Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những nốt ruồi trên mặt đàn ông không có chí tiến thủ

Những nốt ruồi trên mặt đàn ông không có chí tiến thủ là ở giữa hai mắt, đuôi mắt trái, đuôi mắt phải...
Những nốt ruồi trên mặt đàn ông không có chí tiến thủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nốt ruồi của đàn ông ở giữa hai mắt cho thấy đó là người không có chí tiến thủ, dễ hài lòng với những gì mình có. Hơn thế, đây là tướng khắc chế vợ, hôn nhân không viên mãn, vợ chồng dễ nảy sinh mâu thuẫn, cãi vã.


1. Nốt ruồi ở vị trí giữa hai mắt

Trong thuật xem tướng, vị trí giữa hai mắt cũng chính là cung Phu Thê. Đàn ông có nốt ruồi ở đó thường khắc chế vợ, hôn nhân không viên mãn, vợ chồng dễ nảy sinh mâu thuẫn, cãi vã.

Ngoài ra, anh chàng này lại không có chí tiến thủ, dễ hài lòng với những gì mình có, không nỗ lực phấn đấu trong sự nghiệp.

Lấy người này làm chồng, vận thế của bạn sẽ bị ảnh hưởng xấu. Theo đó, sức khỏe và tinh thần cũng dần giảm sút.

Nhung not ruoi tren mat dan ong khong co chi tien thu hinh anh
 

2. Nốt ruồi ở phía dưới đuôi mắt trái


Trong nhân tướng học, đây được coi là tướng khắc thê (khắc vợ). Đàn ông có tướng nốt ruồi này tiêu tiền hoang phí, không kiểm soát được ham muốn mua sắm, nên khó tích lũy tiền bạc.

Trong công việc, người này không có thái độ nghiêm túc, đi làm như đi chơi, thích thì làm, không thích thì bỏ, không có chí tiến thủ.

Vì thế, khi gặp phải anh chàng này, quý cô nên tránh xa, và nhớ giữ chặt túi tiền của mình, tránh tình trạng yêu mù quáng rồi tiền mất tật mang.

Nhung not ruoi tren mat dan ong khong co chi tien thu hinh anh 2
 

3. Nốt ruồi ở phía dưới đuôi mắt phải


Khi xem tướng nốt ruồi trên mặt đàn ông, nếu có nốt ruồi ở phía dưới đuôi mắt phải chứng tỏ người này không hiếu thảo với cha mẹ, vô lễ với người bề trên và dù được kế thừa tài sản của tổ tiên để lại cũng không lâu bền.

Một người đàn ông không yêu mến cha mẹ ruột của mình thì cũng hiếm khi đối xử chu đáo, ân cần với vợ và con cái. Hơn thế, anh chàng này khá lười nhác, chỉ thích dựa dẫm vào người khác, không có chí tiến thủ trong sự nghiệp nên khó thành đạt, cuộc sống vất vả, cực nhọc.

Có thể bạn quan tâm: Những nốt ruồi mang lại tài lộc cho nam giới


4. Nốt ruồi ở trên khóe miệng


Nốt ruồi xuất hiện ở khóe miệng, chứng tỏ đây là tuýp đàn ông tham tiền tài, danh vọng và rất thích trò cờ bạc, đỏ đen. Tuy anh chàng này ăn nói khéo léo kiểu “mồm miệng đỡ chân tay”, nhưng khi tiếp xúc lâu, ít được mọi người tin tưởng vì không biết giữ lời hứa.

Trong công việc, người này lười biếng, ỷ lại, gặp khó khăn là trốn tránh, bỏ cuộc giữa chừng. Chính vì thế, dù có được thừa hưởng khối tài sản kếch xù đi chăng nữa, họ sẽ sớm trắng tay vào nhu cầu mua sắm hay thói đỏ đen của mình.

Ngọc Diệp

“Điểm danh” những nốt ruồi cực duyên trên khuôn mặt
– Chủ nhân của tướng nốt ruồi này có nhân duyên tốt, đi tới đâu cũng có người theo đuổi.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nốt ruồi trên mặt đàn ông không có chí tiến thủ

12 con giáp: Hợp tuổi hay Xung khắc trong tình yêu

Chọn xem tuổi hợp để tiến tới hôn nhân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có mười hai con giáp và mỗi người sinh ra dưới các năm khác nhau lại mang tính cách đặc trưng của con vật bảo hộ. Theo quan niệm phong thủy Trung Quốc, tất cả mọi việc xung quanh cuộc đời như làm ăn, tình yêu,...đều cần chọn những người hợp mệnh để mọi việc được suôn sẻ, may mắn.

Theo chiêm tinh học Trung Quốc, nói chung những người đẻ cách nhau bốn năm thường tương thích (tam hợp), nhưng cách nhau sáu năm thì không nên (tứ hành xung). Bạn có thể kiểm tra tuổi hợp trước khi bắt đầu một mối quan hệ.

Tam hợp:

Mười hai con giáp có thể được chia thành bốn nhóm ba. Các nhóm này được dựa trên sự phỏng đoán rằng mỗi một trong ba loài động vật có liên quan đều có những cách suy nghĩ hay tính khí tương tự, hoặc ít nhất là phong cách tư duy và hiểu biết.

- Nhóm thứ nhất: Tí, Thìn, Thân

Họ có những định hướng, hành động và biểu hiện rất thông minh. Họ có thể bổ sung trong trí tuệ và tương thích với nhau. 

- Nhóm thứ hai: Sửu, Tị, Dậu

Họ là những nhà tư tưởng sâu sắc và luôn có ý thức về việc đạt được mục tiêu của họ. Họ đều bổ sung cho nhau trong trí tuệ và thói quen. 

- Nhóm thứ ba: Dần, Ngọ, Tuất

Họ nghiêng tự do và có ý thức mạnh mẽ của cái tôi cá nhân. Họ có thể hiểu nhau nhưng đôi khi cũng xảy ra tranh luận để bảo vệ quan điểm riêng của mình.

- Nhóm Bốn: Mão, Mùi, Hợi

Họ yêu hòa bình và tin tưởng lẫn nhau khi hợp tác. Họ có thể thông cảm lẫn nhau và thường tạo nên những cặp đôi.




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 con giáp: Hợp tuổi hay Xung khắc trong tình yêu

Phong thủy ban công - đừng thờ ơ

Phong thủy ban công tác động nhiều tới sinh khí cho ngôi nhà. Nhà không có ban công, ban công bịt kín hoặc không thông thoáng là điều không tốt.
Phong thủy ban công - đừng thờ ơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy ban công tác động nhiều tới sinh khí cho ngôi nhà. Nhà không có ban công, ban công bịt kín hoặc không thông thoáng là điều không tốt.

Phong thuy ban cong - dung tho o hinh anh
 
Ở thành phố, nhiều người thường tiêu chuẩn hoá nhà ở, đa số phòng ngủ hoặc phòng khách không có ban công, có nhà lại xây ban công ở phía ngoài nhà bếp để người trong nhà có thể sưởi nắng, nhưng có nhiều gia đình lại thích xây kín ban công lại.
 
Việc bịt kín ban công để làm mở rộng diện tích nhà ở, có lợi cho việc ngăn chặn bụi bẩn và tạp chất từ bên ngoài bay vào nhà, thậm chí còn có tác dụng chống trộm, cũng khó có thể nói cách làm này là được ít mất nhiều, nhưng điều này lại phạm vào phong thuỷ ban công, ảnh hưởng đến sự thu nạp khí từ cửa và còn rất bất lợi đối với sức khoẻ con người.
 
Nếu ban công bị bịt kín thì nhà ở không được thông thoáng, làm không khí trong phòng ngột ngạt, hàm lượng không khí lưu thông sẽ giảm xuống, hơn nữa, sẽ gây nên bội nhiễm cho cơ thể người, gây nên các chứng bệnh về hô hấp, bài tiết mồ hôi cho người trong gia đình, cộng thêm các thiết bị nấu nướng, lò sưởi, máy nước nóng toả ra rất nhiều khí có hại, nếu ban công bị bịt kín thì sẽ sinh ra vi khuẩn trong phòng.
 
Sống lâu ngày trong đó sẽ dễ làm người nảy sinh ác tâm, đau đầu chóng mặt, và các chứng bệnh mệt mỏi khác. Tia tử ngoại từ ánh nắng mặt trời không chỉ làm giảm bớt mật độ vi khuẩn. Nhờ ánh nắng mặt trời, sức khoẻ của con người cũng tốt hơn, tinh thần phấn chấn hơn, nếu bịt kín ban công sẽ làm giảm bớt ánh nắng chiếu vào phòng, không chỉ dễ dàng bị mắc các bệnh do vi khuẩn mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em và sinh ra căn bệnh còi xương.
 
Vì vậy, tốt nhất là không nên bịt kín ban công, nhưng cũng không vì mục đích là tận dụng nguồn ánh sáng thiên nhiên và thông gió mà lại tạo hình ban công theo kiều khoét lỗ để thể hiện phong cách châu Âu và cũng là để tăng thêm ưu điểm khi bán nhà. Ban công khoét lỗ có lợi về mặt ánh sáng và thông gió, nhưng đã phạm vào đại kỵ “Tất hạ hư không” trong phong thuỷ ban công.
 
Khi người bên ngoài nhìn sang ban công, có thể dễ dàng nhìn thấy toàn bộ hoạt động bên dưới của người trong phòng, ảnh hưởng đến sự riêng tư và rất bất lợi đối với sức khoẻ và tâm lý của người trong gia đình. 
 
Một phần ba phần dưới của ban công là tường gạch, còn hai phần ba phần bên trên là cửa sổ kính, cho nên cách tốt nhất là thường xuyên mở của sổ ra. Như vậy, không phạm phải “Tất hạ hư không” mà còn giải quyết được vấn đề thông thoáng, đồng thời không ảnh hưởng đến sự nạp khí của thuyết phong thuỷ.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy phòng ngủ và những ảnh hưởng đến gia chủ

ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy ban công - đừng thờ ơ

Thân cư Quan Lộc

Những người sinh vào giờ Dần hoặc vào giờ Thân là những người có số Thân cư Quan Lộc. Như chúng ta đã biết, cung Quan Lộc trong lá số của mỗi người biểu hiện con đường công danh và sự nghiệp của người đó. Hai chữ “Công Danh” và “Sự Nghiệp” nghe có vẻ rộng lớn và mơ hồ qúa. Nếu nói một cách gần gũi và rõ ràng hơn thì cung Quan Lộc diễn tả nghề nghiệp của một người và có thể chỉ rõ một ngành nghề nào đó như y khoa, điện tử, giáo sư, cảnh sát, quân nhân, ngân hàng, ngoại giao, văn học, nghệ thuật, kinh doanh thương mại v.v… Cung Quan Lộc cũng nói lên sự thành bại trong nghề nghiệp của một người.
Thân cư Quan Lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Như chúng ta đã nói trước đây, Thân cư cung nào thì cung đó sẽ trở thành lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người ấy. Do đó, người Thân cư Quan Lộc ngay từ khi còn trong trường học, họ đã có những ý tưởng rõ ràng về ngành học mà họ chọn lựa vì đó là cửa ngõ đưa họ vào đời, là nghề nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và thận trọng trong việc chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn năng khiếu và ưa thích.

Người Thân Cư Quan Lộc không thích làm những nghề có tính cách tạm bợ. Cho nên khi họ đã bước vào một ngành nghề nào thì đó sẽ là công việc mà họ sẽ theo đuổi suốt cả một đời. Mẫu người này cho dù làm công hay làm chủ cũng không thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì ít khi bị mất việc. Có thể nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không phải vất vả đi tìm việc như những người khác.  
 
Thân cư Tài Lộc là mẫu người thừa hành đắc lực nhất. Họ là những nhân viên, những thuộc cấp và là những người cộng tác rất có tinh thần và trách nhiệm trong chức vụ của họ. Điều này dễ hiểu vì họ là những người yêu nghề, thích học hỏi.

Người Thân cư Quan Lộc coi sự làm việc như một lạc thú ở đời chứ không phải là một nghề để sinh sống. Họ rất hăng say với công việc.

Những đặc điểm nêu trên là mẫu người Thân cư Quan Lộc mà có cung Quan Lộc tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan Lộc xấu xa thì đó là hình ảnh của một người chậm công danh, lận đận trên đường công danh, và đây cũng là người sống chết với nghề của mình một cách vất vả, lao đao, hoặc là trường hợp đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là “sinh nghề, tử nghiệp”, chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh liệt, hay bị tù tội vì nghề nghiệp nếu có thêm hung sát tinh, bại tinh hội hợp. Như vậy, quan niệm cho rằng người có Thân cư Quan Lộc sẽ làm Quan là một điều sai lầm. Làm quan hay làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng phải tùy thuộc vào cung Quan Lộc tốt hay xấu.

Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi Đẩu Số, sự sắp xếp của 12 cung trên một lá số rất có ý nghĩa. Cung Quan Lộc nằm đối diện với cung Phu Thê cho nên cung Quan Lộc có thể xem như cái bóng phản chiếu của cung Phu Thê vậy. Do đó khoa Tử Vi cho rằng đối với những người có số 2 đời vợ, 2 đời chồng thì cung Quan Lộc là hình ảnh của người vợ hay người chồng thứ hai của đương số.

Điều này rất có ý nghĩa đối với những người Thân cư Quan Lộc, cuộc đời còn lại của họ và cả nghề nghiệp của họ sẽ bị ràng buộc một cách chặt chẽ với người vợ/chồng thứ hai. Điều này chúng ta sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người Thân cư Phu Thê.

Riêng đối với nữ Mệnh, các bà có số Thân cư Quan Lộc thì ngoài những nét đặc biệt đã nêu trên, cung Quan Lộc trong trường hợp này còn có ý nghĩa như một cung Phu, và một vài trường hợp điển hình mà chúng ta nói đến như: Một người đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không khác gì Tuần hay Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.

Trong trường hợp như vừa nêu trên, một quan điểm khác của nhà tướng số Thiên Đức trong một bài viết về “Tai Nạn Trinh Tiết” ông khẳng định một cách mạnh mẽ rằng “…bất cứ là lá số của một người phụ nữ nào khi cung Quan Lộc hay cung Thân có Tuần hoặc Triệt, bất luận về yếu tố sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái khi về nhà chồng”

Như vậy theo quan điểm này thì bất cứ cung Thân an tại đâu và bất kể cung Thân hay Quan Lộc cho dù có các sao đoan chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt thì hai chữ “trinh tiết” của đương số cầm bằng như không có khi bước lên xe hoa lần đầu trong cuộc đời.

Cũng trong trường hợp nữ Mệnh có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp nhiều hung tinh hay sát tinh thì đương số nên lập gia đình muộn hoặc lập gia đình với một người đã trải qua một lần đổ vỡ trên đường tình thì mới có thể tránh được cảnh cô đơn góa bụa về sau.

Một điểm đặc biệt nữa là đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh hưởng thì đó cũng là số của những người có thể gặp những hoàn cảnh hay tai nạn làm mất danh tiết của mình.

Riêng đối với các ông, nếu là những người có quan niệm sống bảo thủ như ông bà của chúng ta ngày xưa, cho rằng người vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là người đàn bà ở trong nhà lo việc nhà, săn sóc cho chồng cho con thì mẫu người đàn bà Thân cư Quan Lộc hoàn toàn không thích hợp với quý ông có quan niệm “chồng chúa, vợ tôi”. Lý do dễ hiểu là những người đàn bà có Thân cư Quan Lộc có khuynh hướng độc lập rất mạnh. Họ muốn ra đời và muốn có một nghề nghiệp như đàn ông để suốt đời không bị lệ thuộc vào người chồng.

Cuối cùng, trong ý nghĩa về nghề nghiệp, dù nam hay nữ, khi cung Quan Lộc bị Tuần/Triệt thì trong đời của đương số phải thay đổi nghề nghiệp ít nhất 1 lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những ngành nghề gì thì còn tùy thuộc vào cung Quan Lộc và toàn bộ lá số. Đặc biệt đối với những người Thân cư Quan Lộc thì nghề nghiệp mà họ thay đổi thường là cùng nghề hay cùng trong một lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của đương số.

Tóm lại, cung Quan Lộc biểu hiện cho công danh, sự nghiệp, tiền tài và danh vọng của một người, cho nên những người có số Thân cư Quan Lộc thì những yếu tố trên là mục đích mà họ sẽ mang hết tâm huyết của họ để đạt được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thân cư Quan Lộc

3 chòm sao kín tiếng chuyện tình cảm trên mạng xã hội

Với sự phát triển của mạng xã hội, ngày càng nhiều người công khai tình cảm thông qua internet. Nhưng 3 chòm sao kín tiếng dưới đây thì rất lặng lẽ, không phô
3 chòm sao kín tiếng chuyện tình cảm trên mạng xã hội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với sự phát triển của mạng xã hội, ngày càng nhiều người công khai tình cảm thông qua internet. Nhưng 3 chòm sao kín đáo dưới đây thì dù yêu nhau mặn nồng hay đã chia tay đều rất lặng lẽ, không phô trương, không trưng lên trang mạng.


3 chom sao kin tieng chuyen tinh cam tren mang xa hoi hinh anh
 

Ma Kết

  Suy nghĩ của Ma Kết rất đơn giản, tốt hay không tốt, tự mình biết là được rồi, cần gì phải cho người khác biết. Vì thế mà chòm sao kín tiếng này tuyệt đối không công khai tình cảm lên mạng xã hội. Nếu hạnh phúc thì bày ra cũng chỉ để người khác nhìn ngó, ghen tị, chẳng có lợi ích gì, tự mình hưởng thụ là được. Nếu chia tay thì mất công người khác cười nhạo, an ủi xã giao. Ma Kết rất không đồng tình với những việc làm chỉ mang lại phiền phức như vậy.
5 chòm sao nam dại gái nhất vòng tròn hoàng đạo 4 chàng trai hoàng đạo mê mẩn gái ngoan Liệt kê tất tần tật tính xấu của 12 sao nữ khiến sao nam “chạy mất dép”

Kim Ngưu

  Kim Ngưu nổi tiếng là chòm sao cẩn trọng, họ tin rằng thế giới ảo chỉ khiến người ta bị lừa gạt, chìm đắm mà thôi. Triển lãm cuộc sống của mình cho người khác nhìn ngắm, bình phẩm không phải là việc mà Kim Ngưu sẽ làm. Chỉ cần bình an, thanh thản và vô tư mà sống là được rồi, cần gì phải tự chuốc thêm phiền toái vì những mối quan hệ không có thật.   

Cự Giải


3 chom sao kin tieng chuyen tinh cam tren mang xa hoi hinh anh
 
Hai chúng ta ngọt ngào, không cần người khác chứng kiến là lý do mà cung hoàng đạo Cự Giải không thích công khai tình cảm trên mạng. Cự Giải rất quý trọng tình yêu, đã lựa chọn là rất kĩ lượng và cẩn thận, toàn tâm toàn ý, không muốn vì tác động bên ngoài mà ảnh hưởng tới hai người. Nếu là người thân, họ sẵn sàng chia sẻ niềm vui của mình nhưng nếu chỉ là người qua đường, Cự Giải nghĩ tốt nhất là giữ kín chuyện riêng tư. Cuộc sống của mình đâu cần phải biểu diễn cho người khác xem. Cuộc sống hài lòng là đủ rồi.
  5 cô nàng hoàng đạo dễ dàng chiếm trọn trái tim đại gia, soái ca 5 cô nàng hoàng đạo dễ tin lầm đàn ông xấu 5 chòm sao nữ có khả năng cầm cương đàn ông Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao kín tiếng chuyện tình cảm trên mạng xã hội

Trung Thu ngắm trăng, bái vọng đản sinh Nguyệt Quang Bồ Tát

15/8 âm lịch mừng ngày đản sinh Nguyệt Quang Bồ Tát, hay còn gọi là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, nguyệt quang phổ chiếu khắp nơi.
Trung Thu ngắm trăng, bái vọng đản sinh Nguyệt Quang Bồ Tát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

15/8 âm lịch mừng ngày đản sinh Nguyệt Quang Bồ Tát, hay còn gọi là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, nguyệt quang phổ chiếu khắp nơi.


Trung Thu ngam trang, bai vong dan sinh Nguyet Quang Bo Tat hinh anh
 
Nguyệt Quang Bồ Tát cùng Nhật Quang Bồ Tát là hiếp thị của Dược Sư Như Lai. Trong “Dược Sư kinh” có viết: “Có hai Bồ Tát Ma Ha Tát, một là ánh mặt trời quang chiếu, một là ánh nguyệt quang phổ chiếu, theo sau là vô lượng công đức”. “Quán Đỉnh kinh” lại viết: “Có hai Bồ Tát, một tên Nhật Diệu, hai tên Nguyệt Tịnh, là hai Bồ Tát nắm giữ chính pháp bảo tàng của Dược Sư Như Lai”.   Nguyệt Quang Bồ Tát hiện thân màu trắng, ngồi trên tòa nga, tay cầm Nguyệt Luân. Ngài đứng ở phía bên phải của Dược Sư Như Lai. Trong Phật giáo, Nguyệt Quang là một trong 16 hiền kiếp của Kim Cương Giới Mạn Đồ La, lại là một trong những tôn của Thai Tàng Giới Mạn Đồ La Văn Thù Sân.   Trong Kim Cương giới, Nguyệt Quang Bồ Tát đứng hàng thứ hai ở sân phía Tây, mặc đồ trắng, tay trái đặt trước ngực, tay phải nắm Nguyệt Quang hình hoặc hoa sen, tọa trên đài hình bán nguyệt. Trong Thai Tàng giới, ngài ở viện Văn Thù hoặc bên phải Cát Tường, cùng với Diệu Âm Bồ Tát và Vô Cấu Quang Bồ Tát, tay cầm hoa sen, ngồi xếp bằng trên đài sen.
Trung Thu ngam trang, bai vong dan sinh Nguyet Quang Bo Tat hinh anh
 
Nguyệt Quang và Nhật Quang cùng Quan Thế Âm có quan hệ mật thiết, phàm tâm niệm tụng chú Đại Bi thì không chỉ Quan Thế Âm thấu tỏ mà Nguyệt Quang Bồ Tát cũng sẽ hiện thân để cứu trợ. Ngoài tụng Chú Đại Bi, hãy tụng thêm Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni thì ngài sẽ che chở thêm, tiễu trừ mọi chướng khó ốm đau, thành tựu thiện pháp, rời xa bố úy.   Ngày 15/8 âm lịch là ngày Bồ Tát đản sinh, cũng là Tết Trung Thu, cùng trông trăng bái Bồ Tát, thành tâm kính ngưỡng công đức của người. Và hơn hết, tụng niệm, tu tập dưới ánh trăng tròn viên mãn của ngày này sẽ có phúc báo vô lượng, tiến gần tới chân tu, thấu hiểu Phật pháp, hưởng đời an lạc.   Bất cứ khi nào có điều chưa tỏ, có việc chưa thông, gặp nguy nan khốn khổ đều nên niệm Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni trong tâm để vượt qua tất cả, như ánh trăng dịu hiền phổ chiếu chúng sinh, che chở sinh mạng.
Tụng Chú Đại Bi, diệt trừ ác nghiệp, được hưởng phúc lành Đọc Thần Chú Đại Bi, tiêu tai giải nạn
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trung Thu ngắm trăng, bái vọng đản sinh Nguyệt Quang Bồ Tát

22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè

22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè. Dù là với bất cứ hình thức nào, ý nghĩa câu chúc và sự chân thật trong câu chữ truyền tải tình cảm khéo léo
22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè. Dù là với bất cứ hình thức nào, ý nghĩa câu chúc và sự chân thật trong câu chữ sẽ khéo léo chuyển tải tình cảm trọn vẹn hơn. Từ đó khơi gợi những kỉ niệm đẹp trong mối quan hệ giữa các bạn và mang lại nguồn cảm xúc ấm áp, khó quên trong ngày trọng đại của cô dâu chú rể.

Đám cưới là ngày lễ quan trọng nhất của đời người. Chính vì vậy mà trong ngày trọng đại này, bất cứ cặp cô dâu, chú rể nào cũng mong muốn lễ cưới diễn ra thuận lợi và nhận được nhiều lời chúc phúc của mọi người.

Những lời chúc mừng đám cưới thể hiện sự chia sẻ, quan tâm của bạn bè người thân tới cô dâu chú rể cùng gia đình trong ngày cưới. Xemboituong.com xin tổng hợp và chia sẻ tới các bạn những lời chúc mừng đám cưới hay và có ý nghĩa nhất dành cho bạn bè.

22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè

Những lời chúc ngắn gọn, xúc tích: Thích hợp cho lời chúc trực tiếp khi gặp mặt, hoặc ghi nhanh trên quyển sổ lời chúc ở bàn tiếp khách.

Chúc mừng hạnh phúc tân lang, tân nương!

Bách niên giai lão nha bạn tôi!

Luôn luôn được hạnh phúc vẹn tròn nhé!

Yêu nhau dài lâu nhé hai bạn!

Lời chúc mừng tận đáy lòng nhân ngày trọng đại của bạn

Cuộc sống mới chắc chắn là hạnh phúc “không thể chối từ”, chăm chỉ tận hưởng nha!

Những lời chúc dài: Thích hợp cho lời chúc viết tay trong thiệp, thiệp

Một cuộc sống mới đang đến với bạn và mình mong rằng trong đó tràn đầy những tháng ngày hạnh phúc đong đầy bên cạnh người bạn yêu thương. Happy Wedding !!

Gởi đến bạn món quà này với cả tấm lòng và một lời chúc bách niên giai lão.
Mình thì luôn tin là những điều tốt đẹp nhất luôn đến với người biết quan tâm và trân trọng hạnh phúc như bạn. Chúc mừng hạnh phúc hai bạn!

“Hôn nhân không phải là nơi thuyền tình cập bến mà là nơi hai người yêu nhau quyết định cùng giăng buồm vượt sóng ra khơi”
Chúc hai người mãi mãi có một tình yêu dịu dàng, bền chặt và luôn gặp nhiều điều tốt lành trong chuyến hành trình đặc biệt này
Hy vọng tấm thiệp này sẽ chuyển những lời chúc mừng hạnh phúc chân thành nhất của mình tới vợ chồng bạn.

Cánh thiệp nhỏ nhưng tình cảm thì không nhỏ nhé
Xin được gửi những lời chúc mừng tốt đẹp nhất, may mắn nhất tới bạn.
Chúc cuộc sống mới của gia đình bạn sẽ tràn đầy niềm vui, tiếng cười và hạnh phúc.

May mắn đã cho chúng ta được gặp nhau, trở thành bạn thân nhất của nhau và cùng có với nhau rất nhiều kỷ niệm, mình sẽ không bao giờ quên những tháng ngày đó. Thực sự rất vui mừng khi biết bạn đã tìm được một nửa của cuộc đời mình.Chúc bạn có một cuộc sống thật viên mãn và sớm chào đón hoàng tử, công chúa.

Chúc mừng đám cưới của hai người!
Bắt đầu một cuộc sống mới, sẽ mất chút thời gian để rút gần khoảng cách trong gia đình nhỏ và gia đình lớn, nhưng hãy luôn cười thật hạnh phúc và được mọi người yêu mến nhé bạn tôi.
Cuộc sống sẽ thật đẹp nếu tràn đầy niềm tin, yêu thương và hạnh phúc. Chúc mừng đôi uyên ương, tất cả những điều đó từ bây giờ là dành cho hai bạn!

Chúc mừng hôn lễ của hai bạn!
Hãy đem những thiên thần bé nhỏ tới thế giới của hai bạn, điều này sẽ khiến cuộc sống của bạn trở nên ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Hãy yêu thương nhau thật nhiều và cùng nhau tận hưởng cuộc sống này nhé.

Chúc mừng hạnh phúc hai bạn vì đã tìm thấy nhau trong cuộc đời rộng lớn này!
Mình thực sự cảm thấy rất vui khi được tham dự lễ cưới của hai người.

Hai bạn hãy đối xử thật tốt với nhau, cùng nhau tận hưởng những giây phút hạnh phúc trong cuộc sống.
Dù trước mắt sẽ còn nhiều khó khăn và thử thách nhưng tôi tin bằng tình yêu chân thành hai bạn sẽ vượt qua tất cả.

Chúc cho cô dâu chú rễ trăm năm hạnh phúc, thủy chung trọn vẹn, đi về có nhau, dù sống đến tuổi răng long đầu bạc nhưng xem nhau như những ngày mới gặp, đã chỉ non mà thề đã chỉ trăng mà hẹn thì phải giữ trọn tình yêu.

Chúc mừng hai bạn nhân ngày về với nhau! Hy vọng rằng các bạn đạt được những gì hằng mong muốn trong cuộc sống chung.

Chúc bạn có thể thành công gửi đi những lời chúc phúc đầy ý nghĩa của mình!

Hy vọng tấm thiệp này sẽ chuyển đến những lời chúc chân thành của tôi đến với bạn. Bạn sẽ tràn đầy hạnh phúc trong tương lai.

Mình chúc mừng hai bạn nhân ngày đính hôn của các bạn. Hy vọng rằng các bạn đạt được những gì hằng mong muốn trong cuộc sống chung

Tôi nhiệt thành chúc mừng hạnh phúc cuộc hôn nhân của bạn. Mong rằng sự kết hợp này sẽ mang lại hạnh phúc mãi mãi cho gia đình mới của bạn

Chúc mừng đám cưới của hai bạn! Bắt đầu một cuộc sống mới, tôi hy vọng rằng bạn sẽ tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm sống với gia đình cả hai bên. Hãy học cách đối nhân xử thế trong sinh hoạt gia đình mỗi ngày để làm hài hòa cuộc sống hôn nhân bạn nhé.

Trên đây là những lời chúc đám cưới hay và ý nghĩa mà chúng tôi sưu tầm được. Những lời chúc chân thành xuất phát từ trái tim sẽ là cách thể hiện tốt nhất tình cảm của người gửi dành cho người nhận. Trong không khí xúc động và không gian lãng mạn của buổi lễ, những lời chúc ngọt ngào của những vị khách quý sẽ giúp cho cô dâu chú rể cảm thấy vui vẻ, yêu đời và hạnh phúc hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 22 Lời chúc đám cưới hay dành cho bạn bè

Phân tích các giấc mơ –

- Nếu trong giấc mơ thấy cầu thang điện tử đi lên các tầng trên thì đó là cuộc đời đi lên; còn hạ xuống là cuộc đời giáng tụt lùi, gặp nhiều khó khăn. - Nằm mơ thấy nhà tù, sở cảnh sát thì sẽ phạm tội ác, bị trừng phạt. - Nằm mơ thấy trư
Phân tích các giấc mơ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích các giấc mơ –

Chỉ số công việc của 12 con giáp trong tháng 3

Trong tháng này, mọi người nên chủ động đàm phán với khách hàng, sẽ có tin tức tốt đến với bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý:

Sự nghiệp tháng này của tuổi Tý khá tốt, khả năng tự nắm bắt thời cơ cao và cũng dễ gặt hái được nhiều thành quả. Giữa tháng thì những công việc liên quan đến sự nghiệp vui chơi, giải trí sẽ dễ thu lời hơn cả, thậm chí là được đề bạt. Tháng này lại thêm quý nhân phù trợ nên tuổi Tý nhớ nắm bắt thời cơ cho tốt. Cuối tháng dễ có kẻ tiểu nhân xuất hiện, hãy đề cao cảnh giác.

Chỉ số sáng tạo: ★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★

Tuổi Sửu:

Bước vào tháng 3, rất nhiều vấn đề phát sinh trên nhiều khía cạnh. Vì vậy mà khi chọn lựa bạn rất dễ rơi vào vòng luẩn quẩn và bạn cần nhiều thời gian hơn để suy xét kỹ lưỡng. Mặc dù rất nhiều việc bạn chưa thực sự giải quyết bằng hành động thực tế nhưng thời gian này bạn nên có suy nghĩ, lên kế hoạch cho tương lai. Cuối tháng hãy dành thời gian nói chuyện với các bậc tiền bối hoặc bạn bè có kinh nghiệm hơn, họ sẽ giúp bạn giải quyết khá nhiều vấn đề.

Chỉ số sáng tạo: ★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★

Tuổi Dần:

Bước vào tháng 3, công việc của tuổi Dần có nhiều điều cần đặc biệt chú ý. Trước tiên, khi gặp những hợp đồng lớn, để đạt được nó bạn cần dũng cảm bước vào một lĩnh vực mà bạn không hề làm từ trước đến giờ, vì vậy sẽ gặp nhiều gian nan hơn. Thêm nữa, bản thân bạn khá mệt mỏi, có những lúc bạn nổi cáu cực kỳ gay gắt, rất dễ khiến mọi người xung quanh không hài lòng, bạn cần chú ý kiềm chế. Cuối tháng không nên thay đổi quyết định một cách dễ dàng.

Chỉ số sáng tạo: ★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★★

Chỉ số năng động: ★★★

 chi so cong viec cua 12 con giap trong thang 3 - 1

Tuổi Mão:

Tháng này tuổi Mão không gặp thuận lợi lắm trong công việc, bạn gặp khá nhiều trở ngại. Bạn cần phải tìm ra căn nguyên vấn đề từ chính bản thân mình đầu tiên. Không nên quá cố chấp và bảo thủ đi theo những vấn đề mà bạn biết rõ không có lợi gì cho những người xung quanh cả. Khi bạn cố gắng làm điều gì thì cũng không nên gây xung đột với cấp trên hay các bậc trưởng bối.

Chỉ số sáng tạo: ★★★★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★★★

Tuổi Thìn:

Nếu tuổi Thìn có thể yên tĩnh quan sát tình hình và nhẫn nại thì tháng này bạn sẽ có bước đột phá cực kỳ đáng nể trên con đường sự nghiệp. Những bạn đã có địa vị cao thì sẽ có được cấp dưới rất trung thành và giỏi giang, họ sẽ giúp bạn cùng tạo dựng sự nghiệp. Với những bạn đang phấn đấu cho sự nghiệp thì bạn có cơ may gặp được đối tác tốt hơn, giúp bạn giải quyết hết thảy các mối quan hệ phức tạp hiện tại.

Chỉ số sáng tạo: ★★★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★★★

Tuổi Tỵ:

Xã giao có lợi rất nhiều với tuổi Tỵ, bạn có cơ hội gặp được nhà đầu tư trong các cuộc hội nghị, tiệc tùng. Đầu tuần tới bạn cũng khá nhiệt tình với công việc, bạn bắt đầu tìm đủ mọi biện pháp để nâng cao hiệu suất công việc.  Có thể bạn sẽ tìm thấy cơ hội thăng quan tiến chức từ các hoạt động xã giao đấy.

Chỉ số sáng tạo: ★★★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★★

Tuổi Ngọ:

Bước sang tháng 3 này công việc của tuổi Ngọ có bước tiến triển cực kỳ tốt, cả quy mô và công việc đầu tư đều được mở rộng. Kể cả là vấn đề ngân sách hay sức lực thì được coi như bạn chỉ cần bỏ chút ngân lượng mà lợi ích thì cực “khủng”, phần thu được còn gấp nhiều nhiều lần với mức mà bạn bỏ ra. Cuối tháng không nên kiên trì vào những việc không có kết quả hay không thể xảy ra, bạn cần ghi nhớ đối tác làm ăn và thực lực cũng là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp của bạn.

Chỉ số sáng tạo: ★★★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★

Chỉ số năng động: ★★★★

Tuổi Mùi:

Sang tháng 3 này, tuổi Mùi không cần mất quá nhiều sức lực mà cũng có thể vượt qua một cách vững vàng. Nếu các hạng mục trước mắt bạn có thể làm tốt thì việc thăng chức tăng lương không còn là điều xa vời nữa. Mặc dù công việc khá nhàn rỗi nhưng đối thủ cạnh tranh chỉ là tạm thời chưa xuất hiện. Vì vậy, bạn cần học tập trau dồi kiến thức nhiều hơn để chuẩn bị sẵn sàng cho những gì sẽ xảy đến trong tương lai.

Chỉ số sáng tạo: ★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★★

Chỉ số năng động: ★★★

Tuổi Thân:

Công việc tháng này của tuổi Thân gặp nhiều vấn đề phát sinh đột ngột. Chủ yếu là những nhân tố không xác định tăng cao, may mà cả nhóm cùng hợp sức nên mọi việc cùng được giải quyết. Nếu có thể hãy xử lý vấn đề một cách triệt để. Cuối tháng các mối quan hệ xã giao giúp bạn tiến bước nhiều hơn trên sự nghiệp, bạn như “cá gặp nước”. Biết được các lĩnh vức kinh doanh mới một cách kịp thời sẽ có lợi cho việc phát triển sự nghiệp ở bước tiếp theo.

Chỉ số sáng tạo: ★★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★★

 chi so cong viec cua 12 con giap trong thang 3 - 1

Tuổi Dậu:

Bước vào tháng 3 này, tuổi Dậu phải đối mặt với khá nhiều vấn đề, may mà cá nhân bạn cũng là người khá thận trọng nên không có sai lầm náo đáng tiếc xảy ra cả. Mặc dù không có tiến triển nhiều nhưng chí ít bạn cũng có thể ngăn chặn được khá nhiều vấn đề đáng tiếc có thể xảy ra. Cuối tháng sự đoàn kết giao lưu trong tập thể nhóm, tổ của bạn khá tốt, có thể tìm được một mục tiêu chung và hãy chuẩn bị tốt cho điều đó.

Chỉ số sáng tạo: ★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★★

Tuổi Tuất:

Tháng này bạn có nhiều dự định hơn cho con đường sự nghiệp, bạn luôn muốn nâng cao năng lực của bản thân nhưng có lẽ bạn cần học tập và giao lưu nhiều hơn. Giữa tháng trở ra là thời điểm tốt để bạn gặp được quý nhân, làm quen với những người có tiếng tăm hay tiếp xúc với các nguồn vốn lớn. Chỉ có điều có một số kế hoạch của bạn cần sửa đổi đôi chút, cũng sẽ xuất hiện sự cạnh tranh gay gắt nên cần duy trì tốt ý trí và quyết tâm của bản thân.

Chỉ số sáng tạo: ★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★★

Tuổi Hợi:

Công việc tháng này khá bận rộn, bạn có thể phải đến nhiều nơi khác nhau. Đầu tháng nên chủ động đàm phán với khách hàng, sẽ có tin tức tốt đến với bạn. Một số hợp đồng sẽ dần đi vào quy trình đáng có. Giữa tháng có những hoạt động như hội nghị, báo cáo, họp báo, ra mắt sản phẩm mới, cần chú ý những chi tiết nhỏ nhất. Cuối tháng sự thay đổi nhân lực nhiều, hoặc là có đồng nghiệp mới hoặc là thêm lĩnh vực mới.

Chỉ số sáng tạo: ★★★

Mức độ gặp khó khăn: ★★★

Chỉ số năng động: ★★★




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ số công việc của 12 con giáp trong tháng 3

Tám phương vị phong thủy trong phòng khách

Hướng Chính Bắc của phòng khách tượng trưng cho sự nghiệp, Ngũ hành thuộc Thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy phòng khách có vai trò quan trọng trong cuộc sống mỗi gia đình ,hiểu biết về phong thủy sẽ giúp gia chủ có một phòng khách đẹp, hài hòa và đặc biệt hơn phong thủy phòng khách còn có thể gia tăng vận khí cho gia chủ ,giúp gia chủ có nhiều tài lộc, gia đình hạnh phúc.Xem Tướng chấm net  xin giới thiệu về vai trò ý nghĩa của tám phương vị trong phong thủy phòng khách đến bạn đọc.

8 phương vị trong phòng khách lần lượt là:

Chính Đông, Chính Tây, Chính Nam, Chính Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam và Tây Nam. Trong đó, mỗi phương vị sẽ tượng trưng cho các vận thế khác nhau của gia đình. Vì thế, nếu bố trí hợp lý 8 phương vị này sẽ giúp nâng cao vận thế.

Hướng Chính Đông của phòng khách tượng trưng cho sức khỏe, Ngũ hành thuộc Mộc. Vì thế đặt chậu thực vật lá xanh tươi tốt ỏ phương vị này sẽ có lợi cho sức khỏe ngưòi sống trong nhà.

Hưóng Chính Tây của phòng khách tượng trưng cho vận con cháu, Ngũ hành thuộc Kim. Vì thế, nên đặt những vật trang trí như tivi, máy nghe nhạc, vật phẩm thuộc hành Kim ỏ phương vị này. 

Hướng Chính Nam của phòng khách tượng trưng cho thanh danh, Ngũ hành thuộc Hỏa. Vì thế, đặt những vật trang trí có màu đỏ ở phương vị này sẽ mang lại thanh danh và quyền uy cho gia đình. Phương vị này thích hợp để treo tranh phượng hoàng, tranh hạc lửa hoặc tranh mặt trời mọc.

Hướng Chính Bắc của phòng khách tượng trưng cho sự nghiệp, Ngũ hành thuộc Thủy. Vì thế đặt vật trang trí thuộc hành Thủy có màu xanh dương hoặc màu đen như bể cá, tranh sơn thủy  phương vị này sẽ giúp gia chủ có bước phát triển lớn trong sự nghiệp.

Hướng Đông Bắc tượng trưng cho vận Văn xương, Ngũ hành thuộc Thổ. Vì thế nên đặt bình hoa bằng gốm sứ màu nâu đất hoặc  màu vàng ở phương vị này, như thế sẽ có lợi cho sự nghiệp, học vân

Hướng Tây Bắc tượng trưng cho vận quý nhân, Ngũ hành thuộc Kim. Vì thế nên đặt những vật trang trí hoặc đèn bàn thuộc hành Kim có màu trắng hoặc màu bạc ở phương vị này.

Hướng Đông Nam tượng trưng cho tài vận, Ngũ hành thuộc Mộc. Vì thế nên đặt vật trang trí thuộc hành Mộc có màu xanh như  loài thực vật màu xanh lá tròn phương vị này, như vậy sẽ giúp  tài vận của gia chủ thăng tiến.

Hưóng Tây Nam tượng trưng cho vận đào hoa, Ngũ hành thuộc Thổ. Vì thế nên đặt những vật phong thủy thuộc hành Thổ ở phương vị này. Ngoài ra, đặt đèn bàn hoặc thạch anh tự nhiên sẽ có tác dụng tăng cường tình cảm vơ chồng.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tám phương vị phong thủy trong phòng khách

Đại vận 10 năm trong lá số tử vi của bạn (P1 Thiên thời)

Đại vận hay đại hạn trong lá số tử vi là chỉ cát hung họa phúc trong 10 năm của mỗi người. Đại hạn mà khá thì cũng như có cái gốc khá kéo tiểu vận tốt lên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại vận trong lá số tử vi là chỉ cát hung họa phúc trong 10 năm của mỗi người. Trong lá số tử vi đại vận được ghi rõ mang các con số ở góc phải trên cùng của mỗi cung.

Thí dụ: Đại vận ở cungThê số 22, là Đại vận trong thời gian từ 22 đến 31 tuổi.

Đại vận 10 năm, chủ vào 10 năm của cuộc đời.Đại vận mà khá thì cũng như có cài gốc khá,tiểu vận có kém cũng được khá theo và tiểu vận mà khá thi lại càng khá nhiều. Ngược lại, Đại vận mà kém thì tiểu vận có những sao tốt, cũng không thể tốt như ý muốn. Càng bởi thế, tÍnh vận hạn, ta không nên ngạc nhiên rằng năm Thân lần trước sao ta khá thế, mà năm Thân lần này, sao ta lại quá dở, đó là vì Tiểu vận phải tùy theo Đại vận.


Các yếu tố để tính Đại vận trong tử vi gồm có Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Thời.

1. Thiên thời

Được Thiên Thời là được vận tốt, nói chung, và không kể đến chi tiết. Người được Thiên Thời tốt thì được ăn trên ngồi trước, người người quý mến, dù gặp trường hợp xấu vẫn hơn người đồng cảnh. (Thí dụ như gặp Thiên Thời mà phải ở tù thời cũng là tù cha, tù chú, anh em cung phụng, cai tù nể sợ) và mọi việc làm đều được hanh thông.

Muốn rõ Thiên Thời tốt xấu, phải đem hành của tam  Đai vân so sánh với hành của tam hớp tuổi (hành của tam hợp tuổi tức là mình).

Thí du: Cung Đại vận ở Thân, thì tam hợp Đại vận là Thân Tý Thìn, thuộc 'Thủy. Tam hợp tuổi của người tuổi Mùi là Hợi Mão Mùi, thuộc Mộc. Tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, nên ta gọi là sinh nhập.

Sau đây là các trường hợp của Thiên Thời:

- Tốt 1: tam hợp Đại vận cùng hành với tam hợp tuổi (tức là trường hợp cung Đại vận nằm trong tam hợp Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ và có Tứ Linh: Long, Phượng, Hổ, Cái). Đây là Đại vận tốt bậc nhất trong đời.

- Tốt 2: tam hợp Đại vận bị tam hợp khắc (tức là mình khắc ra hay là khắc xuất) vì mình khắc ra được, cho nên minh thắng được hòan cảnh, bằng sự phấn đấu.

Thí du: Tuổi Thân, thuộc Thân, Tý, Thìn, hành Thủy. Gặp Đại vận ở Tuất, là tam hợp Dần Ngọ Tuất, thuộc Hỏa. Mình khắc được Đại vận, tức là mình đạt được những thành quả bằng sự phấn đấu.

- Xấu nhẹ: tam hợp Đại vận được sinh do tam hợp tuổi (tức là tam hợp tuổi bị sinh

xuất). Trường hợp này, đương số gặp những khó khăn, phải chịu mệt nhọc mới có thành quả, hoặc phải thất bại trước sau mới thành, hoặc thất bại luôn phải chờ dịp khác.

Nhưng người tuổi Hợi, tam hợp Hợi, Mão, Mùi, hành Mộc. Hành Mộc sinh cho Đại vận (sinh xuất) khi Đại vận đến một trong 3 cung Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa.

- Xấu vừa: tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, tức là tam hợp gốc được sinh nhập, ở thế này, có dễ có khó, có thành có bại, tốt xấú đều lãnh đủ: Càng ăn nên làm ra càng gặp xấu, suy tán đến độ mất nghiệp, mất việc làm, mất tàì sản (vì gặp Thiên Không).

Như tuổi Mùi, tam hợp Hợi Mão Mùi (Mộc) đến Đại vận ,Thân và được tam hợp Thân Tý Thìn thuộc Thủy sinh cho, làm ăn tốt nhưng rồi tan vỡ cả!

- Xấu nặng: tam hợp Đại vận khắc tam hợp tuổi, tức là trường hợp mình bị khắc nhập, ơ thế này, đương sế gặp nhiều khó khăn làm ăn không tiến, thua thiệt, thất bại, hay gặp nạn.

Như người tuổi Mùi, tam hợp Hợi Mão Mùi thuộc Mộc, bị tam hợp Đại vận ở Dậu khắc, vì tam hợp Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim. Phải gặp những cái tốt khác mới gỡ được thế kẹt.

Bạn có thể xem thêm phần 2 tại : xem đại vận, đại hạn 10 năm trong lá số tử vi P2

Xem Tướng chấm net chúc mọi người năm mới an khang thịnh vượng !


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại vận 10 năm trong lá số tử vi của bạn (P1 Thiên thời)

Những món đồ sưu tầm có thể mang tới sát khí đáng sợ

Nhiều bạn thích sưu tầm đồ độc lạ như một cách thể hiện cá tính và đẳng cấp. Song, theo các chuyên gia phong thủy, vài món đồ dưới đây, bạn không nên mang bên mình hoặc đặt trong nhà, chúng sẽ đem đến sát khí đáng sợ.
Những món đồ sưu tầm có thể mang tới sát khí đáng sợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Những viên đá kỳ dị

Nhiều bạn thích sưu tầm những viên đá có hình thù kỳ dị, hoặc không rõ nguồn gốc lấy từ đâu. Trước hết, bản thân nhiều viên đá đều có thành phần khoáng chất, nó sẽ sinh ra tính phóng xạ, gây hại cho sức khỏe con người. Hơn nữa, đá thuộc “âm”, theo phong thủy thì đặt trong nhà sẽ không tốt, nó khiến âm khí trong ngôi nhà càng nặng hơn và “ám” vào những người sống trong đó. Ngoài ra, đá hấp thu tinh hoa trời đất, tụ hợp linh khí, không biết được có bao nhiêu linh khí xấu sẽ gây tai họa cho bạn.

nhung-mon-do-suu-tam-co-the-mang-toi-sat-khi-dang-so

2. Những binh khí cổ không rõ lai lịch

Nhiều bạn đi khắp nơi để tìm kiếm đủ loại binh khí thời xưa để thêm vào bộ sưu tập của mình. Tuy nhiên nếu quan tâm đến vận mệnh của mình, bạn nên thật cẩn thận với những binh khí không rõ lai lịch.

Không ít các loại binh khí cổ đều được khai quật từ mộ của tử sĩ. Một mặt những độc bệnh có thể vẫn chưa chết ngay cả trong lòng đất và bám vào binh khí, gây hại cho sức khỏe người tiếp xúc. Mặt khác, những thứ này khó tránh mang theo ám khí lẫn sát khí của người chết, mang đến điều không may cho bạn.

3. Xương động vật

Một vài bạn chơi “ngông”, thích sưu tầm cả xương cốt của động vật. Những thứ tà tính nặng này nếu đặt trong nhà sẽ gây họa cho các thành viên trong gia đình, chứ không riêng gì người sưu tầm chúng. Tà khí phát tán từ xương cốt thì hầu như người sống bình thường không có sức mạnh cản nổi, tà khí xâm nhập vào người sẽ khiến bạn sinh ra ảo tưởng, ác mộng và những điều xui rủi.

4. Tượng điêu khắc hung hãn

Nhiều người cho rằng những bức tượng điêu khắc đặt trong nhà có thể tránh tà nhưng suy nghĩ này là sai lầm. Trong phong thủy, nếu muốn trưng bày tượng mãnh thú như hổ, báo v.v… cần phải nghiên cứu rất thận trọng, bởi vì bản thân chúng vốn mang sát khí, nếu tùy tiện đặt sẽ áp chế mất vận may và tài lộc của bạn.

Khang Ninh (theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những món đồ sưu tầm có thể mang tới sát khí đáng sợ

Ốc Thượng Thổ - Ý nghĩa đất trên nóc nhà (mái ngói)

Tìm hiểu về nạp âm Ốc Thượng Thổ. Thành Đầu Thổ (đất bờ thành), Bích Thượng Thổ (đất trên tường) và Ốc Thượng Thổ đều sợ Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ốc Thượng Thổ - Ý nghĩa đất trên nóc nhà (mái ngói)

Ốc Thượng Thổ - Ý nghĩa đất trên nóc nhà (mái ngói)

Sách Bác Vật Vựng Biên ghi: Bính Tuất Đinh Hợi. Bính Đinh thuộc Hỏa. Tuất Hợi là của trời (Thiên môn). Hỏa ở trên cao dĩ nhiên đất không sinh dưới thấp nên gọi bằng Ốc Thượng Thổ.

Ốc Thượng Thổ là ngói lợp mái nhà để che sương, tuyết mưa. Muốn thành ngói, Thổ phải trộn với nước lại đưa vào lò lửa luyện nung. Người mang nạp âm Ốc Thượng Thổ dù số hay cũng phải trải thiên ma bách triết để thoát thai hoán cốt mới thành công. Nếu đi con đường dễ thì cái thành công chỉ là thứ thành công chóng tàn dễ vỡ như hòn ngói chưa nung chín gặp mưa nhanh chóng nát ra.

Bính Tuất, Tuất thuộc Thổ chính vị sức chiến đấu dẻo dai cứng cỏi hơn. Đinh Hợi vì Hợi thuộc Thủy Thổ khắc Thủy sức đề kháng không khỏe bằng Bính Tuất.

Thành Đầu Thổ (đất bờ thành), Bích Thượng Thổ (đất trên tường) và Ốc Thượng Thổ (đất nóc nhà) đều sợ Mộc, nhất là Tang Đố Mộc, Thạch Lựu Mộc, như thân tự chôn xuống mộ. 3 hành Thổ này tuy không sợ Bình Địa Mộc, Đại Lâm Mộc, Tùng Bá Mộc nhưng không bền vững vì hình kỵ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ốc Thượng Thổ - Ý nghĩa đất trên nóc nhà (mái ngói)

Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Dần, Mão

Con tuổi Tý, Thìn, Ngọ, Tuất, Hợi: Nhìn chung, gia đình đầm ấm, yên vui. Mọi người luôn quan tâm, đùm bọc lẫn nhau, con cái được cha mẹ yêu thương, chăm sóc
Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Dần, Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cha mẹ tuổi Dần

- Con tuổi Tý, Thìn, Ngọ, Tuất, Hợi: Nhìn chung, gia đình đầm ấm, yên vui. Mọi người luôn quan tâm, đùm bọc lẫn nhau, con cái được cha mẹ yêu thương, chăm sóc cẩn thận. Tuy nhiên, hai bên vẫn xảy ra những xung đột nhỏ nhưng sẽ được giải quyết ổn thỏa.

- Con tuổi Sửu, Dần, Mão, Tỵ, Mùi, Thân, Dậu: Gia đình có xung khắc, không được yên ấm lắm, con cái hay cãi lại cha mẹ hoặc đi thoát ly sớm. Nhìn chung, cha mẹ và con cái thường không hiểu nhau.

Tuoi Ty (7)
 

2. Cha mẹ tuổi Mão

- Con tuổi Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu: Gia đình tràn ngập tiếng cười, hạnh phúc ấm êm. Tuy nhiên, cha mẹ không nên quá nghiêm khắc với con tuổi Ngọ để con có thể phát triển được tốt nhất.

- Con tuổi Tý, Sửu, Dần, Tuất, Hợi: Gia đình không được hòa thuận lắm, thậm chí còn lạnh nhạt và bế tắc. Cha mẹ ít có điều kiện chăm sóc con cái. Chính vì vậy, con cái cũng không hiếu thuận, hay cãi lại cha mẹ, nói dối hoặc bất đồng quan điểm.

(Theo Đời người qua 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Dần, Mão

Tính bậc cầu thang theo "Sinh, Lão, Bệnh, Tử" và cách thiết kế hút tiền bạc, tài lộc

Khi thiết kế các bậc cầu thang cần biết cách tính "Sinh, Lão, Bệnh, Tử" để không phạm phải những điều cấm kị trong phong thủy, mang lại may mắn, tài lộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt cầu thang đúng vị trí và thiết kế phong thủy tốt là những yếu tố quan trọng giúp cân bằng và thu hút may mắn, tài lộc cho chủ nhân của ngôi nhà.

Cầu thang trong phong thủy còn mang ý nghĩa lưu thông dòng chảy năng lượng giữa các tầng. Bên cạnh đó, ngoại thất và nội thất cầu thang cũng quan trọng không kém. Ngoại thất và nội thất cầu thang kết nối không gian giúp năng lượng chảy liên tục và thông suốt. 


tinh bac cau thang theo "sinh, lao, benh, tu" va cach thiet ke hut tien bac, tai loc - 1

Thiết kế cầu thang liên quan đến sức khỏe, tài lộc của gia đình.

Tính bậc cầu thang theo "Sinh, Lão, Bệnh, Tử"

Khi thiết kế cầu thang, điều cần đặc biệt được lưu tâm đó là tính bậc. Bậc cầu thang thông thường sẽ được tính theo vòng tuần hoàn "Sinh, Lão, Bệnh, Tử" giống như vòng tuần hoàn luân hồi của con người.

Theo đó, cách tính bậc cầu thang sẽ tính từ bậc đầu tiên cho đến bậc cuối cùng.

Bậc đầu tiên ứng với "Sinh", bậc thứ hai ứng với "Lão", bậc thứ ba ứng với "Bệnh", bậc thứ tư ứng với "Tử", bậc thứ năm ứng với "Sinh".... Rồi tiếp tục lặp lại với các bậc tiếp theo ứng với "Lão, Bệnh, Tử, Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Sinh..." cho đến bậc cuối cùng, sao cho bậc cuối cùng ứng với chữ "Sinh" là tốt nhất trong phong thủy.


tinh bac cau thang theo "sinh, lao, benh, tu" va cach thiet ke hut tien bac, tai loc - 2

Cách tính bậc cầu thang theo "Sinh, Lão, Bệnh, Tử".

Ngoài ra để việc thiết kế cầu thang được trọn vẹn, gia đình bạn nên tuân theo 12 lời khuyên phong thủy dưới đây:

1. Số bậc cầu thang nên là 1, 2, 5, 10, 13, 14, 17 và 22.

2. Cầu thang không nên đối diện với cửa trước của nhà.

3. Cầu thang không nên đối diện với cửa ra vào phòng tắm hoặc phòng ngủ.

4. Cầu thang không nằm ở vị trí trung tâm của ngôi nhà.

5. Thiết kế và trang trí cầu thang không nên sử dụng màu đỏ.

6. Cầu thang không nên đối mặt với một góc nhà.

7. Nếu trong nhà có hai cầu thang thì nên để chúng chếch khác hướng nhau, không nên đối mặt với nhau.


tinh bac cau thang theo "sinh, lao, benh, tu" va cach thiet ke hut tien bac, tai loc - 3

Cầu thang không nên thiết kế quá lòng vòng.

8. Các bậc cầu thang không quá dốc hoặc quá hẹp.

9. Cách thiết kế cầu thang hình xoắn ốc không được khuyến khích áp dụng.

10. Các khúc nghỉ của cầu thang không nên cong hoặc uốn lượn quá.

11. Ngoại thất và nội thất thiết kế cầu thang phải an toàn và cho ánh sáng tốt.

12. Bếp nấu, bếp lò, lò sưởi không nên đặt dưới gầm cầu thang.

"Cứu vớt" phong thủy ngôi nhà với thiết kế cầu thang không may mắn

Đôi khi bạn mua nhà sẵn hoặc đã lỡ thiết kế nhà mà cầu thang phạm phải cấm kị trong phong thủy, mang lại nhiều điều không may mắn. Vì thế cần phải biết những mẹo để làm giảm sự xui xẻo do nó mang lại.

Lời khuyên tốt nhất dành cho gia đình bạn đó là dùng những vật dụng trang trí nhà để tạo ra sự cân bằng năng lượng.

Có thể treo một chiếc chuông hoặc chiếc đèn lồng trước cửa chính của ngôi nhà, nó sẽ phản ánh năng lượng tiêu cực ra khỏi nhà.

Một cách khác theo phong thủy xưa đó là dùng 5 lá bùa đặt dưới gầm bậc cầu thang (bên cưới mỗi bậc cầu thang bằng bê tông hoặc bậc cuối cùng đối với cầu thang gỗ). Việc làm này sẽ giúp thu hút năng lượng tích cực, bảo vệ chủ nhân ngôi nhà và mang lại sức khỏe, may mắn, tiền bạc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính bậc cầu thang theo "Sinh, Lão, Bệnh, Tử" và cách thiết kế hút tiền bạc, tài lộc

Phong thủy dành cho nhà vệ sinh –

Phòng tắm nên đặt ở hướng xấu, dữ, tránh đặt đè lên hướng lành. Phong thủy phòng tắm đã trở thành một phần quan trọng trong phong thủy nhà ở hiện đại. Bản chất của không gian này là không sạch sẽ, vì vậy nếu đặt ở hướng lành sẽ ảnh hưởng không tốt tớ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng tắm nên đặt ở hướng xấu, dữ, tránh đặt đè lên hướng lành.

Phong thủy phòng tắm đã trở thành một phần quan trọng trong phong thủy nhà ở hiện đại. Bản chất của không gian này là không sạch sẽ, vì vậy nếu đặt ở hướng lành sẽ ảnh hưởng không tốt tới các sao lành, vận may của đất ở. Ngược lại, công trình phụ đặt đè lên hướng dữ, lấy độc trị độc sẽ biến dữ thành lành.

file.342961

Phòng tắm hợp phong thủy sẽ đem lại sức khỏe thậm chí vận may cho gia chủ

Vị trí khu phụ (nhà tắm, toilet) trong nhà và vị trí xí bệt (nơi đại tiện) trong khu phụ nên đặt ở các cung Hoạ Hại, Tuyệt Mệnh, Lục Sát, Ngũ Quỷ.

Trong trường hợp nhà đã xây, không thay đổi được vị trí nhà vệ sinh, có thể thay đổi vị trí của xí bệt tránh khỏi các hướng xấu kể trên. Dưới đây là một cẩm nang ngắn giúp bạn có thể xây một phòng tắm hay toilet hợp phong thuỷ hơn:

– Không nên đặt khu phụ ở trung tâm căn nhà
– Không nên cải tạo khu phụ thành phòng ngủ
– Vị trí đặt khu phụ nên ở chỗ khuất, tránh nhìn thẳng từ cửa vào
– Luôn duy trì khu phụ sạch sẽ và có không khí lưu thông
– Khu phụ không nên đặt gần khu vực thờ cúng
– Khu phụ tránh đặt gần bếp, vì Thủy khắc Hỏa
– Hướng bồn cầu không được cùng hướng nhà (cửa chính)
– Nếu nhà có hành lang dài, tuyệt đối không để khu phụ ở cuối hành lang mà nên để ở hai bên
– Không nên để khu phụ ở trong phòng ngủ, hay thẳng trên đầu phòng ngủ
– Nền khu phụ nên thấp hơn nền phòng ngủ, nếu không sẽ khiến phòng ngủ ẩm thấp, sinh các bệnh nội tiết
– Khu phụ không được làm hai cửa, nếu không tài lộc vào sẽ chảy đi hết
– Khu phụ không nên quá bé, gây tù hãm, thiếu sinh khí, cũng không nên quá to, tạo cảm giác bất an.

file.342960

Lưu ý cuối cùng là khu phụ gồm nhà vệ sinh hay phòng tắm nên toạ hung, hướng cát, nghĩa là đặt ở cung xấu và hướng về hướng tốt. Điều này sẽ mang lại vượng phúc cho gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy dành cho nhà vệ sinh –

Xem tuổi và mệnh –

Coi tuổi mạng và năm sinh 1-(1941, 2001, 2061) Tuổi Tân Tỵ, cung Tốn, mạng Bạch Lạp Kim (chân đèn bằng vàng), xương con cọp, tướng tinh con thuồng luồng, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế-Trường mạng 2-(1940, 2000, 2060) Tuổi Canh Thìn, cung Chấn,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Coi tuổi mạng và năm sinh

hiep-hon-bang-1a

1-(1941, 2001, 2061) Tuổi Tân Tỵ, cung Tốn, mạng Bạch Lạp Kim (chân đèn bằng vàng), xương con cọp, tướng tinh con thuồng luồng, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế-Trường mạng

2-(1940, 2000, 2060) Tuổi Canh Thìn, cung Chấn, mạng Bạch Lạp Kim(chân đèn bằng vàng), xương con rồng, tướng tinh con quạ, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế-Trường mạng.

3-(1939, 1999) Tuổi Kỹ Mẹo, cung Khôn, mạng Thành Ðầu Thổ ( đất trên thành), xương con thỏ, tướng tinh con rồng, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.

4-(1938, 1998) Tuổi Mậu Dần, cung Khảm, mạng Thành Ðầu Thổ (đất trên thành), xương con cọp, tướng tinh con thuồng luồng, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.

5-(1937, 1997) Tuổi Ðinh Sửu, cung Ly, mạng Giáng Hạ Thuỷ( nước mù sương), xương con trâu, tướng tinh con trùn, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế- Cô bần

6-(1936, 1996,2056) Tuổi Bính Tý, cung Cấn, mạng Giáng Hạ Thuỷ(nước mù sương), xương con chuột, tướng tinh con rắn, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế-Cô bần.

7-(1935, 1995) Tuổi Ất Hợi, cung Ðoài, mạng Sơn Ðầu Hoả (lửa trên núi), xương con heo, tướng tinh con hưu, khắc Sa Trung Kim, con nhà Xích Ðế-Cô bần.

8-(1934, 1994) Tuổi Giáp Tuất, cung Càn, mạng Sơn Ðầu Hoả (lửa trên núi), xương con chó, tướng tinh con ngựa, khắc Sa Trung Kim, con nhà Xích Ðế-Cô bần.

9-(1933, 1993) Tuổi Quí Dậu, cung Chấn, mạng Kiếm Phong Kim (kiếm bằng vàng), xương con gà, tướng tinh con đười ươi, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế- Phú quí.

10-(1932, 1992) Tuổi Nhâm Thân, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim, xương con khỉ, tướng tinh con dê, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.

11-(1931, 1991) Tuổi Tân Mùi, cung Khảm, mạng Lộ Bàng Thổ (đất đường đi), xương con dê, tướng tinh con gấu, khắc Tuyền Trung Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Bần cùng.

12-(1930, 1990) Tuổi Canh Ngọ, cung Ly, mạng Lộ Bàng Thổ, xương con ngựa, tướng tinh con vượn, khắc Tuyền Trung Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Bần cùng.

13-(1929, 1989) Tuổi Kỹ Tỵ, cung Cấn, mạng Ðại Lâm Mộc(cây lớn trong rừng), xương con rắn, tướng tinh con khỉ, khắc Ðại Trạch Thổ, con nhà Thanh Ðế- Trường mạng.

14-(1928, 1988) Tuổi Mậu Thìn, cung Ðoài, mạng Ðại Lâm Mộc, xương con rồng, tướng tinh con quạ, khắc Ðại Trạch Thổ, con nhà Thanh Ðế-Trường mạng.

15-(1927, 1987) Tuổi Ðinh Mẹo, cung Càn , mạng Lư Trung Hoả(lửa trong lư), xương con thỏ, tướng tinh con gà, khắc Kiếm Phong Kim, con nhà Xích Ðế-cô bần

16-(1926, 1986) Tuổi Bính Dần, cung Khảm, mạng Lư Trung Hoả, xương con cọp, tướng tinh con chim trĩ, khắc Kiếm Phong Kim, con nhà Xích Ðế-cô bần

17-(1925, 1985) Tuổi Ất Sửu, cung Tốn, mạng Hải Trung Kim(vàng dưới biển), xương con trâu, tướng tinh con chó, khắc Bình Ðịa Mộc, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.

18-(1924, 1984) Tuổi Giáp Tý, cung Chấn, mạng Hải Trung Kim, xương con chuột, tướng tinh con chó sói, khắc Bình Ðịa Mộc, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.

19-(1923, 1983) Tuổi Quí Hợi, cung Cấn, mạng Ðại Hải Thuỷ(nước biển lớn), xương con heo, tướng tinh con gà, khắc Thiên Thượng hoả, con nhà Hắc Ðế-Quan lộc, tân khổ.

20-(1922, 1982) Tuổi Nhâm Tuất, cung Ðoài, mạng Ðại Hải Thủy, xương con chó, tướng tinh con chim trĩ, khắc Thiên Thượng hoả, con nhà Hắc Ðế-Quan lộc, tân khổ.

21-(1921, 1981) Tuổi Tân Dậu, cung Càn, mạng Thạch Lựu Mộc (cây lựu đá), xương con gà, tướng tinh con chó, khắc Bích Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Cô bần.

22-(1920, 1980) Tuổi Canh Thân, cung Khôn, mạng Thạch Lựu Mộc, xương con khỉ, tướng tinh con cho sói, khắc Bích Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Cô bần.

23-(1919, 1979) Tuổi Kỹ Mùi, cung Tốn, mạng Thiên Thượng Hoả (lửa trên trời), xương con dê, tướng tinh con rùa, khắc Sa Trung Kim, con nhà Xích Ðế-Cô bần.

24-(1918, 1978) Tuổi Mậu Ngọ, cung Chấn, mạng Thiên Thượng Hoả, xương con ngựa, tướng tinh con heo, khắc Sa Trung Kim, con nhà Xích Ðế-Cô bần.

25-(1917, 1977) Tuổi Ðinh Tỵ, cung Khôn, mạng Sa Trung Thổ (đất trong cát), xương con rắn, tướng tinh con cú, khắc Dương Liễu Mộc, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.

26-(1916, 1976) Tuổi Bính Thìn, cung Khảm, mạng Sa Trung Thổ, xương con rồng, tướng tinh con chuột, khắc Dương Liễu Mộc, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.

27-(1915, 1975) Tuổi Ất Mẹo, cung Ly, mạng Ðại Khê Thuỷ( nước khe lớn), xương con mèo, tướng tinh con dơi, khắc Sơn Hạ Hoả, con nhà Hắc Ðế-Phú quí.

28-(1914, 1974) Tuổi Giáp Dần, cung Cấn, mạng Ðại Khê Thuỷ, xương con cọp, tướng tinh con trâu, khắc Sơn Hạ Hoả, con nhà Hắc Ðế-Phú quí.

29-(1913, 1973) Tuổi Quí Sửu, cung Tốn, mạng Tang Ðố Mộc (cây dâu), xương con trâu, tướng tinh con cua biển, khắc Ốc Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế- Quan lộc, tân khổ.

30-(1912, 1972) Tuổi Nhâm Tý, cung Chấn, mạng Tang Ðố Mộc, xương con chuột, tướng tinh con heo, khắc Ốc Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Quan lộc, tân khổ.

31-(1911, 1971) Tuổi Tân Hợi, cung Khôn, mạng Xoa Kim Xuyến (xuyến bằng vàng), xương con heo, tướng tinh con cọp, khắc Ðại Lâm Mộc, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.

32-(1910, 1970) Tuổi Canh Tuất, cung Khảm, mạng Xoa Kim Xuyến, xương con chó, tướng tinh con cáo, khắc Ðại Lâm Mộc, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.

33-(1909, 1969) Tuổi Kỹ Dậu, cung Ly, mạng Ðại Trạch Thổ (đất nền nhà), xương con gà, tướng tinh con thỏ, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Quan lộc.

34-(1908, 1968) Tuổi Mậu Thân, cung Cấn, mạng Ðại Trạch Thổ, xương con khỉ, tướng tinh con lạc đà, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Quan lộc.

35-(1907, 1967) Tuổi Ðinh Mùi, cung Ðoài, mạng Thiên Hà Thuỷ (nước sông Thiên Hà), xương con dê, tướng tinh con rồng, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế- tân khổ.

36-(1906, 1966) Tuổi Bính Ngọ, cung Càn, mạng Thiên Hà Thuỷ, xương con ngựa, tướng tinh con thuồng luồng,khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế- tân khổ.

37-(1905, 1965) Tuổi Ất Tỵ, cung Ðoài, mạng Phúc Ðăng Hoả ( lửa đèn nhỏ), xương con rắn, tướng tinh con trùn, khắc Xoa Xuyến Kim, con nhà Xích Ðế-Tân khổ.

38-(1904, 1964) Tuổi Giáp Thìn, cung Tốn, mạng Phúc Ðăng Hoả, xương con rồng, tướng tinh con rắn,khắc Xoa Xuyến Kim, con nhà Xích Ðế-Tân khổ.

39-(1903, 1963) Tuổi Quí Mẹo, cung Ly, mạng Kim Bạch Kim (vàng trắng), xương con thỏ, tướng tinh con hưu, khắc Lư Trung Hoả, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.

40-(1902, 1962) Tuổi Nhâm Dần, cung Cấn, mạng Kim Bạch Kim, xương con cọp, tướng tinh con ngựa, khắc Lư Trung Hoả, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.

41-(1901, 1961) Tuổi Tân Sửu, cung Ðoài, mạng Bích Thượng Thổ ( đất trên vách), xương con trâu, tướng tinh con đười ươi, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Quna lộc, bần cùng.

42-(1900, 1960) Tuổi Canh Tý, cung Càn, mạng Bích Thượng Thổ, xương con chuột, tướng tinh con dê, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Quna lộc, bần cùng.

43-(1899, 1959) Tuổi Kỷ Hợi, cung Cấn, mạng Bình Ðịa Mộc(cây trên đất bằng), xương con heo, tướng tinh con gấu, khắc Sa Trung Kim, con nhà Thanh Ðế-Phú quí.

44-(1958, 2018) Tuổi Mậu Tuất, cung Tốn, mạng Bình địa mộc (cây trên đất bằng), xương con chó tướng tính con vượn, khắc Sa Trung Kim, con nhà Thanh Ðế-Phú quí.

45-(1957, 2017) Tuổi Ðinh Dậu, cung Chấn, mạng Sơn Hạ Hoả (lửa dưới núi), xương con gà, tướng tinh con khỉ, khắc Thích Lịch Hoả, con nhà Xích Ðế-Cô bần

46-(1956, 2016) Tuổi Bính Thân, cung Khôn, mạng Sơn Hạ Hỏa, xương con khỉ, tướng tinh con quạ, khắc Thích Lịch Hoả, con nhà Xích Ðế-Cô bần

47-(1955, 2015) TuổiẤt Mùi, cung Khảm, mạng Sa Trung Kim (vàng trong cát), xương con dê, tướng tinh con gà, khắc Thạch Lựu mộc ,con nhà Bạch Ðế- An mạng phú quí

48-(1954, 2014) Tuổi Giáp Ngọ, cung Ly, mạng Sa Trung Kim, xương con ngựa, tướng tinh con chim trĩ, khắc Thạch Lựu mộc ,con nhà Bạch Ðế- An mạng phú quí

49-(1953, 2013) Tuổi Quí Tỵ, cung Khôn, mạng Trường Lưu Thuỷ(nước chảy dài), xương con rắn, tướng tinh con chó, khắc Thiên Thượng Hoả , con nhà Hắc Ðế- Trương mạng

50-(1952, 2012) Tuổi Nhâm Thìn, cung Khảm, mạng Trường Lưu Thuỷ, xương con rồng, tướng tinh con chó sói, khắc Thiên Thượng Hoả , con nhà Hắc Ðế- Trương mạng

51-(1951, 2011) Tuổi Ất Mẹo, cung Ly, mạng Tòng Bá mộc ( cây Tòng và cây Bá), xương con thỏ, tướng tinh con rái, khắc Lộ Bàng thổ , con nhà Thanh Ðế-Trường mạng

52-(1950, 2010) Tuổi Canh Dần, cung Cấn, mạng Tòng Bá mộc, xương con cọp, tướng tinh con heo, khắc Lộ Bàng thổ , con nhà Thanh Ðế-Trường mạng

53-(1949, 2009) Tuổi Kỹ Sửu, cung Ðoài, mạng Thích Lịch Hoả ( lửa sấm sét), xương con trâu, tướng tinh con heo, khắc Thiên Thượng Thuỷ , con nhà Xích Ðế-Phú quí.

54-(1948, 2008) Tuổi Mậu Tý, cung Càn, mạng Thích Lịch Hoả, xương con chuột, tướng tinh con chó sói,khắc Thiên Thượng Thuỷ , con nhà Xích Ðế-Phú quí.

55-(1947, 2007) Tuổi Ðinh Hợi, cung Cấn, mạng Ốc Thượng Thổ ( đất ổ vò vỏ), xương con heo, tướng tinh con dơi, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Huỳnh Ðế- Phú quí.

56-(1946, 2006) Tuổi Bính Tuất, cung Tốn,mạng Ốc Thượng Thổ, xương con chó, tướng tinh con trâu, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.

57-(1945, 2005) Tuổi Ất Dậu, cung Chấn, mạng Tuyền Trung Thuỷ (nước trong giếng), xương con gà, tướng tinh con cua, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế-Từ tánh, phú quí.

58-(1944, 2004) Tuổi Giáp Thân, cung Khôn , mạng Tuyền Trung Thuỷ, xương con khỉ, tướng tinh con heo, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế-Từ tánh, phú quí.

59-(1943, 2003) Tuổi Quí Mùi, cung Càn, mạng Dương Liễu mộc ( cây dương liễu), xương con dê, tướng tinh con cọp, khắc Lộ Bàng Thổ, con nhà Thanh Ðế-trường mạng.

60-(1942, 2002) Tuổi Nhâm Ngọ, cung Ly, mạng Dương Liễu mộc, xương con ngựa, tướng tinh con rắn, khắc Lộ Bàng Thổ, con nhà Thanh Ðế-trường mạng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi và mệnh –

Mơ thấy răng, nên mừng hay lo?

Mơ thấy răng là một trong những giấc mơ phổ biến nhất của con người. Trong mơ, bạn có thể thấy mình bị rụng răng, bị gãy răng, bị mất một vài chiếc răng...
Mơ thấy răng, nên mừng hay lo?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mơ thấy răng là một trong những giấc mơ phổ biến nhất của con người. Trong giấc mơ, bạn có thể thấy mình bị rụng răng, bị gãy răng, bị mất một vài chiếc răng hoặc mọc thêm răng mới… Mỗi loại giấc mơ như vậy lại mang đến những điềm báo riêng.    

Mơ thấy răng bị rụng

  Giấc mơ về răng, trong đó có trường hợp bị rụng răng là biểu hiện của sự lo lắng, bất lực và thiếu kiểm soát của con người. Họ hay chán nản, có bản ngã thấp, ít hài lòng với cuộc sống của mình.   Ngoài ra, nó còn báo hiệu sự rạn nứt về tình cảm gia đình như phải xa bố mẹ hoặc tranh cãi với người thân và có thể mang dấu hiệu về sự đau ốm, bệnh tật của một thành viên trong gia đình. Nếu mơ thấy toàn bộ răng bị rụng hết, sẽ xuất hiện sự thay đổi về thân phận của bạn.    Mặt khác, mơ thấy mình bị rụng răng còn có thể ám chỉ rằng đây là quá trình bắt đầu một điều mới mẻ như một dự án, một mối quan hệ mới hoặc thay đổi thói quen cả nam và nữ.   Đối với phụ nữ, mơ về việc rụng răng có liên quan đến sinh đẻ. Tham khảo Mơ thấy bị rụng răng là điềm gì? để biết thêm chi tiết.

Mo thay rang, nen mung hay lo hinh anh 2
 

Mơ răng bị vỡ

  Răng bị vỡ trong giấc mơ là biểu hiện cho những thách thức, căng thẳng, ẩn chứa những cảm giác tiêu cực phá vỡ sự cân bằng, niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống của bạn.   Đây còn là cảnh báo về một thỏa hiệp tốn kém mà bạn đang thực hiện và kết quả đạt được cũng không mấy khả quan.   Một chiếc răng bị vỡ trong giấc mơ cho thấy đang diễn ra những điều không đáng tin cậy trong cuộc sống của bạn, chẳng hạn như việc lo lắng về sức khoẻ và sự lão hóa của cơ thể hay cảm giác sợ hãi vì bị tổn thương về mặt tình cảm hoặc gây ra tổn thương cho người khác.   Đồng thời, giấc mơ này cũng là một sự nhắc nhở để bạn xem xét lại con đường đã chọn. Kiểm tra xem nhu cầu thực sự của bạn là gì để đi đúng hướng và đạt được hiệu quả tốt nhất.
Mo thay rang, nen mung hay lo hinh anh 2
 

Mơ bị mất hoặc thiếu một vài chiếc răng

  Mất răng là biểu tượng mạnh mẽ của mối quan tâm về hình ảnh cơ thể. Vì răng là một phần quan trọng trên tổng thể khuôn mặt, nên chúng là đối tượng của rất nhiều sự chú ý. Nếu bạn đang bị mất hoặc thiếu một vài chiếc răng trong một giấc mơ, nó chỉ ra mối quan tâm đặc biệt của bạn về ngoại hình, sức khoẻ cũng như sự lão hoá.   Đồng thời, khi có giấc mơ này, bạn nên chú ý đến cảm giác mất mát bạn có thể gặp phải do sự thay đổi đột ngột trong cuộc sống. Nó có thể liên quan đến tình hình công việc, gia đình, mối quan hệ cá nhân của bạn.   Giấc mơ về việc mất hoặc thiếu một vài chiếc răng là một lời kêu gọi để bạn ý thức hơn về những gì đang diễn ra và đối phó với nó một cách cởi mở hơn, ý thức hơn.
Mo thay rang, nen mung hay lo hinh anh 2
 

Mơ răng mọc dài ra hoặc mọc thêm răng mới

  Nếu bạn nằm mơ răng của mình mọc dài ra có nghĩa là bạn đang phải đối mặt với những thay đổi cơ bản trong cuộc sống. Những thay đổi đó có thể là sự đau khổ về cảm xúc, đối mặt với mất mát, thách thức và những cảm xúc phiền não.   Nếu bạn là phụ nữ thì giấc mơ này tượng trưng cho sự sinh sản, hoặc nảy sinh một dự án mới trong tương lai.   Bên cạnh đó, giấc mơ này cũng chỉ ra rằng bạn đang ý thức hơn về mặt cảm xúc, biết tiết chế bản thân, đồng thời muốn trải nghiệm để tự khám phá bản thân.   Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, mơ thấy mình mọc răng là điềm báo mọi sự tốt lành và thuận lợi sẽ đến với bạn.   Bên cạnh đó, khi đang ốm hoặc cơ thể đang phải điều trị bệnh nào đó mà mơ thấy hiện tượng mọc răng thì mọi bệnh tật sẽ nhanh chóng biến mất và báo hiệu rằng bạn sẽ sống rất thọ.

Có câu "cái răng cái tóc là góc con người", không chỉ có răng mới thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ, tóc cũng không ngoại lệ. Vì vậy, có thể bạn quan tâm Những lời cảnh báo về ngoại hình khi mơ thấy tóc.

Thủy Nguyễn
Mơ thấy cắt tóc có ý nghĩa gì? Mơ thấy chó chạy vào nhà, may túi đựng tiền là vừa 5 giấc mơ cảnh báo bạn cần chuyển nhà ngay lập tức

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy răng, nên mừng hay lo?

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Các Kiểu Tay Nói Lên Khí Chất Con Người

Tướng tay nói lên các khí chất của con người, tướng tay to thì thận trọng trong tình cảm, tay nhỏ thì phóng khoáng phát đạt sự nghiệp, tay dày và tay mỏng có khác nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trên thế giới có thể tìm thấy được người có tướng mạo giống nhau, nhưng lại không thể tìm thấy hai bàn tay giống hệt nhau, tướng tay của con người khác nhau về ngoại hình sẽ có kích thước lớn nhỏ, dày mỏng, cứng mềm, hơn nữa đặc trưng các bộ phận nhỏ của tay thì lại thiên biến vạn hóa.

1. Xem tướng tay to và tướng tay nhỏ

Xác định kích thước lớn nhỏ của bàn tay mình phải so sánh với những đặc trưng tưổng mạo.

- Với tướng tay to:

Tay to thường mang lại cho người khác ấn tượng thô lỗ, nhưng theo thuật xem bói tướng tay thì người tay to có tư duy, tình cảm lại vô cùng cẩn trọng, có khả năng quan sát cực tốt đôi với sự vật, hơn nữa sau khi suy nghĩ cẩn thận họ mới có hành động cụ thể, họ thường xử lý công việc chu đáo, thỏa đáng. Trên cơ sỏ đặc trưng tính cách như vậy, người tay to khi làm việc yêu cầu phải thật nhẫn nại mới thành công. Ngoài ra, kiểu người này thông thường có quan niệm tài chính nghiêm khắc, không hoang phí một đồng.

- Với tướng tay nhỏ:

Những người có đôi bàn tay nhỏ, tính cách ngược lại, có chút phóng khoáng, không chịu ràng buộc với người khác nhưng không chi li, có thể phán đoán tốt phương hướng phát triển của sự vật.

Người có bàn tay rất nhỏ về mặt tính cách thường lỗ mãng, tính khí tàn bạo vô thường, nếu vận khí tốt họ sẽ đạt được thành công rất lớn trong sự nghiệp.

Ngoài ra, phụ nữ có bàn tay nhỏ khả năng làm việc cũng mạnh hơn nam giới, dễ đạt được thành công trong công việc. 

2. Tướng tay dày và Tướng tay mỏng 

Theo thuật xem bói tướng tay từ độ dày mỏng cơ thịt trên bàn tay cũng có thể thấy được tính cách của một người.

- Với tướng tay dày:

Cơ thịt ồ bàn tay dày dặn mà khả năng đàn hồi tốt khi dùng đầu ngón tay ấn vào phần dưới của ngón tay cái cho thấy sức khỏe tốt, có thể đảm bảo được sức sống tốt, hơn nữa còn có khả năng thu hút người khác giới. Nếu phụ nữ có bàn tay này cho thấy họ có sức quyến  vô biên, thích hợp với những việc trong ngành dịch vụ. Nếu cơ thịt của tay dày dặn nhưng lặi không có tính đàn hồi, kiêu bàn tay béo tròn cho thấy người này có bản tính trời sinh, tính tình lãng mạn, có khả năng giao tiếp nhất định, có thể thích ứng được với môi trường sống. Khuyết điểm chính là làm việc không theo nguyên tắc, thích chìm đắm trong hưởng lạc, không thích vùi đầu vào công việc và học tập.

-Với tướng tay mỏng:

Cơ thịt của bàn tay mỏng mà bằng, người có bàn tay này có tư duy logic rất tốt, luôn xử lý công việc thiếu tính chủ động, thích ổn định nhàn hạ. Khi gặp phải khó khăn tình cảm của họ thường bị dao động rất lớn, dễ rơi vào bị động. Kiểu người này do đại não phản ứng nhanh, rất thích hợp làm những công việc trí não, đi vào các lĩnh vực như hoạch định kế hoạch doanh nghiệp, giáo dục, nghiên cứu sẽ đạt được thành công lớn.Nêu phụ nữ có kiểu bàn tay này, cho thấy mối quan hệ của họ với bên chồng không được tốt, vì vậy cuộc sống hôn nhân luôn gặp những phiền muộn, cần có sự điều chỉnh phù hợp.

3. Tướng bàn Tay Rộng và Hẹp 

- Với tướng tay rộng:

Người có bàn tay rộng họ nói được là làm được, luôn nghiêm túc thực hiện mục tiêu. Đặc biệt là người có bàn tay dày dặn, bất luận nam hay nữ đều có sức sống dồi dào, có thể đạt được thành tích xuất sắc trên nhiều lĩnh lực. Kiểu người này không có hứng thú với nghệ thuật nhưng lại cũng rất hào hứng với vận động thể lực. Nếu tay rộng là vì bàn tay sưng phù hoặc có nhiều thịt cho thấy người này thường lười biếng, cơ thể khỏe mạnh vạm vỡ, nói chung thường làm việc không tới nơi tới chốn, đặc biệt là khi thể hiện tình cảm thường lỗ mãng, cục cằn, khiến cho đối phương cảm thấy tẻ nhạt.

- Với tướng tay hẹp:

Người có bàn tay hẹp, đại não phát triển hơn cơ thể, thích hợp với công việc sử dụng tới trí óc. Mặc dù sức đề kháng của họ tương đối yếu,tinh lực và khả năng chịu đựng cũng không tốt nhưng họ có đặc điếm rất nhạy cảm,cho nên nên đầu quân vào lĩnh vực nghệ thuật, giáo dục sẽ có được nhiều thành tựu

Phụ nữ có bàn tay hẹp tính cách có chút khác người, thích soi mói những chi tiết nhỏ nhặt, lãng phí nhiều tinh lực. Kiểu người này rất hay để ý người khác, thường mù quáng chạy theo vật chất, tiêu phí tiền bạc,không biết tự khống chế. Về mặt tình cảm họ quá nặng về suy nghĩ, thiếu hành động chủ quan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các Kiểu Tay Nói Lên Khí Chất Con Người

Đoán vận mệnh tương lai qua hình dáng tai

Hình dáng đôi tai cho biết bạn là người như thế nào và tướng vận tương lai có thăng tiến hay không.
Đoán vận mệnh tương lai qua hình dáng tai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tai-1-9850-1442013027.jpg tai-2-8187-1442013027.jpg tai-3-9627-1442013027.jpg tai-4-6570-1442013027.jpg
1. Tai to, dái tai dày 2. Dái tai to, xệ xuống dưới 3. Tai nhọn, dái tai nhỏ 4. Không có dái tai

Mr.Bull (theo DZYX)

ktt1410tuongmao2kienthucpqcf-1-9778-6540 Giải mã 4 vị trí nốt ruồi ở tai

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán vận mệnh tương lai qua hình dáng tai

Các lễ hội ngày 1 tháng 7 âm lịch - Hội Nguyễn Đình Chiểu

Hội Nguyễn Đình Chiểu được tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 7 âm lịch tạixã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 1 tháng 7 âm lịch - Hội Nguyễn Đình Chiểu

Các lễ hội ngày 1 tháng 7 âm lịch - Hội Nguyễn Đình Chiểu

Hội Nguyễn Đình Chiểu

Thời gian: tổ chức vào ngày 1 tháng 7 âm lịch.

Địa điểm: xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.

Nội dung: Phần lễ được tổ chức long trọng với lễ dâng hương và lễ mít tinh tại khu di tích Nguyễn Đình Chiểu. Sau khi bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” được xướng lên trong không khí trang nghiêm là các hoạt cảnh diễn lại tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” nổi tiếng của nhà thơ.

Phần hội cũng không kém phần sôi nổi với nhiều hoạt động như: bốc thuốc miễn phí, thi nấu ăn, kéo co, đập niêu, biểu diễn trống hội, Liên hoan đờn ca tài tử, thi hóa trang các nhân vật trong truyện “Lục Vân Tiên”, ngâm thơ, múa lân, thi đấu võ thuật,…

Đến với Lễ hội truyền thống văn hoá tỉnh Bến Tre, du khách còn có dịp tham quan triển lãm ảnh về thành tựu kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre và các tác phẩm văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng như tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp văn chương của nhà thơ.

Lễ hội Nguyễn Đình Chiểu được tổ chức hàng năm gắn với ngày sinh của ông là một ngày hội lớn, niềm tự hào của người dân xứ dừa. Qua lễ hội nhằm tuyên truyền, học tập, kế thừa những giá trị tư tưởng, nhân cách, đạo đức của nhà giáo, thầy thuốc, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, góp phần tích cực vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống văn hóa địa phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 1 tháng 7 âm lịch - Hội Nguyễn Đình Chiểu

Sao Tướng Quân

Hành: Mộc Loại: Võ Tinh, Quyền Tinh Đặc Tính: Uy quyền, mệnh lệnh. Phụ tinh. Sao thứ 5 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ ...
Sao Tướng Quân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: MộcLoại: Võ Tinh, Quyền TinhĐặc Tính: Uy quyền, mệnh lệnh.
Phụ tinh. Sao thứ 5 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ. Cũng là một trong 4 sao của cách Binh Hình Tướng Ấn (Phục Binh, Thiên Hình, Tướng Quân, Quốc Ấn).

Ý Nghĩa Tướng Quân

  • Cương trực, thẳng tính, nóng tính, ngang tàng, bất khuất.
  • Can đảm, dũng mãnh, hiên ngang, làm càn, táo bạo.
  • Kiêu căng, có óc lãnh tụ, tinh thần sứ quân, ham cầm quyền. Vể điểm này, Tướng Quân có nghĩa tương tự như Hóa Quyền nhưng khác ở chỗ Hóa Quyền chủ sự nắm quyền bính còn Tướng Quân chỉ sự khao khát quyền bính, háo danh, hiếu thắng.
  • Đối với nữ mệnh, ghen tuông, lấn át chồng, hoặc có tính mạnh bạo như nam nhi.
Ý Nghĩa Tướng Quân Và Một Số Sao Khác
  • Tướng Quân và Thiên Tướng thì uy quyền hiển hách, nếu đồng cung thì càng mạnh hơn, và nặng ý nghĩa quân sự. Nếu là nữ mệnh thì đây là người đàn bà đảm lược, tài ba hoạt động như nam giới. Còn ở trong gia đình thì rất có uy quyền, thường lấn át quyền uy của chồng.
  • Tướng Quân gặp Tuần, Triệt án ngữ: Ví như ông tướng cụt đầu, tổn hại đến tánh mạng, công danh, quyền thế. Chủ sự truất giáng, bãi cách, tai nạn xe cộ, phi cơ, gươm đao, súng đạn khủng khiếp.
  • Tướng Quân, Phục Binh, Không Kiếp: Cũng nguy hiểm đến tính mạng vì có người mưu sát.
  • Tướng Quân, Quốc Ấn, Phục Binh, Thiên Hình: Bộ sao uy dũng chỉ quyền tước, võ nghiệp, cầm quân, cầm quyền.
  • Tướng Quân, Đào Hồng: Đàn bà tơ duyên rắc rối, bị thất tiết, ngoại dâm; đàn ông thì hoang dâm.
  • Tướng Quân, Phá Quân, Phục Binh, Đào Hồng: Dâm dục quá đáng, tư thông, ngoại dâm, loạn luân.
Có quan điểm cho rằng Tướng Quân dù là Thiên Tướng hay Tướng Quân cần đi với Phục Binh, Thiên Mã mới hợp cách, đủ bộ ví như tướng có quân, có uy.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ có tiếng tăm.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Phúc Đức
  • Tăng tuổi thọ, trong họ có người làm nên sự nghiệp nhưng bất hòa.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Điền Trạch
  • Gia tăng lợi ích về việc tạo dựng nhà cửa, lựa được đất tốt, hoặc có nơi an ninh, có thành quách, cơ sở hành chánh, quân sự đầy đủ, hoặc vùng đất xưa kia có bờ rào, thành cổ.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Quan Lộc
  • Lợi ích cho công danh, chức vụ, có uy quyền, có óc lãnh tụ.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, người giúp việc đắc lực.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài oai phong, nhiếp phục được người khác.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được tai nạn, nhưng nóng tính, làm càn thì hay gặp rủi ro, bị cầm giữ.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Tài Bạch
  • Lợi ích cho việc cầu tài, làm giàu, phù hợp với các nghề cổ phiếu, địa ốc.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Tử Tức
  • Con cái có sức khỏe, thành danh, nhưng ít con.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Phu Thê
  • Người hôn phối có tài, có danh, có uy quyền, nhưng hay ghen tuông.
Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Huynh Đệ
  • Tướng Quân, Thiên Mã, Lộc Tồn: Anh em quyền quý.
  • Tướng Quân, Phục Binh, Thai, Đế Vượng: Có anh chị em dị bào, hoặc anh chị em có người dâm đãng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tướng Quân

Địa khí nhà ở quyết đinh gia đình vượng hay suy

Bên cạnh yếu tố Thiên và Nhân thì Địa khí nhà ở cũng vô cùng quan trọng. Địa khí tốt thì gia đình vượng, địa khí xấu thì hiểm họa khôn lường
Địa khí nhà ở quyết đinh gia đình vượng hay suy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy theo phái Bát trạch thường chỉ quan tâm tới hai yếu tố Thiên và Nhân (chú trọng hướng nhà hợp với gia chủ) nhưng bỏ qua một yếu tố cực kì quan trọng - Địa. Nhà ở nơi Địa khí tốt thì con người mới vượng, chứ dẫu được hướng mà Địa khí xấu thì vẫn họa khôn lường.


Nha co Dia khi, khoi lo ve huong hinh anh
 
Địa là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới con người, bởi nhà xây trên mặt đất, con người sống ở đó sẽ hấp thu những năng lượng của đất, các dòng sóng trong đất. Chính vì thế phong thủy hiện đại luôn lấy Địa khí làm đầu rồi mới chọn đến hướng. Nhà tuy chọn được hướng Sinh Khí, Diên Niên mà Địa khí xấu thì chủ cũng bại vong. Ngược lại, được Địa khí mà hướng chưa tốt thì có thể cải thiện.
 
Để đo được Địa khí thì phải sử dụng chỉ số đo năng lượng của đất bằng vật lý cảm xạ (chỉ số BOVIS). Chỉ số Bovis được sử dụng trong môn cảm xạ học, dùng để đo năng lượng của người, động vật, sinh vật, khoáng vật và địa đất.
 
Chỉ số đo năng lượng của của các khoáng vật và địa đất được tính từ 0 đến 20.000 đơn vị. Xác định năng lượng tốt xấu được phát ra từ lòng đất hoặc các khoáng vật như sau:
 
Từ 0 đến 3000: đất ung thư (không thể ở được)
 
Từ 3000 đến 5000: đất gây bệnh (không tốt cho sức khỏe)
 
Từ 5000 đến 7000: đất trung bình (không tốt lắm)
 
Từ 7000 đến 8500: đất trung bình khá (có thể ở được)
 
Từ 9000 đến 12.000: đất tốt
 
Từ 12.000 đến 16.000: đất rất tốt (long mạch)
 
Từ 16.000 đến 20.000: đất cực kỳ tốt (long mạch)
 
Ở những nơi đất có Địa khí tốt, năng lượng phóng lên rất có lợi cho sức khỏe và trí tuệ. Qua những cuộc khảo sát trên lãnh thổ Balan, Đức, Pháp và một số nước trong khu vực Châu Âu, chuyên gia cảm xạ học Nguyễn Ngọc Sơn - Viện trưởng Viện nghiên cứu Khoa học Kiến trúc Phong thủy năng lượng cảm ứng đã thu được các kết quả chứng minh điều đó. Nơi xây cung vua hoặc nhà thờ đều có chỉ số Bovis đo được từ 18.000 đến 20.000 đơn vị. Những nơi dùng để xây dựng khó chứa lương thực của cải dành cho các hoàng đế, giới quý tộc đều đo được năng lượng đạt từ 16.000 đến 18.000 đơn vị Bovis.
 
Từ xa xưa các vị vương giả đã biết tìm kiếm những mảnh đất tốt, có năng lượng sinh khí cao để xây dựng và phát triển đế chế của mình thông qua các nhà cảm xạ giỏi thời kỳ đó. Khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát triển vượt bậc, đã sản xuất ra các máy đo năng lượng sinh học của người, đất và các vật thể khác để ứng dụng trong cuộc sống. Tìm chọn đất để xây cất nhà ở, xây dựng nhà xưởng, làm trường học,… dựa vào Địa khí là rất quan trọng, tránh được nhiều hậu quả đáng tiếc sau này.
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác

ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Địa khí nhà ở quyết đinh gia đình vượng hay suy

Nhìn tướng tay biết khả năng kiếm tiền của bạn

Tài vận của mỗi người được thể hiện phần nào qua tướng bàn tay. Ở mỗi giai đoạn giàu nghèo, sướng khổ, bàn tay bạn sẽ xuất hiện một vài dấu hiệu điển hình dưới
Nhìn tướng tay biết khả năng kiếm tiền của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tài vận của mỗi người được thể hiện phần nào qua tướng tay. Ở mỗi giai đoạn giàu nghèo, sướng khổ, bàn tay bạn sẽ xuất hiện một vài dấu hiệu điển hình dưới đây.


1. Tiểu khang

Nếu đường Thái Dương trong lòng bàn tay kéo dài từ ngón tay đeo nhẫn tới đường chỉ tay Tình cảm, là dấu hiệu cho thấy tài lộc của chủ nhân bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc, đạt được mức tiểu khang, bắt đầu có của ăn của để, đời sống vật chất sung túc, dư dả.

Dấu hiệu dễ nhận thấy nếu bạn đạt mức tiểu khang là mua xe, mua nhà, có khoản tiết kiệm cố định trong ngân hàng. Nhìn chung, cuộc sống được ví như “nhìn lên thì chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống thì chẳng ai bằng mình”.

Nhin tuong tay biet ngay kha nang kiem tien cua ban hinh anh
 
2. Tiểu phúc


Sau khi đã đạt mức tiểu khang (như trên), nếu quan sát thấy đường Thái Dương càng rõ nét và sâu hơn, đồng thời vẫn kéo dài từ ngón tay đeo nhẫn rồi cắt đường chỉ tay Tình cảm; cộng thêm với cung Tài Bạch (phần mũi trên khuôn mặt) đầy đặn, không khuyết hãm thì tài vận hanh thông, có nhiều cơ hội phát tài, công danh sự nghiệp phát đạt.

Xem tướng tay, bắt đầu từ khoảng 31 tuổi, công danh sự nghiệp của người này càng rộng mở, cơ hội thăng quan tiến chức vừa nhiều lại khả thi, cuộc sống đạt mức tiểu phúc (vừa sung túc về vật chất, vừa được hưởng phúc lộc trời ban).

Nhin tuong tay biet ngay kha nang kiem tien cua ban hinh anh 2
 
3. Trung phúc


Khi có hai dấu hiệu sau đây xuất hiện, bạn có thể chắc chắn rằng cuộc sống của mình đang ở mức trung phúc (tài lộc hưng vượng, công danh sự nghiệp hanh thông, đời sống tinh thần phong phú).

Dấu hiệu thứ nhất: Đường Thái Dương sau khi cắt đường chỉ tay Tình cảm, lại tiếp tục kéo dài tới gò Hỏa tinh thứ 2.

Dấu hiệu thứ hai: Sau khi đường Thái Dương cắt đường chỉ tay Tình cảm, tiếp tục kéo dài tới cạnh gò Nguyệt.

Nhin tuong tay biet ngay kha nang kiem tien cua ban hinh anh 3
 
4. Đại phúc


Trong cuộc sống, người có thể đạt tới mức đại phúc xưa nay hiếm nhưng không phải là không có. Tướng tay của người này phải có đặc điểm xuất chúng, khác người.

Đường Thái Dương không những kéo dài và cắt đường chỉ tay Tình cảm mà còn cắt đường chỉ tay Sinh mệnh. Nhưng trên thực tế, hiếm có kiểu tay này bởi đường Thái Dương khó mà kéo dài như vậy.

=> Xem nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác

Hoàng Lam

Mắt một hay hai mí hé lộ điều bất ngờ về tình duyên
Những người sở hữu tướng mắt hai mí (cả hai bên mắt) có nhân duyên tốt, lối suy nghĩ lạc quan, được nhiều người yêu mến. Bên cạnh đó, người này cũng rất thủy
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng tay biết khả năng kiếm tiền của bạn

Người mới học Phật nên chọn tông giáo nào?

Phật giáo có nhiều tông phái, mỗi tông phái có cách tu tập và tiếp cận lý thuyết Phật giáo khác nhau. Vậy người mới bắt đầu nên gia nhập tông phái Phật giáo
Người mới học Phật nên chọn tông giáo nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật giáo có nhiều tông phái, mỗi tông phái có cách tu tập và tiếp cận lý thuyết Phật giáo khácnhau. Vậy người mới bắt đầu thì nên gia nhập tông phái Phật giáo nào?


Nguoi moi hoc Phat nen chon tong giao nao hinh anh
 
Các tông phái Phật giáo chủ yếu được hình thành do những hoàn cảnh khác nhau, nhưng về cơ bản thì vẫn theo đuổi sát những triết lý cơ bản của nhà Phật. Nội dung của Phật giáo bao trùm hầu hét các khía cạnh đời sống, dù không phải khoa học nhưng không vi phạm khoa học; dù không là triết học, nhưng vượt quá triết học; dù không là văn học, nhưng xác thực có văn học; dù không là mỹ học, nhưng đã cảm hóa mỹ học.
  Vì vậy, khi chọn tông phái Phật giáo để tu tập, tốt nhất là chọn theo khuynh hướng mình có hứng thú nhất hoặc là thuận tiện nhất. Thiền tông chú trọng về rèn luyện tinh thần, mật tông chú trong về rèn luyện trí tuệ, luật tông lấy rèn luyện kinh Phật làm trụ cột.   Thực chất, khi theo đuổi bất cứ tông phái nào cũng là theo học Phật. Tông phái nào cũng phát triển từ những nguyên lý cốt lõi của đạo Phật, chỉ là phát triển theo hình thức riêng và chú trọng tới một số nội dung hơn. Đã là tu thì tu đâu cũng thành Phật 
Đôi nét về lễ hội Phật giáo lớn nhất tại Lào 24 lời dạy Phật giáo tạo dựng cuộc sống Tìm hạnh phúc trong cái vô thường của Phật giáo

Ở Việt Nam, các tông phái không rõ ràng lắm, chủ yếu chia thành Đại Thừa và Tiểu Thừa, Phật giáo miền Bắc đa số theo Đại Thừa, mặc áo nâu, miền Nam chủ yếu theo Tiểu Thừa, mặc áo vàng. Tuy có một số khác biệt về cách thức tu hành nhưng lí luận Phật giáo, triết lý nhà Phật, hệ thống kinh sách và lý luận thì đều kế thừa từ Phật giáo chính gốc Ấn Độ, có đan xen Phật giáo Trung Hoa.
  Với người bắt đầu làm quen với Phật pháp thì việc lựa chọn tông phái ắt cũng không dễ. Phật quan trọng nhất là duyên, có duyên ở đâu thì học ở đó, có duyên tới đâu thì học tới đó. Trước hết là học lễ nghi, pháp lý, sau tới là nghiên cứu kinh kệ, tìm ra chân lý, chuyên tâm niệm Phật.
Nguoi moi hoc Phat nen chon tong giao nao hinh anh
 
Quá trình tu học chia thành 2 dạng: dạng gian nan tức là đời đời kiếp kiếp hy sinh chính mình mà thành toàn chúng sinh, cả đời dâng hiến cho công tác cứu thế; dạng dịch hành đạt tức là tu hành học đạo, sớm đạt tới mục đích thành Phật, tu dưỡng trí tuệ, bồi dưỡng trí nghiệp để lan tỏa chúng sinh, gìn giữ và phát huy Phật hiệu. 
  Dẫu chọn tông phái nào, đi theo con đường nào thì điều tiên quyết vẫn là tâm hướng Phật và quyết tâm theo đuổi Phật học. Chỉ khi ấy thì đi con đường nào cũng đúng, đi con đường nào cũng thành chính quả.
► Cùng đọc châm ngôn cuộc sống và suy ngẫm

7 điều đừng làm nếu không muốn nhận quả báo 5 lý do khiến Phật Giáo trở thành tôn giáo phổ biến Nỗ lực trở thành Phật và tinh thần nhân văn của Phật giáo Tâm Lan
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người mới học Phật nên chọn tông giáo nào?

Dùng la bàn phong thủy thế nào cho chính xác? –

Trong phong thuỷ, la bàn chiếm một vị trí rất quan trọng. Dù là hướng đến của long mạch hay là tọa sơn triều hướng của căn nhà đều không thể tách rời khỏi la bàn. Cách thao tác sử dụng la bàn phong thủy rất đơn giản. Nếu muốn biết hướng sinh vượng củ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thuỷ, la bàn chiếm một vị trí rất quan trọng. Dù là hướng đến của long mạch hay là tọa sơn triều hướng của căn nhà đều không thể tách rời khỏi la bàn. Cách thao tác sử dụng la bàn phong thủy rất đơn giản.

download

Nếu muốn biết hướng sinh vượng của huyệt hoặc căn nhà nào đó (cát hướng) thì ta đặt la bàn ở vị trí thích hợp của căn nhà đó (đơn trạch vị trí chính giữa giếng trời, lưỡng tiến trở lên vị trí chính giữa sân của cửa chính với cửa thứ hai). Thông thường người ta đặt la bàn trên một chiếc đế trải gạo dầy khoảng ba thốn. Trước khi định hướng phải cất hết vật làm bằng kim loại ra chỗ khác để không làm ảnh hưởng đến sự chính xác của kim nam châm.

Cách xác định hướng cụ thể là để đường kẻ màu đỏ chính giữa (mỗi một la bàn đều lắp thêm hai tuyến kẻ vuông góc) vào một hướng nào đó trong chuẩn giả định rồi chuyển động la bàn để kim nam châm và đáy thiên trì cân bằng. Tiếp đó xem đường kẻ màu đỏ trên bàn tròn chỉ chữ gì. Sau đó căn cứ vào một loạt nguyên lý trên la bàn để suy đoán cát hung của phương vị. Nếu là hung nên tiếp tục điều chỉnh hướng chỉ của đường kẻ màu đỏ cho đến khi tìm được hướng tốt thì dừng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dùng la bàn phong thủy thế nào cho chính xác? –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd