Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Chùa Tiêu là một trong những nơi hiếm hoi ở Việt Nam còn để lại dấu tích của các bậc thiền sư nổi danh trong lịch sử như thiền sư Vạn Hạnh, Như Trí...
Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tiêu là một trong những nơi hiếm hoi ở Việt Nam còn để lại dấu tích của các bậc thiền sư nổi danh trong lịch sử như thiền sư Vạn Hạnh, Như Trí… Chùa Tiêu thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh được trụ trì bởi Ni trưởng Thích Đàm Chính. 

Chùa Tiêu Sơn thường gọi là Chùa Tiêu tên chữ là Thiên Tâm Tự, xưa còn có tên là chùa Lục Tổ, nằm ở sườn núi Tiêu, dưới chân núi là dấu tích dòng sông Tiêu Tương cổ. Từ lâu chùa đã nổi tiếng là danh lam cổ tự. Chùa Tiêu là chốn tu thiền huyền bí của người xưa và là một trong những trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

Lịch sử: Chùa Tiêu Sơn gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc. Linh khí đất Tiêu Sơn đã sản sinh cho dân tộc một người con ưu tú đó là vua Lý. Đây là một trung tâm Phật giáo lớn, nơi trụ trì của Quốc sư Lý Vạn Hạnh. Tại ngôi chùa này, Thiền sư Lý Vạn Hạnh có công nuôi dạy Lý Công Uẩn, sau này khai lập vương triều nhà Lý và nền văn minh Đại Việt.

Kiến trúc: Cổng chùa hiện nay được xây năm 1986. Chùa lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Ở giữa nhà bia đặt một tấm bia bằng đá nhám kích thước 60 x 40 x 25cm, mặt chính khắc bốn chữ “Lý gia linh thạch”. Bia trước ở vách núi, ba mặt bị đất cỏ che lấp, khi chuyển vào nhà bia, người ta mới biết mặt sau có khắc chữ Hán.

Chùa Tiêu Sơn có quy mô to lớn. Trong nhiều thế kỷ, chùa là nơi khắc ván in các bộ kinh lớn của nhà Phật. Vào năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi cổ tự bỗng chốc đã biến thành đống tro tàn. May thay ở sườn núi còn khá nguyên vẹn 14 ngọn tháp, là nơi yên nghỉ của các vị sư tổ.

Năm 1992, nhân dân địa phương công đức tiền của dựng ngôi bảo tháp thờ vọng Lý Vạn Hạnh ở trước tòa tam bảo; lại dựng tượng vị thiền sư trên đỉnh núi Tiêu. Tượng Lý Vạn Hạnh tạo ở thế tọa thiền cao 8m, mặt hướng về phía kinh thành Thăng Long. Năm 2001 dựng lầu Bồ Tát giữa hồ nước lớn trước chùa. Năm 2002 dựng nhà Tổ. Năm 2003 dựng tam bảo theo kiến trúc xưa. Đặc biệt, chùa còn giữ tháp mộ và nhục thân Thiền sư Như Trí, viên tịch năm Quý Mão (1723), là người có công khắc in cuốn Thiền Uyển tập anh. Pho tượng táng tại tháp cổ chùa Tiêu đã gần 300 năm. Các nghiên cứu khoa học về văn bản chữ viết đã xác định thiền sư Như Trí là người có công trùng san và in nhiều bộ sách Phật học có giá trị về Phật giáo, văn học, triết học và văn hóa dân gian…

Nhà tổ trên Chùa Tiêu - Bắc Ninh
Nhà tổ trên Chùa Tiêu – Bắc Ninh

Với những giá trị như vậy, ngày 25.1.1991 chùa Tiêu đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật của Bộ VHTT-TT. Tới chùa Tiêu, khách thập phương không chỉ chiêm bái pho tượng thiền sư Như Trí đầy bí ẩn và cực kỳ quý giá ở Việt Nam mà còn không khỏi “ngỡ ngàng” trước ngôi chùa chưa bao giờ có hòm công đức, không đốt vàng mã, không tiếp nhận khách về chiêm bái đội quả với “mâm cao, cỗ đầy”…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Xem tướng mặt đàn ông –

Hàm răng đều đặn, vầng trán vuông với phần xương lông mày nhô cao…là những đặc điểm thường thấy ở người đàn ông thành đạt, ưu tú. Răng cửa to Trong nhân tướng học, răng to là tướng cát. Người đàn có răng cửa to thường tính cách hào phóng, ăn nói chín

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hàm răng đều đặn, vầng trán vuông với phần xương lông mày nhô cao…là những đặc điểm thường thấy ở người đàn ông thành đạt, ưu tú.

Răng cửa to

Trong nhân tướng học, răng to là tướng cát. Người đàn có răng cửa to thường tính cách hào phóng, ăn nói chính trực, thẳng thắn. Đặc biệt, những người có hàm rằng đều đặn, trắng bóng, sít nhau là tướng của người quân tử, có cuộc sống no đủ, không phải lo lắng cơm áo gạo tiền. Riêng những chàng trai có răng cửa đều thường có sức hút đặc biệt với phái nữ.

Huyệt thái dương đầy đặn

Huyệt thái dương được gọi là “Cung Phu Thê” (hay Thiên Thương) trong nhân tướng học. Người đàn ông có Cung Phu Thê đầy đặn rất trưởng thành về sinh lí và tâm lí. Bạn làm việc gì cũng cẩn trọng, lại rất có khả năng tích lũy tiền bạc, bởi Thiên Thương cũng hàm nghĩa trữ tiền. Người như bạn thường có điều kiện kinh tế lí tưởng, nên đủ khả năng đem lại cuộc sống yên vui, ổn định cho một nửa của mình.

images980408_danong_tuong3

Xương lông mày nhô cao

Nam giới có phần xương lông mày nhô cao, đầy thịt, đầu lông mày rộng là tướng đại quý. Những người sở hữu tướng này thường có tính cách lạc quan, sống tích cực, luôn hừng hực chí khí phấn đấu và có nghị lực phi thường. Bạn rất dễ thành công trong sự nghiệp. Về mặt tình cảm, bạn là người rất cẩn thận khi lựa chọn bạn đời. Khi đã yêu một ai đó, bạn sẽ không dễ gì rời xa đối phương.

Vầng trán vuông

Người có vầng trán vuông là người có quý tướng. Bạn thường có trình độ học vấn cao so với các thành viên trong gia đình. Người như bạn đầu óc linh hoạt, thông minh. Vầng trán rộng là biểu hiện của người hiểu biết, có chí tiến thủ và kiên trì đến cùng khi làm việc.

Tai ép sát vào đầu

Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Đối diện bất kiến nhĩ” (ý chỉ trông mặt không thấy tai). Đàn ông sở hữu tướng tai này thường có biểu hiện như một “cậu bé ngoan” trong mắt người yêu. Khi làm việc, bạn luôn tuân theo nguyên tắc rõ ràng, nhưng đôi khi vì quá nghe lời, bạn thiếu đi sự thú vị và sinh động cần có.

images980409_danong_tuong1

Miệng rồng

Đặc điểm của miệng rồng là hai bên khóe miệng hướng lên trên, hai môi đầy đặn, có hình như chiếc thuyền rồng. Đàn ông sở hữu tướng miệng này, lại thêm vầng trán rộng, mắt sáng, mũi cao đầy đặn, hay cười khi nói chuyện thường có nhân duyên tốt, biết giữ lời hứa và chắc chắn thành công trong sự nghiệp.

Ánh mắt có thần

Đó là đôi mắt có lòng đen, lòng trắng phân biệt rõ ràng, sáng rõ như pha lê và luôn ánh lên thần thái tràn trề hi vọng.  Người sở hữu đôi mắt tuyệt đẹp này thường có ý chí phấn đấu kiên cường. Nếu mắt thường trong tình trạng ẩm ướt chứng tỏ bạn rất biết thể hiện ưu điểm của mình trước người khác giới. Người như bạn luôn dồi dào tình cảm, ăn nói có duyên và rất biết cách che chở, bảo vệ một nửa của mình.

Tướng mũi đẹp

Mũi không hếch, không lệch, đầu mũi đầy đặn là tướng mũi đẹp. Người có tướng mũi không quá to quá dài ít khi dám hành động “vượt rào” và là người rất đáng tin. Nếu sống mũi cao, cánh mũi đầy đặn, bạn chắc chắn rất có khả năng kiếm tiền và biết quan tâm, chăm sóc người yêu hoặc người bạn đời của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt đàn ông –

Bố trí phòng tân hôn hợp phong thủy –

Thiết kế nội thất cho phòng tân hôn luôn được các bạn trẻ chú trọng, trong đó việc trang trí theo hướng phong thủy, nghiên cứu bố cục nơi "động phòng hoa chúc" là điều cần lưu tâm nhất. Thứ nhất, vị trí của phòng tân hôn lý tưởng là nơi phải có ánh s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiết kế nội thất cho phòng tân hôn luôn được các bạn trẻ chú trọng, trong đó việc trang trí theo hướng phong thủy, nghiên cứu bố cục nơi “động phòng hoa chúc” là điều cần lưu tâm nhất.

Thứ nhất, vị trí của phòng tân hôn lý tưởng là nơi phải có ánh sáng đầy đủ và lưu thông không khí. Màu sắc của phòng ưu tiên nhất vẫn là sắc hồng, tránh dùng màu quá u ám bởi điều đó dễ làm tâm trạng của vợ chồng không tốt như tinh thần không yên, thần kinh suy yếu, xảy ra cãi vã.

av

Thứ hai, một chiếc giường phù hợp với thiết kế của căn phòng là điều tuyệt vời. Động huyền tử viết: “mùa xuân đầu giường hướng Đông, mùa hè hướng Nam, mùa thu đầu giường hướng Tây, mùa đông đầu giường hướng Bắc”.

Ngoài ra, bên phải giường không nên đặt dàn loa để tránh sự cãi vã, trước giường không nên để tivi tránh thần kinh suy yếu, chân giường không đối thẳng với cửa phòng vệ sinh. Theo thói quen, chúng ta hay treo ảnh cưới trên đầu giường, nhưng trong phong thủy lại kiêng kị điều này.

Một điều nữa cũng hết sức quan trọng là cách phối màu của đồ trang trí nội thất sao cho vừa đạt thẩm mỹ vừa đảm bảo đúng phong thủy. Tiêu chuẩn đặt ra đầu tiên là tông màu phải phù hợp với không gian, việc lựa chọn phải đạt tới sự tương thích với màu tường, khung cảnh và cả sự ấm cúng, lãng mạn.

Trong phong thủy, màu trung tính hoặc màu nhạt được xem là thích hợp nhất, tránh chọn màu đậm. Tuy nhiên theo quan niệm phương Đông nói chung và người Việt nói riêng, những tông màu tươi, ấm như đỏ – hồng là hai sắc màu tượng trưng cho niềm hạnh phúc trọn vẹn, bền lâu và sự thăng hoa tình yêu trong cuộc sống lứa đôi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí phòng tân hôn hợp phong thủy –

Cách tính giờ xuất hành tốt, xấu của Lý Thuần Phong

Là người châu Á, sử dụng âm lịch để tính toán ngày xấu, ngày tốt, giờ xấu, giờ tốt đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi con người. Dưới đây là cách tính ngày giờ xuất hành tốt của Lý Thuần Phong được cho là đơn giản và khá thông dụng hiện nay.
Cách tính giờ xuất hành tốt, xấu của Lý Thuần Phong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Công thức chung: (Ngày âm + Tháng âm + Khắc định đi ) - 2

Sau đó lấy kết quả chia cho 6 và lấy số dư để tra bảng dưới đây:

"Khắc định đi"  là số giờ ta chọn để xuất phát

Từ 11g 00 đến 01 g00 Khắc 1: Tốt Từ 5g 00 đến 07 g00 Khắc 4: 
Từ 1g 00 đến 03 g00 Khắc 2: Tốt Từ 7g 00 đến 09 g00 Khắc 5: Tốt 
Từ 3g 00 đến 05 g00 Khắc 3: Từ 9g 00 đến 11 g00 Khắc 6 

- Số dư 1 (Đại an): Mọi việc đều tốt, cầu tài đi hướng Tây, Nam. Nhà cửa yên lành, người xuất hành đều bình yên.

- Số dư 2 (Tốc hỷ): Vui sắp tới. Cầu tài đi hướng Nam, đi việc quan nhiều may mắn. Người xuất hành đều bình yên. Chăn nuôi đều thuận lợi, người đi có tin vui về...

- Số dư 3 (Lưu miền): Nghiệp khó thành, cầu tài mờ mịt, kiện cáo nên hoãn lại. Người đi chưa có tin về. Đi hướng Nam tìm nhanh mới thấy, nên phòng ngừa cãi cọ, miệng tiếng rất tầm thường. Việc làm chậm, lâu la nhưng việc gì cũng chắc chắn. 

- Số dư 4 (Xích khẩu): Hay cãi cọ, gây chuyện đói kém, phải nên đề phòng, người đi nên hoãn lại, phòng người nguyền rủa, tránh lây bệnh. 

- Số dư 5 (Tiểu các): Rất tốt lành, đi thường gặp may mắn. Buôn bán có lời, phụ nữ báo tin vui mừng, người đi sắp về nhà, mọi việc đều hòa hợp, có bệnh cầu tài sẽ khỏi, người nhà đều mạnh khỏe. 

- Số dư 6 và 0 (Tuyệt hỷ): Cầu tài không có lợi hay bị trái ý, ra đi gặp hạn, việc quan phải đòn, gặp ma quỷ cúng lễ mới an. 

(Theo huyenbi.net)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tính giờ xuất hành tốt, xấu của Lý Thuần Phong

Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tý

BÍNH-TÍ 18 TUỔI: (Sinhtừ 19/2/1996 đến 6/2/1997) Mệnh: Giản Hạ Thủy (Nước dưới khe)
Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


NAM:
  Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Bản tính ngay thẳng thật thà, nhạy bén nhưng hơi lãng mạn. Mẫu người mưu lược, tạo được quyền lực. Nếu là con út trong gia đình thì lớn lên có thể gần mẹ xa cha hay gần cha xa mẹ. Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại đời này không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh, tài ba tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, chỉ ân hận suốt đời mà thôi. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Chỉ cần chăm chỉ học hành 4 năm đại học, có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.

 “Tuổi trẻ hôm nay ráng học hành

Ngày mai rạng rỡ bước công danh

Chuyên cần chăm chỉ lo đèn sách

Hiếu thảo đền ơn đấng sinh thành”.

Năm nay, đúng chương trình là chuyển lên lớp 11. Cố gắng thi SAT cao điểm để xin được học bổng và dễ được các đại học nổi tiếng tuyển mộ, không cần đợi cọng điểm GPA khi tốt nghiệp lớp 12. Hạp màu trắng. Hướng nhà cửa tốt nhất là Bắc, Nam và Đông Nam. Muốn đổi chỗ ở, chuyển trường đều thực hiện được.

NỮ:  Cung Khôn sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Mẫu người thích nghiên cứu, tìm tòi, có óc quan sát. Mưu cầu sự hoàn mỹ nên hơi mơ mộng. Nếu là con út trong gia đình thì lớn lên có thể gần cha xa mẹ hay gần mẹ xa cha. Ở đời có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại đời này không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh, tài ba tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, chỉ ân hận suốt đời mà thôi. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Chỉ cần chăm chỉ học hành 4 năm đại học, có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.

“ Cơm cha áo mẹ công thầy

Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo

Ngày mai vinh hiển ấm no

Yêu cuồng sống vội hẹn hò không nên”

Năm nay đúng chương trình là chuyển lên lớp 11.  Cố gắng  thi SAT cao điểm để dễ xin học bổng, dễ vào các đại học nổi tiếng, không cần đợi cọng điểm GPA khi tốt nghiệp lớp 12. Hạp màu trắng. Hướng mở tiệm, văn phòng thương mại là Tây và Tây Bắc. Chọn chồng hợp những tuổi sau: Qúy-Dậu ( 1993), Giáp-Tí ( 1984), At-Sửu ( 1985), Mậu-Thìn (1988),  Canh-Ngọ (1990). Bất luận lấy chồng năm nào, nên chọn ngày giờ tốt trong tháng 6 hay 12 âm lịch.

GIÁP-TÍ 30 TUỔI: ( Sinh từ 2/2/1984 đến 20/1/1985)

Mệnh: Hải Trung Kim ( Vàng giữa biển)

NAM: Cung Đoài, sao Thủy-Diệu, hạn Ngũ-Mộ : Mẫu người hiếu học, thông minh, nhanh nhẹn, mưu lược, chịu khó, bộc trực, nóng nảy nhưng rất lương thiện. Sinh vào mùa Thu phú qúi, một đời vật chất sung túc, khá giả về tiền bạc. Tính tự lập với nhiều cá tánh mang nhiều tham vọng, tự tin và gánh vác trách nhiệm, một đời hiên ngang. Gieo nhân lành thì quả tốt. Thi cử dễ có bằng cấp cao; nhờ đó mà tương lai sáng lạn. Tiền vận khó khăn thăng trầm. Hậu vận rất thành công. Sinh mùa Xuân, Hạ, Đông, gian nan:

“Tự tin xây dựng cuộc đời

Tuổi xuân chăm chỉ, thảnh thơi về già

Một đời ngang dọc phong ba

Hiển vinh hậu vận thăng hoa sáng ngời”

Tình duyên lận đận: Vui chưa lâu thì nỗi buồn chợt đến. Hạp với tuổi Giáp-Tí (1984), Nhâm-Tuất (1982), và Qúy-Dậu (1993). Đại kỵ tuổi Bính-Dần (1986), Đinh-Mão (1987). Rất kỵ màu đỏ. Hạp màu vàng. Phương hướng nhà cửa và thương mại tốt nhất là hướng Tây và Tây Bắc. Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm Tam-Địa Sát, không thích hợp cho việc xây cất hay chỉnh trang nhà cửa. Tháng 4 tháng 8, trong gia đình có người bệnh hoạn, hay tang chế bà con xa.

 

NỮ: Cung Cấn, sao Mộc-Đức, hạn Ngũ-Mộ: Mẫu người rất thông minh, lanh lẹ, chịu khó, tử tế, tốt bụng, nên cuộc đời thành công. Với tài giao tế, đắc nhân tâm nên dễ thăng tiến trên thương trường. Khó nhờ vả anh chị em. Tình duyên lận đận nếu sinh vào mùa Xuân, Hạ, Đông. Nhiều cá tánh và thích gánh vác giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, ly hương lập nghiệp lại rất giàu có sau 40 tuổi.

Mệnh Hải Trung Kim số chẳng nghèo

Mẫu người năng nỗ vững tay chèo

Thông minh tốt bụng, đời sang cả

Đường tình lận đận lắm gieo neo”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm Tam Địa Sát, không tốt cho việc xây cất, chỉnh trang nhà cửa. Tuy nhiên, việc làm ăn rất phát đạt, thịnh vượng. Làm công chức sẽ được lên chức lên lương. Tốt nhất trong mùa Đông. Rất hạp  màu vàng, kỵ màu đỏ. Dễ có tình cảm tốt với người bằng tuổi và Qúy-Hợi (1983), At-Mão (1975), Giáp-Dần (1974), Ất-Sửu (1985)  và Mậu-Ngọ (1978). Bất luận năm nào, khi cưới hỏi phải chọn ngày giờ tốt trong các tháng 6, hay 12 âm lịch là tốt nhất. Làm ăn nên chọn hướng Tây Nam và chánh Tây. Nếu muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6; để sinh con Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ đựợc 20 năm. ( Nếu là con út.)

NHÂM-TÍ 42 TUỔI: (Sinh từ 15/2/1972 đến 2/2/1973)

Mệnh: Tang Đố Mộc (Gỗ cây dâu).

NAM: Cung Khảm, sao Vân-Hớn hạn Thiên-La: Nam “ nhâm” là số phú qúi, nhờ  thông minh năng nỗ tháo vác, giỏi ứng phó trước mọi hoàn cảnh. Luôn tự tin, không ỷ lại vào người khác. Đa mưu túc trí, tránh đụng chạm. Ly hương lập nghiệp dễ dàng phát đạt giàu sang. Rất có năng khiếu về quản trị kinh doanh. Tương lai sang giàu bền vững. 

Tang Đố Mộc số thành công

Tình tiền danh lợi một vòng vẻ vang

Suốt đời phát đạt giàu sang

Công danh sự nghiệp vững vàng ấm  êm”

Tất cả mọi thay đổi như chỗ ơ, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại trong năm nay đều thành công. Tài lộc phát đạt đem lại một năm thịnh vượng. Tuy nhiên cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ trong tháng Giêng và tháng 7. Bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Ốc” thành thử  không nên xây cất nhà cửa. Người độc thân, rất hạp và có thể tiến tới hôn nhân với các tuổi Giáp-Dần (1974), Qúy-Sửu (1973), Canh-Thân (1980), Nhâm-Tuất (1982) và Qúi-Hợi (1983). Kỵ tuổi Bính-Thìn (1976). Về màu sắc nên chọn màu xanh nhạt. Phương hướng nhà cửa và làm ăn thương mãi tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc. Dự tính có con năm nay cũng tốt.

 

NỮ: Cung Cấn, sao La-Hầu, hạn Diêm-Vương: Mẫu người thông minh tháo vát năng động, với một đầu óc biết tính toán sáng suốt. Tánh tình chu đáo hiếu thảo, thủy chung biết nhìn xa và thật thà nhưng có ý chí, đầy nghị lực, tạo được sự quan hệ tốt với xã-hội. Con cái ngoan hiền. Khó nhờ vả anh chị em. Muốn tự kinh doanh, nên chọn hướng Tây và Tây Bắc, dễ phát đạt, thịnh vượng. Hạp màu xanh nhạt. Hôn nhân thường trở ngại lúc đầu, sau phải lấy chồng hợp tuổi mới hạnh phúc bền lâu.

“Thông minh chẳng có ai bằng

Nữ nhi hiếu đạo tâm hằng sáng soi

Góp công làm đẹp cho đời

Trăm năm bền vững rạng ngời an vui”

Hôn nhân hạp với những tuổi Giáp-Dần (1974), Ất-Tị (1965), Giáp-Thìn (1964), Canh-Tuất (1970), Quí-Sửu  (1973), Quí-Mão (1963) và Nhâm-Dần ( 1962). Kỵ tuổi Kỷ-Dậu (1969). Bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Ốc” không nên xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tuy nhiên, mọi thay đổi chỗ ở, chỗ làm, đi xa xuất ngoại đều thành công như ý. Một năm rất phát đạt và thịnh vượng. Cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ trong tháng Giêng và tháng 7.

 

CANH-TÍ  54 TUỔI: (Sinh từ 28/1/1960 đến 14/2/1961)

Mệnh: Bích Thượng Thổ (Đất trên tường)

 

NAM: Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người sáng trí thông minh nhanh nhẹn và chịu khó. Hành sự đơn độc, âm thầm lo toan mọi việc trong cô đơn nhưng có tinh thần kỹ luật, trọng nghĩa khí; đôi khi khoan dung và từ tâm bác ái. Nhiều khi nóng nảy hấp tấp, cho nên hôn nhân cách trở khó khăn. Đi xa lấy vợ, hay cưới vợ khác xứ khác quê càng tốt. Tiền vận trước 26 tuổi thường gặp gian nan. Hạp màu đỏ và vàng. Tạo mãi nhà cửa hay kinh doanh tốt nhất trên hướng Bắc, Nam, và Đông Nam. Bạn đời lý tưởng nhất là các tuổi Mậu-Ngọ (1978), Quý-Mão (1963), Canh-Tí (1960), Ất-Mão (1975), và Bính-Ngọ (1966). Kỵ tuổi  Kỷ-Dậu (1969) và Đinh-Mùi (1967).

“ Mẫu người sáng trí thông minh

Siêng năng chịu khó, tự tin chính mình

Tha phương kỳ ngộ duyên tình

Gặp người tri kỷ trọn tình trăm năm”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát” không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tuy nhiên việc làm ăn có nhiều biến chuyển thuận lợi trong mùa Đông. Trong hãng xưởng dễ được thăng quan tiến chức. Kinh doanh thương mãi, tài lộc rất khả quan. Con cái thi cử đỗ đạt.

 

NỮ: Cung Khôn, sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Mẫu người sáng trí, thông minh, ứng phó tài tình trước nghịch cảnh. Có tài năng và kiến thức sâu rộng, dễ thủ đắc tiền tài. Cho nên đôi khi quá tự tin và hành sự độc đoán gây đụng chạm. Một đôi khi tỏ ra hấp tấp vội vàng nhưng nhờ tâm tốt, hay làm việc thiện nên cũng dễ quên những nỗi khổ trong lòng.

“Tính người vì quá tự tin

Trước bao nghịch cảnh tại mình xem khinh

Trường đời khéo léo giữ gìn

Khiêm cung từ tốn gia đình mới yên”

 Làm ăn nên chọn hướng Tây và Tây Bắc. Hạp màu đỏ và vàng. Người hợp tác cũng như bạn trăm năm rất hợp với các tuổi Ất-Tị (1965), Canh-Tí (1960), Ất-Mùi (1955), Giáp-Thìn (1964), Giáp-Ngọ (1954), Quý-Mão (1963), Mậu-Tuất (1958), Canh-Dần ( 1950) và Mậu-Tí (1948). Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát”, không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tháng 4, tháng 8 gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Lái xe cũng phải cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ trong 2 tháng nói trên.

 

MẬU-TÍ 66 TUỔI: (Sinh từ 10/2/1948 đến 28/1/1949)

Mệnh: Tích Lịch Hỏa (Lửa sấm sét).

 

NAM: Cung Đoài, sao Thủy-Diệu, hạn Thiên-Tinh: Số ly hương xa xứ, thông minh lanh lẹ và mưu lược. Tự tay lập nghiệp mà thành, không nhờ vả người thân. Nếu là con út trong gia đình thì sớm bị mồ côi. Tính tình khí khái cương trực, dứt khoát, nhưng cũng thích triết và đạo lý, có tâm hồn hướng thượng, tin tưởng vào các sự kiện tâm linh. Cho nên một khi đã “tri thiên mệnh” thì lại tu hành bất chợt. Tình duyên lận đận, trắc trở nhiều phen. Hôn nhân không mấy khi hợp ý toại lòng. Nhưng nếu gặp những tuổi Mậu-Tuất (1958), Canh-Tí (1960) hay Bính-Thân (1956),  tình duyên được vững bền.

Tự tay lập nghiệp mà thành

Nên tri thiên mệnh tu hành quán thông

Tâm hồn hướng thượng thong dong

Đạo đời hòa hợp, thoát vòng khổ đau “.

Đại kỵ màu đen, đi xe đen. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc và Chánh Tây. Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Oc”, không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay tạo lập cơ sở kinh doanh. Công việc làm ăn cứ giữ nguyên tình trạng cũ, không nên mở mang rộng lớn, sẽ lâm và tình trạng lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không. Lái xe phải cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ, nhất là trong tháng 4 và 8.

 

NỮ: Cung Cấn, sao Mộc-Đức hạn Tam-Kheo: Nữ nhân mà nam tính, thích tự lập với nhiều tự ái. Rất thông minh, tài giỏi, cương trực, thích ly hương dựng nghiệp. Chấp nhận hiện tại và có tinh thần trách nhiệm. Tình duyên trắc trở, lận đận nhiều phen và hôn nhân ít khi hợp ý toại lòng. Khi “ ngũ thập tri thiên mệnh”(50 tuổi biết được ý trời) thì gia tăng khuynh hướng thích triết, đạo lý và tu hành hướng thượng. Tuy nhiên, khi đã lập gia đình với những tuổi Canh-Dần (1950), Quý-Mùi (1943), Mậu-Tí (1948), Đinh-Hợi (1947) gia đạo lại an vui. Nếu quí bà là con út, thường sớm bị mồ côi.

“Nữ nhân nam tính sống ngang nhiên

Mệnh Trời hòa hợp mối thiên duyên

Triết lý đạo đời tâm hướng thựợng

Thiên di cẩn thận mới bình yên”

Tối kỵ màu đen, nhất là đi xe đen ! Hướng tốt để làm ăn là Tây Bắc, và Chánh Tây. Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Oc”. Không nên xây cất nhà cửa hay văn phòng thương mãi. Mọi việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, tránh mở mang rộng lớn, để khỏi bị tình trạng lớn thuyền, lớn sóng, tiếng có miếng không. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại.

Nguồn Vietstar

Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tý

Mối quan hệ giữa các ngôi nhà –

Phong thủy rất coi trọng mối quan hệ giữa các căn nhà với nhau và có rất nhiều cấm kỵ. Dân gian có câu: “Mấy nhà xây song song với nhau, bắt buộc phải trên cùng một đường thẳng, thường gọi là cột sống, còn gọi là rồng, và buộc phải cao thấp như nhau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy rất coi trọng mối quan hệ giữa các căn nhà với nhau và có rất nhiều cấm kỵ.

581

Dân gian có câu: “Mấy nhà xây song song với nhau, bắt buộc phải trên cùng một đường thẳng, thường gọi là cột sống, còn gọi là rồng, và buộc phải cao thấp như nhau. Nếu nhà phía trước nhô ra thì gọi là nhạn nhô đầu, vợ (hoặc chồng) chủ nhà sẽ bị chết. Nếu nhà đằng sau không theo quy luật thì gọi là răng giao nhau, hai vợ chồng chủ nhà sẽ không được yên ổn. Nếu chiều cao không hư nhau, gọi là khí cao đè thấp. Nhà bên trái có thể cao hơn nhà bên phải. Nhưng tuyệt đốì không được phép nhà bên phải cao hơn nhà bên trái. Qui tắc dân gian là: bên trái là rồng xanh, bên phải là hổ trắng, thà để rồng xanh cao vạn trượng cũng không để hổ trắng ngóc đầu. Trong cùng một sân, dù là cùng một nhà xây cũng phải theo quy tắc này, nếu không gọi là “nô khi chủ” (người hầu bắt nạt chủ).

Trước nhà không được để phòng đổ nát không có người ở.

Nếu cửa chính lại đốì diện với góc nhà của nhà khác tức là hung.

Nếu góc tường nhà khác hướng thẳng vào cửa chính nhà mình gọi là nê tiêm sát. Nếu góc tưòng hướng vào bên trái thì không có lợi cho đàn ông, nếu hướng về bên phải thì không có lợi cho phụ nữ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa các ngôi nhà –

3 mẹo phong thủy cải thiện sức khỏe

Vận dụng những bí quyết phong thủy hữu ích để cải thiện sức khỏe và dồi dào năng lượng hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy trong lĩnh vực sức khỏe là một trong những bước đầu tiên bạn cần xem xét khi tìm cách vận dụng phong thủy cho ngôi nhà của bạn. Không quan trọng sức khỏe của bạn đang hơi mất cân bằng, hoặc bạn vừa trải qua một vài biến cố về sức khỏe, phong thủy có thể giúp cải thiện năng lượng và duy trì sức khỏe hài hòa.

Áp dụng các bí quyết phong thủy về sức khỏe phải luôn luôn đảm bảo được các yếu tố cơ bản. Đó là tạo ra một nền tảng tốt để phát huy hết lợi thế của các giải pháp phong thủy. Nếu bỏ qua các bước cơ bản, bạn khó có thể đạt được hiệu quả mong muốn và chạm đến cấp độ phong thủy sâu sắc hơn.

 3 meo phong thuy cai thien suc khoe - 1

Để thiết lập một nền tảng phong thủy tốt cho ngôi nhà khỏe mạnh, bạn phải bắt đầu với những điều cơ bản về phong thủy sức khỏe. Nhà đẹp xin chỉ ra 3 ưu tiên phong thủy "phải có" trong nhà sẽ đem lại sức khỏe dồi dào hơn cho bạn cũng như các thành viên trong gia đình.

1. Không khí tươi mới, chất lượng tốt

Nói dễ hơn làm, đây là điều hiển nhiên mà ai cũng biết. Mặc dù thường xuyên bị bỏ qua nhưng chất lượng không khí tốt thực sự là ưu tiên phong thủy số 1. Trồng cây cảnh thanh lọc không khí, mở cửa sổ hàng ngày để không khí lưu thông tốt hơn, sử dụng tinh dầu để làm sạch không khí, sử dụng máy lọc không khí... Làm bất cứ điều gì để tìm ra giải pháp cải thiện không khí trong nhà. Hít thở không khí sạch là nền tảng phong thủy tuyệt vời cho sức khỏe của bạn.

2. Đủ ánh sáng tự nhiên

Điều này bao gồm cả hệ thống chiếu sáng thông minh, linh hoạt trong nhà. Một lần nữa, bí quyết phong thủy này "nói dễ hơn làm". Nhưng một khi bạn tập trung vào chất lượng của ánh sáng, bạn sẽ nhanh chóng cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt về tình trạng sức khỏe và tinh thần. Ánh sáng là nguồn dinh dưỡng hàng đầu của con người. Vì thế, hãy luôn đủ tỉnh táo và cung cấp đủ "dinh dưỡng ánh sáng" cho cơ thể của bạn. Ngoài ra, bạn cũng cần lựa chọn màu sắc ánh sáng một cách cẩn thận, phù hợp với từng không gian cụ thể.

3. Không gian sống sạch sẽ, ngăn nắp

Rất nhiều người chưa nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của việc giữ gìn nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp nên thường bỏ qua yếu tố này. Thực tế, sự lộn xộn, bẩn thỉu... chỉ làm tích tụ năng lượng tiêu cực và để thất thoát năng lượng tích cực trong nhà. Và bạn phải giải quyết dứt điểm điều này, tạo thói quen dọn dẹp nhà cửa hàng ngày. Có thể treo thêm chuông gió, chọn màu sắc và cây cảnh hợp phong thủy để trang trí và cân bằng lại không gian sống.

Một khi bạn đã làm được những ưu tiên phong thủy trên, bạn có thể bắt đầu áp dụng các giải pháp phong thủy đặc biệt hơn. Chẳng hạn như đặt cây xanh tươi tốt (đại diện cho hành Mộc) hoặc một tính năng nước (đại diện cho hành Thủy) ở khu vực phía Đông của ngôi nhà. Nếu bạn không thể bố trí cây cảnh hoặc tính năng nước, bạn vẫn có thể thu hút nguồn năng lượng cần thiết thông qua màu sắc (màu xanh lá cây, màu nâu đại diện cho hành Mộc và màu xanh da trời, màu đen đại diện cho hành Thủy) hoặc tác phẩm nghệ thuật miêu tả nước như sông ngòi, đại dương,...

Bạn cũng có thể mời gọi năng lượng phong thủy thuộc hành Thủy bằng cách bố trí gương soi hợp lý, chính xác. Tính toán con số bát quái của bạn thật chuẩn xác và tìm ra hướng phong thủy tốt của riêng bạn. Cố gắng bố trí bàn học, bàn làm việc hoặc giường ngủ đối diện với hướng đó trong khi làm việc hoặc trong khi ngủ.

Chăm sóc cơ thể bạn và mang đến cho nó năng lượng của vẻ đẹp và niềm vui, nó chắc chắn sẽ thu hút sức khỏe và tinh thần tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 mẹo phong thủy cải thiện sức khỏe

'Thầy' đặt tên, con phú quý?

Khi bé còn chưa chào đời, nhiều bậc cha mẹ đã 'săn' thầy để cậy nhờ tìm một cái tên phú quý, cát tường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Khi đặt tên cần tuân thủ các nguyên tắc

Âm vần của tên gọi phải hay, đẹp: đặt tên là để người khác gọi, vì thế phải hay, kêu, tránh thô tục, không trúc trắc. Tiếp đến là tránh họ và tên cùng vần cùng chữ, tránh dùng nhiều chữ để dễ gọi.

Tên gọi phải có kiểu chữ đẹp, dễ viết, tạo nên chữ ký đẹp, chân phương.

Khi đặt tên cần chú ý sự thống nhất hài hoà giữa họ và tên, ví dụ Bạch Như Băng khiến người ta có cảm giác trong trắng như băng.

Tên gọi phải có ngụ ý hay: điều quan trọng nhất của việc đặt tên là chọn chữ nghĩa sao cho hay và lịch sự. Vì thế phải căn cứ vào thẩm mỹ, chí hướng, và sở thích để chọn chữ nghĩa.

Điều kiêng kỵ khi đặt tên

Tốt nhất là không đặt tên dở tây dở ta như Mali Hồng Ngọc, Giôn Vũ Mạnh, Miki Lan Hương, Ana Hoài Thu v.v... khi con cái trưởng thành, nếu có dịp tên gọi được xuất hiện trên các báo chí, đài phát thanh truyền hình thì độc giả, thính giả sẽ phải đoán người đó là Tây hay ta.

Khi đặt tên không nên chạy theo thời cuộc chính trị, đặt tên gọi mang mầu sắc chính trị ví dụ trong chiến tranh giải phóng dân tộc có người đặt tên cho con là Giải Phóng, Phản Đế, Kháng Mỹ... hoặc là sau này lại đặt tên là Văn Cách, Hồng Vệ...

Khi đặt tên không nên dùng những từ cầu lợi, ví dụ Phú Quý, Kim Ngân làm cho người khác có cảm giác đó là sự nghèo nàn về học vấn.

Khi đặt tên không nên cuồng tín, nông cạn quá, ví dụ đặt tên là Vô Địch, Vĩnh Phát... Đặt tên gọi tuyệt đối quá, cực đoan quá sẽ làm cho người khác không có ấn tượng tốt.

Không nên đặt tên nam nữ, âm dương trái ngược nhau, nữ không nên đặt tên Nam, nam không nên đặt tên Nữ để người khác dễ phân biệt.

Theo Bách khoa tri thức

Trích từ nguồn: EVA.VN
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 'Thầy' đặt tên, con phú quý?

Bói đường chỉ tay người trải qua nhiều mối tình - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bói đường chỉ tay người trải qua nhiều mối tình, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bói đường chỉ tay người trải qua nhiều mối tình, tu vi Bói đường chỉ tay người trải qua nhiều mối tình, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bói đường chỉ tay người trải qua nhiều mối tình

Một người có nhiều mối tình sẽ là người sẽ từng trải, chín chắn hơn trong tình yêu, hay điều đó để chứng minh đó là một người lăng nhăng, đào hoa, không đáng tin cậy. Bạn có tò mò muốn biết không? Cùng bói tình yêu nghiên cứu xem đường chỉ tay sẽ nói lên điều gì nhé! Xem-boi-tinh-yeu

Xem-boi-tinh-yeu

Xem bói tình yêu :Ngón út ngắn

Mối quan hệ xã hội và tình yêu rất dễ thay đổi. Đối với sự hiểu nhau với người yêu, vợ hoặc chồng luôn không đủ, hoặc bản thân chưa trưởng thành vẫn còn tính cách trẻ con. Bởi vậy rất dễ phát triển mối quan hệ với những người mình cảm thấy thích, duyên phận có nhiều biến đổi. Có rất nhiều mối tình.

Xem bói tình yêu: Có nhiều đường Hôn nhân chồng chéo lên nhau

 

Nhu cầu sinh lý mạnh, khó có thể không chế được bản thân, có nhiều mối quan hệ phức tạp với người khác giới.

Xem bói tình yêu: Nhiều vòng kim tỉnh

Thích không khí lãng mạn, thường gây ra những chuyện tai tiếng.

 

Xem bói tình yêu:Đường tâm đạo có nhiều nhánh ở dưới

Có tấm lòng từ bi, dễ dàng chuyển từ sự đồng cảm sang tình yêu, dễ vì tình mà gặp khó khăn. Mặc dù không muốn như vậy nhưng thường bị người khác hiểu nhầm là kẻ đa tình.

Xem bói tình yêu: Gò Kim tỉnh có tính đàn hồi, bên cạnh đường Sinh mệnh có nhiều đường Kim tinh

Nhu cầu sinh lý mạnh, thể lực khỏe. Để thỏa mãn dục vọng của bản thân họ thường nảy sinh mối quan hệ với nhiều người khác giới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói đường chỉ tay người trải qua nhiều mối tình - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

24 sơn hướng trong phong thủy –

24 Sơn, 8 Hướng trên la bàn Hậu thiên Bát quái của Văn Vương được chia làm 8 hướng đều nhau, với mỗi hướng đi liền với một số của Cửu tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

24 Sơn, 8 Hướng trên la bàn

Hậu thiên Bát quái của Văn Vương được chia làm 8 hướng đều nhau, với mỗi hướng đi liền với một số của Cửu tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa (trung cung) nên không có phương hướng. Đem áp đặt Hậu thiên Bát quái lên la bàn gồm 360 độ, thì mỗi hướng (hay mỗi số) sẽ chiếm 45 độ trên la bàn.

Vào thời kỳ phôi phai của học thuật Phong thủy (thời nhà Chu), việc phân chia la bàn thành 8 hướng như vậy đã được kể là quá tinh vi và chính xác. Nhưng sau này, khi bộ môn Phong thủy đã có những bước tiến vượt bậc dưới thời Đường – Tống, khoảng cách 45 độ được xem là quá lớn và sai lệch qúa nhiều. Để cho chính xác hơn, người ta lại chia mỗi hướng ra thành 3 sơn đều nhau, mỗi sơn chiếm 15 độ. Như vậy trên la bàn lúc này đã xuất hiện 24 sơn. Người ta lại dùng 12 Địa Chi, 8 Thiên Can (đúng ra là 10, nhưng 2 Can Mậu-Kỷ được quy về trung cung cho Ngũ Hoàng nên chỉ còn 8 Can) và 4 quẻ Càn – Khôn – Cấn – Tốn mà đặt tên cho 24 sơn như sau:

– Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ
– Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
– Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT
– Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
– Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
– Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
– Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
– Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI

Tất cả 24 sơn trên la bàn đều được xếp theo thứ tự từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ. Chẳng hạn như hướng BẮC có 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, sơn NHÂM chiếm 15 độ phía bên trái, sơn TÝ chiếm 15 độ nơi chính giữa hướng BẮC, còn sơn QUÝ thì chiếm 15 độ phía bên phải. Tất cả các sơn khác cũng đều theo thứ tự như thế.

Mỗi sơn được xác định với số độ chính giữa như: sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;

Phần trên là tọa độ chính giữa của 24 sơn. Từ tọa độ đó người ta có thể tìm ra phạm vi của mỗi sơn chiếm đóng trên la bàn, bằng cách đi ngược sang bên trái, cũng như sang bên phải của tọa độ trung tâm, mỗi bên là 7 độ 5 (vì phạm vi mỗi sơn chỉ có 15 độ). Chẳng hạn như hướng MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu đi ngược sang bên trái 7 độ 5 (tức là trừ đi 7 độ 5) thì được 202 độ 5. Sau đó từ tọa độ trung tâm là 210 độ lại đi thuận qua phải 7 độ 5 (tức là cộng thêm 7 độ 5) thì được 217 độ 5. Như vậy phạm vi sơn MÙI sẽ bắt đầu từ 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5 trên la bàn.

La kinh 24 son do so vietnam

Tọa độ của 24 hướng trên la bàn

Chính Hướng và Kiêm Hướng

Một vấn đề làm cho người mới học Phong thủy khá bối rối là thế nào là Chính Hướng và kiêm Hướng? Thật ra, điều này cũng không khó khăn gì cả, vì khi đo hướng nhà (hay hướng mộ) mà nếu thấy hướng nhà (hay hướng mộ đó) nằm tại tọa độ trung tâm của 1 sơn (bất kể là sơn nào) thì đều được coi là Chính Hướng. Còn nếu không đúng với tọa độ tâm điểm của 1 sơn thì được coi là Kiêm Hướng. Kiêm hướng lại chia ra là kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái, rồi kiêm nhiều hay kiêm ít. Nếu kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái thì hướng nhà không được xem là thuần khí nữa, vì đã lấn sang phạm vi của sơn bên cạnh (điều này sẽ nói rõ hơn trong phần Tam nguyên long). Nói kiêm phải hay kiêm trái là lấy tọa độ tâm điểm của mỗi sơn làm trung tâm mà tính. Chẳng hạn như sơn MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu bây giờ 1 căn nhà có hướng là 215 độ thì nhà đó thuộc hướng MÙI (vì sơn MÙI bắt đầu từ khoảng 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5), nhưng kiêm bên phải 5 độ. Nhưng trong thuật ngữ Phong thủy thì người ta lại không nói kiêm phải hoặc trái, mà lại dùng tên của những hướng được kiêm để gọi nhập chung với hướng của ngôi nhà đó. Như trong trường hợp này là nhà hướng MÙI kiêm phải 5 độ, nhưng vì hướng bên phải của hướng MÙI là hướng KHÔN, nên người ta sẽ nói nhà này “hướng MÙI kiêm KHÔN 5 độ” tức là kiêm sang bên phải 5 độ mà thôi.

Riêng với vấn đề kiêm nhiều hay ít thì 1 hướng nếu chỉ lệch sang bên phải hoặc bên trái khoảng 3 độ so với tọa độ tâm điểm của hướng đó thì được coi là kiêm ít, và vẫn còn giữa được thuần khí của hướng. Còn nếu lệch quá 3 độ so với trung tâm của 1 hướng thì được coi là lệch nhiều, nên khí lúc đó không thuần và coi như bị nhận nhiều tạp khí. Những trường hợp này cần được dùng Thế quái (hay số thế, sẽ nói trong 1 dịp khác) để hy vọng đem được vượng khí tới hướng hầu biến hung thành cát mà thôi.

Tam nguyên long

Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên” chỉ thời gian như đã nói trong “Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi.

snhng

Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm như sau:

– THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.

– ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.

– NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.

Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỢNG THIÊN XÍCH. (điều này sẽ được nói rõ trong phần lập tinh bàn cho trạch vận ở 1 mục khác).

Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long ta sẽ thấy trong mỗi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, và bao gồm đủ ba Nguyên: Địa, Thiên và Nhân, theo chiều kim đồng hồ. Thí dụ như hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, với NHÂM thuộc Địa nguyên long, TÝ thuộc Thiên nguyên long, và QUÝ thuộc Nhân nguyên long. Các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long thì nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên tay trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử. Trong 3 nguyên Địa-Thiên-Nhân thì Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân thì sẽ bị xuất quái.

– Thí dụ: Nhà hướng MÙI 205 độ. Vì hướng MÙI bắt đầu từ 202 độ 5, nên nhà hướng 205 độ cũng vẫn nằm trong hướng MÙI, nhưng kiêm sang phía bên trái 5 độ, tức là kiêm hướng ẤT 5 độ. Vì hướng MÙI là thuộc Địa nguyên long (tức Nghịch tử), chỉ có thể lấy chính hướng (210 độ) chứ không thể kiêm, cho nên trường hợp này là bị phạm xuất quái, chủ tai họa, bần tiện. Ngược lại, nếu 1 căn nhà có hướng là 185 độ, tức là hướng NGỌ kiêm ĐINH 5 độ. Vì NGỌ là quẻ Phụ mẫu, kiêm sang bên phải tức là kiêm Thuận tử nên nhà như thế vẫn tốt chứ không xấu. Đây là 1 trong những yếu tố căn bản và quan trọng của Huyền không Học, cần phải biết và phân biệt rõ ràng. Có như vậy mới biết được tuy 2 nhà cùng 1 trạch vận, nhưng nhà thì làm ăn khá, mọi người sang trọng, có khí phách, còn nhà thì bình thường, con người cũng chỉ nhỏ mọn, tầm thường mà thôi. Cho nên sự quý, tiện của 1 căn nhà phần lớn là do có biết chọn đúng hướng hoặc biết kiêm hướng hay không mà ra. Những điều này sẽ được nói rõ hơn trong phần Lập hướng và Kiêm hướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 24 sơn hướng trong phong thủy –

5 điềm báo bạn sắp gặp vận may về tình hoặc tiền

Nếu gặp phải một trong năm dấu hiệu dưới đây thì hãy chuẩn bị tinh thần chào đón vận may, có thể là tiền bạc, có thể là tình cảm, chúng đang trên đường đến với
5 điềm báo bạn sắp gặp vận may về tình hoặc tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bạn.


Có bướm bay vào nhà


5 diem bao ban sap gap van may ve tinh hoac tien hinh anh

Bướm bay vào nhà báo hiệu những dấu hiệu may mắn

Chúng ta hay quan niệm khi bướm bay vào nhà có nghĩa là "các cụ về" nhưng theo dân gian khi bướm bay vào nhà có nghĩa là bạn đang có những dấu hiệu may mắn, sắp gặp được quý nhân. Nếu con bướm có màu sắc tươi sáng sẽ mang tin tốt liên quan đến tình cảm, nhân duyên. Còn nếu là bướm màu xám, đen thì quý nhân sẽ mang đến tin vui trong công việc hoặc nghề nghiệp. Bạn cũng đừng nỡ xua đuổi con bướm hoặc bắt hay vô tình giết nó, điều đó sẽ làm giảm vận may của bạn đấy!
 

Cây cối đột nhiên đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái

  Thông thường, biểu hiện phong thủy ngôi nhà không tốt hoặc người trong nhà có chuyện không vui, bệnh tật thì cây cối hay vật nuôi cũng cùng "tâm trạng" ủ dột, héo tàn. Ngược lại, mọi thứ đều tươi tốt, hoa nở, cây cối đâm trồi nảy lộc thì là biểu hiện của sự sống, khởi đầu của những điều vui tươi, may mắn và thành công. Bạn cũng nhớ nếu đã trồng cây hay nuôi con vật thì hãy thường xuyên chăm sóc chúng.
 

Chó chạy vào nhà


5 diem bao ban sap gap van may ve tinh hoac tien hinh anh

Chó màu vàng chạy vào nhà báo hiệu sự thịnh vượng và hạnh phúc 

"Chó đến nhà thì có", người ta cho rằng khi một con chó lạc vào nhà của bạn là một dấu hiệu rất thuận lợi, vì đồng nghĩa bạn sẽ có thêm người đồng hành trung thành, cùng nhau vượt qua những trở ngại trong cuộc sống. Chó màu đen mang lại sự giàu có, bảo vệ. Chó màu vàng mang lại sự thịnh vượng và hạnh phúc, còn những chú chó màu trắng mang lại tình yêu và sự lãng mạn.
 

Dơi làm tổ trong nhà

  Đây là một trong những dấu hiệu mạnh mẽ nhất cho thấy gia đình bạn sẽ gặp những may mắn trong tiền bạc, tài chính. Theo quan niệm tâm linh thời xưa, dơi là biểu tượng của sự giàu có dồi dào.
 
Người xưa tin rằng con dơi chỉ làm tổ ở những nơi tốt lành - họ cho rằng cảm nhận của dơi rất nhạy bén nên nó có thể "ngửi" ra nơi có dòng khí tốt. Nếu các con dơi bay đến và làm tổ dưới mái hiên nhà bạn thì điều này báo hiệu niềm vui, sự may mắn sắp tới với bạn.

 

Bản thân chú ý hơn đến diện mạo

  Bất kể là nam hay nữ thì khi tinh thần không tốt, họ đều bơ phờ mệt mỏi, không buồn chú ý đến bề ngoài. Nhưng nếu đột nhiên bạn lại chăm chút hơn cả về đầu tóc lẫn quần áo thì có nghĩa là tinh thần của bạn đang dần phấn chấn lên. Bên cạnh đó, nếu bạn thích sự náo nhiệt, điều này sẽ mang lại nguồn năng lượng tốt. Rủi ro đang tan mất, vận đen qua và vận may đang mỉm cười với bạn.

ST.
Những dấu hiệu cơ thể cho thấy bạn sắp có tiền, thậm chí trúng Vietlott 10 điềm báo tâm linh khiến tài vận gia đình không ngóc đầu lên được Thực hư chuyện nghe tiếng chim lợn là điềm báo có người chết?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 điềm báo bạn sắp gặp vận may về tình hoặc tiền

Phong thủy 3 cửa thông nhau –

Để tránh hiện tượng 3 cửa thẳng khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá.   Quan niệm tránh làm nhà 3 cửa thẳng hàng nhau là nhằm mục đích tránh gió lùa trong nhà. Lúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tránh hiện tượng 3 cửa thẳng khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá.

cuathang

 

Quan niệm tránh làm nhà 3 cửa thẳng hàng nhau là nhằm mục đích tránh gió lùa trong nhà. Lúc này, gió sẽ lùa từ trước hoặc sau và thống vào các căn phòng trong nhà khiến nguy cơ gặp gió lạnh, độc của người sống trong đó là rất cao, từ đó ảnh hưởng tới sức khoẻ.

Để tránh hiện tượng này khi đã làm cửa, bạn có thể đặt trước cửa thứ nhất hoặc cửa có gió lùa vào một tấm gương hoặc cây xanh lớn hay tảng đá. Các vật này thường cao ngang tầm người để có thể cản gió. Ngoài ra, cách bố trí các vật này cũng cần đảm bảo được hai yếu tố là ngăn cản gió vào nhà nhưng không ảnh hưởng đến thẩm mỹ ngôi nhà, mà ngược lại phải tạo được cảnh quan hài hòa với kiến trúc chung giúp ngôi nhà đẹp hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy 3 cửa thông nhau –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Đặt tỳ hưu trong nhà mà không biết điều này tiền tài sẽ "đội nón ra đi"

Đặt tỳ hưu trong nhà mà không biết điều này tiền tài sẽ đội nón ra đi cần tránh ngay tức khắc!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Về tác dụng của Tỳ hưu trong phong thủy có lẽ ai cũng đã biết, tuy nhiên không phải đặt Tỳ hưu ở bất kỳ đâu hay theo hướng nào cũng đều chotác dụngnhư nhau. Do vậy, dù là gia đình tại phòng khách, trongphòng ngủ, trên bàn thờ hay doanh nghiệp: trong phòng làm việc, bàn làm việc, trên két sắt,… thì trước khi trưng tượng Tỳ hưu chúng ta cũng cần xem xét kỹ lưỡng vị trí & hướng phù hợp nhất sao cho Tỳ hưu có thể thu hút tài lộc về cho mình.

Điều cần tránh khi đặt tỳ hưu trong nhà

Khi sử dụng tượng thiên lộc làm vật chiêu tài thì cần tránh sờ tay vào chúng, đặc biệt là mắt và miệng, vì điều đó tương ứng với làm mờ mắt – mòn răng, khiến tỳ hưu không biết đón nhận khí hữu ích cho tiền tài của chủ nhà. Còn nếu bạn mang chúng trong người thì khi đi ngủ cần tháo ra và cất giữ ở nơi trang nghiệm, không để chúng phòng ngủ, đặc biệt là với việc có quan hệ giường chiếu, vì sẻ làm ô uế, mất đi tính quang minh của chúng. Điều đặc biệt chú ý là 1 khi đã thỉnh tượng tỳ hưu về thờ phụng thì cần mãi mãi giữ chúng trong nhà, tối kỵ việc đem tặng người khác hoặc bị mất trộm, điều đó tương ứng với mang tài lộc của mình tặng người khác.

Theo TS. Nguyễn Văn Vịnh, chuyên gia phong thuỷ, Trưởng khoa Khoc học cơ bản, Trường Đại học Mỹ thuật Công Nghiệp Hà Nội đã chia sẻ với Báo Người Đưa Tin rằng - đối với con Tỳ Hưu, người ta phải làm lễ khai quang mở mắt cho linh vật. Mục đích nhằm xác nhận mối quan hệ giữa gia chủ và linh vật

Tỳ Hưu khi đặt, đầu Tỳ Hưu phải hướng ra cửa chính, hoặc hướng ra cửa sổ để chiêu tài khí bốn phương. Tất nhiên khi đặt bất cứ vật khí phong thuỷ nào, điều cần phải nhớ là xem ngày giờ tốt để đặt.

Nếu ở phương vị ngũ hoàng đại sát bay đến, ta đặt hai con Tỳ Hưu phía sau cửa chính, đầu Tỳ Hưu hướng về phía trước, thì có thể hóa giải sát khí của ngũ hoàng đại sát.

ty-huu11

Nếu đeo hoặc mang Tỳ Hưu trên người thì tối kỵ sờ tay hoặc để người khác sờ tay vào mắt, miệng, lưỡi, răng của Tỳ Hưu. Nếu không Tỳ Hưu sẽ bị mờ mắt, mòn răng và do vậy sẽ mang được ít vàng bạc châu báu đến cho gia chủ.

Hoặc con vật linh thiêng khác như con voi. Con voi mang biểu tượng của sự vững chãi cho ngôi nhà. Thông thường những ngôi nhà có vấn đề về vị trí, chênh vênh thì họ đặt con voi để tăng cường sự bền vững.

Theo tôi, việc quan niệm đặt linh vật trong nhà đều chiêu tài, cầu lộc, cầu sức khoẻ cũng chỉ nên dừng lại ở mức độ vừa phải bởi nếu thái quá thì điều đó có thể trở thành mê tín dị đoan.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tỳ hưu trong nhà mà không biết điều này tiền tài sẽ "đội nón ra đi"

10 điều tuổi trẻ thường lãng phí

10 điều tuổi trẻ thường lãng phí. Trong hành trình tạo dựng một cuộc đời có ý nghĩa, nếu bạn lỡ coi thường một trong 10 điều thiết yếu dưới đây, coi như bạn đã tự đánh mất một phần nhựa sống của chính mình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong hành trình tạo dựng một cuộc đời có ý nghĩa, nếu bạn lỡ coi thường một trong 10 điều thiết yếu dưới đây, coi như bạn đã tự đánh mất một phần nhựa sống của chính mình.

Sức khoẻ: Lúc còn trẻ, người ta thường ỷ lại vào sức sống tràn trề đang có. Họ làm việc như điên, vui chơi thâu đêm, ăn uống không điều độ…. Cứ như thế, cơ thể mệt mỏi và lão hoá nhanh. Khi về già, cố níu kéo sức khoẻ thì đã muộn.

Thời gian: Mỗi thời khắc “vàng ngọc” qua đi là không bao giờ lấy lại được. Vậy mà không hiếm kẻ ném 8 giờ làm việc qua cửa sổ. Mỗi ngày, hãy nhìn lại xem mình đã làm được điều gì. Nếu câu trả lời là “không”, hãy xem lại quỹ thời gian của bạn nhé!

Tiền bạc: Nhiều người hễ có tiền là mua sắm, tiêu xài hoang phí trong phút chốc. Đến khi cần một số tiền nhỏ, họ cũng phải đi vay mượn. Những ai không biết tiết kiệm tiền bạc, sẽ không bao giờ sở hữu được một gia tài lớn.

Tuổi trẻ: Là quãng thời gian mà con người có nhiều sức khoẻ và trí tuệ để làm những điều lớn lao. Vậy mà có người đã quên mất điều này. “Trẻ ăn chơi, già hối hận” là lời khuyên dành cho những ai phí hoài tuổi thanh xuân cho những trò vô bổ.

Không đọc sách: Không có sách, lịch sử im lặng, văn chương câm điếc, khoa học tê liệt, tư tưởng và suy xét ứ đọng. Từ sách, bạn có thể khám phá biết bao điều kỳ thú trên khắp thế giới. Thật phí “nửa cuộc đời” cho nhưng ai chưa bao giờ biết đọc sách là gì!

Cơ hội: Cơ hội là điều không dễ dàng đến với chúng ta trong đời. Một cơ may có thể biến bạn thành giám đốc thành đạt hay một tỷ phú lắm tiền. Nếu thờ ơ để vận may vụt khỏi tầm tay, bạn khó có thể tiến về phía trước.
Nhan sắc: Là vũ khí lợi hại nhất của phụ nữ. Có nhan sắc, bạn sẽ tự tin và chiếm được nhiều ưu thế hơn so với người khác. Tuy nhiên, “tuổi thọ” của nhan sắc có hạn. Thật hoang phí khi để sắc đẹp xuống dốc. Hãy chăm sóc mình ngay từ bây giờ.

Sống độc thân: Phụ nữ ngày nay theo trào lưu “chủ nghĩa độc thân”. Thực tế là khi sống một mình, bạn rất cô đơn và dễ cảm thấy thiếu vắng vòng tay yêu thương của chồng con. Bận bịu gia đình chính là một niềm vui. Sống độc thân, bạn đã lãng phí tình cảm đẹp đẽ ấy.

Không đi du lịch: Một vĩ nhân đã từng nói: “Khi đi du lịch về, con người ta lớn thêm và chắc chắn một điều là trái đất phải nhỏ lại”. Vì thế, nếu cho rằng đi du lịch chỉ làm hoang phí thời gian và tiền bạc, bạn hãy nghĩ lại nhé!

Không học tập: Một người luôn biết trau dồi kiến thức sẽ dễ thành công hơn người chỉ biết tự mãn với những gì mình biết. Nếu không học hành, bạn đang lãng phí bộ óc đấy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 điều tuổi trẻ thường lãng phí

Giải mã giấc mơ giấc ngủ –

Mơ thấy mình đang ngủ trên chiếc giường mới và sạch sẽ, là tín hiệu cho thấy bạn đang vô cùng hạnh phúc vì có được tình yêu và sự ủng hộ của đối phương. 1. Trong mơ thấy bản thân đang ngủ, có thể đây là lời cảnh báo về điều không may mắn sẽ đến với b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mơ thấy mình đang ngủ trên chiếc giường mới và sạch sẽ, là tín hiệu cho thấy bạn đang vô cùng hạnh phúc vì có được tình yêu và sự ủng hộ của đối phương.

1. Trong mơ thấy bản thân đang ngủ, có thể đây là lời cảnh báo về điều không may mắn sẽ đến với bạn. Bạn cần chủ động làm tốt công tác phòng bị nhé.

2. Nếu mơ thấy người yêu đang ngủ, điềm báo cho thấy tình cảm hai bạn ngày càng tiến triển tốt đẹp và đậm sâu.

3. Mơ thấy ai đó (không rõ mặt) đang ngủ rất say, thông thường đây là tín hiệu cho thấy mọi chuyện thuận lợi, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc ngập tràn. Nhưng nếu mơ bản thân cố đánh thức người đó dậy, dù có gọi to đến mấy người ấy cũng không nghe thấy, thì lại cho thấy sự lo lắng của bạn về cách cư xử với mọi người. Bạn sợ rằng mọi người sẽ không hài lòng về mình.

4. Trong giấc mơ thấy mình đang ngủ nhưng bị ai đó quấy rầy, điều này báo hiệu tin tốt lành sẽ đến với bạn. Mọi khó khăn trước mắt sẽ biến mất, bắt đầu những ngày tháng an nhàn và tốt đẹp.

Nếu bạn đang ốm mà mơ thấy điều này, mọi bệnh tật sẽ qua khỏi, sức khỏe của bạn được duy trì ổn định.

Sweet dreams

5. Bạn gái đang yêu nằm mơ thấy bản thân đang ngủ, cần phải thận trọng kẻo bị đối phương lừa gạt chuyện tình cảm.

6. Mơ thấy người mình ghét cay ghét đắng đang nằm ngủ, có nghĩa là bạn sẽ chiến thắng người đó về mọi phương diện.

7. Nếu mơ thấy mình nằm ngủ trên một chiếc giường mới và sạch sẽ, là tín hiệu cho thấy bạn đang vô cùng hạnh phúc và hài lòng vì có được tình yêu và sự ủng hộ của đối phương.

8. Mơ thấy bản thân nằm ngủ ở một nơi xa lạ và kỳ quái nào đó, mọi bệnh tật sẽ qua đi nhanh chóng, những lời hứa của đối phương dành cho bạn được “thực thi” nghiêm chỉnh.

9. Trong giấc mơ thấy mình nằm ngủ cùng với một đứa trẻ, điều này tượng trưng cho sự đền đáp về tình yêu và hạnh phúc của người khác dành cho bạn.

10. Mơ thấy mình nằm ngủ cùng người hoặc vật gì đó mà bạn không thích bấy lâu, cho thấy sự day dứt và cảm giác có lỗi trong chuyện tình cảm của bạn. Sau khi chiếm được trái tim đối phương, tình cảm của bạn mờ nhạt dần trong khi người ấy ngày càng yêu bạn sâu đậm hơn. Đó là lý do khiến bạn cảm thấy tội lỗi, muốn nói ra nhưng lại sợ người đó bị tổn thương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ giấc ngủ –

Nhìn bàn chân, đoán vận mệnh cực chuẩn

Ngón chân bạn lớn hay nhỏ? Ngón nào dài nhất và ngón nào nhỏ nhất? Bàn chân bạn rộng hay hẹp? Tất cả những đặc điểm này có thể nói lên nhiều điều về tính cách, thậm chí dự đoán tương lai của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một số nghiên cứu cho biết hình dáng bàn chân và ngón chân tiết lộ nhiều điều về tính cách và tương lai của bạn, hãy đọc tiếp để xem ngón chân nói gì về bạn nhé.

Ngón cái

Ngón cái dài hơn các ngón khác nghĩa là bạn rất thông minh, sáng tạo và nghĩ ra nhiều cách hay để giải quyết vấn đề - Ảnh minh họa

Hãy nhìn ngón chân cái. Nó có dài hơn nhiều so với những ngón khác không? Nếu đúng, điều đó có nghĩa là bạn rất thông minh, sáng tạo và luôn có thể nghĩ ra nhiều cách sáng tạo để giải quyết vấn đề. Bạn có thể suy nghĩ khác lạ và đầy ắp ý tưởng. Mặt trái của điều này là bạn có thể khó duy trì sự tập trung và thường xuyên bỏ dở công việc giữa chừng.

Mặt khác, nếu ngón cái thực sự nhỏ hơn các ngón khác, bạn là một người cực kỳ đa năng. Bạn dễ làm người ta đồng ý với ý kiến của bạn; bạn là người đàm phán giỏi và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Ngón thứ hai

Ngón thứ hai càng dài, bạn càng là 1 nhà lãnh đạo giỏi - Ảnh minh họa

Ngón thứ hai có liên quan đến phẩm chất lãnh đạo của bạn. Ngón này càng dài thì bạn càng là 1 nhà lãnh đạo giỏi. Nó cũng có nghĩa bạn tràn đầy năng lượng và luôn đứng lên bảo vệ những gì bạn tin tưởng. Bạn luôn chứng tỏ óc sáng tạo và khao khát làm những gì bạn nghĩ là đúng, dù có thể đúng hoặc sai. Một số truyền thuyết tại Ấn Độ kể rằng các bà mẹ thường không cho phép con trai họ kết hôn với những phụ nữ có ngón chân thứ hai dài vì họ tin đó là dấu chỉ của 1 người độc đoán.

Nếu ngón chân này ngắn, nó không phải là dấu chỉ rằng bạn không thể bảo vệ chính kiến mà có nghĩa là bạn là người điềm tĩnh và không vội vàng. Bạn luôn nghĩ thấu suốt mọi chuyện và chờ cơ hội làm những gì cần thiết.

Ngón thứ ba

Ngón thứ ba càng dài thì bạn càng là người nhiệt tình và tháo vát trong công việc. Mục tiêu chính của bạn là cố gắng thành công trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình.

Người Trung Quốc cho rằng ngón này gắn với năng lượng, động lực và khát vọng. Nó cũng có nghĩa là bạn là một con người chuyên nghiệp luôn tràn đầy khát vọng leo lên vị trí cao hơn. Mặt trái là bạn thường tập trung quá nhiều vào công việc và quên đi niềm vui của cuộc sống.

Nếu ngón thứ ba ngắn hơn, bạn khá thoải mái và luôn tận hưởng những niềm vui nhỏ bé trong đời. Có vẻ không có gì khiến bạn căng thẳng. Một số người có thể nói bạn lười và thiếu sáng tạo, nhưng châm ngôn của bạn là cuộc đời khá ngắn ngủi, vì thế hãy tận hưởng nó.

Ngón thứ tư

Nếu ngón thứ tư dài và thẳng, gia đình bạn luôn xếp thứ nhất trong cuộc đời bạn. Nếu bạn đang gặp vấn đề trong cuộc sống cá nhân, với bạn đời, gia đình và tình yêu thì nó sẽ thể hiện ở góc xoáy của ngón thứ tư. Phẩm chất lớn nhất của bạn là khả năng lắng nghe vấn đề của người khác và cố giải quyết chúng, nhưng những vấn đề gia đình có thể ảnh hưởng nhiều đến hạnh phúc của bạn.

Nếu ngón thứ tư quắp lại, bạn phải cố gắng thư giãn, đừng quá lo về vấn đề của người khác. Vấn đề trong gia đình bạn có thể bắt đầu ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn vì thế bạn đừng nên lo lắng quá nhiều.

Nếu ngón thứ tư ngắn hơn, bạn không tập trung quá nhiều vào gia đình và tình yêu, mối quan tâm chính của bạn nằm ở chỗ khác.

Ngón út

Nếu ngón út nhỏ, bạn khá trẻ con và không chịu gánh vác trách nhiệm. Giống trẻ con, bạn dễ mất tập trung và cả thèm chóng chán, thường xuyên tìm những thứ mới lạ. Cho dù bạn luôn là người vui vẻ nhất trong đám đông, bạn phải dần trưởng thành và bắt đầu gánh vác trách nhiệm trong đời.

Nếu bạn có thể tách ngón út khỏi ngón thứ tư, bạn là người ưa mạo hiểm, hấp dẫn và bốc đồng. Nếu bạn không thể làm được điều này, bạn là người trung thành, dễ đoán và thích những gì quen thuộc.

Gan bàn chân

Người có gan bàn chân lõm thường thích độc lập và tự cho mình là trung tâm - Ảnh minh họa

Lòng bàn chân lõm thường gắn với những người độc lập và tự coi mình là trung tâm. Bạn thích ở một mình và một số người gọi bạn là người khó gần. Đôi lúc bạn cứng đầu, nhưng bạn sẽ xấu hổ khi xin sự giúp đỡ lúc cần.

Mặt khác, nếu lòng bàn chân đầy đặn, bạn rất thích giao tiếp, đi chơi và thích ở trong đám đông. Bạn cũng thích vui vẻ và luôn làm người khác cảm thấy vui.

Bàn chân rộng

Nếu bàn chân rộng, nó có nghĩa là bạn không thể ngồi yên và luôn ‘lăng xăng’. Bạn cần dừng lại, cho bản thân thời gian thư giãn và suy nghĩ về các quyết định của mình. Cho dù bạn cảm thấy vui vẻ nhất khi bận rộn, thỉnh thoảng bạn cũng cần cho phép bản thân xả hơi.

Bàn chân dài, hẹp

Nếu bàn chân dài, hẹp, bạn luôn khiến mọi người chờ đợi và nuông chiều. Bạn thích để người khác làm việc nặng cho bạn, và bạn dễ tìm được lí do thuyết phục họ làm điều đó. Bạn có khiếu thẩm mỹ tốt và cần mọi thứ xung quanh trở nên hoàn mỹ.

Các ngón chân có kích cỡ tăng dần đều

Nếu ngón chân bạn dài ngắn cách đều, nó thường có nghĩa là bạn là người tỉ mỉ, thực tế và chính xác. Bạn khá kỹ tính và không bao giờ bỏ dở bất cứ gì. Sếp thích bạn và bạn bè cũng thế. Họ biết rằng có thể tin tưởng ở bạn. Tuy nhiên, đừng trở thành 1 người bới lông tìm vết, không phải mọi người đều giống bạn đâu.

Mỹ Hoàng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn bàn chân, đoán vận mệnh cực chuẩn

Đặt tên con theo phong thủy ngũ hành –

Phong Thủy – Ngũ Hành đã xuất hiện từ hàng nghìn năm nay trong xã hội phương đông và là thành phần không thể thiếu đối với mỗi sự kiện trọng đại. Đặt tên con theo phong thủy – ngũ hành cũng là việc rất quan trọng đối với nhiều bậc cha mẹ bởi với một
Đặt tên con theo phong thủy ngũ hành –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong Thủy – Ngũ Hành đã xuất hiện từ hàng nghìn năm nay trong xã hội phương đông và là thành phần không thể thiếu đối với mỗi sự kiện trọng đại. Đặt tên con theo phong thủy – ngũ hành cũng là việc rất quan trọng đối với nhiều bậc cha mẹ bởi với một cái tên đẹp và thuận theo phong thủy không chỉ những đem nhiều may mắn cho đứa con yêu dấu mà còn ẩn chứa trong đó rất nhiều kì vọng gửi gắm của cha mẹ.

huong dan dat ten con theo phong thuy Đặt tên con theo phong thủy ngũ hành

dat ten con theo phong thuy Đặt tên con theo phong thủy ngũ hành

 dat ten con theo phong thuy 2 Đặt tên con theo phong thủy ngũ hành
dat ten con theo phong thuy 3 Đặt tên con theo phong thủy ngũ hành


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên con theo phong thủy ngũ hành –

Dương Quý Phi vì sao không được làm hoàng hậu?

Dương Quý Phi là người phụ nữ xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn, đàn ca múa hát đều say mê lòng người và là phi tần được vua Đường Huyền Tông sủng ái hết mực. Nhưng bà vẫn không được lên làm hoàng hậu. Vậy nguyên nhân là vì đâu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người ta thường nhắc đến Dương Quý Phi là “một trong tứ đại mỹ nhân” Trung Hoa, và điều đặc biệt hơn nữa chính là việc nàng đã vượt qua ba ngàn giai nhân cung cấm để chiếm trọn trái tim Đường Huyền Tông. Tuy nhiên, không chỉ nổi tiếng với sắc nước hương trời, trong cuộc đời của mình, Dương quý phi cũng để lại nhiều tiếng xấu. Từ thân phận của cô con dâu, cô trở thành sủng phi của người cha chồng Đường Huyền Tông, sau đó lại là mối tình vụng trộm đầy tai tiếng với người con nuôi trẻ tuổi An Lộc Sơn. Và cũng có một điều về nàng khiến người đời thắc mắc, đó là tại sao đệ nhất mỹ nhân một thời đó lại không được sắc phong Hoàng hậu?

Dương Quý Phi tuyệt sắc giai nhân

Dương Quý Phi, tên thật là Dương Ngọc Hoàn sinh ngày 1-6-719, chết năm 756, tại Thục Quận (Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc). Sinh ra trong một gia đình quan lại, Dương Ngọc Hoàn sớm đã không phải lo cảnh cơm áo gạo tiền, nàng chuyên tâm học đàn hát, lại có sắc đẹp trời ban (người ta ví von nàng đẹp đến nỗi mỗi khi nàng ngắm hoa, hoa đều rũ héo vì hổ thẹn).

Đến năm 10 tuổi, cha mẹ mất, Ngọc Hoàn mới đến Lạc Dương, sống với nhà bác ruột.

Dương Ngọc Hoàn nổi tiếng với vẻ đẹp tròn trịa và đầy đặn. Thời trước, vẻ đẹp ấy rất được ưa chuộng vì người ta quan niệm, đàn bà có tròn trịa đầy đặn mới phúc  hậu.

Nàng sớm được chọn là Thọ vương phi cho hoàng tử thứ 18 của Đường Minh Hoàng là Thọ Vương Lý Mạo. Năm 733, khi 14 tuổi, Võ huệ phi, một phi tần đang đắc sủng của Đường Huyền Tông, chọn Ngọc Hoàn làm vương phi của hoàng tử thứ 18 của Đường Minh Hoàng là Thọ Vương Lý Mạo. Dương Ngọc Hoàn trở thành Thọ Vương phi. Tuy vậy, hai người chưa từng trải qua cuộc sống vợ chồng bởi Dương Ngọc Hoàn và cả Thọ Vương Phi còn nhỏ. Những tưởng cuộc sống sẽ yên bình từ đó nhưng không ngờ, chính sắc đẹp của nàng đã khiến nàng bắt đầu gặp sóng gió trong chốn hậu cung.

 duong quy phi vi sao khong duoc lam hoang hau? - 1

Câu chuyện ấy đúng như một giai thoại, Dương Ngọc Hoàn từ vợ của Thọ Vương lại trở thành người đàn bà của Đường Minh Hoàng. (Ảnh minh họa)

Nói về Võ Huệ Phi, bà vốn là phi tần được Đường Minh Hoàng tức Huyền Tông vô cùng sủng ái và trọng dụng. Tuy nhiên, sau đó, Võ Huệ Phi qua đời, nhà vua buồn bã, chán nản, mệt mỏi, ăn kém, ngủ kém vì thương nhớ người xưa.

5 năm sau, Đường Huyền Tông mới trông thấy Ngọc Hoàn. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, Huyền Tông liền say mê vẻ đẹp giai nhân tuyệt sắc của nàng. Bất chấp lễ giáo phong kiến, hoàng đế truyền đưa Dương Ngọc Hoàn vào Tập Linh đài để trông coi đèn nhang sớm hôm cầu nguyện cho Vũ Huệ Phi.

Do đó, Ngọc Hoàn phải vào cung Hoa Thanh đến đài Tập Linh làm sãi, lấy đạo hiệu là Thái Chân. Sau đó, Huyền Tông lại sai Cao Lực Sĩ chọn con gái của Vị Chiêu để thay Ngọc Hoàn làm vợ Thọ vương Lý Dục.

Hết 5 năm, Đường Huyền Tông ban lệnh cho Ngọc Hoàn được hoàn tục, rồi triệu vào cung, chính thức sắc phong làm Quý phi. Chuyện này khiến Hoàng Thọ vương vô cùng uất hận.

Huyền Tông say đắm Dương Quý Phi, chiều chuộng nàng hết mực. Như cuộc đi tắm suối của nàng tại Hoa Thanh Trì mỗi lần tốn hàng vạn bạc của quốc khố và làm chết hàng trăm mạng người, hoàng đế cũng thẳng tay, không chút tiếc rẻ. Dương Quý Phi đã đẹp lại có tài gẩy tì bà, giỏi về âm nhạc. Nàng lại đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho Huyền Tông càng thích thú say sưa hơn. Nàng nổi tiếng với điệu múa Hồ hoàn vũ, là điệu múa xuất phát từ người Hồ.

Câu chuyện ấy đúng như một giai thoại, Dương Ngọc Hoàn từ vợ của Thọ Vương lại trở thành người đàn bà của Đường Minh Hoàng. Chính là nàng đã trải qua hai mối tình với cả hai cha con. Cũng chính vì nàng quá được sủng ái, được yêu chiều đến mức nhà vua quên cả Võ Huệ Phi, nên các quần thần trong triều vô cùng ấm ức, không ai chịu phục nàng. Họ còn nói xấu sau lưng hoặc ngấm ngầm đả kích Dương Quý Phi.

Không được làm hoàng hậu vì có quá nhiều trở ngại

Từ câu chuyện tình trên người ta đã suy đoán ra vì sao bà không được làm hoàng hậu. Hơn nữa, bà cũng là người thông minh hiểu chuyện nên chưa từng nhắc đến chuyện sắc phong hoàng hậu với hoàng thượng. Vả lại, bà luôn nghĩ, làm một phi tần được sủng ái thì có khác gì ngôi vị hoàng hậu kia đâu. Cũng chính vì điều này, bà được đức vua yêu quý hơn nhiều lần.

Cũng vì sự sủng ái vô điều kiện của vua Đường Huyền Tông mà bà nhiều trọng thần bất bình, không cam lòng. Các quần thần cho rằng, chính Dương Quý Phi là nguyên nhân khiến nhà vua ham mê tửu sắc, bỏ bê việc triều chính, khiến dân tình khốn khổ. Sử sách có ghi lại, Đường Huyền Tông vì quá sủng Dương Quý Phi nên đã không màng tới chính sự, giao hẳn cho tể tướng Lý Lâm Phủ. Người này tính tình phóng khoáng, trục lợi, bất chính nên sau hơn 19 năm cai quản đã khiến nhân dân lầm than, kêu khóc, giết nhiều hiền lương trong triều. Điều này chắc chắn là nguyên nhân không bao giờ Dương Quý Phi được làm hoàng hậu. Và Đường Huyền Tông cũng không dám phong bà lên làm hoàng hậu trước sóng gió của triều đình.

Vả lại, xét về gia thế và nhân cách, Dương Quý Phi không thể đảm nhận ngôi vị mâu nghi thiên hạ. Một người có gia thế bình thường, xuất thân bình thường, lại vốn là phi tần của Thọ Vương, con trai Đường Huyền Tông thì sao đứng được ở ngôi vị hoàng hậu. Thời bấy giờ, những người phụ nữ loạn luân như bà, mãi mãi, vĩnh viễn không có đủ phẩm giá để được lên ngôi hoàng hậu.

Vả lại, vì quá sủng ái bà nên vua Đường Huyền Tông đã phong cho những người thân cận của bà làm quan to trong triều. Chỉ cần Dương Quý Phi được lên ngôi hoàng hậu, thì quyền lực nằm trong tay họ cả, và khi đó, việc làm phản không thể không bàn tới.

 duong quy phi vi sao khong duoc lam hoang hau? - 2

Có giai thoại còn cho rằng, sau này, Dương Quý Phi còn qua lại với An Lộc Sơn, là con nuôi của Đường Huyền Tông. (Ảnh minh họa)

Xét đến cùng thì dù là thân thế, gia cảnh, nhân phẩm, bà đều không đủ tiêu chuẩn để lên làm hoàng hậu. Việc vua sủng ái bà đã khiến triều đình bao phen sóng gió, cha con bất hòa. Nếu bà được phong làm mẫu nghi thiên hạ thì đúng là, thiên hạ chỉ có đại loạn, không có ngày yên.

Thế nên, dù vô cùng được sủng ái, Dương Quý Phi vẫn chưa một lần được nhắc tới việc sắc phong hoàng hậu. Và cũng cam tâm tình nguyện vì bà hiểu, hoàn cảnh của mình.

Có giai thoại còn cho rằng, sau này, Dương Quý Phi còn qua lại với An Lộc Sơn, là con nuôi của Đường Huyền Tông. Hai người quan hệ bất chính, lén lút sau lưng vị vua này. Cuối cùng, An Lộc Sơn làm phản.

Lúc này, vì thua trận nên Đường Huyền Tông phải dẫn theo quý phi chạy trốn, cầu cứu các đại thần. Tuy nhiên, họ nhất định không chịu nghe theo lệnh của đức vua nếu như ông không ban chết cho Dương Quý Phi. Toàn bộ trọng thần trong triều đều cho rằng, chính Dương Quý Phi là mối họa của nhà Đường, là người đã khiến nhà Đường ra nông nỗi này.

Trước tình thế cấp bách, Đường Huyền Tông buộc phải ban chết cho người đàn bà mình sủng ái nhất. Xác Dương Quý Phi chôn ở ven đường, bà mất khi tròn 38 tuổi.

Tuy nhiên, cũng có nhiều tài liệu ghi chép về kết cục khác của Dương Quý Phi, nói là bà đã tự vẫn hoặc cũng không biết là bà đã đi đâu...

Một người phụ nữ xinh đẹp, nghiêng nước nghiêng thành, được sủng ái hết mực cuối cùng cũng phải chịu kết cục bi thảm. Dù như vậy, bà mãi mãi là cái tên được nhắc đến trong sử sách và nhiều giai thoại, đặc biệt đã đi vào phim ảnh rất nhiều. Cuộc đời, chuyện tình bi ai của bà đúng là rất hợp với câu ‘hồng nhan họa thủy’, ‘anh hùng khó qua ải mỹ nhân’.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dương Quý Phi vì sao không được làm hoàng hậu?

8 mẹo phong thủy xua tan tà khí trong ngày Tết Đoan Ngọ

Người ta cho rằng sáng ngày 5 tháng 5 Âm lịch thì sâu bọ ở bụng dưới sẽ ngoi lên bụng trên để lấy thức ăn, ăn rượu nếp vào cho chúng say, sau đó những trái cây làm cho chúng chết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.Treo thần phù
 
Treo Thần Chung Quỳ Phù trên cửa để xua tan sát khí trong nhà, bất kể là nhà ở của bạn hoặc nhà cho thuê, bạn sẽ cảm thấy thư thái và thoải mái hơn.   2.Treo lá ngải hoặc xương rồng
 
Ở phía trên cửa ra vào treo một nắm lá ngải cứu hoặc nhánh xương rồng, ngăn chặn tà khí đi vào nhà. Chú ý là treo trước giờ Ngọ ba khắc để đạt hiệu quả cao nhất.

3. Ăn rượu nếp và hoa quả đương mùa

8 meo phong thuy xua tan ta khi trong ngay Tet Doan Ngo hinh anh 2
Nên ăn nhiều hoa quả đương mùa

  Người ta cho rằng sáng ngày 5 tháng 5 Âm lịch thì sâu bọ ở bụng dưới sẽ ngoi lên bụng trên để lấy thức ăn, ăn rượu nếp vào cho chúng say, sau đó những trái cây làm cho chúng chết. Mỗi trái cây đều là một vị thuốc giết sâu bọ. Trong đông y, Thuốc Nam cũng như thuốc Bắc, các vị thuốc phần lớn đều lấy ở loài thảo mộc, các trái là kết tinh của loài thảo mộc cho nên có tính chất giết được sâu bọ.   4. Đặt ngải trong nhà
 
Trong nhà ở cũng như trong văn phòng công ty, bạn có thể đặt một vài lá ngải, chúng sẽ có tác dụng xua tan tà khí. Ngoài ra, bạn cũng có thể mang theo một chút lá ngải bên mình cũng rất có hiệu quả.   5. Đeo dây cát tường
 
Bạn có thể dùng sợi chỉ nhiều màu sắc và kết thành một sợi dây dài để treo trên cửa chính, đeo trên cánh tay hoặc trên cổ, cũng có thể treo ở cạnh nôi nếu trong nhà có trẻ con, điều này sẽ phòng tránh được tai ương, phù hộ an khang, gia tăng tuổi thọ.   6. Mang túi hương (nhang) theo người
 
Để phòng bệnh và để trừ tà thì không chỉ trong tết Đoan Ngọ mà trong cả ngày thường bạn cũng nên mang theo một chút hương bên người. Nguyên liệu làm hương có chứa phấn hùng hoàng, có tác dụng xua tan âm khí. Không chỉ mùi hương dễ chịu cũng sẽ làm cho tinh thần trở nên thư thái hơn, góp phần gia tăng vận thế.

8 meo phong thuy xua tan ta khi trong ngay Tet Doan Ngo hinh anh 2
Có thể đốt một chút lá ngải

7. Tẩy trừ tà khí   Bồ kết, ngải cứu, bạch ngọc lan, hương nhu, lá bưởi, sả, gừng, vông mã đề… có tác dụng rất tốt trong việc phòng bệnh. Bạn nên đun một nồi nước bao gồm các loại thảo mộc trên để cả nhà cùng tắm rửa, vừa phòng được bệnh ngoài da, vừa xua tan được tà khí, cơ thể cũng cảm thấy sảng khoái hơn.   8. Đốt ngải 

Vào ngày Tết Đoan Ngọ, bạn nên sử dụng một chút lá ngải đã được phơi khô từ trước đó và đốt lên. Bất kể là phòng khách hay phòng ngủ, lá ngải bị đốt cháy vừa tạo ra mùi hương dễ chịu, lại vừa có tác dụng “xua ma đuổi quỷ”. Tuy nhiên, khi thực hiện cần chú ý vấn đề an toàn cháy nổ.   Phương Thùy
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 mẹo phong thủy xua tan tà khí trong ngày Tết Đoan Ngọ

Lá số tử vi Tào Tháo- Tào Mạnh Đức

Tào Tháo sinh giờ Tuất, ngày 6/12 năm Ất Mùi (155). Khi lập Tử vi, thoạt nhìn dễ tưởng rằng đây là một lá số quá bình thường, bởi không thấy ngay những cách cục đặc biệt vẫn nói trong sách Tử vi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong nhiều nhân vật của bộ Tam Quốc diễn nghĩa, Tào Tháo (sinh năm 155 – mất năm 220) là một trong những người nổi tiếng nhất và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc với những người say mê pho truyện này.

Ông là nhà chính trị, quân sư kiệt xuất cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Hoa, sáng lập nên triều đại Tào Ngụy thời Tam Quốc và để lại cho hậu thế quá nhiều đánh giá khác nhau, có khi đối lập nhau. Vậy ông là người anh hùng hay kẻ gian hùng? Phân tích lá số, ta sẽ sáng tỏ thêm đôi điều về con người và cuộc đời ông, cũng để phần nào giải đáp cho câu hỏi ấy.

Tào Tháo sinh giờ Tuất, ngày 6/12 năm Ất Mùi (155). Khi lập lá số tử vi thoạt nhìn dễ tưởng rằng đây là một lá số quá bình thường, bởi không thấy ngay những cách cục đặc biệt vẫn nói trong sách Tử vi. Kỳ thực, với người mệnh Kim, được thế cục Thổ phù sinh là thuận “thiên thời”. Người âm nam, cung mệnh ở Mão (âm Mộc) là thuận cách; người mệnh Kim ở cung Mộc thì tuy khắc chế được, làm chủ tình hình, nhưng cũng mất phần “địa lợi” từ nhỏ đến năm 30 tuổi, thủa thiếu thời vất vả, cô độc, phải làm con nuôi họ khác. Nhưng cũng vì thế mà tạo cho ông tính cách tự chủ, độc lập, quyết đoán rất cao.

Đặc biệt nhất là bộ chính tinh thủ Mệnh; Các sao Vũ Khúc – Thất Sát đều là âm Kim, hợp mệnh cả âm dương, ngũ hành, nên tính cách và khả năng của ông bao gồm cả văn lẫn võ cách. Sao Vũ Khúc, trong bộ “Tứ Phủ Vũ Tướng” – chủ về lãnh đạo, chỉ huy, chiến lược còn sao Thất Sát, trong bộ “Sát Phá Tham”, chủ quyền biến, sát phạt, hành động, xông pha nơi sa trường. Đặc sắc hơn nữa là mệnh ông có sao Bạch Hổ (đồng hành Kim với mệnh) đóng đúng Tam hợp tuổi (tam hợp Thái Tuế). Ông có lòng tự hào, tự tôn rất cao về sứ mệnh cải cách của mình và đã làm làm tới cùng, cứng rắn kiên định, bất chấp gian nguy, bất chấp tất cả, dùng mọi mưu kế, kể cả tàn nhẫn và thủ đoạn để thành công, miễn là “mục đích biện minh cho phương tiện”.

Nhớ lúc Tào Tháo vung ngọn giáo nói trước ba quân, trên mũi soái thuyền trước trận Xích Bích trên dòng Trường Giang: “Ta cầm cây giáo này phá giặc Khăn Vàng, bắt Lữ Bố, thu Viên Thuật, diệt Viên Thiệu, vẫy vùng ngang dọc khắp trong thiên hạ, thật chẳng phụ trí tài của kẻ trượng phu…” mới thấy hết cá tính và hùng khí trong con người mệnh âm Kim, mang cách: “Sát Phá Tham” này!

Nhưng có lẽ, vì các sao trong cách này chủ yếu là hãm địa, nằm trong tam hợp Mệnh – Thân là “âm” (Hợi-Mão-Mùi), ông lại là âm nam nên tính cách có phần thâm hiểm, nhiều thủ đoạn, dám tàn nhẫn nếu cần. Bởi vậy, người đời vẫn coi ông là kẻ gian hùng. Câu chuyện Tào Tháo một tay chém chết oan cả nhà Lã Bá Sa, tiếm quyền át vua Hiến Đế … chỉ là một vài trong nhiều chuyện “gian hùng” của ông. Thêm nữa, cung Quan có các sao Tử Vi, Thái Tuế gặp Triệt; sao Thái Dương, Điếu Khách ngộ Tuần, lại thêm sao Mộ, Đà La, Quả Tú đồng cung nên danh tiếng sau này cứ bị lấp đi, ánh sáng trời như có mây che kín; lúc ông có quyền uy, có miệng mà không giãi bày được … đành để lại bao sự đàm tiếm, ngộ nhận từ lớp người hậu thế.

Phần “sao” thì thuận mệnh như vậy, nhưng với ông, phần “cung” lại là cả một thiệt thòi, bất lợi. Mệnh đóng cung Mão (âm Mộc) bị cung Thiên Di ở Dậu (âm Kim) khắc, tức về “địa lợi” thì kém hơn về thế, luôn bị khắc – nhập so với các đối thủ, gặp nhiều khó khăn, trở lực trên đường sự nghiệp, nhất là trước năm 30 tuổi. Cũng may, từ Đại vận 35-44 tuổi vào cung Tý (Cự Môn – Thiên Khôi đắc cách) khắc thắng được các đối thủ ở phương Ngọ (Thiên Cơ, Đại Hao ngộ Triệt) nhưng các cuộc chiến đều cam go, có thắng có bại chứ không phải “Bách chiến bách thắng”.

Đắc cách nhất là đại vận 45 54 tuổi trùng với cung an “Thân”, lại là tam hợp tuổi, có đủ Tướng – Ấn (Tướng Quân, Quốc Ấn), Tứ Linh (Thanh Long, Phượng Cát, Bạch Hổ, Hoa Cái). Đại vận này ở cung Hợi (âm Thuỷ) khắc thắng phía đối nghịch ở Tỵ (âm Hoả); nhưng cũng không bề vì tam hợp cung này là Mộc (Hợi – Mão – Mùi) vẫn ở dưới cơ tam hợp Kim (Tỵ – Dậu – Sửu) của thời thế. Thêm nữa, sao Tử Vi gặp Triệt, trong bối cảnh tranh chấp (Tử Vi – Phá Quân) và tính thế rối ren, loạn lạc (cung Mùi – chính là quẻ Địa Hoả minh di; thời mù mịt, ánh sáng bị che lấp). Có lẽ thế, mặc dù thừa đủ cơ hội, ông cũng không lên làm vua mà dành ngôi báu cho con mình. Ông mệnh Kim, cả hai Đại vận này đều là hành Thuỷ, mệnh phải sinh xuất nên đủ thấy ông ham tâm tổn trí lớn đến thế nào; cũng rõ thêm về tài năng, trí tuệ và mưu cơ của ông ghê gớm, vượt lên hoàn cảnh đến thế nào … Do vậy, ông phải chịu tổn thọ và chỉ hưởng dương được 65 tuổi mà thôi.

Người xưa nói: “Cái quan định luận”, đánh giá về Tào Tháo là việc của lịch sử, nhưng cần gắn với điều kiện thời thế cụ thể khi ấy mới thật là công bằng, khách quan. Thật ra, với người được cách tam hợp Thái Tuế như ông, ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng còn tư cách, trong sâu thẳm tâm can vẫn giữ được tấm lòng sắt son, dám làm và chịu hy sinh danh tiếng vì đại nghiệp. Vươn tới nhữg điều cao cả lớn hơn bản thân mình.

Người Hùng Tào Tháo có gian không ?

Tào Tháo là một nhân vật có thể nói là rất quan trọng ở cuối thời Hậu Hán (25-220 Tây Lịch) đã làm tốn hao quá nhiều bút mực trong lịch sử Trung Quốc và sách vở tiểu thuyết diễn nghĩa ngày nay.  Có một số tác phẩm phê bình ông là một danh sĩ có giá trị dính liền sau quân sư Gia Cát Lượng và trên cả Quan Vân Trường, một trượng phu trung tín nghĩa khí không ai bì, là bộ ba danh nhân trong thuở bấy giờ.

Lòng tôi vẫn ước ao được thấy lá số của ông, vì một sự tình cờ mới rồi có ông bạn người Việt gốc Hoa cho biết là Tào Mạnh Đức tuổi Ất Mùi (155 TL.), sanh ngày 6 tháng 12 giờ Tuất và chết năm Kỷ Hợi (220TL) tức là thọ 65 tuổi.

Người tuổi Ất Mùi mệnh đóng tại Mão, Thân ở Hợi. Người này không hẳn là người không những chỉ nghĩ đến việc tiến thân lao đầu làm việc mà làm việc có suy tính thức thời và cũng không phải là người không có tâm hồn nghĩ đến nước đến dân (đúng Tam hợp tuổi). Vũ Sát thủ Mệnh là bức Vạn Lý trường thành dựng đứng lên con người này: Vũ khúc đắc địa, còn Thất Sát không kém phần hiên ngang đối với tuổi Ất, thực ra rất ít khi được hai sao cùng thủ Mệnh lại được đồng hành với Mệnh, nhất là mạng Kim chỉ có hai cung Mão phải là tuổi Ất và Dậu, phải là tuổi Tân Vũ-Sát mới đắc cách.

Đã là tuổi Ất Mùi mệnh đóng tại Mão có Vũ Sát thủ mệnh thêm Tả Hữu phò tá, tôi xin thú thật không biết tả sao cho hết cái đặc biệt của Tào Thừa Tướng, và thành thật phục cái người đã xắp đặt Tào Tháo đứng liền sau Khổng Minh là người có tài xét người rất giỏi, là người biết cái chân giá trị của Tào Công.

Dầu vậy Mệnh ở cung Mão đem so với đối phương (Dậu) bị ở thế khắc nhập nghĩa là mình yếu kém hơn người, nhưng Tào là người thấu hiểu biết rõ kẻ đối đầu (Phủ, Tướng, Không, Kiếp) chỉ là một đoàn người ô hợp nên vẫn thắng như thường như đuổi Đổng Trác, đánh Viên Thiệu để đưa thân thế ông lên địa vị một chánh khách quan trọng của thời cuộc.

Số người nào Mệnh Thân đã đóng đúng tam hợp tuổi là người biết mình, biết người có lòng tự hào rất cao cho nên Tháo tự đặt mình là anh hùng của thời cuộc khi đối ẩm với Lưu Bị ở Hứa Xương và lúc cầm giáo đứng ở mũi thuyền trên dãy trường giang trong trận Xích Bích bảo các tùy tùng: “Ta cầm cây giáo này phá giặc khăn Vàng, bắt Lã Bố, diệt Viên Thuật, thu Viên Thiệu, khi vào Hà Bắc lúc tới Liêu Đông vẫy vùng ngang dọc trong thiên hạ, thật chẳng phụ tài khí kẻ trượng phu”

Ta phải chịu Tháo mỗi câu nói, mỗi cử chỉ đều có suy tính đối với nhà chính trị cho là thủ đoạn (vị trí của Thân có Liêm Tham ở Hợi) và luôn luôn dựa trên cái thế mạnh của vô lực (Liêm Tham, Hữu Bật, Hỏa Tinh) mà vẫn có chính nghĩa được người theo (vị trí tam hợp tuổi). Hai việc trên không phải là không có ý dò tâm tình Lưu Bị và áp đảo khủng bố tinh tinh thần kẻ dưới tay, cũng như khen Quan Vân Trường là một đại trượng phu trung tín và nghĩa khí trước mặt thuộc hạ không ngoài cố ý nhắc nhở mấy người hãy trung thành với ta như ông mặt đỏ râu dài đối với Lưu Bị. Trường hợp này là thủ đoạn của những lãnh tụ (Vũ Sát và Liêm Tham) khác hẳn và là đàn anh của những tiểu xảo man trá của phường tiểu nhân (Không Kiếp).

Người ta chê trách Tào Tháo là gian hùng có lẽ ở bộ Sát Phá Tham hãm địa này. Xin thưa rằng, nếu là tuổi Tỵ Dậu Sửu thì thật là một tay gian hùng bất mãn, với tuổi Hợi Mão Mùi đứng ở trên cái thế chính nghĩa rõ ràng, dầu sao vẫn là người có tâm hồn phục vụ cho quê hương đất nước.

Bộ Sát Phá Tham này thêm Vũ Khúc tức là đủ bộ Kim Tinh (Vũ Khúc Âm Kim, Thất SátDương Kim) kèm thêm Bạch Hổ (Kim) thủ mệnh làm sao cản nổi người này hành động không cứng rắn mạnh tay cưa đứt đục khoét còn có tính cách thâm độc nữa là khác (Ân Tuế đóng Âm cung và Vũ Khúc lại là Âm kim) không thể nể nang cảm tình để di lụy mai hậu, xét ra cần để làm gương.

Một cái nghi án ở cung Quan Tử Phá (thần bất trung, tử bất hiếu) có Hóa Khoa với sứ mạng đủ tư cách điều chỉnh, vì thế Tào Tháo đâu có hạ bệ vua Hiến Đế để chiếm ngôi, ông vẫn bị mang tiếng gian hùng vì Liêm, Tham, Hỏa, Tướng-Ấn. Một ngôi vị thừa tướng đủ uy quyền hiếp vua kiểu chúa Trịnh và vua Lê Việt Nam lấy danh nghĩa phò vua trị loạn chư hầu, vì thế ngôi Thái Tuế mới bị triệt thành một nghi án.

Tào Tháo xuất thân làm hiếu liêm, một chức vị hành chánh địa phương năm 20 tuổi (đại vận ở Dần) rồi thấy nó không hợp với sở nguyện của mình, ông từ chức năm 30 tuổi (đại vận ở Sửu Không Kiếp). Ông lui về đọc sách đem hết tâm trí vào việc rèn luyện về chính trị và quân sự lập đảng phái mộ quân đứng lên dẹp loạn khăn vàng đến 45 tuổi có căn bản chiếm cứ được Duyên Châu (đại vận ở Hợi) từ đó tung hoành giết Lã Bố, diệt Viên Thuật, phá Viên Thiệu cho đến 54 tuổi (năm giao vận sang Tuất) bị thua trận Xích Bích mang quân về Bắc và cái thế tam phân của nước Tàu bắt đầu hình thành cho đến khi Lưu Bị vào Xuyên chiếm thành đô lập nổi cái thế của Tây Thục kình chống với Bắc Ngụy Tào Tháo và Đông Ngô Tôn Quyền.

Tào Tháo chết năm Kỷ Hợi, hưởng thọ 65 tuổi là thời gian nhẩy đến cung Dậu. Không biết câu nói của ông thầy tướng Hứa Thiện có bị sau này sửa chữa hay không, chỉ thấy sách truyện ghi lại là Tháo rất bái phục lời nói phê bình mình: “Người là một vị tôi có tài trong thời bình, cũng là một kẻ gian hùng trong thời loạn” .

Thời đại độc tài phong kiến người thống trị luôn luôn củng cố địa vị thường dùng đủ cách ngu dân bằng mọi phương pháp có cả đạo đức, luân lý như trung quân ái quốc bắt buộc người dân dầu có tài ba cách mấy cũng phải tận tâm hy sinh tôn thờ ông vua vô tài kém đức, nếu hành động trái lại là gian hùng bá đạo bị coi là ngụy quyền.

Tào Tháo sinh vào buổi loạn ly nếu không dùng sức mạnh làm sao bình được đất nước, hầu hết các thủ lãnh chư hầu toàn là con nhà quí tộc lòng tham không đáy. Cái gương Khổng Phu Tử đời Xuân Thu muốn thực hiện hòa bình bằng giải pháp ôn hòa đều không được ai nghe , ngài đành ôm hận thành người nặng lo mà không kết quả. Vậy người hùng Tào Tháo xét theo số tưởng ghép chữ thủ đoạn thì trúng vì giang sơn tổ quốc là của chung toàn dân, không phải là cơ nghiệp dành riêng cho một dòng họ thụ hưởng ngôi cao vĩnh viễn, người có tài hoán cải được thời cuộc có lợi cho dân cho nước, dầu ít hay nhiều lâu hay mau bị gán chữ gian hùng chưa chắc đã là hợp lý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi Tào Tháo- Tào Mạnh Đức

Kiêng kỵ bàn sách công cửa –

Hiện tượng: Bàn sách công cửa (đặt quay lưng lại cửa) sẽ làm cho không thể tập trung học bài và làm việc. Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải tốt nhất là điều chỉnh vị trí bàn sách. Nếu tạm thời không thể điều chỉnh thì có thể đặt một chuỗi đồ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Bàn sách công cửa (đặt quay lưng lại cửa) sẽ làm cho không thể tập trung học bài và làm việc.

080429165909-624-646

Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải tốt nhất là điều chỉnh vị trí bàn sách. Nếu tạm thời không thể điều chỉnh thì có thể đặt một chuỗi đồng tiền Ngũ Đế phía dưới đệm ghế để ổn định khí trường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ bàn sách công cửa –

Phong thủy cho người mệnh Kim –

Phong thủy cho người mang mạng Kim , nếu bạn thuộc mạng Kim bạn sẽ phù hợp và khắc kị với màu sắc nào? Công việc nào phù hợp? Và người tương lai của bạn?   Hành Kim tượng trưng cho Kim loại khắc với Hỏa (vì lửa nung cháy Kim loại). Hành kim hợp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy cho người mang mạng Kim , nếu bạn thuộc mạng Kim bạn sẽ phù hợp và khắc kị với màu sắc nào? Công việc nào phù hợp? Và người tương lai của bạn?

1394420910

 

Hành Kim tượng trưng cho Kim loại khắc với Hỏa (vì lửa nung cháy Kim loại). Hành kim hợp với Thổ (đất sinh kim)

Hành Kim chỉ về mùa Thu và sức mạnh. Đại diện cho thể rắn và khả năng chứa đựng. Mặt khác, Kim còn là vật dẫn. Khi tích cực, Kim là sự truyền đạt thông tin, ý tưởng sắc sảo và sự công minh. Khi tiêu cực, Kim có thể là sự hủy hoại, là hiểm họa và phiền muộn.

1. Màu sắc thích hợp cho mạng Kim

+Màu tương sinh: Hãy chọn cho mình những bộ cánh hoặc phụ kiện có màu vàng rực rỡ hoặc màu trắng tinh khiết. Vì Thổ (màu vàng) sinh Kim và chủ nhân mệnh Kim nên màu trắng là màu sở hữu của bản mệnh. Màu sắc những phụ kiện này rất hợp với mệnh Kim

+Màu tương khắc: Nếu bạn thuộc mệnh Kim, thì tốt nhất là nên tránh những màu như màu hồng, màu đỏ, vì những màu này ứng với hành Hỏa, mà Hỏa thì khắc Kim.

2. Công việc phù hợp cho người mệnh Kim

Các ngành nghề phù hợp vói hành Kim gồm có Vàng bạc,khai thác mỏ, kỹ thuật, lắp ráp xe hơi.

bạn có thể chiêu cầu may mắn trong công việc bằng cách dùng các đồng tiền hoa mai để trang trí nơi làm việc

3. Tình duyên cho người mệnh Kim

trao-nhan

 

Nếu mệnh là Kiếm Phong Kim và Sa Trung Kim cùng người mệnh Hỏa trong hôn nhân sẽ đẹp vô cùng.

Kiếm Phong Kim (vàng trong kiếm) và Sa Trung Kim (vàng trong cát), nếu không có lửa (Hỏa) thì không thành vật dụng. Nhưng cả hai khắc với Mộc (Kim khắc Mộc) vì hình kỵ, dù Mộc hao Kim lợi (Kim được khắc xuất, mất phần khắc) nhưng vẫn chịu thế tiền cát hậu hung (trước tốt sau xấu), do Kim chưa tinh chế nên không hại được Mộc vượng, không chém được cây lại thêm tổn hại .

4 hành Kim còn lại là Hải Trung Kim (vàng trong biển), Bạch Lạp Kim (vàng trong sáp), Thoa Xuyến Kim (vàng trang sức) và Kim Bạch Kim (kim loại màu) đều kỵ hành Hỏa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cho người mệnh Kim –

Phong thủy biển số xe –

Ở Trung Quốc nói chung và nói riêng, họ rất chú trọng về con số phong thủy, con số phong thủy cũng có rất nhiều sự cát hung của nó tùy theo mỗi mệnh của gia chủ. Phong thủy biển số xe cũng giống tương tự như là phong thủy cho sim số điện thoại, mà tô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

i đã giới thiệu ở phần phong thủy số sim ĐTDĐ.

20140506095130-1

Với sự nghiên cứu tìm tòi lâu năm về con số tốt nhất cho nhiều gia chủ, tôi đã mang lại cho nhiều người rất thành công trong công việc kinh doanh, giao tiếp… thật chất con số tốt cho gia chủ, nó không giới hạn theo vài tháng, mà nó theo gia chủ vô hạn. Ví dụ 1 người đang sở hữu 1 chiếc xe hơi đắt giá, mà vô tình bốc thăm 1 số qúa xấu so với tuổi của họ. Không lẽ vì con số không tốt đối với gia chủ mà đành phải bán hay sao? Nếu bán chắc chắn sẽ lỗ rất nhiều, thì tôi khuyên không lấy gì hồi hộp lo lắng gì cả. Cái gì cũng hóa giải được bằng thủ thuật theo thuật con số phong thủy. Hóa giải bằng cách cho trị số tốt đối với gia chủ và ghi trị số tốt đó trực tiếp lên phía sau biển số xe đó. Và chọn ngày giờ tốt so với tuổi gia chủ để ghi lên biển số xe. Tôi cũng muốn nói thêm 1 phần này, dù 1 con số tốt mà bản thân lòng người không tốt thì cũng chẳng mang lại 1 cái tốt nào cả. Vì sao? “Đức năng thắng số” là chuyện có thật!. Một con người tốt mà có một con số tốt sẽ mang lại điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống.

Trong cuộc sống hiện đại, số không chỉ đơn thuần là những con chữ vô hồn, mà nó được vận dụng theo ý nghĩa của từng con số.

Số 1 là tượng trưng cho đỉnh cao tối thượng, độc nhất không còn ai nữa, và con người ít ai giữ vị trí này lâu dài vì nó quá đơn độc (một mình) bởi chúng ta không phải là thần thánh, chỉ có thần thánh mới có thể nắm giữ vị trí này mãi mãi.

Số 2 là sự tượng trưng cho một cặp, một đôi, một con số hạnh phúc (song hỷ), là tượng trưng cho sự cân bằng âm dương kết hợp tạo thành thái lưu hay là nguồn gốc của vạn vật.

Số 3 là con số vững chắc, nó vững như kiềng 3 chân ấy, Người Trung Quốc có câu “3 với 3 là mãi mãi “ (bất tận) và là biểu tượng của sự trường thọ.

Trong cách phát âm của nguời Trung Quốc, số 4 giống như chữ “tử” (chết). Vì thế sự kết hợp này không được tốt đẹp lắm.

Số 5 tượng trương cho danh dự, uy quyền, quyền lực. Nó đuợc hiểu là 5 ngọn núi linh thiêng của Trung Quốc. Vì thế là sự hy vọng, trường thọ và bất diệt.

Số 6 là gấp đôi của số 3 và như thế là điềm lành thuận lợi, không những thế, trong cách đọc của hán nôm, số 6 đồng âm với Lộc, vì vậy số sáu còn là biểu tưởng của Lộc, là tiền lộc, vàng lộc.

Số 7 là con số có sức mạnh kỳ diệu, nó là 7 sao và cùng gươm 7 sao dùng trong nghi lễ đạo Lão, tượng trưng cho sức mạnh, đẩy lùi ma quỷ, số 7 được ban cho một sức mạnh kỳ bí bất khả xâm phạm.

Số 8 là tám điểm bất tử trong đạo Lão và bát chánh trong phật giáo nó được hiểu như một con số phát, tự sinh, tự nhân.

Tiếng Trung Quốc số 9 đồng âm với từ “trường thọ và may mắn” là con số chính, hạnh phúc an lành và thuận lợi.

Số 0

0102 hoặc 1102 = có 1 không có 2 ( Đà Nẵng có 1 chiếc Mercedes màu xám có chiếc biển số này )

0404 = không chết không chết

0378 = phong ba bão táp ( dân đua xe hay thích biển số này)

0159 = 1 năm làm chín năm ăn

Số 1

1111 = tứ quý

1234 = số tiến

1102 = độc nhất vô nhị

1204 = một hai không chết = nhất quyết không chết

1122 = một là một hai là hai

1655 = có lộc nằm hưởng

1536 = mỗi năm ba cháu

1629 = 1 sống 2 chết

1518 = mỗi năm một phát (làm ăn càng ngày càng phát)

Số 2

2222 = tứ quý

2828 = mãi phát mãi phát

2345= số tiến

2828 = mãi phát mãi phát

2204 = mãi mãi bất tử

2205 = mãi mãi ko ngủ(luôn tỉnh táo khi lái xe)

Số 3

3333 = tứ quý

3456 = số tiến

3838 = 2 ông địa = tài phát tài phát

3939 = 2 ông thần tài nhỏ = tài lâu tài lâu

3883 = Tài Phát Phát Tài

3806 = bà tám không xấu

3888 = ?

3535 = Dê xồm

3131 = tài nhất tài nhất

số 4

4444 = tứ quý

4567 = số tiến

4078 = bốn mùa kô thất bát

4953 = bốn chín chưa qua năm ba đã tới

4555 = 4 gói 555

4404 = tự tử không chết

Số 5

5555 = tứ quý

5678 = số tiến

5599 = ?

5508= 5 năm ko tắm

5959 = ngủ hoài hổng dậy

5508 = năm năm không tắm (đeo biển này rồi ko cần phải “rửa xe” )

5168 = Ngủ nhất định phát (tui đang phát lộc)

5545 = năm năm chết đói (chết đói năm 45)

Số 6

6666 = tứ quý

6868 = Lộc phát – lộc phát

6688 = lộc lộc phát phát

6789 = san bằng tất cả

6969 = ***

6677 = xấu xấu bẩn bẩn

6422 = Lộc đến nhà bác rồi nằm chết ở đó luôn mãi mãi

6336 = ?

6363 = Lộc tài Lộc Tài

Số 7

7777 = tứ quý = tứ thất

7979 = 2 ông thần tài

7778 = phất phất phất phát = tam thất nhất phát

7998 = ?

7898 = ?

7879 = ?

7227 = thất mãi mãi thất

7168 = Ra đường là phát (lăn bánh là có tiền)

Số 8

8888 = tứ quý = toàn phát

8686 = phát lộc phát lộc

8668 = phát lộc lộc phát

8688 = Phát lộc phát phát

8338 = Phát Tài Tài Phát

8583 = Tám năm tám bà

8778 = ?

8681 = phát lộc phát một

Số 9

9999 = tứ quý = trường sinh bất lão = tứ cửu – cứu tử – đi va đập thoải mái mà không chết

9090 = ?

9339 = ?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy biển số xe –

Những loại cây giúp xua đuổi tà khí trong vườn nhà

Trong phong thủy, có 3 loại cây được đánh giá có tác dụng xua đuổi tà khí, đó là: Cây bách, đào và cây thù du.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Cây bách

Cây bách

Cây bách có dáng thẳng, nhiều tầng lá. Dù trong bất kỳ môi trường nào, cây cũng mọc thẳng, vì vậy mà bách là cây biểu trưng cho sự cương trực, được tôn là “đứng đầu trăm cây”.

Ngoài ra, cây bách tỏa ra một loại hương thơm rất độc đáo, có hiệu quả xua trùng, vì vậy loại cây này có tác dụng xua tà rất hữu hiệu.

Cây đào

Cây đào

Trong các loại cây cảnh thì đào là loại cây có tác dụng thôi vượng đào hoa nhất, đồng thời nó còn là cây tập hợp tinh hoa của ngũ hành, có tác dụng chế phục bách quỷ.

Cho nên thời xưa, mọi người thường treo bùa hoa đào hay về sau, các đạo sĩ đã dùng kiếm gỗ đào với mục đích xua quỷ.

Còn nay, vào ngày Tết, đào thường được dùng là một loại cây hoa cảnh trưng trong nhà hoặc trồng trong sân vườn với mục đích trang trí và vừa có tác dụng xua đuổi tà khí, để đón mừng năm mới nhiều may mắn.

Cây thù du

 Cây thù du

Thù du là loại thực vật có mùi vị rất đậm, có công dụng phòng trừ sâu mọt.

Thời xưa, mọi người thường đem cây thù du bỏ vào trong quần áo hoặc là chế thành vật trang sức để đeo, có tác dụng ngăn quần áo không bị côn trùng gián rết phá hoại.

Về sau nó được diễn biến thành loại vật đeo để xua đuổi tà khí, chính vì thế mà cây thù du còn có tác dụng xua tà hiệu quả.

Theo Tuấn Việt (Tổng hợp)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loại cây giúp xua đuổi tà khí trong vườn nhà

Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

Một bài viết rất hay của tác giả Phong Nguyên tìm hiểm về tính tình phái nam qua tử vi. Đây là một vấn đề rất hay!
Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả PHONG NGUYÊN

Tôi đã có dịp bàn về tính tình phụ nữ qua tử vi trên giai phẩm này. Để cho được công bằng như đã hứa, nay tôi xin thảo luận về tính tình phái nam vì e rằng sự chậm trễ thêm nữa sẽ có thể bị các bà, các cô hiểu lầm là tôi gián tiếp che đậy các “nhược điểm” của những người đồng phái, bằng cách tránh sẽ viết bài này.

1) Những yếu tố Tử vi tiêu biểu cá tính tốt

Trước hết tôi cần nói rằng vì khuôn khổ bài báo giới hạn nên tôi chỉ có thể nêu ra những yếu tố tiêu biểu mà thôi, và như vậy đương nhiên có rất nhiều trường hợp không được đề cập đến sẽ có thể làm cho những độc giả liên hệ hơi bực mình, nhưng tôi cũng chẳng biết làm sao đáp ứng hết mọi ý muốn của độc giả.

a) Sao Tử Vi thủ Mệnh

Đối với phái nam, nếu tôi là phụ nữ tôi ưa nhất những người nào có Tử vi đơn thủ tại mệnh ở Ngọ (nhất là người tuổi Hành Thổ và Kim) vì nguyên một sao này đã hội đủ hết đặc tính hay của đàn ông.

Thực tế, tôi đã nghiệm thấy nhiều người chỉ có sao này mà biết bao nhiêu cô chết mê chết mệt, vì ngoài tư thái trượng phu, quân tử, bao dung, quý phái, các đương số còn rất lịch thiệp, có thể nói là rất Galant, đó là chưa kể đến vóc dáng hiên ngang, oai vệ và diện mạo khôi ngô (không phải thuộc phạm vi bài này). Tuy nhiên, nếu cô nào hay ghen tuông thì lại không nên kén chọn ý trung nhân có Tử Vi thủ Mạng, vì làm sao ông chồng có thể giữ trọn vẹn trung thành với mình, mặc dầu không mấy khi đương sự phản bội mình một cách trắng trợn hoặc tàn nhẫn, vì sao Tử Vi luôn giữ vững tư cách của nó. Nhưng nếu nói khách quan thì cô nào có đức lang quân như vậy tưởng cũng là một điều hãnh diện cho mình khi thấy xung quanh biết bao nhiêu phụ nữ mong muốn có người chồng như mình.Nếu ngoài sao Tử vi ra lại còn có Khôi Việt, Đào Hồng nữa thì phải nói là sự tốt đẹp đã gia tăng lên bội phần. Khi đó ta có thể cho rằng đương số thành công tuyệt vời đối với phụ nữ, nếu không muốn nói đến công danh cũng hiển hách. Còn trường hợp bị Tuần Triệt án ngữ hoặc Không Kiếp xâm phạm quý bạn đừng vội khen vì lúc đó đương số mất hết cả những điểm hay, có khi cón tỏ ra gàn dở, ngang bướng hoặc lẩm cẩm nữa...

Sau cách Tử vi cư Ngọ, tôi thích cách Tử Phủ (Dần hoặc Thân, nhưng Tử Phủ cư Thân hay hơn về phương diện khác) nhưng cũng với điều kiện không bị Tuần Triệt hoặc Không Kiếp xâm phạm thời mới hay. Sở dĩ tôi không coi cách này hay hơn Tử Vi cư Ngọ,vì khi đã có Thiên phủ đồng cung thì tính tình trở nên đạo mạo, đứng đắn quá khiến cho phụ nữ cảm thấy cuộc sống hơi khô khan, buồn tẻ; nhất là khi có thêm Lộc tồn, Cô Quả tăng cường, thì có lẽ cả ngày đương số chẳng buồn mở miệng nói chuyện với vợ. Nhưng đối với chị nào chỉ thích chồng ru rú tại nhà và đạo đức, đứng đắn thì chắc cách Tử Phủ là hay nhất. Về cách Tử Vi, Thất sát (cư Tỵ hoặc Hợi) cũng có những đặc tính tương tự như Tử Phủ, nghĩa là con người đứng đắn, chỉ biết lo làm ăn mà thôi.

Còn những cách Tử Phá, Tử Tham, Tử Tướng tôi không liệt kê vào phần tốt được vì tuy đối với phái nam những cách đó không xấu bằng đối với phụ nữ, nhưng ít ra cũng có nhiều điểm không thể khen được.

b) Thiên Lương thủ Mệnh

Có thể nói bất cứ Thiên Lương ở đâu (trừ ở Hợi) cũng đều được cả về phương diện tính tình vì dù sao Thiên lương cũng chủ về đứng đắn, tư cách mà ta thường thấy ở các nhà mô phạm, giáo chức, nhưng tốt nhất là Thiên Lương cư Ngọ và sau nữa là Đồng Lương (cư Dần hoặc Thân), Cơ Lương (cư Thìn hoặc Tuất).

Thiên lương cư Ngọ dù có gặp Đào Hồng tính tình của đương số vẫn không đến nỗi tệ vì Thiên Lương vẫn chế ngự được thói hoa nguyệt của Đào Hồng, nhất là khi có Hóa Quyền hoặc Thiên Hình đồng cung. Còn trường hợp Đồng Lương cần có thêm Hóa Quyền để gia tăng nghị lực và uy lực vì Lương dính với Đồng sẽ trở nên “nhu nhược” phần nào, là một điểm đàn ông nên tránh. Riêng về Cơ Lương thì khỏi cần có Hóa Quyền cũng được, vì Lương đi với Cơ là con người rất mưu trí, khôn ngoan khó lòng ai qua mặt được nếu bề ngoài đương số tỏ ra hiền lành, mềm mỏng nhưng trong tâm hồn đã có sẵn cả một kế hoạch để đối phó khi cần. Nếu chị em nào cần người quán xuyến, tháo vát, lanh lợi ngầm, có lẽ nên chọn người có Cơ Lương hơn là Đồng Lương, vì Đồng Lương còn có tính ham vui chơi, hay nhảy nơi này nơi khác.

c) Nhật Nguyệt thủ Mệnh

Đa số những người có Nhật Nguyệt chiếu Mệnh thường hay có hoài bảo lớn lao, muốn chọc trời khuấy nước, trừ trường hợp Nhật Nguyệt hãm địa. Nhất là người có Thái Dương độc thủ tại Ngọ lúc nào cũng rất muốn thực hiện những kế hoạch độc đáo, phi thường, ngoạn mục mặc dầu có tính cách giai đoạn cho nên tính tình bị ảnh hưởng rất nhiều về sự “bốc đồng” đó. Tính tình này có hợp với phụ nữ hay không còn tùy thuộc tâm hồn từng hạng người. Ngoài ra, người có Nhật Nguyệt còn hay mơ mộng thái quá, ít thực tế nên dễ bị thiếu thốn về vật chất, nếu có nhiều cách khác làm giảm sự tốt đẹp của Nhật Nguyệt đi. Vì vậy tuy Nhật Nguyệt là cách của những người thông minh tuyệt vời, nhưng tôi không dám nghĩ là cách tốt nhất đối với nhãn quan của phụ nữ bởi vì không có gì bực mình bằng sống bên người chồng tối ngày miệt mài với kế hoạch này kế hoạch nọ, chẳng còn biết nhìn vào cuộc sống thực tế hoặc lãnh vực tình cảm gia đình. Có những trường hợp được Nhật Nguyệt mà không thông minh thì lại có tài về kinh doanh, buôn bán cho nên cũng quá lo bon chen trên đường danh lợi mà quên lãng nhiều gia đình, vợ con. Nếu chỉ nghĩ đến tiền tài là đủ thì nên lập gia đình với người có Nhật Nguyệt, nhất là khi có Tả Hữu, Song Lộc.

d) Thiên Phủ Thủ Mệnh

Bất cứ trừơng hợp nào quý bạn thấy có Thiên Phủ tại Mệnh, quý bạn có thể tin tưởng được là đương số đứng đắn, trung hậu, khoan dung, dù có bị Tuần, Triệt án ngữ cũng vậy chỉ có giảm đi phần nào chứ không có bị kết quả ngược lại. Nhưng đa số phụ nữ bây giờ không ưa ông chồng đứng đắn quá mức, ít ra cũng có chút “lả lướt” đối với mình mới cho là có hạnh phúc. Nhất là khi có thêm Cô, Quả, Lộc Tồn, Quan Phúc thì chắc chắn đương số sống như một nhà tu hành.

e) Thiên Đồng Thủ Mệnh

Sau hết là sao Thiên đồng thủ Mệnh mà tôi cho là không được “thuận lợi” lắm đối với phụ nữ, vì sao này trước hết chủ về tính tình mềm yếu, đôi khi đâm ra nhu nhược. Đó là những tính người phụ nữ không phục và cũng không ưa. Sau nữa Thiên đồng chủ về sự hay thay đổi, mau chán, ít khi giữ vững được lập trường cho nên khó lòng trung thành được với người yêu hoặc vợ. Nhưng dù sao vẫn phải liệt kê Thiên đồng vào phần cá tính tốt vì sao đó vẫn chủ về tâm hồn đạo đức, hiền lành, tử tế là những tính cần thiết cho người đàng hoàng. Chỉ có điều cần là nên có thêm Hóa Quyền đồng cung và Thiên Hình nữa càng hay, để giảm bớt sự nhu nhược và tăng thêm nghị lực để giữ vững lập trường là trở thành hay ngay.

2) Những yếu tố tử vi tiêu biểu cá tính xấu

a) Tham Lang –Địa Kiếp

Cũng như đối với phụ nữ, hai sao này không nên có tại Mệnh của phái Nam. Tuy nhiên, đối với phái nam đặc tính xấu có phần giảm bớt về cách cư xử với vợ con, gia đình vì họ chỉ có thủ đoạn với xã hội hoặc bạn bè mà thôi. Đó là điểm khác giữa phái nữ và phái nam khi có hai sao này thủ mạng. Thực thế, tôi đã được xem nhiều lá số của phái nam về trường hợp này thì thấy rằng có người rất lưu manh trong xã hội nhưng lại biết lo toan tận tình cho cha mẹ, vợ con. Như vậy chị em nào thấy chồng mình có Tham lang hội Địa Kiếp đừng vội chán ghét đức lang quân mà tội nghiệp. Nhưng trường hợp ngược lại thì không phải đâu nghe!

b) Liêm Tham (đồng cung tại Tỵ hoặc Hợi)

Hai sao này thủ Mệnh thường thường tiêu biểu cho người đàn ông cục cằn, vũ phu tuy vẫn có tình cảm. Nếu chẳng may có thêm Hóa Quyền và Hỏa Linh thì phụ nữ không nên chung sống với đương số vì sẽ bị nô lệ hoàn toàn và còn bị mắng chửi tối ngày. Trong trường hợp này rất cần những sao “hiền” chế hóa bớt đi, như có Hóa Khoa, Đào Hồng, Khôi Việt, Tràng sinh, Đế vượng…thì có thể chịu đựng nổi. Nhưng đối với xã hội, bạn bè thì đương số lại là người rất sốt sắng, trung thực, thẳng thắn, vị tha, cởi mở và rộng rãi.Tôi đặt trường hợp Liêm Tham vào mục “xấu” là vì tôi muốn đứng vào lập trường phụ nữ tìm hiểu phái nam.

c) Liêm-Sát (đồng cung tại Sửu hoặc Mùi)

Cũng như Liêm Tham, hai sao này chủ về sự nóng nảy, thẳng thắn thái quá, ít khi chịu tỏ ra mềm mỏng, tế nhị, nhất là khi có Hóa Quyền, Thiên Hình đồng cung, thành ra không phải là cách phụ nữ mong muốn, nhưng đối với xã hội loại người này lại rất đáng khen vì không những họ thẳng thắn, trung thực mà họ còn trong sạch, liêm khiết, khó lòng bị mua chuộc. Nếu họ được giao phó nhiệm vụ bài trừ tham nhũng, hoặc thanh tra guồng máy chính phủ, quân đội thì chắc chắn họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách mỹ mãn. Do đó, chỉ vì đứng vào lập trường phụ nữ mà tôi phải đưa người Liêm Sát vào mục “xấu”, rất mong những độc giả nào có hai sao này hãy thông cảm cho lý do “chuyên môn” đó.

d) Vũ Phá đồng cung tại Tỵ hoặc Hợi

Những người có 2 sao này thủ Mạng bề ngoài tỏ ra con người hiền hòa, cởi mở và dễ tính nhưng thực ra quý bạn phải coi chừng tâm hồn họ hay có phản ứng mạnh mẽ nhưng thầm lặng và thực ra họ rất khó tính: hơi một chút trái ý, họ còn có tính thích chọc phá người khác khi thấy có gì ngang tai trái mắt, họ ưa phù suy chứ không phù thịnh, cho nên đối với loại người này chỉ dùng sự phục tòng, chiều lụy thì thành công chứ không thể nào gây ảnh hưởng bằng uy lực, tiền tài…được. Vì vậy, người vợ cũng khó chiều những ông chồng nào có Vũ Phá tại Mệnh và có khi suốt cả đời cũng chẳng hiểu nổi người bạn đời của mình, như thế không thể có hạnh phúc gia đình được.

e) Thiên Cơ-Thái Âm (đồng cung tại Dần hoặc Thân)

Đàn ông chẳng may có Thiên Cơ đồng cung với Thái âm tại Mệnh thì chỉ làm nô lệ cho đàn bà và chẳng có gì đáng khen cả. Nếu chỉ coi người này như là bạn hoặc người tình thì có thể nói là không sao mà còn cảm thấy thoải mái được người yêu chiều lụy mình nhưng khi đã có chồng Thiên Cơ Thái Âm như vậy thì đó là điều bất hạnh, vì không sớm thì chồng mình sẽ chạy theo người đàn bà khác và sẽ tuyệt đối phục tùng người đó ngoài vợ mình ra. Như thế còn gì nhục nhã cho bằng. Trong trường hợp này rất cần có Hóa Quyền cứu vớt thể diện phần nào, chứ nếu có thêm Hồng Loan hoặc các sao ủy mị nữa thì vô phương cứu chữa được sự nhục nhã ê chề đó.

Tôi xin tạm ngừng phần “xấu” ở đây và nói với quý nữ độc giả là về phương diện tính tình, tương đối phái nam chịu ảnh hưởng các sao xấu ít hơn phụ nữ, vì môi trường hoạt động của họ khác hẳn môi trường của phái nữ, chứ không phải tôi có ý che đậy những khía cạnh xấu của họ. Tỷ dụ như phụ nữ có Tham Lang bao giờ cũng tệ hại hơn phái nam, hoặc có Tang Hổ thì bất lợi hơn hẳn phái nam trong khi hai sao này có nhiều khía cạnh “xài được” cho đàn ông.

Mục đích của bài này chỉ là để giúp quý bạn phụ nữ có một khái niệm về cách tìm hiểu phái nam qua Tử vi chứ không thể đưa ra một bản liệt kê tất cả những trường hợp tốt và xấu của phái nam để lựa chọn hoặc nhận định vì như thế sẽ quá dài và quá khó khăn đối với khuôn khổ bài báo và khả năng của tôi. Mong được quý bạn thông cảm, nhất là những nữ độc giả đã viết thư thúc giục tôi viết bài này.

KHHB số 74J2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu tính tình phái nam qua Tử Vi

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Giáo sư Lê Trung Hưng Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :

Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.


- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu, được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd