Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Quan Vũ chém đầu Hoa Hùng khi chén rượu còn nóng?

Thắng lợi đầu tay của Quan Vũ "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được mô tả là "uy chấn càn khôn". Nhưng một số sử liệu Trung Quốc lại cho rằng, chiến tích này thuộc về danh tướng Giang Đông Tôn Kiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ôn tửu trảm Hoa Hùng

Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", điển tích "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được cho là thuật lại chiến công đầu tay của Quan Vân Trường.

Theo tiểu thuyết, bối cảnh câu chuyện diễn ra khi 18 lộ chư hầu Quan Đông khởi binh thảo phạt gian thần Đổng Trác. Quân Quan Đông bao vây thành Lạc Dương. Tướng quốc Bình Nguyên là Lưu Bị dẫn các tướng Quan Vũ, Trương Phi... theo cùng Thái thú Bắc Bình Công Tôn Toản.

Chư hầu cùng tiến cử Viên Thiệu làm minh chủ, Thái thú Trường Sa (một địa danh thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) Tôn Kiên làm tiên phong tới Dĩ Thủy Quan khiêu chiến. Tướng của Đổng Trác là Kiêu kị hiệu úy Hoa Hùng tiếp chiến, đánh bại Tôn Kiên, chém đầu bộ tướng của kiên là Tổ Mậu.


quan vân trường
Quan Vân Trường "ôn tửu trảm Hoa Hùng".

Hoa Hùng khiêu chiến quân Quan Đông, trảm liên tiếp 2 tướng. Trong lúc liên quân chư hầu bất lợi, Viên Thiệu đành than - "Tiếc rằng hai tướng Nhan Lương, Văn Xú chưa tới. Nếu có 1 người ở đây thôi, đâu cần phải sợ Hoa Hùng?"

Lời Thiệu chưa dứt, Quan Vũ đã bước ra nói - "Tiểu tướng xin đi lấy đầu Hoa Hùng!". Thời điểm đó, Quan Vân Trường chỉ là một "mã cung thủ" vô danh tiểu tốt, cho nên Viên Thiệu và Viên Thuật đều không bằng lòng, sợ mất mặt trước Hoa Hùng.

Trong các vị "lãnh đạo" có mặt, duy nhất Tào Tháo ủng hộ Quan Vũ xuất trận, và mời Quan Công một chén rượu. "Rượu đã rót ra, Quan mỗ sẽ trở lại ngay!" - Quan Công nói xong cầm đao lên ngựa. Không lâu sau đã thấy Quan Vũ đem đầu Hoa Hùng về ném dưới đất. Chén rượu của Tào Tháo vẫn còn ấm, vì vậy mới có tích Quan Công "ôn tửu trảm Hoa Hùng".

Hoa Hùng ở Lạc Dương, Quan Vũ ở đâu?

Mặc dù "ôn tửu trảm Hoa Hùng" đã trở thành một điển tích vô cùng nổi tiếng đối với độc giả Tam Quốc, xong nhiều tư liệu lịch sử lại cho thấy "chiến công" của Quan Vân Trường hoàn toàn phi thực tế.

Tháng giêng năm Sơ Bình thứ nhất (190), các quận Quan Đông khởi binh phạt Đổng Trác, tôn Thái thú Bột Hải Viên Thiệu làm minh chủ. Khi ấy, Công Tôn Toản vẫn còn ở U Châu chứ không tham gia hội sư.

Thêm vào đó, thời điểm này, Lưu Bị còn chưa về đầu quân cho Công Tôn Toản, cho thấy chi tiết Bị cùng Toản tham gia liên minh là không chính xác. Theo các tài liệu lịch sử Trung Quốc, vào thời gian trên, Lưu Bị đang dẫn quân đánh Đốc Bưu.

Khi đại tướng quân Hà Tiến phái đô úy Khưu Nghị tới Đan Dương mộ binh, Lưu Bị mới dẫn đội quân ít ỏi của mình theo người này. Tại Hạ Bì đụng độ giặc Hoàng Cân (khăn vàng), quân Lưu đánh trận lập công, Lưu Bị được phong chức phó quan ở Hạ Mật, sau làm Cao Đường úy, rồi Huyện lệnh Cao Đường.


theo
Theo "Tam Quốc diễn nghĩa", trảm Hoa Hùng là thắng lợi đầu tay của Quan Vũ, và cũng là "uy chấn càn khôn đệ nhất công".

Về sau Cao Đường bị giặc Hoàng Cân phá, Bị mới về đầu quân cho Trung lang tướng Công Tôn Toản và được phong làm Biệt bộ tư mã.

Thời gian Lưu Bị làm Biệt bộ tư mã không được "Tam Quốc Chí" ghi lại, nhưng sách "Tư trị thông giám" và "Tục hậu Hán thư" đều viết, giai đoạn này vào khoảng tháng 10 năm Sơ Bình thứ hai (191), tức gần 2 năm sau khi liên minh Quan Đông thành lập.

Căn cứ vào các mốc thời gian thực tế, khi các châu quận khởi binh đánh Đổng Trác năm 190, Lưu Bị nhiều khả năng vẫn còn làm quan ở Hạ Mật, hoặc Cao Đường, chứ không thể có mặt tại tiền tuyến Lạc Dương.

Lưu Bị không ở Lạc Dương, cho thấy Quan Vũ cũng không có khả năng xuất hiện tại Lạc Dương để... trảm Hoa Hùng.

Công của Quan Vũ hay của "mãnh hổ Giang Đông"?

Cái chết của mãnh tướng Hoa Hùng đã được lịch sử ghi lại. Nhưng nhân vật trảm Hoa Hùng không phải là Quan Vũ, mà là "Giang Đông chi hổ" Tôn Kiên.

Tôn Kiên vốn là Thái thú Trường Sa (địa danh ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), tước Ô Trình Hầu. Thời điểm chư hầu Quan Đông khởi binh, Tôn Kiên cũng từ Hồ Nam bắc tiến, hội sư với Viên Thuật tại Lỗ Dương.

"18 lộ chư hầu" cất quân bao vây Lạc Dương, song thực tế mỗi bên đều e ngại Đổng Trác và tính toán bảo toàn thực lực nên không có bên nào tiến quân, mà tất cả đều giữ thái độ "quan sát".

Chỉ có quân đội của Tào Tháo, Tôn Kiên và Vương Khuông từng giao chiến với Đổng Trác. Tôn Kiên bị tướng Đổng Trác là Từ Vinh tấn công ở phía đông huyện Lương, Kiên cùng mấy chục kỵ binh đột phá vòng vây.

Khi ấy, trên đầu Tôn Kiên thắt chiếc khăn màu đỏ, ông sợ bị quân địch nhận ra nên đưa khăn cho tướng thân tín là Tổ Mậu. Tổ Mậu "đóng thế" cho Tôn Kiên, dẫn dụ quân Đổng Trác đuổi theo, Tôn Kiên mới thoát nạn.

Sự việc trên được tác giả La Quán Trung "biến tấu" trong tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa", rằng tướng Đổng Trác tập kích Tôn Kiên là Hoa Hùng, và chính Hoa Hùng chém đầu Tổ Mậu.


Theo một số nguồn sử liệu Trung Quốc,
Theo một số nguồn sử liệu Trung Quốc, "Mãnh hổ Giang Đông" Tôn Kiên được cho là tác giả của chiến công mà Quan Vũ "hưởng".

Lịch sử Trung Quốc cho thấy, ở chiến dịch tiếp theo - chiến dịch Dương Nhân, Hoa Hùng mới xuất trận và cũng bị chém đầu trong trận đánh này. Trong chiến dịch này, Tôn Kiên tập trung tàn binh đóng tại Dương Nhân ở phía tây huyện Lương. Đổng Trác phái Lữ Bố, Hoa Hùng, Hồ Chẩn tấn công Kiên.

Lữ Bố bất hòa với Hồ Chẩn, trong khi Chẩn là chủ soái, cho nên Bố cố ý gây rối trong quân, tạo tâm lý hoang mang, khiến sỹ tốt phe Đổng Trác mất tinh thần. Trước sự tập kích của Tôn Kiên, 3 tướng Lữ - Hồ - Hoa thua chạy. Hoa Hùng bị Tôn Kiên chém đầu.

Trên thực tế, Hoa Hùng không có thành tích quân sự đáng kể. "Tam Quốc diễn nghĩa" đã cường điệu tài năng của viên tướng này. Chiến công chém 2 tướng Du Thiệp, Phan Phụng cũng chỉ là hư cấu.

Có nhiều bình luận cho rằng, "Tam Quốc diễn nghĩa" đề cao hình ảnh Hoa Hùng, mục đích không ngoài "tô điểm" cho sự lợi hại của Quan Vân Trường.

Tôn Kiên vốn là tác giả chiến công trảm Hoa Hùng, song tiểu thuyết hư cấu lại "tặng" công lao của Kiên cho Quan Vũ, quả thực là một sự bất công đối với danh tướng Giang Đông.

Bất chấp thực tế lịch sử, người đọc Tam Quốc vẫn biết đến Quan Vân Trường nhiều hơn với "càn khôn đệ nhất công" trảm Hoa Hùng:

Uy chấn càn khôn đệ nhất công,

Viên môn họa cổ hưởng đông đông.

Vân Trường đình trản thi anh dũng,

Tửu thượng ôn thời trảm Hoa Hùng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan Vũ chém đầu Hoa Hùng khi chén rượu còn nóng?

Mơ lợi yêu –

Là giấc mơ thấy toàn ma quỷ. Người xưa không rỗ nguyên nhân của những giấc mơ đó cho rằng ma quỷ, yêu quái đã tạo nên giấc mơ. Nhận thức này sai, nhưng nằm mơ thấy ma quỷ lại là chuyện bình thường. Vương Sung từng nói: "Nằm ngủ một mình trong phòng r

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Là giấc mơ thấy toàn ma quỷ. Người xưa không rỗ nguyên nhân của những giấc mơ đó cho rằng ma quỷ, yêu quái đã tạo nên giấc mơ. Nhận thức này sai, nhưng nằm mơ thấy ma quỷ lại là chuyện bình thường. Vương Sung từng nói: “Nằm ngủ một mình trong phòng rộng, nếu sợ hãi sẽ nằm mơ thấy yêu quái”.

Mơ lợi yêu

Nhiều nhà y học phương Đông đã bàn về các giấc mơ giao hợp với quỷ, nằm mơ thấy ma, trong mơ có những hiện tượng kỳ quái và đặc biệt nhấn mạnh nguyên nhân khí huyết suy nhược của con người.

Qua quan sát hàng loạt các giấc mơ lâm sàng, Trần Sĩ Nguyên đã đưa ra khái niệm “mơ lợi yêu” xuất phát từ cơ sở thần khí hỗn loạn nên phần nào phù hợp với quan điểm thực tế.

Mặc dù quan điểm của Trần Sĩ Nguyên còn tồn tại những hạn chế nhất định nhưng ông cũng đã có những đóng góp có giá trị.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ lợi yêu –

Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

Quan lại, những người giàu có ngày xưa thường sở hữu khối tài sản khổng lồ, một kho báu giá trị vô cùng lớn. Để bảo vệ của cải khỏi sự nhòm ngó của những tay
Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trộm và tai mắt người xung quanh, họ thường chọn một nơi kín đáo để giấu chúng. Họ chọn một mảnh đất tốt, chôn của cùng với một “trinh nữ” làm thần giữ cửa với mong muốn kho báu đó bất khả xâm phạm. 


Với những quy tắc tâm linh kì dị cùng giá trị tại sản cực lớn chôn theo nên những người làm lễ đặc biệt cẩn trọng trong khâu lựa chọn thần giữ cửa và quá trình chuẩn bị cho buổi lễ. Gia chủ mời một thầy phù thủy cao tay, am tường thiên văn, địa lý, lịch pháp, kinh dịch, thậm chí phải giỏi cả nghề thuốc để chủ trì buổi lễ. Đặc biệt, đây phải là người mà gia chủ tuyệt đối tin tưởng giao phó cho bí mật lớn này. Theo sự chỉ dẫn của thầy phù thủy, gia chủ tìm một mảnh đất tốt, hợp tuổi, nhiều linh khí và phải có vận chuẩn. Kế đến là chọn một cô gái còn trinh làm vật tế, chôn theo cùng để làm thần giữ của.
 
Buỗi lễ chôn của thường diễn ra ban đêm, lấy bóng trăng làm dấu đưa đường vừa tránh tai mắt người đời, vừa thuận lợi cho con cháu đời sau đến lấy kho báu ông cha. Bởi giấu của vào thời điểm nào trong năm thì khi lấy cũng phải đúng thời điểm đó. Chôn ngày 14 thì phải lấy ngày 14, lệch đi một ngày, một giờ thì bóng cây, bóng núi đã dịch chuyển sang địa điểm khác.
 
Của chôn đi phải có thần canh giữ để bảo vệ, nên sau đó tiến hành xây hầm mộ cho thần. Của và thần không nhất thiết phải nằm cùng một chỗ, chỉ cần của nằm trong phạm vi ảnh hưởng của thần là được. “Đất có thổ công, sông có hà bá”, khi động thổ thì biện lễ xin phép thổ công, để thần chứng cho mà đồng ý, không thì xây không thành. Cách thức xây dựng hầm mộ phụ thuộc vào nguồn gốc, truyền thống cũng như trình độ của thầy phù thủy. Nhưng mục đích chung vẫn chỉ có một là ngăn chặn những kẻ bên ngoài hóa giải lời nguyền.
 
Những cô gái được chọn làm thần giữ của rất trẻ, từ 13 đến 18 tuổi, có khi chỉ 9, 10 tuổi; đều còn trinh trắng để đảm bảo sự tinh khiết của thần. Những người giàu có thường mua các cô từ khi còn nhỏ rồi nuôi đến lớn hoặc giả cưới những cô gái nghèo khó về làm vợ lẽ, nhưng thực chất là để làm thần giữ của. Cô gái càng xinh đẹp càng tốt, bởi theo quan niệm, càng đẹp thì chết oan càng ấm ức, bùa càng linh nghiệm. Cô gái được chọn được chăm sóc đặc biệt ở một nơi riêng, tuyệt đối không tiếp xúc với đàn ông. Trước khi đưa đi làm lễ, họ được tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm, ăn đồ chay tịnh.   Đến ngày đã chọn, để tránh cô gái chống cự, họ cho uống một loại thuốc gây tê khiến dù vẫn tỉnh táo nhưng không cử động, nói năng được. Cô gái bất động được đưa lên kiệu, khiêng đến căn hầm đã xây dựng sẵn. Lễ bắt đầu, người ta đặt cô nằm trong quan tài, miệng ngậm sâm, phù thủy làm phép để cô sống được đúng 100 ngày mà không cần ăn uống. 
 
Cô gái trẻ trung, xinh đẹp phải sống mòn mỏi trong cảnh chờ chết, rất oan ức, tuyệt vọng, hận thù nên khi chết thành thần giữ của. Chỉ những ai biết thần chú, được thần giữ của cho phép mới được vào. Bất kỳ ai cố tình xâm phạm đều mất mạng hoặc tâm thần điên loạn. Nếu vì lý do gì mà lấy được của cải trong kho thì thần cũng sẽ đeo bám, hành hạ đến khi trả lại thì thôi.

Ky bi phep dung trinh nu lam than giu cua hinh anh
Những cô gái trinh trắng chết oan trở thành thần canh giữ kho báu

Ở Việt Nam có nhiều câu chuyện ly kì mà người ta thường truyền tai nhau về những kho báu có thần giữ của là gái trinh. Nhiều người dân xã Vân Côn, huyện Hoài Đức, Hà Nội kể dưới chân ngôi miếu nằm trên bốn tảng đá trắng ở đỉnh núi Bạch Tuyết có đến hàng tấn vàng bạc châu báu được chứa đầy trong một cái hầm đá rộng bằng gian nhà. Kho báu đó do người Tàu để lại từ hàng ngàn năm trước, nhưng không ai có thể đột nhập để lấy đi bất cứ cái gì vì nó đã được yểm bùa bằng “linh hồn trinh nữ” 13 tuổi và một con rùa ngay cửa hầm. Có người bạo gan hám của, thuê thợ thuyền đào bới, truy tìm, lúc đào thấy một con rùa đang nằm với hàng tấn vàng bạc chói lóa, sáng lòa dưới hố nhưng mang lên chỉ toàn bùn đen đất đỏ. Từ đó, gia đình mấy anh thợ khoán vì cách này hay cách khác đều suy kiệt, đau ốm liên miên. Cũng có người kể lại từng thấy trăn rắn, gà vàng, cóc bạc chui ra từ kẽ đá dưới chân ngôi miếu vào những hôm trời nổi gió, mưa dông.
 
Hay như quá trình tháo dỡ ngôi nhà cổ gần 100 tuổi của cụ Nghị Dong ở làng Si, thị trấn Nam Sách, tỉnh Hải Dương để xây dựng công trình của huyện cũng gặp nhiều chuyện kì quái. Vị cán bộ huyện kí quyết định tháo dỡ ngôi nhà chết bất đắc kì tử, máy xúc thi công chết máy rồi gãy răng ở gầu xúc dù nền đất rất mềm. Khi nhồi cọc bê tông, công nhân phát hiện ra 3 cái chum đựng xác người, máy xúc vào đào nhưng gầu xúc cứ chạm đất là khựng lại. Chủ công trình mời thầy cúng về làm lễ thì thầy cho hay, dưới mảnh đất này có 8 cái chum đựng 8 xác trinh nữ theo trận đồ bát quái để “yểm” long mạch. Vì động vào đất của thần nên thần “vật”, gây cản trở. 
 
Những câu chuyện trên truyền đi khiến người ta tin rằng việc dùng trinh nữ làm bùa chú là có thật và linh thật. Nhưng đó mãi chỉ là những câu chuyện đồn thổi, kể cho nhau nghe, còn thực hư thế nào thì chẳng có ai dám khẳng định. Những điều mà người ta cho là “mắt thấy tai nghe” cũng chỉ qua lời kể của đôi ba người, không rõ đúng sai. Vì thế, dùng trinh nữ làm thần giữ của dẫu có cũng là chuyện của những thế kỉ trước, khi còn mê tín lạc hậu, giờ kể cho nhau nghe như câu chuyện tâm linh rùng rợn mà thôi.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kỳ bí phép dùng trinh nữ làm thần giữ của

Dự đoán tương lai sướng khổ giàu nghèo qua đường vân cổ tay

Không chỉ tướng bàn tay mà thông qua những đường vân cổ tay cũng có thể đoán biết được sức khỏe, vận mệnh của một người.
 Dự đoán tương lai sướng khổ giàu nghèo qua đường vân cổ tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo nhân tướng học, không chỉ tướng bàn tay mà thông qua những đường vân trên cổ tay cũng có thể đoán biết được sức khỏe, vận mệnh của một người.   Vân cổ tay còn được gọi là đường ngấn cổ tay. Nó là những đường nằm ngang phía dưới cổ tay, ngăn cách giữa lòng bàn tay và phần còn lại của cánh tay.   Theo quan điểm nhân tướng học, các đường vân trên cổ tay có thể cung cấp nhiều thông tin liên quan đến tương lai, tính cách và sức khoẻ của mỗi người.

 Du doan tuong lai suong kho giau ngheo qua duong van co tay hinh anh 2
 
Xem tướng bàn tay, có quan điểm cho rằng, số lượng các đường vân cổ tay đại diện cho tuổi thọ của con người. Bạn càng có nhiều đường vân, bạn càng sống lâu. Nếu đường vân đầu tiên rõ ràng và không bị gián đoạn, bạn sẽ sống ít nhất 23-28 năm, trong khi các đường tiếp theo lần lượt tương ứng với 46-56 năm, 69-84 năm và hơn 84 năm.   Rất hiếm người sở hữu 4 đường vân trên cổ tay. Phần lớn, mọi người chỉ có khoảng từ 2 đến 3 đường. Trong đó, đường vân đầu tiên được xem là quan trọng nhất vì nó cung cấp nhiều thông tin hơn những đường còn lại.  

1. Đường vân cổ tay đầu tiên
 

 Du doan tuong lai suong kho giau ngheo qua duong van co tay hinh anh 2
 
Đây là đường vân biểu tượng cho tình trạng sức khoẻ và sự hoạt bát của con người.    Nếu như đường vân này dài, thẳng và đậm nét chứng tỏ bạn đang sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, một sự nghiệp tốt, sống hạnh phúc và trường thọ. Còn ngược lại, nếu như đường vân này ngắn, không rõ ràng hoặc bị đứt đoạn là điềm báo sức khỏe của bạn không được tốt, bạn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn.   Với phụ nữ, nếu đường vân cong, hướng vào phía lòng bàn tay hoặc không rõ ràng, đó là biểu hiện của bệnh phụ khoa, sẽ gây khó khăn trong việc bạn muốn thụ thai, kinh nguyệt không đều, hay bị trễ. Trường hợp tương tự nếu ở đàn ông cũng sẽ gặp vấn đề với tuyến tiền liệt và các vấn đề liên quan đến đường sinh sản.   Do đó, bạn phải thay đổi lối sống, nên giữ cho tâm trí thư giãn và tăng cường bổ sung những thực phẩm bổ dưỡng để đảm bảo sức khỏe tốt cũng như có năng lượng để vượt qua khó khăn.

Có thể bạn quan tâm 9 đường vân tay nhiều tiền lắm của, phú quý đuổi theo ầm ầm
 

2. Đường vân cổ tay thứ hai

 
 Du doan tuong lai suong kho giau ngheo qua duong van co tay hinh anh 2
 
Đường vân này thường mang ý nghĩa dự đoán vận mệnh của mỗi cá nhân. Nó biểu tượng cho thành công của bạn trong cuộc sống và sự hài lòng với cuộc sống ấy.   Nếu bạn sở hữu đường vân thứ hai rõ ràng, sắc nét và không bị đứt đoạn giữa chừng thì bạn sẽ luôn luôn được hạnh phúc, may mắn và có một cuộc sống sang trọng.
 
Tuy nhiên, nếu đường vân này có các vết nứt gãy thì bạn đang gặp những khó khăn về tài chính. Vì thế, hãy chăm chỉ làm việc để khắc phục tình trạng này.  
Ngoài đường vân trên cổ tay, bạn cũng có thể Dự đoán tương lai giàu nghèo qua những đường vân đặc biệt trong bàn tay.


3. Đường vân cổ tay thứ ba

 
 Du doan tuong lai suong kho giau ngheo qua duong van co tay hinh anh 2
 
Đường vân cổ tay thứ ba tượng trưng cho sự nghiệp và danh vọng. Nếu đường này rõ ràng, bạn sẽ tạo dựng được một sự nghiệp thành công và có thể trở nên nổi tiếng.   Bên cạnh đó, đường vân này còn cho thấy cuộc đời bạn gặt hát nhiều thành tựu, bản thân bạn cũng là một người có tầm ảnh hưởng lớn đến mọi người xung quanh. Vết hằn trên đường vân càng liền mạch thì bạn càng thành công. Mọi người sẽ luôn luôn nhớ đến bạn.  

4. Đường vân cổ tay thứ tư

 
 Du doan tuong lai suong kho giau ngheo qua duong van co tay hinh anh 2
 
Đường vân này tượng trưng cho tuổi thọ và khả năng sinh sản.   Đường vân cổ tay thứ tư rất hiếm khi xuất hiện và không phải tất cả mọi người đều có.   Nếu đường vân này rõ ràng, sắc nét thì bạn sẽ sống thọ và có rất nhiều con cháu. 
 
Đồng thời, đường vân thứ tư cũng có ý nghĩa tương tự đường vân thứ ba. Những ai may mắn có được đường vân này thì được tài vận cũng như sự nghiệp sẽ tăng lên gấp bội. Mọi việc trong cuộc sống đều suôn sẻ, cầu được ước thấy.    Tuy nhiên, bạn không nên lo lắng ngay cả khi đường vân này bị uốn cong hoặc bị đứt gãy. Sự hiện diện của đường vân này cho thấy bạn có khả năng kiểm soát tuyệt vời đối với cuộc sống và luôn mang lại những thay đổi tích cực cho bản thân.

Xem thêm: Có vân mắt Phật trên tay, cuộc đời an nhiên tự tại
  Thủy Nguyễn   Sở hữu đường chỉ tay chữ M, bạn vô cùng đặc biệt
Người có chữ M trong lòng bàn tay thường là nhà lãnh đạo tuyệt vời và có sự nghiệp phát triển rực rỡ. Bạn có chữ M đặc biệt đó không?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán tương lai sướng khổ giàu nghèo qua đường vân cổ tay

Khái quát về Tử vi (P2)

Khoa tử vi do Hi Di Trần Đoàn tiên sinh lập nên. Lá số tử vi gồm Thiên Bàn, Địa Bàn. Có 12 cung ứng với nhân sinh quan của con người. Có 14 chính tinh và gần 100 phụ tinh xung quanh. Có khoảng 518.400 lá số để luận đoán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

-Đối tượng xem bói trong tử vi là số mệnh con người.

Số mệnh con người được xét trong tử vi là số phận con người gắn liền với gia đình, dòng họ (ông bà, bố mẹ, anh em, con cái) và những mối quan hệ xã hội.

-Các sao trong Tử Vi

Bộ Tử Vi Chính Nghĩa được coi như là chính thư không thấy nói về số sao. Song xét trong mục dạy an sao thì có 93 sao. Nhưng những lá số phụ lục thì chỉ chép có 89 sao. Không thấy an sao Thiên thương, Thiên sứ, Thiên la, Địa võng. Điều này dễ hiểu bởi 4 sao trên đều ở vị trí cố định, không cần thiết an vào.

Có môn phái Tử vi an tới 118 sao. Mỗi ngôi sao có một ý nghĩa. Sao này khi tương tác với sao khác lại có ý nghĩa khác.

sao-thien-co-tai-suu

-Theo Hi Di tiên sinh thì các sao đó là:

14 chính tinh

Vòng Tử Vi có 6 sao: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương và Thiên cơ.

Vòng Thiên Phủ có 8 sao: Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát và Phá quân.

Các phụ tinh

Các sao này mang bản sắc riêng biệt được an định trong 12 Cung trên một Thiên Bàn:

Vòng Thái tuế – 5 sao là Thái tuế, Tang môn, Bạch hổ, Điếu khách, Quan phù. Các phái khác thêm vào 7 sao nữa là: Thiếu dương, Thiếu âm, Trực phù, Tuế phá, Long đức, Phúc đức, Tử phù.

Vòng Lộc tồn – 17 sao là Lộc tồn, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù, Bác sĩ, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ.

Vòng Trường sinh – 12 sao là Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Các sao an theo tháng – 7 sao là Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa, Thiên hình, Thiên riêu, Đẩu quân.

Các sao an theo giờ – 8 sao Văn xương, Văn khúc, Ân quang, Thiên quý, Thai phụ, Phong cáo, Thiên không, Địa kiếp. Vị trí chính của sao Thiên Không được các phái khác thay bằng sao Địa Không, còn sao Thiên Không thì được an liền sau sao Thái Tuế và đồng cung với Thiếu dương.

Tứ trợ tinh – 4 sao là Hóa khoa, Hóa quyền, Hóa lộc, Hóa kỵ.

Các sao an theo Chi – 17 sao là Long trì, Phượng các, Thiên đức, Nguyệt đức, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên mã, Hoa cái, Đào hoa, Phá toái, Kiếp sát, Cô thần, Quả tú, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên khốc, Thiên hư. Hai sao Hỏa tinh và Linh tinh được các phái khác an theo giờ sinh.

Các sao an theo Can – 5 sao là Lưu hà, Thiên khôi, Thiên việt, Tuần không, Triệt không.

Các sao cố định – 4 sao là Thiên thương, Thiên sứ, Thiên la, Địa võng.

-Lá số tử vi

Lá số tử vi được trình bày trên Thiên bàn, Địa bàn. Thiên Bàn ở giữa, chung quanh là Địa Bàn với 12 cung.

Tại Thiên bàn, ghi năm, tháng, ngày giờ sinh, giới tính, mạng và cục.

Địa Bàn gồm 12 cung cố định, được đặt tên theo mười hai địa chi, mỗi cung phản ảnh một lĩnh vực, một mặt của đời sống một con người qua những liên hệ công danh, tiền bạc, bạn bè, vợ con, phúc đức, cha mẹ… Các cung trên địa bàn lần lượt mang các tên là: Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Tật ách, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ.

Những phương thức để xác định vị trí của khoảng 110 sao lên trên địa bàn được gọi là “an sao”.

12 cung của Tử Vi như sau:

Cung Mệnh và Thân

Cung Phụ Mẫu

Cung Phúc Đức

Cung Điền Trạch

Cung Quan Lộc

Cung Nô Bộc

Cung Thiên Di

Cung Tật Ách

Cung Tài Bạch

Cung Tử Tức

Cung Phu Thê

Cung Huynh Đệ (hay cung Bào)       

  

-Cách lập lá số tử vi

Lá số tử vi của mỗi người được thành lập dựa vào các yếu tố vào giờ, ngày, tháng, năm sinh (âm lịch) và giới tính.

Trước hết vẽ bản đồ, giữa Thiên Bàn, chung quanh là Địa Bàn với các cung. Bản đồ phải đủ lớn để viết trên 100 Sao.

Ghi năm, tháng, ngày giờ sinh, giới tính, an mạng và tính cục, ghi vào Thiên bàn.

Sau đó xác định các đai vận và ghi trên Địa bàn.

Tiếp đến, tiến hành an sao. Đầu tiên là an sao Tử vi. Sau đó là an các bộ sao Tử vi, Thiên phủ, Thái tuế, Thiên không, Lộc tồn, Tràng sinh, Hung sát tinh, Trung tinh.

Sau cùng ghi tiểu vận.

-Cách đoán giải

Muốn lập thành một lá số Tử vi cần phải hội đủ 4 yếu tố là giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính. Cách lập thành lá số Tử vi nói chung có nguyên tắc, trình tự được chỉ dẩn khá rỏ ràng, nhưng về phương cách giải đoán thì còn phải tùy theo trình độ, cơ duyên và kinh nghiệm… của người giải đoán mà sẽ có những lời giải đoán khác nhau.

Khi luận đoán một lá số tử vi, nói chung cần phải theo đúng những tiến trình luận đoán số, nắm được những đặc tính của các sao, nắm được những cung cần phải xem và những vận hạn trong cuộc đời phải biết.

Giới hạn

Có tất cả 518.400 (60 can chi, 12 tháng, 30 ngày, 12 giờ, và 2 giới tính) lá số khác nhau trong Tử Vi. Có người dùng con số nầy để đi đến kết luận rằng Tử Vi không thể dùng để lý giải sự khác nhau của những người sinh cùng thời điểm. Tuy nhiên, muốn giải đoán chính xác một lá số của một người thì cũng nên khảo sát thêm những lá số của những người thân của người đó, mới có thể biết được khá chính xác lá số của người đó .


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khái quát về Tử vi (P2)

Bí quyết trang trí phòng ngủ –

Cách bố trí, thiết kế phòng ngủ (1) Phong cách trang trí phòng ngủ nên tuân theo nguyên tắc sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ấm áp, nhã nhặn, Màu sắc, chất liệu trang trí có thể chọn những loại mà cả thị giác và xúc giác đều có cảm giác về nhiệt độ như vá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1259142371-374988

Cách bố trí, thiết kế phòng ngủ

(1) Phong cách trang trí phòng ngủ nên tuân theo nguyên tắc sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ấm áp, nhã nhặn, Màu sắc, chất liệu trang trí có thể chọn những loại mà cả thị giác và xúc giác đều có cảm giác về nhiệt độ như ván sàn gỗ, nền nhà bằng nhựa, thảm trải nền nhà, tấm gỗ trang trí, thảm treo tường. Phải tránh tối đa sử dụng với số lượng lớn vật liệu cứng như kính, đá cấm thạch, đồng thời chọn lựa những chất liệu hút ẩm như thảm lông, rèm cửa, thảm treo tường.

(2) Rèm cửa phòng ngủ nếu có điều kiện tốt nhất nên làm hai tầng, một tầng dày một chút để tránh ban đêm bị tiếng vang bên ngoài quấy nhiễu; một tầng là vải mỏng nửa trong suốt, dùng vào ban ngày, có tác dụng điều tiết ánh sáng,

(3) Độ lớn nhỏ của không gian phải phù hợp, Trần nhà cách sàn nhà không dưới 2.5m, diện tích phòng ngủ không được nhỏ hơn 12m2, lớn hơn thì càng tốt, nhưng phòng cũng không nên quá rộng không gian quá rộng sẽ khiến con người cảm thấy trống rỗng và mất đi cảm giác gần gũi.

Những điều kiêng ky trọng bố trí phòng ngủ 

Phòng ngủ là nơi con ngưòi nghỉ ngơi và thường xuyên sử dụng, chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong cuộc sống gia đình. Khi bố trí phòng ngủ phải chú ý các điểm sau.

(1) Kỵ tạo cho con người cảm giác ức chế. Khi bố trí phòng ngủ, diện tích kê đồ không được quá lớn nên tận dụng không gian một cách tối đa, tạo cho chủ nhân không gian hoạt động đầy đủ, không nên vừa vào phòng đã có cảm giác ức chế, ngột ngạt đến nỗi không thể thở nổi.

(2) Kỵ thiếu tính thẩm mỹ. Về hình khối, thông qua sự phối hợp của các vật dụng đem đến cho chúng ta cảm nhận về một cái đẹp theo trực quan, vừa sử dụng dễ dàng, gọn gàng ngăn nắp, lại vừa có phong cách đơn giản, thống nhất, sáng sủa.

(3) Kỵ dùng nguyên liệu quá cầu kỳ. Theo nguyên tắc đơn giản, nhẹ nhàng, màu sắc trong phòng nên đơn giản (nên dùng gam màu ấm, thường dùng màu trung gian như màu phối hợp giữa các màu như da cam, đỏ, lục), cố gắng tránh treo đèn treo lớn đầu giường; đèn tường, đèn bàn phải đẹp, ánh sáng cũng phải đẹp.

Tóm lại, bố trí phòng ngủ tuyệt đối tránh màu sắc lòe loẹt, kỳ quái sặc sỡ, tránh phá vỡ không khí an nhàn.

Màu sắc hài hòa

(1) Phối hợp giữa màu sắc và ánh sáng: cùng một màu, trong điều kiện sáng tối khác nhau sẽ có hiệu quả rất khác biệt. Căn cứ nguyên lý này, hướng của căn phòng không giống nhau thì màu sắc trong phòng cũng thay đổi theo. Nếu cửa hướng Nam thì căn phòng thường có đầy đủ ánh sáng, màu sắc dễ thành màu ấm tự nhiên, do đó tường, trần nên chọn màu hơi lạnh, mùa đông không có cảm giác lạnh lẽo, mùả hè cũng không có cảm giác nóng bức. Cửa hướng Bắc thì ngược lại, màu trong phòng có thể ấm một chút.

(2) Phối hợp hài hòa màu sắc: phối hợp hài hòa màu của tường, nền, cửa và đồ dùng có thể làm tăng màu sắc trong phòng, giàu tính nghệ thuật. Nếu tường phòng ngủ dùng giấy dán tường màu xanh lá cây nhạt phối hợp với thảm trải nền màu trám và đồ dùng trên giường màu nhạt, đồ dùng trong nhà màu dưa muối có thể thể hiện cái đẹp trầm lắng. Phòng khách có thể dùng thảm màu hồng phối hợp với sofa trắng, rèm cửa màu xám vừa phải; dùng giấy dán tưòng màu xanh da trời nhạt kết hợp với đồ dùng màu vàng nhạt có thể thể hiện được bầu không khí phong phú, nồng nhiệt, trong sự yên tĩnh lộ ra sức sống mãnh liệt.

Cách đánh giá chất lượng ván lát sàn

Ván lát sàn tốt nhất nên dùng liễu thủy khúc, gỗ cây dó, giáng hương… Khi lựa chọn nên chú ý chất liệu, màu sắc phải thống nhất, kích cỡ hoàn toàn như nhau, độ dày tương đương, không có vết nấm mốc, mọt. Tốt nhất là xử lý định hình bằng sấy khô, chống biến dạng co lại do ngậm quá nhiều nước.

Cách đánh giá chất lượng gia công ván sàn

(1) Việc lát các loại nguyên liệu lên mặt sàn nên tiến hành sau khi hoàn thành cơ bản việc trang trí nhà và tường. Khi lát gỗ, ghép ván sàn thì phòng nên khô ráo, tránh thi công khi không khí ẩm ướt.

(2) Khi lát sàn bằng gỗ, hàm lượng nước trong ván sàn không được lớn hơn 18%. Trên nền xi măng lát một sàn gỗ thì khoảng cách không được lớn hơn 35cm. Đưòng kính thanh ván không được lớn hơn 12cm. Sàn gỗ phải được lắp ghép chắc chắn, bằng phằng.

(3) Lát nền (dính vào nhau) phải chắc chắn, không phát ra âm thanh, không lỏng lẻo, không bị rỗng bên trong.

(4) Mặt sàn gỗ phải được bào nhẵn, đánh bóng, không có vết bào, vỏ bào, vết xước. Nếu đánh véc ni thi hoa văn trên gỗ phải rõ.

(5) Nếu ghép tấm công nghiệp thì chỗ khe nối phải đồng đều, độ rộng khe nối phải bằng nhau, bề mặt sạch sẽ, không có hiện tượng keo dán tràn ra.

(6) Ván ốp chân tưòng phải khít với ván lát nền. Đường trên ván ốp phải thẳng hàng, dán chặt vào mặt tường, không có khe hở.

(7) Ván lát sàn nên lát theo đường thẳng từ ngoài cửa vào trong. Khe giữa các ván ghép phải khít vào nhau, màu sắc tương đương nhau, trên bốn bức tường phải để lại khoảng phát sinh lcm. Ván gỗ nên dùng đinh ghép ván sàn chuyên dụng để cố định.

(8) Ván sàn sau khi lát xong phải đánh bóng rồi mối quét sơn. Ván sàn phải được đánh phẳng lì, độ lệch trong 2m từ mặt sàn phải nhỏ hơn một chút hoặc bằng 5mm, không được có rãnh lõm xuống hay vết cạo. Tại vị trí góc tường dùng máy mài nhỏ để mài.

(9) Khi lau dọn phải chờ cho dầu khô hoàn toàn mối được tiến hành.

Cách chọn lựa đèn

(1) Căn cứ vào diện tích lớn nhỏ của căn phòng để chọn đèn: Đèn sáng thích hợp với phòng lớn. Phòng nhỏ hẹp phải chọn đèn có ánh sáng dịu, vì đèn có ánh sáng dịu có thể làm nổi bật không khí của toàn bộ căn phòng, khiến cho mắt bị đánh lừa mà không chú ý đến sự nhỏ hẹp của căn phòng.

(2) Căn cứ vào chức năng của căn phòng để chọn lựa đèn: Nếu là phòng đọc sách thì nên tạo một môi trường đọc sách ấm cúng. Do đó lựa chọn đèn nên căn cứ vào yêu cầu đọc sách, ánh sáng thích hợp, ổn định thì mắt mới không bị mỏi.

(3) Căn cứ vào mùa để chọn đèn: Để thích ứng với mùa và môi trường khác nhau có thể lắp đặt hai loại đèn có ánh sáng khác nhau. Ví dụ: ánh sáng trắng hơi lạnh, có thể khiến con người cảm thấy mát mẻ; ánh sáng lam, lục có thể khiến con người cảm thấy yên tĩnh, thư thái; ánh sáng vàng hay cam hơi nóng, có thể khiến con người cảm thấy ấm áp. Đèn có ánh sáng lam, lục thích hợp cho mùa hè, ánh sáng vàng, cam thích hợp cho mùa đông.

(4) Căn cứ vào yêu cầu sử dụng để chọn đèn: Nếu để trang điểm, ánh sáng nên chiếu từ hai bên thì mặt người trang điểm nhìn mới rõ. Nếu ánh sáng chiếu từ trên xuống thì phía dưới mắt lại bị tối. Khi xem vô tuyến, ánh sáng yếu từ hai bên hay phía trên vô tuyến hắt lên tường, xuống nền hay lên trần có thể bảo vệ thị lực, cũng có thể tránh nhiễu màn hình vô tuyến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết trang trí phòng ngủ –

Mơ thấy thu dọn nhà cửa: Sự nghiệp thành công và có thu nhập kinh tế –

Tôi vốn thích dọn dẹp nhà cửa, bởi một căn nhà gọn gàng mới mang đến cảm giác ấm cúng cho mọi người. Thế nên người yêu thường hay chế nhạo tôi mắc phải chứng bệnh sạch sẽ. Đôi lúc tôi còn mơ thấy mình đang xắn quần quét dọn nhà cửa, lau chùi vật dụng
Mơ thấy thu dọn nhà cửa: Sự nghiệp thành công và có thu nhập kinh tế –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy thu dọn nhà cửa: Sự nghiệp thành công và có thu nhập kinh tế –

Sao Thiên Riêu

Hành: Thủy Loại: Dâm tinh Đặc Tính: Phong lưu khoái lạc, chơi bời, a dua, dễ tin. Tên gọi tắt thường gặp: Riêu Phụ Tinh. Luôn luôn...
Sao Thiên Riêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Dâm tinhĐặc Tính: Phong lưu khoái lạc, chơi bời, a dua, dễ tin.Tên gọi tắt thường gặp: Riêu
Phụ Tinh. Luôn luôn đồng cung với sao Thiên Y. Cũng là 1 trong 4 sao của cách Hình Riêu Không Kiếp (Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp).
Vị Trí Ở Các Cung

  • Đắc địa: Dần, Mão, Dậu, Tuất.
  • Hãm địa: Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Hợi
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Sao Thiên Riêu ở Mệnh là người ham vui, thích chơi bời, phóng đãng, dễ tin người, nhẹ dạ, tính tình không dứt khoát, khó cầu công danh, thi cử.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Với Các Sao Khác
  • Sao Thiên Riêu ở Hợi cùng các sao Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc thì thi đỗ và làm nên.

  • Nếu gặp các sao Hóa Kỵ, Đà La, Cự Môn, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Kình Dương, Địa Không, Địa Kiếp thì hay trầm mình.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Các Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ là người có tay nghề khéo sống bằng nghề có liên quan đến sông nước, cha hoặc mẹ có tài về nghệ thuật, mỹ thuật, có hoa tay.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Phúc Đức
  • Trong họ thường là người nữ lận đận về chồng con, có ác tật, chết non, cô độc, người nam thì phóng đãng, phong lưu, đi xa, có tài nghệ đặc biệt.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Điền Trạch
  • Chậm về nhà cửa, nếu có sớm thì cũng tầm thường, phải thay đổi.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh hay thay đổi, nay đây mai đó, hợp nghề thuốc, nghệ thuật, đạo diễn, sân khấu, nhà giáo.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, người giúp việc nay ở mai đi, ham chơi nhưng cũng có tài nghệ đặc biệt.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài không có nơi chốn cố định, đa nghệ.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tật Ách
  • Gặp sao tốt thì có sức khỏe nhưng cũng không được lâu bền, gặp sao xấu thì cũng hay tai nạn, đau yếu.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tài Bạch
  • Tài lộc ra vào thất thường, ưa thích cờ bạc, trò chơi giải trí, nghệ thuật hoặc nghề thuốc, thầy giáo phát tài.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tử Tức
  • Sinh nở khó khăn, hoặc khó nuôi con, hoặc có con riêng của vợ hay chồng, con cái hay chơi bời.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng ưa thích vui chơi, văn nghệ, phong lưu tài tử.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Huynh Đệ
  • Có anh chị em dị bào, hoặc anh chị em nuôi, trong anh chị em có người phong lưu tài tử.
Thiên Riêu Khi Vào Các Hạn
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, người già không sống lâu, trẻ con thì hay quấy. Nếu có thêm sao Phá Toái, là hạn ốm đau, khẩu thiệt.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thai, là hạn rất dễ có con riêng.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Tham Lang, Hóa Kỵ, có tai nạn về sông nước, hoặc mắc khẩu thiệt, hoặc bị kiện tụng, có sự lo buồn.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp, Thai, có chửa hoang, hoặc bị hiếp dâm, bị bắt ép làm nghề mãi dâm.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thái Dương, Đà La, Hóa Kỵ, là hạn đau mắt nặng, nếu không cũng bị đau yếu, hao tán tiền tài, nếu có quan chức chắc chắn bị truất giáng.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thiên Hình, Bệnh, hay bị bệnh phù. Nếu có thêm sao Địa Không, Địa Kiếp, mắc bệnh phong tình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Riêu

Bổ sung căn nhà bị khuyết góc như thế nào? –

Căn nhà có phong thuỷ tốt nhất là căn nhà có hình dáng vuông vắn, như vậy sẽ cân bằng năng lượng ngũ hành của khí trường. Nếu căn nhà của bạn bị khuyết góc thì có nghĩa một loại ngũ hành nào đó hoặc vận thế sẽ bị thiếu. Nếu căn nhà khuyết góc phía Đô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Căn nhà có phong thuỷ tốt nhất là căn nhà có hình dáng vuông vắn, như vậy sẽ cân bằng năng lượng ngũ hành của khí trường. Nếu căn nhà của bạn bị khuyết góc thì có nghĩa một loại ngũ hành nào đó hoặc vận thế sẽ bị thiếu.
Nếu căn nhà khuyết góc phía Đông có nghĩa gây thêm khó khăn cho một người con trai trong gia đình. Cách bổ khuyết như sau: Trồng hoa hoặc đặt thỏ, một đôi chim uyên ương hoặc một bức tranh có viết chữ “Chấn” tại hướng Đông để bổ sung cảm giác khuyết góc. Theo kinh nghiệm của các thầy phong thuỷ, đặt thỏ tại góc đó có linh nghiệm nhất.

p78
Nếu khuyết góc Đông Nam, có thể trồng hoa cỏ, cây cối tại vị trí đó. Nhưng quan sát từ xa thì cần phải đặt tại vị trí Đông Nam một con rồng bằng đồ chơi hoặc làm bằng thủ công mỹ nghệ để lấp đầy góc Đông Nam đó.
Nếu khuyết góc phía Nam có thể đặt ngựa hoặc xe hơi đồ chơi màu đỏ.
Nếu khuyết góc phía Tây Nam thì đặt dê, ấm trà tử sa hoặc đồ gốm sứ tại vị trí đó. Tuy nhiên cần chú ý, người có thuộc tướng tương khắc với dê thì không thích hợp bày hình con dê. Khi đó nên chọn bày ấm tử sa hoặc các đồ gốm sứ khác thay vào đó.
Nếu khuyết góc phía Tây nên đặt một con gà bằng đồng để bổ sung vị trí Đoài.
Nếu khuyết góc phía Tây Bắc có thể đặt con chó đồ chơi ở đó.
Nếu khuyết góc phía Bắc thì đặt một cái bể cá để bổ sung quẻ Khảm.
Nếu khuyết góc Đông Bắc có thể đặt tượng mục đồng cưỡi trâu làm bằng gốm sứ tại đó để bổ sung quẻ khí ở góc Đông Bắc.

Chúng tôi cũng xin nhắc nhở độc giả: Chỉ khi bạn thật sự cần bổ sung góc khuyết để mưu cầu một mục đích nào đó thì hãy đặt vật phong thuỷ cần thiết tại đó. Ví dụ như bạn cần có một cậu con trai thì hãy đặt hình con thỏ hoặc tranh chữ “Chấn”  tại góc phía Đông. Nhưng nếu bạn không có nhu cầu trên thì đừng đặt những thứ đó. Nếu không, nó lại gây ra những điều mà bạn không muốn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bổ sung căn nhà bị khuyết góc như thế nào? –

Kiến thức phong thủy. Thiết kế phòng ngủ cho bé giấc ngủ ngon –

Yếu tố phong thủy duy nhất tác động đến bé trong giai đoạn này là cung Sinh khí. Nếu tác động đúng sẽ giúp bé ngủ ngon và có sức khỏe tốt. Giấc ngủ góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển tâm sinh lý của các bé. Vì vậy, phụ huynh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Yếu tố phong thủy duy nhất tác động đến bé trong giai đoạn này là cung Sinh khí. Nếu tác động đúng sẽ giúp bé ngủ ngon và có sức khỏe tốt.

Giấc ngủ góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển tâm sinh lý của các bé. Vì vậy, phụ huynh nên sắp xếp vật dụng trong phòng ngủ của bé hợp lý để tạo ra môi trường sinh hoạt lành mạnh cho con.

Các bậc phụ huynh thường cho rằng việc sắp xếp phòng ngủ của trẻ nhỏ không quan trọng, chỉ cốt sao để bé có không gian riêng, thoải mái là được. Tuy nhiên, theo phong thủy, với trẻ dưới 7 tuổi, yếu tố phong thủy duy nhất tác động đến bé trong giai đoạn này là cung Sinh khí (tượng trưng cho sức khỏe). Nếu biết cách tác động sẽ giúp không khí đối lưu trong phòng tốt nhất, tác động tốt đến sức khỏe của bé.

Không vi phạm điều cấm

f2fa71depositphotos1478747opt

Theo phong thủy, khi bố trí chỗ ngủ của bé, cần tránh:
– Đặt giường trực tiếp ngay cửa ra vào phòng hay gần cửa sổ vì luồng khí chênh lệch trong và ngoài phòng dễ gây bệnh, ảnh hưởng đến giấc ngủ của bé.

– Không để gương soi trong phòng vì sẽ gây ra từ trường nhiễu loạn khó kiểm soát, ảnh hưởng đến giấc ngủ.

– Tránh làm la-phông nổi hay xà nhà trong phòng bé vì sẽ tạo ra từ trường đè nén, khiến bé thường giật mình, khó ngủ.

Tránh vật sắc nhọn

– Hạn chế tối đa những vật dụng trang trí có nhiều góc nhọn. Theo phong thủy, những góc nhọn có thuộc tính Hỏa, không tốt cho cung Sinh khí trong phòng, đồng thời còn dễ gây chấn thương cho trẻ nhỏ vốn hiếu động.

– Nên sử dụng những vật dụng bằng gỗ, với các góc cạnh bo tròn để hạn chế tối đa tổn thương cho trẻ nhỏ.

Cẩn thận khi khử mùi

1838c9depositphotos10705692opt

– Khi bé ngủ dậy, hãy mở cửa và bật quạt trong phòng cho thoáng khí.
– Không nên sử dụng thuốc khử mùi vì chúng không tốt cho khứu giác của trẻ.

– Có thể dùng túi thơm hút ẩm làm từ thảo dược thiên nhiên để khử mùi.

– Có thể treo bình hồ lô trong phòng bé. Đây là vật phẩm phong thủy biểu tượng của sức khỏe, sẽ giúp bé ăn uống tốt, khỏe mạnh, tránh được bệnh tật.

Độ sáng phù hợp

20def6cachphoimausongdongvadep

Để ánh sáng trong phòng ngủ không ảnh hưởng đến mắt của bé, phụ huynh nên:
– Dùng loại đèn dây tóc, cho ánh sáng vàng ấm, nhiệt lượng tỏa ra hài hòa.

– Chọn vị trí đặt đèn sao cho ánh sáng tản đều khắp phòng, phả đều dễ chịu, độ sáng vừa phải.

Chú ý hướng gió

Phụ huynh cũng cần chú ý hướng thổi của quạt và máy lạnh trong phòng bé:

– Luôn để quạt xiên góc so với chỗ nằm, khoảng cách từ quạt/máy lạnh đến giường bé phải từ 1,5m trở lên để gió vừa đủ, không quá lạnh.

– Tránh đặt bé ngủ dưới quạt trần vì khi quạt quay sẽ sinh ra nhiều từ trường xấu, không tốt cho sức khỏe của bé. Bên cạnh đó, cánh quạt quay sẽ che một phần ánh sáng, gây hiệu ứng chớp-tắt, về lâu về dài sẽ gây hại cho mắt bé.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Thiết kế phòng ngủ cho bé giấc ngủ ngon –

Sao Thiên Tướng

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh Tính: Dương Hành: Thủy Loại: Ấn Tinh, Quyền Tinh. Đặc Tính: Quan lộc, phúc thiện, uy nghi, đẹp đẽ, than...
Sao Thiên Tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương Vị: Nam Đẩu TinhTính: DươngHành: ThủyLoại: Ấn Tinh, Quyền Tinh.Đặc Tính: Quan lộc, phúc thiện, uy nghi, đẹp đẽ, thanh sắc.Tên gọi tắt thường gặp: Tướng
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Thiên Tướng, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.

Vị Trí Ở Các Cung

  • Miếu địa ở các cung Dần, Thân.
  • Vượng địa ở các cung Thìn, Tuất, Tý, Ngọ.
  • Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi.
  • Hãm địa ở các cung Mão, Dậu.
Ý Nghĩa Thiên Tướng Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có Thiên Tướng đắc địa thì mặt đẹp đẽ, uy nghi, có tinh thần và khí sắc, thân hình nở nang, cao vừa tầm, da trắng. Còn Thiên Tướng hãm địa thì thân hình cũng nở nang nhưng thấp. Thiên Tướng, Hóa Lộc: Có nam tính, đẹp trai, thu hút phụ nữ.
Tính Tình
  • Sao Thiên Tướng ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa là người rất thông minh, thanh tú, ngay thẳng, đôn hậu, hiền lành, đẹp người, can đảm, có lòng trắc ẩn, hào hoa, thích ăn ngon mặc đẹp, trang phục lúc nào cũng tề chỉnh, đôi khi có sự đam mê. Người nữ thì lại có tánh hay ghen.
  • Sao Thiên Tướng ở cung hãm địa: thông minh, đôn hậu, liều lĩnh, hay lầm lẫn, ương ngạnh, bướng bỉnh, dễ đam mê, ít lo xa, hay bắc đắc chí.
  • Nói chung, đàn ông có Thiên Tướng đắc địa thủ mệnh có đủ đặc tính của phái nam, từ sự thông minh, cương trực, can đảm, uy nghi cho đến sự đam mê, do đó rất có hấp lực đối với phái nữ.
  • Đàn bà có Thiên Tướng đắc địa ở Mệnh thì lại có nam tính nhiều hơn nữ tính như can đảm, dũng mãnh, bạo tợn, nhưng rất ghen tuông. Do đó, Thiên Tướng hợp với nam hơn nữ.
Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ:
Thiên Tướng là quyền tinh và dũng tinh, cho nên rất lợi về công danh, nhất là khi tọa thủ ở cung Mệnh, Quan Lộc.
  • Sao Thiên Tướng đắc địa: thì được phú quý, phúc thọ, có uy quyền lớn có danh tiếng. Đàn bà thì rất đảm đang, tháo vác, cũng được phú quý, phúc thọ. Những lợi điểm này chỉ có khi Thiên Tướng không gặp sát tinh (Không, Kiếp, Kình Dương, Hình) hay Tuần, Triệt và khi hội tụ với nhiều sao tốt.
  • Sao Thiên Tướng hãm địa: thì bất đắc chí, phải chật vật vì sinh kế, hay bị tai họa, bệnh tật ở mặt.
Nếu gặp hai trường hợp sau đây thì rất nguy hiểm, dù Thiên Tướng đắc địa hay hãm địa.
  • Gặp Tuần hay Triệt án ngữ: Suốt đời khổ cực, công danh trắc trở, tiền tài khó kiếm, lại hay mắc tai họa khủng khiếp, nhất là về gươm dao, súng đạn, không thể sống lâu được và dĩ nhiên phải chết một cách thê thảm. Cách này hầu như đúng cho cả hai phái nam và nữ.
  • Gặp Thiên Hình đồng cung: Rất khó tránh tai họa về binh dao và chắc chắn là đầu mặt bị thương tàn, hay bị tử trận, chết không toàn thây. Võ cách gặp hai trường hợp này rất hung nguy, hầu hết là những người chết trận.
Những Bộ Sao Tốt
  • Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng cách: Uy dũng, hiển đạt.
  • Thiên Tướng, Quốc Ấn hay Phong Cáo: Võ tướng có danh, quân nhân được nhiều huy chương, có công trạng lớn.
  • Thiên Tướng, Thiên Mã: Anh hùng, tài giỏi, can đảm.
  • Thiên Tướng, Thiên Y: là bác sĩ. Nếu đi với Tả Hữu, Thiên Quan, Thiên Phúc thì thuốc rất giỏi, mát tay.
  • Thiên Tướng, Hồng Loan: Có vợ giàu sang, đảm đang, có chồng phú quý.
  • Thiên Tướng và Tướng Quân: Hai sao này có đặc tính giống nhau, nhưng Tướng Quân thì táo bạo, vũ phu, làm càn, có tinh thần sứ quân, ham tranh quyền, còn Thiên Tướng thì đôn hậu, chính trực, có kỷ luật hơn. Cả hai đều bất khuất, dũng khí. Nếu cả hai đồng cung thì rất hiển hách về võ: tài ba, đảm lược, cả đối với phái nữ (kiểu như Bà Trưng, Triệu).
  • Thiên Tướng và Liêm Trinh: Thiên Tướng vốn đôn hậu nên chế được tính nóng nảy, khắc nghiệt của Liêm Trinh.
  • Thiên Tướng đắc địa và Sát tinh: Khi đắc địa, Thiên Tướng có khả năng chế được tính hung ác của sát tinh, coi sát tinh như sao tùy thuộc. Cho nên Thiên Tướng đi với Phá Quân, Tham Lang , Phục Binh, Kình Dương, ĐàLa, Linh, Không, Kiếp được xem như đủ bộ, ví như tướng cầm quân, có sát nghiệp. Tuy nhiên, mối hung họa vẫn tiềm tàng và có thể sinh nghề tử nghiệp.
Những Bộ Sao Xấu
  • Thiên Tướng, Thiên Hình: Rất khó tránh tai họa về binh đao và chắc chắn là đầu mặt bị thương tàn, hay bị tử trận, chết không toàn thây. Võ cách gặp hai trường hợp này rất hung nguy, hầu hết là những người chết trận.
  • Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Suốt đời khổ cực, công danh trắc trở, tiền tài khó kiếm, lại hay mắc tai họa khủng khiếp, nhất là về gươm dao, súng đạn.
  • Thiên Tướng, Kình Dương: Bị hiểm tai đe dọa thường trực.
  • Thiên Tướng, Liêm Trinh, Thiên Hình: Hay bị tù tội.
Ý Nghĩa Thiên Tướng Ở Cung Phụ Mẫu
Sao Thiên Tướng ở bất cứ vị trí nào, cha mẹ cũng thọ. Ngoài ra, nếu Thiên Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi hay đồng cung với Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc thì cha mẹ khá giả, ở các cung khác thì bình thường.
Ý Nghĩa Thiên Tướng Ở Cung Phúc Đức
Cũng với sự kết hợp vơi Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc và ở tại Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi. Thiên Tướng có ý nghĩa phúc đức cho giòng họ và vinh hiển may mắn cho mình. Ở các cung khác thì kém phúc lúc còn trẻ.
Ý Nghĩa Thiên Tướng Ở Cung Quan Lộc
Đi với Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc và tọa thủ ở Sửu Mùi, Thiên Tướng có nghĩa thịnh đạt về văn và võ nghiệp, đặc biệt là với Tử Vi thì có tài, có thủ đoạn nhưng hay á quyền. Ở Tỵ, Hợi thì tầm thường, ở Mão, Dậu thì kém.
Ý Nghĩa Thiên Tướng Ở Cung Tật Ách
  • Thiên Tướng là mặt, diện mạo, khí sắc từ vẻ mặt phát ra.
  • Thiên Tướng gặp nhị Hao thì mặt nhỏ, má hóp.
  • Thiên Tướng gặp Thiên Hình thì mặt có thẹo.
Ý Nghĩa Thiên Tướng Ở Cung Tài Bạch
Những cách hay về Tài của Thiên Tướng đều giống như ở cung Quan Lộc, đặc biệt là Thiên Tướng đồng cung với Tử Vi, Thiên Tướng, Vũ Khúc, Liêm Trinh. Ở những cung khác thì bình thường.
Ý Nghĩa Thiên Tướng Ở Cung Tử Tức
Thiên Tướng cùng với Tử Vi và ở Tỵ Hợi, Sửu Mùi; Thiên Tướng có 3 con trở lên. Nhưng đi với Liêm Trinh vàVũ Khúc cũng như Thiên Tướng ở Mão Dậu thì ít con, muộn con.
Ý Nghĩa Thiên Tướng Ở Cung Phu Thê
Thiên Tướng là sao cứng cỏi, cương nghị nên tọa thủ ở cung Phu Thê thì có nghĩa chung là nể vợ, nể chồng, người này hay lấn át người kia. Do đó, gia đạo thường có cải vã.
Cùng với Tử Vi và Vũ Khúc thì vợ chồng giàu có, phú quý. Nhưng với Liêm Trinh thì bất hòa nặng, hoặc sát hoặc chia ly. Ở Tỵ Hợi Sửu Mùi cũng tốt nhưng dễ bất hòa, chia ly, trừ phi muộn gia đạo. Ở Mão, Dậu thì hôn nhân trắc trở, phải chậm vợ chồng mới tốt.
Thiên Tướng Khi Vào Các Hạn
Nếu sáng sủa thì hạn đẹp về danh, tài bất ngờ. Nếu xấu xa thì không tốt. Nhưng kỵ nhất là Thiên Tướng gặp Hình, Tuần, Triệt, Không, Kiếp sẽ bị tai họa, bệnh tật nói ở trên.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Tướng

Những dấu hiệu phá tài trên khuôn mặt

Một ngày nào đó nếu trên khuôn mặt bạn xuất hiện những dấu hiệu dưới đây, cần phải hết sức thận trọng trong công việc và đi đứng xuất hành, tránh phá tài hoặc
Những dấu hiệu phá tài trên khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nguy hiểm rình rập.


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Giữa trán mọc nhiều mụn   Vị trí chính giữa trán chính là cung Quan lộc, cho biết tài vận, công việc và sự nghiệp của mỗi người. Nếu tại đây xuất hiện nhiều mụn nhọt là một trong những tín hiệu cho thấy chủ nhân sẽ bị phá tài. Ngoài ra, đây còn là dấu hiệu cho thấy công việc gặp nhiều trở ngại, tiền đồ sự nghiệp đang xuống dốc.   Tuy nhiên, dấu hiệu này xảy ra trong khoảng thời gian ngắn nên mức độ ảnh hưởng không quá nghiêm trọng. Nếu có quyết định quan trọng nào trong giai đoạn này, bạn có thể rời sang thời điểm khác, tránh bị thất bại nặng nề.

Nhung dau hieu pha tai tren khuon mat hinh anh
Ảnh minh họa
  2. Hai bìa trán có khuyết hãm, tổn thương   Tại vị trí hai bìa trán, nằm ngay phía trên hai lông mày còn gọi là cung Thiên Di, cho biết phần nào năng lực cầu tài, kiếm tiền của mỗi người. Nếu tại đây có khuyết hãm hoặc tổn thương, là dấu hiệu phá tài, tài vận bất ổn. Ngoài ra, người này cần hết sức thận trọng khi đi du lịch xa, tránh bị tai nạn xe cộ hoặc chấn thương nghiêm trọng.   3. Mắt to nhỏ bất thường   Thông thường người có mắt to mắt nhỏ không đều là do bẩm sinh. Nhưng nếu khi sinh ra hai mắt cân xứng, đến một thời điểm nào đó lại có kích cỡ to nhỏ không đều lại là điềm xui xẻo.

Như đã biết, khoảng cách từ phía dưới lông mày xuống mắt chính là cung Điền Trạch, chủ về của cải vật chất, bất động sản… Nếu vì lí do nào đó mà mắt to mắt nhỏ bất thường cũng là một trong những dấu hiệu phá tài, tổn hao tiền của, đường công danh sự nghiệp của người này cũng lên xuống bất ổn, tài vận giảm đột ngột.

4. Đầu mũi mọc mụn và ửng đỏ   Trong Nhân tướng học, mũi chính là cung Tài Bạch, chủ về tiền tài, danh vọng. Nếu đầu mũi mọc mụn nhọt và ửng đỏ trong một khoảng thời gian ngắn là dấu hiệu không lành, dễ bị phá tài, tiêu tán tài sản. Đặc biệt công việc, sự nghiệp gặp khó khăn, dễ vướng vào họa khẩu thiệt thị phi hay những tranh chấp lớn liên quan đến tiền bạc. 
Thanh Vân (Theo MGSP)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những dấu hiệu phá tài trên khuôn mặt

Mở mắt đoán vận mệnh giàu nghèo

Không chỉ là cửa sổ tâm hồn bày tỏ những cảm xúc chân thật, đôi mắt còn hé lộ đôi phần về vận mệnh giàu nghèo của mỗi con người.
Mở mắt đoán vận mệnh giàu nghèo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không chỉ là cửa sổ tâm hồn bày tỏ những cảm xúc chân thật, đôi mắt còn hé lộ đôi phần về vận mệnh giàu nghèo của mỗi con người.


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Mắt to, hai lòng đen trắng rõ ràng và sáng

 
Đa phần người có mắt to, hai lòng đen trắng rõ ràng và ánh nhìn tươi sáng đều thông minh, giỏi giang hơn người, tài hoa xuất chúng. Hơn thế, tính cách người này nồng nhiệt, hào phóng nên tài vận hanh thông, công danh sự nghiệp vẹn toàn, có số hưởng giàu sang phú quý.

2. Mắt tròn, ánh nhìn long lanh trìu mến
 
Tướng mắt này xuất hiện ở nữ giới nhiều hơn nam giới. Những người có mắt tròn lại luôn long lanh và ánh nhìn trìu mến thường dễ sinh quý tử, sự nghiệp thành đạt, sức khỏe cường tráng, con đàn cháu đống, cuộc sống an nhàn và hưởng phúc lộc khi về già.

Mo mat doan van menh giau ngheo hinh anh
Ảnh minh họa

3. Mắt có quầng thâm đen

Người mà đôi mắt lúc nào cũng trong tình trạng thâm đen thường có vận thế không tốt, tài vận kém, vất vả kiếm tiền nhưng không đạt được kết quả như ý. Ngoài ra, đường tình duyên của người này cũng nhiều trắc trở, dễ rơi vào tình trạng tái hôn.
 
4. Đầu mắt hoặc lòng trắng mắt có nốt ruồi
 
Đây là dấu hiệu của phá tài, tài vận không lí tưởng. Người có tướng mắt này chỉ có thể làm công ăn lương, không thể tự mình lập nghiệp lớn hay kinh doanh làm chủ. 
 
Ngoài ra, người này tính tình cổ quái, không hòa đồng với mọi người, khó làm việc theo nhóm và không biết cách giữ mồm miệng nên hay vướng vào những rắc rối thị phi.

5. Ánh mắt linh hoạt, có thần sắc
 
Người có ánh mắt linh hoạt, có thần sắc và thêm đặc điểm tóc xoăn thì tài vận khá vượng, cơ thể khỏe mạnh, ít ốm đau bệnh tật và được quý nhân phù trợ. Nếu người này nỗ lực và kiên trì tới cùng, nhất định sẽ đạt được thành công như mong đợi. 

6. Mắt nhỏ và sâu

Phần lớn người có đôi mắt nhỏ và sâu rất ít tham vọng, đường công danh sự nghiệp khá thuận lợi nhưng lại không có tư tưởng tiến bộ nên dễ bị tụt hậu, không bắt kịp xu hướng thời đại. Do đó, tài vận của người này chỉ ở mức trung bình.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mở mắt đoán vận mệnh giàu nghèo

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Mơ thấy bị rụng răng là điềm gì?

Theo thống kê, mơ thấy răng bạn bị rụng là loại giấc mơ phổ biến nhất.Kịch bản chung là răng bạn bị vỡ vụn trong lòng bàn tay bạn hoặc răng bạn rơi từng chiếc
Mơ thấy bị rụng răng là điềm gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chỉ sau một cái tát nhẹ. Tuy không gây khủng hoảng hay phiền não cho người nằm mơ như khi gặp ác mộng nhưng nó cũng khiến tinh thần bạn bất an.


Mo thay bi rung rang la diem gi hinh anh
Ảnh minh họa

Giấc mơ về rụng răng thường phản ánh nỗi lo sợ về ngoại hình, sự lúng túng hoặc những lo âu quá mức trong con người bạn. Việc mất răng trong giấc mơ có thể xuất phát từ những bế tắc trong cuộc sống. Có thể bạn đang gặp khó khăn trong việc bộc lộ bản thân hoặc một công việc quan trọng của bạn bị gián đoạn? Bạn cảm thấy nản lòng khi tiếng nói của mình không được người khác lắng nghe. Có thể bạn đang trải qua cảm giác tự ti và thiếu tự tin trong hoàn cảnh hay mối quan hệ nào đó. Giấc mơ này biểu thị rằng bạn nên tự tin và quyết đoán hơn.

Theo quan niệm của người Hy Lạp, khi nằm mơ thấy răng bị rụng, bị hỏng hoặc thiếu răng, điều này ám chỉ rằng có một thành viên trong gia đình bạn hoặc một người bạn thân đang bị bệnh nặng, thậm chí có thể sắp tử vong. Ngược lại, người Trung Quốc cho rằng nếu mơ thấy răng rụng thì đó là điềm báo tốt lành về tiền bạc.

Tuy nhiên theo quan niệm cổ xưa trong dân gian, chiêm bao thấy răng phần lớn là điềm không may: Thấy mình nhổ một cái răng là gặp xui xẻo buồn bực. Thấy mình nhờ người nhổ một cái răng thì người nhổ cho mình là người sắp chết. Thấy mình nhổ răng cho người là có người làm nhục mình.

Thấy mình rụng một cái răng là có một người thân bị nguy hiểm. Thấy rụng nhiều răng một lúc thì chính người nằm chiêm bao sẽ có nguy cơ bị chết. Thấy răng lung lay là sẽ mất hết cảm tình của những người từ lâu gần gũi với mình. Mơ thấy hàm răng của bạn thối rữa hoặc mục nát, có nghĩa là sức khỏe hoặc công việc của bạn đang lâm nguy.  

Theo Bí ẩn điềm chiêm bao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bị rụng răng là điềm gì?

Thế nào là âm dương, ngũ hành ?

1. Thế nào là "Âm dương" ? Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong dương có mầm mống của âm và ngược lại.
Thế nào là âm dương, ngũ hành ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2. Thế nào là "Ngũ hành" ?

heo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế giới này đều do năm yếu tố ban đầu là nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại. Tức năm hành thuỷ, hoả, thổ, mộc, kim. Để giúp các bạn dể nhớ ngũ hành tương sinh và tương khắc, chúng tôi nêu thí dụ mộc mạc đơn giản theo vần thơ như sau:

Ngũ hành sinh: thuộc lẽ thiên nhiên.

Nhờ nước cây xanh mọc lớn lên (thuỷ sinh mộc)
Cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (mộc sinh hoả)
Tro tàn tích lại đất vàng thêm (hoả sinh thổ)
Lòng đất tạo nên kim loại trắng (thổ sinh kim)
Kim loại vào lò chảy nước đen (kim sinh thuỷ)

  Ngũ hành tương khắc: lẽ xưa nay
Rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày (mộc khắc thổ)
Đất đắp đê cao ngăn nước lũ (thổ khắc thuỷ)
Nước dội nhiều nhanh dập lửa ngay (thuỷ khắc hoả)
Lửa lò nung chảy đồng sắt thép (hoả khắc kim)
Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây (kim khắc mộc)

Thuyết âm dương

Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài). Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.

Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt ra "thuyết âm dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật.
Nói chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.

Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.

Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ, cây cỏ, đều được qui vào âm dương.
Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân, hè, đông, nam, phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối.
Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí, vệ; Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm.

(Trích "Cây thuốc vị thuốc VN." của Đỗ tất Lợi)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thế nào là âm dương, ngũ hành ?

Sơn Tinh Thủy Tinh: Cái kết oai hùng cho chàng trai Kim Ngưu

Chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh, không mấy ai biết, Sơn Tinh là một Kim Ngưu điển hình với sự vững chãi như núi Thái Sơn, còn Thủy Tinh là một Bọ Cạp tràn đầy cảm xúc
 Sơn Tinh Thủy Tinh: Cái kết oai hùng cho chàng trai Kim Ngưu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh, có lẽ bạn sẽ không bất ngờ khi biết rằng Sơn Tinh là cung nhóm Đất còn Thủy Tinh là cung nhóm Nước, nhưng không mấy ai biết, Sơn Tinh là một Kim Ngưu điển hình với sự vững chãi như núi Thái Sơn, còn Thủy Tinh là một Bọ Cạp tràn đầy cảm xúc dữ dội.

  Chúng ta ai cũng quen thuộc với sự tích Sơn Tinh Thủy Tinh nhưng ít người biết rằng Sơn Tinh, Thủy Tinh mang những nét tính cách đặc trưng của Kim Ngưu và Bọ Cạp. Hãy cùng tìm hiểu về hai vị thần nổi tiếng trong truyền thuyết dưới góc nhìn hoàng đạo nhé!

 

Chàng trai Kim Ngưu chính nghĩa, đáng tin cậy: Sơn Tinh


 Son Tinh Thuy Tinh Cai ket oai hung cho chang trai Kim Nguu hinh anh
 
Sơn Tinh là một Kim Ngưu điển hình với sự vững chãi như núi Thái Sơn. Thuộc nguyên tố Đất, đàn ông Kim Ngưu luôn khiến người khác tin tưởng bằng sự an toàn, ổn định. Hơn nữa Kim Ngưu rất coi trọng sự sung túc nên trong buổi ra mắt bố vợ tương lai, Sơn Tinh đã ngay lập tức cho nhà vua thấy được những khu rừng trù phú, chim muôn, thú rừng đầy đàn. Điều này có thể đảm bảo cho cuộc sống của công chúa được an nhàn sau này.
 
Bởi vậy ngay trong lần đầu tiên gặp mặt vua Hùng đã ưu ái Sơn Tinh hơn hẳn. Sính lễ nhà vua lựa chọn đều là những sản vật ở trên đất liền.   Kim Ngưu là người rất nghiêm túc và tuân thủ giờ giấc. Có thể nhà vua đã có phần ưu ái Sơn Tinh hơn nhưng chàng cũng không vì thế mà trễ nải trong việc mang lễ vật đến.
 
Ngay tờ mờ sáng ngày hôm sau Sơn Tinh đã có mặt trước nhà vua với toàn bộ sinh lễ để xin cưới công chúa. Có thể thấy rằng sự thành công của Kim Ngưu đến từ tính kỉ luật, đúng giờ không sai hẹn.
 
Trong cuộc chiến với Thủy Tinh, Sơn Tinh càng thể hiện rõ sự bình tĩnh đặc trưng của Kim Ngưu. Thủy Tinh dâng nước đến đâu thì Sơn Tinh cho núi cao đến đó. Sự mạnh mẽ, bền bỉ của chàng khiến Thủy Tinh cuối cùng cũng phải chịu thua, rút lui.
 

Người đàn ông Bọ Cạp thù dai: Thủy Tinh
 

Thủy Tinh là một Bọ Cạp tràn đầy cảm xúc dữ dội. Bọ Cạp bề ngoài lạnh lùng nhưng thực ra họ lại dễ bị tổn thương và hay hành động theo cảm xúc. Khi biết tin vua Hùng đã gả con gái cho Sơn Tinh, Thủy Tinh lập tức nổi trận lôi đình, quyết đuổi theo Sơn Tinh để cướp lại công chúa.

 Son Tinh Thuy Tinh Cai ket oai hung cho chang trai Kim Nguu hinh anh
 
Thủy Tinh đi đến đâu giông bão nổi đến đó, mây đen kéo đến, sấm chớp giật đùng đùng, mưa xối xả. Đó là lý do vì sao bạn không bao giờ nên chọc giận Bọ Cạp. Khi Bọ Cạp nổi giận họ sẽ trở nên rất đáng sợ.   Hàng năm cứ đến tháng bảy ThủyTinh lại trỗi dậy dâng nước đánh Sơn Tinh trả thù cướp vợ năm xưa. Điều này không có gì lạ khi chàng là một Bọ Cạp.
 
Bọ Cạp có khả năng ghi nhớ mối thù thâm sâu và không mệt mỏi trong việc trả thù. Thủy Tinh đánh đuổi Sơn Tinh không chỉ vì mục đích trả thù mà còn để tìm lại danh dự của mình. Đàn ông Bọ Cạp có cái tôi cá nhân rất cao, họ không cho phép bản thân mình thua cuộc bất cứ ai. Kim Ngưu - Bọ Cạp: Oan gia ngõ hẹp
 
Kim Ngưu và Bọ Cạp là 2 cung đối đỉnh trên vòng tròn hoàng đạo nên giữa hai người luôn tồn tại sự mâu thuẫn, đối lập lẫn nhau. Các cung đối đỉnh thường có mục tiêu, giá trị giống nhau vì thế dù họ rất ghét đối phương nhưng lại dễ chạm mặt nhau.  

Cuộc chiến Kim Ngưu và Bọ Cạp dai dẳng và không có hồi kết


 Son Tinh Thuy Tinh Cai ket oai hung cho chang trai Kim Nguu hinh anh
 
Sơn Tinh và Thủy Tinh đều mê gái đẹp nên nghe vua Hùng có con gái Mị Nương xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn liền lập tức đến hỏi vợ. Bởi vì nằm đối đỉnh trên vòng tròn hoàng đạo nên sức mạnh của Sơn Tinh và Thủy Tinh cũng khắc chế nhau.
 
Một bên cai quản rừng núi đối lập với một bên cai quản sông nước. Cuộc chiến của Sơn Tinh và Thủy Tinh kéo dài năm này qua năm khác cũng như sự mâu thuẫn giữa Kim Ngưu và Bọ Cạp không bao giờ chấm dứt.

► ## gửi tới bạn đọc công cụ coi ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn niên

ST.

Cảnh báo 4 chòm sao xui xẻo trong tháng 12, đi đâu cũng gặp tiểu nhân Cường Đô La, Hà Dũng: sao đã giàu có lại còn đa tình? Phạm Hương: Cô nàng Xử Nữ điên nhưng thú vị


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sơn Tinh Thủy Tinh: Cái kết oai hùng cho chàng trai Kim Ngưu

Luận giải vận số của người tuổi Dần theo ngày sinh

Ngày này Tý có sao dữ Thiên Cẩu chiếu mệnh nên tâm tư tình cảm thường không yên, hay lo nghĩ.
Luận giải vận số của người tuổi Dần theo ngày sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh ngày Tý: Ngày này có sao dữ Thiên Cẩu chiếu mệnh nên tâm tư tình cảm thường không yên, hay lo nghĩ. 

Sinh ngày Sửu: Nhờ có sao Hồng Loan chiếu mệnh nên người sinh ngày thường có cuộc sống vui vẻ, gia đình hạnh phúc.

Sinh ngày Dần: Sinh ngày này phạm phải sao Thái Tuế nên cuộc đời thăng trầm, tâm trạng bất an.

 

Tuoi Ty (4)
 

Sinh ngày Mão: Được sao Thái Dương chiếu mệnh nên luôn tự tin, hăng hái trong cuộc sống và sự nghiệp. Tuy nhiên nhiều khi lại có tâm trạng buồn rầu, cảm giác trống rỗng.

Sinh ngày Thìn: Dần mệnh Mộc khắc Thìn mệnh Thổ nên những người sinh vào ngày này thường có vận số không ổn định. Đa số gặp nhiều may mắn thời tuổi trẻ nhưng về già lại gian nan.

Sinh ngày Tỵ: Do bị sao Thái Dương chiếu mệnh nên những người này thường gặp nhiều ưu phiền, sống cảnh cô đơn.

Sinh ngày Ngọ: Do bị sao Tướng Quân chiếu mệnh nên thường bị tiểu nhân quấy rối, sự nghiệp công danh bị cản trở.

Sinh ngày Mùi: Nhờ có sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên vạn sự thuận lợi. Không những thế những người sinh ngày này còn được sao Thiên Hỷ soi chiếu nên có số xuất ngoại; tình duyên tốt đẹp, gia đình hạnh phúc.

Sinh ngày Thân: Do Dần - Thân xung khắc nên người sinh ngày này số phận long đong, vất vả. Tuy có đôi chút danh tiếng nhưng gặp rất nhiều khó khăn; nên cẩn trọng trong mọi việc.

Sinh ngày Dậu: Người sinh ngày này có sao Tử Vi chiếu rọi nên được quý nhân phù trợ, trăm sự đều thành.

Sinh ngày Tuất: Nhờ có sao Phúc Tinh chiếu mệnh nên được hưởng lộc tổ tiên, có thể làm rạng danh non sông, đất nước.

Sinh ngày Hợi: Người sinh ngày này cuộc đời bôn ba, gặp nhiều thất bại trong cuộc sống.

(Theo Nhân duyên & tướng cách)

 

 
 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Dần theo ngày sinh

Người tuổi Mão mệnh Kim

Người tuổi Mão mệnh Kim là những người sinh năm Quý Mão 1903, 1963...
Người tuổi Mão mệnh Kim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh minh họa)

Người tuổi Mão mệnh Kim là những người sinh năm Quý Mão 1903, 1963...

Họ là người có ý thức rõ ràng về bản thân đồng thời luôn muốn khẳng định mình. Họ cũng có sức khỏe dồi dào và tính cách kiên cường, thẳng thắn.

Họ thường không bao giờ đầu hàng trước khó khăn, thậm chí còn không muốn bộc lộ những nỗi khổ tâm của mình cho người khác biết mà chỉ âm thầm chịu đựng.

Đời sống nội tâm của họ khá sâu sắc, tình cảm phong phú nhưng thường giấu kín trong lòng. Chính kiểu tính cách đó đã tạo nên ở họ sự không ổn định trong cả tâm lý và tình cảm. Cũng chính vì lý do này mà những việc họ làm đều khó có thể kéo dài và thường phải bỏ cuộc giữa chừng.

Nếu được sao tốt tương trợ, người tuổi Mão mệnh Kim rất có thể sẽ làm được việc lớn nhờ vào tài năng và những hành động đúng đắn, kịp thời của mình.

Nếu không được sao tốt tương trợ, họ dễ rơi vào vòng nguy hiểm vì xung đột với người xung quanh.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mão mệnh Kim

Phong thủy cho máy tính văn phòng

Thuyết phong thủy cho rằng, máy tính là thuộc Hỏa. Nhưng máy tính là thiết bị không thể thiếu được trong văn phòng làm việc hiện đại.
Phong thủy cho máy tính văn phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuyết phong thủy cho rằng, máy tính là thuộc Hỏa. Nhưng máy tính là thiết bị không thể thiếu được trong văn phòng làm việc hiện đại. 

Vị trí đặt máy tính thích hợp nhất

Bản thân máy tính là có sóng điện từ, đối với những người làm việc thường xuyên với máy tính mà nói thì ảnh hưởng của nó là không thể xem nhẹ. Những người sử dụng máy tính cần chú ý phương hướng đặt máy tính, để làm thế nào ngăn cản được sự quấy nhiễu của sóng từ trường, để tránh ảnh hưởng tới sức khỏe của bản thân, đây là những kiến thức cơ bản mà những người sử dụng máy tính cần phải biết.

Phong thuy cho may tinh van phong hinh anh
Máy tính là thiết bị sinh tài tốt nhất
Máy tính đặt ở nơi nào là tương đối thuận  lợi đây? 

Máy tính cần phải đặt ở bên trái của người sử dụng nó. Điều này đối với những người thường xuyên dựa vào máy tính mà nói thì là vị trí tương đối lý tưởng.
 
Căn cứ vào phương vị phong thủy mà nói chính là “rồng sợ bẩn, hổ sợ động”, bên trái là cát, đặt máy tính là thích hợp nhất.
 
Phương pháp hóa giải tia bức xạ của máy tính

Máy tính là một loại thiết bị sinh tài tốt nhất, nhưng hàng ngày ngồi trước máy tính, lâu dần sẽ xuất hiện một số vấn đề về sức khỏe như đau lưng, vai nhức mỏi. Có một số người làm việc với máy tính quá nhiều, cả ngày ngồi trước máy tính mà không nói một lời nào, dường như là khép kín bản thân, điều này tuyệt đối không có lợi cho sức khỏe. 
 
Nhưng điều này nhiều khi không phải là bản thân cá nhân đó có thể khống chế được, cho nên phương pháp giải quyết tốt nhất là đặt một khối thạch anh hoặc đá thái cực ở trước máy tính để hóa giải những bức xạ đe dọa sức khỏe con người.   Theo Sách Phong Thủy Văn phòng làm việc nơi công sở  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cho máy tính văn phòng

SAO THẤT SÁT TRONG TỬ VI

thất sát Nam đẩu tinh . dương . kim 1. Vị trí ở các cung: - Miếu địa: Dần, Thân, ...
SAO THẤT SÁT TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 thất sát Nam đẩu tinh . dương . kim 



1. Vị trí ở các cung:             - Miếu địa:                   Dần, Thân, Tý, Ngọ             - Vượng địa:                Tỵ, Hợi             - Đắc địa:                    Sửu, Mùi             - Hãm địa:                   Mão, Dậu, Thìn, Tuất

2. Ý nghĩa tướng mạo: Người có Thất Sát ở Mệnh thì "thân hình nở nang, hơi cao nhưng thô xấu, da xám hay đen, mặt thường có vết, mắt to và lồi."

3. Ý nghĩa bệnh lý: Thất Sát không chỉ đích danh một bộ phận nào trong cơ thể nhưng đóng ở Tật thường bất lợi.
- Sát Vũ đồng cung: bộ máy tiêu hóa xấu, thường bị trĩ, nếu không  chân tay bị thương tích - Sát Không Kiếp: bị ho lao, phổi yếu, sưng phổi có mủ - Sát Kỵ Đà: bệnh tật ở tay chân - Sát Hao Mộc Kỵ: bệnh ung thư
Tùy theo Sát đi với bộ phận nào thì nơi đó bị tật. Mức độ nặng nhẹ còn tùy sự hội tụ với hung sát tinh khác.

4. Ý nghĩa tính tình:
a. Nếu Thất Sát đắc địa: tiêu biểu nhiều cho võ tính, đặc biệt là:             - sự can đảm             - sự uy dũng, oai phong             - tính cương nghị, nóng nảy             - hiếu thắng             - có mưu cơ, có tài quyền biến Tuy nhiên, muốn được hiển hách phải đi cùng với cát tinh. Nếu gặp hung, sát tinh thì:             - tàn nhẫn, bất nhân             - đa sát, khát máu, gieo nhiều tai họa, án mạng. Nếu hung sát tinh đắc địa thì là tướng tài, có khả năng thu phục cường đồ. Nếhãm địa thì rất hung bạo, làm loạn, đảo chính, tà phái.
b. Nếu Thất Sát hãm địa:             - tính tình hung bạo, làm càn, nóng nảy             - gian xảo, độc ác             - đàn bà thì bạc tình Gặp thêm hung, sát tinh, người đó là hạng chọc trời khuấy nước, làm loạn thiên hạ

5. Ý nghĩa công danh, tài lộc, phúc thọ:
a. Nếu Thất Sát đắc địa: - được hưởng phú quý, nhất là đối với 4 tuổi Giáp, Canh, Đinh, Kỷ gặp Thất Sát thủ mệnh ở Dần Thân thì phú quý rất cao. Các tuổi khác thường gặp nhiều khó khăn, thăng trầm. - hiển đạt về võ nghiệp, có biệt tài về quân sự, giỏi về tác chiến - đàn bà thì tài giỏi, can trường, đảm lược, được phú quý. Nhưng sao Sát không mấy tương hợp với phụ nữ nên dù đắc địa, cũng gặp nhiều bất hạnh trong gia đạo (muộn chồng, khắc chồng ...) Nếu gặp sao xấu và nhất là sát tinh, Thất Sát đắc địa đưa đến nhiều nghịch cảnh như:             - có nhiều bệnh tật             - thường bị tai nạn khủng khiếp vì súng đạn             - thường bị bắt bớ, hình tù             - giàu sang cũng không bền             - có giàu sang cũng giảm thọ
b. Nếu Thất Sát hãm địa: Những bất lợi về công danh tài lộc phúc thọ cũng tương tự nhưng những chính tinh hãm địa khác:             - cô độc                       - khốn khó             - phiêu bạt nơi xa quê hương             - bị bệnh nan y             - bị ngục tù             - bị tai nạn khủng khiếp             - yểu tử Đặc biệt, vì Thất Sát là võ tinh nên tai họa do Thất Sát hãm địa khủng khiếp hơn các sao khác. Đa số cái chết và cách chết của Thất Sát hãm địa rất thê thảm, từ việc bị bom đạn, đao súng, ám sát cho đến tai nạn cực kỳ nặng nề. Riêng phụ nữ thì khắc chồng, sát phu, hại con hay nhiều lần bị điêu đứng vì tình - phải chịu cảnh góa bụa, lẽ mọn hoặc đa truân.

6. Ý nghĩa của thất sát và một số sao khác:
a. Những bộ sao tốt: Sát, Tử Vi ở Tỵ: phú quý, uy quyền.
Sát Liêm đồng cung ở Sửu Mùi, mệnh ất, Kỷ, Âm Nam: anh hùng quán thế, can đảm, thao lược
Sát Hình đồng cung hay hội chiếu: liêm chính, ngay thẳng, chính trực, vô tư, hiển đạt về nghiệp võ, rất uy nghi lẫm liệt, nhưng tính nóng nảy khiến thiên hạn phải khiếp sợ.
b. Những bộ sao xấu: Sát Tử Hỏa Tuyệt: người háo sát, giết người không gớm tay, không bị lương tâm cắn rứt.
- Sát Liêm ở Sửu Mùi: chết ở ngoài đường vì tai nạn xe cộ hay vì đao súng (ám sát).
Sát hãm địa (hay Phá hãm địa): tha phương lập nghiệp, người lắm nghề nhưng không tinh thục
Sát Phá Tham, nữ mệnh tuổi Tân Đinh gặp Văn Xươnggóa bụa, nghịch cảnh vì gia đạo, làm lẽ, sát phu, muộn chồng.
Sát gặp Tứ Sát (Kình Đà Linh Hỏa): bị tật, chết trận rất thê thảm
Sát Kình ở Ngọ: chết vì đao súng, không toàn thây nhất là đối với tuổi Bính, Mậu. Ngoại lệ đối với hai tuổi Giáp, Kỷ (anh hùng tái thế).
Sát ở Tý Ngọ gặp Kiếp Riêu: ghét đàn bà, thích sống độc thân. Đàn bà thì đa tình, đa mang, đau khổ nhiều lần.
Sát hãm gặp Hỏa Kình: nghèo, làm nghề sát sinh


7. Ý nghĩa của thất sát ở các cung:
Có 4 vị trí rất đẹp cho Thất Sát: ở Dần Thân Tý và Ngọ. Bốn vị trí này đảm bảo phú quý tột bậc cho người đó.
a. ở Phu Thê: Vợ/chồng thường là con trưởng. Chỉ trừ ở Dần Thân thì  vợ chồng tài cán, đảm đang, danh giá, vợ hay ghen, chồng nóng nảy. Tại các cung khác thì hình khắc chia ly, phải sát phu, sát thê, lập gia đình nhiều lần, cho dù đi với chính tinh tốt. Tại Tý Ngọ: tuy có danh giá nhưng hình khắc Sát Tử Vi đồng cung: phải trắc trở buổi đầu, về sau mới tốt, phải muộn lập gia đình mới phú quý. Bằng không, phu thê gián đoạn, hình khắc. Sát Liêm hay Vũ đồng cung: bắt buộc phải hình khắc nhất là với Vũ Khúc, sao chủ về cô độc và góa bụa. Sát, Quyền: rất sợ  vợ
b. ở Tử: Thất Sát cũng bất lợi vì hiếm con, con chết, con khó nuôi, muộn con, con bệnh tật, xa con. Trừ phi ở Dần Thân thì được 3 con, khá giả, quý tử. Gặp thêm nhiều sao xấu hay hiếm muộn có thể bị tuyệt tự.
c. ở Tài: Sát ở Dần Thân: kiếm tiền dễ dàng, nhất là từ trung niên trở đi Sát ở Tý Ngọ: tiền bạc thất thường, hoạnh tài Sát, Tử ở Tỵ: dễ kiếm tiền, dễ làm giàu Sát Liêm đồng cung: thất thường, khi có khi hết nhưng không thiếu, chậm giàu. Sát Vũ đồng cung: lập nghiệp được nhưng tự lực, vất vả buổi đầu. Tại Thìn Tuất: thiếu thốn
d. ở Di: Tại Dần Thân hoặc Tử Vi đồng cung: có người lớn giúp đỡ ngoài đời, được nhiều người tôn phục, ở gần các nhân vật quyền thế. Tại Tý Ngọ: có ý nghĩa trên nhưng may rủi đi liền nhau, dễ bị tai nạn, chết xa nhà. Vũ Sát: được người tin phục nhưng hay bị nạn, bị chết ở xa nhà. Liêm  Trinh đồng cung: bị tai nạn vì ám sát ở xa nhà Tại Thìn Tuất: ra ngoài bất lợi, chết xa nhà.
e. ở Quan: Giống như Thất Sát ở Mệnh, đóng ở Quan, Thất Sát thường là quân nhân. Nếu đồng cung với Tử Vi hay ở vị trí triều đẩu (Dần Thân) hay ngưỡng đẩu (Tý Ngọ) thì rất đẹp: văn võ đều giỏi, uy quyền lớn, trấn áp được muôn người nhưng ở Tý Ngọ thì may rủi liền nhau. - Sát Liêm đồng cung: quân nhân nhưng sự nghiệp thăng trầm, may rủi liền nhau. Nếu bỏ được võ nghiệp làm doanh thương thì tốt. - Vũ Sát: hiển đạt võ nghiệp nhưng thất thường và thăng trầm, thường trấn nhậm ở xa. - Tại Thìn Tuất: quân nhân nhưng sớm được giải nghiệp vì họa hại, tai nạn, tàn phế
f. ở Điền: Thường gặp bất lợi về điền sản hoặc chậm có của, hoặc không có di sản, không hưởng di sản, hoặc phải bán điền sản, hoặc phải bị mất điền sản (truất hữu), hoặc phải tự lập mới khá. Tại Dần Thân: ít di sản. Nếu tự lập mới dồi dào. Tại Tý Ngọ: mua vào bán ra thất thường. Phá di sản. Tự lập thì mới bền vững. Sát Tử: di sản nhiều nhưng phá sản Sát Liêm: chậm điền sản, vất vả buổi đầu. Sau về già mới có nhà cửa. Sát Vũ hay Sát ở Thìn Tuất: không điền sản, rất ít điền sản, nhà nhỏ lúc về già

g. ở Phúc: ở Triều đẩu và Ngưỡng đẩu: đắc phúc nhưng phải ly hương lập nghiệp. Họ hàng khá giả về võ nghiệp nhưng ly tán (ở Tý Ngọ) Sát Tử đồng cung: phải ly hương lập nghiệp mới thọ. Họ hàng danh giá, hiển đạt về võ nhưng tha phương. Sát Liêm hay Sát Vũ hay Sát ở Thìn Tuất: giảm thọ, vì bạc phúc, xa gia đình, xa họ hàng, lao tâm khổ trí, họ hàng yểu, ly tán, nghèo.
i. ở Phụ: Bất luận ở đâu, cha mẹ cũng xung khắc hoặc không hợp tính với con. Tuy nhiên, cha mẹ quý hiển và thọ nếu Sát ở Dần Thân; kém thọ nếu Sát ở  Tý Ngọ; vất vả, bị bệnh tật, yểu, xung khắc với con nếu ở Thìn Tuất hoặc đồng cung với Liêm, Vũ. Trừ phi đồng cung với Tử Vi thì cha mẹ phú quý mà bất hòa, gia đình ly tán, khắc tính với con cái.
k. ở Hạn: Nhập hạn ở vị trí Triều đẩu, Thất Sát rất hưng vượng về nhiều mặt tài, quan, gia đạo. Gặp sát hung tinh hoặc khi hãm địa thì hay bị tai nạn, hình tù, súng đạn. - Sát Liêm Hỏa: cháy nhà (nếu Hạn ở Điền thì càng chắc chắn) Sát Kình Hình ở Ngọ: ở tù, chết Sát Hình Phù Hổ: tù, âu sầu Sát Phá Liêm Tham Không Kiếp Tuế Đà: kiện, tù, chết (nếu đại hạn xấu) Sát Hao: đau nặng Sát Kỵ: bệnh, hay mang tiếng xấu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO THẤT SÁT TRONG TỬ VI

9 điều nên nhớ để tĩnh tâm tự tại

9 điều khiến con người thanh thản mà Phật dạy dưới đây sẽ giúp bạn tự tại hơn giữa cuộc đời nhiều bề bộn, bon chen này.
9 điều nên nhớ để tĩnh tâm tự tại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


9 dieu nen nho de tinh tam tu tai hinh anh
 
1. Những người cam tâm tình nguyện chịu thiệt, cuối cùng sẽ không chịu thiệt. Những người tĩnh tâm tự tại có thể chịu thiệt, nhân duyên tất nhiên sẽ tốt, những người nhân duyên tốt, cơ hội tự nhiên sẽ nhiều hơn. Một đời của người ta, có thể nắm bắt được một, hai lần cơ hội, cũng là đủ rồi vậy!
 
2. Những người thích chiếm lợi thế, cuối cùng sẽ không chiếm được lợi thế gì cả, chỉ nhặt được một cọng cỏ, mà mất đi cả cánh rừng.
 
3. Những người tâm địa hẹp hòi, tấm lòng không sao rộng rãi được. Trong lúc bạn bè tụ họp, câu chuyện của họ không lúc nào rời khỏi bản thân và người trong nhà mình, thật đúng là “con ốc sên” chuyển thế, nội tâm trống rỗng, tự tư. Trong lòng chỉ có chuyện trong nhà mình, ngoài ra những chuyện khác chính là không có liên quan gì đến họ cả.
 
4. Chỉ có trân quý duyên phận mới có thể tiếp tục duyên phận. Trên đường đời, chúng ta sẽ gặp được rất nhiều người, thật ra có duyên mới có thể gặp nhau, người thân phần nhiều là bạn thân trong đời trước, bạn thân phần nhiều là ngời thân trong đời trước; những người mang đến phiền não cho bạn, phần nhiều là những người bạn đã từng làm tổn hại họ trong đời trước. Hãy đối xử tốt với người thân bên cạnh, quan tâm đến bạn bè bên cạnh, khoan dung với những người đã làm tổn hại bạn. Đây chính là nhân quả.
 
5. Trong tâm không có khuyết điểm gọi là phú, được mọi người cần đến gọi là quý. Vui vẻ không phải là một loại tính cách, mà là một loại năng lực. 
 
6. Cách tốt nhất để tĩnh tâm tự tại giải quyết phiền não, chính là quên đi phiền não.
 
7. Không tranh chính là từ bi, không tranh cãi chính là trí tuệ, không nghe chính là thanh tịnh, không nhìn chính là tự tại, tha thứ chính là giải thoát, biết đủ chính là buông bỏ.
 
8. Không loạn bởi tâm, không vướng bởi tình, không sợ tương lai, không nhớ quá khứ.
 
9. Cả đời này đã định sẵn chúng ta không mang theo được cái gì, vậy thì hãy sống vào lúc này, cười vào lúc này, giác ngộ vào lúc này vậy. Đó là điều khiến con người thanh thản, tĩnh tâm tự tại.
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 điều nên nhớ để tĩnh tâm tự tại

Xem bói tử vi tuổi Ngọ

Xem bói tử vi tuổi Tý qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Tý, bói tử vi theo tháng sinh & giờ sinh, hợp khắc 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Ngọ qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Ngọ, sự xung khắc của tuổi Ngọ với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của Canh Ngọ, Mậu Ngọ, Bính Ngọ, Giáp Ngọ, Nhâm Ngọ theo tháng sinh và giờ sinh.

Con Ngựa tượng trưng cho các đặc điểm như sức mạnh, năng lượng và một cá tính cởi mở. Người tuổi Ngọ vô cùng sôi nổi và thường thích cuộc sống tiệc tùng. Họ thường thích được vui vẻ và luôn luôn tìm kiếm những điều thú vị.

xem bói tử vi tuổi Ngọ
1. Tính cách người tuổi Ngọ

Tuổi Ngọ được coi là con giáp du mục trong mười hai con giáp. Người sinh tuổi Ngọ luôn tới lui từ chỗ này sang chỗ khác, nhảy từ dự án này sang dự án nọ, chương trình này sang chương trình khác. Họ là người ưa thích sự đổi mới, ham hoạt động, thích độc lập, khó thích ứng với công việc có tính cố định và nhàm chán.

Người sinh năm Ngọ rộng rãi, hào phóng, mẫn tiệp, trang điểm hợp thời, giỏi đối đáp, ngoại giao, sức quan sát tốt, đầu óc nhanh nhẹn, cởi mở, dí dỏm lý thú, thích tự do đi đây đi đó, không chịu sự ràng buộc vào bất cứ cái gì, thích làm việc theo sở thích, hay thay đổi, dễ đam mê và cũng mau chán, tính khí nóng nảy, khi bị chọc tức thì lửa giận bừng bừng, song cũng hết giận rất nhanh. Những người có cung mệnh này thường khá bốc đồng, họ không chịu nổi những gì tẻ nhạt rập khuôn. Họ có khuynh hướng rất thích đi xa và không dừng ở đâu lâu được. Màu sắc họ yêu thích là vàng và cam, tất cả hòa quyện vào nhau một cách kỳ diệu tạo nên một sự thoải mái, tinh tế mà chân thành phù hợp với cá tính của những người tuổi Ngọ.

Người tuổi Ngọ ưa hoạt động. Họ làm việc không mệt mỏi để hoàn thành công việc, nhưng đó phải là thời hạn do chính họ đặt ra. Người tuổi Ngọ có biệt tài tính toán nhanh như chớp, có thể phân tích tình huống và con người trong nháy mắt, nhưng đôi khi lại quá nhanh nên đã hành động trước khi nhìn thấy toàn bộ vấn đề. Có khả năng đảm nhận nhiều việc cùng một lúc, họ thường xuyên bận rộn và thích được thử sức mình, vì thế họ có thể bị kiệt quệ sức lực tinh thần lẫn thể xác. Người tuổi Ngọ có tham vọng và tự tin vào khả năng riêng. Họ chẳng mảy may quan tâm xem người khác nghĩ gì và giỏi tránh né vấn đề. Đôi khi họ kém kiên nhẫn và dễ nổi nóng dù rằng họ chẳng mấy khi thù oán ai.

Cá tính xúc động, sẽ thiếu những suy nghĩ chín chắn, nên hay bỏ lỡ những cơ hội tốt. Trời sinh ra họ có cá tính đa biến, nhất là họ lại có đặc điểm thích mới nới cũ. Họ thường tỏ ra hiếu kỳ mãnh liệt trước bất kỳ công việc mới mẻ nào. Không thích những công việc đơn điệu, ít thay đổi.

Do cá tính thẳng thắn, nên có chuyện gì người tuổi Ngọ thường hay bộc lộ ngay. Họ không thích những ai tính tình thăng trầm, lắm mưu mẹo. Họ thích sống vui vẻ, lạc quan yêu đời, có chí tiến thủ. Hết mình trong công việc, nhiệt tình thân ái trong quan hệ. Ở họ luôn bùng lên một sức sống tươi trẻ khiến người xung quanh cảm thấy thoải mái. Họ cũng là người có lòng chính nghĩa, yêu ghét rõ ràng. Thông minh, lanh lợi, phản ứng nhanh, có giác quan thứ sáu nhạy bén, vui vẻ hòa đồng họ luôn được nhiều người yêu mến và có nhiều bạn tốt. Mặc dù hơi thất thường, họ luôn là người thân, người yêu, người bạn chân thành và đáng tin cậy.

Những người sinh năm con ngựa thường có cá tính phóng khoáng, không căn cơ, có năng lực suy nghĩ độc lập và ít để bụng. Họ có lòng tự tin cao, đối nhân xử thế tốt. Gặp việc gì họ cũng thường bắt tay làm ngay, không chần chừ do dự. Nhưng chính sự nhanh nhẹn đó lại cấu thành nên điểm yếu của họ: nóng vội và thiếu kiên nhẫn. Tính thiếu kiên nhẫn này khiến cho tuổi Ngựa ít chú tâm đến nhu cầu của người khác.

Nhược điểm lớn nhất của người tuổi Ngọ là tính tình nóng nảy, gấp gáp, cố chấp, không lường đến hậu quả. Họ hay dao động, khó ràng buộc, đứng núi này trông núi nọ, có lúc ham muốn lớn nằm ngoài cả khả năng sức lực của bản thân.

Họ luôn “lấy việc giúp người khác làm vui”, không thể khước từ lời yêu cầu của người khác, nên thường vì đôi lời tán dương mà đáp ứng quá nhiệt thành. Trong trường hợp thiếu suy nghĩ kín kẽ, họ hay hành sự theo kiểu cảm tính, làm những điều không sao hiểu nổi. Đây cũng là một trong những nhược điểm lớn nhất ở họ.

Họ là người có tinh thần độc lập cao nên sớm lập được sự nghiệp cho riêng mình. Nhiều ví dụ cho thấy người tuổi Ngọ thời trẻ thường xa gia đình, dù ở nhà, tinh thần độc lập cũng luôn thúc đẩy họ bắt đầu sự nghiệp của mình ngay từ rất sớm. Họ thà nắm chắc tình huống trong tay mình trước chứ không chờ đến kẻ khác tác động hoặc cho ý kiến. Họ giỏi tự lực cánh sinh, dũng cảm xông lên phía trước, sẵn sàng làm bất cứ việc gì để vượt qua người khác. Tính "một thân một ngựa" này khiến cho họ dễ thành công hơn. Họ cũng là những người luôn luôn lạc quan cho dù gặp phải khó khăn, thất bại. Do vậy, họ sẵn sàng quên đi quá khứ để hướng về tương lai, làm lại từ đầu tạo dựng sự nghiệp. Trong quan hệ xã hội, quan hệ làm ăn, họ là những người chân thành, đáng tin cậy, đúng sai phân minh rạch ròi, lòng dạ rộng rãi, dám xông vào hiểm nguy để giải quyết vấn đề khi gặp sự cố.

Tuổi Ngựa có tinh lực dồi dào, ưu điểm nổi bật của họ là rất tự tin, khi gặp buổi tụ hội hay họat động nào đó, họ thường hay chau chuốt ngoại hình, ăn mặc vừa đặc biệt, đẹp đẽ và giản dị, tiện lợi. Thông minh, hòa đồng, hoạt bát, đầy nhiệt huyết và luôn tràn trề sinh lực, người tuổi Ngọ thường là trung tâm của những bữa tiệc, những cuộc hội họp. Họ thích sống trong môi trường sôi nổi và vui vẻ. Trong các buổi tiệc tùng, bạn sẽ thấy tuổi ngựa là tuổi thường hay có mặt nhiều nhất. Họ cũng là những người rất hiếu khách, thích những bữa tiệc thân mật, ấm cúng và vui nhộn. Họ giao tiếp rộng, nhiều bạn bè, mỗi ngày lại kết thêm bạn mới, tuy nhiên lại chẳng bao giờ dựa dẫm vào những người bạn này. Tuy nhiên, có một điểm lạ là tuổi Ngựa hay cảm thấy mình hơi thua kém bạn bè chút đỉnh nên hay thay đổi nhóm bạn chỉ vì vô cớ cảm thấy mình có gì không hoàn chỉnh lắm.

Người tuổi Ngọ thích các hoạt động rèn luyện về trí tuệ và thể chất. Mọi người có thể dễ dàng nhận ra người tuổi Ngọ trong đám đông qua cử chỉ nhanh nhẹn, tư thế tao nhã và cách nói năng từ tốn của họ. Họ cũng phản ứng rất nhanh, quyết đoán kịp thời.

Ngựa thuộc vào các con giáp nằm phía Đông, đại diện cho các công tử hào hoa phong nhã, thích hưởng thụ và các tiểu thư yểu điệu, xinh tươi, họ ưa thích sự náo nhiệt, đối xử với mọi người khảng khái, rộng rãi. Họ làm việc linh hoạt cũng giống như quan điểm về tình yêu của họ vậy, hơn nữa còn rất nhạy bén, cơ động, luôn chi phối những người xung quanh. Những người tuổi Ngọ thường rất khéo tay nhưng họ cũng thường hay bỏ dở công việc khi có những thứ khác thu hút sự chú ý của họ hơn. Ðiều cần bổ túc lớn nhất cho tuổi Ngựa là phải tập cho tâm tính hòa nhã. Có như vậy mới không bị chao đảo và thấy rằng hạnh phúc trong đời là ngay đây, không phải đâu xa.

Nhìn bề ngoài họ có vẻ ung dung tự tại, song bên trong họ lại hay nóng vội, thiếu kiên nhẫn. Hay phán đoán sự việc bằng ấn tượng đầu tiên, dựa vào trực giác suy đoán tương lai, song điều kỳ lạ là trực giác của họ rất ít khi sai. Nhược điểm của người tuổi Ngọ là khi gặp chuyện thì nóng nảy, cố chấp, tính khí quá mãnh liệt nhưng chuyện qua rồi thì quên rất nhanh, còn nữa, họ không thể nhận thức một cách tỉnh táo về nhược điểm của mình và khó sửa chữa thiếu sót trong một thời gian ngắn. Điều này đôi khi khiến họ có thái độ thiếu tôn trọng người khác, thậm chí gần như thô bạo. Anh ta luôn yêu cầu người khác làm việc với tốc độ nhanh giống mình, khi không đạt được hiệu quả như dự tính thì lập tức càu nhàu luôn miệng, tỏ vẻ không vui. Anh ta thường thỏa mãn với thành tích nhỏ xíu một cách ấu trĩ, rồi chìm đắm trong đó, hơn nữa còn hay quên, làm việc lơ đãng thiếu tập trung, đôi khi còn sai giờ, không ăn khớp.

Người tuổi Ngọ thường thích gì làm nấy, tự cho mình là cái rốn của vũ trụ, thích bạn bè người thân vây quanh phục vụ cho mình. Mẫu người này luôn hướng người khác theo suy nghĩ của mình bằng những lời lẽ đầy sức thuyết phục. Khi trình bày suy nghĩ của mình, anh ta thường khoa chân muá tay, chưa nói hết toàn bộ những gì chất chứa trong lòng thì chưa chịu thôi.

Tuy nhiên anh không thuộc loại người tham tài, ích kỉ, hay đố kỵ. Khi làm việc mà gặp trở ngại, anh ta chỉ biết nổi giận chứ không biết bày mưu tính kế gian tà, thâm hiểm. Anh ta không hề ích kỉ về chuyện vật chất, mà thực lòng quan tâm người khác và hướng họ theo quan điểm của mình để có được sự đoàn kết thống nhất tập thể. Như vậy thì không thể nói anh ta ích kỉ được. Anh ta không có thái độ cố tình đối chọi người khác, chỉ là không thể dung nạp quan điểm nào mạnh hơn bản thân mình. Khi người khác không hài hòa với suy nghĩ nhạy bén, hoạt động linh hoạt của mình, anh ta sẽ rất thiếu kiên nhẫn. Mẫu người này sẽ trở thành một diễn viên giỏi, nhưng không thích hợp với thầy cô giáo.

Muốn tìm hiểu được người tuổi Ngọ, bạn phải nắm rõ điểm này, anh ta hoặc cô ta luôn luôn theo đuổi tự do và hạnh phúc. Đối với họ, độc lập tự do cũng cần thiết và quan trọng giống như không khí họ thở vậy. Họ luôn mưu cầu sự tự do và hạnh phúc trong cuộc sống và họ sẽ cố gắng hết sức mình để đạt được điều đó mà chẳng cần nhờ cậy vào ai, vào cái gì.

Hiện tượng mâu thuẫn trước sau trong tính cách người tuổi Ngọ xuất phát từ tính khí hay thay đổi. Người tuổi Ngọ dễ đam mê và cũng mau chán, khi hành sự họ thường dựa vào trực giác bén nhạy của mình, nên đôi khi đi ngược lại với lẽ thường tình, người không hiểu thì nói rằng họ tiền hậu bất nhất. Những thay đổi tinh tế trong tình cảm của anh ta thường không được mọi người chú ý, cũng có nghĩa là anh ta dựa vào trực giác bản thân về sự vật để hành sự. Nếu muốn anh ta giải thích trực giác và phân tích hoạt động một cách logic thì cũng được, nhưng khi các hoạt động đang ở vào giai đoạn phát triển, khả năng tiềm tàng của anh ta sẽ thúc đẩy hoạt động này phát triển sâu rộng hơn. Anh ta thường xuyên ôm đồm nhiều việc cùng một lúc, hơn nữa rất biết cách khống chế cục diện. Hễ đưa ra quyết định, anh ta sẽ chẳng chút chần chừ mà vùi đầu vào làm việc. Mọi người nhận thấy mẫu người này, hoặc là chạy ngược chạy xuôi bận rộn công việc hoặc mệt mỏi nằm phịch xuống, uể oải, chán nản.

Người tuổi Ngọ rất khó thích ứng với thời gian biểu cố định do người khác đặt ra, hơn nữa họ thiếu tính nhẫn nại khi phải theo một khuôn khổ nào đó, không thích hợp với các công việc đơn điệu, trùng lặp, thiếu biến hóa. Nếu phải làm việc một nơi cố định, lặp đi lặp lại, họ sẽ không phát huy được hết tài năng và cảm thấy đó là điều bất hạnh không sao chịu nổi. Cho nên, tốt nhất hãy cho họ làm các công việc có tính năng động và sáng tạo như nghệ thuật, văn hóa, học thuật, tôn giáo, báo chí, xuất bản, biểu diễn, phục trang…. Ngoài ra, họ cũng thích hợp với công việc dạy học, cố vấn, nhà tâm lý, phiên dịch… Trong những công việc khó khăn, họ luôn tìm ra phương cách tối ưu, đạt hiệu quả cao nhất. Sự linh hoạt, óc nhạy bén, và khả năng học hỏi nhanh giúp họ có thể phù hợp với hầu hết các ngành nghề. Đặc biệt, khả năng ngôn ngữ của họ rất sắc bén, tinh tế, vì thế họ có thể hoạt động rất tốt trong những lĩnh vực truyền thông, giao tiếp. Doanh nhân năm Ngọ là những người nhạy bén, giỏi nói, giỏi giao tiếp, khi biện bạch rất có logic. Hành động của họ nhanh nhạy, có đầu óc quan sát thị trường và những sự biến động của nó để tìm ra quy luật đúng. Anh ta sẽ nghĩ nhiều chủ ý mang tính xây dựng, tìm ra những cao chiêu để giải quyết vấn đề.

Người tuổi Ngọ giỏi tháo gỡ những sự việc rắc rối như mớ bòng bong, cho nên nếu bên cạnh bạn có một người tuổi Ngọ giúp sức, bạn có thể yên tâm giao hết mấy chuyện phức tạp, rối như tơ vò cho anh ta giải quyết. Khi được quyền tự do xử lý những việc đó, anh ta sẽ đạt được thành tích cao. Nhưng hãy nhớ luôn luôn thúc giục, đôn đốc, bằng không anh ta sẽ lơ là, không chú tâm.

Do trời phú cho họ cuộc sống lạc quan, năng động, ứng biến nhanh nên người tuổi Ngọ không phải lo lắng nhiều về mặt tiền nong, và do quan hệ rộng, thái độ sống tích cực nên tiền bạc cũng luôn đến với họ. Thế nhưng, họ lại không kiếm tiền bằng con đường chắc chắn, cũng không làm giàu bằng cách đầu tư, mà dựa vào quan hệ giao tiếp khéo léo, dựa vào "miệng" để làm việc, nên thu nhập không ổn định. Một khi đường tài vận gặp trở ngại, người tuổi Ngọ biết tiếp tục đi lên bằng các thủ đoạn khéo léo. Người cầm tinh con ngựa nếu muốn làm nên nghiệp lớn, cần phải có một quyết sách đúng đắn, ổn định, nếu không mọi cố gắng đều là vô ích.

Khi bạn nói chuyện với người tuổi Ngọ, nhất định phải ngắn gọn rõ ràng, nếu không sẽ làm mất đi sự tập trung chú ý của anh ta. Bất luận có được hay không đều phải trực tiếp thẳng thắn bàn với anh ta, anh ta sẽ càng tán thưởng bạn hơn, và đánh giá cao sự thẳng thắn, thành khẩn quí trọng thời gian của bạn. Không nên áp chế quá mức tình cảm của người tuổi Ngọ, hễ bị áp đặt về tình cảm, anh ta sẽ nổi trận lôi đình, rũ áo bỏ đi ngay. Người tuổi Ngọ không thích ở bên những ai mà anh ta ghét, vật chất lụa là cũng chẳng thu hút nổi anh ta. Anh ta vạch rõ giới hạn, có chủ kiến tự do, rất khó phục tùng theo ý chí của người khác.

Anh ta vô cùng sôi động, kể cả khi cuộc sống đầy phiền muộn, anh ta sẽ mang đến ánh mặt trời cho cuộc sống ảm đạm của bạn. Nhưng sẽ có lúc, khi bạn đang nhớ lại chuyện ngày xưa, anh ta sẽ tức thời biến mất biệt tăm biệt tích, nhưng nếu đang định từ bỏ việc kiếm tìm, anh ta sẽ lại xuất hiện trước mắt bạn, phong độ tươi tỉnh như thể chưa bao giờ rời đi.

Người tuổi Ngọ khi làm việc chỉ mong mau mau chóng chóng hoàn thành nên cũng khá thiếu tính bền lâu, càng không thể chịu đựng được những khó khăn vất vả lâu dài, song lại có thể tùy cơ ứng biến, linh họat, giỏi biến hóa. Khi quay lại với mọi người, sẽ không trực tiếp phá cửa xông vào như người tuổi Thìn, mà đưa danh thiếp đến trước, hoặc gọi điện bàn bạc khi nào thuận tiện mới đến viếng thăm.

Suy nghĩ của anh ta rất phức tạp, rắc rối khiến người ta không đoán nổi những gì đang diễn ra trong đầu anh ta. Người tuổi Ngọ giống như người tuổi Thìn, muốn chỉ ra sai sót của anh ta thì quả vô ích. Anh ta tuy không tình nguyện tiếp nhận sự phê bình, song vẫn thờ ơ, nhún vai đáp: “Là lỗi của tôi, tôi sai?” Có lẽ lần sau bạn tiếp tục nhắc nhở lỗi lầm của anh ta, anh ta vẫm đảm bảo sẽ chú tâm hơn ngoài miệng mà thôi.

Thói quen ăn uống thất thường của người tuổi Ngọ khiến họ dễ mắc các bệnh về đường tiêu hóa. Bản tính lại không ung dung tự tại, nên khi kết quả công việc không được mỹ mãn, sẽ dễ bị căng thẳng, làm tổn hại đến thần kinh, mất ngủ.

Nữ giới sinh năm Ngọ thì sinh khí dồi dào, cử chỉ thanh nhã, trang điểm hợp thời, hoạt bát, ngón tay nhỏ nhắn, thân hình thon thả, song có thể làm quán quân trong giới thể thao, lái xe, hoặc là một phụ nữ suốt ngày kể lể, cằn nhằn luôn miệng.

Người nữ tuổi Ngọ là người ham hoạt động và cùng một lúc thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, họ là người lúc nào cũng bận rộn vì công việc. Cô ta có thể cùng một lúc sửa móng tay, xem ti vi, chăm sóc con cái và gọi điện thoại cho bạn bè. Cô cho rằng nghỉ ngơi thật là thừa, vì vậy hoạt động vui chơi giải trí của cô đối với chúng ta quả là hình thức lao động nặng nhọc hao phí tinh lực. Nếu có ai đề nghị đi leo núi, chỉ cần cho cô hai phút đeo ba lô, cô sẽ tiến bước trên con đường mệt nhọc đó.

Nữ giới tuổi Ngọ thích sắp đặt mọi chuyện đâu vào đó, cô có tinh lực sung mãn, nếu được, cô có năng lực xuất hiện tại các chỗ khác nhau. Đôi khi, người ta bàn tán, cô cạnh tranh với họ, bởi vì không ai trong số những người xung quanh có năng lực làm được nhiều việc đến thế, tốc độ đến thế giống như cô.

2.Tình yêu của người tuổi Ngọ

Người tuổi Ngọ vô cùng nhạy cảm với tình yêu. Họ dễ rơi vào lưới tình, nhưng cũng có thể thoát ra một cách nhẹ nhàng. Trong suốt cuộc đời, sẽ có nhiều chuyện kết thúc không mấy vui vẻ, có lẽ họ sẽ phải trải qua sự đổ vỡ trong hôn nhân. Trong chuyện tình cảm, những người tuổi Ngọ đôi khi mù quáng, họ thường có xu hướng không quan tâm tới bất cứ điều gì ngoài việc yêu hết mình.

Tuổi Ngựa vừa tình tứ lại vừa kín đáo khiến nên thường kẹt trong tình thế khó xử. Thế nhưng ái tình đến với tuổi này một cách dễ dàng, bởi lẽ tuổi Ngọ luôn tự mình phô bày hoặc quyến rũ người khác phái.

Họ thật biết cách khen ngợi người khác, nói những lời hay ý đẹp khiến người ta vui lòng, hơn nữa còn giàu lòng cảm thông, vì vậy rất được mọi người quí mến. Chỉ riêng về điểm này, họ đã có những thuận lợi nhất định trong tình yêu.

Nhưng dù có nhiều ưu điểm như vậy, song tuổi Ngọ vẫn gặp nhiều thất bại, đau khổ. Có thể họ vẫn chưa tìm thấy một người tình như ý, nên suốt ngày rầu rĩ lo lắng, luôn cảm thấy ưu thế, với khí chất tú lệ trời ban của mình, lẽ ra phải tìm được một đối tượng như mong muốn. Họ dành phần lớn thời gian quí báu cho những cuộc tìm kiếm vô nghĩa. Thực ra, chuyện thế gian thường là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng.” Trong tình yêu tuổi Ngọ nhiệt tình nhưng thiếu nhẫn nại, đôi khi còn không biết cách lấy lòng người yêu. Nhưng mặt khác, họ sẽ cảm thấy giá trị bản thân và ý nghĩa sinh tồn chính ở việc không đơn thuần chìm đắm trong tình ái yêu đương, họ hiểu rằng tình yêu là nhân tố quan trọng giúp bạn thành công.

Nữ giới tuổi Ngọ thường theo đuổi mẫu tình yêu hiện thực, họ thường cảm thấy trống trải, cô đơn, nếu có người xuất hiện với tư thế của một thiên thần hộ mệnh vĩ đại, họ sẽ chấp nhận không cần suy nghĩ. Mẫu đàn ông đầy nam tính, có tinh thần sẵn sàng hiến dâng, hi sinh bản thân mình là đối tượng tuyệt vời nhất của người nữ tuổi Ngọ.

Nữ tuổi Ngọ luôn theo đuổi một cuộc sống gia đình hoàn mỹ, sự quan tâm dịu dàng, ấm áp của họ sẽ khiến người chồng cảm phục. Nhưng họ cũng không yêu chồng một cách mù quáng, hễ phát hiện chồng chán và có ý định bỏ rơi mình, họ sẽ kiên quyết kết thúc hôn nhân, chứ không nhẫn nhục cầu toàn làm một đôi vợ chồng trên danh nghĩa.

Một số nam giới tuổi Ngọ rất vụng về. Muốn bày tỏ tâm tình thì càng khiến luống cuống tay chân, cho nên trước mặt người yêu thường nói năng ấp úng, chẳng ra đầu ra đũa gì cả. Họ đau đầu nhất với kiểu tình yêu lãng mạn, không biết phải bồi dưỡng khí chất lãng mạn cho bản thân thế nào, mà ngay cả khi đối phương chủ động, họ còn là chuyên gia tạo ra những cản trở một cách ngốc nghếch nhất.

Nam giới tuổi Ngọ tuy thời trai trẻ vụng về nhưng sau khi trưởng thành sẽ trở nên hoàn thiện, phong độ và được phái nữ sùng bái, ngưỡng mộ. Bởi vậy, sau khi kết hôn có thể anh ta sẽ đón hoa nhặt cỏ ở bên ngoài, nhưng vẫn phải nhớ quan tâm chăm sóc gia đình.

Ngoài ra nên chú ý, tuổi Ngọ thường đòi hỏi ở tình yêu nhiều cái mà ngay bản thân họ cũng không hiểu rõ. Điều này sẽ khiến phía bên kia rất khó chịu.

Nói chung, tuổi Ngọ hợp với tuổi Dần, tuổi Mùi và tuổi Tuất. Sự kết hợp này sẽ khiến đôi bên kính nhau như khách, thuận vợ thuận chồng. Tuổi Ngọ thường không thật hợp với tuổi Tý, tuổi Sửu, vì sẽ thường xuyên tranh cãi, ảnh hưởng đến tình cảm, nhưng sau thời trung niên đôi bên sẽ thích ứng với nhau.

Tình yêu của người tuổi Ngọ nhóm máu A

Người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu A thường có sức lôi cuốn, hấp dẫn với những người xung quanh đặc biệt là người khác giới. Khi còn trẻ, họ trải qua nhiều mối tình tuyệt vời. Song nếu đối mặt với sự chia tay, những người này cũng rơi vào trạng thái buồn chán trong thời gian dài. Khi gặp được "một nửa" thực sự, những người này rất chung tình. Mặc dù đôi lúc có những hiểu lầm nhưng bằng tình yêu chân thành và sự quan tâm chăm sóc ân cần sẽ khiến đối phương cảm động và quay về bên họ. Trong tình yêu, những người tuổi này khá thực tế, những giây phút lãng mạn dành cho người yêu chưa nhiều. Nếu "nửa kia" của họ có thể bỏ qua điều này thì hai người sẽ có một đám cưới hạnh phúc. Sau khi kết hôn, những người tuổi này vẫn thích có những khoảng trời tự do cho mình. Cả nam giới và nữ giới tuổi Ngọ thuộc nhóm máu A nên chọn những người bạn đời thật sự biết thông cảm và chia sẻ để có gia đình êm ấm.

Tình yêu của người tuổi Ngọ nhóm máu B

Tính cách cởi mở và phóng khoáng của người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu B luôn tạo được ấn tượng trong mắt bạn bè nhất là người khác giới. Tình yêu của họ cũng có thể được hình thành từ những mối quan hệ này. Với họ, tình yêu được thể hiện bằng những lời âu yếm, ngọt ngào. Tuy nhiên điều này có thể sẽ khiến người yêu khó cảm nhận được sự chân thành và niềm tin ở một nửa của mình. Một số người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu B thường thích kiếm tìm nhiều đối tượng ngay cả khi đã lập gia đình. Với họ mái ấm gia đình không phải là tất cả. Họ có thể tìm thấy nhiều niềm vui trong các mối quan hệ với người khác giới. Cũng chính điều này khiến cho cuộc sống vợ chồng của họ càng khó hòa hợp, hạnh phúc. Do chưa một lòng xây dựng hạnh phúc lứa đôi nên không ít người phải chia tay bạn đời và tiến đến một cuộc hôn nhân khác. Tuy nhiên, ngay cả khi bước tiếp trên con đường tình, hạnh phúc cũng chưa hẳn đã mỉm cười với họ. Quan niệm sống đúng đắn và coi trọng giá trị của đời sống gia đình có thể sẽ giúp họ dễ dàng tìm đến bến bờ hạnh phúc hơn.

Tình yêu của người tuổi Ngọ nhóm máu AB

Người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu AB thường là người có tâm hồn bay bổng, giàu trí tưởng tượng. Chính vì vậy nên họ luôn mơ đến một không gian lãng mạn và đẹp đẽ, hai người cùng say mê đắm chìm trong hương vị ngọt ngào của tình yêu. Tuy nhiên, khi gặp được "một nửa" mà mình đang kiếm ở ngoài đời thực thì họ lại cảm thấy buồn vì người này khác xa với người trong mộng. Cũng chính vì lý do này mà họ thản nhiên chia tay với nửa kia và đi tìm tình yêu mới. Điều này có thể sẽ làm đối phương đau khổ, buồn chán nhưng cũng có nhiều trường hợp, "nửa kia" tự rút lui mà người tuổi Ngọ cũng không cảm thấy đau khổ hay buồn chán. Khi yêu, họ cũng sẽ thổ lộ tất cả tình cảm thầm kín của mình với đối phương và công khai mối quan hệ với mọi người xung quanh. Họ cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc khi chuyện tình của họ được nhiều người biết đến. Những người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu này có tính cách phóng khoáng, không thích bị bó buộc, thậm chí nhiều người còn không mấy hứng thú với cuộc sống hôn nhân, gia đình. Chính vì vậy, nhiều cặp vợ chồng chỉ có được hạnh phúc trong thời gian đầu, càng về sau hôn nhân của họ càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Để duy trì mái ấm gia đình, những người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu này nên tìm những người bạn đời có tính cách tương đồng với mình. Có vậy gia đình mới hy vọng có được hạnh phúc bền vững, dài lâu.

Tình yêu của người tuổi Ngọ nhóm máu O

Trong suy nghĩ của người phương Đông, những người tuổi Ngọ thường nhanh trí, thích tự do, phóng khoáng; không thích bị sắp đặt, bó buộc trong bất kì việc gì. Người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu O cũng vậy. Họ làm việc gì cũng linh hoạt, nhanh nhẹn và có khả năng chi phối những người xung quanh. Trong tình yêu, những người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu O tính tình cởi mở nên họ rất dễ yêu, thậm chí "yêu từ cái nhìn đầu tiên". Khi đối phương nhận lời yêu, họ sẵn sàng công khai mối quan hệ đó trước mọi người. Tuy nhiên, nhiều người trong số đó cũng nhanh chóng chia tay "bạn tình" của mình nếu có nhiều điểm không phù hợp. Về hôn nhân, những người này không muốn bị trói buộc bởi cuộc sống gia đình. Sau khi kết hôn, họ vẫn muốn người bạn đời tôn trọng khoảng trời riêng của họ. Tuy nhiên sau khi có con, những ông bố, bà mẹ tuổi này sẽ chuyên tâm chăm lo cho gia đình hơn. Nam giới tuổi Ngọ nhóm máu O nên chọn bạn đời là những người phụ nữ trầm tính, hiền thục. Với nữ giới, họ nên gắn bó với những người đàn ông độ lượng, có chí tiến thủ. Sự kết hợp này sẽ mang lại cho họ cuộc sống gia đình hạnh phúc.

3. Sự nghiệp của người tuổi Ngọ

Doanh nhân tuổi Ngọ là những người có chí tiến thủ, giàu tinh thần tự lập tự cường. Đây cũng là những người dũng cảm, không ngại gian khổ và thử thách. Trong quan hệ làm ăn, doanh nhân tuổi Ngọ khá chân thành, đáng tin cậy. Họ luôn giữ chữ tín với bạn hàng. Họ cũng không ngại khi phải đối mặt với hiểm nguy để giải quyết vấn đề nếu có sự cố nảy sinh. Doanh nhân tuổi Ngọ là những người nhanh nhạy trong cả lời nói và hành động. Họ giỏi quan sát thị trường cũng như nắm bắt sự biến động của nó để tìm ra hướng đi đúng cho công việc của mình. Họ cởi mở, vui tính, thích sự tự do và luôn muốn được làm việc theo sở thích. Nhược điểm của doanh nhân tuổi Ngọ là thiếu kiên nhẫn, thường "đứng núi này trông núi nọ". Nữ doanh nhân tuổi Ngọ là người ham hoạt động. Họ cũng có khả năng đảm nhiệm và thực hiện nhiều công việc khác nhau trong cùng một thời gian.

Thuở nhỏ, người tuổi Ngọ thường gặp nhiều hoạn nạn, trắc trở, hoàn cảnh cuộc sống cũng không thật tốt. Vì thế nên thời kì thanh niên sau này của bạn cũng bị ảnh hưởng. Thời thơ ấu, bạn gày gò ẻo lả nên hay có bệnh tật, cha mẹ bạn có thể vì những trăn trở của cuộc sống nên không săn sóc bạn được, thiếu sự quản giáo của cha mẹ nên bạn thường gây ra những rắc rối nhỏ, chẳng hạn như bị thương ở tay chân… Khiến cha mẹ giật mình.

Còn đến thời kỳ thanh niên, những vấn đề khó khăn bạn phải đối mặt cũng rất nhiều, chẳng hạn như học hành, xin việc. .. thường khiến bạn cảm thấy mọi việc mới gian truân làm sao. Đến thời trung niên bạn cũng hay gặp những trắc trở tương tự, vì thời trẻ bạn thường rời xa gia đình, kiếm tìm lý tưởng ở bên ngoài, những thất bại liên tiếp khiến bạn càng thất vọng hơn nữa. Nhưng tuổi già của bạn khá êm đềm hạnh phúc.

Nói tóm lại cuộc đời người tuổi Ngọ nhiều biến động, sóng gió, nguyên nhân cơ bản là do tính cách của bạn tạo nên.

Về mặt tài vận, vì bạn thường nỗ lực và có nhiều hoạt động tích cực, nên bạn không phải lo lắng quá nhiều về chuyện tiền bạc, đó là nhờ các mối quan hệ ngoại giao rộng, thái độ viên mãn về cuộc sống… đã đem lại phúc tài cho bạn.

Tuy nhiên, bạn không kiếm tiền dựa vào các phương pháp thiết thực và ổn định, cũng không lợi dụng các khoản đầu tư kinh tế để làm giàu. Bạn dựa vào các mối hệ ngoại giao của bạn, làm việc nhờ môi giới, rất thiếu tính ổn định và không đáng tin cậy. Nên bạn không có nguồn thu nhập cố định, thậm chí còn chịu cảnh túng thiếu.

Trong suốt cuộc đời, bạn đạt được nhiều thành công và cũng không ít thất bại, mọi thứ đều dễ biến đổi. Bởi vậy, bạn nên hiểu rõ cái vận thế lên nhanh xuống mau của bạn. Nếu bạn lơ là, thiếu thận trọng giây lát, rất có khả năng khiến bạn phá sản, thậm chí chẳng còn đất dung thân. Bạn phải thận trọng hơn nữa. Chỉ cần bạn kịp thời nắm chắc bản thân, nắm chắc thời cơ, thành công ở ngay trước mắt bạn.

4. Vận mệnh người tuổi Ngọ với tháng sinh

Sinh tháng Giêng

Tiết Đầu xuân, tinh thần sảng khoái, rồng bay phượng múa, mênh mông cuồn cuộn, tốt tươi bời bời nhưng tuyết sắp tan, ám khí sẽ lan tỏa, ăn lương thực tích lũy của tổ tông, cả đời ít có cơ hội nếm lương thực mới. Là người phẩm cách đoan chính, kín đáo ít lời, thích kết giao bạn bè, thích vui vẻ nhộn nhịp.

Sinh tháng hai

Tiết Kinh trập, là người rõ ràng, ngăn nắp, vạn vật tốt tươi, được ăn rau non lương thực mới, song khó tránh hoạn nạn mưa gió bão bùng, giữ gìn chính đức, không có đại nạn, bản tính thông minh hơn người, ngao du khắp nơi, không chịu bó buộc, thích tự do tự tại.

Sinh tháng ba

Tiết Thanh minh, mây tan mưa tạnh, diễu võ dương oai, chí khí cao ngất, tuy có khó khăn hoạn nạn nhưng là anh dũng hào kiệt, đảm lược hơn người, được kính trọng, ngưỡng mộ, sống chan hòa, xa yêu gần mến, mưu sự thành công, thi cử ắt đỗ đầu, bảng vàng đề danh.

Sinh tháng tư

Tiết Lập hạ, ắt có cơ hội vào nơi nước sôi lửa bỏng, trách nhiệm nặng nề, vất vả ngược xuôi, không ngày nghỉ ngơi, tiền đến tiền đi, bận rộn long đong, một đời âu lo nhọc nhằn, không được ai giúp, phiền muộn u sầu, cuối tháng sẽ có ngày thành công, cuối đời hạnh phúc.

Sinh tháng năm

Tiết Mang chủng, có nhà cửa mới nhưng vẫn giữ được qui mô của tổ tông, sáng cơ lập nghiệp, vất vả đắng cay, gia đạo hưng thịnh, phúc lộc dồi dào, nuôi người khác họ, có được lộc người, chồng nhờ phúc vợ.

Sinh tháng sáu

Tiết tiểu thử, cơm canh đạm bạc, ăn mặc không đủ dùng, vất vả lao đao, cả đời mệt mỏi, lo nghĩ nhiều về chuyện ngoài ý muốn, họa phúc đan xen, lao tâm khổ tứ, mưu sự không thuận, về già được bình an.

Sinh tháng bảy

Tiết Lập thu, mát mẻ dễ chịu, không suy không họa, mẫn cảm hơn người, thông minh tuyệt đỉnh, gia đình thanh đạm, ôn nhu nho nhã, tinh thông nghệ thuật, có chí hơn người, sẽ đến ngày được quí nhân giúp, có sức hấp dẫn mạnh, tinh thần dồi dào,vạn sự như ý, cả đời không có hoạn nạn lớn, miệng lưỡi thị phi, kiện tụng cửa quan, thanh nhàn êm ả, an lành ít lo âu.

Sinh tháng tám

Tiết Bạch lộ, cơ trí mưu lược hơn người, văn võ kiêm toàn, mạnh dạn can đảm, khéo léo tài tình, đức cao vọng trọng, tình cảm ôn hòa, có chí khí, mưu sự dần dần sẽ thành công, thẳng tiến về phía trước, leo từng nấc thang, cát tường vô tận, thị phi đúng sai chia đôi, tuấn tú tài năng, anh hùng hào kiệt.

Sinh tháng chín: Tiết Hàn lộ, tài năng trí lực kiêm toàn, song ý chí không kiên cường, không làm mà thành, an nhiên tự tại, hưởng phúc nhàn nhã, không có quyền lực, ăn nhờ ở đậu người ta, không có tính tự lập, hiếu học ham hiểu biết nhưng hễ thất bại là nản lòng buồn bã, cô đơn bi ai.

Sinh tháng mười

Tiết Lập đông, thoạt đầu vất vả lao đao, về sau sẽ được hạnh phúc, nhưng biến đổi bất ngờ, vừa là người góp công trừ nạn, vừa là kẻ thất bại long đong. Là anh hùng hào kiệt xưa nay, bản tính nghĩa hiệp can trường, chỉ có điều thiếu nhẫn nại nên mưu chuyện khó thành, một đời bình bình vậy.

Sinh tháng mười một: Tiết Đại tuyết, trời lạnh băng tuyết phủ dày, khó đi lại, giá rét căm căm, trắc trở lao đao, có công phò chủ, tuy có lộc trời ban, song vẫn thanh đạm, trằn trọc rơi lệ, nào ai hiểu cho chạy ngược chạy xuôi, lao tâm khổ tứ, cuối cùng cũng được bình an.

Sinh tháng mười hai: Tiết Tiểu hàn, cả đời rất nhiều chuyện phiền não, chẳng có ngày thảnh thơi, tuy có cái ăn cái mặc, song cũng vất vả, trời lạnh mặt đất phủ đầy băng, không thể không xuôi ngược,vất vả trèo non lội suối, cũng là điều vui trong nỗi khổ vậy, không nên mò trăng đáy nước, của Cesar lại về với Cesar thôi.

5. Người tuổi Ngọ và vận mệnh

Tuổi Canh Ngọ - Ngựa trong nhà (Lộ bàng thổ)

Đa số người tuổi Ngọ mệnh Thổ thường khá hoạt bát, năng động, có ý chí gây dựng sự nghiệp. Tuy nhiên, không ít người trong số họ lại thiếu thực tế khi xây dựng kế hoạch cho tương lai. Họ đề ra mục tiêu quá lớn, vượt ngoài năng lực thực tế của bản thân. Mang tính cách chung của người tuổi Ngọ, họ thích sự tự do. Họ còn là người thành thật và đáng tin cậy. Tuy rất có chí hướng nhưng nhược điểm của họ là không hết mình trong công việc. Một số người có tâm lý đợi thời cơ đến với mình, vì thế ít chịu chủ động trong công việc và cuộc sống. Nếu được sao tốt tương trợ, họ có thể vượt qua mọi khó khăn để rèn luyện bản thân, xác lập chí hướng và có được cả danh lẫn lợi. Nếu không được sao tốt chiếu mệnh, họ thường khá lúng túng khi đối mặt với khó khăn trong cuộc sống.

Tuổi Nhâm Ngọ - Ngựa trong quân (Dương liễu mộc)

Họ thường rất lạc quan, có chí tiến thủ, biết lập ra được những kế hoạch lâu dài và sẽ cố gắng hết sức để theo đuổi mục tiêu. Tuy nhiên, rất có thể họ sẽ chuyển hướng sang một mục tiêu, kế hoạch khác mà họ cho là "hoành tráng và thực tế" hơn. Căn bệnh “đứng núi này trông núi nọ” đôi khi sẽ gây bất lợi cho họ. Người tuổi Ngọ mệnh Mộc vốn tài trí, giỏi giao tiếp có sức khỏe tốt. Họ sẽ trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý nhờ vào sự hào phóng và khảng khái của mình. Họ cũng thích trở thành những người đi đầu nên có thể sẽ tỏ ra quá lãng phí, xa hoa trong cuộc sống chỉ với mục đích khiến mọi người phải biết đến và ngưỡng mộ mình. Đây là người rất giỏi xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Trong nhiều trường hợp, họ thường đóng vai trò là cầu nối giữa mọi người. Đáng tiếc là họ thiếu tính kiên nhẫn nên thường để lại ấn tượng với người xung quanh rằng họ là người rất hay thay đổi, thiếu kiên định. Đa số người tuổi Ngọ mệnh Mộc không thích bị người khác chi phối. Họ luôn mong muốn có một cuộc sống tự do, tự tại. Họ biết quan tâm đến người khác nên cũng được rất nhiều người yêu mến. Là người có chí lớn, nếu được sao tốt tương trợ người tuổi Ngọ mệnh Mộc sẽ sớm lập được nhiều thành tích nổi trội. Tuy nhiên, nếu không được sao tốt tương trợ thì cuộc sống gia đình họ sẽ gặp nhiều khó khăn.

Tuổi Giáp Ngọ - Ngựa trong mây (Sa trung kim)

Đây là người sống tích cực, tác phong nhanh nhẹn, dũng cảm, thu hút được sự chú ý của mọi người giữa đám đông. Họ có nhân duyên tốt, sống nhiệt tình, phóng khoáng, thích theo đuổi người khác giới và cũng tạo được sự hấp dẫn đối với người khác phái. Họ sống tình cảm và có khả năng cảm nhận phong phú, khí phách kiên cường, có thể dấn thân vào những thử thách, khám phá mới lạ. Họ cũng là người thích thể hiện sự yêu ghét phân minh: sẽ luôn đền đáp nếu nhận được ân huệ của người khác và không ngại đáp trả nếu bị người khác làm hại. Người tuổi Ngọ mệnh Kim có nhiều bạn tốt, trong đó có nhiều bạn tri kỷ là người khác giới. Cho dù gặp phải khó khăn, trắc trở trong cuộc sống, họ vẫn có thể vượt qua và nhanh chóng lấy lại được sự tự tin. Với cá tính hoạt bát, sống hướng ngoại, họ sẽ không theo đuổi các công việc đơn điệu, nhàm chán. Nếu không được sao tốt tương trợ, người tuổi Ngọ mệnh Kim thường khá nóng tính, không biết gây dựng và giữ gìn các mối quan hệ xã hội, cuộc sống gặp nhiều trắc trở. Nếu được sao tốt tương trợ, họ sẽ là người thành công trong cuộc sống và sự nghiệp.

Tuổi Bính Ngọ - Ngựa trong chuồng (Thiên hà thủy)

Họ là người có khả năng quan sát tài tình, nhất là trước những sự vật, sự việc mới. Họ cũng có đầu óc kinh doanh khá nhạy bén và linh hoạt, luôn đưa ra được những ý kiến độc đáo đối với công việc làm ăn hoặc vấn đề quản lý. Tính cách cởi mở và quyết đoán là 2 yếu tố quan trọng dẫn đến thành công của họ. Người tuổi Ngọ mệnh Thủy có đời sống tinh thần phong phú, có lý tưởng cao đẹp và không sợ khó khăn, gian khổ. Họ thích được tự sắp xếp công việc của mình, luôn phấn đấu để có địa vị cao trong xã hội. Họ cũng luôn muốn hình ảnh của mình thật đẹp trong mắt người khác. Một số người tuổi Ngọ mệnh Thủy có tính cách hai mặt hoàn toàn trái ngược nhau. Họ cẩn trọng, khiêm tốn tại nơi đông người nhưng khi ở một mình, họ có thể làm những việc... không giống ai. Họ thích có địa vị xã hội, thích hình ảnh của mình được nâng lên trong mắt người khác. Họ thích được tự sắp xếp cuộc sống của mình và sẽ đề ra những yêu cầu rất cao đối với chất lượng cuộc sống. Cho dù công việc có bận đến đâu thì họ cũng phải lên lịch cho mình và gia đình những chuyến du lịch hoặc hoạt động cố định để cân bằng và giải tỏa áp lực. Họ luôn giữ tính cách lạc quan và hài hước. Vì thế, cho dù trong lòng có chuyện buồn nhưng trước mặt người khác họ vẫn tỏ ra vui vẻ. Nhìn chung, người tuổi Ngọ mệnh Thủy có đời sống tinh thần phong phú và thoải mái; có hiểu biết rộng, có lý tưởng sống cao đẹp và không ngại khó khăn, gian khổ.Nếu được sao tốt tương trợ, họ có thể tạo dựng được sự nghiệp đáng kể. Ngược lại, họ khó có được cơ hội để phát huy năng lực của mình.

Tuổi Mậu Ngọ - (Thiên thượng hỏa)

Họ là người hào phóng, thích tự do tự tại, ưa mạo hiểm, thích một cuộc sống có nhiều thay đổi. Vì thường xuyên tìm kiếm những cảm giác mới lại nên họ cũng là những người thích trêu chọc moi người để tạo nên sự vui vẻ, hòa đồng. Người tuổi Ngọ mệnh Hỏa vốn nhiệt tình, hào phóng và độ lượng, có uy tín với bạn bè. Họ thích những gì đẹp đẽ và thường chọn những bộ trang phục, trang sức cầu kỳ, thu hút được sự chú ý của mọi người. Họ luôn muốn mình trở thành người có phong cách và cá tính độc đáo trong mắt người khác. Người này có khả năng quan sát và lập kế hoạch rất tốt, làm việc khá cẩn trọng và nghiêm túc. Cá tính của họ khá đa dạng và đây chính là điểm thu hút sự chú ý của mọi người nhiều nhất. Vì vậy, họ có thể thử nghiệm trong nhiều công việc khác nhau để tích lũy thêm nhiều kiến thức, kỹ năng chuyên ngành. Sức mạnh của Hỏa khiến cho người này luôn có sự kết hợp chặt chẽ giữa lời nó và việc làm. Họ luôn coi trọng hiệu quả công việc và thường hoàn thành nhanh chóng nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. Tuy nhiên, họ lại thích một công việc có nhiều thay đổi và biến động mà không bị người khác chi phối. Vì vậy, họ sẽ cố gắng tìm kiếm nhiều thử thách mới. Công việc càng có nhiều thử thách thì họ lại càng hứng thú hơn. Lời khuyên cho người tuổi Ngọ mệnh Hỏa là: cần chú ý để không tiếp nhận những phần việc ngoài khả năng của mình, nếu không sẽ khó tránh khỏi thất bại. Nhìn chung, nếu được sao tốt tương trợ, người tuổi Ngọ mệnh Hỏa cho dù không trở thành những nhà lãnh đạo quyền cao chức trọng thì cũng sẽ trở thành những doanh nhân nổi tiếng. Nếu gặp phải sao xấu trong cung mệnh thì rất có thể họ sẽ rơi vào cảnh tha hương hoặc nhiều chuyện thị phi trong gia đình.

6. Chọn đối tác kinh doanh

Giáp Ngọ: Nam giới nên chọn Giáp Ngọ, Bính Thân, Kỷ Hợi; Nữ giới nên chọn Giáp Ngọ, Bính Thân, Nhâm Dần.

Bính Ngọ: Nam giới nên chọn Bính Ngọ, Tân Hợi, Ất Mão; Nữ giới nên chọn Bính Ngọ, Tân Hợi, Nhâm Tý.

Mậu Ngọ: Nam giới nên chọn Kỷ Mùi, Quý Hợi, Ất Sửu, Đinh Mão, Đinh Tỵ, Ất Mão; Nữ giới nên chọn Kỷ Mùi, Quý Hợi, Ất Sửu.

Canh Ngọ: Nam giới và nữ giới đều chọn Tân Mùi, Giáp Tuất, Đinh Sửu.

Nhâm Ngọ: Nam giới nên chọn Giáp Thân, Bính Tuất, Canh Thìn; Nữ giới nên chọn Giáp Thân, Bính Tuất, Canh Dần

7. Tương hợp và xung khắc giữa người tuổi Ngọ và các tuổi khác

Tuổi Ngọ và tuổi Tý 

Ngọ và Tý là một cặp khá thú vị. Đối lập trên vòng tròn con giáp, quan hệ của họ khó có thể tránh khỏi sự mâu thuẫn. Về bản chất, họ đều là những người thích giao lưu, thích bay nhảy, rất hóm hỉnh và năng động. Tuy nhiên, nếu như những người tuổi ngựa có nhu cầu sống độc lập thì tuổi chuột lại chú trọng đến tình bạn, và khá tình cảm. Khi dấn sâu vào một mối quan hệ, tuổi ngựa đôi khi cảm thấy như bế tắc và chật chội không gian, còn tuổi chuột thì luôn có nhu cầu tìm hiểu và kiểm soát đối phương.

Nói chung, tuổi chuột khao khát được quan tâm, bày tỏ tình yêu và họ không tiếc điều gì để nuôi dưỡng cuộc tình. Vì thế, nếu yêu người tuổi ngựa, tuổi chuột có thể sẽ không được mãn nguyện vì tuổi ngựa không toàn tâm toàn ý cho tình cảm. Quan điểm về tài chính cũng không được hòa hợp, "chuột" rất biết tích trữ làm giàu, trong khi "ngựa" dường như chỉ biết đến hiện tại. Lo lắng cho tương lai dường như là một thứ xa xỉ với họ.

Tuy nhiên, về phương diện kinh doanh, Ngọ và Tý có thể tạo nên một cặp ăn ý một khi họ chấp nhận sự khác biệt của nhau. Tuổi Tý có con mắt nhìn xa trông rộng, nên họ hoạch định chiến lược cực tốt. Tuổi Ngọ không có tầm bao quát, nhưng một khi đã có định hướng rõ ràng, họ triển khai rất hiệu quả. Họ hoàn toàn có thể kết hợp làm ăn lâu dài, miễn là người tuổi ngựa không đứng núi này trông núi nọ.

Nếu hai tuổi này phải lòng nhau, họ sẽ bắt sóng đối phương rất nhanh. Từ lúc hai ánh mắt va nhau đến khi họ nói tiếng yêu có thể chỉ mất một tháng, nhưng về lâu về dài, tình cảm rất dễ phai nhạt. Dẫu vậy, cuộc tình của họ sẽ rất thú vị bởi sự bất định về tính cách của đôi bên.

Tuổi Ngọ và tuổi Sửu 

Người cầm tinh con Ngựa thấy rất khó chịu nếu không đi đây đi đó vì Ngựa ít khi sống chung với cảnh tù túng, đơn điệu. Điều đó ngược hẳn với tính cách của người tuổi Trâu. Tuổi Sửu và Ngọ có rất nhiều điểm tương phản nhau. Có những lúc dường như họ không còn đủ kiên nhẫn với nhau bởi sự trái ngược hiện ra thật rõ nét. Trong khi tuổi Sửu nhút nhát, bảo thủ và thích sự ổn định thì tuổi Ngọ lại thích tự do, thích đi du lịch và thích sự khám phá cuộc sống mới.

Người cầm tinh con Ngựa thấy rất khó chịu nếu không đi đây đi đó vì Ngựa ít khi sống chung với cảnh tù túng, đơn điệu. Điều đó ngược hẳn với tính cách của người tuổi Trâu bởi quanh quẩn bên ngôi nhà thân yêu là sở thích khó thay đổi của tuổi này.

Nếu Ngựa và Trâu yêu nhau thì đây chưa phải là mối quan hệ lý tưởng. Bởi Ngựa nhiều khi thấy Trâu nhàm chán và đơn điệu, trong khi tuổi Ngựa lại thích khám phá những điều mới và thích đi nhiều nơi. Tuy nhiên, hai con giáp này cũng bổ sung một số điểm cho nhau. Đôi khi Ngựa cũng rất chiều và khâm phục tính cách kiên nhẫn, sự chịu đựng và yêu gia đình đáng quý của tuổi Trâu. Tuổi Trâu cho tuổi Ngựa thấy được giá trị bền vững của tình yêu chân thực. Đặc biệt là khi Ngọ gặp khó khăn hoặc căng thẳng, Sửu luôn dịu dàng và nhẹ nhàng giúp Ngọ vượt qua thử thách.

Khi là đối tác kinh doanh, hai “hành tinh” này thành công hay thất bại phụ thuộc chủ yếu vào con đường mà tuổi Ngựa chọn. Bởi tuổi Ngựa luôn thay đổi và có nhiều hướng đi. Tuy vậy, tuổi Ngọ khá chăm chỉ, điều này khiến tuổi Sửu đánh giá rất cao. Họ sẽ kết hợp rất ăn ý khi tuổi Sửu ủng hộ và đi cùng đường với tuổi Ngọ.

Tuổi Ngọ và tuổi Dần 

Tuổi Ngọ và Dần dường như là một cặp trời sinh, bởi họ có khá nhiều điểm tương đồng: cùng lạc quan, dí dỏm và đầy nhiệt năng. Khi đi với nhau, thì dù là bạn bè, người yêu, hay đối tác làm ăn, họ đều có thể hòa hợp viên mãn. Không chỉ thế, khi hai “hành tinh” này hút nhau, họ còn tạo nên một quỹ đạo lớn với các vệ tinh quay xung quanh - là cả nhóm bạn đa dạng.

Không nghi ngờ gì nữa, người tuổi Hổ sẽ lãnh đạo nhóm này, nhưng tuổi Ngựa sẽ chỉ phụ họa chứ không ăn theo, vì bản chất người tuổi Ngựa là độc lập. Khi chỉ có “hai mình”, sẽ không có ai là thủ lĩnh nữa, vì cả hai đều cùng quan điểm sống, cùng một tầm nhìn chung.

Sự yêu đời và tính sáng tạo giúp đôi uyên ương luôn có thể refresh mối quan hệ của họ. Tuổi Ngựa có xu hướng hãm phanh yêu nếu đối phương đòi ràng buộc, nhưng họ không phải lo sợ điều này ở tuổi Hổ. Cả hai đều nhất trí rằng mỗi người đều có khoảng trời riêng, có thể du hý nơi này nơi khác mà nhất thời không phải quan tâm đến nửa còn lại. Làm bạn tình, họ thực sự đưa nhau đến những miền đất hứa, nhưng có vẻ như cái suy nghĩ “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt” quá mạnh, nên đôi bên khó có thể kéo dài cuộc tình.

Về phương diện kinh doanh, Hổ và Ngựa có thể hợp tác tốt. Họ sẽ tạo nên một môi trường làm việc hứng thú, vui vẻ và năng động. Công việc sẽ tăng trưởng tốt nhờ vào những sáng kiến tốt đẹp và tư duy luôn đổi mới. Tất nhiên, trong công việc, người tuổi Hổ nên đóng vai trò chỉ đạo, và phải để mắt tới tuổi Ngựa vì họ rất dễ “nhảy việc”.

Tuổi Ngọ và tuổi Mão 

Nếu Ngọ tìm được sự cân bằng giữa những điều mình mong muốn và hỗ trợ Mão lúc cần thiết thì Mão sẽ dành rất nhiều tình cảm ưu ái cho người mình yêu. Mão và Ngọ sẽ cần cùng nhau cố gắng thật nhiều để xây dựng mối quan hệ hai người luôn dung hòa và vui vẻ. Trong những nỗ lực này thì Mão sẽ đóng góp nhiều hơn. Bởi bản chất con người tuổi Mão vốn lý tưởng hóa và dành nhiều tâm sức hơn để xây dựng mối quan hệ. Người cầm tinh con Mèo vốn là mẫu người nhiệt tình và thấu hiểu người khác. Điều này khiến người tuổi Ngựa rất hài lòng. Tuy nhiên, tuổi Ngọ thích bay nhảy, thích khám phá và thích đi đó đi đây. Chỉ ngồi một chỗ thì quả là điều rất khó với Ngựa trong khi quanh quẩn trong gia đình với những người thân là điều rất tuyệt với Mão. Ngựa thông minh, quyến rũ và thích đi nhiều nơi nhưng lại chẳng thích gắn bó lâu dài với những nơi mình đến bởi Ngựa luôn có tâm lý tìm “một đồng cỏ xanh tươi ấm áp hơn”.

Nếu Mão và Ngựa là một cặp uyên ương, cả hai cần cùng điều chỉnh để tình yêu thêm thắm đượm. Tuổi Mão vốn nhút nhát, rụt rè nên luôn cần sự hỗ trợ, bảo vệ của những người thân, đặc biệt là người yêu của mình. Với Ngọ thì đây là điều không dễ thực hiện bởi Ngọ vốn thích tự do và là mẫu người khó đoán trước. Tuy nhiên, nếu Ngọ tìm được sự cân bằng giữa những điều mình mong muốn và hỗ trợ Mão lúc cần thiết thì Mão sẽ dành rất nhiều tình cảm ưu ái cho người mình yêu. Mâu thuẫn xảy ra giữa hai hành tinh này nếu Ngọ tỏ ra chẳng còn hứng thú gì với mối quan hệ của hai người và thỏa mãn tính thích tự do.

Khi là đối tác kinh doanh, Mão và Ngọ cần một bên thứ 3 để giúp cho mối quan hệ của hai người êm đẹp. Ngựa làm việc chăm chỉ và lập kế hoạch tốt nhưng rất dễ nản và bỏ cuộc. Còn Mão hay áp dụng ý kiến chủ quan vào công việc kinh doanh, hơn nữa kỹ năng về tài chính và các vấn đề khác chưa đủ vững. Bởi vậy rất cần một nhân vật thứ 3 nào đó xuất hiện để cùng hỗ trợ hai người.

Tuổi Ngọ và tuổi Thìn 

Ngựa và Rồng luôn có những tiếng cười sảng khoái khi ở bên nhau, họ rất năng động, đầy nhiệt thành. Về mặt tinh thần, họ đều trân trọng những giây phút thăng hoa và luôn mỉm cười đón chào ngày mới. Cả hai đều không có ý định ổn định lâu dài, và tất nhiên, người tuổi Ngọ có vẻ “mải chơi” hơn.

Nếu Ngựa và Rồng để ý đến nhau, họ sẽ chuyển từ tình bạn sang tình yêu nhanh chóng. Cả hai đều bị cơn lốc tình ái cuốn phăng, và khi đã "say nắng" thì họ chẳng còn biết trời đất trăng sao gì nữa. Dẫu vậy, họ có rất nhiều bạn chung và sẵn sàng đi chơi với cả hội chứ không nhăm nhe “đánh lẻ”. Nhưng cũng vì vậy mà bạn bè thường nhìn đôi uyên ương với ánh mắt ghen tị, thèm muốn sự hài hước, cá tính và hòa hợp của họ. Nhìn bề ngoài, tuổi Ngựa có vẻ tự tin ngang với Rồng, nhưng thực chất, họ cảm thấy hơi đuối một chút trước con giáp này.

Trong làm ăn, Ngựa và Rồng sẽ có khối việc để làm, nếu lập công ty chung, công ty của họ sẽ “liên tục phát triển”. Bản chất tuổi Ngọ là rất hay bay nhảy, và không tập trung làm việc gì tới nơi tới chốn, và chính người tuổi Rồng sẽ giúp họ tìm được sự hứng khởi trong những công việc tưởng như nhàm chán. Nhìn chung, tuổi Rồng thì may mắn trong kinh doanh, tuổi Ngựa lại có tài làm ăn, họ chắc chắn sẽ tạo nên một đế chế thịnh vượng.

Tuổi Ngọ và tuổi Tỵ

Theo con giáp thì hai tuổi này không hợp nhau, bởi tính cách họ khá khác biệt. Nếu như tuổi Ngựa lúc nào cũng tràn trề sinh lực, lúc nào cũng sẵn sàng cho mọi cuộc vui thì tuổi Tị lại có sức ì khá cao và là người hướng nội.

Nếu yêu nhau, đôi uyên ương có thể cãi cọ hàng ngày. Ban đầu, bởi tuổi Rắn khá cuốn hút và gợi cảm, nên tuổi Ngựa rất dễ bập vào. Nhưng sức hút của tuổi Rắn chỉ nằm ở ngoại hình, và nếu không có “chiêu” mới, thì tuổi Ngựa rất dễ chán và đi tìm “đồng cỏ” khác. Tệ hơn, tuổi Rắn có xu hướng thích chiếm hữu khi yêu, mà điều này là tối kỵ với người tuổi Ngựa.

Nếu hợp tác làm ăn, đôi bạn này có thể sẽ không cặp với nhau lâu dài. Tuổi Ngựa cả thèm chóng chán, bất kể ai thân thiết cũng có thể nhận thấy rõ điều này ở họ. Họ sẽ lao phăm phăm vào công việc khi mọi thứ còn mới mẻ, nhưng đừng chờ đợi sự hào hứng đó trong khoảng thời gian dài. Rõ ràng, tuổi Ngựa sẽ thấy tuổi Rắn có phần nhạt nhẽo vô vị, trong khi tuổi Tị bực mình vì sự thờ ơ, thiếu tập trung của Ngựa.

Tuổi Ngọ và tuổi Ngọ

Cùng một con giáp, hai người tuổi Ngựa có mối liên hệ tâm linh nào đó. Ngay khi gặp lần đầu, họ đã có thể đã bắt được sóng của đối phương. Họ “nhập cuộc” nhanh chóng bởi tâm hồn hai người thực sự đồng điệu, cùng ham mê khám phá và chán cảnh kết hôn. Họ rất biết tận hưởng cuộc sống, thông minh, tế nhị và hiểu biết, vì thế, khi tạo thành một cặp, niềm vui của họ như được nhân đôi. Tuy nhiên, không phải là giữa hai người không có trở ngại nào. Bản chất tuổi Ngựa là thích gây sự chú ý, vậy nên hai người có thể tranh nhau làm cái rốn của vũ trụ. Nếu một trong hai người có cảm giác mình chỉ là cái bóng của nửa kia, rất có thể họ sẽ tự đi tìm hào quang riêng của mình.

Khi tình yêu nồng đượm, hai người rất biết cách làm cho nhau hạnh phúc. Họ khiến đối phương như được lên mây với những món quà lãng mạn và những lời nói có cánh. Nhưng hãy nhớ, Ngựa bí ẩn nhất trong số 12 con giáp, bạn không thể đoán trước được họ suy nghĩ hay hành động thế nào. Bất kể làm gì: yêu, làm việc, chơi… họ đều chóng chán, và cá tính này thể hiện ở cả hai người thì đôi uyên ương khó lòng tránh khỏi một kết thúc không có hậu.

Nếu hợp tác làm ăn, họ sẽ phải cam kết ràng buộc rõ ràng ngay từ đầu. Bởi tuổi Ngựa rất chăm chỉ và thông minh, chẳng khó khăn gì để công việc của họ phát triển nhưng họ cũng dễ thay đổi mục tiêu. Một công ty được hai người tuổi Ngựa làm chủ sẽ rất năng động, vui vẻ và rộn tiếng cười.

Tuổi Ngọ và tuổi Mùi 

Có thể khẳng định, 2 con giáp này đến với nhau như một lẽ tất yếu. Giữa họ cũng có nhiều điểm khác biệt, nhưng thú vị là những điểm đó lại bổ sung cho nhau. Ngựa khá khó hiểu và bí ẩn, họ không thích cảm giác ràng buộc và cuộc sống gia đình, họ chỉ hướng tới những gì vui vẻ và tươi trẻ. May mắn thay, tuổi Mùi lại rất nghệ sĩ và phóng khoáng, họ cũng khá thú vị để khám phá. Người tuổi Ngựa tự thấy mình rất hợp với Dê, còn Dê thì quý Ngọ ở sự thông minh hài hước đầy cá tính.

Trong tình yêu, họ đổ vào nhau như một cơn bão, nhưng có chúa mới biết được rồi mối tình ấy sẽ đi về đâu. Ngựa thì chỉ biết yêu mà không lo nghĩ tương lai, còn Dê thì lại mơ mộng và dễ tụt hứng nếu bạn tình không ngưỡng mộ, ve vuốt họ. Cuộc tình có thể đi đến hồi kết nếu Ngựa bắt đầu tỏ ra chán nản, và sự nhạy cảm ở Dê thừa đủ để họ cảm thấy bị tổn thương. Nhưng dù thế nào, họ vẫn rất hợp nhau về “chuyện ấy”.

Nếu là đối tác làm ăn, Dê sẽ là người đứng đầu, vì con giáp này thích công việc quản lý. Dê suy nghĩ khá cấp tiến, và là người hoạch định tốt. Nếu cả hai mở công ty, thì Ngựa có thể rất được lòng nhân viên, nhưng người thực sự có quyền lực lại là Dê.

Tuổi Ngọ và tuổi Thân 

Hai tuổi này có nhiều điểm tương đồng và có thể gắn kết lâu dài: đều vui vẻ, ham chơi, ưa khám phá và cùng khao khát được làm trung tâm của sự chú ý. Người tuổi Thân luôn muốn chinh phục thử thách, và nếu như có một cuộc đua ngầm, thì rất có thể tuổi Ngựa sẽ đột nhiên bỏ cuộc. Tuổi Ngựa không thích sự ràng buộc, và tuổi Khỉ thì có vẻ như luôn ưu tiên cho những đam mê cá nhân, hai điều này tưởng chừng là khiếm khuyết nhưng lại thích hợp với nửa kia.

Hợp nhau, nên tình yêu giữa hai con giáp này có vẻ như suôn sẻ. Chỉ có điều tuổi Ngựa sinh ra không phải để chiều chuộng, để ôm ấp một tình yêu chung thủy, vì thế, nếu không nhạy cảm thì hai người “buông” nhau rất dễ dàng. Tuy nhiên, trong thời gian mặn nồng, đôi uyên ương thực sự trân trọng nhau. Khỉ thích đàn đúm và họ thường hay sa đà vào các cuộc chơi, nhưng một khi đã cặp với Ngựa, họ chẳng còn thời gian mà lạc lối.

Nếu hai con giáp này làm ăn chung, họ có thể cần một đối tác thứ ba duy trì sự gắn kết và ổn định. Khỉ thường bận rộn với những việc riêng, trong khi Ngựa thì mải miết làm và khi thấy đối tác thiếu nghiêm túc, họ sẽ bỏ dở giữa chừng. Nếu lập công ty chung, doanh nghiệp của họ rất năng động, nhiều tiềm năng, nhưng không ổn định. Khi có mâu thuẫn, sẽ chẳng có ai chịu nhượng bộ ai.

Tuổi Ngọ và tuổi Dậu 

Mặc dù rất khác biệt, hai tuổi này vẫn có thể hòa hợp với nhau. Nếu Ngọ phóng khoáng và khó đoán định thì Dậu lại tỏ ra ưa sự chính xác và hoàn mỹ. Sự ăn ý của cặp này còn ở chỗ, Ngọ khá thoải mái và xông xênh, còn Dậu thì luôn nhún nhường và chế ngự tốt những cơn giận dữ. Tuổi Gà có đầu óc phân tích tốt, chú ý tới từng chi tiết của sự việc. Có thể đó là lý do người tuổi Gà yêu sự hoàn mỹ nhưng tuổi Gà rất cuốn hút tuổi Ngọ. Ngựa dí dỏm và thông minh, một phần vì họ có kiến thức về nhiều ngành. Đây là điểm rất hấp dẫn đối với Dậu.

Nếu hai tuổi này hợp thành một đôi, họ sẽ xung khắc, đặc biệt nếu chung sống cùng nhau. Tuổi Gà trung thành và rất đáng tin cậy nhưng khá cầu toàn. Một đặc điểm khá nổi bật của người tuổi Dậu là thích “buôn chuyện” của người khác. “Hành tinh” này thích sự gọn gàng và mọi thứ theo trật tự, nhưng Ngựa lại thường bỏ cuộc giữa chừng và tìm kiếm những điều thú vị mới. Tuổi Gà nhiều khi tỏ ra khó chịu với sự thiếu bền bỉ theo đuổi mục tiêu của tuổi Ngựa. Ngựa ít khả năng duy trì mối quan hệ lâu dài với Gà. Tuy nhiên, hai “hành tinh” đôi khi có thể khuyến khích nhau về mặt tinh thần.

Khi là đối tác làm ăn, hai tuổi này sẽ chọn công việc chiều theo lợi ích của Ngựa. Gà có khả năng quản lý tài chính. Sự thông minh vốn có khiến người tuổi Dậu rất ít khi tính toán sai. Hơn nữa, người tuổi Gà khá bảo thủ, thích mặc cả, đây chính là yếu tố rất quan trọng để tránh rủi ro trong kinh doanh. Trong khi đó, khi có hứng, Ngựa làm việc rất chăm chỉ và phát huy được tiềm năng. Điều này, làm Gà rất ngạc nhiên và hài lòng.

Tuổi Ngọ và tuổi Tuất 

Tuổi Ngọ và tuổi Tuất đều rất hài hước và có thể kết hợp rất hài hòa với nhau. Họ đều dí dỏm và thích tham gia vào các hoạt động xã hội. Ngọ trí tuệ có sức hút rất lớn với Tuất. Tuổi Tuất không thích dành thời gian cho việc buôn dưa lê mà thích bàn tán về các chủ đề có ý nghĩa sâu sắc hoặc mang tính thời sự. Chính vì vậy, Tuất không trở nên nhàm chán trước Ngọ thích khám phá. Nếu là một cặp, hai “hành tinh” này không thể dành thời gian dài ở nhà cho nhau. Cả hai tuổi đều thích hẹn hò và thích những khám phá những điều mới. Đặc biệt là Ngựa, thích thay đổi và không chịu được sự nhàm chán.

Trong tình yêu, Ngựa không phải là mẫu người thích mối quan hệ bền vững vì “hành tinh” này quá nhạy bén. Nhưng điều kỳ lạ là Ngọ lại rất thích hưởng thụ cuộc sống cùng với Tuất. Tuổi Ngựa giữ bí mật rất tốt, khi có chuyện riêng tư cần giữ kín, bất kể lý do gì cũng không làm cho người tuổi này bật mí. Tuất sống tâm trạng hơn, vui buồn thay đổi liên tục và đây là điều rất kỳ bí khiến Ngựa có tìm hiểu mãi thì người tuổi Tuất vẫn rất huyền bí. Đây là điểm mà Ngọ rất thích khám phá ở Tuất.

Nếu là đối tác trong kinh doanh, Ngọ và Tuất sẽ chọn công việc đảm bảo lợi ích của cả hai bên. Hoạt động kinh doanh liên quan đến du lịch là phù hợp nhất, vì cả tuổi Ngựa và tuổi Tuất đều thích thay đổi món ăn, thích ngắm cảnh đẹp và vui chơi bạn bè. Hai tuổi này đều có khả năng chịu được cuộc sống khắc nghiệt và công việc vất vả. Sự trung thành và cẩn thận vốn có của Tuất kết hợp rất hoàn hảo với sự khéo léo trong giao tiếp của Ngọ. Nếu hợp sức lại, công việc kinh doanh của hai người sẽ phát triển với tốc độ khiến mọi người xung quanh ngạc nhiên.

Tuổi Ngọ và tuổi Hợi 

Hai tuổi này có thể là một cặp hoàn hảo trong thời gian đầu của mối quan hệ, họ dường như khá cuốn hút nhau. Ngọ nổi bật trước đám đông bởi sự hài hước, dí dỏm và thông minh, điều này làm Hợi mê mẩn. Hơn thế nữa, tuổi Ngựa còn rất hấp dẫn tuổi Hợi bởi sự hào phóng, sự rộng lượng và xử lý tình huống nhanh. Hợi khá dễ tính và chiều Ngọ nên mối quan hệ của hai người rất ổn thỏa. Tuy nhiên, nếu mối quan hệ của họ càng kéo dài, thì càng nảy sinh nhiều vấn đề, đòi hỏi cả hai người phải cùng nỗ lực.

Nếu là một cặp đôi, hai “hành tinh” này sẽ gặp rất nhiều trục trặc, đặc biệt khi sống cùng nhau. Hợi thích sự bình lặng, thích cuộc sống diễn ra đều đều và ngại di chuyển nhiều. Vì vậy, Hợi khá nhàm chán trong con mắt của Ngọ. Ngọ thích bay nhảy, nhanh nhẹn và thích khám phá. Ngựa tán tỉnh và ga lăng khi mới yêu. Tuy nhiên, Ngựa lại rất nhanh chán và mất hứng trước cuộc sống phẳng lặng của Hợi. Tuổi Hợi sống khá tình cảm với bạn bè và gia đình, đặc biệt rất tận tụy với người mình yêu. Nhưng khi Ngọ có ý định rời bỏ mình, Hợi sẽ tìm cách để níu kéo. Ở Hợi còn có tính thù dai, nếu bị tổn thương nhiều Hợi sẽ tìm cách trả đũa.

Trong kinh doanh, cả hai tuổi này đều rất chăm chỉ nhưng họ phải tìm công việc hấp dẫn cho cả hai người thì mới duy trì được lâu. Ngọ chỉ đạo công việc rất tốt nhờ khả năng quản lý và bao quát công việc, còn Hợi sẽ đảm nhiệm các việc cần sự tỉ mỉ, cẩn thận. Nói chung, Hợi sẽ rất tích cực là hậu phương vững chắc của Ngọ. Tuổi Hợi đánh giá rất cao sự thông minh, nhanh nhẹn và quyết đoán trong công việc của Ngọ.

Xem thêm:

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Ngọ với các tuổi khác

Tử vi Lục thập hoa giáp

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tuổi Ngọ

"Bật mí" 9 điều bí mật về ông già Noel

Hình ảnh ông già Noel mặc quần áo đỏ chui qua ống khói đã quá quen thuộc nhưng còn những điều bí mật mà chúng ta vẫn chưa biết về ông đâu nhé.
"Bật mí" 9 điều bí mật về ông già Noel

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Mùa Giáng Sinh an lành đã tới, các em nhỏ lại háo hức chờ đón những món quà đáng yêu từ ông già Noel.

 
Bat mi 9 dieu bi mat ve ong gia Noel hinh anh goc
Bat mi 9 dieu bi mat ve ong gia Noel hinh anh goc 2
 

► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Dương Nguyên




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: "Bật mí" 9 điều bí mật về ông già Noel

Bài trí nhà đẹp với phong cách đồng quê

Ngôi nhà này được thiết kế theo phong cách đồng quê châu Mỹ. Không khí nhẹ nhàng và trong trẻo hòa quyện trong ánh sáng tự nhiên, phủ đầy cho một thế giới nội thất nhiều tình cảm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với Nhà thiết kế, quá trình lên ý tưởng và thực hiện nên không gian sống mang đậm phong cách đồng quê đã mang lại không ít hứng khởi cho chính bản thân anh. Việc đáp ứng và xoay chuyển khéo léo từ yêu cầu của gia đình anh để tạo thành một không gian nhiều tính thẩm mỹ quả chứa đựng thử thách nhưng cũng rất thú vị. Căn biệt thự nằm trong khu đô thị phía Nam thành phố và hạn chế ở phần mặt tiền bởi phải chịu sự gò bó nhất định theo quy hoạch chung. Thế nhưng, phía bên trong của những phào chỉ và chi tiết khá rườm rà đó, không gian nội thất thật nhẹ nhàng lại đang thong dong trong hình ảnh một chốn về bình yên. Không khí bàng bạc lãng mạn xuyên suốt trong các gian phòng, được tiếp nối và “giữ nhịp” liên tục qua những motif trang trí, màu sắc và đường nét nội thất.

Mặt tiền nhiều chi tiết như quy hoạch chung trở nên cuốn hút hơn khi đêm xuống. Giải pháp chiếu sáng giúp “giấu” đi những đường nét thừa khỏi tầm quan sát, khiến căn biệt thự trở nên ấm cúng và nhẹ nhàng hơn.

Mong muốn về một không gian sống êm đềm, cân bằng, mang hơi hướm cổ điển - mà đặc biệt là không cần phải quá cá tính hay ấn tượng - đã được hoàn thiện vượt ngoài mong đợi của gia đình anh. Những đặc trưng của phong cách đồng quê thân thiện và nhiều biến tấu đã thể hiện rõ tác dụng. Nhiều mảng tường trong căn biệt thự đều tạo thành điểm nhấn nhờ cách sơn mỹ thuật kẻ sọc trắng xám - xanh da trời, tạo hiệu ứng như sử dụng giấy dán tường. Những vòm cửa lớn mang đường cong uyển chuyển mà có tiết chế để thêm duyên cho không gian liên thông rộng lớn của khu vực phòng làm việc - tiếp khách - phòng ăn ở tầng trệt. Thế nhưng, việc đưa những vòm cửa này vào trong thiết kế còn là giải pháp cho một nhiệm vụ quan trọng khác: giấu đi hệ thống đà khô cứng vốn có của khung nhà. Trần nhà ở phòng làm việc còn trang trí bằng gờ nổi theo motif ô trám làm tăng thêm nét sinh động.

Các món nội thất được sử dụng cho căn biệt thự cũng góp phần không nhỏ trong việc thể hiện chất đồng quê mà nhà thiết kế hướng tới. Những đường cong, con tiện trên bàn ghế không tạo cảm giác kiêu kỳ như ở phong cách châu Âu cổ điển, mà ngược lại, đầy vẻ khỏe khoắn và duyên dáng. Màu xanh nhạt, xám và những hoa văn đơn giản trên bộ sofa; tấm kiếng màu ngăn giữa lối vào nhà và bếp ở phía sau; những gốc cây lá xanh tươi trang trí... đều góp thêm vào trong hình ảnh êm đềm của căn biệt thự. Phong vị đồng quê trong thiết kế nội thất còn tạo nên điểm nhấn qua khoảng passio có bàn cafe bên dưới giếng trời. Giữa những chiếc lá xanh, ánh sáng chan hòa và cảm hứng lãng mạn từ các món vật dụng, một không khí thôn dã pha trộn với tinh thần vintage đã khiến góc ngồi này trở nên thật đặc sắc.

Bên cạnh đó, Nhà thiết kế chọn cho căn biệt thự lối tổ chức không gian chức năng đơn giản và một trục giao thông mạch lạc. Những hiệu ứng có được ở nội thất còn là thành quả của nhiều giải pháp linh hoạt nhằm nhấn mạnh tính thông thoáng, khả năng lấy sáng và luôn quan tâm đến “chỗ” dành cho thiên nhiên. Chính những tiền đề lý tưởng này đã giúp cho phong cách nội thất có thể biểu đạt được hết cảm xúc và những ngôn ngữ của nó, đem lại cho căn biệt thự của gia đình chàng một không khí thật dễ chịu, trở thành một lựa chọn khác biệt cho hình ảnh “đồng quê” giữa khu đô thị mới.

Khoảng sân thượng thơ mộng với bàn nước đặt bên dưới mái hiên bằng kính và kết cấu đà gỗ bắt mắt.
Trục không gian chức năng của ngôi nhà được tạo thành từ phòng khách đến góc bàn café và ra đến khu vực bàn ăn - bếp.
Ngay cửa vào của căn biệt thự là phòng làm việc. Ánh sáng chan hòa từ hiên và mảnh vườn con ở phía trước chiếu qua mảng tường kính, càng làm cho gam màu xanh nhạt trên arm-chair và tường thêm nhẹ nhàng. Một cảm hứng đồng quê được báo hiệu khe khẽ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên.
Vách kính màu ngăn giữa hệ cầu thang với bếp ở phía sau. Giải pháp đơn giản tạo được hiệu ứng về ánh sáng và đem lại không khí hoài cổ.
Phòng sinh hoạt chung nhẹ nhàng và đơn giản, hướng nhiều đến chức năng như vẫn giữ tinh thần chung của thiết kế với ánh sáng tự nhiên và mảng tường sơn xanh - xám.
Khoảng passio thơ mộng, đậm không khí của phong cách đồng quê châu Mỹ ở góc nhìn từ trên cao.
Phòng tắm mở ra một thế giới riêng tư đầy thư giãn như ở các khu nghỉ dưỡng. Gam màu rượu vang trắng đồng nhất dùng cho hệ tủ của walk-in-closet và sàn nhà, kết hợp cùng màu trung tính của chất liệu đá ốp như ấm áp hơn dưới ánh đèn vàng.
Khu vực bàn ăn được bố trí liên kế với sân sau nên luôn thoáng gió. Mảng tường phía sau - như motif trang trí chính của toàn bộ căn biệt thự - được xử lý bằng sơn mỹ thuật với màu xanh dương nhạt và xám, tạo cảm giác như giấy dán tường, đây là một chi tiết mà Nhà thiết kế rất tâm đắc.
Phòng sinh hoạt chung với những mảng tường trang trí theo motif chung của cả ngôi biệt thự.
Phòng ngủ không cần nhiều diện tích nhưng vẫn đầy cảm giác thư giãn.

(Theo Đẹp)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí nhà đẹp với phong cách đồng quê

Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

Một trận mưa giông dữ dội trong mơ mang ý nghĩa nếm trải gian khó để có thành công. Nữ giới đã kết hôn mơ thấy mưa giông, nghĩa là sau một thời gian dài cực nhọc vất vả, không oán không than sẽ tìm thấy hạnh phúc bản thân, một cuộc sống đủ đầy, con c
Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

3 chòm sao sống ảo thích yêu qua mạng thường xuyên tìm kiếm nhân duyên cho mình giữa biển người mênh mông mà không cần mất công đi lại, gặp gỡ nhiều.
Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thời đại công nghệ thông tin, mọi người đều sử dụng internet như một công cụ giao tiếp hữu dụng. Đặc biệt, 3 chòm sao sống ảo thích yêu qua mạng dưới đây thường xuyên tìm kiếm nhân duyên cho mình giữa biển người mênh mông mà không cần mất công đi lại, gặp gỡ nhiều.


► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết hai bạn có hợp nhau không

Diem danh 3 chom sao song ao, thich yeu qua mang hinh anh
 

Cự Giải: thích vòng vo

  Cự Giải khuyết thiếu cảm giác an toàn, ngại ngần khi phải đối diện với người lạ. Vì thế, họ là chòm sao sống ảo, thông qua những cuộc nói chuyện gián tiếp mà có thể thấu hiểu nhau, có tình cảm với nhau. Cự Giải cảm thấy yên tâm hơn, cũng tự tin hơn vì đối phương chưa biết mình là ai, nếu có vấn đề gì cũng không tổn thương quá lớn.   Cự Giải nguyện dùng cách hiện đại nhất nhưng cũng ngốc nghếch nhất để rút ngắn khoảng cách với đối phương. Trước hết, giao tiếp qua mạng, dần dần quen thuộc rồi có thể tiến xa hơn, gặp gỡ ngoài đời thật. Tuy hơi vòng vo một chút nhưng đó là cách Cự Giải bảo vệ bản thân.  

Kim Ngưu: thích ve vãn

  Chòm sao Kim Ngưu cực kì kiên trì, biết rằng chuyện gì cũng phải từ từ mới đạt kết quả tốt, không thể nóng vội được. Nồng nhiệt và nhanh gọn không phải phong cách yêu đương của Kim Ngưu, nên cho nhau khoảng thời gian tìm hiểu, tán tỉnh thật lâu để chắc chắn đã.   Vì thế, chòm sao sống ảo này thường không ngay lập tức muốn gặp gỡ đối phương mà chủ động kéo dài cuộc tán gẫu qua mạng, ve vãn đối phương, phô bày điểm tốt của mình cho người kia thấy, coi như là bước đệm cho sự tiến triển sau này.
Diem danh 3 chom sao song ao, thich yeu qua mang hinh anh
 

Xử Nữ: thích mơ hồ

  Xử Nữ là chòm sao thích sự mơ hồ, ám muội, mà khoảng cách chính là điều kiện tốt nhất để sinh ra sự mờ ám. Xử Nữ xoi mói như thế, đến soi gương nhận xét chính mình còn không thấy hài lòng thì có thể vừa mắt ai cơ chứ. Vì thế, tốt nhất là quen biết và tìm hiểu nhau qua mạng, tránh để lộ nhiều thông tin cá nhân, gây phiền phức sau này.   Đây là một cách để Xử Nữ bảo vệ an toàn cho chính mình trước người không quen biết. Cứ tìm hiểu nhau qua các câu chuyện trước, nếu tạo dựng được lòng tin thì mới có thể tiến tới gặp gỡ và phát triển. Nên chòm sao sống ảo này không ngần ngại làm quen, kết bạn, trò chuyện với nhiều người qua internet nhưng ít khi để lộ thân phận lắm.
Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân Học 3 chòm sao mạnh mẽ cách trút bỏ áp lực công việc Xác định đối thủ của 12 chòm sao ở nơi công sở
Trần Hồng  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd