự phòng” mà không phải là thay bác sĩ, nhất là về những bệnh phát chậm, bằng không thì có thể rất mực sai lầm.

Sách này mặc dù chủ đề rất khô khan, nhưng quan niệm thì hết sức quan trọng. Cách xem “đả phá 12 cung vị” cũng là “điên đảo” so với cách xem thông thường của Tử Vi truyền thống. Suy thêm, luận các cung khác cũng như vậy, chẳng phải giản dị là muốn xét sự nghiệp thì xem cung sự nghiệp, xem cổ phiếu thì chỉ xem phúc đức v.v… là được. (dgc: Người viết nhắc đến cổ phiếu và cung phúc ở đây ắt hẳn vì ông Tử Vân trong sách “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên cho rằng muốn luận cổ phiếu ăn thua phải chú trọng cung phúc đức thay vì là cung tài bạch). Ngoài thì xem nhiệt náo, trong thì xem đường lối (dgc: Đoạn này nguyên văn là “ngoại hàng đích khán nhiệt náo, nội hàng đích khán môn đạo”, không rõ nghĩa gì và dính líu với bài văn ra sao, đây chỉ là dịch cho có mà thôi, tuy nhiên có lẽ không quan trọng lắm). Trọng điểm của sách này chẳng phải là xem tật bệnh đích xác so bì với quang tuyến X, máy siêu âm v.v…, mà là từ quan niệm “đả phá 12 cung” phát ra.

10) Đẩu số luận tử nữ

“Đẩu số luận tử nữ” vừa xuất bản không lâu đến nay mới hơn kém một tháng (dgc: đây là tính theo thời điểm bài này được viết, không phải lúc bản dịch ra đời). Sách này độ khó so với các sách trước cao hơn hẳn, cho nên chẳng phải là sách cho người mới học. Sự thật là các sách của tác giả có xu thế là mỗi quyển đều khó hơn các quyển trước, cho nên cách hay nhất là đọc theo thứ tự, bằng không có thể không “tiêu hóa” nổi. Nói về sách này thì đa phần là áp dụng phép “Thái Tuế nhập quái”, bao gồm thêm tư liệu của cha mẹ để xét thể chất và sinh sản thuận lợi hay không (dgc: cho nữ mệnh), thêm tư liệu của người phối ngẫu và con cái để phân biệt xem có thụ thai được không và con cái sức khỏe thế nào, có thể sinh trưởng thuận lợi không. Tối hậu, lại xem cả vấn đề con cái kế thừa sự nghiệp của cha mẹ. Mặt này, so với sách “Đẩu số khán nhân tế quan hệ” có chỗ tương tự, các độc giả có thể so sánh những điểm khác và giống của hai sách này.

Những kỹ thuật kể trên xem qua tưởng là cũ (dgc: “Cũ” đây là đối với các độc giả đã đọc các sách đã xuất bản trước đó của ông Tử Vân thôi, chứ dĩ nhiên mới lạ nếu không muốn nói là “kỳ lạ” đối với các độc giả khác), nhưng trên thực tế có nhiều tiểu tiết cần giải quyết, bằng không sau khi du nhập bấy nhiêu tư liệu vào thì tự mình theo mình mà đoán, hoặc lập lại cách xem đã biết, ấy bởi vì du nhập những tư liệu ấy xong thì tượng hung tượng cát đều chất đống, muốn viên tròn theo kiểu nào cũng được (dgc: Đây hẳn muốn nói cái nguy của việc có quá nhiều dữ kiện mà không phối hợp một cách hệ thống được, khi ấy có khuynh hướng tùy cảm tính mà đoán, rồi biện minh bằng cách chọn lựa những tượng cát tượng hung phù hợp với cách đoán của mình, mà bỏ những tượng còn lại. Đây thật ra là một vấn đề quen thuộc của khoa Tử Vi.)

Một điểm quan trọng khác của sách này, trái ngược với các trước tác truyền thống, là đề xuất “cung Thái Tuế” của người được xem số. Tác giả cho rằng, hai cung mệnh thân là “biểu” (dgc: bề ngoài), cung Thái Tuế là “lý” (dgc: bề trong), tác phong hành sự của một cá nhân rất nhiều khi không biểu hiện ở hai cung mệnh thân, phản lại biểu hiện ở cung Thái Tuế. Nếu phối hợp với với quan niệm “đả phá 12 cung” trong “Đẩu Số luận tật bệnh” thì kỳ thật cả 12 cung đều chứa cá tính của con người, (những cá tính) đoán không ra hoặc xem không thấy (tụ) ở cung Thái Tuế. Cứ theo Vương Vân Phong (dgc: Theo lời tác giả tự thuật rải rác trong các sách thì có thể đoán Vương Vân Phong là một kiện tướng của phái Tử Vân, cùng làm thầy trong phòng coi bói mà ông Tử Vân mở ra sau khi về hưu công việc chính thức) viết trong phần giới thiệu thì cung Thái Tuế là một trong những quan niệm nhập môn tâm đắc của tác giả (dgc: tác giả đây là ông Tử Vân), cái lý cũng rất lớn, đợi ngày sau tác giả sẽ công bố (dgc: đến nay là năm 2010 vẫn chưa thấy công bố, tuy nhiên ý tưởng chính là: Cung Thái Tuế là mặt ẩn của con người, trong một số trường hợp đặc biệt có thể quan trọng hơn mặt hiện của hai cung mệnh thân).

(Chép lại từ trang tuvilyso.org)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Chùa Nễ Châu - Hưng Yên

Chùa Nễ Châu - Một kiến trúc nghệ thuật đặc sắc tọa lạc tại Hưng Yên. Chùa đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia
Chùa Nễ Châu - Hưng Yên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Nễ Châu – Một kiến trúc nghệ thuật đặc sắc tọa lạc tại đường Phố Hiến, xã Hồng Nam, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Chùa do Sư thầy Thích Đàm Phương trụ trì. Chùa Nễ Châu còn có tên chữ là Thụy Ứng Tự. Địa phận chùa Nễ Châu trước đây là khu vực chợ Nễ Châu, địa danh cuối cùng của Phố Hiến hạ – trung tâm thương cảng Phố Hiến thời kỳ phồn thịnh thế kỷ XVI – XVII.

Chùa được xây dựng từ cuối thế kỷ thứ 10, gắn với truyền thuyết về bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh, vợ vua Lê Hoàn. Khi Lê Hoàn về đóng quân trấn ải ở đây chống quân xâm lược nhà Tống, đã lấy bà làm vợ. Bà giúp nghĩa quân cất giấu lương thảo, chăm lo hậu cần. Giặc tan, bà xin ở lại phụng dưỡng cha mẹ và đi tu tại chùa làng. Lê Hoàn cử Giới Quốc Công về xây dựng chùa. Khi bà mất, nhà vua cho lập đền thờ ngay phía trước cổng chùa.

Trải qua các triều đại, chùa Nễ Châu đều được trùng tu, tu sửa. Lần tu sửa gần đây nhất là vào thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại nguyên niên (1926). Chùa có kiến trúc kiểu “Nội đinh ngoại quốc” bao gồm các hạng mục: tiền đường, thượng điện, nhà tổ và hai dãy hành lang.

Nổi bật về giá trị nghệ thuật điêu khắc chùa Nễ Châu là bộ tượng Tam Thế và tượng Tuyết Sơn có niên đại thế kỷ 18. Tượng được tạo tác cân đối, đường nét sống động thể hiện trình độ nghệ thuật tạo hình khá cao.

Đền thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh nằm đối diện chùa Nễ Châu, cũng được trùng tu vào thời Nguyễn, kiến trúc kiểu chữ Đinh bao gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung. Đền có kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu sen, chạm khắc hoa văn cách điệu, mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn.

Hằng năm, chùa Nễ Châu thường tổ chức tế lễ vào các ngày 15 tháng giêng và ngày 15.8 âm lịch để tưởng nhớ ngày sinh và ngày mất của bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh. Ngày 10.9 (âm lịch) kỷ niệm ngày mất của Lê Long Kính. Ngoài ra, vào những ngày lễ lớn của nhà Phật như: ngày Phật Đản, lễ Vũ Lan… cũng được tổ chức long trọng tại chùa, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.

chùa nễ châu
Quang cảnh sân chùa

Chùa Nễ Châu đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1992, xứng danh là một trong những công trình điêu khắc nghệ thuật có giá trị thuộc Quần thể Di tích Phố Hiến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Nễ Châu - Hưng Yên

Nguồn gốc của Âm lịch và Tử vi

Hầu như dân ở các nước Việt, Hàn, Nhật, và Trungquốc nơi khai sinh ra khoa lịch số, đều biết nhiều hay nghe nói về Âm lịch, dù có đang dùng Dương lịch như một tiêu chuẩn chung cho cả thế giới hiện nay. Thích hay không thì ít nhất đa số cũng đều chấp nhận chuyện ăn mừng tết Nguyên Ðán theo truyền thống dựa vào Âm lịch. Bởi vậy nên phần đông các cuốn lịch in ra trong các nước nói trên đều có phần ghi chú thêm ngày "Ta" đi kèm. Riêng đối với người Việt thì hình như nhà nào cũng thích có cuốn lịch thuộc loại tam tông miếu để treo tường, ngay cả trong những gia đình sống ở hải ngọai. Mục đích chính không phải vì thích coi theo ngày ta, mà nguyên nhân có lẽ là do từ tôn giáo và tín ngưỡng, biết ngày nào rằm hay mùng một để ăn chay (theo Phật gíao).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v. 

Hiện nay nghề làm lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!

Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí. 

Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.

Nguồn gốc Lịch số

Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ! 

Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch. 

Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời "Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD). 

Theo chínhsử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ! 

Phương pháp soạn Âm lịch

Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.

Giai đoạn I: Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa. 

Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác. 

Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương thay đổi.

Về giờ giấc, lịch số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v. 

Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.

Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:

Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .

Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn "tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà ra. 

Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!

Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa giáp. 

Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:


Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút. Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ (số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao. 

Như vậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay. 

Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!

(Chú thích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)

Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là có "Thánh nhân" hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!

Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn! 

Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.) 

Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau! 

Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.

Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay đổi của "Thượng đế", nên gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên. Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy). 

Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng lắm!

Tóm lại hệ thống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập Đông, Hạ chí v.v 

Những Bí ẩn của khoa Tử vi 

Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!

Những gì được người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế. 

Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!

Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai! 

Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiện lên! 

Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.

Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh! 

Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm. KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào.

Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó). 

Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!

Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau: 


Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều !

Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kimtinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu.

Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục, do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên (?)

Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểutượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này. 

Nguyễn Cường

Sacto 1/ 2003


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc của Âm lịch và Tử vi

Dự đoán về Tài vận (2)

- Thân nhược tài nhiều thì gặp tài là mang hoạ. - Trụ ngày giáp ất, mà hành vận dần mão thì kiếp tài phá tài. - Quan vượng, thân nhược , hành đến quan vận thì hại vô cùng, phá tài là chắc chắn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

-         Kiếp tài, kình dương thì nhất thiết kiêng kị gặp tuế vận, vì như thế sẽ phá tài, bại nghiệp, vì tài cạnh tranh nhau nên phải rời bỏ quê hương, thất nghiệp.

-         Trên trụ giờ có thiên tài thì sợ anh em, hành đến vận kiếp tài thì sẽ bị phá tài và tranh tài.

-         Tài nhiều, thân nhược là nhà cửa nhiều, nhưng của cải ít.

-         Thiên tài sợ hành vận tỷ kiếp, vì gặp vận đó sẽ phá tài, bại tài.

-         Tuế quan bị khắc là bại tài, phá tài.


-         Thân vượng, ấn vượng là tiền hao tán không tụ, chẳng thà rằng trữ của, bất động sản còn hơn.

-         Kiếp tài không nên gặp vượng địa, gặp hao tài.

-         Tài nên tàng ẩn, không nên để lộ, lộ thì dễ bị tranh giành.

-         Thương quan có tài khi hành đến đất quan, sát, gặp đất suy, tài tuyệt thì sẽ mất tài, mất lộc.

-         Thực thần gặp kiêu là tài vật hao tán.

-         Tài quan gặp tài quan là vì tham ô mà bãi chức.

-         Trong trụ kiêu ấn gặp đất tài lại không có tỉ kiếp thì tai hoạ vô cùng.

-         Trụ ngày yếu không thắng nổi tài thì vì của cải mà bị tai hoạ.

-         Kiêu thần mừng nhất gặp tài tinh, thân vượng gặp được là phúc, thân nhược gặp phải là hoạ.

-         Thân vượng hành đến vận tỷ kiếp thì phá tài bại nghiệp.

-         Trong trụ kiếp nhiều lại hành vận kiếp thì nên án binh bất động.

-         Tỉ, kiếp nhiều lại gặp tỉ kiếp là phá tài, ra cửa quan.

-         Thân vượng, tỉ kiếp nhiều lại không có tài thì khi gặp tài là tai hoạ ập đến.

-         Tài tinh nhập mộ thì vợ tính nhỏ nhen, quý của hơn người .

-         Trong trụ có tỉ kiếp , có tài tranh tài, khi không có tài là lúc hoạ đến ; anh em tranh của, vợ chồng tranh giành nhau.

-         Tài rơi vào không vong tất sẽ nghèo.

-         Tứ trụ không có tài để giữ cho mình khi ra ngoài cầu tài cần phải cẩn thận.

-         Tài tinh gặp kình dương thì mất của, mất người .

-         Hành đến vận kình dương thì của cải hao tán, khắc vợ, nát nhà.

-         Trong trụ có thập ác đại bại thì vàng đầy kho cũng thành đất bụi.

