Tướng đàn ông mắt một mí –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
Xem giờ sinh dự đoán tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn![]() |
![]() |
![]() |
| => Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Người hay oán giận, phẫn nộ Người lúc nào cũng than thở và oán trách số phận, oán trách người khác, nhìn gì cũng không thuận mắt, làm gì cũng không vừa ý nên luôn luôn gặp phải khủng hoảng, dễ dàng phản đối mọi việc. Người này không nhìn thấy mặt tích cực và lạc quan của vấn đề, chỉ chăm chăm soi xét tới cái tiêu cực, cái xấu xa và những khổ đau, xui rủi. Gần người này lâu, bạn sẽ bị nhiễm năng lượng xấu, thói xấu và cách nhìn đời u ám của họ. Từ cái nhìn tiêu cực dẫn tới suy nghĩ tiêu cực, rồi hành động tiêu cực, lộ trình này không quá xa đâu.
2. Quá đề cao cái “tôi” Phật dạy, làm người phải tự chủ và có bản ngã, điều đó là tốt. Nhưng, biến mình trở thành trung tâm của vũ trụ, lúc nào cũng tự phụ và đề cao bản thân, coi thường những người xung quanh thì không ổn chút nào. Bất luận đề cập đến vấn đề gì họ cũng thao thao bất tuyệt phô diễn năng lực bản thân, áp đảo người khác, chen lấn với người khác để nói. Tự tin khác với tự kiêu, gần người tự tin bạn sẽ cảm thấy được khích lệ và có thêm mục tiêu, ở gần người tự kiêu, bạn chỉ thấy bản thân kém cỏi và nhỏ bé so với họ. Kẻ mạnh là kẻ biết nâng người khác lên bằng đôi vai của mình, chứ không phải người giẫm đạp lên người khác để tiến lên.
3. Người tính cách thâm hiểm Kẻ nguy hiểm nhất không phải kẻ ác, mà là kẻ có dã tâm. Người tính cách thâm hiểm, luôn có tính toán trong lòng, luôn mưu đồ việc không đoan chính, là loại người không nên tiếp xúc. Vì sao? Vì ở gần biết đâu bị hãm hại lúc nào không hay. Vì biết đâu, họ lại lôi kéo, lừa lọc mình vào những chuyện bất chính. Sông tuy sâu nhưng còn nhìn thấy đáy, lòng người tuy nông mà khó lường.
4. Giả vờ trợ giúp nhưng lại mưu hại người khác
![]() |
1. Tính thực tế
Ở một nước trong thực tế có nhiều người cùng thời trùng tên, trùng họ thậm chí trùng cả đệm Họ hay phụ tên. Song rất hãn hữu có trường hợp trùng cả giờ, ngày, tháng, năm sinh. Vì thế mà “khí lực” họ và tên sẽ khác biệt. Họ và tên có “khí lực” song nó khác nhau ở tuổi tác và thời đại. Nó khác nhau về gia cảnh. Một phần khí lực vì cùng tên có giống nhau về năng khiếu, bản chất. Nhưng không bao giờ có các điều kiện “hậu thiên” giống hệt nhau. Thời vận và Mệnh vận hoàn toàn khác nhau cho nên dù có đặt tên giống y hệt các vĩ nhân, trí sỹ, học giả v.v… thì không thể sẽ trở nên giống họ. Đó là bí ẩn của “Thiên khí” và “nhân lực” tác động qua họ và tên. Họ và tên chỉ cho ta một phần thông tin cơ bản về một cá nhân chứ không phải là toàn bộ, là tất cả.

2. Tên và các quan hệ nội sinh
Mệnh vận một con người lệ thuộc nhiều mối quan hệ nội sinh (năng lực trí tuệ v.v…) và ngoại lực (gia cảnh, quan hệ, pháp luật, điều kiện, xã hội, đất nước v.về..) tác động vào con người cụ thể trong một không gian và thời gian nhất định. Ta không nên nghĩ rằng thông tin mà ta có được từ số hóa họ và tên và thông qua các số biểu lý cụ thể là thông tin toàn bộ. Người nào cũng vậy đều có một phần lớn các điều kiện “Hậu thiên” giống nhau. Đó là hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh đất nước; được hưởng một phần giáo dục và những lợi ích công cộng mà xã hội dành cho. Ở đây nói là “một phần” vì có người có thời gian được đến trường ít hơn thời gian của người kia. Người sống ở thành phố thì được hưởng các điều kiện phúc lợi công cộng nhiều hơn người sống ở nông thôn hay ở miền núi. Do vậy, tuy cùng tên họ và tên gọi, đệm họ hay phụ tên, có cùng số biểu lý và số biểu thế âm dương Ngũ Hành nhưng phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể của bản thân mà đối chiếu để tìm thông tin ở phần định tính biểu lý (phần sau) một cách thận trọng. Bởi vì trong phần định tính biểu lý đưa ra nhiều thông tin riêng biệt chứ không cho một cá nhân tất cả các thông tin đó.
– Ví dụ định tính chỉ ra ba biểu thế là: Thủy – Mộc – Mộc: Có định tính là: Được giúp đỡ, thành đạt, thành công lớn, giàu có, vinh hoa, hạnh phúc, sống thọ…
Tuy có trùng tên họ song ta cần phải hiểu qua các định tính trên thì:
+ Người học hành theo con đường công danh sẽ thành đạt lớn, quan to, lộc hậu.
+ Người làm thương mại thì sẽ thành công lớn, tức buôn bán phát đạt, gặp nhiều may mắn…
+ Người thành danh thì sẽ giàu có vinh hoa, chức to.
+ Người sẽ có gia đình hạnh phúc yên vui.
+ Người khỏe mạnh sẽ thọ trường…
Như thế nhiều người có họ tên giống hệt nhau sẽ có số lý, số biểu lý, biểu Thế Âm Dương Ngũ Hành giống nhau và sẽ không có cùng định tính. Song ta phải tuỳ vào từng người với từng điều kiện sống của mình mà thấy thông tin nào ứng vào mình là hợp. Có nhiều người phù hợp phần lớn các thông tin đã cho mà thôi. Ví dụ một người làm nông nghiệp sống ở nông thôn thì người đó sẽ không thành danh, vinh hoa phú quý được. Song người đó sẽ thành công lớn trong chăn nuôi, trong trang trại. Và đương nhiên người đó cũng giàu có nhưng không vinh hoa. Và lại có người chỉ có một gia đình hạnh phúc mà thôi.
– Lý giải điều này để trả lời cho các trường hợp có tên họ và tên gọi giống hệt nhau thì không phải cứ giống hệt nhau cả về các định tính đã cho. Và vì thế mà phép dự đoán qua số hóa họ tên là tin cậy.
Điều cần thiết là nhận thức sâu những suy biện mà vận dụng để tìm thông tin bổ ích cho bản thân
Theo Phật học Phật, tu tập nhiều nhưng thiếu hiệu quả là vì đâu? Là vì thiếu phương pháp phù hợp, không nắm bắt được gốc rễ của vấn đề. Làm thế nào để tu tâm hướng Phật một cách đúng đắn đắn nhất, lâu dài nhất? Chỉ cần nắm vững 3 nguyên tắc cơ bản của Phật giáo dưới đây thì tu 3 giờ bằng tu 3 năm.
![]() |
![]() |
![]() |
Kinh Vu lan ghi lại những lời Đức Phật dạy chúng ta về lòng thương yêu, bổn phận của con cái đối với cha mẹ hiện tiền hay quá cố, đối với những người đang trầm luân trong những khổ cảnh, nghịch cảnh và cách thức thể tình cảm và bổn phận ấy bằng những việc làm cụ thể, nhân dịp thưa hỏi của Ngài Mục kiền Liên.
NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU
(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngay trán niệm lớn bài cúng hương)
Cúng Hương
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo
Thề trọn đời giữ Ðạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Ðề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.
(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)
Kỳ Nguyện
Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam bảo, Ðức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức Tiếp dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật, cùng các vị Bồ tát, tịnh Ðức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo (3 lần)
(Ðứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật)
Tán Thán Phật
Ðấng Pháp Vương Vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loại
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Quán Tưởng
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng.
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y.
(Xá 3 xá rồi xướng lạy)
Ðảnh Lễ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1lạy)
(Ðứng hoặc ngồi, vô chuông mõ và đồng tụng):
Tán Lư Hương
Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông Pháp giới đạo tràng mười phương.
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền.
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3 lần)
Chú Ðại Bi
Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Khai Kinh Kệ
Vọi vọi không trên pháp thẩm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Nói Kinh Vu Lan Bồn
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm chưa đưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ ông gốc tội rất râu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu đặng đâu
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên
Cùng là các bậc thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tu tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kiêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu Pháp ân cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm gường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng
Chư Ðại Ðức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Ðặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tựu hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên giác Thinh văn
Hoặc chư Bồ tát mười phương
Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh
Ðều trì giới rất thanh rất tịnh
Ðạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bậc Thánh phàm
Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Ðặng cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bá thiên thọ trường
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa thân về cõi thiên cung
Người thì tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Ðịnh tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc than sầu buồn
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không
Phật rằng: lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo
Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ
Cùng quốc Vương, Thái tử, Ðại thần
Tam công, Tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thê tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Ðà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự Tứ chúng Tăng cúng dường
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Ðệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn
Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Thuyết Kinh Báo Ðáp Công Ơn Cha Mẹ
Diễn Nghĩa
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.
Ðáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.
Ðức A Nan trong lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
Vội vàng xin Phật dạy tường:
“...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dày công.
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,
Ðống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.
Ta lễ bái kỉnh người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam.
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Ðức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai.
Ngài bèn xin Phật tỏ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng quằn
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Người có biết cớ sao đen nhẹ
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân.
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang.
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể (1) hiện sanh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn (2) đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng là đến kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Ðiều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Ðiều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con
Thứ sáu, sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê
Ðiều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham chau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn
Phật lại bảo A Nan nên biết:
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Thì những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải năng chăm sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con thì phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Ðến khi vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an tâm định thần
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo lối hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên cha quên mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù ngục phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đồ bất chánh
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng xá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ơn trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ rầy la quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Ðập vào mình, vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thiệt tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dụng phạm thinh sáu món
Phân rõ cùng Ðại chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu di
Ðến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra, rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền
Ví có người vì ơn dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Ðồng thinh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình còn phải cần chuyên trì giới
Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá tua y thử phụng hành đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại có chó sắt, rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên
Nhứt là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho lưỡi kéo trâu cày
Ðến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai
Dầu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên
Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"
Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Ðồng nhau tựu tại Phật tiền
Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.
Tâm Kinh
Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn
Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần
Làu làu một tánh thiên chân
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm
Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt
Cõi bờ kia một bước đến nơi
Trải lòng tròn đủ xưa nay
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang
Hàng Bồ tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thẩm vào trí huệ mở thông
Soi thấy năm uẩn đều không có gì
Ðộ tất cả không chi khổ ách
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra
Sắc, không chung ở một nhà
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không
Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ tưởng hành thức phân chia
Cũng lại như vậy, tổng về chân không
Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó
Các pháp kia tướng nọ luống trơn
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm
Cớ ấy nên cõi trên không giới
Thể làu làu vô ngại thường chân
Vốn không ngũ uẩn ấm thân
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không
Thấy rỗng không mà không nhãn giới
Biết hoàn toàn thức giới cũng không
Tánh không sáng suốt đại đồng
Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi
Vận tâm ấy không gì già chết
Huống chi là hết chết già sao
Tứ đế cũng chẳng có nào
Không chi là trí có nào đắc chi
Do vô sở đắc ly tất cả
Nhơn pháp kia đều xả nhị không
Vận lòng trí huệ linh thông
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì
Không quái ngại có chi khủng bố
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên
Tâm không rốt ráo chư duyên
Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn
Tam thế Phật, y đàng Bát nhã
Ðáo Bồ Ðề chứng quả chánh nhơn
Cho hay Bát nhã là hơn
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú đúng mực quang minh
Ấy chú tối thượng oai linh
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư
Thiên nhơn chơn thiệt bất hư
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:
"Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha" (3 lần)
Vãng Sanh Thần Chú
Nam mô A Di Ða bà dạ.
Ða tha dà đa dạ, Ða điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ.
A di rị đa, tỳ ca lan đế.
A di rị đa, tỳ ca lan đa.
Dà di nị, dà dà na.
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)
Bài Tán Thán Phật A Di Ðà
Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán
Ðức Di Ðà vô hạn lợi sanh
Bốn mươi tám nguyện viên thành
Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng
Bạch hào hiển hiện phóng quang
Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa.
Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại
Sáng trong ngần tứ đại hải dương
Hào quang hóa Phật không lường
Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà.
Ðộ chúng sanh liên hoa chín phẩm
Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương
Chí thành thập niệm chiêu chương
Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật (108 lần)
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)
Sám Vu Lan
Ðệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm vũ huy hoàng
Ðốt hương đảnh lễ
Mười phương tam thế
Phật, Pháp, Thánh Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày gian khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Ðem đường học đạo
Ðệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Ðạo tràng thanh tịnh
Tăng bảo trang nghiêm
Hoặc thừa Tự Tứ
Hoặc hiện tham thiền
Ðầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Ðượm nhuần mưa pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các Ðức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Sám Mục Liên
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.
Ðền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu mẹ khóc la
Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Ðề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! niệm Phật độ mình
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già
Thích Ca đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời phụ mẫu đã qua
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thông thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam bảo cầu kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho thí chủ trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Ðề khổ ách hết liền
Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.
Hồi Hướng
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật,
Xin nguyện chúng sanh,
Thể theo đạo cả,
Phát lòng Vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp,
Xin nguyện chúng sanh,
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng,
Xin nguyện chúng sanh,
Thống lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng
Chú thích:
(1) Đầu, hai tay, hai chân
(2) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Quan niệm của người Việt nói riêng và phương Đông nói chung cho rằng, nếu trang trí nhà hợp phong thủy thì cuộc sống gia đình sẽ hòa thuận, hạnh phúc, công việc làm ăn thuận lợi, phát tài. Đó cũng là lý do nhiều người rất quan tâm đến việc trang trí nhà hợp phong thủy theo tuổi.
Với những người tuổi Tuất, bên cạnh việc trang trí ngôi nhà với các gam màu thuộc Hỏa như tím, hồng và đỏ, để tăng thêm may mắn, người tuổi Tuất nên dùng thêm miếng mã não có hình thỏ hoặc mèo để làm vòng đeo tay hoặc cổ; đặt tượng voi và ngọc sẽ giúp tăng tài lộc, bình an.
![]() |
| Những gam màu thuộc Hỏa như tím, hồng và đỏ hợp phong thủy với người tuổi Tuất |
Nếu trang trí quả cầu thủy tinh trong nhà, người tuổi Tuất nên đạt ở phía Đông Nam, không được đặt tại hướng Tây Bắc.
Nếu muốn treo tranh tranh phong thủy để mang lại may mắn, vượng tài, người tuổi Tuất nên chọn một trong những loại tranh như Mẫu đơn hoa 8 bông, mẫu đơn hoa 9 bông; hoặc có thể treo tranh hoa điểu; tranh sơn thuỷ thuộc diện bình bình chỉ có tác dụng trấn trạch an gia. Ngoài ra, người tuổi Tuất cũng có thể treo một số loại tranh phong thuỷ khác trong nhà như tranh ngựa hoặc tranh hổ.
Việc treo các loại tranh này trong nhà được cho là sẽ giúp các gia chủ tuổi Tuất ngày một vinh hiển, phú quý dài lâu, chuyển nguy thành an, thay đổi vận số, khiến cho sự nghiệp, công việc gặp trắc trở thành thuận lợi.
Lưu ý, dù các loại tranh này có thể treo ở hầu hết các không gian như phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ hay thư phòng nhưng nên treo tại hướng Đông, Đông Nam hoặc theo mệnh cung phong thuỷ của gia chủ. Tốt nhất nên nhờ một chuyên gia phong thuỷ hoặc người am hiểu tư vấn.
Những người tuổi Tuất thuộc hành Thổ, do đó thích hợp sống ở gần núi non. Cửa chính của ngôi nhà cũng nên hướng về phía Tây Bắc, Đông hoặc Nam.
Người tuổi Tuất hợp với các con số 0 và số 5, không hợp với con số 3. Trong sinh hoạt hàng ngày hay khi đặt địa điểm làm việc, những người tuổi Tuất cũng nên tránh các con số kỵ để mọi việc may mắn.
Khi trang trí nhà ở, người tuổi Tuất cũng phải lưu ý đến những màu kỵ. Vì Tuất là Dương Thổ, Mộc khắc Thổ còn Thủy khắc Hỏa, vì vậy, người tuổi Tuất sẽ không hợp với các màu như xanh lá cây (Mộc), nâu đất (Thổ), đen và xanh lam (Thủy).
Với gam màu trắng vốn thuộc Kim, người tuổi Tuất cũng có thể dùng nhưng nên hạn chế.
Cần chú ý thêm, người tuổi Tuất kị các tuổi Sửu, Mùi và Thìn, vì thế trong nhà cũng nên tránh bày các vật trang trí có hình của những con vật này.
(Theo Lao động)
Có lẽ giờ ít người còn nhớ trong số 12 Tết cổ truyền của Việt Nam, tháng 9 âm lịch cũng có một ngày Tết như vậy. Cũng ít người còn biết ngày 9 tháng 9 âm lịch là ngày gì. Theo truyền thống, đây là ngày Tết Trùng Cửu, là ngày tết có nguồn gốc từ rất lâu đời.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Hướng kê giường Tuổi Nhâm Tuất 1982
– Năm sinh dương lịch: 1982
– Năm sinh âm lịch: Nhâm Tuất
– Quẻ mệnh: Ly Hoả
– Ngũ hành: Đại Hải Thủy (Nước biển lớn)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Thủy, Kim sinh Thủy, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Kim, là hướng Tây Bắc; Tây;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Trắng, Xám, đây là màu đại diện cho hành Kim, rất tốt cho người hành Thủy.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
NAM: Cung Khảm, sao Vân-Hớn, hạn Thiên-La: Mẫu người ngay thẳng, lạc quan, tháo vát, thích kết giao bằng hữu và nhiều tham vọng. Bởi “ Canh cô Mồ quả” nên có khi không gần cha mẹ anh em và tiền vận ba chìm bảy nổi. Người sinh tháng 6, 11 tình duyên dễ dàng hợp ý. Chỉ cần chăm chỉ học hành 4 năm đại học, có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này. Nhà ở và làm ăn hạp hướng Đông Nam và Bắc. Tuổi vợ nên chọn Đinh-Mão ( 1987), Kỷ-Mão ( 1999), Canh-Ngọ (1990), Bính-Tí ( 1996).
“ Tuổi trẻ thanh xuân bước vào đời
Chớ nên buông thả tháng ngày trôi
Dấn thân học tập sau thành đạt
Danh phận rỡ ràng mới thảnh thơi.”
Năm nay thi cử đỗ đạt, tốt nghiệp ra trường sẽ tìm được việc làm thích hợp. Dẫu phải thay đổi chỗ ở hay đi làm việc xa nhà cũng nên theo hoàn cảnh, sau này mọi việc sẽ được điều chỉnh theo ý. Tình cảm yêu đương cũng thuận lợi, không có gì trắc trở. Nên bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, trước khi lái đi xa để tránh nằm đường.
NỮ: Cung Cấn, sao La-Hầu, hạn Diêm-Vương: Mẫu người lạc quan, ngay thẳng, nhưng “Canh cô Mồ qủa” nên có khi phải sớm xa cách gia đình cha mẹ anh em. Nếu vì lý do học vấn mà đi xa là điều danh dự. Người sinh mùa Xuân, Hạ từ tình duyên cho tới công danh tài lộc đều như ý. Chỉ cần chăm chỉ học hành 4 năm ở đại học, có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.
“ Muốn cho thành đạt danh tài
Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo
Ngày mai vinh hiển ấm no
Hôn nhân hạnh phúc trời cho phước đầy”
Hướng làm ăn tốt nhất là Tây Bắc, chánh Tây. Lấy chồng hạp tuổi Đinh-Mão (1987), Canh-Ngọ ( 1990) Qúy-Dậu (1993), Mậu-Thìn (1988) và Canh-Thân ( 1980). Bất luận lấy chồng năm nào, luôn luôn phải chọn ngày giờ trong các tháng 6, và 12 âm lịch là tốt nhất.
Năm nay gia đình có người ốm đau bệnh hoạn hay tang chế bà con trong tháng 1, tháng 7. Lái xe cũng phải hết sức cẩn thận đề phòng rủi ro trong 2 tháng này. Nên bảo trì xe cộ kỹ lưỡng trước khi đi xa, tránh nằm đường. Không nên đầu tư chứng khoán vì nhiều bất trắc. Nếu muốn sinh con, thì có thai sau tháng 6, để sinh con năm Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ trong 20 năm.
MẬU-NGỌ 36 TUỔI: (Sinh từ 7/2/1978 đến 27/1/1979).
Mệnh: Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời).
NAM: Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người thông minh thích tự lập nhưng nhiều đam mê và phóng khoáng nên đôi lúc vụng về lúng túng. Đời tha hương phiêu bạt, xa quê cha đất tổ, không nhờ người thân. Tự tay lập nghiệp mà thành nhờ năng nỗ tháo vát, tin tưởng vào các sự kiện tâm linh, siêu hình và phúc đức nhân quả của tôn giáo. Nếu bạn là con út trong gia đình, rất dễ bị mồ côi. Cho nên vì hoàn cảnh đặc biệt nào phải xa gia đình trước 30 tuổi là tốt. Nên tìm người yêu trong các tuổi Canh-Thân (1980), Mậu-Ngọ (1978), Bính-Dần (1986), Kỷ-Mùi (1979), Giáp-Tí (1984), và Ất-Sửu (1985). Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen. Hướng nhà cửa và kinh doanh tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.
“ Tha phương phiêu bạt mà nên
Tự tay lập nghiệp vững bền chí trai
Luật Trời vay trả nay mai
Tâm linh đạo đức danh tài vẻ vang”
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát” không nên xây cất nhà cửa, hay cơ sở thương mãi. Mọi việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, không nên thay đổi chỗ làm, chỗ ở. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Tuy nhiên công vịệc làm ăn rất thành công, tốt nhất là mùa Đông. Phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng trước khi lái xe đi xa tránh nằm đường.
NỮ: Cung Khôn, sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Mẫu người rất sáng trí thông minh, nhiều tài năng hào phóng, ham hoạt động, năng nỗ, thích đi xa. Đồng thời cũng thích triết, đạo lý, có tâm hồn vị tha, hướng thượng. Chọn người yêu hạp nhất trong các tuổi Quý-Sửu (1973), Mậu-Ngọ (1978), Đinh-Tị (1977) và Mậu-Thân (1968). Đại kỵ tuổi Ất-Mão (1975). Lấy chồng bất luận năm nào, luôn luôn chọn ngày giờ cưới hỏi trong các tháng 6, hay 12 âm lịch là tốt nhứt. Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen. Hướng làm ăn tốt nhất trên chánh Tây và Tây Bắc.
“ Thông minh sáng trí hơn người
Quyết tâm thành đạt đạo đời không hai
Đường tình cách trở lá lay
Chăm lo sự nghiệp ngày mai vui vầy
Cũng vì mình quá đa tài
Hồng nhan tri kỷ anh tài mấy ai?”
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát”: không nên xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tháng 4, tháng 8, gia đình có người bệnh hoạn ốm đau, hay có tang chế bà con. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Mọi việc làm ăn cứ giữ nguyên tình trạng cũ, tránh khuếch trương mở rộng sẽ lâm vào tình trạng lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không. Nếu muốn sinh con út, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ 20 năm.
BÍNH-NGỌ 48 TUỔI: (Sinh từ 21/1/1966 đến 8/2/1967).
Mệnh: Thiên-Hà-Thủy (Nước trên trời).
NAM: Cung Đoài, sao Thủy-Diệu, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người chính trực, nhiều sáng tạo, giỏi tính toán và dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên hay thay đổi ý kiến, mục tiêu nên công danh thăng trầm bất định. Lúc nhỏ hay đau ốm khó nuôi, cô đơn lo nghĩ. Mẫu người năng động, thích rày đó mai đây, cho nên tình duyên trong hồi tiền vận nhiều trắc trở, truân chuyên. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ gặp nghịch cảnh như gần mẹ xa cha hay gần cha xa mẹ. Thành thử đi học, đi làm ăn xa cha mẹ trước 30 tuổi là một điều tốt. Nếu bà vợ nhằm vào các tuổi Tân-Hợi (1971), Ất-Tị (1965), Đinh-Mùi (1967), và Nhâm-Tí (1972) thì cuộc đời bạn như hổ mọc cánh, như rồng có mây ngũ sắc, tung mây lướt gió, hưởng thụ giàu sang phú quí. Tối kỵ tuổi Bính-Thìn (1976), Kỷ-Dậu (1969). Nhà cửa và làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc và chánh Tây.
“ Nhỏ thời đau ốm khó nuôi
Ly hương cách trở đơn côi một mình
Truân chuyên rồi mới hiển vinh
Niềm tin xây dựng gia đình yên vui”
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Oc” : không tốt khi xây cất hay chỉnh trang nhà cửa. Tuy nhiên qúy ông làm việc hãng xưởng có thể được lên chức lên lương. Qúy ông kinh doanh thương mại sẽ thành công về tài chánh. Nếu muốn thay đổi việc làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại có thể thực hiện được. Tính có con năm nay cũng rất tốt.
NỮ: Cung Cấn, sao Mộc-Đức, hạn Tam-Kheo: Mẫu người năng nỗ tháo vát, suy tính kỹ lưỡng, đa năng đa hiệu. Nội trợ quán xuyến đảm đang. Qúy bà sinh ban đêm mùa Thu, Đông, cuộc sống bình yên dễ dàng. Số ly hương thành đại nghiệp, giàu sang về hậu vận. Nếu là con út trong gia đình, cha mẹ phải ly tán. Nhiều khi gần cha xa mẹ, gần mẹ xa cha. Công chuyện làm ăn trôi chảy dễ dàng, gia đạo yên vui khi lấy chồng tuổi Đinh-Mùi (1967), Mậu-Thân (1968), Quí-Mão (1963), Canh-Tí (1960), Mậu-Tuất (1958). Tối kỵ tuổi Ất-Tỵ (1965). Rất hạp với màu trắng. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“ Đa năng đa hiệu đảm đang
Nội trợ quán xuyến dễ dàng một tay
Hậu vận sáng chói tương lai
Công danh gia đạo thẳng ngay trọn đời”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm vào “Lục Hoang Oc”, không tốt cho việc xây cất, chỉnh trang nhà cửa và cơ sở thương mãi. Tuy nhiên, có người xuất vốn, rủ hợp tác làm ăn rất tốt. Nhờ đó công cuộc kinh doanh thắng lợi trên thương trường, tài lộc thịnh vượng.Tình trạng tài chánh được cải thiện tốt hơn. Tốt nhất là vào mùa Đông. Muốn thay đổi chỗ ở chỗ làm, hay đi xa xuất ngoại đều thực hiện được.
GIÁP-NGỌ 60 TUỔI: (Sinh từ 3/2/1954 đến 23/1/1955).
Mệnh: Sa Trung Kim (Vàng trong cát).
NAM: Cung Khảm, sao Vân-Hớn, hạn Thiên-La: Mẫu người tự tin, có óc lãnh đạo, gánh vác đa đoan, tự lập, cho nên luôn luôn có chỗ hơn người. Tuy nhiên cuộc sống thường xa gia đình cha mẹ anh em. Tình đầu trắc trở, ly hương mới may mắn. Ngoại trừ qúi ông sinh tháng 4, 8 thì tình duyên gia đạo ổn định hơn. Hậu vận sau 40 làm ăn phát đạt vững vàng. Rất hạp màu vàng, kỵ màu đỏ. Hướng nhà cửa và kinh doanh tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.
“ Tánh người gánh vác đa đoan
Tự tin lãnh đạo lo toan hơn người
Anh em cha mẹ đôi nơi
Gia đình sau mới tới thời thái lai”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Oc” không nên xây cất nhà cửa, hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Đầu năm không nên đầu tư chứng khoán vì nhiều bất trắc. Phải thận trọng về ngôn ngữ để tránh ngộ nhận gây miệng tiếng thị phi. Xấu nhất là tháng 4, tháng 8. Tuy nhiên gia đình có hỉ sự như có cháu nội, ngoại.
NỮ: Cung Cấn, sao La-Hầu hạn Diêm-Vương: Mẫu người siêng năng chịu khó, nhẫn nhục. Nhiều tham vọng, biết lo xa và khôn khéo. Biết tự lập và sẵn sàng gánh vác trách nhiệm. Dù trong lúc thất thế ngậm đắng nuốt cay, hay khi vinh quang rực rỡ, quí bà luôn sống không thẹn với lòng. Tiền vận trắc trở gian nan về tình duyên gia đạo. Tuy nhiên sẽ nhờ chồng nếu phu quân nhằm tuổi Quý-Tỵ (1953) hay Đinh-Hợi (1947). Ly hương lập nghiệp gặp nhiều may mắn sau 40. Hạp màu vàng, kỵ màu đỏ.
Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“Siêng năng chịu khó hiền hòa
Quí bà khiêm nhượng thật thà đáng yêu
Thành công lòng chẳng tự kiêu
Giàu sang cũng vẫn quí yêu một lòng
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Oc” kỵ xây cất nhà cửa, hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Mọi việc làm ăn cứ giữ nguyên tình trạng cũ, tránh mở mang thêm. Tháng 1, tháng 7, gia đình có người lâm bệnh nặng hay tang chế bà con. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại sẽ gặp bất trắc. Tuy nhiên có hỉ sự như có thêm cháu nội, ngoại.
NHÂM-NGỌ 72 TUỔI: (Sinh từ 15/2/1942 đến 4/2/1943)
Mệnh: Dương Liễu Mộc (Gỗ cây dương liễu).
NAM: Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người ham hoạt động, rày đó, mai đây. Tính tình dứt khoát, không bỏ lở cơ hội, rất hào hoa và có chí lớn. Số ly hương được sang giàu bền vững từ 36 tuổi trở về sau. Qúy ông sinh tháng 5, 7, 11 tình duyên thường dang dở nhưng đã qua rồi những tháng năm bồng bềnh trôi nổi. Bây giờ là lúc thanh vân đắc lộ, gia đạo an khang. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.
“Suốt đời hoạt động hăng say
Rày đây mai đó chí trai ngang tàng
Giờ đây địa vị cao sang
Gia đình hạnh phúc vững vàng trăm năm”
Mặc dù cổ nhân nói “Thất thập cổ lai hi”, năm nay qúy ông đã 72, nhưng còn làm công chức vẫn vững vàng trong công vụ. Qúy ông kinh doanh thương mãi đang thành công trên thương trường, tài lộc phát đạt thịnh vượng. Muốn thay đổi chỗ ở hay đi xa xuất ngoại, đều thực hiện được. Gia đình có hỉ sự trùng phùng như có thêm cháu nội ngoại.
NỮ: Cung Khôn, sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Số người năng nỗ ham hoạt động, sẵn sàng đứng đầu sóng ngọn gió, nên nữ nhân mà nam tính . Vì vậy thường cao số về đường chồng con. Ngoại trừ qúi bà sinh mùa Xuân, Đông thường thuận số dễ dàng hơn. Nhờ sáng trí thông minh, tự tin tự lập nên ly hương dễ giàu sang. Nếu lấy chồng hợp tuổi như Đinh-Sửu (1937) hay Quý-Mùi (1943) là có số nhờ chồng vinh hiển. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“Tánh người nào khác nam nhi
Đứng đầu sóng gió lắm khi dập dồn
Thông minh sáng suốt tự tồn
Chồng con hạnh phúc tâm hồn thảnh thơi”
Năm nay gia đình có người bệnh hoạn ốm đau hay tang chế bà con trong tháng 4, tháng 8. Tuy nhiên, tình trạng tài chánh rất khả quan. Gia đình có hỉ sự trùng phùng như thêm cháu nội, ngoại. Nếu muốn đi xa xuất ngoại cũng gặp hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện.
Nguồn Vietstar
Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Lông mày cong tự nhiên | Lông mày ngang tự nhiên | Lông mày cong nhiều | Lông mày hướng lên | Lông mày ngắn |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Lông mày dày, đậm | Lông mày liền nhau | Lông mày mảnh | Lông mày cách xa nhau | Lông mày góc cạnh |
Mộc Trà (theo Quiz)
– lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự si tình, lụy tình, đồng thời với tính nết ham vui chơi, ưa hoang phí, thích thay cũ đổi mới, táo bạo, trí trá ... – phải có nhiều cơ hội tốt cho việc phát tác tình dục biểu lộ trong cung Di, cung Nô, qua những sao ái tình tọa thủ tại 2 cung này. Những lá số có Thân cư Di hội nhiều sao tình dục là ví dụ điển hình. – ngoài điều kiện tích cực, còn có điều kiện tiêu cực là thiếu sự khắc chế tình dục, hoặc sự khắc chế không đủ mạnh so với các sao tình dục hiện diện.
+ Điều kiện về sao: – nhất định phải có nhiều sao tình dục hội trụ hoặc tập trung vào những cung cường, sao đồng cung hoặc sao tình dục hạng nặng (Thai, Riêu, Tham, Đào) ... – phải có sao đa phu, đa thê – phải có sao bất hòa gia đạo, chửa hoang – phải có sao bất hạnh (ly tán, đau khổ) gia đạo
+ Điều kiện về cung: – sao tình dục phải xuất hiện ở các cung Mệnh, Thân, chiếu Mệnh, chiếu Thân hoặc ở cung Phúc. – sao tình dục phải có ở cung Phu Thê – sao tình dục phải có ở cung Nô, Di – nếu xuất hiện ở cung Hạn (ngoài các cung nêu trên) thì vấn đề ngoại tình xảy ra nhất thời trong hạn đó – cung Tử có những sao hai dòng con: cùng mẹ khác cha hay cùng cha khác mẹ
+ Điều kiện thuộc hoàn cảnh: – lá số phải được cứu xét trong xã hội có sa đọa hay không – nếp sống đương số có sa đọa hay không; – cần lưu ý thêm là việc sợ vợ, sợ chồng lắm khi không phải là yếu tố kìm hãm ngoại tình.
+ Những dè dặt cần thiết: – sao tình dục hay sao ái tình có khi chỉ có nghĩa là có duyên (Hồng Loan) hay đẹp đẽ (Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc) hay dâm đãng mà không ngoại tình, hoặc cưới xin dễ dàng; – lưu ý tránh ngộ nhận số ngoại tình với số giang hồ, lẽ mọn, lãng tử; – gặp trường hợp Thân cư Thê/Phu có những sao ngoại tình cũng phải dè dặt; – gặp số có hai đời vợ, hai đời chồng phải dè dặt thêm: có khi là hai vợ, hai chồng đồng thời, có khi là hai đời vợ/hai đời chồng liên tiếp, không trùng hợp nhau.
g. Tình trạng chia ly: sự chia ly ở đây bao hàm hai trường hợp ly thân hay ly hôn chứ không nói đến sự xa cách để làm ăn hay vợ một nơi chống một ngả vì có thuyên chuyển, không nói đến việc một trong hai người chết nửa chừng xuân. Những điều kiện trực tiếp của tình trạng chia ly gồm có: – cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung; – cung Phu Thê bị sát tinh xâm phạm; – cung Phu Thê bị ám tinh, hao bại tinh, hình tinh đi với sao thay đổi, sao đau buồn, nước mắt, cô độc; – cung Phu Thê có sao chỉ hai đời chồng/vợ; – cung Tử có những sao chỉ con dị bào; – lá số của hai vợ chồng có Bản Mệnh khắc nhau; – cung Phúc có nhiều sao bất hạnh gia đạo (cao số, dang dở); – cung Mệnh Thân có nhiều sao xui xẻo, đau buồn, nhất là với nữ số; – có những chỉ dấu ngoại tình ở vài cung như Nô, Di; – thiếu sao giải mạnh và nhiều
Đi vào chi tiết, cần lưu ý các sao sau:
- Những bộ sao của Tử Vi: Chỉ có Tử Sát và Tử Phá đồng cung nói lên sự chia ly khả hữu: Tử Sát: nếu hôn nhân bị trắc trở buổi đầu hoặc nếu muộn lập gia đình thì có thể tránh được chia ly. Tuổi muộn thông thường là quá ba mươi. Thất Sát vừa chỉ sự không may, vừa chỉ sự chậm chễ. Tử Phá: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê cho nên dù đi với Tử Vi cũng không giảm bất lợi. Vợ chồng phải bị chia ly, hình khắc sau khi hiềm khích, giận hờn, gây gổ nhau.
- Những bộ sao của Liêm Trinh: Liêm ở Dần, Thân: vợ hay chồng phải chắp nối nhiều lần, có họp rồi lại tan, chưa kể việc lấy chồng/vợ nghèo. Liêm Tướng: hai người không từ biệt cũng chia ly, sau khi gây gổ nhau thường xuyên. Liêm Tham: cũng chia ly, thông thường có một người bị hình tù. Liêm Sát: vừa chậm gia đình vừa chia ly.
- Những bộ sao của Thiên Đồng: Đồng ở Thìn, Tuất: thông thường là bất hòa, nếu không hoặc tử biệt hoặc chia ly. Đồng, Âm ở Ngọ: nếu muộn gia đạo có thể tránh chia ly. Thường người vợ có lỗi vì Âm hãm ở Ngọ. Đồng Cự: Vợ chồng hay gây gổ nhau, nghi ngờ nhau, thường bỏ nhau vì mạ lỵ thậm tệ. Sao Cự chỉ ngôn ngữ bất cẩn, cãi vã, thị phi.
- Những bộ sao của Vũ Khúc: Vũ Sát: sự khắc kỵ gia đạo hết sức nặng nề, mang lại tai họa cho vợ chồng lúc sống chung, một sống một chết, nếu không cũng chia ly. Vũ Phá: chia ly xảy ra nếu sớm lập gia đình. Vì có Phá Quân, nên có thể hai lần tác hợp.
- Những bộ sao của Thái Dương, Thái Âm: Dương hãm địa hay Âm hãm địa: nếu muộn gia đình thì tránh được chia ly, duy vợ chồng hay bất hòa và trước khi lấy nhau thường gặp trắc trở. Cự Dương ở Thân: ý nghĩa như trên. Âm Dương đồng cung: nếu muộn gia đình thì có thể tránh được cảnh chia ly.
- Những bộ sao của Thiên Cơ: Cơ Cự: chia ly nếu sớm gia đạo. Sự hiện diện của Cự Môn thường bất lợi cho gia đạo, thường báo hiệu việc bất hòa, gây gổ, hai vợ, hai chồng. Cơ Nguyệt ở Dần: trắc trở trong việc cưới xin và nếu sớm lập gia đình dễ chia ly.
- Những bộ sao của Tham Lang: Tham ở Thìn, Tuất: sớm lập gia đình thì dễ chia ly. Vợ thì hay ghen tuông, chồng thì chơi bời. Tham ở Dần, Thân: vợ chồng dâm đãng, dễ bạc tình, dễ kết hợp nhau cũng dễ chia ly.
- Cự Môn ở Thìn, Tuất, Tỵ: phải trắc trở trước khi lập gia đình; bất hòa lúc sống chung; phải chia ly, 2 hoặc 3 lần lập gia đình.
- Những bộ sao của Thiên Tướng: Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi: sớm lập gia đình thì sẽ bất hòa và dễ chia ly. Đời sống vợ chồng rất cần sự nhịn nhục, vì Thiên Tướng chỉ nóng nảy và lấn át. Tướng ở Mão, Dậu: ý nghĩa tương tự. Lúc cưới nhau hay gặp cản trở.
- Những bộ sao của Thất Sát: Sát ở Thìn Tuất: phải vài lần lập gia đình, khó tránh được chia ly. Sát ở Tý Ngọ: nếu sớm gia đạo, dễ chia ly. Vợ chồng là con trưởng, cả hai rất ghen tuông.
- Những bộ sao của Phá Quân: Phá ở Thìn, Tuất: nếu sớm thành gia đạo thì chẳng những phải chia ly mà còn phải nhiều lần lập gia đình. Phá ở Dần, Thân: ý nghĩa càng nặng hơn; vợ chồng chắc chắn phải chia ly vì nguyên nhân ngoại tình. Phá Quân đắc địa ở Tý, Ngọ: vợ chồng tối thiểu cũng có lúc xa nhau rất lâu.
- Thiên Mã, Tuần, Triệt ở Phu Thê: Tuần Triệt ở Phu Thê chỉ sự bất hạnh lớn lao và liên tiếp, có tính cách lâu dài của đời sống vợ chồng, thậm chí có thể xem như không có vợ/chồng. Chẳng những Tuần, Triệt ở Phu Thê cho thấy sự dang dở mối tình đầu mà còn dang dở vài mối tình kế tiếp. Đời sống gia đạo không những triền miên bất hòa mà có thể đi tới gián đoạn vĩnh viễn. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của Thiên Mã càng xác nhận thêm sự ly cách giữa hai vợ chồng. Nếu Thiên Mã được thay bằng những sao Thiên Đồng, Đại Tiểu Hao cũng chỉ sự thay đổi, có lẽ ý nghĩa cũng tương tự.
- Địa Không, Địa Kiếp ở Phu Thê: vợ chồng xa nhau, cụ thể là bỏ nhau, chưa kể có thể một người phải chết. Nếu Không Kiếp đắc địa thì chỉ có thể đoán là tạm thời xa nhau, dưới hình thức ly thân hoặc là người sống một nơi kẻ ở một ngả, lâu lâu mới sum họp một lần hoặc là phải gặp ngang trái nặng trong tình duyên.
- Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: Quan Phủ, Quan Phù chỉ sự phản bội, sự thiếu chung thủy đồng thời cũng có nghĩa kiện tụng. Thái Tuế chỉ cả kiện cáo lẫn cãi vã, đồng thời cũng chỉ sự mất mát tình thương. Như vậy, bộ sao trên có thể báo hiệu cho sự xung đột giữa hai vợ chồng đưa đến tình trạng lôi nhau ra tòa phân xử, xin ly thân hay ly hôn. Nếu không có chuyện kiện nhau thì vẫn có chuyện âm thầm bỏ nhau, mỗi người một giang sơn, tự do của ai nấy giữ, không còn sự ràng buộc nào giữa hai người.
- Thiên Hình ở Phu Thê: vấn đề tòa án hầu như không tránh được nhất là khi Hình đi chung với một trong ba sao trên. Thiên Hình giúp xác nhận thêm sự ly hôn, ly thân một cách chính thức. Ngoài ra, Hình còn ngụ ý rằng hai vợ chồng có cãi vã đến nỗi đánh đập nhau hoặc người này hành hung người kia. Ngoài ra, Hình có nghĩa là tù ngục nên có thể có một người ở tù sau cơn ẩu đả. Nếu đi chung với Thái Tuế thì có "mạ lỵ thậm từ" và có đánh lộn gây thương tích nhưng chỉ Thiên Hình cũng đã quá đủ.
- Cô, Quả, Đẩu Quân ở Phu Thê: riêng 1 trong 3 sao này thật sự không đủ để minh chứng tình trạng ly cách. Nó cần phải đi chung với những sao kể trên. Riêng việc đơn thủ mà thôi thì Cô hay Quả hay Đẩu Quân chỉ sự cô đơn, cô độc dưới nhiều hình thái: hoặc có chồng/vợ vẫn ở chung với nhau mà bị cô đơn vì chồng/vợ không hiểu mình, không bệnh vực mình trước gia đình bên chồng hoặc có vợ/chồng ở chung nhau nhưng không có sự thắm thiết, hầu như mỗi người có ưu tư và nếp sống riêng rẽ, ít khi đồng thuận, không có chung thủy hoặc đối với nữ số, có thể vẫn là vợ chính thức nhưng vẫn bị bỏ rơi vì chồng có vợ lẽ, cả hai cũng vẫn không chia ly hoặc đối với nam số, có thể rơi vào tình trạng vợ lăng loàn, nhưng đành cam chịu vì sợ uy tín, xấu hổ hay sợ vợ ...
h. Trường hợp tử biệt: – cung Phu Thê có Tuần, Triệt riêng rẽ hoặc đồng cung trấn thủ, hội với sát tinh, có thể hội thêm với hình tinh, hao bại tinh, ám tinh; – cung Mệnh đương số có Cô, Quả, Đẩu Quân, Tang, Hổ; – số của hai vợ chồng đối khắc Bản Mệnh và một trong hai lá số rơi vào đặc điểm đầu tiên; – những bộ sao chỉ họa cho tính mệnh xuất hiện trong lá số của một người; – có những bộ sao chỉ tình trạng chia ly kể trên; – có những sao chỉ tình trạng hai đời vợ/đời chồng trong lá số. Việc có con 2 dòng chỉ yếu tố phụ đới, chỉ có giá trị quyết đoán khi gặp trường hợp đầu tiên.
i. Tình trạng án mạng trong gia đạo: – một trong hai lá số có những sao sát, nói lên sát nghiệp của người đó, trong khi lá số người kia có những bộ sao chết vì án mạng hoặc yểu. Trong cả hai trường hợp, đều thấy xuất hiện sát tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Kiếp Sát, Kình Dương, Đà La. Đôi khi có những sao như Phục Binh, Thiên Không, Tang Môn, Bạch Hổ. Sát tinh hầu hết bị hãm địa, nói lên nghiệp chướng. – cung Phu Thê của hai lá số đều gặp nhiều trường hợp bất lợi kể ở các đoạn nói về chia ly, tử biệt, họa cá nhân, họa ngục hình; – xét về nguyên nhân, án tình thường bắt nguồn từ sự phản bội của vợ/chồng. Vì vậy, trong số phải có những bộ sao phản bội, lăng loàn, ngoại tình, con dị bào ... – xét về hậu quả, án tình, nếu thủ phạm còn sống sót, thường hay đưa đến hình ngục, kiện cáo ... – xét về sự trùng phùng, cần quan tâm đến sự hội tụ của sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đồng cung hoặc xung chiếu với các sao tình duyên trong một đại hạn hay tiểu hạn nào đó; – sự đối khắc giữa hai Bản Mệnh trong trường hợp này nhất định phải có;
– cần lưu ý đến những sao nói lên cá tính của thủ phạm và nạn nhân. Thủ phạm phải là người tự ái, ghen tuông quá mức, nóng nảy, ích kỷ tột độ, có ác tâm, có sát nghiệp. Nạn nhân là người dâm đãng, trắng trợn, ngang tàng, mạo hiểm, thủ đoạn, dối trá, bê tha, đam mê ...
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Bóp tiền không những là một phụ kiện tôn thêm nét duyên dáng cho chị em mà còn là ngân khố mini riêng của mỗi người. Bóp tiền giúp giữ cho tiền bạc luôn thẳng thóm, dễ quản lí, và nếu lựa chọn bóp tiền phù hợp với mệnh của bổn chủ nhân thì lại càng khiến tiền bạc dễ dàng sinh sôi hơn, cứ vơi lại đầy. Cùng điểm qua một số màu sắc phổ biến của bóp tiền và ý nghĩa màu sắc đó mang lại nhé:

(Ảnh: Internet)
- Bóp tiền màu trắng: màu trắng là gam màu đơn sắc nhưng gần gũi và biểu hiện cho mệnh "kim" trong ngũ hành. Màu trắng mang tâm thế ổn định, tiền bạc để trong bóp không bị biến động nhiều, đồng thời rất có lợi cho chủ nhân làm các việc liên quan đến ngành tài chính.
- Bóp tiền màu đỏ: chúng ta thường quan niệm màu đỏ sẽ mang lại nhiều may mắn, nhưng trong phần giữ tài lộc, thì màu đỏ là mà được khuyến cáo không nên dùng. Nguyên do là màu đỏ là gam màu hiếu thắng, rất mạnh mẽ, bên cạnh may mắn thì nó cũng là gam màu của sự thâm hụt do chi tiêu phóng túng đấy.
- Bóp tiền màu xanh: trong ngũ hành, màu xanh tượng trưng cho "Thủy", vì vậy dùng bóp màu này chẳng khác nào tiền ra như nước, ảnh hưởng không hề nhỏ đến tài lộc của bạn.
- Bóp tiền nhiều màu: tùy theo vận mệnh của chủ nhân mà bóp tiền phối hợp nhiều màu có thể mang đến điềm xui hay may trong từng khoảng thời gian không cố định. Hạn chế những màu phối nghịch nhau như đỏ – trắng, xanh dương – đỏ....
(Ảnh: Internet)
- Bóp tiền màu đen: đây là màu sắc được ưa chuộng nhất trong việc lựa chọn bóp ví của mọi người. Màu đen thể hiện sự ổn định, hạn chế tiêu pha tiền bạc.
- Bóp tiền màu cà phê, nâu da bò: theo tương quan tương sinh trong ngũ hành thì "Thổ sinh Kim", tức là đất tạo ra vàng (tiền bạc). Mà màu nâu vàng chính là màu sắc đại diện cho Thổ, vì thế sử dụng bóp màu này rất hữu ích trong việc phát triển sinh sôi tiền tài, được nhiều người ưa chuộng.
Một vài lưu ý khác khi chọn bóp tiền để tiền dễ sinh sôi
Dự trữ tiền ra nhiều ngăn
Đừng dồn hết tiền vào một ngăn bóp mà nên chia ra ở nhiều ngăn. Điều này khiến lúc nào bóp tiền của bạn cũng còn một khoản dự trữ, khiến tiền tài không đi vào trạng thái cạn kiệt. Mặc khác, việc này còn khiến bạn cảm thấy an tâm hơn.
Chọn bóp hình dáng đơn giản
Tốt nhất nên chọn bóp ví dáng dài và hình dáng đơn giản để giữ cho tiền bạc lúc nào cũng thẳng thóm, thu hút tài lộc vào bóp nhiều hơn. Tránh các ví gấp, không gian quá nhỏ sẽ khiến tiền bạc bị tức, làm hạn chế thu hút vận tiền tài.
Vị trí đặt tủ lạnh có ảnh hưởng lớn đến phong thủy của ngôi nhà. Đây là yếu tố quan trọng mà mọi người thường không biết hoặc không để ý đến. Một trong những cách thức cần nghiên cứu về phong thủy cải mệnh.
Tủ lạnh thuộc Kim, người khuyết Kim cần đặt một chiếc tủ lạnh lớn trong nhà. Thông thường đại đa số các gia đình đều đặt tủ lạnh trong nhà bếp, nhà bếp là nơi Hỏa vượng, Hỏa khắc Kim, đặt tủ lạnh trong nhà bếp, kỳ thực đã tiết hao được tính Hỏa ở không gian này.

Một thành viên nào đó trong nhà cần Kim, nên đặt tủ lạnh vào vị trí phong thủy tương ứng với thành viên đó.
- Nếu nam chủ nhà cần Kim thì đặt tủ lạnh vào góc Tây Bắc của nhà bếp hoặc phòng khách,
- Nếu nữ chủ nhà cần Kim, đặt tủ lạnh vào hướng Tây Nam.
- Nếu con trai lớn cần Kim, đặt tủ lạnh ở hướng Đông.
- Nếu con gái lớn cần Kim, đặt tủ lạnh vào hướng Đông Nam.
- Nếu con trai thứ cần Kim, đặt vào hướng Bắc
- Nếu con gái thứ cần Kim, đặt vào hướng Nam.
- Nếu con trai út cần Kim, đặt tử lạnh hướng Đông Bắc.
- Nếu con gái gái út cần Kim, đặt vào hướng Tây.
Căn cứ vào nguyên lý phong thủy học trên có thể biết được nên đặt tủ lạnh vào vị trí nào trong nhà.
Ngoài việc đặt tủ lạnh trong nhà bếp ra, đặt thêm một chiếc tủ lạnh nữa trong phòng khách cũng là một việc làm cực Kim, người khuyết Kim có thể tăng cường hành vận, nhưng nếu là người kỵ Kim thì có thể vì thế mà chiêu gọi hung vận, người kỵ Kim cần xử lý một cách cẩn thận.
Có người đặt một chiêc tủ lạnh trong văn phòng công ty. Điều này cũng có thể mang lại may mắn.
Khi một người khuyết Kim, có thể chọn đặt tủ lạnh trong văn phòng. Ví dụ bản thân bạn cần Kim, Thủy, mà vận sự nghiệp không được tốt, có thể đặt thêm một chiếc tủ lạnh trong văn phòng bên trong trữ đầy nước, đá, bia, kem và sữa, như vậy là đã tăng cường cho mình được một kết cấu Kim - Thủy. Rượu thuộc Hỏa nhưng bia lại có xu hướng thuộc Kim - Thủy, các loại bia đến từ phương Tây như bia Pháp, bia Đức đặc biệt thuộc Kim. Người cần Kim - Thủy nên bố trí cho mình một kết cấu phong thủy tốt, đặt ở gần một chiếc tủ lạnh lớn, bên trong đặt đầy bia và thực phẩm đông lạnh.
Ngưòi kỵ Kim không nên đặt tủ lạnh gần mình. Có một vài phòng làm việc chọn một nơi kín đáo để đặt tủ lạnh. Rất có thể ngưòi lãnh đạo ở đó kỵ Kim!!!
Thông thường các phòng trong quán rượu hoặc các khách sạn có thể giấu tủ lạnh trong tủ gỗ. Đối với người kỵ Kim thì đây là một lựa chọn tốt.
Người cần Kim không được dùng tủ lạnh màu đỏ hoặc nóng
Tủ lạnh thuộc Kim, người cần Kim lựa chọn tủ lạnh màu trắng là tốt nhất. Mà người kỵ Kim có thể lựa chọn tủ lạnh màu mận hoặc tủ lạnh màu xanh.
Về màu sắc của tủ lạnh, màu trắng đương nhiên là cực Kim, tủ lạnh màu trắng khá phổ biến, Nhưng người kỵ Kim cũng không thể từ chối dùng tủ lạnh. Vì thế, tủ lạnh có sự xuất hiện những màu mận chín, màu xanh, những màu này được thiết kế dành cho người kỵ Kim.
Khi bạn chọn tủ lạnh, kỳ thực là một phép hành vận, khi cần Kim mà lại hành vận, bạn nên lựa chọn tủ lạnh màu trắng.
Kỳ thực tất cả mọi vật trong cuộc sống đều đang chờ sự lựa chọn của con người, vấn đề là bạn sẽ chọn các vật trợ vận hay các vật phá vận. Vì thế cần cân nhắc khi quyết định lựa chọn bất kỳ vật nào để đảm bảo phong thủy.
Có người mở tủ lạnh hằng ngày, sự thực là họ đã lựa chọn vận Kim mà không hay biết. Bạn có hay mở tủ lạnh không?

Hướng dẫn kiểm tra người cần hành Kim trong Tứ Trụ bằng tiện ích trực tuyến trên Xem Tướng chấm net
Bài viết phong thủy về vị trí đặt tủ lạnh trên khá quan trọng với những người cần Kim. Vậy làm sao để biết mình cần hành nào?
Bạn có thể sử dụng tiện ích trực tuyến Tra lá số Tứ Trụ, nhập thông tin giới tính nam hay nữ, nhập giờ sinh, ngày tháng năm sinh theo dương lịch và nhấn nút xem. Nhìn xuống đoạn cuối của mục Phân tích Tứ Trụ, bạn sẽ thấy dòng Dụng thần dự đoán của bạn là hành gì, Hỷ thần là hành gì. Nếu Dụng thần hoặc Hỷ thần là hành Kim, nghĩa là bạn là người cần Kim để giúp cân bằng ngũ hành trong Bát Tự của bạn.
Khi đã biết mình cần hành Kim thì căn cứ vào địa vị trong gia đình, nếu là nam chủ nhà thì đặt tủ lạnh ở góc Tây Bắc, nữ chủ nhà ở hướng Tây Nam. Nếu bạn là con trai cả trong gia đình mà cần Kim, nên đặt tủ lạnh hướng Đông, con gái cả thì hướng Đông Nam. Tương tự con trai thứ nếu cần Kim hãy đặt vào hướng Bắc, con gái thứ thì hướng Nam. Cuối cùng, con trai út tủ lạnh nên đặt ở hướng Đông Bắc, con gái út đặt theo hướng Tây của ngôi nhà.
Hiện nay có rất nhiều chủng loại tủ lạnh trên thị trường Việt Nam như tủ lạnh Sam Sung, tủ lạnh Toshiba, tủ lạnh Panasonic, tủ lạnh Hitachi, tủ lạnh Sanyo... với nhiều lựa chọn về chức năng và màu sắc khác nhau. Các hãng này đã nghiên cứu kỹ về văn hóa phong thủy châu Á nói chung và người Việt nói riêng nên đã cung cấp ra thị trường các màu sắc hợp phong thủy. Đơn cử là chiếc tủ lạnh màu mận của Sam Sung như trong hình trên dành cho những người kỵ Kim.
Dù đã trải qua nhiều mối tình hay thậm chí đã kết hôn song nhiều người vẫn không quên được mối tình đầu. Những rung động đầu đời thường trở thành kỉ niệm khó phai trong trái tim mỗi chúng ta. Mối tình đầu là bông hoa tình yêu đầu tiên nở rộ trong cuộc đời chúng ta. Những tình cảm buổi đầu ngây thơ, non nớt ấy tưởng chừng mong manh nhưng đối với rất nhiều người, đó lại là những kỉ niệm không thể nào quên. Nó không chỉ là 1 đoạn tình cảm vào những ngày tháng tươi đẹp nhất trong cuộc đời chúng ta, mà nó còn mãi mãi lưu giữ hương vị của tuổi thanh xuân.
Nhớ về mối tình đầu, ta như sống lại những ngày tháng trẻ trung hồn nhiên và tràn ngập ước mơ. Cả thế giới nằm trong tay ta, mọi thứ dường như lúc nào cũng tươi mới và xinh đẹp trong những con mắt mộng mơ.
“Mối tình đầu như bước chân trên cát. Bước nhẹ nhàng nhưng mãi mãi in sâu.” Chẳng thế mà nhiều người không quên được mối tình đầu. Họ đơn giản chỉ đem nó cất sâu trong ngăn kéo kí ức, thi thoảng mở ra để nhớ về quãng thời gian ấy, không cần phải truy cứu rằng mối tình đó là sai lầm hay bản thân ta đã sai khi để vụt mất qua tay.
Vậy trong số 12 cung hoàng đạo, chòm sao nào là người không quên được mối tình đầu? Ai là người sẽ đem mối tình đó khắc sâu trong trái tim mình, cả đời không thể nào quên? Hôm nay Lịch ngày tốt sẽ bật mí điều này cho các bạn nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
ân nhắc để có sự hài hòa về âm dương và ngoại cảnh, hợp lí với những đặc điểm của phong thủy nhà ở.
Việc xây nhà ống để các tầng xếp chồng lên nhau là không thể khác vì đó là đặc điểm của nhà ống. Điều này không hẳn là sai hay xấu nhưng không đạt được dẫn dắt trên – dưới về hình thể và trường khí. Theo quy luật của phong thủy, càng đi lên cao, tính dương càng tăng, tính âm càng giảm (ánh nắng và gió nhiều hơn) nên cần bổ sung âm dương cho hài hòa.




|
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Họ thường làm việc rất chăm chỉ, nhưng nhiều khi lại làm qua loa, đại khái. Vì vậy, lời khuyên dành cho những người này là nên tìm người có tính cẩn thận, biết suy nghĩ thấu đáo để hợp tác trong công việc.
Trong lĩnh vực kinh doanh, họ nên xem xét kỹ càng trước khi mạnh dạn đầu tư vào dự án nào đó. Vì chỉ cần bất cẩn một chút là họ sẽ bị thua lỗ lớn. Nếu người tuổi Hợi biết cách xử lý tình huống tốt và vượt qua được những thử thách thì nhất định họ sẽ trở nên giàu có.
Đến một lúc nào đó, họ sẽ có được một khoản thu dồi dào. Nếu muốn đầu tư cho việc kinh doanh thì lời khuyên dành cho họ là nên bỏ tiền vào lĩnh vực bất động sản hoặc chứng khoán.
Người tuổi Hợi có bản lĩnh, không ngại khó khăn gian khổ, luôn dũng cảm đương đầu với mọi thử thách, cám dỗ. Điều này giúp họ đạt được nhiều thành công khi theo trong sự nghiệp.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)
|
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định: tên gọi ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sự nghiệp sau này của đứa trẻ. Trong muôn vàn chuẩn bị khi đón bé chào đời, đừng quên nghĩ đến một cái tên.
Vừa lọt lòng mẹ, con đã được đặt cho một cái tên. Cái tên ấy theo con suốt cả cuộc đời. Tên có thể là niềm tự hào, hãnh diện, là nguồn động viên, nâng mỗi bước con đi. Nhưng cũng có người lại cảm thấy xấu hổ, tủi thân, thậm chí tức giận mỗi khi ai đó gọi tên mình, hoặc khi nghĩ đến người đã đặt tên cho mình.
Cái tên nói lên tính cách con người. Hay con người tự rèn luyện mình cho giống với cái tên mình?
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định: tên gọi ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sự nghiệp sau này của đứa trẻ. Trong muôn vàn chuẩn bị khi đón bé chào đời, đừng quên nghĩ đến một cái tên.

Những công chúa theo mẹ lên rừng
1. DIỆU ANH – Con gái khôn khéo của mẹ ơi, mọi người sẽ yêu mến con
2. QUỲNH ANH – Người con gái thông minh, duyên dáng như đóa quỳnh
3. TRÂM ANH – Con thuộc dòng dõi quyền quý, cao sang trong xã hội
4. NGUYỆT CÁT – Hạnh phúc cuộc đời con sẽ tròn đầy
5. TRÂN CHÂU – Con là chuỗi ngọc trai quý của bố mẹ
6. QUẾ CHI – Cành cây quế thơm và quý
7. TRÚC CHI – Cành trúc mảnh mai, duyên dáng
8. XUYẾN CHI – Hoa xuyến chi thanh mảnh, như cây trâm cài mái tóc xanh
9. THIÊN DI – Cánh chim trời đến từ phương Bắc
10. NGỌC DIỆP – Chiếc lá ngọc ngà và kiêu sa
11. NGHI DUNG – Dung nhan trang nhã và phúc hậu
12. LINH ĐAN – Con nai con nhỏ xinh của mẹ ơi
13. THỤC ĐOAN – Hãy là cô gái hiền hòa đoan trang
14. THU GIANG – Dòng sông mùa thu hiền hòa và dịu dàng
15. THIÊN HÀ – Con là cả vũ trụ đối với bố mẹ
16. HIẾU HẠNH – Hãy hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ, đức hạnh vẹn toàn
17. THÁI HÒA – Niềm ao ước đem lại thái bình cho muôn người
18. DẠ HƯƠNG – Loài hoa dịu dàng, khiêm tốn nở trong đêm
19. QUỲNH HƯƠNG – Con là nàng tiên nhỏ dịu dàng, e ấp
20. THIÊN HƯƠNG – Con gái xinh đẹp, quyến rũ như làn hương trời
21. ÁI KHANH – Người con gái được yêu thương
22. KIM KHÁNH – Con như tặng phẩm quý giá do vua ban
23.VÂN KHÁNH – Tiếng chuông mây ngân nga, thánh thót
24.HỒNG KHUÊ – Cánh cửa chốn khuê các của người con gái
25. MINH KHUÊ – Hãy là vì sao luôn tỏa sáng, con nhé
26. DIỄM KIỀU – Con đẹp lộng lẫy như một cô công chúa
27. CHI LAN – Hãy quý trọng tình bạn, nhé con
28. BẠCH LIÊN – Hãy là búp sen trắng toả hương thơm ngát
29. NGỌC LIÊN – Đoá sen bằng ngọc kiêu sang
30. MỘC MIÊN – Loài hoa quý, thanh cao, như danh tiết của người con gái
31. HÀ MI – Con có hàng lông mày đẹp như dòng sông uốn lượn
32. THƯƠNG NGA – Người con gái như loài chim quý dịu dàng, nhân từ
33. ĐẠI NGỌC – Viên ngọc lớn quý giá
34. THU NGUYỆT – Tỏa sáng như vầng trăng mùa thu
35. UYỂN NHÃ – Vẻ đẹp của con thanh tao, phong nhã
36. YẾN OANH – Hãy hồn nhiên như con chim nhỏ, líu lo hót suốt ngày
37. THỤC QUYÊN – Con là cô gái đẹp, hiền lành và đáng yêu
38. HẠNH SAN – Tiết hạnh của con thắm đỏ như son
39. THANH TÂM – Mong trái tim con luôn trong sáng
40. TÚ TÂM – Ba mẹ mong con trở thành người có tấm lòng nhân hậu
41. SONG THƯ – Hãy là tiểu thư tài sắc vẹn toàn của cha mẹ
42. CÁT TƯỜNG – Con là niềm vui, là điềm lành cho bố mẹ
43. LÂM TUYỀN – Cuốc đời con thanh tao, tĩnh mịch như rừng cây, suối nước
44. HƯƠNG THẢO – Một loại cỏ thơm dịu dàng, mềm mại
45. DẠ THI – Vần thơ đêm
46. ANH THƯ – Mong lớn lên, con sẽ là một nữ anh hùng
47. ĐOAN TRANG – Con hãy là một cô gái nết na, thùy mị
48. PHƯỢNG VŨ – Điệu múa của chim phượng hoàng
49. TỊNH YÊN – Cuộc đời con luôn bình yên thanh thản
50. HẢI YẾN – Con chim biển dũng cảm vượt qua phong ba, bão táp.
Những chàng trai theo cha xuống biển
1. THIÊN ÂN – Con là ân huệ từ trời cao
2. GIA BẢO – Của để dành của bố mẹ đấy
3. THÀNH CÔNG – Mong con luôn đạt được mục đích
4. TRUNG DŨNG – Con là chàng trai dũng cảm và trung thành
5. THÁI DƯƠNG – Vầng mặt trời của bố mẹ
6. HẢI ĐĂNG – Con là ngọn đèn sáng giữa biển đêm
7. THÀNH ĐẠT – Mong con làm nên sự nghiệp
8. THÔNG ĐẠT – Hãy là người sáng suốt, hiểu biết mọi việc đời
9. PHÚC ĐIỀN – Mong con luôn làm điều thiện
10. TÀI ĐỨC – Hãy là 1 chàng trai tài dức vẹn toàn
11. MẠNH HÙNG – Người đàn ông vạm vỡ
12. CHẤN HƯNG – Con ở đâu, nơi đó sẽ thịnh vượng hơn
13. BẢO KHÁNH – Con là chiếc chuông quý giá
14. KHANG KIỆN – Ba mẹ mong con sống bình yên và khoẻ mạnh
15. ĐĂNG KHOA – Con hãy thi đỗ trong mọi kỳ thi nhé
16. TUẤN KIỆT – Mong con trở thành người xuất chúng trong thiên hạ
17. THANH LIÊM – Con hãy sống trong sạch
18. HIỀN MINH – Mong con là người tài đức và sáng suốt
19. THIỆN NGÔN – Hãy nói những lời chân thật nhé con
20. THỤ NHÂN – Trồng người
21. MINH NHẬT – Con hãy là một mặt trời
22. NHÂN NGHĨA – Hãy biết yêu thương người khác nhé con
23. TRỌNG NGHĨA – Hãy quý trọng chữ nghĩa trong đời
24. TRUNG NGHĨA – Hai đức tính mà ba mẹ luôn mong con hãy giữ lấy
25. KHÔI NGUYÊN – Mong con luôn đỗ đầu
26. HẠO NHIÊN – Hãy sống ngay thẳng, chính trực
27. PHƯƠNG PHI – Con hãy trở thành người khoẻ mạnh, hào hiệp
28. THANH PHONG – Hãy là ngọn gió mát con nhé
29. HỮU PHƯỚC – Mong đường đời con phẳng lặng, nhiều may mắn
30. MINH QUÂN – Con sẽ luôn anh minh và công bằng
31. ĐÔNG QUÂN – Con là vị thần của mặt trời, của mùa xuân
32. SƠN QUÂN – Vị minh quân của núi rừng
33. TÙNG QUÂN – Con sẽ luôn là chỗ dựa của mọi người
34. ÁI QUỐC – Hãy yêu đất nước mình
35. THÁI SƠN – Con mạnh mẽ, vĩ đại như ngọn núi cao
36. TRƯỜNG SƠN – Con là dải núi hùng vĩ, trường thành của đất nước
37. THIỆN TÂM – Dù cuộc đời có thế nào đi nữa, mong con hãy giữ một tấm lòng trong sáng
38. THẠCH TÙNG – Hãy sống vững chãi như cây thông đá
39. AN TƯỜNG – Con sẽ sống an nhàn, vui sướng
40. ANH THÁI – Cuộc đời con sẽ bình yên, an nhàn
41. THANH THẾ – Con sẽ có uy tín, thế lực và tiếng tăm
42. CHIẾN THẮNG – Con sẽ luôn tranh đấu và giành chiến thắng
43. TOÀN THẮNG – Con sẽ đạt được mục đích trong cuộc sống
44. MINH TRIẾT – Mong con hãy biết nhìn xa trông rộng, sáng suốt, hiểu biết thời thế
45. ĐÌNH TRUNG – Con là điểm tựa của bố mẹ
46. KIẾN VĂN – Con là người có học thức và kinh nghiệm
47. NHÂN VĂN – Hãy học để trở thành người có học thức, chữ nghĩa
48. KHÔI VĨ – Con là chàng trai đẹp và mạnh mẽ
49. QUANG VINH – Cuộc đời của con sẽ rực rỡ, vẻ vang
50. UY VŨ – Con có sức mạnh và uy tín.
Về cuốn Thần Khê Định Số, tôi đã sử dụng cả phương pháp hối lộ và biên pháp mạnh mới có, và cũng có chút gian manh và một chút duyên cơ nữa. Hồi đó là năm 1925, tuổi tôi mới 14 và tôi thường chép những lá số cho chú tôi là thầy bói Lợn.
Chú tôi có đưa con là Khang, lúc đó nó 12 tuổi. Chúng tôi cùng học tại trường Tuấn Di tại xã sở tại. Do lệnh của cha tôi, tôi thường ra cửa hàng chú bói Lợn viết lá số viết lá số kiếm thêm tiền. Tiền công chép một lá số với lời giải đoán, bằng một tập vở là 10 xu, nhưng 10 xu khi ấy đủ ăn quà sáng 10 ngày. Dĩ nhiên tôi không thích lắm, vì tuổi trẻ là tuổi đánh bi, đánh đáo, bắt chuột đồng, câu cá, chứ không phải ngồi còm cọm viết số tử vi.
cũng không phải là tôi đã nghĩ tới bói toán và số tử vi, để đi tìm những cuốn như Thần Khê Định Số. Cho nên phải nghĩ là có duyên may. Nguyên do là bên cạnh nhà chú tôi, có ông Khóa Soạn, bán thuốc bắc.
Ông Khóa Soạn thèm cuốn Thần Khê Định Số
Ông Khóa Soạn ở sát vách nhà cụ bói Lợn. Ông thường sang bên nhà cụ bói Lợn nhắm rượu.
Nhiều khi, lúc trưa, cụ bói Lợn gọi vọng sang bên cạnh:
_Cụ Soạn ơi! Ngọ rồi, sang đây đưa cay
Ông Soạn sang uống rượu với vài hạt đậu phộng. Cụ bói lợn cười khà khà, khịt mũi và chề môi như cái mỏ vịt ngáp khi trời nắng gắt.
Tôi đã thầm nghĩ: "Cụ này cũng hiểm ra phết". Và không cần phải học bói, tôi cũng đoán được thế nào cụ Lợn cũng sắp sửa nhờ ông Khóa Soạn vừa nhai, vừa đọc các sách bói số để cụ Lợn nghe bao nhiêu điều trong sách.
Là một điều, là các sách dạy bói số, ông Soạn mượn về nhà để đọc, cụ Lợn cho mượn ngay, không cần ông Soạn phải hỏi tới hai câu. Duy có một cuốn ông Khóa Soạn hỏi mượn là không được, có những lần ông Khóa Soạn bỏ tiền mua rượu, đậu phộng, bánh da, cả bún chả, để thiết cụ Lợn và trong bữa rượu, các cụ nói chuyện thành hiền, chuyện bè bạn đối xử với nhau, tương thân, tương trợ đúng vẻ nho gia... Để rồi ông Soạn cất tiếng hỏi mượn xem cuốn sách kia, là rồi cụ lợn cũng chẳng còn tình bạn hay tánh thánh hiền nào, cụ Lợn từ chối phách.
Cuốn sách đặc biệt đó là cuốn Thần Khê Định số.
Cụ Lợn giải thích:
_Cụ thầy tôi đã trao phó cho tôi cuốn sách, trước khi cụ từ trần, cụ đã dặn tôi rằng cuốn Thần Khê Định Số đó là sách đắc truyền do chính Thần Khê Bảng Nhãn Lê Qúy Đôn biên khảo, cụ thầy tôi bảo phải giữ như của gia bảo, không thể cho ai biết.
Cụ Lợn lại nói thêm:
_Cụ thầy tôi là cụ Các, đã dặn kỹ: "chỉ vì các con của tôi không đủ tài sử dụng nên mới trao sách cho trò".
Và cụ Lợn nói một câu giải thích thêm nữa rằng phải khổ công và tốn nhiều tiền biếu tôn sư rồi mới được cuốn sách.
Ông Soạn đành chịu.
Ông Soạn cố đoạt sách
Một bữa, đi qua nhà, tôi thấy ông Soạn nháy mắt và máy tôi vào nhà, ông Soạn đưa tôi vào mãi trong cùng vách rồi ghé tai tôi mà bảo:
_Anh Quang cùng học với thằng Khang phải không?
_Vâng!
_Nghe thằng Khang nói chuyện, nó sợ anh lắm phải không? Vì anh làm trùm ở trường...
Tôi hơi ngượng, vì quả có làm trùm ở trường thật.
Ông soạn móc túi đưa tôi đồng ván 20 xu và bảo:
_Tôi đưa anh tí tiền ăn quà, anh làm thế nào để cho thằng Khang lấy cuốn sách Thần Khê Định Số cho tôi mượn. Tôi sẽ thưởng anh một đồng.
Tôi giúp cụ Soạn ngay. Nhưng mất 10 xu cho thằng Khang cả 5 ngày mà không được, tôi đã định "thụi" nó thì nó nói:
_Để bữa nào thầy tớ say rượu, tớ sẽ lục tráp lấy sách cho mượn. Nhưng anh mượn sách để làm gì.
_Thì tao muốn biết xem sách đó có phải là sách bói gia truyền không?
Ông Soạn tốn thêm 2 đồng nữa để tôi đút lót cho thằng Khang, cuối cùng tôi nắm được cuốn Thần Khê Định Số trong tay, ông Soạn đọc để tôi chép ra quốc ngữ. Tôi ma lanh, viết tháu cho khó đọc và để lấy cớ về nha chép lại, để chép thêm bản nữa cho tôi. Thấy người lớn quý báu sách, tôi cũng a dua, chứ chẳng có mục đích gì cả.
Cụ Khóa Soạn có kể cho tôi nghe về lai lịch cuốn Thần Khê Định Số.
Theo cụ, cuốn Thần Khê Định Số hoàn tất sau cuốn Phú Ma Thị, do chính tay cụ Lê Qúy Đôn tìm hiểu ở cuốn Trần Đoàn đẩu số, công với các kinh nghiệm riêng mà viết thành. Cụ Lê Qúy Đôn viết nên bộ Phú khi tuổi đã lớn, nên sách để lại cho gia đình, không truyền bá ra ngoài.
Sau khi thi đậu liền Tam Nguyên Đại Khoa, cụ Đôn tỏ ra mình có tài mọi bộ môn, nên học đủ thứ. Cụ học và chiêm nghiệm tử vi. thời đó, chúa Trịnh đã phải phán câu "Thiên hạ vô tri, vấn bảng Đôn" nghĩa là "ai có điều gì không biết hỏi cụ Bảng nhân Lê Qúy Đôn" để ca tụng cụ Bảng, và luôn luôn Lê Qúy Đôn đi đâu cũng tiền hô hậu ủng, kèm chiếc bảng đề năm chữ "vô chi vấn bảng Đôn", đủ tỏ ra ông ta kiêu ngạo tới chừng nào.
Một bữa, ông Lê Qúy Đôn đi kinh lý. Bỗng có cụ già quần nâu áo vải, đứng chắn ngang giữa đường. Toán tiền quân chặn hỏi "cụ kia có việc gì kêu cầu đến quan thượng?" cụ già râu tóc bạc trắng, tuy quần áo lam lũ, nhưng vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt. Cụ nói:
_Lão có việc cần xin hỏi quan Bảng Nhãn.
Bảng Đôn ngồi kiệu đi tới, dõng dạc hỏi:
_Lão có điều chi muốn hỏi?
_Lão tứ cố vô thân ở Tổng có nhà phú hộ ra vế câu đối. Lão muốn nhờ quan Bảng đối cho vì lão đối không được. Quan Bảng có tấm biển "vô chi vấn bảng Đôn" tất là phải biết.
_Câu đối ra như thế nào?
Ông cụ đọc:
_Ba ba mà nấu nồi ba, tam tam như cửu hỏi là chín chưa?
Câu đối ra khá hóc búa và gồm những cuộc chơi chữ Nôm và chữ Hán độc đáo, con ba ba, nồi ba, ba lần ba là chín, chín lại nghĩa là nấu chín.
Bảng Đôn không đối được, bấm ngay quẻ độn. Quẻ độn chỉ ông già là vị Tiên ở núi Tản Viên hiện lên để cảnh cáo cái tánh kiêu ngạo của mình. Bảng Đôn toát mồ hôi, truyền dẹp tấm bảng, tạ lỗi với ông cụ, và từ đó chuyên tâm tìm hiểu về số mạng để tự an ủi về chỗ tài cao mà đỗ thấp của mình (không được đậu Trạng Nguyên).
Sự chuyên tâm của cụ Bảng Đôn còn nhắm vào chỗ giải quyết những cái khó khăn trong việc đoán số, những cái tưởng như phi lý, làm cho khoa tử vi mất đi sự chính xác. Như khi hai người sanh cùng giờ, một người giàu sang, một người nghèo hèn, là tại sao, và làm thế nào đoán cho chính xác được? cụ Bảng Đôn đã tìm hiểu tất cả. Và công trình tìm hiểu của cụ được tập chung lại trong bộ Định Khê Thần Số.
Chúng tôi sẽ thành tâm trình bày những câu phú chính trong Thần Khê Định Số để trình bày với quý bạn đọc, và những câu chuyện liên quan chứng minh rằng Phú Thần Khê Định Số đoán cho chính xác hơn.
| ► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật |
![]() |
1. Cửa phòng ngủ kiêng đối diện cửa phòng tắm/nhà vệ sinh
Phòng ngủ có cửa phòng đối diện cửa phòng tắm/nhà vệ sinh sẽ gây ra các bệnh về xương khớp, cơ bắp và cũng khiến tiền bạc bị thất thoát. Phòng tắm/nhà vệ sinh là nơi ẩm ướt, thường lưu lại mùi hôi khó chịu. Vì thế, bạn sẽ hấp thụ phải nguồn năng lượng tiêu cực. Do vậy tuyệt đối tránh bài trí cửa phòng ngủ đối diện với phòng tắm nhà vệ sinh
2. Giường ngủ kỵ đối diện cửa phòng Xem boi giường ngủ đối diện cửa phòng sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của nhiều bộ phận trên cơ thể. Tùy thuộc cánh cửa đối diện với từng phần cơ thể khi nằm ngủ trên giường sẽ có hậu quả khác nhau, cụ thể:
– Nếu cửa phòng đối diện với phần đầu sẽ gây ra bệnh đau đầu, đau nửa đầu.
– Nếu cửa phòng đối diện với phần thân sẽ gây ra bệnh đau dạ dày và các bệnh liên quan đến khoang bụng.
– Nếu cửa phòng đối diện với phần chân sẽ gây ra các bệnh liên quan đến chân.
3. Cửa phòng tắm/nhà vệ sinh đối diện giường ngủ Cửa phòng tắm/nhà vệ sinh đối diện giường ngủ còn xấu hơn so với trường hợp cửa phòng ngủ đối diện cửa phòng tắm/nhà vệ sinh. Nó sẽ gây ra chứng đau đầu nghiêm trọng, làm giảm sự tập trung, giảm khả năng suy nghĩ cho chủ nhân căn phòng.
Nếu vấn đề rắc rối này không được giải quyết trong một thời gian dài, nó có thể dẫn đến bệnh ung thư và nhiều loại bệnh tật khác. Do đó, bạn cần thay đổi cách bố trí nội thất trong phòng ngủ, đặc biệt là vị trí kê giường ngủ càng nhanh càng tốt.
4. Gương soi đối diện giường ngủ Nằm ngủ đối diện với gương sẽ làm bạn dễ rơi vào trạng thái mê man, ngủ không sâu, khó tập trung suy nghĩ về mọi chuyện. Tốt nhất chỉ nên bố trí gương ở hai bên đầu giường ngủ, cố gắng không để gương trong phòng ngủ.
5. Thanh xà nhà phía trên giường ngủ Nằm ngủ ở vị trí bên dưới các thanh xà nhà luôn làm bạn cảm thấy bị áp lực đè nặng. Nó có thể gây ra chứng mất ngủ, thiếu ngủ và đau đầu triển miên.
6. Giường ngủ đối diện với góc nhọn Tình huống này có thể gây chóng mặt, đau đầu và các triệu chứng bệnh không thể phát hiện.
Giải pháp: Trong trường hợp 1 góc tường nhô ra, hoặc 1 góc nhọn của đồ nội thất không thể di chuyển được “chĩa” thẳng vào giường ngủ, bạn cố gắng làm mềm các góc nhọn và năng lượng hung hãn bằng cách phủ vải bên ngoài.
7. Giường ngủ nằm dưới cầu thang Vị trí giường ngủ này cực kỳ xấu, nó sẽ khiến người nằm trên giường dễ mơ ác mộng và không may mắn.
Giải pháp: Cách tốt nhất và dễ dàng nhất là chuyển giường ngủ đến một vị trí mới tốt hơn, thay vì di chuyển cầu thang.
8. Phần đầu đối diện bức tường phía sau bồn cầu Trường hợp này sẽ làm cho bạn phải chịu đựng bệnh đau đầu triền miên, rối loạn ý thức hệ và tâm trí thì rất khó tập trung.
Giải pháp: Di chuyển giường ngủ đến vị trí khác tốt hơn trong phòng. Tuy nhiên, bạn phải luôn lưu tâm đến các lưu ýphong thủy với từng vị trí cụ thể.
9. Phần đầu đối diện bức tường phía sau bàn thờ Đây là một trong những vị trí kê giường tối kỵ mà bạn cần phải tránh.
Giải pháp: Di chuyển một trong hai vị trí của giường ngủ hoặc bàn thờ để thoát khỏi những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
10. Đầu giường không có điểm tựa vững chắc Một số người thích xoay chéo giường ngủ để tạo nên bầu không khí lãng mạn hoặc để tránh các thanh xà nhà trên cao, nhưng luôn luôn nhớ rằng, đầu giường cần phải được tựa vào một bức tường bằng phẳng, vững chắc. Nếu không, nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của giấc ngủ.
11. Đặt TV, hệ thống âm thanh, điện thoại phía trước giường ngủ Phòng ngủ là nơi để nghỉ ngơi và hồi phục năng lượng cho ngày mới. Nếu đặt TV trong phòng ngủ, bạn có xu hướng xem các chương trình từ 1 – 2 tiếng cho đến khi cảm thấy buồn ngủ. Việc này sẽ rút ngắn số giờ ngủ xuống và ảnh hưởng đến năng lượng dành cho ngày hôm sau của bạn. Thời gian xem TV càng kéo dài càng ảnh hưởng đến sức khỏe và sự nghiệp.
Trong khi đó, điện thoại di động vẫn phát ra bức xạ ngay cả khi để ở chế độ chờ (stand by). Vì thế, bạn không nên đặt điện thoại di động bên cạnh người khi ngủ.
12. Lắp điều hòa nhiệt độ ngay trên đầu giường Nếu điều hòa nhiệt độ được lắp ngay trên đầu giường, không khí lạnh sẽ thổi trực tiếp lên cơ thể bạn. Đặc biệt trong lúc ngủ, lỗ chân lông có xu hướng hơi mở ra nên rất dễ bị các bệnh như cảm lạnh, cứng cơ và đau đầu.
13. Giường ngủ nằm phía trên/bên dưới bếp nấu hoặc phòng tắm/nhà vệ sinh Nếu giường ngủ của bạn đang nằm phía trên hoặc bên dưới bếp nấu hoặc phòng tắm/nhà vệ sinh thì chức năng của gan sẽ bị ảnh hưởng. Bởi vì vị trí này làm tăng yếu tố lửa.
Ngoài ra, phòng tắm/nhà vệ sinh là nơi tích tụ vô số vi khuẩn, bụi bẩn… nên sẽ gây ra rất nhiều vấn đề sức khỏe.
14. Sử dụng vật trang trí cầu kỳ trên trần nhà
Giữ cho trần nhà đơn giản nhất có thể luôn là lựa chọn hoàn hảo, thậm chí là không có gì tốt hơn. Nhiều năm trước, mọi người thích trang trí trần nhà với gương hoặc một vài chi tiết nghệ thuật. Thế nhưng, nó sẽ gây khó ngủ và về lâu dài có thể sinh ra nhiều vấn đề sức khỏe.
Chùa Túy Vân hay còn gọi là chùa Thánh Duyên. Chùa nằm cách thành phố Huế chừng 40km về phía Đông, dừng chân ở đoạn cuối xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc bạn sẽ thấy một ngọn núi nhỏ đứng sừng sững giữa bốn bề sóng nước của phá Tam Giang và biển Đông. Đó chính là núi Túy Vân, trên đỉnh núi là ngôi chùa Tháp có lịch sử hàng trăm năm tuổi.
Tuý Vân là một ngọn núi nhỏ gần cửa Tư Hiền, nổi lên giữa một hòn đảo xanh, hùng vĩ, ngày xưa có tên gọi là Mỹ Am Sơn. Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) trong một lần đi qua đây, thấy phong cảnh thơ mộng, hữu tình, bèn lập một ngôi chùa nhỏ làm nơi cầu phúc cho dân địa phương. Đến đời vua Minh Mạng, chùa được xây dựng lại và đổi tên là chùa Tuý Ba. Năm vua Minh Mạng thứ 17 (1837), chùa được trùng tu và xây dựng thêm lầu.
Đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), chùa được tiếp tục trùng tu và đổi tên là chùa Tuý Vân. Vua Thiệu Trị liệt Tuý Vân vào thắng cảnh của đất thần trong bài thơ “Vân Sơn thắng tích” và cho khắc bia đá dựng bên chùa đặt tên “Linh Thái, Tuý Vân hệ nhị quốc gia chi thắng cảnh” (Linh Thái, Tuý Vân đều là thắng cảnh của quốc gia).
Trải qua thời gian, chùa Túy Vân đã xuống cấp, điêu tàn đổ nát nhưng vẫn giữ được nét cổ kính của một ngôi chùa có lịch sử hàng trăm năm. Đây là ngôi chùa có phong cảnh độc nhất vô nhị trong các chùa tại Huế với hàng trăm gốc cây cổ thụ, bao quanh chùa là hệ thống rừng nguyên sinh với những gốc cây có đường kính hai ba người ôm không xuể, dây leo chằng chịt.
, giữa hoa và tiếng chim muông như đang lạc vào khu rừng nguyên sinh.
Con đường nhỏ hàng trăm bậc thang dẫn bước lạc giữa hàng cây cổ thụ, lá rừng trút giữa lối đi khiến người viếng chùa có cảm giác khác hẳn với những ngôi chùa khác.
Thú vị nhất là được leo lên đỉnh ngọn tháp ba tầng gọi là Điếu Tháp Ngư, từ đây đưa tầm mắt hướng ra xa có thể quan sát hết toàn cảnh của huyện Phú Lộc, nhìn sự hùng vĩ mênh mông của phá Tam Giang, cảnh cá Tư Hiền và biển Đông. Chiều về, tàu thuyền từ ngoài phá lùa ghé mũi vào nhau tạo nên một bức tranh như sắp đặt tuyệt đẹp.
Giữa lưng chừng núi là chùa chính, dưới chân núi còn có ngôi Chùa Lớn làm chỗ ở cho chư tăng, trước và sau chùa có nhiều cây lá sum suê.
Từ núi Tuý Vân nhìn phía đông khoảng 700m có núi Linh Thái, còn gọi là Quy Sơn hay Núi Rùa. Một lần, chúa Nguyễn Phúc Tần đến đây, thấy ở đỉnh núi có ngôi tháp Chàm được người dân địa phương cho biết rất linh, bèn cho dời ngôi tháp đi nơi khác rồi lập chùa thờ Phật với tên gọi Vĩnh Hoà.
Túy Vân Sơn đã được xếp vào thắng cảnh quốc gia. Từ chân núi Tuý Vân sang bãi biển đá dưới chân Núi Rùa chỉ mất chừng 10 phút. Ở đây, các quần thể đá to nhỏ chồng xếp lên nhau tạo ra những hốc động thật kỳ thú. Từng mảng sóng bạc đầu dội vào hốc đá vút lên cao mù mịt liên hồi. Tiếng sóng, gió biển hoà với tiếng reo của lá cây tạo nên một sự cộng hưởng của âm thanh hoang dã. Trên một dải cát hẹp của bờ biển, các quần thể đá hình như những con rùa là nơi tập trung nhiều loại vỏ hải sản tấp vào bờ, tạo dáng như một hòn non bộ rất bắt mắt. Du khách đến đây sẽ thích thú khi đi dạo quanh núi rừng và theo con đường ven biển rợp bóng dương, đọc sách, bơi, ăn đồ biển và ngủ trên cát. Những người thích mạo hiểm hơn thì băng qua những tảng đá và chiêm ngưỡng từng đợt sóng để đứng trên tảng đá cao ngất ngưởng giữa không gian bao la.

Các nhà xem bói tướng thuật lấy tỷ lệ Tam đình toàn thân cân xứng làm tiền đề, cho rằng đầu nên cao và tròn, đoan chính mới là tướng đầu phú quý. Thường thì xương đầu nhô lên, tròn trịa là tốt. Da đầu cần dày, trán nên vuông, đặc biệt là xương đầu khá ngắn thì nên dày, trán hơi dài thì nên vuông. Đính trán nhô lên hoặc trên đâu có góc cạnh đều báo hiệu cả đời phú quý.
Trán lõm xuống chủ về đoản mệnh. Da đầu, trán mỏng thì cả đời cùng khốn, gian nan. Tóc thưa, da mặt mỏng căng, đầu nhỏ mà cổ dài, đầu cong như rắn đều là tướng bần tiện, không tốt. Ngoài ra, không nên lắc lư đầu, khi ngồi không nên cúi đầu, bởi vì đây không phải tướng tốt.
Trong xem bói tướng thuật cũng so sánh đầu người và động vật để đoán vận mệnh. Có sách chép: “Đầu vuông như đầu trâu thì giàu có. Đầu hổ hàm én thì phúc lộc tự đến. Đầu voi cao rông thì phúc lôc lâu dài. Đầu tròn thô như hổ thì phú quý có thừa. Đầu con chương (giông con hươu) mắt chuột thì đừng cầu phúc lộc. Đầu rắn dẹt mỏng thì của cải ít”. Cũng chính là nói, đầu người giống đầu trâu, hổ, voi không giàu thì sang quý, còn đầu con chương, con rắn không phải tướng tốt.
Bạn thường nghe nói tới môi chúm chím hình trái tim hay môi phú quý,... Vậy tướng môi như thế nào là đẹp. Môi chẻ là đẹp hay xấu? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn những đặc trưng của môi.

Miệng phú quý là những người có các đặc điểm như sau:
Miệng ngay ngắn môi không quá dầy cũng không quá mỏng, đầu lưỡi có vạch dọc hoặc đầu lưỡi vuông, khỏe miệng ngang hoặc hướng lên trên là tướng giàu.
Miêng lúc ngậm thì nhỏ nhắn nhưng lăng, giác phân minh. Lúc há ra thì lớn, hình thể cân đối, dầy mỏng thích nghi là tướng miệng của người đại quý hiển trong xã hội.
Miệng rộng, không thiên lệch, lưỡi mỏng có thể uống cong là tướng của người thích sống được phóng túng, tuy không giàu có nhưng cũng đủ ăn mặc.
Miệng ngay ngắn, không túm lại, có màu hồng tươi như hoa sen hoặc đỏ sẫm như son, hình miệng chữ tứ, hay còn gọi là miệng trâu là người phú quý, không sợ đói nghèo.
Môi dày: Độ dày của môi được đo bằng với ngón tay trỏ. Nếu như người môi dày tức là từ vạch ngang của miệng tới phần môi dưới lớn hơn ngón trỏ thì được gọi là môi dưới dày.
Môi trên biểu thị cho tiềm thức liên quan đến việc ái tình và hữu nghị. Còn môi dưới biểu thị cho việc thực hiện các tiềm năng trên.
Những người có môi dưới dày hơn môi trên thường là người có tính nết giảo hoạt, cố chấp và khó để người khác tin tưởng. Không những thế, với người có môi dưới dày, khi yêu thường mù quáng, tin vào đối phương mãnh liệt, nên dễ bị tổn thương.
Người này thường khá tinh tế, biết quan tâm người khác, luôn nghĩ đến cảm nhận riêng của mỗi người. Ngoài ra, nếu môi trên dày hơn môi dưới còn thể hiện rằng người có tài sản khó vững bền.
Người có môi mỏng thường là người điểm tĩnh, luôn hành động theo lí trí trong chuyện tình cảm cũng như công việc.
Những người môi dày lại là người dễ rung động. Họ thường sống thiên về tình cảm, trong tình yêu khá quyết đoán và can đảm.
Ngoài ra, với nhiều người còn thắc mắc môi chẻ là đẹp hay xấu. Môi chẻ là ở giữa môi có rãnh sâu, thẳng theo chiều từ nhân trung xuống. Với nhiều người, đó là hình dạng đôi môi đẹp, gợi cảm. Nhất là phụ nữ có môi chẻ thì lại càng quyến rũ.

Trong ca dao Việt Nam có câu: Những người mắt trắng, môi thâm, trai thì xảo quyệt cáo thì điêu ngoa.
Từ câu ca dao đó chúng ta cũng đoán được tướng số của những người có đặc điểm mắt trắng, môi thâm.
Những người mắt trắng là một phép ẩn dụ chỉ những người có phần tròng trắng nhiền hơn tròng đen, hoặc tròng đen rất nhỏ nên khi nhìn đối diện chủ yếu chỉ thấy phần tròng trắng nổi bật. Những người có cặp mắt như thế thường là dạng người tiểu nhân, tốt nhất là tránh xa họ để tránh những phiến phức, tai vạ đến với mình.
Môi thâm thường là ý chỉ những người có màu môi thâm, màu chì. Về sức khỏe, đây là dấu hiệu của những người bị bệnh tim, do máu không được tuần hoàn đưa tới các mô. Cũng có thể do chế độ sinh hoạt của người đó, thường hay hút thuộc lá,...
Những với những người môi thâm tự nhiên có thể là do di truyền thì thường là những người tiêu nhân, có vận khí không tốt, phúc khí cho chồng con kém.
Với những quan niệm như vậy thì người người phụ nữ môi thâm, hay đàn ông môi thâm chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những quan niệm đó.
Bài viết liên quan:
+ Tổng quan về tướng mũi của mỗi người
+ Cẳm chẻ đẹp hay xấu, cằm chẻ có ý nghĩa gì?
+ Hình dáng đôi mắt nói gì về con người bạn. + Xem bói nốt ruồi ảnh hưởng đến tướng mệnh của bạn+ Xem bói chỉ tay đoán vận mện
Tìm kiếm liên quan: môi như thế nào là đẹp, môi dưới dày, môi chẻ đẹp hay xấu, môi thâm là người như thế nào, đàn ông môi thâm, mắt trắng môi thâm là người như thế nào
Phong thủy một căn nhà tốt hay xấu do nhiều yếu tố cấu thành, trong đó hướng nhà là yếu tố khá quan trọng. Nếu hướng nhà không hợp với tuổi gia chủ thì sẽ gây nhiều ảnh hưởng đến người sống trong nhà. Vậy,cách hóa giải hướng nhà xấu theo phong thủy không hợp gia chủ là gì? Về mặt lý thuyết, ngôi nhà/cửa ra vào quay mặt về hướng phong thủy hợp với tuổi của gia chủ là tốt nhất, vì đây là nơi đón được nguồn năng lượng tốt nhất vào nhà. Nếu lỡ hướng nhà và tuổi không hợp nhau, có thể tham khảo những cách hóa giải hướng nhà xấu theo phong thủy sau đây.
![]() |
![]() |
![]() |