Mơ thấy quả anh đào: Gặp phiền phức trong kinh doanh buôn bán –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Bài viết chép lại của anh Quách Ngọc Bội
Đẩu Số với Tiết Khí
Trong các thảo luận về mệnh lý tại các khu vực khác nhau, thỉnh thoảng lại có người nhắc đến vấn đề tương quan giữa Tử Vi Đẩu Số với Tiết Khí. Có thể thấy rằng, Tử Vi Đẩu Số dù muốn hay không muốn tham khảo đến vấn đề của Tiết Khí thì cho đến nay vẫn cứ đã và đang khiến nhiều học giả nghiên cứu tử vi cảm thấy có chút bối rối. Thành thực mà nói, cá nhân tôi (QNB chú: tác giả bài viết, Phan Văn Khâm, Đài Loan) cũng từng rất bối rối, có thời gian dài mà tôi thậm chí chả dám dùng Tử Vi Đẩu Số để mà toán mệnh cho người ta ấy chứ!
Suy cho cùng thì Tử Vi Đẩu Số ở trong lúc bài bố mệnh bàn (lá số) có cần hay không việc đối chiếu với Tiết Khí đây? Trước khi thảo luận nghiên cứu vấn đề này, chúng ta còn nhất thiết phải giải quyết một vấn đề tranh nghị nhiều năm từ xưa đến nay của môn Tử Vi Đẩu Số, đó chính là vấn đề của "tháng Nhuận". Bởi vì vấn đề "tháng Nhuận" và "Tiết Khí" có tồn tại mối quan hệ rất mật thiết.
Người từng học qua môn Tử Vi Đẩu Số đều biết rằng, trong việc an lá số mà đụng phải vấn đề đương số sinh vào tháng Nhuận là một vấn đề khá hóc búa (tối thiểu thì với người mới học là như vậy). Song, đối diện với thời đại trăm nhà đua tiếng về thuật số, riêng đối với phép bài bố tháng Nhuận của Tử Vi đẩu số đã có rất nhiều phương pháp khiến cho người ta phải suy nghĩ.
Có người nói, tháng Nhuận thì cứ lấy tháng sau đó mà toán; có người cho rằng lấy chính tháng đó mà toán; còn có người nói theo tháng sau đó mà khởi 2 cung Mệnh Thân nhưng mà các tinh diệu theo tháng thì vẫn lấy tháng trước đó để bài bố an định; lại thêm có người đem tháng trước đó với tháng Nhuận cộng lại khởi đến gần 60 ngày; v.v...
Các bố đó kiến giải nhiều cái cũng rối rắm khiến cho người ta bất giác hoa mày chóng mặt. Thế nhưng mà, trong đó có rất nhiều luận điệu kỳ kỳ quái quái, cứ như là chẳng ai sẵn lòng đem Tử Vi Đẩu Số để đối mặt với "Tiết Khí". Chỉ đơn giản là do một câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" (chẳng giống như môn Ngũ Tinh chú trọng đến Tiết Khí) ở trong bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết.
[Xin chú ý! bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết nói trên trong hai bản cổ thư của môn Tử Vi Đẩu Số, thì chỉ có cuốn <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> có ghi lại, còn trong một cuốn khác là <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> lại hoàn toàn chẳng thấy có ghi lại!]
(QNB chú: bản TVĐS Toàn Thư mà QNB dịch cũng không thấy ghi chép về bài quyết này, nhưng QNB có sưu tầm từ một số nguồn khác nhau và cũng đã có dịch bài Đẩu Số Tổng Quyết này đăng trên tuvilyso.org và chép lại trong quyển Tử Vi Ca Phú Tập Thành. Quý độc giả nêu chưa rõ bài này thì tham khảo thêm).
Không biết quý vị độc có từng hay không nảy ra ý nghĩ là, nhỡ may cái câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" chính là "ngụy quyết" (câu quyết giả) hoặc là cả cái bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết ấy đều là "ngụy quyết" thì làm sao?
Mọi người chớ có vội cho rằng bút giả nói chuyện giật gân, từ rất lâu rồi cho tới nay trong giới Đẩu Số vẫn liên tục có tồn tại tranh luận <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> và <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> thì quyển nào mới là "Thiên Thư" chính thống. Chỉ đơn giản là trong hai bản cổ thư đó có tồn tại rất nhiều sự khác biệt. Trong các sách của giới tiền bối mệnh lý trụ cột như Liễu Vô Cư Sĩ, Tuệ Canh, Nhật Nguyệt Đạo Nhân,... có thảo luận tỉ mỉ kỹ càng với các khảo chứng, cái gì thực cái gì hư, đọc giả có thể tự mình nhận xét đánh giá, bút giả khỏi cần phải nói rườm rà thêm!
Trở lại với nội dung chính của vấn đề, đầu tiên chúng ta nghiên cứu xem "tháng Nhuận" là cái gì?
Trước hết, chúng ta cần bắt đầu nghiên cứu một chút về "Lịch Pháp" của Trung Quốc. Ở đây chúng ta viện dẫn trong sách <<Lịch pháp tùng đàm>> (phiếm đàm về Lịch Pháp) của tiên sinh Trịnh Thiên Kiệt trước tác, do Đại Học Văn Hóa Trung Quốc xuất bản:
Trung lịch dựa theo nóng lạnh bốn mùa mà xác định năm, lấy Đông Chí làm Tuế Nguyên (bắt đầu của năm), từ Đông Chí này đến Đông Chí tiếp theo là 1 năm; Nhật Nguyệt hợp Sóc mà xác định tháng, lấy ngày Sóc làm Nguyệt Thủ (đầu mối của tháng),... Cho nên "niên vi hồi quy niên" (năm là "năm hồi quy"), còn gọi là "năm Thái Dương"; nguyệt vi hợp sóc nguyệt (tháng là tháng theo Sóc), cũng gọi là "tháng Sóc Vọng" hoặc là "tháng Thái Âm";...
Năm Trung lịch là năm Thái Dương, độ dài của năm có 365.2422 ngày, gọi là Tuế Thực, một năm dựa vào Thái Dương ở tại vị trí trên vòng Hoàng Đạo mà chia làm 12 Tiết nguyệt, tức 12 tháng Thái Dương,... Dựa vào 12 Chi làm thứ tự Tiết nguyệt, còn gọi là Thập Nhị Kiến Nguyệt.
Trung lịch căn cứ vào sự tròn khuyết của Thái Âm để tính toán tháng, mỗi một tháng Thái Âm có độ dài là 29.53058 ngày, gọi là Sóc Sách, lấy số nguyên là 30 ngày hoặc 29 ngày làm một tháng (âm) lịch.
Trung lịch lấy 12 tháng Thái Âm làm một năm (âm) lịch, số ngày của một 12 tháng Thái Âm lịch trong một năm là 354 hoặc 355 ngày;
Một năm (âm) lịch so với Tuế Thực của năm dương lịch ước chừng ít hơn 11 ngày. Cho nên một vài năm lại cần bố trí tháng Nhuận để điều chỉnh Tiết hậu. Năm Nhuận thì một năm có chứa 13 tháng (âm) lịch.
Trung lịch dựa vào tháng Thái Âm của nó cần phối hợp Nguyệt tượng, trường độ Sóc Sách của một tháng, hợp với 29.53058 ngày; dựa vào năm Thái Dương của nó cần phối hợp Tiết Khí, trường độ của một năm, Tuế Thực, hợp với 365.2422 ngày; đem trường độ của Sóc Sách với Tuế Thực đối chiếu lên để tìm ra bội số chung nhỏ nhất của chúng chính là 19 năm (tính theo năm Thái Dương) gọi là 1 Chương, trong một Chương có 235 tháng (tính theo tháng Thái Âm), số ngày của nó và số ngày của 19 năm Thái Dương là tương đồng (6939.6 ngày)... Đó là lý do mà trong 1 Chương, 19 năm, thì thiết lập có 7 tháng Nhuận....
Chúng ta nên biết rằng, biến đổi diễn hóa của bất kỳ một môn mệnh lý thuật số thì không có môn nào mà các bậc tiên hiền cổ thánh lại không căn cứ vào định luật của thế giới tự nhiên hoặc là quy luật vận hành của Nhật Nguyệt theo sự quan sát mà suy tính ra. Theo như bên trên đã nói, chúng ta có thể biết được "Tháng Nhuận" chính là vì sự phối hợp năm Thái Dương được dùng để điều chỉnh số phần tháng Thái Âm. Trong Thiên Văn, Lịch Pháp, hoặc Chiêm Tinh học, "tháng Nhuận" chỉ là chúng ta sửa đổi lại việc thiết kế an bài của "Năm". Tháng của Thái Âm lịch có thứ tự từ tháng Giêng (Chính Nguyệt), tháng Hai, tháng Ba,... tháng Mười Hai (Chạp) cũng chính là sự bài bố theo số chứ chẳng có công dụng gì khác trên thực tế, trái lại, mỗi một Thái Dương Tiết Nguyệt trong Thiên Văn học lại có một địa vị trọng yếu tương xứng với nó. Quý vị mà không ngại thì hãy xem lại ngày sinh dương lịch của bản thân mình, bởi vì mỗi năm vào ngày ấy thì vị trí Thái Dương trên Hoàng Đạo là đều tương đồng vị trí với lúc sinh ra. Nhưng mà người Trung Quốc luôn luôn chịu ảnh hưởng sâu sắc và coi trọng ngày sinh theo nông lịch (lịch âm), mà theo Thiên Văn thì nó không có nhiều điểm đặc biệt. Đó là lý do mà chúng ta không thể không nghi ngờ chất vấn trong môn Tử Vi Đẩu Số đối với vấn đề phép xem "tháng Nhuận" dường như có ý nghĩa bàn luận có giá trị đặc biệt.
Đã từng có đại sư môn Đẩu Số cho rằng phải căn cứ vào "Thái Âm lịch" mà quy định (đây cũng là quan điểm mà nhiều đại sư Đẩu Số khăng khăng giữ). Nhưng mà, chúng ta cho rằng cái quan điểm đặc biệt ấy có giá trị thảo luận, chúng ta đừng ngại nghiên cứu thêm một chút:
Trước tiên, chúng ta khảo cứu tất cả lịch pháp của Trung Quốc, ngàn năm qua đều áp dụng "Âm Dương hợp lịch", vì vậy mới có sự xuất hiện của "tháng Nhuận". Còn nếu chỉ dùng riêng mình "Thái Âm lịch" thì tựa hồ như chưa từng xuất hiện qua, dù cho trong dân gian lấy Thái Âm để tính toán tháng, cũng đều là vẫn muốn phối hợp Tiết Khí làm căn cứ, điểm này chúng ta có thể qua nông lịch thịnh hành trong dân gian mà hiểu được.
Thứ hai, cho dù nói theo quan điểm của Thiên Văn học và Vật Lý học, lực ảnh hưởng của Thái Dương (Mặt Trời) đối với Địa Cầu nếu như so với Mặt Trăng thì mạnh hơn rất nhiều. Chúng ta đều biết rằng, hết thảy các sinh vật trên Địa Cầu đều có 3 yếu tố duy trì sinh mệnh là: Ánh dương quang, Không khí và Nước. Trên Địa Cầu nếu như mà không có dương quang thì sẽ không có tồn tại sự sống, do đó, giả sử như Tử Vi Đẩu Số trong buổi thiết lập ban đầu sơ khai, mà bỏ qua Thái Dương không dùng lại chỉ dùng mỗi Nguyệt Lượng (Mặt Trăng), thì dường như lại có điểm không thể nào nói nổi. Đây cũng chính là cái mà tại làm sao hết thảy các môn thuật số Trung Quốc bao gồm: Bát Tự, Lục Hào quái, Mai Hoa dịch, Kỳ Môn Độn Giáp, Phong Thủy Dương Trạch, Tướng Mặt Tướng Tay,... đều cần tham chiếu Tiết Khí của Thái Dương lịch làm căn cứ xuất phát. Thậm chí, ngay cả thuật Chiêm Tinh phương Tây cũng đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tiết Khí ấy chứ! (Trong chiêm tinh học, Thái Dương qua 12 chòm sao Hoàng Đạo chính là cái mà chúng ta gọi là Tiết Khí). Đương nhiên, Nguyệt Lượng đối với chúng ta cũng có lực ảnh hưởng tương đối lớn, điểm này, sau đây chúng ta sẽ thảo luận nghiên cứu.
Lại theo kết cấu bên trong của Tử Vi Đẩu Số để xét, giả sử nếu quả thực Tử Vi Đẩu Số chỉ khảo sát mình Thái Âm lịch hoặc năm Thái Âm, thì tại sao trong kỹ thuật Đẩu Số còn cần thiết lập một ngôi sao "Thái Dương" để làm cái gì? Trong phần "Chư Tinh vấn đáp luận" của sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có ghi chép:
"Thái Dương tinh thuộc hỏa nhật chi tinh vậy, chính là biểu nghi của tạo hóa,... làm nguồn chiếu sáng ở trong số, chính là then chốt của quan lộc...
Hi Di tiên sinh viết: Độ số trải qua vòng chu thiên của Thái Dương tinh vận chuyển vô cùng...
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết: Thái Dương ti quyền quý làm văn, gặp Thiên Hình thì làm võ, tại Dần mão là sơ thăng (mới bắt đầu mọc), tại Thìn Tị là thăng điện (đã lên đến cung điện), tại Ngọ là Nhật lệ trung thiên (Mặt trời sáng rực rỡ giữa bầu trời), đại phú đại quý, tại Mùi Thân là thiên viên (xế khỏi cung viên)... tại Dậu là Tây một (lặn xuống phía Tây)... tại Tuất Hợi Tý là thất huy (mất ánh sáng)... v.v..."
Những quan điểm này đều cùng phù hợp với Thái Dương ở trong Chiêm Tinh học, có thể thấy trong buổi ban sơ thiết lập môn Đẩu Số, đích xác có suy xét khảo sát đến lực ảnh hưởng của Thái Dương.
Theo những gì đã thảo luận trong đoạn nói trên, chúng ta thực sự không tìm ra chứng cứ mạnh mẽ của việc Tử Vi Đẩu Số lấy Thái Âm lịch làm chủ. Có lẽ sẽ có người nghi ngờ chất vấn:
- Không lẽ vận hành của Nguyệt Lượng (mặt trăng) với Sóc Vọng tròn khuyết của nó lại không có ảnh hưởng tới sinh vật hay sao?
Chúng tôi có thể khẳng định chắc chắn với mọi người rằng:
- "Có"! Nguyệt Lượng thực sự cũng có lực ảnh hưởng rất lớn.
Trong Chiêm Tinh học, lực ảnh hưởng của Nguyệt Lượng là ngay kế sau Thái Dương. Trong mệnh bàn (lá số) có chiếm phân lượng tương đương. Nhưng mà then chốt của sự biến hóa thay đổi tròn khuyết của nó là ở "Nhật" (ngày) chứ không phải là ở "Nguyệt" (tháng). Chúng ta đều biết rằng ngày mồng Một âm lịch là không thấy ánh trăng, mà lúc trăng tròn thì nhất định là xảy ra xung quanh ngày 15. Cái này cũng chính là vì sao mà Tử Vi Đẩu Số khi an bài xác định sao Tử Vi cần phải theo ngũ hành Cục phối hợp với "số ngày sinh" để khởi. Ví dụ như: Trong khẩu quyết khởi Tử Vi tinh của Thủy Nhị Cục:
"Khảm thủy cung trung nhị tuế hành,
sơ nhất khởi sửu xuất nhị dần,
thuận hành nhất cung an nhị nhật,
âm dương tuy thù hành tắc đồng"
Nghĩa đen:
"Trong cung Khảm thủy hai năm chuyển
Mồng Một khởi ở Sửu, ra đến mồng Hai ở Dần
Chuyển theo chiều thuận, mỗi cung an hai ngày
Âm dương tuy có khác biệt nhưng di chuyển thì lại giống nhau"
Nôm na tức là:
"Đối với cung có Cục thuộc hành Thủy và cơ số vận hành là 2
Khởi sao Tử Vi với ngày mồng Một tại cung Sửu, mồng Hai tại cung Dần
Chuyển theo chiều thuận, cứ mỗi cung thì an hai ngày tiếp theo
Âm Dương tuy có khác biệt nhưng di chuyển lại giống nhau".
Ngoài ra thì ngũ hành cục khởi Tử Vi tinh cũng đều là tương đồng.
Trở lại, chúng ta xem phương pháp sắp đặt Mệnh Thân cung của Tử Vi Đẩu Số với phương pháp xác định cung Mệnh trong Chiêm Tinh học cũng có chút sự giống nhau. Lấy môn Quả Lão Tinh Tông (hoặc gọi là Thất Chính Tứ Dư) làm ví dụ, phương pháp an cung Mệnh của nó là lấy Thái Dương đến trong cung Hoàng Đạo mà khởi giờ sinh, thuận hành đếm đến Mão thì an cung Mệnh; còn phương thức của Tử Vi Đẩu Số thì lấy tháng sinh khởi giờ Tý, đếm nghịch đến giờ sinh thì an cung Mệnh. Phương diện này kỳ thực là có yếu tố tương tự rất to lớn, người nào mà học qua Thất Chính Tứ Dư (hoặc Chiêm Tinh) đều biết rõ, Thái Dương đến trong cung Hoàng Đạo kỳ thực chính là Tiết Khí mà chúng ta vẫn thường dùng, cũng chính là "tháng Thái Dương"; mà giải thiết là Tử Vi Đẩu Số cũng dùng Tiết Khí để phân chi Nguyệt Lệnh, như thế thì chẳng phải là cách an cung Mệnh của Tinh Tông và Tử Vi Đẩu Số là đều cùng một dạng theo Nguyệt Lệnh khởi đầu hay sao? Khác biệt chỉ ở phép đi thuận nghịch theo cung vị mà thôi. (Ở trong điều này còn liên quan tới vấn đề kết cấu của mệnh bàn Đẩu Số với Tinh Tông, có lẽ sau này sẽ trình bày ra).
Nếu như chúng ta còn bới lông tìm vết, theo cổ thư bắt đầu khảo chứng, cũng có thể tìm được một chút manh mối để thảo luận:
Hiện nay các học giả Tử Vi Đẩu Số chủ trương rằng nguyên do mà Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí là căn cứ cổ thư <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> bên trong có bài "Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết" để mà lý luận. Chúng ta tạm thời trước tiên không bàn luận tới tính chân thực của nó, chỉ đơn thuần thảo luận nghiên cứu về câu bên trong bài "Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết":
"Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết" khai tông minh nghĩa có giảng rằng:
"Hi Di ngưỡng quan thiên thượng tinh,
Tác thành đấu sổ thôi nhân mệnh,
Bất y Ngũ Tinh ( yếu ) quá tiết,
Chích luận niên nguyệt nhật thì sinh
...
Hà dụng cầm đường giảng Ngũ Tinh".
=
(Ngài Hi Di ngẩng đầu ngắm sao trên trời,
Tạo ra môn Đẩu Số để suy đoán mệnh người,
Không giống với (môn) Ngũ Tinh, quá chú trọng đến Tiết khí,
(Mà) Chỉ luận về năm, tháng, ngày, giờ sinh).
...
Thì còn cần dùng phòng nhạc ("cầm đường") để giảng về môn Ngũ Tinh nữa chăng?)
và chúng ta thảo luận đến nhân tố then chốt có liên quan ở hai câu là "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" và "Hà dụng cầm đường giảng Ngũ Tinh".
Trước tiên ta phải làm sáng tỏ hai chữ "Ngũ Tinh", bình thường dù sao vẫn cho rằng "Ngũ Tinh" chính là đại biểu cho "Quả Lão Tinh Tông" hoặc "Thất Chính Tứ Dư", nhưng kỳ thực điều này là sự hiểu lầm rất lớn. Cổ nhân giảng "Thất Chính Tứ Dư" là đem Thái Dương, Nguyệt Lượng, Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, mà quy làm "Thất Chính"; mà trong "Thất Chính" thì Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh được gọi là "Ngũ Tinh"; địa vị của Thái Dương và Thái Âm là ở trên cả "Tinh". Do đó, "Ngũ Tinh" chẳng qua chỉ là một bộ phận bên trong của "Thất Chính", chứ không thể đại biểu cho toàn bộ "Thất Chính Tứ Dư".
Người mà học qua môn Chiêm Tinh học đều biết rằng trong hết thảy "Thất Chính Tứ Dư" thì chỉ có sự vận hành của Thái Dương với Thái Âm là có quy luật thời gian nhất định, còn "Ngũ Tinh" của nó đối chiếu với thời gian của Địa Cầu mà nói thì không có quy luật nhất định. Chúng ta đem quy luật biến hóa của Thái Dương diễn biến thành "Tiết Khí", còn sự trong khuyết của Thái Âm theo sự vận hành của nó thì biểu hiện sự biến hóa thay đổi theo mỗi một ngày đêm. Nhưng mà sự vận hành của "Ngũ Tinh" thì căn bản không có tuân theo quy tắc thời gian, mà hoàn toàn cần phải dựa vào quan trắc và tính toán theo số học mới có thể biết được. Cái này cũng chính là nguyên nhân vì sao mà cổ nhân học "Thất Chính Tứ Dư" cần phải học đầy đủ về diễn toán (tính toán theo công thức) số học và họ về quan trắc Thiên Văn, chỉ có như thế mới có thể hiểu rõ ràng chính xác về quy tắc vận hành của "Ngũ Tinh". Người hiện đại thì khỏi phải phiền phức như vậy, chỉ cần bấm máy tính một cái, thì toàn bộ vị trí của Thất Chính Tứ Dư đều hiển hiện rõ ràng! Bởi vậy, tại đây tôi nhất định phải nhấn mạnh rằng:
Sự vận hành căn bản của "Ngũ Tinh" với "Tiết Khí là không có sự liên quan.
Đó chính là lý do mà nếu như câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" là nói Tử Vi Đẩu Số không chiểu theo quy tắc bài bố của "Ngũ Tinh" thì sẽ không cần nói đến việc khảo xét đến Thái Dương Tiết Khí. Trong toàn bộ kết cấu của câu trên, cũng có vẻ như có điểm mà nói chửa được thông.
Thứ hai, cổ nhân viết văn chương là hoàn toàn không có ngắt câu (các dấu câu chấm phẩy), do đó cái câu thoại "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" nhỡ có thể là "Bất y Ngũ Tinh, yếu quá Tiết" (Không như Ngũ Tinh, phải chú trọng thông qua Tiết Khí) ấy chứ? Cứ kiểu như thế thì phản chuyển lại trở thành môn Tử Vi Đẩu Số lại cần chú trọng nhấn mạnh đến Tiết Khí hay sao?
Ngoài ra, quy ước an Thân Mệnh trong <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> có nhắc đến:
"Đại để nhân mệnh cú tòng dần thượng khởi chính nguyệt..., hựu nhược nhuận Chính nguyệt sinh giả yếu tại Nhị nguyệt nội khởi an Thân Mệnh, phàm hữu nhuận nguyệt câu yếu y thử vi lệ."
(Đại khái là nhân Mệnh theo cung Dần khởi tháng Giêng... Lại nếu như người sinh vào tháng Giêng nhuận, thì phải từ Tháng Hai mà khởi an Thân Mệnh, phàm cứ xuất hiện tháng nhuận thì phải y theo quy tắc ấy.)
[QNB chú: độc giả lưu ý, có lẽ khi La Hồng Tiên biên soạn cuốn TVĐSTT này, năm Canh Tuất đời Gia Tĩnh triều Minh, thì chưa có sự điều chỉnh về quy ước cho tháng nhuận là "không được nhuận vào các tháng Một (11), Chạp (12), Giêng (1)”, cho nên ở trên mới đề cập tới chi tiết "tháng Giêng nhuận" như vậy. Quy ước ấy, có lẽ xuất hiện theo bộ lịch Thời Hiến, khoảng năm 1644-1674 thuộc 2 đời Thuận Trị và Khang Hi triều Thanh].
Cái đoạn thoại ở trên đây cũng chính là một trong những lý do khiến cho các đại sư môn Đẩu Số kiên trì với quan điểm Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí. Nhưng mà, quý vị độc giả đã từng khảo xét qua hay chưa, khi người viết ra cuốn sách <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> này là ông La Hồng Tiên, Tiến Sĩ của triều Thanh (QNB chú: có lẽ tác giả nhầm. La Hồng Tiên là Tiến Sĩ của triều Minh). Ở trong phần tựa mở đầu cuốn <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> thì ông ấy có nói Tử Vi Đẩu Số là được một vị đạo sĩ ở núi Hoa Sơn có năm tu cỡ hai chục năm, dáng vẻ lão thành, đem tặng cuốn sách. Sau đó dựa theo sách mà học tập mà đoán ứng nghiệm như thần, bởi vì không dám giấu kín cho riêng mình nên đem công bố ra thiên hạ. Như thế thì, nói cách khác, cái bản <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> này chính là sở học sở tích lũy theo quá trình tự nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số của La Hồng Tiên, mang những điều tâm đắc mà viết thành. Cũng có thể nói, <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> quy ước an Thân Mệnh kia cũng là theo sở kiến cá nhân của La Hồng Tiên, là một bộ phận trong tác phẩm của ông ấy, chứ cũng chẳng phải là chính đích thân lão thần tiên Trần Hi Di viết ra. Như thế, thì nhiều điều luận trong cuốn <<Tử vi Đẩu Số toàn thư>> này có gì cam đoan là hoàn toàn không có sai lầm hay không? Cổ nhân viết sách in sách bởi vì việc sao chép là không dễ dàng gì, cho nên thường ngày sửa lỗi in đầy rẫy, chữ tác đánh thành chữ tộ ("lỗ ngư hợi thỉ" là thành ngữ, chữ Lỗ viết thành chữ Ngư, chữ Hợi viết thành chữ Thỉ). Chúng ta có thể rất dễ dàng đưa ra nhiều chỗ nhầm lẫn trong cuốn <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>>. Do đó, phương thức xử lý tháng Nhuận của Tử Vi Đẩu Số ở đây cũng có thể là đại biểu cho ý kiến cá nhân của ông La Hồng Tiên mà thôi. Hơn nữa, các học giả hậu thế đều không hoàn toàn chiểu theo y như phương pháp xử lý tháng Nhuận theo quy ước an Mệnh Thân trong <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>>. Do đó, cái này cũng không thể được nhận định là chứng cứ hùng hồn về việc Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí. Huống hồ Tử Vi Đẩu Số lưu truyền đến nay, trong kết cấu cũng không phát sinh quá nhiều thay đổi trọng đại? Các vị không ngại thì đến tiệm sách mà xem các tác phẩm của Tử Vân tiên sinh, Liễu Vô Cư Sĩ, cùng với một số quảng cáo rùm beng về Khâm Thiên Tứ Hóa phi tinh,... ngoại trừ 14 chính tinh tương đồng với truyền thống ra thì còn lại đều không thấy nhiều bóng dáng của hình ảnh cổ thư nữa! Thậm chí ngay cả Tứ Hóa truyền thống đều biến thành ra "nhị Hóa", trong đó Hóa Quyền với Hóa Khoa bị tỉnh lược đi! Nhất thời đúng hay sai khó mà phân biện cho rõ, nhưng mà cũng đại biểu cho phép xem không chính gốc của cổ nhân lưu lại, người hậu thế từ kinh qua nghiệm chứng mà san định sửa đổi.
Thảo luận tới đây, chúng ta không ngần ngại để làm một loại "giả thiết", đó chính là nếu như "Tử Vi Đẩu Số" là sự lột xác từ "Quả Lão Tinh Tông" hoặc Chiêm Tinh học thì "Tử Vi Đẩu Số" nhất định chẳng thể nào thoát ly được cặp ảnh hưởng của Thái Dương và Thái Âm. Do đó, tiên hiền cổ thánh lúc ban sơ thiết kế môn "Tử Vi Đẩu Số", tham chiếu phỏng theo vận hành của Nhật Nguyệt âm dương với biến hóa bốn Mùa, lấy "Tiết Khí" của Thái Dương vận hành trên Hoàng Đạo mà định Thân, Mệnh cung; lại tham khảo lấy "Nhật kỳ" của Nguyệt Lượng (mặt trăng) tròn khuyết để khởi Tử Vi tinh bàn. Như thế, cái tổ hợp cấu thành của thuật số mệnh học, nhất định sẽ phải giống ở riêng việc theo "Tiết Khí" làm căn cứ của thuật số để tiên tiến và chuẩn xác hơn.
Gần đây trên mạng có người hồi đáp Nguyệt Phần (số tháng) của Tử Vi Đẩu Số là căn cứ vào "Đẩu bính" để mà xác định, tháng Giêng thì "Đẩu bính" chỉ Dần, tháng Hai "Đẩu bính" chỉ Mão, tháng Ba thì "Đẩu bính" chỉ Thìn, v.v... Cái phép suy luận này cũng có vài điểm có chỗ mâu thuẫn:
Trước tiên, cái gọi là "Đẩu bính" là cái gì? Ứng với đúng cái phần phần đuôi của "Bắc đẩu thất tinh"! Nếu như quả chính xác là vậy thì tôi nhất định phải đưa ra sự sửa chữa uốn nắn! Bởi vì vị trí của chỗ "Đẩu bính" chỉ vào vẫn cùng với Tiết Khí có quan hệ không tách rời được!
Hoài Nam Tử viết: "Đẩu bính chỉ hướng Đông, thiên hạ đều Xuân; Đẩu bính chỉ Nam, thiên hạ đều Hè; Đẩu bính chỉ Tây, thiên hạ đều Thu; Đẩu bính chỉ Bắc, thiên hạ đều Đông".
Đây chính là cổ nhân lấy Bắc Đẩu thất tinh xem như ghi chép của quan trắc thời lệnh Tiết Khí. Cổ nhân phát hiện mà đem nó ghi chép lại. Thế thì vì sao mà có cái mối quan hệ đối ứng phù hợp như vậy nhỉ? Chủ yếu nhất vẫn là bởi vì Địa Cầu quay xung quanh Thái Dương mà biến đổi mối quan hệ của vị trí Hoàng Đạo. Do đó, chúng ta có thể nói "Đẩu bính" với Tiết Khí không liên quan hay sao? Huống hồ chỗ "Đẩu bính" chỉ vào Dần, Mão, Thìn, Tị,... cũng đều căn cứ vào sở định của Tiết Khí cả, không phải hay sao? Nếu như mà chẳng phải, thế thì xin hỏi rằng vào lúc tháng Nhuận của năm Nhuận thì "Đẩu bính" nó chỉ vào chỗ nào nhỉ?
Thứ hai, vị trí của chỗ "Đẩu bính" chỉ vào còn thuộc về "hiện tượng Thiên văn" mà làm sao có thể nói Đẩu Số với Thiên Văn là không liên quan đây? Ngoài ra, theo tôi được biết, vị trí của "Đẩu bính" di động mỗi ngày, từng Thời Thần (canh giờ) đều có vị trí biến động [Nó chỉ đúng chân thực phương hướng Đông Tây Nam Bắc hay không thì tôi vẫn còn nghi ngờ]. Vì thế, tôi còn đặc biệt đi sắm về một bộ giáo cụ rất đẹp của Bộ Giáo Dục phát hành - bàn chuyển các chòm sao để quan sát sao trời nhé! Đối với cái này mà có người nghi vấn, thì đề nghị ngài đừng ngại tới tiệm sách mà mua sắm vậy, đồng thời đi để mà quan sát một phen, ngài có thể hiểu rõ hơn!
Còn có người cho rằng Tử Vi Đẩu Số sở áp dụng chính là hệ thống "Hư tinh" chứ không phải là giống như Chiêm Tinh học xét đến sự vận hành của tinh thể thực tế. Do đó, khỏi cần đi giải thích về sự vận hành biến hóa của các tinh thể như là trong Chiêm Tinh học. Nên vì thế càng không cần bàn về việc Thái Dương quá cung với vấn đề Tiết Khí!
Về cơ bản, quan điểm này cũng có trăm ngàn chỗ sơ hở, chúng ta hãy nhìn quanh xem các môn chiêm bốc tinh mệnh của Trung Quốc, ngoại trừ Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh học hiện nay là cùng áp dụng sự vận hành của các tinh thể thực tế để mà làm cơ sở đoán mệnh ra, thì xin hỏi các vị, còn có một môn học thuật nào là xét đến hệ thống "Thực tinh" hay không? Thiên Can Địa Chi của Tử Bình Bát Tự, xin hỏi là có ai nhìn thấy được không? Hệ thống cửu tinh của Kỳ Môn Độn Giáp cũng chẳng phải là hư tinh hay sao? Hệ thống bát quái chẳng có nhẽ nào lại là tinh thể thực tế đấy à? Thế mà các môn đó đều dựa vào Tiết Khí để làm căn cứ, thế ngài cho rằng Tử Vi Đẩu Số có thể là ngoại lệ hay sao?
Một số bằng hữu có trả lời rằng chẳng cần biết mèo đen hay mèo trắng, có thể bắt được chuột thì chính là mèo tốt. Ý tức là chẳng kể là môn phái nào, chỉ cần toán được đúng thì nhất định là chính xác. Cái quan điểm này, cá nhân tôi đặc biệt tán thành, nhưng mà đây lại là một công trình khó khăn đặc biệt. Bởi vì Mệnh lý học chẳng phải là Toán học, nó cũng không có đáp án chuẩn mực, hoàn toàn chiểu theo kinh nghiệm cá nhân, cảm giác để mà nhận định, tựa hồ như rất khó có đáp án khách quan. Trừ phi có thể có một tổ chức đoàn thể giám sát cùng với một kho tư liệu khổng lồ để kiểm chứng tương hỗ, bằng không thì rất dễ rơi vào cái cảnh ông nói thì cho là ông có lý, bà nói thì cho là bà có lý, ai nói theo kiểu của người đó.
Ngoài ra, cá nhân tôi tuyệt đối tin tưởng vào "Mệnh vận tuyển trạch luận", nói cách khác là con người có thể thông qua sự lựa chọn để cải biến mệnh vận. Do đó, nhân tố của ảnh hưởng mệnh vận cũng không chỉ có riêng sinh thần bát tự, mà còn bao quát cả phong thủy, hoàn cảnh lớn lên, bối cảnh giáo dục, cha mẹ, vợ con,...
Chúng ta chỉ có thể căn cứ xác định một số đáp án sự kiện đã biết để suy đoán, bởi vì thực sự rất khó có một đáp án chuẩn mực, bất quá chúng ta vẫn đều là hy vọng có thể tập hợp một số học giả có chí hướng để nghiên cứu và thống kê, hy vọng có thể tiếp cận các chiêm tinh gia nước ngoài cùng đề xuất số liệu thống kê tin cậy để làm bằng chứng, cho nên tôi nói đây là một công trình đặc biệt to lớn.
Cuối cùng, tôi còn muốn nhấn mạnh một điểm, lập trường nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số của tôi tuyệt đối không phải là bảo thủ cứng nhắc, đứng ở lập trường người nghiên cứu mệnh lý, tôi thực sự mong muốn mở rộng tấm lòng để kiểm xét lại từ đầu các bảo vật mà Trần Đoàn lão tổ lưu lại, cái hay thì đường nhiên phải được tăng cường bảo tồn lưu giữ, có vấn đề thì chúng ta đương nhiên phải giải quyết vấn đề. Chiêm tinh thuật của người phương Tây có cục diện như ngày hôn nay cũng chính là công lao thuộc về sự phát triển của khoa học Thiên Văn cùng với sự sôi nổi của các học giả nghiên cứu, mới có thể có được hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh (Tuy nhiên vẫn còn có một số vấn đề, nhưng ít ra thì trong phương diện cơ sở lý luận thì họ có rất ít tranh cãi). Trái lại thì Tử Vi Đẩu Số ở trong nước (các môn thuật số khác cũng thế) còn dừng lại ở quy mô mỗi ông nói một chút, mỗi cá nhân đều có một phần lý luận cao siêu có thể tự bào chữa, gặp lúc có ý kiến bất đồng thì choảng nhau chí chóe, cũng chẳng chịu tĩnh tâm để mà nghe ý kiến phản biện của người ta. Xin hỏi cái loại nghiên cứu học thuật như thế sẽ tiến bộ được chăng? Riêng vấn đề của Tiết Khí, Tứ Hóa, khởi Đại Hạn có ở cung Mệnh hay không, cũng đã khiến cho người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số đau hết cả đầu! Những cái khác càng không cần phải nói! Chúng tôi thực sự rất lo ngại, giả như có một ngày nào đó mà Đại Học trong nước (thậm chí Đại Học nước ngoài) muốn mở ra xây dựng chương trình học phần của môn Tử Vi Đẩu Số, thì không hiểu là sẽ phải giảng dạy như thế nào? Cho dù có chọn được người dạy được phù hợp, xin hỏi sẽ có bao nhiêu người tín phục nghe theo đây? Tới lúc đó, tôi có lẽ sẽ không nhịn được nếu như cứ nói đi nói lại cái luận điệu cũ rích: học tập mệnh lý cần không sợ tính toán sai lầm, chỉ sợ đến cố sống cố chết không nhận sai lầm!
Và quý vị cao nhân bậc thầy cùng chung sức. Nếu như tôi có sai lầm! Cũng hoan nghênh các cao nhân bậc thầy gửi thư đến phê bình và chỉ giáo! Tôi sẽ rất sẵn lòng hoan hỉ tiếp thu!
Phan Văn Khâm.
Hướng kê giường Tuổi Kỷ Tỵ 1989
– Năm sinh dương lịch: 1989
– Năm sinh âm lịch: Kỷ Tỵ
– Quẻ mệnh: Khôn Thổ
– Ngũ hành: Đại Lâm Mộc (Gỗ rừng già)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);
– Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);
Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Mộc, Thủy sinh Mộc, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thủy, là hướng Bắc;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh dương, Đen, đây là màu đại diện cho hành Thủy, rất tốt cho người hành Mộc.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
Người tuổi Sửu và tuổi Sửu có thể hợp tác nhưng ít có triển vọng bởi cả hai đều không có đầu óc kinh doanh.
Người tuổi Sửu và tuổi Dần hợp tác không đem lại nhiều thành công. Thông thường, hai bên không đồng quan điểm nên đa phần người tuổi Sửu sẽ lép vế trước người tuổi Dần.
Người tuổi Sửu và tuổi Mão hợp tác không mấy vui vẻ. Hai bên thường không tin tưởng lẫn nhau. Việc hợp tác chỉ đơn thuần là mối quan hệ cả hai cùng có lợi.
Người tuổi Sửu và tuổi Thìn thường chỉ hợp tác được với nhau trong thời gian ngắn. Hai bên đều có ý tưởng kinh doanh nhưng không ai chịu nhường ai. Kết quả là họ khó kéo dài được quan hệ hợp tác.
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Người tuổi Sửu và tuổi Tỵ không nên hợp tác với nhau bởi cả hai đều khăng khăng giữ quan điểm riêng của mình.
Người tuổi Sửu và tuổi Ngọ hợp tác kinh doanh khá ăn ý. Hai bên nỗ lực làm việc, đối xử chân thành với nhau, sự nghiệp nhất định sẽ phát triển.
Người tuổi Sửu và tuổi Mùi không nên hợp tác, họ không thể làm việc được với nhau để tránh những thất bại sau này.
Người tuổi Sửu và tuổi Thân không nên hợp tác. Trâu thích khỉ nên thường bị khỉ lợi dụng. Mối quan hệ hợp tác sẽ gây bất lợi cho người tuổi Sửu.
Người tuổi Sửu và tuổi Dậu có thể hợp tác với nhau. Tuy nhiên, người tuổi Sửu bỏ ra nhiều công sức hơn. Họ thường cho rằng người tuổi Dậu lười biếng và xem thường thế mạnh của người này.
Người tuổi Sửu với tuổi Tuất không nên hợp tác với nhau bởi hai bên không đồng quan điểm.
Người tuổi Sửu với tuổi Hợi hợp tác khá ăn ý. Người tuổi Hợi rất khâm phục năng lực và tinh thần làm việc của người tuổi Sửu. Trong khi đó, người tuổi Sửu lại thu được nhiều lợi ích khi hợp tác với người tuổi Hợi.
Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp
– Khi bài trí cây cảnh phải xem đặc điểm địa chất có phù hợp hay không
– Ở những nơi rộng rãi như phòng khách, tiền sảnh hay cổng nên bày các chậu cây to hoặc hòn non bộ, ở các phòng ở thông thường thì chỉ nên bày các chậu cây cỡ nhỏ. Trên ban công hay lan can nên bày các chậu cây có thân cong hoặc cao vút. Còn trên bàn học hoặc các giá đỡ thì nên bày các chậu cây nhỏ hơn.
– Vị trí bày chậu cây phụ thuộc vào chủng loại và kiểu dáng của chúng. Hòn non bộ thích hợp bày ở những chỗ ngang tầm mắt người hoặc thấp hơn một chút để có thể làm tôn lên vẻ đẹp của những vách núi cheo leo hiểm trở cùng những dáng dấp cây độc đáo.
Nếu bày cao hơn tầm mắt một chút thì vẻ cổ kính cứng cáp của cây sẽ càng được bộc lộ rõ hơn.
– Không treo tranh, rèm cửa sổ, hay dán giấy dán tưòng sặc sỡ phía sau các bồn cây cảnh nếu không sẽ bị rối mắt và hiệu quả trang trí cũng sẽ bị giảm đi rõ rệt.
– Không trang trí quá nhiều hoa trong nhà. Phần lớn các gia đình đều thích căn nhà của mình có thật nhiều hoa, nhưng trên thực tế để quá nhiều hoa trong nhà là điều không nên. Nhiều người có sở thích hoặc thói quen đặt vài chậu cây cảnh hoặc hoa cảnh trên giá sách, trên trà kỉ, tủ lạnh, thậm chí cả trên nóc tivi hoặc treo chúng trên tường, trên cửa sổ… gây rối mắt và tạo cảm giác ức chế rất khó chịu. Thực ra, nhà đẹp không nhất thiết phải quá to, hoa thơm không nhất thiết phải nhiều. Trong một căn phòng vừa phải thì chỉ cần bày từ hai đến ba chậu cây cảnh là đủ. Như vậy căn phòng của bạn không những thoáng đãng, trang nhã mà lại rất thanh lịch.
– Tránh lôi trang trí quá đơn điệu. Bố cục sắp đặt các chậu hoa phải đồng đều hợp lí, nhưng tránh trường hợp các chậu cây cùng một màu mà kích thước khác nhau, hoặc bày tất cả các chậu trên cùng một đường thẳng nằm ngang, bởi như vậy trông chúng sẽ rất đơn điệu và thiếu tự nhiên, tạo cảm giác vô vị.
– Không bày các chậu cây vừa được bón phân. Mục đích của việc trang trí các chậu cây cảnh hoặc hoa trong nhà là để làm đẹp ngôi nhà và phục vụ nhu cầu thưởng thức, ngắm nhìn. Nếu sử dụng các chậu cây vừa được bón phân sẽ làm cho khắp ngôi nhà bị ngập trong mùi lạ khó chịu và ảnh hưởng đến bầu không khí trong lành, từ đó mất đi ý nghĩa thưởng thức. Nếu bạn muốn nhà mình lúc nào cũng có hoa tươi, có thể khắc phục bằng cách chuẩn bị khoảng tám đến mười chậu cây và luân phiên bón phân cho chúng để dùng thay đổi.
– Khi trồng hoa trong nhà cần thận trọng với những chất độc hại nào
Chăm sóc hoa trong nhà vừa có thể làm đẹp môi trường lại có thể rèn rũa tính cách con người và xóa tan mệt mỏi, làm cuộc sống tươi đẹp hơn, nhưng khoa học hiện đại cũng chứng minh rằng có một số loài hoa đẹp lại rất có hại đối với sức khỏe của con người nên không thích hợp để làm vật trang trí trong nhà. Đó là những loại hoa sau:
Ngọc đinh hương:
Màu trắng tinh khiết, hương thơm ngào ngạt, là một trong những loài hoa được ưa chuộng trong trang trí nhà cửa. Nhưng mùi hương của nó có tính kích thích rõ rệt đến hệ thần kinh của con người. Nếu tiếp xúc lâu ngày sẽ dẫn đến các chứng bệnh mang tính dị ứng hoặc kích thích như hen suyễn, ho, buồn bực khó ỏ…, gây cảm giác rất khó chịu.
Hoa trinh nữ (hoa xấu hổ):
Vẻ đẹp động lòng người, rất được yêu thích. Nhưng gốc cây của loài hoa này có chứa một độc tố mang tên bazơ trinh nữ. Nếu tiếp xúc quá nhiều sẽ bị rụng hết lông và tóc.
Uất kim hương:
Hoa đẹp, dáng hoa yêu kiều thướt tha. Nhưng ngưòi ta đã tiến hành thử nghiệm, nếu ở giữa một căn phòng ngập tràn hoa uất kim hương trong vòng hai tiếng đồng hồ sẽ xuất hiện các triệu chứng đau đầu, chóng mặt, và có thể dẫn đến tăng huyết áp hoặc tim đập nhanh, ở một số ngưòi còn có hiện tượng cảm mạo. Nguyên nhân chính của các hiện tượng này là do trong hoa có chất bazơ cực độc.
Ngoài ra, với các loài hoa như hoa lan, hoa bách hợp, nếu tiếp xúc nhiều sẽ bị buồn nôn, chóng mặt, tinh thần uỷ mị, cơ thể mệt mỏi, hen suyễn… Mai ngũ sắc hay Dương hương cầu gây hiện tượng dị ứng ở một số người. Các cây như tùng, bách khi nhiệt độ lên cao sẽ tỏa ra mùi hương thơm nồng nàn, gây cảm giác buồn bực, khó ở và làm giảm cảm giác thèm ăn. Ngoài ra, các loài hoa như nhất phẩm hồng, vạn liên thanh… nếu chẳng may ăn phải sẽ bị tử vong hoặc nhẹ nhất là bị tàn tật.
Vì thế, dù yêu hoa đến mấy thì khi chơi hoa hay thưởng thức hoa không thể không cảnh giác với các loài hoa có độc tố, để tránh mang đến sự nguy hiểm cho mình và người thân.
Vật trang trí không chỉ có tác dụng làm đẹp cho căn nhà mà một số” vật trang trí còn có ý nghĩa may mắn, có thể làm tăng không khí vui vẻ, náo nhiệt. Do đó, rất nhiều gia đình thích bày vật trang trí may mắn trong nhà mình. Đặc biệt là tam tinh
“Phúc”, “Lộc”, “Thọ”, ba vật trang trí bằng sứ này có khuôn mặt hiền hậu, để trong nhà có thể tăng thêm may mắn. Thực ra, “Phúc”, “Lộc”, “Thọ” ngoài làm bằng sứ ra thì còn có loại vẽ trên giấy.
Bất kể là bày tượng tam tinh hay treo tranh tam tinh thì vẫn phải chú ý một số điểm: đầu tiên là tượng hay tranh tam tinh không thể đặt đối diện với cửa lớn, cũng không thể đặt đối diện với cửa sổ lớn, vị trí lý tưởng nhất là đặt đối diện với chiếc ghế sopha dài trong phòng khách, hoặc mặt hướng về bàn ăn trong nhà bếp, nói cách khác là nên đặt ở những nơi khách đến chơi có thể dễ dàng nhìn thấy. Thứ hai là tượng tam tinh phải luôn được lau chùi sạch sẽ, không được để bám bụi, nếu treo tranh cũng phải thường xuyên dùng chú ý phủi bụi.
Tiếp theo, ngoài tam tinh ra thì còn có những vật trang trí khác cũng mang ý nghĩa may mắn, như tranh công, phượng hoàng, rồng, sư tử may mắn đều là vật tượng trưng cho sự may mắn, rất phù hợp cho mọi ngưòi bày trong nhà.
Cũng có những người thích trải da báo, treo đầu thú, sừng trâu, mai rùa, mai đồi mồi ở phòng khách. Những năm gần đây, lại có người thích treo quạt gấp giấy cỡ lớn, dao dĩa bằng gỗ, thậm chí có cả dao cửa khẩu, dao dùng trong quân đội Nhật. Những vật nói trên đều có ý nghĩa tàn bạo, không phải nhà nào cũng thích hợp dùng để trang trí, đặc biệt là đốì với nhà có phụ nữ mang thai thì trải da hổ, da báo càng không có lợi.
Khi lắp đặt các vận dụng trong nhà bếp, bạn cần chú ý đến độ an toàn và tính tiện dụng. Đồng thời, bạn cũng đừng quên vấn đề phong thủy của các vật dụng này.
Theo quan niệm phong thủy, bếp là nơi tích tụ rất nhiều năng lượng dương của gia đình. Gian bếp còn biểu hiện cho sự ấm no, đủ đầy. Do đó, việc hiểu và sắp đặt các đồ dùng đúng hướng phong thủy rất quan trọng.
Máy hút khói, tủ lạnh ![]() |
Máy hút khói được xem như lá phổi của nhà bếp. Máy hút không khí bụi bặm, hơi dầu mỡ ra ngoài và tạo sự đối lưu không khí, giúp không khí trong lành từ ngoài vào. Nên đặt máy và bếp nấu cùng hướng để tạo ra sự hài hòa phong thủy.
Tủ lạnh là nơi tích tụ nhiều khí lạnh. Mặc dù chúng vẫn tỏa nhiệt nhưng không đáng kể. Theo đó, bạn phải chọn đúng hướng để đặt tủ lạnh sao cho đáp ứng được hai yêu cầu. Thứ nhất là thuận tiện khi sử dụng. Thứ hai là hợp với hướng điều hòa phong thủy.
Đặt tủ lạnh theo hướng bắc là thích hợp nhất vì hướng này tượng trưng cho mùa đông lạnh giá, năng lượng dạng sóng lượn. Hơn nữa, hướng này đại diện cho nước. Khi không chọn được hướng này vì sẽ khiến không gian bất tiện, hãy đặt tủ lạnh theo hướng hợp với tuổi của bạn.
Bồn rửa bát, tủ nướng ![]() |
Tủ nướng (các loại tủ sử dụng nhiệt lượng): Các sản phẩm này tỏa ra một nhiệt lượng rất lớn để làm chín đồ ăn, đồng thời đa phần chúng được làm từ kim loại. Vì thế, bạn nên chú ý đến hướng phong thủy hòa hợp. Các loại tủ này không nên làm âm để dễ dàng thay đổi vị trí và toả nhiệt ra môi trường bên ngoài.
Nên đặt các vật dụng này ở hướng nam vì đây là hướng sinh nhiệt lượng rất lớn, nơi chốn của mặt trời, lửa và các vật sắc nhọn. Nguồn nhiệt lượng này luôn luôn được nuôi dưỡng và sinh ra liên tục.
Bồn rửa thường được đặt ôm sát tường và bố trí gần bếp để tạo thuận lợi cho bạn khi làm bếp. Tuy nhiên, nếu được đặt đúng hướng gió tây, nó sẽ làm bạn thấy thoải mái hơn.
Nếu bồn rửa bát nhà bạn không nằm cạnh cửa sổ thì phía trên giá tủ phải đủ sáng để năng lượng rọi vào vị trí này được kích hoạt khi bạn đứng rửa. Nên xoay về hướng tây nam nếu bồn rửa bằng đá, còn bồn bằng kim loại như inox thì đặt về hướng tây bắc.
Tủ bếp, bếp nấu ![]() |
Tủ bếp thường thiết kế bằng gỗ, thuộc hướng đông hay đông nam. Theo đó, các kệ tủ treo cũng nên kê theo hướng này để phát huy được yếu tố phong thủy mạnh nhất, tạo ra sự sạch sẽ và an toàn khi sử dụng.
Hướng đông nam cũng thích hợp cho các vật dụng có hình chữ nhật như tủ bếp. Năng lượng tiềm ẩn bên trong tủ tượng trưng cho sự dồi dào của thực phẩm, sự sung túc và đầy đủ cho mọi thành viên của gia đình. Bạn cũng nên chú ý sự liên thông về chất liệu giữa tủ treo và tủ đứng bên dưới để tạo ra quá trình cộng hưởng năng lượng chung trong bếp.
Bếp nấu chính là trái tim của căn bếp, nơi làm chín thức ăn, sử dụng rất nhiều năng lượng. Nguồn năng lượng này có thể từ ga hay từ bếp điện. Vì thế, bạn nên bố trí phích cắm bếp điện hay thùng ga hướng về phía hợp với tuổi của bạn. Mỗi chủ nhà đều có một hướng tốt phù hợp với tuổi. Đây cũng chính là hướng lấy năng lượng cho bếp.
Quan sát sự vận động của mặt trăng, mặt trời là dựa vào sự thuận nghịch của Mộc tinh. Nên nói phương Đông mộc, chủ về mùa xuân, giáp ất. Người thất nghĩa bị phạt khi gặp tuế tinh ( mộc tinh).
Quan sát cương khí dựa vào Hỏa tinh. Nên nói, phương Nam hỏa, chủ mùa hạ, bính đinh. Người thất lễ bị phạt khi gặp hỏa tinh.
Xem các sao lấy vị trí Thổ tinh làm căn cứ. Nên nói thổ ở trung ương, chủ mùa hạ, mậu, kỷ. Đó là tượng của Hoàng đế, ông chủ hay bà chủ.
Quan sát sự dịch chuyển của ngày lấy vị trí Kim tinh làm căn cứ . Nên nói, phương Tây mùa thu, canh tân. Nó chủ về sát, thất sát. Người có thất sát sẽ bị phạt khi gặp thái bạch.
Quan sát giờ căn cứ vào vị trí của Thủy tinh. Nên nói, phương Bắc thủy là tinh của Thái âm, chủ về mùa đông, nhâm quý. Người thất hình bị phạt khi gặp sao giờ sinh.
Sách “ Tố vấn khí giao biến đại luận” cũng đã ghi chép lại cách quan sát ngũ tinh để đoán hoạ phúc. Sách đó có nói: .. . ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ vừa tốt vừa xấu. Dùng nó để biết sinh tử hay thành bại”. Người ta có thể căn cứ vào độ sáng, đường đi, vị trí xa gần, tốc độ của Hỏa tinh, Thổ tinh, Kim tinh ( sao Thái Bạch), Thủy tinh để biết được tai hoạ hay may mắn. Đối với xã hội loài người mà nói, việc mất cân bằng còn hệ trọng hơn nhiều so với sự vận động bình thường. Sự thay đổi của trời đất tuy là điềm dự báo phúc hoạ trong nhân gian, nhưng nguồn gốc sau xa của phúc hoạ lại nằm chính trong hành vi của con người. Lấy âm dương ngũ hành tức là những cái biểu thị sự cân bằng hay mất cân bằng giữa các can chi trong Tứ trụ để đoán biết cát hung, hoạ phúc của con người , đó là kết tinh sự thể nghiệm quý báu của con người Trung Quốc cổ đại. Lấy sự sinh khắc, chế hoá của ngũ hành để giảm sự mất cân bằng của mệnh, đặng từ đó hướng đến điều tốt, lánh xa điều xấu mới là ý nghĩa làm chủ vận mệnh của mình một cách chân chính.
NGŨ HÀNH SINH, KHẮC.
Giữa các ngũ hành tồn tại quy luật tương sinh, tương khắc. Giống như âm dương, tương sinh, tương khắc là hai mặt gắn liền với nhau của sự vật. Không có sinh thì sự vật không thể phát sinh và phát triển: không có khắc thì không thể duy trì sự cân bằng và điều hoà của sự vật trong quá trình phát triển và biến hóa. Trong ngũ hành sinh, khắc có mối quan hệ tương sinh hai mặt: cái sinh ra tôi và cái tôi sinh ra; mối quan hệ tương khắc cũng có hai mặt : cái khắc tôi và cái tôi khắc.
Ngũ hành tương sinh là : mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc.
Ngũ hành tương sinh có nghĩa là:
- Mộc sinh hỏa: vì mộc tính ôn, ấm áp tức hỏa ẩn phục bên trong , xuyên thủng mộc sẽ sinh ra hỏa. Vì vậy mà nói mộc sinh hỏa.
- Hỏa sinh thổ: vì hỏa nóng cho nên đốt cháy mộc. Cháy hết biến thành tro tức là thổ. Cho nên nói hỏa sinh thổ.
- Thổ sinh kim: vì kim ẩn tàng, vùi lấp trong đá, trong núi. Có núi tất có đá, vì vậy nói hỏa sinh thổ.
- Kim sinh thủy: vì khí của thiếu âm ( khí của kim) chảy ngầm trong núi tức kim sinh ra thuỷ. Vì vậy làm nóng chảy kim sẽ biến thành thuỷ, nên nói kim sinh thuỷ.
- Thuỷ sinh mộc: nhờ thuỷ ôn nhuận làm cho cây cối sinh trưởng, nên nói thủy sinh mộc.
Ngũ hành tương khắc.
Mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hỏa, hoả khắc kim, kim khắc mộc.
Ý nghĩa của ngũ hành tương khắc. Ngũ hành tương khắc lẫn nhau đó là bản tính của trời đất : thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim ; kim khắc mộc ; mộc khắc thổ ; thổ khắc thuỷ.
Mối quan hệ sinh, khắc của ngũ hành.
Ngũ hành tương sinh theo quan hệ tuần hoàn ; tương khắc theo quan hệ khắc cách ngôi.
Điều nên và điều kỵ của ngũ hành sinh khắc, chế hóa.
Ngũ hành không những có sinh, có khắc, bổ trợ cho nhau mà con khống chế lẫn nhau. Ngoài ra còn có mặt thái qua và mặt bất cập. Điều đó làm cho việc dự đoán trở nên phức tạp. Trong quá trình học tập muốn nắm vững mối quan hệ đối lập thống nhất này thì cần phải nắm vững những điều nên và những điều kỵ để linh hoạt vận dụng.
Kim : Kim vượng gặp hỏa sẽ trở thành vũ khí có ích.
Kim có thể sinh thuỷ, nhưng thuỷ nhiều thì kim chìm; kim tuy cứng nhưng cũng có thể bị thuỷ dũa cùn.
Kim có thể khắc mộc. Nhưng mộc cứng thì kim bị mẻ; mộc yếu gặp kim tất sẽ bị chặt đứt.
Kim nhờ thổ sinh, nhưng thổ nhiều thì kim bị vùi lấp ; thổ có thể sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ biến thành ít.
Hỏa : Hỏa vượng gặp thuỷ thì trở thành ứng cứu cho nhau.
Hỏa có thể sinh thổ, nhưng thổ nhiều thì hỏa ám; hỏa mạnh gặp thổ sẽ bị dập tắt.
Hỏa có thể khắc kim, nhưng kim nhiều thì hoả tắt; kim yếu gặp hỏa tất sẽ nóng chảy.
Hỏa nhờ mộc sinh, mộc nhiều thì ngọn lửa mạnh ; tuy mộc có thể sinh hỏa nhưng hỏa nhiều thì mộc bị đốt cháy.
Thuỷ : Thuỷ vượng gặp thổ sẽ thành ao hồ.
Thuỷ có thể sinh mộc, nhưng mộc nhiều thì thủy co lại; thuỷ mạnh khi gặp mộc thì khí thế của thuỷ yếu đi.
Thuỷ có thể khắc hỏa, nhưng hỏa nhiều thuỷ khô; hỏa nhược gặp thuỷ rất bị dập tắt.
Thủy nhờ kim sinh, nhưng kim nhiều thì thủy đục ; kim có thể sinh thuỷ nhưng khi thuỷ nhiều thì kim lại bị chùn xuống.
Thổ: thổ vượng gặp mộc thì việc hanh thông.
Thổ có thể sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ trở thành ít; thổ mạnh gặp kim thì sẽ khống chế được thổ ùn thành đống.
Thổ có thể khắc thuỷ nhưng thủy nhiều thì thổ bị trôi ; thuỷ nhược mà gặp thổ tất sẽ bị chắn lại.
Mộc: Mộc vượng gặp kim sẽ trở thành rường cột.
Mộc sinh hỏa, nhưng hỏa nhiều thì mộc bị đốt ; mộc mạnh gặp hỏa thì mộc trở thành yếu.
Mộc khắc thổ, nhưng thổ nhiều thì mộc bị lấn át ; thổ yếu gặp mộc thì sẽ trở thành khô cằn nứt nẻ.
Mộc nhờ thuỷ sinh, nhưng thuỷ nhiều thì mộc bị dạt trôi ; thuỷ có thể sinh mộc ; nhưng mộc nhiều thì thủy bị co lại.
QUAN HỆ GIỮA NGŨ HÀNH VỚI CON NGƯỜI.
“Chu dịch” nói: mọi việc, mọi vật trong thế gian đều thống nhất ở thái cực. Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ năm ngũ hành này là sự thể hiện rõ nhất, lớn nhất của vạn vật. Cho nên mọi việc, mọi vật đều thống nhất ở âm dương, ngũ hành. Con người là một trong vạn vật, tất nhiên nó phải tham gia vào sự vận động không ngừng của vũ trụ. Tứ trụ dự đoán học với tư cách là sự giải thích toàn diện về cuộc sống con người – tiểu thiện địa, nên đó là môn học về quy luật sinh mệnh của con người. Nó vận dụng quy luật ngũ hành để giải thích mối quan hệ giữa con người và trời đất.
II. BẢN TÍNH CỦA NGŨ HÀNH
Bản tính của con người là nói phẩm chất bẩm sinh vốn có. Cái gọi là tính tình tức là chỉ sự mừng, giận, buồn , yêu, ghét và nhân, nghĩa, lễ, trí, tín luôn có mối quan hệ gắn chặt với kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Tuy bản tính con người tuỳ theo ảnh hưởng của hậu thiên nhiên như hoàn cảnh gia đình, môi trường giáo dục mà thay đổi, song căn cứ vào sự vượng suy và sinh khắc của âm dương, ngũ hành đã được thể hiện trong Tứ trụ thì về căn bản, thiên tính của con người là không dễ thay đổi.
Những cái mà ngũ hành đại biểu như tính tình, màu sắc, mùi vị, nhân thể, bốn mùa, phương vị đều là những đặc tính căn bản. Ngũ hành trong Tứ trụ có mặt thiên lệch về vượng , lại cũng có mặt thiên lệch về nhược. Mặt vượng là chỉ những đặc tính lộ rõ, trội nổi ; mặt nhược chỉ là những tính chìm ẩn hoặc yếu ơn. Những mặt thiếu khuyết trong Tứ trụ có thể được bổ sung tương ứng để hướng tới cái tốt, tránh được cái xấu. Ví dụ: người mộc vượng thông qua sự cân bằng tổng hợp của Tứ trụ có thể thể hiện ra tính mộc. Nếu mộc không đủ hay khuyết mộc hoặc mộc bị khắc thì không những có thể thông qua vóc người, cá tính, tướng mạo, sức khỏe để nhình thấy mà còn có thể đoán biết người đó hàng ngày ăn uống thường nghiện thức ăn chua. Thích chua chính là sự bổ sung bản năng về mặt sinh lý. Như vậy ta có thể thông qua sự bổ sung lý tính hoặc qua sự lựa chọn có lợi cho sự nghiệp, tiền đồ hôn nhân, tài phú, quan lộc, phúc thọ, lục thân, sức khỏe, nghề nghiệp để cân bằng tổng hợp cho Tứ trụ. Tức là ta đã chọn sự bổ sung có lợi, không có hại. Chỉ riêng một chữ “bổ” được gợi ý từ sách vở cũng đã giúp cho ta một phương châm để điều chỉnh quy luật vận động sinh mệnh của cuộc sống. Chương 2 của cuốn sách này mọi nội dung đều xoay quanh “bổ”, coi đó là chìa khóa vàng cho Nhập môn dự đoán theo Tứ trụ. Hy vọng những người mới học nắm vững được nó để mở được cánh cửa của kho báu về thuật số dịch học.
“Bổ” như thế nào ? Đó là bổ khí. Người ta thường nói: người sống nhờ thở khó. Học thuyết âm dương ngũ hành từ xưa đến nay đối với con người thở khí trời đất để sống mà nói đó chính là bổ khí: kim, mộc, thuỷ, hóa, thổ. Khí của âm dương ngũ hành bao hàm khái niệm không gian và thời gian của vũ trụ. “Khí của trời đất” chính là khí trong đục của ngũ tinh vận động trong thiên thể mà người đó nhận được tại thời điểm và địa điểm lúc sinh ra.
Từ mệnh lý có thể đoán biết được bẩm tính của con người cũng như có thể đoán ra được diện mạo, vóc dáng, nói năng, cử chỉ, thiện ác. Thông thường sự dự đoán cao cấp, nhiều tầng không thể chỉ dùng một Tứ trụ mà phải dự đoán tổng hợp cả các mặt mệnh lý, diện tướng, cốt tướng, vân tay, trong đó lấy mệnh cục làm chủ, các tướng pháp làm bổ trợ, tham khảo, bổ sung. Độ chính xác của cách dự đoán đó chắc chắn sẽ cao vì đã thoát ra khỏi cách dự đoán chỉ dựa vào một mình Tứ trụ. Cách đoán đó đã tập hợp được các mặt lộ ra về âm đức, phong thủy, nhà cửa, di truyền, ngũ hành của người đó, tức là đã tổng hợp được các nhân tố khác nhau để rút ra kết luận dự đoán.
Thời gian: tổ chức vào ngày 8 và ngày 9 tháng 4 âm lịch.
Địa điểm: xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn người anh hùng huyền thoại "Phù đổng thiên vương" (Thánh Gióng).
Nội dung: Hội Gióng Phù Đổng chính thống được tổ chức hàng năm vào hai ngày mùng 8 và mùng 9 tháng 4 âm lịch tại xã Phù Đổng, huỵện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, nơi sinh ra người anh hùng huyền thoại "Phù Đổng Thiên Vương". Hội gióng Phù Đổng có sức hấp dẫn trong việc hoàn thiện nhân cách con người, dân gian từng ghi nhận bằng câu ca dao:
Ai ơi mùng chín tháng tư
Không đi Hội gióng cũng hư mất người
Để biểu đạt những ý tưởng và triết lý dân gian, Hội Gióng Phù Đổng có dàn vai diễn: các ông "Hiệu", hệ thống tướng lĩnh của Ông Gióng: "Phù Giá",đội quân chính quy; các "Cô Tướng", tượng trưng các đạo quân xâm lược; Phường "Ải Lao", trong đó có "Ông Hổ",đội quân tổng hợp; "Làng áo đỏ", đội quân trinh sát nhỏ tuổi; "Làng áo đen",đội dân binh v.v…Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, mỗi một vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. "Dước khám đường" là trinh sát giặc; "Rước nước" là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; "Rước Đống Đàm" là đi đàm phán kêu gọi hoà bình; "Rước Trận Soi Bia" là mô phỏng cách điệu trận đánh ác liệt. Trong trận này, roi sắt gãy, ông Gióng phải dùng tre đằng ngà,một vũ khí tượng trưng sức mạnh nội lực của dân tộc.
Cờ phướn màu đỏ mà trên đó viết chữ "Lệnh" tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ Lệnh của ông Hiệu Cờ (vai diễn tượng trưng Ông Gióng) là biểu đạt một số quan điểm cơ bản của phép luỵện quân cùng phương pháp tác chiến để giành thắng lợi. Đó là "Quân lệnh phải nghiêm minh" "Binh pháp phải mưu lược sáng tạo" (Múa cờ thuận và múa cờ nghịch). Phù giá ngoại (đội hình có tới 120 người) là những vai diễn đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa, trên có đính chín con rồng nhỏ, tượng trưng cho Đất, vai đeo một túi "bán nguyệt" có hình nửa vầng trăng, tượng trưng cho Trời, tay cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe theo khẩu lệnh của ác ông "Xướng" và "Xuất", tượng trưng cho một loại vũ khí có sức biến ảo khôn lường.
Trong lễ hội có 28 cô gái trẻ đóng vai tướng giặc, tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân. Còn các màn rước lễ "Kén tướng", "Kén Phù Giá", và màn diễn "Săn hổ, bắt hổ, giúp hổ hoá thân", có thể suy ngẫm về quan điểm thảm mỹ và đạo lý ứng xử truyền thống v.v … Lễ hội Gióng Phù Đổng cũng có nhiều màn hát chèo để mừng thắng trận.
Trong dân gian, hội Gióng Phù Đổng được nhắc tới bởi các thành ngữ:
Lâm râm hội Khám, u ám hội Dâu, vỡ đầu hội Gióng.
Mùng bảy hội Khám, mùng tám hội Dâu
Mùng chín đâu đâu trở về hội Gióng.
![]() |
6. Pháo đài sát
Có những ngôi nhà nằm đối diện với tòa nhà kiến trúc có 2 khẩu pháo thật hoặc giả chĩa vào. Gặp trường hợp này là phạm sát, khiến người ở tính khí cục cằn, vụ lợi mà mất nghĩa tình.
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Vì sát khí ở đây rất lớn nên vật hóa sát cũng phải nhiều. Ở 2 bên cửa sổ treo đôi chuông gió kỳ lân, ở giữa cửa đặt tiền cổ ngũ đế và 5 xâu hồ lô.
7. Khai khẩu sát
Khai khẩu sát là ngôi nhà có cửa chính đối diện với cửa cầu thang máy. Khi ta mở cửa nhà thấy cánh cửa cầu thang máy mở ra. Nhìn vào như cái mồm to muốn nuốt mình. Trường hợp này có thể tốt và cũng có thể xấu. Như người xưa nói: "Xưng khởi lạc cung vô giá bảo" nghĩa là: khi đang gặp vận tốt thì có chuyện vui mừng, nhưng khi vận xuống thì người trong nhà gặp cảnh ốm đau hoặc tán tài.
Hóa giải khai khẩu sát: cửa treo rèm, trên đó có minh chú quan âm. Kết hợp thêm tiền xu ngũ đế, nếu để kín trong chốt cửa thì càng có hiệu quả.
8. Đao sát
Đó là hình vật giống như con dao chĩa thẳng vào nhà. Trong thành phố, nhiều tòa nhà cao tầng có lối kiến trúc dài, 1 đầu nhà trông giống cán chuôi dao chĩa vào khu nhà cao tầng khác. Kiểu kiến trúc này khá phổ biến ở Hồng Kông, đặc biệt là tại các trung tâm ngân hàng. Phạm sát này, người ở dễ bị thương nạn.
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Hóa giải đao sát: ở trong nhà đặt long thần đã đánh bóng.
9. Xung sát
Hiện nay, do tốc độ xây dựng ngày càng nhanh và ngày càng xuất hiện nhiều tòa nhà chọc trời. Theo phong thủy, người ở từ tầng thứ 5 trở xuống dễ bị xung sát vì hay bị cột đèn hoặc cây cối ngăn cản. Phạm sát này người ta hay bị nhiễm bệnh.
Để hóa giải hình sát trường hợp này, dùng tiền cổ ngũ đế đã đánh bóng treo trong nhà; hoặc tại cửa đối diện với cây cối, cột điện treo rèm hạt châu hay bình phong.
10. Cô cương sát
Là nơi ở gần trạm biến thế điện, trạm bán xăng dầu, cửa hàng ga. Người ở nơi đây tính tình bất định, thô bạo; vì lợi mà vứt bỏ tình nghĩa, trong nhà hay xô xát, cãi nhau.
Hóa giải: treo hồ lô gỗ đánh bóng và la bàn Bát quái ở phía tường giáp các vật gây sát nói trên. Nếu chủ nhà ốm yếu, nhiều bệnh thì treo thêm 2 xâu hồ lô ở vị trí này.
11. Độc âm sát
Trước nhà cao tầng có nhà vệ sinh công cộng hoặc nơi thu mua phế liệu, nơi gom rác. Nhà ở từ tầng 5 trở xuống phạm loại "độc âm sát" này. Nếu các trạm thu gom rác thải hay nhà vệ sinh càng gần nhà thì "độc âm sát khí" càng nặng. Vì thế sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe mọi thành viên trong gia đình, tiền của hao tốn.
Nếu độc âm sát đến từ bên ngoài, ở trong nhà đặt hồ lô gỗ và tiền cổ ngũ đế để hóa giải sát khí. Nếu "độc âm sát" đến từ trong nhà thì căn buồng cạnh nhà vệ sinh treo 4 xâu hồ lô.
(Theo Hướng nhà đất theo phong thủy)
![]() |
Trần Thái Tông tên thật là Trần Cảnh, sinh năm 1218 (Mậu Dần-mệnh Thổ), mất năm 1277. Ông là vị vua đầu tiên của thời Trần, trị vì 33 năm, làm Thái thượng hoàng 19 năm.
Khi Trần Cảnh lên 8 tuổi thì được chú là Trần Thủ Độ sắp đặt kết hôn với Lý Chiêu Hoàng - vị vua cuối của triều Lý. Năm 1226, Trần Cảnh được Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi vua, mở đầu triều đại nhà Trần ở nước ta.
![]() |
Năm 1258, quân Nguyên Mông tràn xuống xâm lược Đại Việt. Trần Thái Tông tự làm tướng đốc, chỉ huy quân dân chiến đấu chống giặc. Vua Trần Thái Tông cùng thái tử Trần Hoảng (sau là vua Trần Thánh Tông) đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất.
Trần Thái Tông là vị vua có tài thao lược. Tuy nhiên, sử sách còn lưu truyền ông là một nhà thiền học, một triết gia. Trần Thái Tông có những tư tưởng sâu sắc, độc đáo về hai lĩnh vực này. Ông là tác giả cuốn sách Khóa hư lục - một tác phẩm cổ nhất, quan trọng nhất về phương diện triết học thiền của thời Trần.
(Theo Soctrang)
![]() |
Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo.
Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; Mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về. Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám như vậy người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần trở thành tục lệ.
Một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi “Giá thú bất luận tài” nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết hợp “Gả bán” liền nhau.
Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có nên đến dự lễ vui của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngày nay bỏ tục kiêng này.
Hoa
Đặt một bình hoa tươi ở cạnh phía Đông của bàn làm việc. Không nên để hoa làm tràn ngập hoặc che khuất tầm nhìn của bạn, đồng thời thay hoa khác khi hoa trong bình bắt đầu héo.
Hoa tạo ra năng lượng dương rất tốt, khuyến khích bạn hăng say làm việc.
Cây
Đặt một cây nhỏ tươi tốt ở góc Đông
![]() |
Nên đặt cây ở góc Đông Nam |
Pha lê
Đặt một miếng pha lê tròn ở góc Tây
Đèn
Khi bố trí bất kỳ loại đèn nào ở hướng
Máy tính
Tất cả các thiết bị văn phòng bằng kim loại nên đặt ở một chỗ riêng, thuộc hướng Tây hoặc Tây Bắc của bàn làm việc.
Bạn nên nhớ đặt những vật thấp ở bên phải và vật cao hơn ở bên trái.
Theo Sách Phong Thủy để thành công trong công việc và kinh doanh
![]() |
1. Dưới ngón tay cái | 2. Dưới ngón tay trỏ | 3. Dưới ngón giữa |
4. Dưới ngón áp út | 5. Dưới ngón út | 6. Cạnh trái của lòng bàn tay |
Mộc Trà (Theo Lol)
Để mua được một mảnh đất xây nhà ưng ý là điều rất khó. Chúng ta biết “đồng loại tắc tương phối, bất đồng tắc tương khắc”. Nếu người Đông tứ mệnh (Thủy, Mộc, Hỏa) ở vào Tây tứ trạch (Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam) và ngược lại, người Tây tứ mệnh (Thổ, Kim) ở vào Đông tứ trạch (Đông, Đông Nam, Nam, Bắc) thì bài toán sẽ được giải như sau:
Theo “Bát trạch minh kính” nếu nhà hướng Đông Tây khó thay đổi thì bạn phải sửa cửa chính. Tức nếu trạch mệnh không tương đối, chủ nhà phải khiến cửa chính và quẻ mệnh tương phối. Dùng “Môn mệnh tương phối” thay cho “Trạch mệnh tương phối” cũng có thể bổ trợ được. Nói một cách khác, với người Đông tứ mệnh, cửa cần mở ở 4 phương vị quẻ Đông tứ: Đông, Đông Nam, Nam hoặc Bắc. Người Tây tứ mệnh thì đặt cửa chính ở Tây tứ: Tây, Tây Nam, Tây Bắc hoặc Đông Bắc.
![]() |
Ngoài ra, đối với trường hợp cửa chính đặt vào hướng chưa tốt, bạn có thể hóa giải theo hai cách: thêm cửa trong nhà và dùng màu sắc hóa giải tà khí. Nếu bạn thuộc Tốn, cửa chính nhà bạn tại Tây Nam thuộc Khôn (Ngũ quỷ), hóa giải bằng cách làm thêm một cửa phụ trong nhà thuộc hướng tốt (ví dụ: chính Nam). Với cách này, gia đình sẽ gặp dữ hóa lành và tránh được những điều không tốt.
Tuy nhiên với những ngôi nhà có diện tích hẹp, bạn có thể dùng màu sắc để hóa giải bằng cách trải thảm ở cửa chính với các màu sắc khác nhau tùy theo ngũ hành của từng gia chủ: Mộc: màu xanh, lục; Hỏa: màu đỏ, tím; Thổ: màu nâu, vàng; Kim: màu trắng, vàng sẫm; Thủy: màu lam, xám.
Trong trường hợp mệnh Đông tứ gặp cửa Tây tứ. Cửa ở Tây và Tây Bắc gặp tà khí của Kim vì vậy bạn thuộc Thủy, Mộc nên trải thảm màu lam hoặc màu xám ở cửa chính, bạn thuộc Hỏa trải thàm màu đỏ hoặc tím. Cửa ở Tây Nam và Đông Bắc gặp tà khí của Thổ vì vậy bạn thuộc Thổ trải thảm màu trắng hoặc vàng sẫm, bạn thuộc Hỏa, Mộc trải thảm màu xanh hoặc lục.
![]() |
Với mệnh Tây tứ gặp cửa Đông tứ. Cửa hướng Đông và Đông Nam gặp tà khí của Mộc nên bạn thuộc Thổ trải thảm hồng hoặc tím, nếu bạn thuộc Kim trải thảm trắng hoặc vàng nhạt là thích hợp. Cửa hướng Nam gặp tà khí của Hỏa nên bạn thuộc Kim, Thổ trải thảm màu nâu hoặc vàng để hóa giải. Cửa phía Bắc gặp tà khí của Thủy, nếu bạn thuộc Thổ, Kim thì trải thảm màu nâu hoặc vàng để hóa giải.
Cách lựa chọn màu sắc như trên dựa vào sự vận động tương sinh tương khắc của ngũ hành, phù hợp với quy luật phong thủy.
![]() |
A | B | C |
Mộc Trà (theo Buzz)
Cuộc sống với những biến cố không ngừng, con người cần linh hoạt thay đổi để ứng biến, thích nghi với hoàn cảnh song có những điều thuộc về quan điểm, trong hoàn cảnh nào cũng không thể cải biến. Ví dụ như nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao, dù vật đổi sao dời, thăng trầm sóng gió thế nào cũng bất di bất dịch.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Nhấn mạnh tầm quan trọng của cổng chính (cửa chính), bếp và hướng tốt, xấu, theo quan niệm phái Bát Trạch, các yếu tố long và thủy của các trường phái phong thủy truyền thống cũng được lưu tâm.
Đặc biệt, để nhấn mạnh yếu tố cổng chính và bếp của nhà ở, phái Bát Trạch nhận định cổng là khí thần (thần quản khí), còn bếp là trực thần (thần quản việc ăn uống) nên có mối quan hệ cực kỳ chặt chẽ đến nhà ở: “Không đón được khí vào nhà, nhà sẽ chết. Không rước được trực thần đến nhà, người sẽ chết”.
Cùng sống trong một căn nhà với hướng cổng, bếp như nhau, những người niên mệnh khác nhau sẽ đi theo những vận mệnh hoàn toàn khác nhau. Sự tốt xấu của cổng, bếp không được quyết định bởi quy mô, kiểu dáng kiến trúc mà được quyết định bởi hướng, tọa của gia chủ.
Mặt khác, lý luận này cũng quan niệm căn cứ vào niên mệnh, không gian sinh tồn, mỗi người có 4 hướng tốt, 4 hướng xấu mặc định.
Cổng và bếp nhất thiết phải nhìn hướng tốt, và tại hướng xấu nên đặt những kiến trúc, đồ vật mang tính trấn át. Như vậy sẽ đạt được mục đích “hướng cát trấn hung”.
Mỗi người có một sự lựa chọn cho việc tốt như người thuộc Đông tứ mệnh có các hướng tốt đó là : Nam, Bắc, Đông, Đông Nam. Tương tự, người Tây tứ mệnh có các hướng là: Tây, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc.
Mỗi người đều có 4 sự lựa chọn cho việc lựa chọn hướng nhà mình. Sau khi lựa chọn được phương hướng phù hợp chúng ta sẽ đi sâu hơn về phương hướng của bếp vẫn theo phái Bát Trạch, nhằm cân bằng âm, dương giữa tuổi của gia chủ, hướng cửa và hướng bếp.
Cụ thể, theo tính chất của Bát Trạch và âm dương ngũ hành, với người Tây Tứ Mệnh: Tây Bắc thuộc Kiền, Ngũ hành là Dương Kim; Tây Nam thuộc Khôn Ngũ hành là Âm Thổ; Tây thuộc Đoài, Ngũ hành là Âm Kim; Đông Bắc thuộc Cấn, ngũ hành là Dương Thổ.
Với người Đông tứ mệnh, Đông thuộc Chấn, ngũ hành là Dương Mộc, Đông Nam thuộc Tốn, ngũ hành là Âm Mộc; Nam thuộc Ly, ngũ hành là Âm Hỏa. Bắc thuộc Khảm, ngũ hành là Dương Thủy.
Nguồn: Phong Thủy Tổng Hợp
Trích dẫn từ sách Tử vi đẩu số toàn thư của cụ Vũ Tài Lục dịch và bình chú
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a) Cát hung
b) Hư thực
c) Chủ khách
d) Cường nhược
Cát – Hung: Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào?
Sao tốt lâm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì?
Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với các cung tam hợp và cung xung chiếu:
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:
A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:
B. Cứu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
Như chúng ta đã biết, cửa lớn của ngôi nhà là miệng nạp khí, tuyến phân giới giữa bên trong và bên ngoài và là bộ mặt của cả ngôi nhàằ Khi thiết kế, cần phải suy xét tới kích thước cửa sao cho phù hợp với bố cục ngôi nhà. Bạn cần lưu ý những điểm sau:
– Cửa nhà nếu trổ to quá không những chẳng tụ được khí mà còn tán khí. Cửa quá nhỏ thì dòng khí không thông thoáng, tù túng, gây ảnh hưởng tới sức khỏe của người sông trong nhà.
– Cửa nhà không nên làm quá hẹp, rất khó thu được sinh khí.
– Cửa nhà quá cao sẽ không cát lợi.
Kính thước cửa lớn phải có tỉ lệ phù hợp với diện tích phòng, nhà nhỏ không nên làm cửa quá lớn và cũng không thể làm cửa nhỏ khi diện tích nhà rộng. Đồng thời cửa cũng là bộ mặt của ngôi nhà do đó cửa phải mới, đẹp, không nên dùng cửa đã cũ, sơn bị bong tróc và xấu xí. Nếu cửa bị hỏng hóc thì nên lập tức sửa chữa hoặc thay thế.
![]() |
► ## cung cấp công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
ủy tinh dùng ở phương Nam có thể chấp nhận được nên có thể mở ra được.
Trên thực tế, những loại kiến trúc mảng thủy tinh này trong phong thủy lại có tác dụng chắn hung khí. Bởi vì mỗi một thành phố đều có những quy hoạch tổng thể không giống nhau, mà vật kiến trúc luôn chịu ảnh hướng quy hoạch của khu vực và tính khu vực như xung đường đường chạy thẳng mặt, có hình thành đường chữ T thì sẽ có kiếm nghi đường xung. Chính vì vậy, công ty xây dựng khi quy hoạch toàn khu, được thiết định là không gian xanh, như vậy thì có thể tránh được hình xung đường đó, cũng có thể khiến cho sinh khí lưu thông, sẽ không có những hung khí quay trở lại.
Nhưng các thành phố hiện nay tấc đất tấc vàng, mọi người đều không nỡ dùng để làm diện tích xanh hoá. Chính vì vậy mà xây ngay những căn nhà, sẽ phạm vào xung đường, sẽ đem lại cho chung cư những ảnh hưởng không tốt.
Nhưng theo phương pháp hóa giải của địa lý phong thủy, thì có thể dùng hình thể kiến trúc để cải thiện. Ví dụ, bốn mặt có đặt các vòi phun nước để hoá giải hoặc dùng các màn tạo hình bằng thủy tinh hoá giải để bảo vệ bình an, hơn nữa đặt được hiệu quả tụ khí.
Dù số mệnh giàu sang của người tuổi Hợi chỉ có 2 phần, nhưng vì dựa vào thực lực và sự cố gắng không ngừng nghỉ, họ dễ dàng trở thành tỷ phú.
Nội dung
Sở hữu trái tim nhân hậu, lạc quan và biết dựa vào thực lực để chinh phục mọi thử thách, người tuổi Hợi có khát vọng lớn về sự giàu sang, phú quý. Hơn ai hết, họ biết tích lũy và chế ngự cảm xúc của mình, nỗ lực không ngừng nghỉ để có được thành công như mong đợi. Thành công đến với họ không quá khó khăn nhưng cũng không quá nhanh mà từ từ từng bước vững chắc.
Có thể nói, số mệnh giàu sang của người tuổi Hợi chỉ có 2 phần, 8 phần còn lại đều dựa vào chính sức lực và sự cố gắng của họ mà có được. Với họ, trở thành tỷ phú hoặc đơn giản là có nhiều tiền chỉ là vấn đề thời gian.
Người tuổi Thân rất nhạy bén về vấn đề tài chính, họ luôn nắm bắt và làm chủ mọi cơ hội để có được tiền tài địa vị lớn trong xã hội. Mặc dù xét về số mệnh, con giáp này không hề có số giàu sang, nhưng họ “gieo” thói quen tốt như tiết kiệm, chăm chỉ và khả năng nắm bắt cơ hội một cách khéo léo, có phần khá tinh ranh và sắc sảo nên họ “gặt” được những thành công còn hơn cả mong đợi.
Trong mắt mọi người, dường như người tuổi Thìn gặt hái được thành công một cách quá dễ dàng, bởi họ không giỏi trong việc quản lý tài chính, cũng không quá nỗ lực để thực hiện một điều gì đó. Điều này cũng không có gì sai, bởi số mệnh giàu sang của con giáp này có tới 8 phần. Khi sinh ra họ đã có số mệnh may mắn như vậy rồi, nên sự cố gắng của họ chỉ cần bằng hoặc chưa bằng người khác thì cũng đã chạm tới thành công.
Người tuổi Mùi rất biết cách kiếm tiền. Trong lĩnh vực tài chính, họ có năng lực đặc biệt, vô cùng nhạy bén, thông minh. Họ có thể tìm thấy cơ hội tốt lành cho mình ngay cả trong tình huống cấp bách, đầy khó khăn. Người khác có thể không nhìn thấy cơ hội ngàn vàng đó, nhưng với người tuổi Mùi thì không gì không thể.
Số mệnh giàu sang của người tuổi Mùi có tới 6 phần. Tuy nhiên, không vì thế mà họ dễ dàng kiếm được món tiền khổng lồ đâu nhé. Bởi phần lớn số tiền họ kiếm được đều dựa trên khả năng thực có của mình. Họ cũng phải trải qua bao gian nan, vất vả mới có được thành công đỉnh cao đó.
Con giáp này luôn ôm giữ mộng tưởng về một thời đại hoàng kim với sự giàu có bậc nhất bản thân. Cộng thêm số vận phú quý chỉ có 3 phần, nên người tuổi Dần thường khá chật vật trên con đường chinh phục sự giàu sang thời trẻ. Họ có thể trở thành tỷ phú nhưng chỉ khi đã ở độ tuổi trung niên.
Bởi thế nên người tuổi này thường có tâm lý than thân trách phận, trách ông trời không công bằng vì bắt họ phải mất quá nhiều thời gian trong cuộc đời mới có được cuộc sống giàu sang mà họ khát khao bấy lâu.
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
1. Mặt trái xoan | 2. Mặt tròn | 3. Mặt vuông | 4. Mặt V-line |
Mr.Bull (theo BT)