Năm 1987, ông Trình giám đốc một nhà máy ở Tây an muốn biết tình hình nhà máy như thế nào nên ông đã đứng chủ nhờ đoán vận nhà máy. Tôi thấy trong trụ của ông tỉ kiếp gặp tài, đại vận bính tuất gặp kiếp, lưu niên đinh mão gặp ngang vai, đúng là tỉ kiếp gặp vượng địa. Nên nói : nhà máy năm đó không những hiệu quả kém mà còn hao tài, nên dặn ông không được đầu tư một cách mù quáng để đề phòng phá sản. Ông nói: nhà máy mấy năm nay luôn làm ăn khá, chắc không đến nổi nghiêm trọng như thế, do đó không nghe theo lời khuyến cáo của tôi. Kết quả nhà máy cuối năm phá sản, ông rất hối hận. Trụ này, ứng với câu : " Tài tinh sợ nhất hành vận tỷ kiếp". 

Tháng 5 năm 1990, một phóng viên nhà báo nhờ tôi đoán hậu vận, tôi thấy trong trụ tài vượng, tài nhiều lại gặp kho, năm 1990 la lưu niên lại hợp với dần, ngọ, tuất của Tứ trụ thành tam hợp tài cục nên đoán : "Năm 1986 lại đây đã phát tài, tuy năm nay có tài, nhưng ngược lại có nguy hiểm về tính mạng". Ông và vợ liền nói: Năm nay nằm viện bị mổ nặng, tí nữa thì mất mạng. Trụ này ứng với câu : "Thân nhược không thắng tài thì vì của mà sinh nạn." 

Tháng 6 năm 1990 khi tôi giảng bài ở Thâm Quyến, gặp Tứ trụ của một tay đánh bạc. Trong trụ ngang vai gặp vượng địa, lại đại hành đại vận canh thân , lưu niên canh ngọ, tức là một loạt ngang vai đều vượng, vì đánh bạc bị thua mà trộm cướp nên bị bắt giam ra toà. Trụ này ứng với câu: " tỉ kiếp trùng trùng lại gặp tỉ kiếp là phá tài và ra cửa quan." 

Trong trụ này tỉ kiếp trùng lặp, đại vận là giáp tuất cung là đất kiếp, vì mưu lợi một cách phi pháp nên nửa đầu năm 1991 bị công an Quảng Châu Phá án bắt giam. Người này đã vi phạm câu "Tứ trụ kiếp nhiều hành vận tỉ kiếp thì nên giữ mình an phận". 

Ðây là Tứ trụ của Phó tổng giám đốc một Công ty ở Thâm Quyến, vì không biết mệnh vận của mình nên năm 1991 cho người khác vay 200 vạn đồng. Người vay tiền vừa nhận tiền là chạy ra nước ngoài. Do đó năm sau Phó tổng Giám đốc bị mất chức, ra toà. Ðó là sự tai hại vì không đoán mệnh, hối hận vì gặp tôi muộn quá. 

Vì sao Phó tổng giám đốc laị gặp tại hoạ này. Ðó chỉ là vì thời gian trước đó vận của ông rất thuận, từ năm 35 tuổi đến năm 44 tuổi là lúc bắt đầu bại vận mà không biết. Kiêu vận gặp năm tân mùi 91 kiếp tài, tức là kiêu sinh ra kiếp cho nên khó tránh khỏi việc mất của. 

Năm nhâm thân 1992 gặp thực thần, kiêu thần đoạt thực thần, tức là chỉ cho sinh hoạt phí thấp nhất. Lại lưu niên nhâm thân và thân tý thìn trong Tứ trụ cùng hội lại làm thương tổn quan cục cho nên Phó tổng giám đốc bị mất chức.

Ví dụ này ứng với câu: " Thực gặp kiêu thì tài vật hao tán", " Thương quan gặp quan là tai hoạ liên miên". 

Tháng 9 năm 1989, khi tôi giảng bài ở Ðại học giao thông Thượng Hải, có một người là người nhà của Chủ tịch Hội đồng quản trị một Công ty nhờ tôi đoán vận cho ông Chủ tịch ấn. Tôi thấy Tứ trụ nhược gặp ngang vai nhiều, vượng mà gặp ấn, đại vận lại hành vận thương quan. Lưu niên kỉ tị kiếp tài ; tiểu vận quý hợi cùng với lưu niên phạm thiên khắc địa xung. Nên đoán : tháng 4 năm 1989 có tai hoạ lớn. Ông ta nói : đúng như thế ! Ông chủ tịch vừa mới ký một hợp đồng với khoản tiền rất to, vừa về đến Ðài Loan thì bi ô tô đâm. Ðến nay đã 7 tháng vẫn chưa tỉnh, không biết từ nay về sau tính mệnh ra sao. Tôi nói tháng 10 âm lịch năm nay có một cửa ải, nếu vượt qua được thì mới bình an vô sự. 

Ông chủ tịch quản trị ấy hồi trẻ đã làm ăn nên nổi, gia tư giàu có, một vụ buôn bán cũng lên đến hàng chục triệu, không ngờ vận chuyển sang kiếp tài, đã hao tiền lại còn nguy hiểm đến tính mạng. Cho nên nếu không biết được mệnh vận thì tiền ức vạn quanh lưng biết đã tốt chưa ? 

Tháng 4 năm 1991, khi tôi đoán vận cho ngài Trương ở Singapo thấy trong Tứ trụ kiêu thần ba lần xuất hien , tính ra lưu niên đến năm kỷ tị lại gặp kiêu, đại vận ất sửu là đất tài tất sẽ có chuyện. Cho nên tôi đoán : năm 1989 có tai nạn lớn, nếu không bị bệnh nặng thì cũng mất của rất nhiều, thậm chí có thể khuynh gia bại sản. Ông Trương và bạn của ông nghe xong rất kinh ngạc. Bạn ông nói : Ðúng ! Gần 1 triệu đồng toàn bộ mất hết vì làm sai luật thuế nên bị tịch thu. Ông Trương ngồi bên lắc đầu lia lịa, không rõ là ông đang hối hận vì không biết vận hạn của mình hay là đang hối hận mình đã không tuân thủ luật pháp. Chắc cả hai điều đều có. Ví dụ này ứng với câu: " ấn kiêu gặp tài địa, không tỷ kiếp thì tai hoạ vô cùng." 

Ðây là một cô gái Mianma, đã buôn bán vàng bạc đá quý nhiều năm, lần này cố ý đến Băng Cốc tìm tôi để nhờ đoán vận. Tôi thấy trong Tứ trụ không có tài, xem các vận thấy trước năm 21 tuổi tài vận đã qua, do dó tôi nói với cô ta: cô không nên tiếp tục buôn bán nữa, bởi vì không những không phát tài mà chỉ càng thêm thua thiệt. Cô ta nói : chẳng trách gì mà nhiều năm nay tôi thua lỗ liên tục. Trụ này ứng với câu : " Trong mệnh không có tài thì không nên làm gắng". 

"Dự đóan theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán về Tài vận (2)

Tướng miệng đàn ông –

Miệng có góc cạnh rõ ràng, mở to, khép nhỏ, môi trên có vân, 2 môi cân xứng, sắc môi hồng nhuận, Nhân Trung (khoảng cách từ môi trên đến chóp mũi) có hình tam giác là tướng miệng tốt nhất. Chủ nhân tướng miệng này là người thông minh, nhân hậu, tài n
Tướng miệng đàn ông –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng miệng đàn ông –

Viết cho con nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc

Mẹ thường ôm con và thủ thỉ rằng, mẹ lúc nào cũng vui lắm vì có con trên đời. Con thỏ thẻ: "Là do con được sinh đúng vào hôm nay, ngày Quốc tế Hạnh phúc hả mẹ?". Mẹ chỉ mỉm cười....

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cái ngày con sinh ra, thế giới còn chưa công nhận đó là ngày Quốc tế Hạnh phúc đâu. Chỉ là, mẹ đặt tên con giống như ngày này, bởi mẹ đã ngập tràn hân hoan khi được đón tia nắng nhỏ của mẹ. Và cũng bởi vì, mẹ mong những niềm vui, những ngọt ngào sẽ vây lấy để vơi đi hết những thiệt thòi của con...

Mẹ nhớ, có lần một người bạn của mẹ đã khóc nấc và nói rằng, giống như có một con quỷ xấu xí và độc ác đã bám víu vào con - một nàng tiên xinh đẹp vậy. Đó là lý do vì sao trên làn da trắng mịn như sứ của con lại xuất hiện những vết bớt đen xấu xí, là đôi tay con co rúm khiến cử động rất khó khăn, là đôi chân bước đi một bước cũng thấy mệt nhọc, và cơ thể vô cùng yếu ớt. Dù khuôn mặt con thực sự xinh đẹp, nhưng vẫn chẳng ai muốn (dám) lại gần, còn lũ trẻ luôn gọi con là "quỷ nhỏ".

Mẹ cũng đã từng khóc, từng đau đến thắt tim vì thương con. Mẹ từng trở nên cộc cằn, đáng sợ với bọn trẻ để xua chúng tránh khỏi con càng xa càng tốt. Mẹ gồng mình để bảo vệ con khỏi bị tổn thương bởi con mắt người đời, và đôi khi, mẹ sợ hãi đến kiệt sức khi có ai đến gần con. Mẹ rất sợ họ sẽ làm con buồn, con khóc; mẹ chỉ muốn chúng ta có thể đi đến một nơi thật xa, nơi không có ai hết và sống thật vui vẻ bên nhau. Thế rồi...

Con càng lớn lên, mẹ dần nhận ra nỗi lo của mẹ hóa ra là... thừa! Những sợ hãi, thấp thỏm trong mẹ trước giờ chỉ khiến bản thân mẹ thấy mệt chứ chẳng có ý nghĩa gì với con hết. Thì, mẹ nhận ra rằng, thực sự mẹ đã sai rồi, chính những suy nghĩ trong mẹ mới "tật nguyền", chính mẹ cứ áp đặt một suy nghĩ độc ác rằng "con không bình thường như người khác" rồi cứ đi hờn trách người ta đã xa lánh, đã đối xử không công bằng với con. Trong khi, con của mẹ thực sự là cô bé hoàn hảo nhất.

Con lúc nào cũng hồn nhiên như một cái cây, dù có chỗ xù xì, có nơi xanh mướt nhưng luôn biết đung đưa trước gió và khiến cuộc đời mát lành. Mẹ nhận ra rằng cuộc sống đã chẳng bất công với con, vì đã trả lại cho con nụ cười, ánh mắt của thiên thần, và những gì thánh thiện nhất. Con chưa từng biết hờn giận, trách cứ ai. Ngày còn bé, con cứ ăn ngoan ngủ ngon, chẳng mấy khi khóc nhè. Lớn lên, con cười nhiều hơn, vui nhiều hơn, con dành cả nụ cười thân thiện cho bọn trẻ thường hay trêu chọc mình. Để dần dần, mọi người dành tình cảm cho con nhiều hơn, từ người lớn đến tụi trẻ nhỏ, ai cũng yêu mến và muốn ở cạnh con, nghe con nói thỏ thẻ và cười rạng rỡ. Và mẹ, mỗi khi thấy mệt mỏi, chỉ cần nhìn vào khuôn mặt ấy là mọi lo âu tan biến hết.

Phải rồi con nhỉ, mỗi chúng ta đều sinh ra với một hình hài, một tâm hồn khác nhau. Có người xinh đẹp, có người xấu xí, có người vui vẻ, kẻ cộc cằn,... Đó là cuộc sống nên chẳng có gì đáng phàn nàn hết. Miễn sao ta cứ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt vui tươi, luôn nở nụ cười với tất cả mọi người, chỉ cần thế thôi là đời đã đẹp hơn biết mấy. Và con, dù thế nào vẫn là một cô bé đáng yêu nhất, chỉ những kẻ khó ưa, luôn hằn học, chê bai, cáu bẳn và xấu tính, mới là những kẻ đáng ghét phải không con?

Thu Trang
(Theo Congluan.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Viết cho con nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc

Tìm hiểu 2 chữ bùa chú

Tìm hiểu sơ lược hai chữ bùa chú.
Tìm hiểu 2 chữ bùa chú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1/. Chữ Bùa nguyên Hán văn là PHÙ 

Chữ PHÙ ở đây có ý nghĩa chính là: “sự kết hợp Âm Dương hoàn hảo”, tức là sự suy nghĩ và hành động của con người, sống phải có nhân cách và đúng đạo lý…, Nó thể hiện uy vũ thiêng liêng, đầy quyền năng bí ẩn cao cả, bao la và vĩnh cữu. Tinh thần và quyền lực của Bùa được thể hiện qua các hình thức như: Phù điêu, đồ trang sức, cột mốc ranh giới, cái ổ khóa, binh khí, bảng hiệu, bảng chỉ dẫn, bảng cấm, cái đánh dấu riêng vào vật có chủ, nhà giam, v.v...

Bùa có hai loại: 1-  Có hình dáng: Chữ bùa. 2-  Không hình dáng: Bùa bóng.

 Những nét bùa thể hiện sự biến chuyển tư tưởng trong tính Âm Dương, Bát quái, Ngũ hành..., vì vậy nó như một loại vũ khí hay lệnh bài… có mang năng lượng và quyền lực bí ẩn đến khắp nơi và tồn tại trong vũ trụ rất lâu dài.

2/. Chữ Chú là từ Hán văn: Theo phân tích, chữ CHÚ có hai chữ khẩu phía trên, ý nghĩa chính là thể hiện quyền lực bằng lời nói, có hai cách: -   Nội dung chú ác: Mệnh lệnh, quyết định, nguyền rủa, bản án… -  Nội dung chú thiện: Chúc nguyện, cầu xin, hướng dẫn, lời hứa, khuyên bảo, lệnh truyền, lời nguyền của đấng cao cả, v.v...

Chú có hai dạng: 1-  Thần chú: Những bài chú có sẵn từ trước...  do các đấng  cao cả truyền lệnh, thần chú  là những thông tin huyền bí và có năng lực mầu nhiệm, ta đọc thần chú của ai thì vị đó hộ trì… 2-  Ý chú: Bài chú do chính mình đang sáng tạo ra....

Chú thể hiện qua hai cách:

1-  Có âm thanh: Đọc lời chú. 2-  Không âm thanh: Trong đầu ngầm phát lệnh.

3/. Giá trị và sự diệu dụng của bùa chú:

- Hình ảnh và nội dung của bùa chú là kết tinh của trí tuệ siêu việt trong lúc tâm linh vô thức thăng hoa. - Bùa chú bao hàm đạo học tâm linh, luật pháp siêu hình, y thuật đa năng… góp phần giúp ích sự an sinh xã hội sức khỏe, bình an và hạnh phúc... - Bùa chú có công năng chữa lành thân bệnh và tâm bệnh, bảo vệ thân mạng, tài sản, giúp đỡ người hiền lương, răn dạy và trừng phạt kẻ tà tâm gian ác, ma quỉ lộng hành, v.v... - Bùa chú thông qua các vật thể để được sự linh ứng như: dầu, nước, lửa, giấy, chỉ, cát, đất, đá, sành sứ, gỗ, lá cây, gốc lúa, củ ngải, kim loại, xác động vật và vị thế ao hồ, núi, sông, v.v... -  Năng lực của bùa chú rất phi thường mang đến những hiệu quả rất cao và nhanh chóng.

4/ Phương cách sử dụng Bùa chú: Có khi chỉ dùng chữ bùa mà không có câu chú; Có lúc chỉ sử dụng câu chú mà không có chữ bùa kèm theo; Có nhiều trường hợp phải dùng cả chữ bùa và câu chú... mới có hiệu quả. Có những điều huyền diệu như thế, đều do vị chân sư quyết định khi tạo ra năng lực cho chữ bùa – câu chú...

5/ Nhận định từ bùa chú: Xưa nay, chữ phù chú hay bùa chú đều có trong Hán Việt từ điển và Từ điển Việt Nam. Nếu dùng từ hoa mỹ hơn để thay thế từ “phù” – bùa, “chú” sẽ làm mất đi giá trị ý nghĩa đặc thù của nó.
Đạo sĩ Kim Kang ta nói: “Bùa chú không có tính tôn giáo, bùa chú thể hiện sức sáng tạo của con người trong lúc tâm linh vô thức thăng hoa, nó là loại khí công thượng thừa dùng để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh, bùa chú có tính khoa học tâm linh rất sâu sắc nên bản thân bùa chú không phải là những điều mê tín, mà chỉ có những người không muốn hiểu biết về nó đã khoác lên bùa chú chiếc áo đầy sắc màu mê tín”.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu 2 chữ bùa chú

Xem tướng tư thế ngủ lột tả tính cách và tài vận của bạn –

Xem tướng. Ngủ giống như công việc thường làm hàng ngày, nhưng đã bao giờ bạn thử hỏi tư thế ngủ không đúng có thể ảnh hưởng đến tài vận không? Xem tướng ngủ của bạn Trái ngược với tư thế nằm thu mình, bạn là người vui vẻ phóng khoáng, chân thành đá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng. Ngủ giống như công việc thường làm hàng ngày, nhưng đã bao giờ bạn thử hỏi tư thế ngủ không đúng có thể ảnh hưởng đến tài vận không?

Xem tướng ngủ của bạn

Trái ngược với tư thế nằm thu mình, bạn là người vui vẻ phóng khoáng, chân thành đáng quý. Tuy nhiên không có điều gì là hoàn hảo cả. Trọng tâm cuộc sống của bạn phải bắt đầu từ việc tạo dựng niềm tin, học cách nhìn nhận sai lầm và khiếm khuyết của mình, phải hiểu rằng điều đó thực ra chính là cái giá để tự hoàn thiện bản thân mình, có như vậy hạnh phúc mới đến với bạn.

Nằm nghiêng – nằm nghiêng một bên

Tư thế ngủ này cho thấy bạn là người luôn có niềm tin. Do bạn luôn nỗ lực cố gắng nên làm bất cứ việc gì cũng đều có thể thành công. Tư thế này cho thấy họ có thể trở thành một người giàu có và có quyền thế trong tay.

Nằm nghiêng – thu mình

ngu2

Tư thế ngủ này cho thấy rõ cảm giác bất an của bạn, do vậy bạn có thể nảy sinh lòng ích kỷ, hay đố kỵ và có ý định phục thù. Vì bạn rất dễ cáu gắt, nên những người xung quanh đều phải hết sức dè chừng, tránh động chạm đến nỗi đau của bạn mà khiến bạn phẫn nộ.

Nằm nghiêng – co một chân

Đặc điểm tính cách của bạn là hay hoang mang sợ hãi và quá nhạy cảm. Bạn luôn thích than vãn và trách móc này nọ. Do vậy có thể đoán biết rằng, ngoài ra bạn cũng là người luôn có tâm trạng căng thằng, vì vậy rất dễ có những phản ứng gay gắt đối với những chuyện nhỏ nhặt. Bạn phải nhắc nhở bản thân rằng, cuộc sống thực ra chẳng có gì là ghê gớm cả, hãy học cách thả lỏng mình!

Nằm thẳng – duỗi chân giang tay

Luôn tự do và giàu nhiệt huyết! Tư thế ngủ này thể hiện rõ tính chân thành của bạn. Bạn là người luôn khiến người khác cảm thấy thoải mái, là người tôn thờ cái đẹp. Bạn có thể kiếm được nhiều tiền nhưng cũng tiêu xài hoang phí.

Một đặc điểm khác về tính cách khiến người khác không vui đó là, bạn hay xen vào những việc không đâu, và một điều tệ hại hơn là, bạn có vẻ là một người rất thích bới móc khuyết điểm của người khác. Như vậy thì ai muốn bạn trở thành nhân vật chính của câu chuyện tiếp theo?

Nằm thẳng – hai tay để sau gáy

ngu3

Bạn có trí thông minh tuyệt đỉnh và luôn nỗ lực học hỏi. Tuy nhiên đôi khi lại có ý nghĩ hoang đường, khiến người ta khó mà hiểu nổi, khó mà sánh bước cùng bạn. Bạn rất biết cách chăm sóc người thân, nhưng vấn đề chính là rất khó để yêu thương một ai đó.

Nằm thẳng – hai chân bắt chéo

Người có tư thế ngủ này thông thường đều có tính tự sướng, họ quen với mô thức sẵn có trong cuộc sống, do vậy rất khó chấp nhận sự thay đổi. Ở một mình có thể là sự lựa chọn tốt nhất trong tiềm thức của bạn. Hay nói cách khác, khả năng giải quyết vấn đề của bạn luôn phụ thuộc vào tính kiên nhẫn.

Tư thế khác – chân tay để sát người

Do luôn bị giằn vặt với những ký ức không mấy tốt đẹp trước đây, nên bạn luôn cảm thấy trống vắng, buồn tẻ, chìm đắm trong thất bại và sóng gió của quá khứ. Cũng chính vì như vậy mà bạn có vẻ là một người thiếu quyết đoán, hay trì trệ, không dứt khoát, ấn tượng của mọi người về bạn đó là bạn đã để tuột mất tình yêu của mình.

Tư thế khác – trùm chăn kín mít

ngu_ad

Ở những nơi công cộng bạn luôn tỏ ra là người vô tư, thoải mái và thẳng thắn, tuy nhiên trong thâm tâm bạn lại luôn ẩn chứa cảm giác thẹn thùng và yếu đuối. Nếu khó khăn trắc trở đến tới tập, bạn thà chịu đựng sự giày vò chứ không muốn nhờ người khác giúp đỡ. Hèn chi khi ngủ tư thế của bạn thật kỳ quặc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tư thế ngủ lột tả tính cách và tài vận của bạn –

Bố cục phòng dành cho trẻ nhỏ theo phong thủy (tiếp)

Phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ rất quan trọng, trong đó bao gồm việc đặt vị trí giường ngủ thích hợp, thiết kế một không gian an toàn và hợp lý theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ rất quan trọng, trong đó bao gồm việc đặt vị trí giường ngủ thích hợp, thiết kế một không gian an toàn và hợp lý theo phong thủy cho trẻ cùng với các lựa chọn bài trí đúng cách sẽ kích thích trường khí tốt trong phòng cho bé

bố cục phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ

1. Vị trí thích hợp để đặt giường ngủ trẻ nhỏ theo phong thủy

Giường ngủ cũng là vật dụng quan trọng trong phòng trẻ. Vậy ,đặt giường ngủ ỏ đâu mới có lợi nhất cho sự phát triển của con bạn?

Xét từ góc độ phương vị, nếu là con một, giường trẻ nên đặt theo hướng của giường cha mẹ. Như vậy có thể bồi dưõng và tăng cường tình cảm gia đình. Nếu nhà bạn có 2 con hoặc đông hơn giường ngủ của các con cũng nên cùng quay theo một hướng. Như thế sẽ có lợi để duy trì tình cảm anh chị em.

Đầu giường trẻ nên quay theo hướng nào là thích hợp nhất? Xét theo góc độ Phong thủy học, hướng Chính Đông và Đông Nam là hướng tốt nhất cho giường trẻ. Vì 2 hướng này thuộc hành Mộc, mà hành Mộc lại có lợi cho sự phát triển của trẻ. Nếu trẻ thường khó ngủ, giưòng trẻ có thể quay theo hướng Tây hoặc hưóng Bắc, vì hướng này thưòng yên tĩnh nhất.

Ngoài ra, đầu giưòng không nên theo hướng Nam, Đông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc. Nếu giường hướng Nam sẽ không có lợi cho sự phát triển thể chất sức khỏe của trẻ. Giường hướng Đông Bắc sẽ khiến trẻ hình thành tính cẩu thả. Giường hướng Tây Nam sẽ khiến trẻ thiếu dũng khí. Giường hướng Tây Bắc sẽ khiến trẻ phát triển quá sốm. Vì thế, khi lựa chọn phương hướng để đặt giưòng cho trẻ, cha mẹ nên cẩn thận, tránh gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của con cái.

2.Thiết kế không gian an toàn cho trẻ nhỏ theo phong thủy

Trong các yêu cầu về phòng ngủ của trẻ, yêu tô an toàn được đặt lên hàng đầu. Vì trẻ còn nhỏ, những nhận thức và phán đoán về sự vật hiện tượng xung quanh đều rất non nớt. Hơn nữa, so với ngưòi lớn, những hành động trong cuộc sống của trẻ cũng rất tự nhiên. Vì thế, khi thiết kế phòng cho trẻ, cha mẹ cần phải tuân thủ quy định về độ an toàn để tạo nên một không gian có lợi cho sự phát triến của trẻ.

Không nên lấy giường của ngưòi lớn làm giường ngủ của trẻ, như thế không chỉ hạn chế những nguy hiểm nêu trẻ bị ngã xuống giường mà còn phù hợp vối nguyên lý phong thủy. Đồ đạc trong phòng trẻ nên được đơn giản hóa, đặc biệt, cha mẹ nên chọn những vật có hình tròn. Không nên đặt những vật bằng thủy tinh hoặc những vật có đầu nhọn trong phòng trẻ. Ngoài ra, các đồ điện tử đều có sóng điện từ, vì thế, trong phòng trẻ, cha mẹ cũng không nên đặt đồ điện tử như tivi, máy tính.

Cha mẹ không nên để trẻ tiếp xúc vói các ổ điện, phích cắm. Đèn điện trong phòng trẻ tốt nhất nên chọn loại đèn tưòng. Nền phòng cũng nên lát gỗ tự nhiên. Như vậy không chỉ an toàn mà còn dễ dàng lau dọn. Nhiều gia đình vì hạn chế việc trẻ bị ngã nên thường trải thêm thảm lót nền. Thực ra, thảm trải nền tuy an toàn nhưng lại dễ bắt bụi, sau thòi gian dài, trẻ sẽ hít phải khí bụi mà sinh tật bệnh.

3.Lựa chọn tranh ảnh thích hợp treo phòng trẻ theo phong thủy

Rất nhiều gia đình khi thiết kế phòng cho trẻ đều treo tranh trên tường. Treo tranh trong phòng trẻ sẽ tạo nên một không gian sống động. Nhưng từ góc độ phong thủy, cha mẹ không nên tùy ý lựa chọn các bức tranh treo tường. Vậy, những loại tranh ảnh nào mới có lợi cho sự phát triển của trẻ?

Hình ảnh của bức tranh nên mang tính tích cực, như vậy đốì với việc bồi dưõng tính cách của trẻ sẽ có tác dụng hiệu quả. Những bức tranh có hình các ngôi sao màn bạc không thích hợp. Ngoài ra, các bé trai thường hiếu động, vì thế, cha mẹ không nên treo những tranh ảnh có hình xe pháo, mãnh thú trong phòng chúng. Nếu không sẽ khiến trẻ dễ trở nên ương ngạnh, khó bảo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục phòng dành cho trẻ nhỏ theo phong thủy (tiếp)

Sự nghiệp thăng tiến bất ngờ với chữ kí hợp Mệnh

Nhiều người tin rằng, chữ ký hợp phong thủy, sẽ quyết định phần lớn đến vận mệnh tương lại của chủ nhân.
Sự nghiệp thăng tiến bất ngờ với chữ kí hợp Mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người tin rằng, chữ ký hợp phong thủy, sẽ quyết định phần lớn đến vận mệnh tương lai của chủ nhân. 


Su nghiep thang tien bat ngo voi chu ki hop Menh hinh anh
 
Không ít người, đặc biệt là những doanh nhân, người có công danh sự nghiệp, đều lựa chọn rất kỹ mẫu chữ ký hợp nhất với mình. Người ta tin rằng, chữ kí hợp mệnh sẽ mang tới sự nghiệp thăng tiến, công việc hanh thông và thành đạt.
 
Theo phong thủy, người mệnh Mộc kỵ với hình tròn và sắc nhọn. Vì thế, các nét nên cao, rộng, dài thoáng. Chữ ký của người mệnh Mộc trông phóng khoáng sẽ giúp họ nhanh thăng tiến về công danh.
 
Người mệnh Hỏa cần sử dụng nhiều nét nhọn, sắc, không theo quy tắc cụ thể; kỵ với hình bán nguyệt và lượn sóng. Có thêm sự tự do trong chữ ký thì người mệnh Hỏa sẽ được tiếp thêm sức lực trong các công việc đòi hỏi sự sáng tạo và trí tưởng tượng.
 
Chữ ký của người mệnh Thổ hợp nhất là có hình chữ nhật nằm dài hoặc hình vuông, chữ cần có tư thế ổn định, chắc chắn; kỵ với hình chữ nhật đứng cao. Người mệnh Thổ với nét chữ vững chãi là điểm tựa cho sự phát triển hoặc rất có lợi khi khởi nghiệp.
 
Người mệnh Kim chữ ký hợp phong thủy nên có hình tròn làm chủ đạo (có hình tương tự hình tròn và các nét nên uốn lượn tròn); kỵ nhất với các đường gấp khúc, sắc nhọn. Điều này tiếp thêm sự khéo léo, khôn ngoan trong các mối quan hệ cho người mệnh Kim.
 
Người mệnh Thủy chữ ký cần có hình lượn sóng, hình tròn, hoặc hình bán nguyệt; kỵ với các loại hình vuông góc. Sự linh hoạt và thông thái toát lên từ chữ ký sẽ cổ vũ người mệnh Thủy mạnh dạn trong các cuộc làm ăn hoặc tự tin hơn nơi công sở.  
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Theo Một thế giới

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự nghiệp thăng tiến bất ngờ với chữ kí hợp Mệnh

Khi 12 con giáp uống cocktail

Một ly Cocktail có cồn là một ý tưởng không tồi giúp 12 con giáp cảm thấy thư giãn và yêu đời hơn rất nhiều. Khi thưởng thức, hương vị cocktail sẽ đốt cháy bạn
Khi 12 con giáp uống cocktail

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

một cách hồi hộp. Cùng ## khám phá hương vị đặc trưng cùng tính cách của 12 con giáp nhé!


► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về mười hai con giáp bạn nên xem

Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 2
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 3
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 4
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 5
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 6
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 7
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 8
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 9
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 10
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 11
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 12
Infographic Chat lu voi ly cocktail 12 con giap hinh anh 13
Hà Phương tổng hợp
 
 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi 12 con giáp uống cocktail

Ý nghĩa tiết lập xuân 2016

Tiết lập xuân 2016 sẽ diễn ra vào ngày 4 tháng 2 dương lịch tức ngày 26 tháng 12 theo âm lịch. (Các bạn có thể xem rõ hơn lịch về ngày Tiết lập xuân 2016 tại lịch vạn niên).
Ý nghĩa tiết lập xuân 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Tiết lập xuân 2016 sẽ diễn ra vào ngày 4 tháng 2 dương lịch tức ngày 26 tháng 12 theo âm lịch. (Các bạn có thể xem rõ hơn lịch về ngày Tiết lập xuân 2016 tại lịch vạn niên).

Theo âm lịch, tháng giêng, tháng 2, tháng 3 là mùa xuân, tháng 4, 5, 6 là mùa hạ, tháng 7, 8, 9 là mùa thu, tháng 10, 11, 12 là mùa đông, theo cách tính này thì ngày 1 tháng giêng là ngày đầu của mùa xuân.

Nhưng âm lịch không phản ánh thực đúng sự biến thiên của thời tiết. Do đó, cách tính ngày “lập xuân” là ngày bắt đầu của mùa xuân.

Tiết lập xuân là ngày tốt để làm việc bắt đầu cho 1 năm mới như: Cúng tế, cầu phúc, cầu tự, đính hôn, ăn hỏi, cưới gả, giải trừ, chữa bệnh, động thổ, đổ mái, sửa kho, khai trương, ký kết, giao dịch, nạp tài, mở kho, xuất hàng, an táng, cải táng

Ngày lập xuân là ngày gì?

Lập xuân là ngày đầu của 24 tiết khí. Nó cố định vào ngày 4 hoặc 5 tháng 2 dương lịch. Nhiều người cho rằng, dựa vào âm lịch để tính tiết khí, nhưng trên thực tế lại dựa vào dương lịch để tính tiết khí, đó là sáng tạo mà tổ tiên ta đã áp dụng để bù đắp vào chỗ khiếm khuyết của âm lịch đã không phản ánh được biến thiên về mùa vụ của thiên nhiên.

Đông chí và xuân phân cách nhau 91 ngày, lập xuân ở vào giữa 2 tiết khí này tức là sau đông chí 45 ngày nếu chỉ căn cứ vào vấn đề của quả đất về thiên văn học thì lập xuân coi là bắt đầu của mùa xuân đại để là chính xác, vì rằng, lúc này ánh sáng mặt trời đang từ vị trí cực nam quá độ chuyển vào vị trí ở chính giữa, tức là giai đoạn quá độ từ mùa đông sang mùa xuân.

Nhưng nếu tính toán như vậy thực tế vẫn chưa phù hợp với biến đổi của thời tiết. Vấn đề là ở chỗ nào? Khi chúng ta cảm thấy thời tiết nóng hay lạnh không phải chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi góc độ ánh sáng mặt trời biến đổi mà biến đổi theo, mà là sau khi ánh sáng mặt trời chiếu xạ xuống mặt đất, nhiệt lượng phóng ra nhiều hay ít mà làm thay đổi độ nóng lạnh. Bản thân quả đất là một dung khí giữ nhiệt từ sau xuân phân (22 tháng 3 dương lịch, mặt trời ngày càng cao lên, mặt đất ngày càng tiếp nhận nhiệt năng đến hạ chí (22 tháng 6) là đỉnh điểm. Nhưng mặt đất phải mất từ 1-2 tháng mới tích luỹ đủ nhiệt lượng, khiến nhiệt độ ở bắc bán cầu đạt tới điểm cao nhất, vì vậy ở bắc bán cầu, những ngày nóng nhất không phải là tháng 6 mà là tháng 7, tháng 8. Đến mùa đông, mặt trời từ phía nam chiếu chếch xuống mặt đất, mặt đất bắt đầu mất đi nhiệt lượng, thu không đủ chi, đến đông chí (ngày 22 tháng 12 dương lịch) mặt trời ở vị trí cực nam, nhưng phải chờ 1-2 tháng sau bắc bán cầu mới hết nhiệt lượng, nhiệt độ xuống tới mức thấp nhất, lúc này đúng vào tiết lập xuân, vì vậy mùa đông thường đến lập xuân mới là lạnh nhất.

Nếu lấy nhiệt độ biến đổi để quyết định mùa tiết, thì bắt đầu mùa xuân phải là sau trung tuần tháng 3, lúc này đúng là xuân phân (22 tháng 3 dương lịch) vì vậy ngành thiên văn học lấy ngày này là ngày bắt đầu của mùa xuân, rồi lấy hạ chí là bắt đầu của mùa hạ, thu phân là bắt đầu của mùa thu, đông chí là bắt đầu của mùa đông.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Tiết lập xuân được tính như thế nào?

Tiết Lập xuân là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên.

Vì lịch của người Trung Quốc, cũng như Việt Nam cổ đại, bị nhiều người lầm tưởng là âm lịch thuần túy nên rất nhiều người cho rằng nó được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch nên nếu giải thích theo thuật ngữ của lịch hiện đại ngày nay (lịch Gregory) thì nó được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo của mình xung quanh Mặt Trời. Nếu tính điểm xuân phân là gốc (kinh độ Mặt Trời bằng 0°) thì vị trí của điểm lập xuân là kinh độ Mặt Trời bằng 315°. Do vậy ngày bắt đầu tiết Lập xuân được tính theo dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 4 hoặc 5 tháng 2 dương lịch tùy theo từng năm.

Theo quy ước, tiết lập xuân là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 4 hay 5 tháng 2 khi kết thúc tiết đại hàn và kết thúc vào khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết vũ thủy bắt đầu.

Ngày lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác gần khu vực xích đạo ở Bắc bán cầu Trái Đất. Đối với các nước ở cao hơn về phía bắc thì ngày bắt đầu của mùa xuân là ngày diễn ra điểm xuân phân tính theo lịch Gregory. Thời điểm này ở Nam bán cầu Trái Đất là đầu mùa thu.

Xét về mặt thời tiết, khí hậu thì từ thời điểm này trở đi ở miền bắc Việt Nam-tính từ đèo Hải Vân trở ra, do ảnh hưởng giao thời của hai luồng gió giao mùa là gió đông-bắc và gió đông-nam, bắt đầu có mưa nhỏ kéo dài còn gọi là mưa phùn làm độ ẩm của không khí và đất lên cao gây ra hiện tượng nồm (hiện tượng làm hơi nước ngưng tụ lại trên bề mặt các đồ vật tiếp giáp gần với mặt đất cũng như nhà cửa). Trong nông nghiệp thì hiện tượng này mang lại một số lợi ích do cây trồng bắt đầu có đủ lượng nước cần thiết để phát triển. Tuy nhiên trong đời sống hàng ngày thì thời tiết như vậy gây ra nhiều khó khăn như các loại bệnh tật đối với người và gia cầm, gia súc cũng như cây trồng, do các loại vi khuẩn có điều kiện thuận lợi để phát triển do độ ẩm cao và nhiệt độ môi trường thích hợp.

Thời điểm thích hợp cho cây nông nghiệp phát triển

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa tiết lập xuân 2016

Vật phẩm phong thủy cầu con cái –

Rất nhiều gia đình hiện nay đang hiếm con, muộn con và đã sử dụng nhiều cách chưa được. Vậy thì hãy cầu con bằng vật phẩm phong thủy, Điều này sẽ mang lại may mắn cho bạn về lộc con cái. Vật phẩm cầu con sẽ mang lại cho bạn những đứa con như bạn hằng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rất nhiều gia đình hiện nay đang hiếm con, muộn con và đã sử dụng nhiều cách chưa được. Vậy thì hãy cầu con bằng vật phẩm phong thủy, Điều này sẽ mang lại may mắn cho bạn về lộc con cái. Vật phẩm cầu con sẽ mang lại cho bạn những đứa con như bạn hằng mong ước.

Nội dung

  • 1 Vật phẩm phong thủy cầu con
    • 1.1 Tranh Liên sinh quý tử
    • 1.2 Tranh giàn bầu
    • 1.3 Thạch lựu
    • 1.4 Tranh Cát khánh hữu dư
    • 1.5 Tranh Kỳ Lân tặng con
    • 1.6 Giả ngọc sơn
    • 1.7 Lồng đèn đỏ

Vật phẩm phong thủy cầu con

Tranh Liên sinh quý tử

Với những người sốt ruột muốn có con ngay, hãy sử dụng miếng ngọc bội cổ mang tên “liên sinh quý tử”. Hình dạng của miếng ngọc bội này là 1 cậu bé ngồi trên lá sen hoặc tay cầm bông sen (loại này còn có tên là “trì hà đồng tử”) “liên” là hoa sen, lá sen nhưng lại đồng âm với chữ “liên” là liền ngay, nên tấm ngọc bội mang ý nghĩa cầu chúc có con sớm.

ktt_13.11_quytu1_kienthuc_gcjj

Tranh giàn bầu

Trong dân gian, hình tượng một gia đình đông con nhiều cháu thường được ví với “bầu bí đầy đàn”. Vì vậy, hình ảnh giàn bầu sum xuê cũng tượng trưng cho sự đông đúc, đầy đủ con cháu. Giàn bầu bí dây leo chằng chịt, quả to quả bé treo lủng lẳng là biểu tượng một gia đình sum họp, con đàn cháu đống. Người ta khắc họa hình giàn bầu trĩu quả trên đá ngọc làm bùa cho những đôi vợ chồng hiếm con, nếu vẽ thành tranh thì treo trong nhà, với ý cầu chúc đẻ nhiều con.

ktt_13.11_quytu2_kienthuc_dihv

Thạch lựu

Để có nhiều con, có thể sử dụng viên bạch ngọc tạc hình quả lựu. Hình quả lựu ở đây được bổ làm đôi, 1 nửa lộ ra rất nhiều hạt, mang ý nghĩa “lựu khai bách tử” (tức là lựu nở nhiều con). Việc mang tặng bức tranh “lựu khai bách tử” cho đôi vợ chồng mới cưới, được coi là lời cầu chúc tốt đẹp.

ktt_13.11_quytu3_kienthuc_garb

Tranh Cát khánh hữu dư

Treo tranh có hình 2 đứa trẻ tay cầm khánh, tay cầm cá. Khánh với ý nghĩa là “cát khánh” (điều vui mừng, tốt lành), cá biểu tượng là “hữu dư” (có dư).

ktt_13.11_quytu4_kienthuc_nfdb

Tranh Kỳ Lân tặng con

Tương truyền, Khổng Tử là báu vật do Kỳ Lân ban tặng. Sau khi thân mẫu của Khổng Tử nằm mơ thấy Kỳ Lân tới tặng con thì một thời gian sau đã sinh nở được Khổng Tử. Vì vậy, sau này để cầu con dân gian thường sử dụng bức tranh hay pho tượng Kỳ Lân để mong cầu có con. Nên kết hợp với Bát trạch để bày tại phương vị con cái trong Bát Trạch Đồ.

ktt_13.11_quytu5_kienthuc_aadv

Giả ngọc sơn

“Núi quản nhân đinh, sông quản tài lộc”. Đó chính là quan niệm trong phong thuỷ. Vì vậy, đặt đúng núi vào phương vị cần thiết để tăng cường nhân đinh cho những gia đình hiếm muộn con cái. Ngoài ra, Ngọc Sơn (núi bằng đá quý) còn có tác dụng làm “toạ sơn” cho nhưng nơi có địa thế suy yếu phía sau lưng. Bạn có thể bày Ngọc Sơn phía sau lưng để mong cầu nhận được sự hỗ trợ của cấp trên và bạn bè đồng nghiệp.

ktt_13.11_quytu6_kienthuc_shnh

Lồng đèn đỏ

Trường phái Phong thủy biểu tượng cho rằng, có rất nhiều biểu tượng đem lại vận may về sự sinh sản nhưng biểu tượng phổ biến nhất là lồng đèn đỏ. Ánh sáng từ lồng đèn đỏ phát ra được cho là ánh sáng tốt lành, mang đến nhiều niềm vui lớn cho gia đình. Trên lồng đèn thường vẽ chữ hoặc trang trí các biểu tượng tốt đẹp. Lồng đèn được treo gần giường tân hôn để tăng cường vận may về khả năng thụ thai.

ktt_13.11_quytu7_kienthuc_prns

Đôi khi người ta treo lồng đèn ở hai bên giường – cho cô dâu và chú rể. Hai đèn này được thắp cùng một lúc, nếu chúng cháy cùng tốc độ và tắt cùng lúc thì đó là dấu hiệu may mắn của một cuộc hôn nhân hạnh phúc và bền vững. Những lồng đèn như thế thường có vẽ chữ Song hỷ sẽ thu hút năng lượng dương, thuận lợi cho việc thụ thai và sinh con trai. Khi người vợ có thai, đèn lồng vẫn được thắp sáng mỗi đêm. Lồng đèn đỏ và vàng là biểu tượng được đặt trong phòng tân hôn để kích hoạt vận may về đường con cái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy cầu con cái –

Vòng dâu tằm, bột trừ tà có tác dụng trừ tà thật không

Trong khi nhiều chủ hàng lo buôn bán èo uột trong tháng cô hồn thì những sản phẩm được cho là có tác dụng giải đen, tránh tà ma lại thu hút người mua.
Vòng dâu tằm, bột trừ tà có tác dụng trừ tà thật không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm, vòng dâu tằm giúp em bé tránh tà ma, khóc đêm và bớt mồ hôi trộm. Vì thế, từ đầu tháng 7 âm lịch, số người tìm mua lá và vòng gỗ dâu về đặt dưới gối hoặc đeo cho con nhỏ tăng gấp nhiều lần bình thường. Các loại vòng dâu tằm thông thường đang được bán 11.000-20.000 đồng một chiếc. Riêng loại điểm thêm bạc hoặc con giáp có giá cao hơn nhiều lần, khoảng 170.000-300.000 đồng mỗi chiếc. Chị Trang, chủ xưởng sản xuất vòng dâu ở Khương Trung, Hà Nội, cho biết, mặt hàng này bán khá chạy. Các tháng trước, chị chỉ bán được 5-10 chiếc mỗi ngày, nhưng bước sang tháng 7 âm lịch, số lượng bán tăng lên, có ngày cả trăm chiếc. Chị Trang nói thêm, tháng cô hồn năm ngoái, chị bán được vài nghìn chiếc.   Công đoạn làm vòng dâu tằm khá đơn giản. Nguyên liệu thường là cành dâu bánh tẻ đã tước vỏ phơi khô, cắt thành đoạn nhỏ, cho vào máy tạo hạt. Các hạt gỗ kết hợp với hạt bạc được xiên bởi một sợi chỉ đỏ, với ý nghĩa mang lại may mắn. Mỗi khách đặt mua sẽ được tặng kèm túi lá dâu để đặt ở đầu giường, được cho là giúp bé ngon giấc.

Vòng gỗ dâu tằm có tác dụng trừ tà cho em bé

Vòng làm bằng gỗ cây dâu đang được nhiều người mua đeo cho trẻ nhỏ. 

Theo chị Trang, ngoài làm trang sức, sản phẩm được nhiều người tìm mua vì yếu tố tâm linh. Bên cạnh đó, việc đeo vòng dâu cũng rất khoa học, bởi hơi khí của loại cây này giúp trẻ tránh bị sài đẹn, ra mồ hôi trộm. Đặc biệt, rễ cây dâu thường sử dụng chữa bệnh đau khớp nên nhiều người cũng cho rằng, đeo vòng dâu cho trẻ em tránh được bệnh lý về xương khớp.  Chị Hà Linh, một người bán vòng dâu tằm ở Hà Nội, chia sẻ, chi phí nguyên liệu làm vòng dâu rất rẻ, chỉ tốn nhiều ở khâu gia công. Thông thường, mỗi chiếc vòng dâu chị lãi khoảng 5.000-6.000 đồng, loại gắn hạt bạc lời được khoảng 30.000-50.000 đồng. Do nhu cầu mua vòng dâu vào tháng 7 lớn nên trên thị trường Hà Nội còn xuất hiện nhiều vòng dâu giả. Theo kinh nghiệm của những người bán, nếu vòng được làm thủ công bằng nhánh dâu tằm tự nhiên, khi quan sát kỹ sẽ thấy những sợi dài và không có nhiều đốm khác màu trên hạt. Lõi hạt dâu thường xốp, kích thước không giống nhau. Nếu lõi xốp nhỏ, những đoạn nhánh đầy, cứng, rất có thể được làm từ cây mù hoặc tre trúc. Loại này có giá bán bằng nửa so với vòng dâu thật. "Đặc biệt, những vòng dâu tằm có màu sáng bóng, trơn tuột được nhuộm vân bằng hoá chất rất hại cho sức khoẻ trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh", chị cho hay.

Bột tẩy uế có tác dụng trừ tà thật không

Bột tẩy uế được cho có tác dụng tẩy sạch uế khí của gia chủ trước khi bước vào nhà, được chào bán với giá 250.000 đồng một gói.  

Mặc dù không tin về tác dụng trừ tà của vòng dâu tằm, nhưng chị Bạch Hân (Đống Đa, Hà Nội) vẫn mua 4 chiếc về đeo tay và chân cho bé và đặt đầu giường ngủ. Chị cho rằng "có thờ có thiêng, có kiêng có lành". Hơn nữa, gỗ cây dâu lành, mùi thơm nhẹ và có thể giữ màu sáng được 2-3 năm. Đây cũng là món quà chị thường tặng cho các em bé vào dịp đầy tháng, sinh nhật hoặc tặng cho bà bầu. 

Ngoài vòng dâu, thị trường thuốc trừ tà, bột tẩy uế cũng là những mặt hàng được nhiều người quan tâm trong tháng 7 âm lịch. Loại này có giá bán khá cao, dao động 196.000-250.000 đồng một gói. Theo người bán, các loại thuốc này được lấy từ một số lá, rễ, cành, vỏ cây bồ đề rồi xay nhuyễn, trộn thêm các thành phần khác để tạo mùi thơm đặc trưng.
Tuy mới chỉ phổ biến trong ít năm lại đây nhưng rất nhiều người đã tìm mua loại bột trừ tà. Theo người bán, các gói bột này được nhập từ Hong Kong (Trung Quốc); nhờ đã được niệm chú yểm bùa, chỉ cần đốt lên là có thể trừ tà ma. Các gói bột trừ tà này có giá khá cao, gần 200.000 đồng/gói. Ở phố cổ Hà Nội như phố Hàng Mã, Lãn Ông, mọi người cũng có thể dễ dàng mua được những loại bột tương tự, đựng trong túi nilon không ghi rõ thành phần, nhãn mác, được bày bán chung với các loại dược liệu khác. Giá cả các gói bột này không cố định, mỗi nơi một giá khác nhau. Theo các chuyên gia nghiên cứu tín ngưỡng văn hóa Việt Nam, việc sử dụng bột tẩy uế, trừ tà không có trong phong tục truyền thống Việt Nam. Tín ngưỡng và tâm linh là liều thuốc tinh thần để con người tìm thấy sự bình an trong cuộc sống, tuy nhiên việc du nhập tín ngưỡng tùy tiện, không chỉ nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, mà có thể làm đồng hoá giá trị văn hoá tín ngưỡng riêng có của người Việt.
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vòng dâu tằm, bột trừ tà có tác dụng trừ tà thật không

Tử Vi: Định Mạng hay Tự Do?

Đây là bài của ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần, giáo sư Triết học Đông Phương tại Đại Học Văn Khoa và cũng là một chuyên gia Tử Vi. Ông nêu lên sau đây một quan niệm Triết về Tử Vi, để chứng tỏ rằng con người tuy có số mạng sẵn, nhưng cũng có cái quyền tự do để sửa đổi số mạng của mình. Số mạng của mình thế nào thì lá số Tử Vi đã nêu rõ. Còn lạ hơn thế: lá số Tử Vi mang đủ các chi tiết để cho thấy tiềm thức con người và chỉ đường cải tạo, thay đổi số mạng của mình…
Tử Vi: Định Mạng hay Tự Do?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thử lấy một thí dụ: người có tính tham gian bạc ác là vì có nhiều chủng tử gian tham bạc ác huân tập nơi tiềm thức (alava), và khi mình quyết tâm sửa đổi, mình phải cố tạo ra những “thiện nhân bố thí” (tức là tự tạo ra những “tương vi nhân”) để mà tiêu giảm hoặc tiêu trừ cái sức tàn phá của những “ác nhân” trong túc nghiệp (nghiệp quá khứ). Nhất là khi mình từ chối không tạo những “tiếp thụ nhân” (nhân thụ lãnh, thì các nhân khác cũng khó lòng mà kết hợp để tạo thành ác nghiệp). Bởi vậy, tôi mới nói trên đây: con người là đấng Tạo Hóa (Le Cr’eateur) của chính mình mà cũng là vật thọ tạo (La Cr’eature) của chính mình.

Theo nhà Phật, luật Nhân Quả không bị hạn chế bởi thời gian: có cái đời trước trồng Nhân, nhưng cũng đến đời hiện tại mới gặp duyên mà thành Quả. Có cái đời trước trồng nhân, mà mãi đến đời sau và đời sau nữa mới thành Quả. Có cái đời này trồng Nhân, lại thành Quả ngay trong đời này-người ta gọi là Quả báo Nhân tiền. Ta cần phải xem những Duyên, coi có đầy đủ hay không, mà đoán định sự mau chậm.

Bởi không rõ lẽ ấy, cho nên mới có kẻ thấy có người kiếp này tu nhiều Nhân tốt (tu nhân tích đức), nhưng lại bị tai họa đau thương. Còn kẻ, kiếp này làm nhiều điều ác, lại được nhiều may mắn hạnh phúc nên mới kêu rằng luật Nhân Quả sai lầm. Họ nào có dè: ác báo hay phúc báo đều do tạo nhân ở kiếp trước mà đến kiếp này mới hưởng được, còn những nhân ác tạo ở kiếp này chưa đủ thời gian để thành “Quả” ác.

Tóm lại, động lực chính của sự tạo nghiệp là ý thức. Ý thức có một tác dụng vô cùng mạnh mẽ, nó chi phối tất cả mọi thứ khác, lại có quyền sáng tạo và thay đổi cả một cuộc đời của con người. Trong giai đoạn hiện tại, cá nhân phải gánh chịu tất cả những Quả báo của nghiệp quá khứ (túc nghiệp) và nghiệp hiện tại (hiện nghiệp). Nhưng ý thức với sự phụ họa của các thức khác trong giai đoạn sống hiện tại, lại cũng có quyền năng tạo nghiệp mới, để làm động lực cho sự phát sinh sinh mạng sau này.

Theo nhà Phật, nghiệp quá khứ là nguyên nhân động lực của cái kiếp sống hiện tại: nó chỉ huy tất cả, thành ra con người giống như một bộ máy bị một định mạng vô hình chi phối (ta thường gọi là “số mạng”). Cái túc nghiệp  (nghiệp quá khứ) ấy giống như sức của mũi tên đang bay, khi hết sức nó sẽ rơi xuống. Bởi vậy, tạo nghiệp trong hiện tại, tuy cũng phá được phần nào nghiệp báo của quá khứ, nhưng nếu vẫn bất lực trước một định mạng khắt khe, đó là vì sức của mũi tên vẫn còn quá mạnh.

Để đánh tan nghiệp ác:

Tuy vậy, nghiệp mới tạo lại có nhiều ảnh hưởng đến sinh mạng của nhiều cá nhân khác, nên trong sự tự biến (nghiệp riêng) cũng được hưởng về cộng biến (nghiệp chung) do mình tạo nên, và nhờ vậy cũng phá tan được nhiều nghiệp chướng do ác tập gây nên. Bởi vậy người ta thường nhận thấy những ai gây được nhiều công đức xã hội, như gieo rắc mầm tư tưởng “từ bi hỷ xả”, giúp con người phá được tà kiến, gây được lòng yêu thương trong loài người, là người tích chứa được nhiều thiện nhân thiện đức…nên cho dù có gặp tai họa gì cũng được qua khỏi một cách mầu nhiệm. Đó là nhờ cái công “tự biến” đã gieo được nhiều chủng tử cho mình và cho chung quanh nên đã gây được một Tự nghiệp và Cộng nghiệp tốt đẹp, đánh tan được cái mũi tên độc của túc nghiệp (nghiệp quá khứ) của mình.

Trái lại, cũng như cá nhân có tạo một cách hoàn toàn tự do những giai đoạn sinh mạng đẹp ở tương lai…thì cá nhân cũng có thể tạo cho mình những giai đoạn sinh mạng đen tối ở hiện tại và tương lai. Cứ gieo mãi những mầm mống tư tưởng giải thoát thì sẽ tiêu trừ được tất cả các chủng tử tập nhiễm (mà lá số tử vi ghi rất kỹ, rất chi tiết), đồng thời huân sinh và huân trường các chủng tử giải thoát để vượt khỏi cảnh giới vô minh và sanh diệt. Cũng như Nguyễn Du nói:

Đã mang lấy Nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần, Trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta…

Cái nhìn chính đáng vào Tử Vi

Nghiên cứu số Tử Vi, với một lối nhìn siêu hình, hình nhi thượng học như trên, lá Tử Vi của ta có thể giúp ta nhìn rõ cái túc nghiệp (nghiệp quá khứ) của ta, biết được ta phải làm gì cho hiện tại, để chuyển mê khải ngộ, chuyển bại vi thắng, chuyển ác vi thiện..chứ không phải tin Mạng một cách thụ động như nhiều người lầm tưởng.

Con người đã tự tạo lấy nghiệp chướng cho mình, và tự giam lấy mình trong khám cung chật hẹp, đó là số mạng do mình tạo nên. Lá số Tử Vi giúp ta thấy rõ: con người là tiểu kiền khôn cùng với: đại kiền khôn, là một lẽ tương quan vô cùng mật thiết. Ảnh hưởng liên quan giữa ta và xã hội chung quanh ta, giữa ta và gia đình ta, an hem cùng máu thịt ta, an hem bạn bè ta, kẻ dưới người trên…đều được ghi rõ ràng. Nhìn vào lá số Tử Vi, người sành sỏi và am hiểu  tận tường phép đoán, không bao giờ nhìn từ cung mà đoán. Tất cả 12 cung đều chằng chịt như các cơ năng trong một cơ thể.

Nhìn ở cung Mạng để biết tinh thần hữu thức của mình đã đến đâu, đồng thời phải nhìn ở cung Thân để biết tiềm lực vô thức của mình như thế nào. Rồi phải nhìn qua cung Thiên Di, cung Quan, cung Tài (Tam hợp, Nhị hợp), các cung Thê, Tử, Huynh Đệ và Nô Bộc. Nhìn cung Giải Ách để xem thiện nhân hay ác nhân cũng như xem ở cung Phúc để tìm hiểu túc nghiệp của ta rõ ràng. Các vì sao Giải Ách luôn là những phúc tinh, như Thiên Quang, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Nguyệt Đức, Lộc Tồn, thường là những vì sao tượng trưng cho những thiện đức của lòng ta.

Kết luận:

Để tạm kết luận, tôi xin nhường lời cho  W.Y.Evanswentz ở Jesus College; tác giả quyển “Le Livte Tibe’tain de la Grande Libe’ration”. Trong quyển sách này nói về cuộc đời của vị Phật sống PADMA SAMBHAVA, xin dịch như sau:

“Tiểu sử của Đức Padma Sambhava sẽ chứng minh ảnh hưởng của khoa Chiêm Tinh trong đời sống của các bậc Thánh Tăng khác trong phái Đại Thừa, nếu không nói là của tất cả mọi người Đông Phương hiện nay vẫn còn trung thành với truyền thống …”

Các nhà Chiêm Tinh thạc học đều cho rằng khoa Chiêm Tinh là khoa quan trọng nhất trong các khoa bởi ngoài nó, không có một nghệ thuật nào chân chính hơn. Nhìn khoa Chiêm Tinh, với khía cạnh ấy, tức là họ đã loại trừ, cho là không xứng đáng với danh hiệu ấy những gì mà hiện nay ở Tây Phương cũng như phần đông ở Đông Phương thường được gọi là khoa Chiêm Tinh.

Khoa Chiêm Tinh chẳng những xem Người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, và cũng là một sản phẩm chịu vô số ảnh hưởng của các vì tinh tú cũng như của cả vũ trụ, như tất cả mọi sự vật hiện hữu trên đời, là vì mỗi người là nơi tập trung các ảnh hưởng ấy để kết thành một thể trạng, một tâm trạng, một thần trạng riêng biệt của mình.

Tuy vậy khoa Chiêm Tinh đâu bắt buộc ta phải tin Định mạng là bậc thầy về khoa Yoga, và là bậc thầy chỉ huy ảnh hưởng của các tinh tú, bởi họ biết rõ những ảnh hưởng ấy, nên họ cũng có thể lèo lái được chiếc thuyền Cứu Rỗi của họ trên mặt bề Nhân Sinh. Như thế họ tránh được các rạn đá ngầm cũng như các lòng biển cạn, và sẵn sàng chống lại với các phong ba, các luồng sóng nghịch…để đưa chiếc thuyền của mình đến cảnh yên ổn của “Bờ Bên Kia”.

Mặc dù thể xác, thần trí và hoàn cảnh đều bị ảnh hưởng của các tinh tú, bậc Hiền giả vẫn làm chủ được vận mạng của mình. Cũng như số phận của chiếc thuyền trên biển cả mênh mông, đều nằm trọn trong bàn tay điều khiển khéo léo của vị thuyền trưởng, cho nên dù có ít hay nhiều khuyết điểm và yếu đuối bẩm sinh, vị thuyền trưởng kia vẫn có quyền tự do điều khiển chiếc thuyền theo chiều hướng mà mình thích, và dù qua bao nhiêu gian lao cũng sẽ đưa chiếc thuyền về nơi mà mình muốn thả neo cập bến.

Khác với một số nhà bác học, có một số đông các triết gia và thi sĩ Tây Phương khác, trong đó có Roger Bacon và Shakespear cũng rất quan tâm đến các khoa Chiêm Tinh. Cả Thiên Chúa Giáo cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của nó, trong sách sử đã chứng minh rằng, sỡ dĩ các vị Thánh Đông phương kia tìm đến bái yết Jesus lúc mới sinh là cũng nhờ theo dõi ngôi sao sáng của Bethle’em. Khi sinh Đức Thích Ca, cũng chính những nhà Chiêm Tinh này được mời tới để lấy lá số Thái Tử, và họ đã tiên đoán sau này Ngài sẽ thành, hoặc sẽ là một bậc Đế vương toàn cõi thế gian, hay là một vị Phật. Trên thân mình Thái tử, họ thấy hiện lên đủ 32 dấu ghi rõ sự nghiệp phi thường sau này của Thái tử, đó là những dấu hiệu ghi lại công phu của vô lượng kiếp của Ngài ở tiền thân (như nó đã ghi rõ trên lá số Tử Vi của mỗi chúng ta vậy).

Thái Tử Sidhartha đã bỏ con đường công danh phú quý mà lựa con đường tu hành nên đắc thành Chánh quả. Tự do của con người là ở chỗ đó. Mình là “vật thọ tạo” mà cũng là “Đấng Tạo Hóa” của chính mình.

Sư rằng: “Họa phúc đạo trời”                 
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có Trời mà cũng có Ta…
(Kiều)
Thu Giang NGUYỄN DUY CẦN


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi: Định Mạng hay Tự Do?

Có nên trồng liễu trước cửa nhà?

Liễu là loại cây đẹp với bóng dáng mềm mại và màu xanh dịu mát. Nó thường được trồng nhiều ở ven hồ, trong các công viên tạo vẻ đẹp thơ mộng. Vậy cây liễu có
Có nên trồng liễu trước cửa nhà?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Liễu là loại cây đẹp với bóng dáng mềm mại và màu xanh dịu mát. Nó thường được trồng nhiều ở ven hồ, trong các công viên tạo vẻ đẹp thơ mộng. Vậy cây liễu có thích hợp khi trồng trước cửa nhà?

 

Xét về quan điểm hình thế, phần trước của ngôi nhà (minh đường) luôn cần sự quang đãng, sáng sủa, tránh bị che chắn làm giảm tầm nhìn, ngăn cản sự lưu thông của sinh khí vào đại môn (cửa chính).

Cây lá lòa xòa trước nhà, theo phong thủy như vậy tức là Mộc khắc Thổ. Nếu cây to sẽ có rễ lớn ăn vào đất ảnh hưởng đến nền nhà, đi lại dễ bị va vấp. Loại cây nhiều lá thì lá rụng đầy sân, bóng râm che khuất khiến nhà thiếu ánh sáng mặt trời. Như vậy, gia chủ gặp nhiều điều bất lợi.

Cây liễu được trồng nhiều bên bờ hồ nhưng khi trồng vào khuôn viên nhà với diện tích đất nhỏ, không đủ độ thoáng, thiếu mặt nước rộng tạo độ ẩm để cây phát triển tốt... thì từ liễu rủ nó sẽ dễ trở thành lòa xòa, rũ rượi không đẹp mắt.

Đa phần nhà ở truyền thống của cha ông ta đều quay về hướng Nam hoặc Đông Nam là hướng gió chủ đạo. Cây có nhiều lá trồng trước nhà sẽ cản trở gió lành. Vì thế trước nhà chỉ nên trồng cây kiểng hoặc cây mảnh, dáng cao, lá sáng (cau, dừa cảnh). Sau nhà là những cây lá dày rậm (như chuối, bàng…) để che bớt gió lạnh phương Bắc và Đông Bắc.

(Theo Landtoday)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên trồng liễu trước cửa nhà?

Luận giải vận số người tuổi Tỵ theo giờ sinh

Tý mệnh Thủy khắc Tỵ mệnh Hỏa. Người tuổi Tỵ sinh giờ Tý cuộc đời gặp không ít trở ngại, tuy gặp nguy hiểm nhưng nhờ sao Long Đức bảo vệ nên tai qua nạn khỏi.
Luận giải vận số người tuổi Tỵ theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh giờ Tý (23-1h): Tý mệnh Thủy khắc Tỵ mệnh Hỏa. Người sinh giờ này cuộc đời gặp không ít trở ngại, tuy gặp nguy hiểm nhưng nhờ có sao Long Đức bảo vệ nên tai qua nạn khỏi.

(Ảnh minh họa)

Sinh giờ Sửu (1-3h): Tỵ mệnh Hỏa sinh Sửu mệnh Thổ. Sinh vào giờ này mưu sự tất thành, tuy có sự bất trắc nhưng cuối cùng sự nghiệp vẫn thành công.

Sinh giờ Dần (3-5h): Dần mệnh Mộc sinh Tỵ mệnh Hỏa. Người sinh giờ này tiền đồ phát triển rực rỡ.

Sinh giờ Mão (5-7h): Mão mệnh Mộc sinh Tỵ mệnh Hỏa. Người sinh giờ này có vận số không xung, không khắc nhưng cả đời phải vất vả.

Sinh giờ Thìn (7-9h): Tỵ mệnh Hỏa sinh Thìn mệnh Thổ. Là người nhã nhặn, lịch sự. Mọi việc thuận buồm xuôi gió, cuộc sống yên vui, có duyên được bạn hiền giúp sức trong sự nghiệp.

Sinh giờ Tỵ (9-11h): Sinh giờ này phạm phải sao Chỉ Bối nên cuộc sống không yên ổn, số không có bạn thân.

Sinh giờ Ngọ (11-13h): Nhờ sao Thái Dương chiếu mệnh nên người sinh giờ này được bạn bè giúp đỡ nhiều trong công việc và sự nghiệp. Tuy có lúc gặp vận xấu nhưng rồi cũng tai qua nạn khỏi.

Sinh giờ Mùi (13-15h): Người này bị sao Nguyệt Sát chiếu mệnh nên số vất vả, vào sinh ra tử nhưng may mắn có được sức khỏe tốt.

Sinh giờ Thân (15-17h): Được sao Quý Nhân chiếu mệnh nên cuộc đời suôn sẻ, gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên, cũng có lúc bị người khác làm phiền thậm chí hãm hại.

Sinh giờ Dậu (17-19h): Tỵ mệnh Hỏa khắc chế Dậu mệnh Kim. Người sinh giờ này có sao Thiên Tướng chiếu mệnh nên số giàu có. Tuy nhiên, cần đề phòng tiểu nhân quấy phá.

Sinh giờ Tuất (19-21h): Người tuổi Tỵ sinh giờ này số phải đi xa, hay bị phá tài, có thể mắc bệnh nhẹ.

Sinh ngày Hợi (21-23h): Sinh vào giờ này bị sao Dịch Mã chiếu mệnh nên số phải bôn ba, lăn lộn xứ người để mưu sinh, lập nghiệp.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số người tuổi Tỵ theo giờ sinh

Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Một bài viết tiếp theo của tác giả Phong Nguyên giải thích một số câu phú tử vi. Mời bạn đọc tham khảo!
Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Phong Nguyên

Trong bài hôm nay, tôi xin tiếp tục mổ xẻ thêm một số câu phú tử vi để bổ túc trong một thời gian ngắn loạt bài về phú đã đăng trên KHHB. Tôi cần lưu ý quý bạn là tôi chỉ nêu ra những câu thật ứng nghiệm hoặc những câu tuy thông dụng nhưng dễ áp dụng sai hay không hợp lý, cho nên quý bạn sẽ không bao giờ thấy những câu phú quá thông thường và dễ áp dụng trong loạt bài phú của tôi.

1) Thiên - Lương Ngộ Mã Nữ mệnh tiện nhi khả dâm

Giải nghĩa: Nếu phụ nữ có Thiên -Lương tọa thủ tại Mệnh ( đương nhiên ở cung Tỵ hoặc Hợi theo cách bố cục chính tinh) mà gặp Mã ( đồng cung hay xung chiếu ) thì là người dâm đảng.

Nhận xét: trước hết ta tự hỏi tại sao Thiên - Lương là không có đặc tính gì dâm đãng mà khi gặp Thiên - Mã (chỉ là sao di động ) lại đem cái tính xấu đó tới người phụ nữ. Trường hợp này quí bạn cần xét tới chính tinh khác gây ảnh hưởng và cần phải suy luận ra mới thấy ý nghĩa hợp lí chứa trong câu phú.

Nếu quí bạn đã thông thuộc cách an sao trên bàn tay thì hẳn quí bạn thấy rằng khi Thiên -Lương tọa thủ tại Tỵ hoặc Hợi thì bao giờ cũng có Thiên-Đồng xung chiếu và chính sao Thiên-Đồng là đầu mối của ý nghĩa trong câu phú. Thực tế, tuy Thiên-Đồng không phải là sao chủ về đa tình, dâm đãng thực sự nhưng lại là sao chủ về sự di chuyển liên tục, nhất là đóng tại cung Thiên-Di và lại gặp Thiên-Mã (dù không đồng cung) thì làm sao đương số ru rú ở xó nhà được, và khi người đàn bà hay "chạy rông" ngoài xã hội rất dễ trở thành người ăn chơi, trụy lạc, nhất là theo quan niệm thời phong kiến, cổ xưa ở bên tàu cũng như ở bên ta. Do đó mới có vấn đề dâm đãng trong câu phú mà ta phải suy luận ra sao mới hiểu được.Tuy nhiên vì thời văn minh này đã thay đổi hẳn cách sống của người phụ nữ, ta phải áp dụng thận trọng câu phú trên

Vậy muốn giải đoán cho chính xác và khách quan ta cần phải lưu ý đến khía cạnh, yếu tố nào? Trước hết quí bạn xét đến cung Mệnh và Thiên- Di xem có thêm nhiều sao chủ về đa tình, lãng mạng hay không. Nếu có Hồng Riêu, Tả Hữu, Xương Khúc ( không bao giờ gặp đào hoa ở Tỵ hay Hợi ) chẳng hạn lại thêm Mộc- Dục, Hoa- Cái và Đào- Hoa nữa tại Giải- ách thì câu phú hẳn phải ứng nghiệm một trăm phần trăm, nhưng nếu không gặp những sao trên, mà mệnh lại có Hóa Quyền, Thiên Hình hoặc Thiên Khôi hoặc Thiên Việt (nếu Mệnh tại hợi thì chỉ gặp Thiên Khôi, ở Tỵ chỉ gặp Thiên Việt ) thì khó lòng ta dám quyết đoán là đương số có tâm hồn dâm đãng, chứ chưa nói đến cách sống dâm đãng.Vì các sao Hóa Quyền và Thiên Hình là những sao tự chủ được mạnh mẽ mà chỉ những người khắc kỷ mới hay có, còn các sao Khôi Việt chủ về sự tư cách, trọng hậu, thanh cao thì làm sao đương số có tính xấu như vậy được.Trong trường hợp này, dù cho cung Nô Bộc có Đào Hồng, riêu cũng chưa chắc đã lung lạc nổi tâm hồn của đương số. Và như vậy chỉ còn cách quyết đoán là đương số hay bôn ba, hay thay đổi nơi ăn chốn ở hoặc nơi làm việc, hoặc hay được xuất dương, xuất xứ ( nhất là khi có Thân cư Thiên Di) chứ tuyệt nhiên ta không nên kết tội theo câu phú mà thành ra " quê một cục ". Dù muốn dù không câu phú này cũng được đặt ra ở thời phong kiến bên Tàu là thời phụ nữ kín cổng cao tường hễ cứ lộ diện là bị chê bai là…hư đốn rồi, cho nên khó ứng nghiệm vào thời dại văn minh này.

2) Thiên -Đồng Tuất Cung Hóa-Kị, Đinh Nhân Mệnh Ngộ Phản Vi Giai

Giải nghĩa: Mệnh an tại Tuất mà có Thiên Đồng tọa thủ lại gặp Hóa Kỵ đồng cung thì rất xấu nhưng lại gặp người tuổi Đinh thì rất tốt đẹp.

Nhận xét: Câu phú này trong nhiều sách tử vi đều có nêu ra, nhưng ta thấy ngay là vô lí, nếu lưu ý đến bố cục bố trí của các sao.Tôi không giám bác bỏ hẳn câu này. Tôi chỉ xin nêu ra điểm sao Hóa- Kỵ khi đã đồng cung với thiên đồng (bất cứ ở cung nào) cũng không ứng vào tuổi Đinh vì tuổi này áp dụng câu "Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự với Cự Môn, còn Hóa Quyền lại đồng cung với thiên- đồng. Có thể câu phú có ý nói là Thiên Đồng ở Tuất ngộ Hóa Kỵ ở cung xung chiếu, tức là cung có Cự -Môn tọa thủ ( ở Thìn ), nhưng dù sao có vẻ cũng gượng ép nếu ta đọc kĩ câu (Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kỵ ) trong câu phú.

Theo tôi, quý bạn nên dựa theo câu phú tương tự "Thiên -Đồng Tuất cung vi phản bội, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý (có sách chép là "mệnh ngộ phản vi giai" thay vì "hóa cát chủ đại -quý” ) thì có lẽ hợp lí hơn vì không đề cập đến Hóa-Kỵ đồng cung tại Tuất.Vậy bây giờ ta cần tìm hiểu xem tại sao tuổi Đinh lại “ lật ngược thế cờ “như thế?.

Thiên-Đồng ở Tuất tuy bị hãm địa thật, nhưng với tuổi Đinh lại hội đủ bộ Lộc, Quyền Khoa vì Hóa-Lộc đồng cung với Thái âm (ở Dần) Hó -Quyền đồng cung với Thiên-Đồng, Hóa -Khoa đồng cung với Thiên Cơ (cũng ở dần).Ngoài ra, còn có Lộc-Tồn cư cung Ngọ (đồng cung với Thiên- Lương ) tức là cung Tài - Bạch và khi Lộc-Tồn cư Tài -Bạch thì lại có Tướng-Quântại cung Quan-Lộc ( vì là âm nam, dương nữ ) và thêm cả Quốc - Ấn cư Quan-Lộc (Dần ) nữa mới xét sơ qua như thế chúng ta đã thấy nhiều yếu tố tốt đẹp rồi mà chỉ có tuổi Đinh mới hội đủ ; khi đó Thiên-Đồng chỉ đóng vai trò phụ hoặc bỏ qua cũng được, quý bạn cứ kiểm tra qua tuổi khác một tí thì thấy không có tuổi nào được một góc của tuổi Đinh. Ngay như tuổi Kỷ cũng có Lộc-Tồn cư Ngọ như tuổi Đinh nhưng bộ Tam Hóa không hội đủ, chỉ có Hóa - Khoa đồng cung với Thiên -Lương tại Ngọ mà thôi. Đây là chưa kể đến trường hợp được thêm một số yếu tố tốt khác tùy theo ngày, giờ sinh. Tuy nhiên quí bạn cần ghi nhớ một điều là tuổi Đinh chỉ tốt về phương diện công danh, tiền tài chứ vẫn có thể bị kẹt về tai ách vì có Cự -Kỵ đồng cung tại Thiên -Di (nếu xui xẻo có "Thân " cư ở đó nữa thì khó thoát được), nhưng có điều may là luôn luôn có Thanh-Long ở cung Thìn (an theo Lộc-Tồn đi nghịch là vì âm Nam hoặc Dương-Nữ) thì vấn đề nạn nước coi như đã hóa giải được gần hết, trừ phi có thêm nhiều cách gì khá trở ngại mà thôi (tỷ dụ như có Không Kiếp, Linh, Xương, v.v)…Có lẽ vì thế câu phú không hề đề cập đến điểm bất lợi kể trên mà chỉ khẳng định là tốt đẹp.

3)”Thân” tại Quan cung gia sát diệu Triệt,Tuần, nữ mệnh nan bảo thân danh: gia kiến Bạch Tang cô thân trích ảnh nghi gia vãn tuế tất thành

Giải nghĩa: ”Thân” cư cung Quan Lộc gặp sát tinh và Tuần, Triệt án ngữ (xung chiếu không kể) nếu đàn bà con gái mà gặp thì khó bảo tòan được danh tiết; trường hợp thêm cả Tang Hổ hợp chiếu về (nếu tọa thủ lại hại nữa) thì bị cô đơn nếu lập gia đình sớm, về già thì may ra yên ổn về phương diện này.

Nhận xét: Tôi thấy câu phú này ngoài khía cạnh ứng nghiệm còn phải nói là dộc đáo nữa, vì thường đoán về phương diện hôn phối ta hay nhắm vào cung Mệnh, Phu Quân và sau nữa là Phúc Đức chứ ít khi ai chú ý tới cung Quan Lộc dù cho có “Thân” đóng ở đó. Hơn nữa, về danh tiết cũng vậy, ta thường xét đến Hồng, Đào Binh, Tướng.Không Kiếp chiếu Mệnh, Thân chứ có khi nào lại để ý đến Tuần Triệt án ngữ tại cung Quan chỉ chủ về công danh trắc trở, gián đoạn. Dù cho có thêm Sát –Tinh hội chiếu cũng khó ảnh hưởng về danh tiết.Vậy không có lẽ câu phú này đã ứng nghiệm một cách vô lý? Nhưng nếu chịu suy luận một chút, quý bạn sẽ thấy hợp lý vì người xưa quan niệm đàn bà con gái phải sống nhờ chồng, lo việc nội trợ phải xuất thân ra đời đi làm (vì “Thân” cư Quan-Lộc dễ phải đi làm ) đã là một điều không hay cho phụ nữ mà lại còn bị làm khó dễ đủ thứ (vì Sát Tinh và Tuần Triệt án ngữ) thì thử hỏi tư cách của người đàn bà bị tổn thương hay không? Hơn nữa, phụ nữ khi bị làm khó dễ thường thường (nhất là thời bây giờ ) hay liên quan đến tình cảm, sắc đẹp, vì nếu tỏ ra đứng đắn nghiêm trang thì hay bị cấp trên làm khó dể lung lạc tâm hồn, còn nếu chịu chiều lụy thì có ngày mất danh tiết như chơi. Vì vậy khi áp dụng câu phú này ta phải hết sức chú trọng đến cung Mệnh, nếu có nhiều sao tự chủ và đứng đắn là chỉ đoán công danh gián đoạn, thăng trầm, còn nếu thấy có quá nhiều sao “lã lướt” (như Riêu, Mộc, Cái, Đào Hồng..) thì có thể quyết đoán là mất danh tiết dể dàng, nếu không muốn nói là bị” hội đồng “(tôi xin lổi phải dùng chử này để nói lên được trung thực phần nào ngụ ý của tôi).Trường hợp sau này, có điều lạ là dù cho cung Phu Quân tốt đẹp mà vẫn không thoát được, có lẽ là sau khi bị thất tiết nhiều lần rồi sẽ lấy được chồng đàng hoàng, được yên duyên phận.Còn gặp trường hợp cung Phu Quân quá xấu mà cung Phúc Đức cũng tệ luôn thì dù không có Tang Hổ cũng vẫn cô đơn và ngay cả về già cũng vậy, khó lòng lập gia đình được.

Tuy câu phú này áp dụng rất linh động nhưng theo kinh nghiệm riêng, tôi khuyên quý bạn nên e dè ngay đối với trường hợp phụ nữ có Thân cư Quan Lộc bị Tuần, Triệt án ngữ vì không cần sát tinh hội chiếu nếu Mệnh hơi “yếu” một chút là có thể bị thất tiết được rồi và nếu cung Phu Quân hơi xấu nữa thì chẳng cần yếu tố Tang Hổ hợp chiếu về cung Quan cũng vẫn bị cô đơn (nhất là khi Mệnh có Cô Quả, Hình Đào)…

Cũng như bài trước về phú Tử vi, bài hôm nay cũng chỉ cho phép tôi bàn được có ba câu, như vậy quý bạn hơi sốt ruột về số lượng câu phú. Nhưng tôi nghĩ rằng biết được câu nào thì cần phải thật chắc ăn, thật thông suốt thì mới có lợi chứ nếu biết thật nhiều câu phú mà áp dụng bừa bãi, sai lầm thì thực không có gì tai hại và thất vọng cho bằng. Vậy mong quý bạn thông hiểu đường lối của tôi khi viết loạt bài về phú Tử vi. Tuy nhiên, nhân dịp này tôi xin thưa trước quý bạn là nếu thì giờ cho phép, tôi sẽ trình bầy thêm một số câu phú khác trong Lịch sách văn nghệ Tiền phong 1975 để số lượng phú được dồi dào vì Tòa soạn VNTP có nhã ý nhờ tôi viết thêm cho cuốn lịch sách nêu trên.

KHHB số 74H2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Phong Thủy là gì? Tác động như thế nào đến cuộc sống?

Về cơ bản Phong Thủy là một bộ môn khoa học về môi trường sống, là những lời diễn dịch của người Trung Quốc xưa về thế giới tự nhiên với mục đích giúp họ xây dựng nên một hệ thống canh tác hiệu quả. Ngoài ra với ý nghĩa sâu xa hơn, Phong Thủy còn chứa dựng những kiến thức, hiểu biết về sự chuyển động của các thiên thể mà người Trung Quốc đã nghiên cứu để xác định đường đi của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, những lý lẽ diễn dịch này càng phức tạp và được ghi chép lại bằng chữ viết và được lưu truyền đến ngày nay.
Phong Thủy là gì? Tác động như thế nào đến cuộc sống?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ở Trung Quốc, khoa Phong Thủy chi phối toàn bộ cuộc sống nhân sinh. Bằng cách thấu hiểu các khái niệm căn bản về Phong Thủy, chúng ta có thể chọn ra các mô hình về thiết kế, những hình ảnh và biểu tượng đầy ý nghĩa từ chính nền văn hoá của mỗi dân tộc để hỗ trợ cho đời sống tinh thần của dân tộc đó.

Ngày nay về mặt thực hành, Phong Thủy cho chúng ta các lời khuyên về cách kiến tạo ra một môi trường sống thoải mái và tích cực. Những yếu tố bất thường trong đời sống hiện đại đang ngày càng gia tăng sức huỷ hoại và vì vậy ngày càng có nhiều người tìm đén các cách sống khác, mong rằng có thể lấy lại thế quân bình cho đời sống cá nhân và những người thân của họ.

Các kiến thức Phong Thủy chủ yếu mang đến cho chúng ta cơ hội được sống khoẻ mạnh, hạnh phúc và sung túc vì ý nghĩa căn bản của Phong Thủy là giữ gìn và duy trì một cuộc sống hài hoà với môi trường xung quanh ta. Hiểu biết về Phong Thủy có thể giúp chúng ta tự đặt mình vào những vị trí có lợi nhất trong môi trường sống của mình. Việc chọn nơi làm văn phòng cũng như các thiết kế nội thất sẽ ảnh hưởng đến mỗi chúng ta theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực.

Thuật phong thủy không những giúp ta biết được vị trí thuận lợi nhất đối với ta mà còn chỉ cho ta cách bài trí, chọn mầu sắc và kiểu dáng để hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống. Việc thể hiện những lý thuyết của thuật Phong Thủy vào cuộc sống chắc chắn sẽ mang lại những lợi ích cụ thể cho chúng ta, cho dù chúng ta chỉ mới hiểu biết sơ qua về chúng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong Thủy là gì? Tác động như thế nào đến cuộc sống?

7 chiêu phong thủy khiến các ông chồng phải nghe lời vợ

Để gia đình hòa hợp, nhiều người phụ nữ chọn làm vợ hiền, nhưng như vậy là chưa đủ, cần phải sử dụng chút mẹo phong thủy để người chồng phải nghe lời họ.
7 chiêu phong thủy khiến các ông chồng phải nghe lời vợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để gia đình hòa hợp, nhiều người phụ nữ chọn làm vợ hiền, nhưng như vậy là chưa đủ, cần phải sử dụng chút mẹo phong thủy để người chồng phải nghe lời họ. 


7 chieu phong thuy khien cac ong chong phai nghe loi vo hinh anh
 
1. Bày trí đồ vật thiên về bên phải
 
Khi xem phong thủy, các đồ vật trong nhà dựa theo "nam tả nữ hữu". Ví dụ, nếu trong phòng khách, bên tay trái được dựng tủ cao nhưng bên tay phải hầu như không có gì, như vậy sẽ có mối quan hệ cảm ứng, người chồng sẽ càng ngày càng tự phụ, không nghe lời vợ. Vậy nên, nữ gia chủ nên bày trí các đồ vật thiên về bên phải
2. Người chồng nằm phía trong
 
Thông thường người chồng sẽ nằm gần phía cửa hoặc bên ngoài, như vậy khiến họ có trách nhiệm với gia đình, tuy nhiên gần cửa cũng có nghĩa là tiếp xúc dễ dàng với đào hoa. Nếu nữ gia chủ muốn quản lý mọi việc trong nhà hãy để người chồng nằm ngủ bên trong.
Những loại vải thổi bay sự khó chịu trong tiết Lập Hạ
Khi vào Lập Hạ, nhiệt độ và độ ẩm dần dần tăng, ngoài việc chọn các thực phẩm dưỡng sinh, những loại vải thoải mái làm dịu bớt sự khó chịu cũng nên được lưu

3. Bếp có chỗ dựa


7 chieu phong thuy khien cac ong chong phai nghe loi vo hinh anh 2
 
Bếp đại diện cho người phụ nữ trong gia đình, vậy nên đằng sau cần có bức tường vững chãi, ngụ ý rằng người vợ đáng tin, có khả năng chỉ huy. Tuy nhiên, nếu đằng sau bếp là cửa sổ cũng chính là không có chỗ dựa, khi đó lời người vợ trong nhà sẽ không có giá trị.
4. Phòng ngủ tránh đối diện đường xe chạy
 
Nguyên tắc này chỉ dùng cho gia đình có phòng ngủ tại tầng 1, xung quanh phòng ngủ tầng 1 nếu đường xe chạy thì người chồng muốn đi ra khỏi nhà cho dù không có việc, điều này dẫn đến sự khó quản lý của người vợ. Khi gặp phải lỗi phong thủy này, người vợ nên dùng vật phẩm phong thủy như: gỗ đào, kính long phượng để giải trừ.
Hốt bạc trong tháng 6 với mẹo phong thủy

5. Tránh phòng vệ sinh có 2 cửa

 
Thông thường phòng vệ sinh chỉ có 1 cửa, tuy nhiên nhiều người muốn thuận tiện trong việc di chuyển đã thiết kế thành 2 cánh cửa, trên thực tế đây là lỗi phong thủy nghiêm trọng. Bởi lẽ phòng vệ sinh cần phải bí mật, nhưng khi xuất hiện 2 chiếc cửa sẽ khiến gia chủ thiếu cảm giác an toàn, người vợ cũng khó kiểm soát chồng.
7 chieu phong thuy khien cac ong chong phai nghe loi vo hinh anh 3
 
6. Dưới gối đặt quần áo của đối phương
 
Nếu dưới gối đặt quần áo của đối phương sẽ khiến khí trường của hai người hòa hơp với nhau, về lâu về dài tình cảm vợ chồng sẽ càng mặn nồng.    7. Đặt cặp sư tử đá trong phòng

Khi đặt cặp sư tử đá trong phòng đồng nghĩa với việc người vợ có thể giữ được chồng, người chồng cũng sẽ càng yêu thêm vợ. 

Dựa theo phong thủy xác định điện thoại hung cát
 
Chi Nguyễn

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 chiêu phong thủy khiến các ông chồng phải nghe lời vợ

Bạn có thể gặp xui xẻo và thất bại nếu nhà có những đặc điểm sau

Theo phong thủy, cách thiết kế và trang trí một ngôi nhà có thể làm ảnh hưởng đến vận khí của gia chủ. Cùng ione tìm hiểu và cải thiện ngôi nhà của bạn để tránh được điềm gở và vận xui nhé.
Bạn có thể gặp xui xẻo và thất bại nếu nhà có những đặc điểm sau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cửa chính màu đen

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau

Cửa chính màu đen mang đến điềm gở

Theo phong thủy, màu sắc của cửa chính ảnh hưởng lớn đến tài vận của gia chủ. Màu sắc tương hợp phụ thuộc vào hướng cửa ra vào. Chỉ nên sơn cửa màu đen nếu cửa nhà bạn đối diện hướng Bắc. Nếu không thì đừng sơn. Vì màu đen là màu mang âm khí, không may mắn nhất trong các màu, nó có thể mang lại xui xẻo cho bạn.

2. Cây nhiều gai nhọn

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau-1

Xương rồng là một trong những cây gai nhọn mang vận xui 

Những vật thể nhọn, lởm chởm được coi là sẽ mang đến rủi ro cho ngôi nhà của bạn. Vì thế, nếu muốn may mắn tìm đường đến với mình, tuyệt đối đừng để những cây nhiều gai trong nhà như xương rồng chẳng hạn.

3. Gương rọi thẳng về phía giường ngủ

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau-2

Gương chiếu thẳng giường ngủ gây ra mâu thuẫn trong hôn nhân hoặc tình yêu 

Nếu để hình ảnh giường ngủ phản chiếu trong gương sẽ mang đến nguồn năng lượng tiêu cực cho phòng ngủ và gia chủ. Gây ảnh hưởng xấu đến đời sống tình cảm hoặc hôn nhân của bạn. 

4. Đặt lịch treo tường sai vị trí

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau-3

Lịch treo trước cửa ra vào ảnh hưởng đến tuổi thọ của gia chủ

Nếu treo lịch ở vị trí cửa chính nhà bạn, hãy cẩn thận. Vì vị trí này gợi nhớ về khoảng thời gian trôi đi trong cuộc sống mà không thể lấy lại được. Có thể làm giảm tuổi thọ của gia chủ và mọi người trong gia đình.

5. Treo tranh con tàu/thuyền bị đắm

ban-co-the-gap-xui-xeo-va-that-bai-neu-nha-co-nhung-dac-diem-sau-4

Những bức họa tàu/thuyền bị đắm gây nên ưu tư, buồn phiền cho gia chủ

Nếu bạn đang treo bức họa có hình ảnh con tàu/thuyền bị đắm ngoài khơi trong nhà mình, tốt nhất là nên bỏ nó đi, đừng để trong nhà nữa. Những bức họa kiểu này sẽ mang đến phiền muộn, bi quan và làm giảm năng lượng tích cực của gia chủ.

 Alexandra V (theo elledecor)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có thể gặp xui xẻo và thất bại nếu nhà có những đặc điểm sau

40 bài học cuộc sống cần cho mọi lứa tuổi

40 bài học cuộc sống cần cho mọi lứa tuổi. Những bài học cuộc sống này được đúc kết đã “chạm” đến tâm trí người đọc bất kể tuổi tác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những bài học cuộc sống này được đúc kết đã “chạm” đến tâm trí người đọc bất kể tuổi tác:

1. Cuộc sống vốn không công bằng, nhưng nó vẫn còn tốt chán.
2. Dừng những nghi ngờ, hãy thực hiện từng bước nhỏ trong kế hoạch dài bạn đã vạch ra.
3. Cuộc đời quá ngắn để lãng phí thời gian ghét bỏ ai đó.
4. Bản thân đừng quá lo lắng hay nghiêm trọng hóa vấn đề, chẳng ai quan tâm như bạn lo sợ đâu.
5. Trả hết thẻ tín dụng của bạn mỗi tháng.
6. Bạn không cần phải thắng trong mọi lý luận, tranh cãi. Chấp nhận thua trong một cuộc lý luận chẳng chết ai cả, đôi khi lại cứu một mối quan hệ.
7. Hãy khóc với một ai đó, điều này giúp hồi phục nhanh hơn là khóc một mình.
8. Tiết kiệm cho khoảng thời gian hưu trí ngay từ tháng lương đầu tiên bạn nhận được, điều này không sớm lắm đâu.
9. Khi nói đến chocolate, sự kháng cự là vô ích. Thỉnh thoảng hãy tự thưởng một thanh kẹo ngọt ngào, đọc một cuốn sách trong căn phòng ấm khi bên ngoài trời đang mưa. Tại sao không?

10. Hãy làm hòa với quá khứ của bạn, đừng để nó in dấu lên cuộc sống hiện tại và tương lai. Bạn khó mà tưởng tượng được tác động của sự nuối tiếc quá khứ sẽ làm khổ sở và cản đường bạn đến thế nào. Chuyện gì của quá khứ hãy để nó ngủ yên.
11. Sẽ ổn thôi nếu bạn để những đứa con thấy bạn khóc. Ai cũng có những phút yếu lòng.
12. Đừng so sánh cuộc sống của bạn với bất cứ ai. Bạn không biết tất cả cuộc hành trình và những cái giá của họ đâu.
13. Nếu mối quan hệ có một bí mật không thể tiết lộ, hãy xem xét lại thật thấu đáo.
14. Cuộc sống quá ngắn cho các mối quan hệ chỉ dựa vào sự thương hại, hãy đối đáp với nhau bằng tấm chân tình.
15. Bạn luôn có thể có bất cứ thứ gì mình muốn trong tương lai, thông qua hành động của hôm nay. Muốn đi du học, hãy trau dồi ngoại ngữ từ hôm nay. Môi trường bên ngoài luôn tuyệt vời, đừng suốt ngày ở trong phòng, ngồi với chiếc máy tính.
16. Công việc của một nhà văn là viết. Nếu bạn muốn trở thành nhà văn, không cách nào khác là phải viết.
17. Không bao giờ là quá muộn để có cuộc sống hạnh phúc, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào bản thân bạn.
18. Thắp sáng những ngọn nến cho căn phòng lãng mạn, sử dụng các tờ giấy đẹp, mặc đồ lót ưa thích. Không dành nó cho một dịp đặc biệt nào. Ngày hôm nay chính là một ngày đặc biệt.
19. Chuẩn bị mọi thứ chu đáo nhất có thể, sau đó theo dòng chảy.
20. Bộ phận sinh dục quan trọng nhất là não.
21. Không một ai chịu trách nhiệm về hạnh phúc của bạn ngoài chính bạn.
22. Tha thứ cho tất cả mọi người, tất cả mọi thứ.
23. Những gì người khác nghĩ về bạn không phải là việc của bạn.
24. Thời gian chữa lành hầu hết mọi vết thương.
25. Dù tình huống hiện tại có tốt hay tệ, hãy yên tâm rồi nó sẽ thay đổi.
26. Công việc của bạn sẽ không chăm sóc bạn khi ốm đau. Những người bạn sẽ làm việc này, giữ liên lạc và quan tâm đến họ.
27. Tin vào phép lạ.
28. Những điều không thể hạ gục bạn sẽ làm bạn mạnh mẽ hơn.
29. Những đứa con của bạn chỉ có một thời thơ ấu, hãy làm cho thời thơ ấu duy nhất ấy thật đáng nhớ.
30. Hãy ra ngoài mỗi ngày, phép lạ đang chờ đợi bạn ở mọi nơi.
31. Đừng kiểm toán hay kiểm kê cuộc sống, bắt lấy nó và sống trọn vẹn từng phút giây của hiện tại.
32. Loại bỏ tất cả những gì không lợi ích, không đẹp và không vui vẻ. Đây là cuộc sống của bạn kia mà.
33. Tất cả những gì thực sự quan trọng sau cùng là tình yêu thương.
34. Điều tốt nhất vẫn chưa đến.
35. Nếu không yêu cầu, bạn sẽ chẳng bao giờ nhận được.
36. Làm việc năng suất chứ đừng làm việc kéo dài thời gian trì trệ để chờ cuối tháng nhận lương.
37. Hãy hít thở sâu, nó làm dịu tâm trí bạn đến không ngờ.
38. Trao đổi các vấn đề với nhau, mọi người cũng có những vấn đề của họ, hãy giúp họ nhìn ra vì bạn là người đứng bên ngoài, dễ nhận thấy. Rồi tương tự họ sẽ giúp bạn nhận ra vấn đề của mình.
39. Những cơ hội mới, những người bạn, người yêu tiềm năng luôn ở bên ngoài vòng an toàn của bạn.
40. Cuộc sống này có những ràng buộc đôi khi khó chịu, nhưng mỗi ngày sống vẫn là một món quà kỳ diệu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 40 bài học cuộc sống cần cho mọi lứa tuổi

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd