Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

4 con giáp đề phòng gặp họa với nước khi đi bơi

Người tuổi Tuất đặc biệt cần chú ý trong năm nay, họ dễ gặp họa với nước nên đi bơi cần sử dụng các biện pháp bảo hộ an toàn.
4 con giáp đề phòng gặp họa với nước khi đi bơi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tuổi Tuất

Năm nay, người tuổi Tuất phạm hình Thái Tuế, vận thế bất ổn, sức khỏe cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề. Đặc biệt, trong mùa hè nắng nóng, khi đi bơi đề nghị con giáp này phải hết sức cẩn thận, tránh nguy cơ bị đuối nước.

Nếu cơ thể mệt mỏi hoặc tinh thần sa sút, tốt nhất không nên đi bơi. Trong trường hợp đi bơi hoặc tắm biển, cần phải có bạn bè hoặc nhân viên cứu hộ đi cùng, đề phòng tai nạn bất ngờ xảy ra.

2-6655-1412648765-4460-1437732148.jpg

2. Tuổi Tý

Trong năm Ất Mùi, người tuổi Tý phạm hại Thái Tuế lại có hung tinh chiếu vào cung mệnh, nên ngoài việc cẩn thận khi bơi lội, cần cư xử khéo léo, hài hòa, tránh vướng vào những rắc rối thị phi ảnh hưởng xấu tới chuyện học hành, công việc.

3. Tuổi Sửu

Năm 2015, người tuổi Sửu phạm xung Thái Tuế nên chuyện tình cảm, học tập, công việc đều có những biến đổi lớn. Bên cạnh đó, vấn đề sức khỏe, an toàn tính mạng cũng cần được chú trọng. Đặc biệt, khi đi bơi ở hồ nước lớn hay ở biển, cần tuân thủ những quy tắc an toàn, đề phòng trường hợp xấu xảy ra đe dọa tính mạng.

1-6128-1412648764-8757-1437732148.jpg

4. Tuổi Dần

Năm nay, con giáp này mang vận tiêu hao tài sản là chính, nhưng đồng thời cần chú ý nguy cơ gặp tai nạn. Đặc biệt là bị ngạt nước. Dù việc bơi lội không ảnh hưởng đến tính mạng, nhưng nếu sự cố xảy ra, việc tiêu tốn tiền bạc để chữa trị là điều khó tránh khỏi.

Mr.Bull (Theo XZ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp đề phòng gặp họa với nước khi đi bơi

Những tật xấu cản đường sự nghiệp của 12 con giáp

Cùng ## tìm hiểu về tật xấu cản đường sự nghiệp của 12 con giáp, từ đó thay đổi chính bản thân mình để gặt hái thành công.
Những tật xấu cản đường sự nghiệp của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không ai hoàn hảo, mỗi người có những ưu và nhược điểm riêng. Tuy nhiên, nếu nhanh chóng thay đổi tật xấu cản đường sự nghiệp, 12 con giáp sẽ sớm gặt hái thành công.


1. Người tuổi Tý – Cứng nhắc

Dù có năng lực sáng tạo vô biên, chí tiến thủ không ngừng trong sự nghiệp, nhưng cái tật hành sự cứng nhắc kiểu “vơ đũa cả nắm” và quá coi trọng cái tôi cá nhân lại là một trong những rào cản con đường thành công của người tuổi Tý.

2. Người tuổi Sửu – Quá tin người

Đời không như mơ, đời chẳng như thơ, tin người quá mức chỉ khiến mình thiệt thòi đủ đường. Người tuổi Sửu bản tính thật thà, chăm chỉ, dễ tin người nên khó tránh việc bị lợi dụng hoặc lừa gạt.

Nhung tat xau can duong su nghiep cua 12 con giap hinh anh
 
3. Người tuổi Dần – Nóng vội


Phong cách làm việc của người tuổi Dần là càng nhanh càng tốt. Nhưng nhanh nhảu đoảng, nóng vội dẫn tới những quyết định hấp tấp, sai lầm, thậm chí đắc tội người khác. Đây là một trong những tật xấu cản đường sự nghiệp của bạn.

4. Người tuổi Mão – Áp đặt ý kiến cá nhân cho người khác

Dù làm việc nỗ lực, kiên trì, tự tin đầy mình nhưng người tuổi Mão lại thích áp đặt ý kiến cá nhân của mình cho người khác. Sự cố chấp này cũng là một trong những tật xấu cản đường sự nghiệp mà bạn cần phải sửa ngay.

5. Người tuổi Thìn – Làm việc tùy hứng

Quan điểm làm việc của người tuổi Thìn rất hiện thực, có làm mới có ăn, nhìn thấy tốt là vun vào. Điều đó hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất mà con giáp này mắc phải chính là cách làm việc tùy hứng, có hứng thì mọi việc trôi chảy đủ đường, mất hứng thì bế tắc, vòng vo.

6. Người tuổi Tỵ - Để tình cảm xen vào công việc

Ai cũng biết người tuổi Tỵ coi trọng tình cảm, biết cách sẻ chia, quan tâm tới mọi người xung quanh. Nhưng nếu quá bi lụy, không thể kiểm soát cảm xúc, để tình cảm xen vào công việc lại là điều không nên. Nó ảnh hưởng ít nhiều tới khả năng tập trung vào công việc, từ đó kéo hiệu quả làm việc giảm đáng kể.

Nhung tat xau can duong su nghiep cua 12 con giap hinh anh 2
 
7. Người tuổi Ngọ - Tự tin tới mức tự phụ


Trong công việc, nếu người tuổi Ngọ tỏ thái độ khiêm tốn hơn đôi chút, mọi việc càng thêm thuận lợi, sự nghiệp hanh thông, thoáng đạt.

8. Người tuổi Mùi – Quá cầu toàn


Coi trọng tiểu tiết, chú trọng vẻ hoàn mỹ, cầu toàn là một trong những tật xấu mà người tuổi Mùi nên sửa ngay nếu muốn thăng tiến hơn trong sự nghiệp.

9. Người tuổi Thân – Lười biếng


Dù có năng lực làm việc, coi trọng tình cảm, có lý tưởng sống rõ ràng, nhưng đa phần người tuổi Thân lại lười biếng, gặp khó khăn dễ bỏ cuộc giữa chừng nên thành công vẫn còn ở xa tít phía trước.

Những con giáp may mắn tới mức ra ngõ nhặt được tiền
– Nhặt được của rơi để bù đắp cái mình đã mất là điều mà ai cũng mong muốn. Nhưng còn hơn thế, những con giáp dưới đây còn may mắn tới mức ra
10. Người tuổi Dậu – Đa nghi


Sống mà cứ đa nghi, luôn phải đề phòng hay tỏ ra đố kị, ghen ăn tức ở thì làm sao có thể chuyên tâm phấn đấu cho sự nghiệp được. Nếu không bỏ ngay tật xấu này, e rằng thành công chỉ đến với bạn trong mơ.

11. Người tuổi Tuất – Không tuân thủ quy tắc chung

Có trái tim lương thiện, yêu thích hòa bình, tự do là điều tốt, nhưng nếu “bê” luôn cái sở thích phóng khoáng, tự do vào trong công việc lại là điều không nên. Khi đó, người tuổi Tuất chẳng thể tuân thủ quy định, quy tắc của tập thể, tất nhiên, bạn sẽ không thể được lòng của đông đảo mọi người, con đường thăng tiến cũng theo đó mà xa dần với bạn.

12. Người tuổi Hợi – Bảo thủ

Lạc quan vui sống, nỗ lực hết mình vì ngày mai tươi sáng luôn là ưu điểm mà ai cũng nên học hỏi ở người tuổi Hợi. Có điều, con giáp này lại bảo thủ, quá coi trọng ý kiến cá nhân nên đường công danh, sự nghiệp cũng gặp không ít trở ngại.

Ngân Hà

Top 5 con giáp tốt toàn diện năm 2016
Được nhiều cát tinh và quý nhân phù trợ, những con giáp này không những gặt hái thành công trong công việc, sự nghiệp mà cả đường tình duyên cũng mĩ mãn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tật xấu cản đường sự nghiệp của 12 con giáp

Nằm mơ thấy mình bị bỏ rơi –

Các em bé bình thường thích nói chuyện, muốn được cả nhà yêu mến chiều chuộng nhưng nếu ốm là biếng ăn, học tập sút kém, lười biếng. Trong giấc mơ các em không thấy mình lười nhác, ngược lại thấy mình rất siêng năng nhưng lại bị bố mẹ ghét bỏ, mọi ng
Nằm mơ thấy mình bị bỏ rơi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy mình bị bỏ rơi –

Phong thủy văn phòng kỵ gương soi chiếu –

Kỵ gương soi chiếu Rất nhiều cơ quan có treo một tấm gương rất lớn, một số những người thích làm đẹp cũng thích đặt những chiếu gương trên bàn làm việc của mình. Thích làm đẹp là thiên tính của mỗi người, nhưng nếu ngày nào gương cũng chiếu vào bạn,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kỵ gương soi chiếu

Rất nhiều cơ quan có treo một tấm gương rất lớn, một số những người thích làm đẹp cũng thích đặt những chiếu gương trên bàn làm việc của mình. Thích làm đẹp là thiên tính của mỗi người, nhưng nếu ngày nào gương cũng chiếu vào bạn, lâu dần bạn sẽ phát giác ra rằng bạn thường hay bị chóng mặt, hoa mắt, quyết sách bị sai sót, mất ngủ… khiến cho cơ thể bạn như suy nhược mà sinh ra bệnh tật.

Gương soi trong phong thủy được gọi là “quang hung”, là một công cụ để tránh hung khí. Thế giới của gương gọi là ảo ảnh, sẽ khiến người ta đầu óc hỗn loạn, hư loạn. Các kiến trúc hiện đại thường dùng thủy tinh để dán đầy trên các bức tường kiến trúc, đây chính là “quang hung” có hại nhất, những người sống trong dương trạch bị chiếu soi sẽ xuất hiện những sự việc không cát lợi, quang hung có hại sẽ chiếu chí huyết, quang chi hại, thị phi, phá sản. Cho nên khi bạn thường bị gương chiếu như vậy, thì không nên vì quá điệu mà tốt nhất là nên tránh thì hơn.

47-pthuy4

Kỵ xà ngang ép trên đỉnh đầu

Trong văn phong có người ngồi ngay đúng chỗ có xà ngang, có người ngay trên đầu là đỉnh rơi thấp tẹt, những hiện tượng đó trong phong thủy gọi là “hoành lương áp đỉnh”. Nếu trong thời gian dài sẽ khiến cho con người trong công việc sinh ra những áp lực, chịu những tai nạn, gặp phải sự công kích của tiểu nhãn, làm cho đau cơ đau mỏi, vận khí ngưng trệ.

Phương pháp hóa giải: Trong phong thủy thì hồ lô có tác dụng khỏi hoá bệnh, thu hung khí. Đi đến một số cửa hàng mỹ nghệ mua vài bình hồ lô mà trên đó có vòng mây bao quanh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy văn phòng kỵ gương soi chiếu –

Câu chuyện nhỏ về loài vật và bài học cuộc sống sâu sắc

Một con ong nghệ, nếu bị thả vào một cái cốc lớn không có nắp, cũng sẽ ở đó cho đến chết, trừ phi chúng ta lôi nó ra.
Câu chuyện nhỏ về loài vật và bài học cuộc sống sâu sắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện về loài Ó

Nếu bạn đặt một con ó vào một chiếc lồng,với kích thước khoảng 2m x 2,5m, và hoàn toàn không có nóc, tức là phần trên được mở toang; thì cho dù vẫn có khả năng bay lên, nhưng con chim này sẽ hoàn toàn trở thành một ... tù nhân.

Lý do là một con chim ó luôn bắt đầu bay từ mặt đất lên,với đoạn "chạy đà" khoảng 3 - 4m.

Không có quãng đường để chạy, thì theo thói quen, chú chim thậm chí chẳng buồn cố gắng thử bay lên, mà chấp nhận bị cầm tù suốt đời, trong một "nhà giam" nhỏ chẳng hề có mái!
Chuyện về con Dơi

Một cơn dơi bình thường luôn bay ra ngoài vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, linh lợi đến mức ấn tượng.

Tuy nhiên, nó không thể cất cánh từ một địa điểm bằng phẳng. Nếu nó được đặt trên sàn hoặc một mặt phẳng, thì tất cả những gì nó có thể làm là lê bước loanh quanh một cách vô vọng, và tất nhiên, một cách đau khổ.

Cho đến khi nó tìm được một độ cao nào đó, chỉ cần là một góc nâng nhỏ thôi, để từ đó, nó có thể tung mình vào không trung. Và, ngay lập tức,nó bay lên như một tia chớp.
Chuyện về loài Ong Nghệ

Một con ong nghệ, nếu bị thả vào một cái cốc lớn không có nắp, cũng sẽ ở đó cho đến chết, trừ phi chúng ta lôi nó ra.

Nó không bao giờ nhìn thấy đường thoát ở phía trên, mà cứ khăng khăng cố gắng tìm cách nào đó thoát ra qua các mặt bên, hoặc qua... đáy cốc. Nó sẽ tìm một con đường ở nơi mà không có con đường nào tồn tại, cho đến khi nó hoàn toàn tự hủy hoại mình.

Câu chuyện về Con Người

Theo rất nhiều cách, chúng ta cũng giống như con chim ó, con dơi và con ong nghệ. Chúng ta vật lộn với tất cả các rắc rối và tuyệt vọng của mình, mà không bao giờ nhận ra rằng rất có thể một giải pháp ở rất gần,chỉ cần chúng ta nhìn lên cao hơn - hay nhìn hướng tới phía trước.

Nhìn ngược lại có thể khiến bạn buồn bã. Nhìn quanh có thể khiến bạn lo lắng. Hãy nhìn lên cao, và nhìn tới trước,đó là cách sống lạc quan. Và tinh thần tích cực, nhiều hy vọng sẽ giúp bạn tìm ra giải pháp trong hầu hết các trường hợp.

Có một tác giả đã viết: "Khi không có giải pháp nào xuất hiện ngay trước mắt, thì con người rất dễ kết luận rằng không có giải pháp nào cả. Nhưng thực tế đã chứng minh, từ lần này sang lần khác, rằng giả thuyết đó là sai lầm."

Chỉ cần bạn nhìn lên cao hơn, rộng hơn tình huống hiện tại, rất có thể bạn sẽ thấy một lối đi ngay trước mắt mình.

Sống đơn giản, yêu thật lòng, quan tâm sâu sắc, hướng đến phía trước. Đó là bài học cuộc sống sâu sắc Chuyện về loài Ó, con Dơi, Ong Nghệ, Con Người


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện nhỏ về loài vật và bài học cuộc sống sâu sắc

Sao Tang Môn

Hành: Mộc Loại: Bại Tinh Đặc Tính: Tang tóc, hình thương, tai nạn, tang thương, bệnh tật, chết chóc Tên gọi tắt thường gặp: Tang Ph...
Sao Tang Môn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: MộcLoại: Bại TinhĐặc Tính: Tang tóc, hình thương, tai nạn, tang thương, bệnh tật, chết chócTên gọi tắt thường gặp: Tang
Phụ tinh. Sao thứ 3 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.
Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).

Vị Trí Ở Các Cung

  • Đắc địa: Dần, Thân, Mão, Dậu.
  • Hãm địa: Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất, Hợi.
Ý Nghĩa Tang Môn Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Tang Môn đắc địa: Người can đảm, quả cảm, có nghị lực, tài giỏi, quyền biến, ứng phó được với mọi nghịch cảnh. Khả năng xét đoán, lý luận giỏi, có tài hùng biện.
Đi chung với Tấu Thư, Lưu Hà, Xương, Khúc thì khả năng hùng biện rất sắc sảo. Đó là bộ sao của quan tòa, luật sư, chính trị gia, thương thuyết gia, giáo sư, giáo sĩ.
  • Tang Môn: Đa nghi, hờn dỗi, không chịu bó buộc, phóng túng, nghiên cứu, đi học hỏi, học hành dang dở, hoặc có học mà không làm nghề đó được vì hoàn cảnh, ương ngạnh, không chịu phục (Tang Hỏa Kỵ Xương Khúc Mộ) hay có tai tiếng.
  • Thích hoạt động về chính trị, cũng như có khả năng và có thể hiển đạt về võ nghiệp. Đây là bộ sao văn võ song toàn, đa năng, đa hiệu.
  • Riêng với phụ nữ thì người có khí phách, có ý chí mạnh như đàn ông, có tâm tính của nam giới. Đó là những người rất đặc biệt, tự tay lập nghiệp, quán xuyến cả nội trợ và ngoại giao, vừa đắc dụng trong gia đình, vừa đắc dụng ngoài xã hội.
Tang Môn hãm địa:
  • Sự ương ngạnh, ngoan cố, cứng đầu, bướng bỉnh.
  • Tính ưu tư, hay lo lắng, phiền muộn, cô độc.
  • Thích chơi bời, ăn ngon mặc đẹp, không nặng về gia giáo.
Công Danh Tài Lộc
Đắc địa nam Mệnh thường hiển đạt về chính trị nếu được nhiều văn tinh hội chiếu, hiển đạt về quân sự nếu được võ tinh đi kèm.
Phúc Thọ Tai Họa
Sao Tang Môn thủ Mệnh, dù đắc địa, cũng bị mồ côi sớm, có khi mới lọt lòng mẹ.
Riêng phái nữ thì gia đạo, hôn nhân thường bị trắc trở, phải muộn chồng, phải cưới chạy tang nếu không thì góa bụa hoặc đau khổ ưu phiền vì chồng con.
Đây là sao bất lợi nhất cho đại gia đình (mồ côi) và tiểu gia đình (xung, khắc, ly cách). Mặt khác, vì Tang Môn cũng bất lợi cho sự sinh nở. Cho nên, nữ Mệnh có thể bị nguy hiểm tánh mạng vì sinh đẻ - hoặc mình chết, hoặc con chết - hoặc phải đau yếu tử cung, hư thai, dù có sinh con cũng hết sức khó nuôi.
Vì vậy, Tang Môn bất lợi cho cả cha mẹ, gia đạo và con cái, chưa kể ảnh hưởng xấu đối với chính mình về mặt tâm lý, tính tình, vận số. Đặc biệt nếu đi với sát tinh thì tai họa rất nhiều và ảnh hưởng đến nhiều phương diện, cụ thể như:
  • Khổ cực, cô độc.
  • Khắc vợ, chồng, góa bụa, cô đơn.
  • Bị bắt bớ, giam cầm.
  • Bị bệnh tật trầm kha.
  • Bị tai nạn nguy hiểm đến tính mạng.
  • Yểu tử.
Phải cần sao giải mạnh mới chế giảm được bất lợi đó.
Những Bộ Sao Tốt
Tang Môn, Tấu Thư: cả hai sao này hợp nghĩa nhau về khoa ngôn ngữ, tài hùng biện. Đây là người có khả năng diễn thuyết hùng hồn, lời lẽ lưu loát và khích động, có sức quyến rũ bằng ngôn ngữ rất sâu sắc. Các chính khách, ứng viên tranh cử, giáo sư, quan tòa, luật sư rất cần đến bộ sao này.
Nếu đi chung với các sao hùng biện khác như Lưu Hà, Lưu Thiên Khốc, Lưu Thiên Hư, Văn Xương, Văn Khúc thì tài hùng biện đạt mức quốc tế. Do đó, có ý nghĩa phụ nhưng không kém quan trọng là sự hiển đạt vì khoa cử (thi đỗ cao), về công danh (có chức phận lớn, được nhiều người biết tiếng), về khả năng tâm lý chiến (huy động quần chúng, vận động tinh thần).
Những Bộ Sao Xấu
  • Tang, Hổ, Điếu, Binh (gọi là Tứ Hung): rất độc, báo hiệu cho tang tóc, tai nạn chết người, họa lớn. Nếu có Thiên Đồng thì hóa giải được.
  • Tang Môn gặp Lưu Tang, Lưu Hổ: tang tóc liên tiếp, ưu phiền rất nặng, tai họa khủng khiếp.
Ý Nghĩa Tang Môn Ở Cung Phụ Mẫu
Sinh ra đã có tang, hoặc cha mẹ nghèo khổ, đau yếu hoặc phải thay đổi nơi ăn chốn ở.
Ý Nghĩa Tang Môn Ở Cung Phúc Đức
  • Tổn thọ.
  • Gia đình không toàn vẹn.
Ý Nghĩa Tang Môn Ở Cung Điền Trạch
  • Tang Hỏa: có cháy nhà hay một phần nhà.
  • Tang, Phục, Không, Phù: vô sản.
  • Tang, Đào, Hồng: hưởng di sản của cô dì để lại.
Ý Nghĩa Tang Môn Ở Cung Tật Ách
Tang Môn là bại tinh cho nên báo hiệu hai loại bệnh tật:
  • Bệnh về tinh thần, biểu hiệu bằng sự âu sầu, u buồn, ủy mị, bi quan.
  • Bệnh về vật chất, cụ thể là máu huyết, gân cốt như hoại huyết, áp huyết cao, đau gân, đau tim, nhức xương, tê thấp. Vì vậy, đối với phụ nữ, tình trạng khí huyết kém hay đưa đến sự đau yếu về kinh nguyệt, về tử cung, có ảnh hưởng đến sự sinh nở.
Những bệnh hoạn này càng rõ rệt nếu Tang Môn đóng ở cung Mệnh hay cung Tật, dù tại đó, Tang Môn đắc địa (ở 4 cung Dần, Thân, Mão, Dậu).
Ý Nghĩa Tang Môn Ở Cung Tử Tức
Có một trong các ý nghĩa sau:
  • - Khó sinh, sinh non ngày tháng.
  • - Sinh con khó nuôi.
  • - Sinh con nhưng không nuôi được.
  • - Gặp Kình, Sát: có thể không con.
  • - Gặp Không, Kiếp: sát con.
  • - Gặp Thai: sẩy thai, con chết non.
  • - Gặp Không, Kiếp, Thai: có thể phá thai.
  • - Nếu thêm Hình: có mổ xẻ lúc sinh nở con chết trong bụng mẹ, khó đẻ, phá thai.
Ý Nghĩa Tang Môn Ở Cung Phu Thê
Có những ý nghĩa hoặc một trong những ý nghĩa sau:
  • Cưới chạy tang.
  • Có tang chồng hay vợ hoặc ly thân, ly hôn.
  • Ở góa (nếu Phúc, Mệnh, Thân xấu).
  • Lấy vợ hay chồng có tật, mù lòa, què gãy mới tránh được hình khắc, chia ly.
Ý Nghĩa Tang Môn Ở Cung Huynh Đệ
Thường mất anh chị em.
  • Tang Môn Trực Tuế: anh chị em bất hòa.
  • Tang, Mã: anh chị em ly tán
Tang Môn Khi Vào Các Hạn
Có tang trong các trường hợp sau:
  • Tang Mã Khốc Hư hay Tang Quả Khốc Hư.
  • Tang Môn Bệnh, Khách.
  • Gặp Lưu Tang, Lưu Hổ, Lưu Khốc, Lưu Hư (có nhiều tang liên tiếp, có đại tang).
  • Tang, Hình, Khách.
  • Tang Môn, Khốc Mã (súc vật chết vì bệnh tật).
  • Tang Khách Kỵ Hình: tự ải.
Bị ác thú cắn nếu gặp:
  • Hổ Riêu hay Hổ Đà Kỵ Nhật.
  • Hổ Đà Hình hay Hổ Khốc Riêu.
  • Hổ ở Dần, Kiếp ở Tuất.
Bị kiện tụng, khẩu thiệt, ốm đau nếu gặp:
  • Hổ, Phục.
  • Hổ, Tuế, Phù, Phủ.
Đại Tiểu Hạn cần lưu ý xem kỹ Tang Môn và Lưu Tang, Lưu Hổ. Nếu đồng cung thì sự hung hiểm càng nhiều.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tang Môn

Chỉ ra tướng phụ nữ khắc chồng, không nên lấy làm vợ

Từ xưa, cổ nhân đã có những tiêu chuẩn xác định tướng phụ nữ khắc chồng, mang đến vận hạn cho gia đình nên không phù hợp lập chính thất chỉ được làm thiếp,
Chỉ ra tướng phụ nữ khắc chồng, không nên lấy làm vợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ xưa, cổ nhân đã có những tiêu chuẩn xác định tướng mạo phụ nữ khắc chồng, mang đến vận hạn cho gia đình nên không phù hợp lập chính thất chỉ được làm thiếp, vợ kế.

 

1. Cằm nhọn mỏng

  Xem tướng phụ nữ khắc chồng, chiếc cằm tượng trưng cho vận khí, phúc lộc của con người khi về già. Cằm tròn đầy đặn thì chủ nhân có cuộc đời sung túc, về già hưởng phúc dồi dào. 
 
Người cằm nhọn, mỏng chứng tỏ cả đời phiêu bạt, gặp nhiều trắc trở vận hạn lên xuống. Đối với phụ nữ mang tướng mạo khắc chồng này thì càng không thể yên bình gia thất, khắc chồng nên chỉ có thể làm thiếp, làm vợ lẽ.

Chi ra tuong phu nu khac chong, khong nen lay lam vo hinh anh
Không nên lấy những phụ nữ tướng khắc chồng làm vợ 


2. Xương gò má cao

  Trong nhân tướng học, xương gò má được gọi là lưỡng quyền tượng trưng cho uy quyền, vận số, tính cách của con người. Phụ nữ có xương gò má cao dễ đạt được sự giàu có nhưng quyền hành cao, nóng tính, cương nghị, thậm chí thủ đoạn, tiểu nhân. Tường này cực kỳ sát chồng nên rất khó lập gia đình.  

3. Mắt to tròn

  Đôi mắt phụ nữ càng to, càng ướt thì càng quyến rũ, nữ tính nên nhiều người theo đuổi, số hưởng vinh hoa phú quý. Đuôi mắt cong tròn, nhãn cầu linh hoạt là người mang đến cảm giác lịch sự và được cưng chiều hết mực. Chính vì vậy, họ dễ nảy sinh nhiều tình cảm ngoài lề, gây bất an cho người chồng.  

4. Miệng rộng

  Người xưa có câu "Đàn ông miệng rộng thì sang, phụ nữ miệng rộng tan hoang cửa nhà". Nguyên nhân từ quan niệm phụ nữ miệng rộng là người không giỏi quan xuyến chu toàn việc gia đình. Ưu điểm của họ là tích cực hoạt động xã hội, sống thân thện, cởi mở và được nhiều người yêu mến nên ít thời gian dành cho chồng con.
 

5. Chóp mũi nhọn, sống mũi dẹt
 

Tiền tài quyền thế thể hiện rõ trên mũi. Nữ nhân có chóp mũi nhỏ thấp, dẹt thường có cái nhìn thiển cận, đa tình đa cảm, dễ thỏa mãn, bị dụ dỗ và chi phối. Cho nên người xưa không chọn họ làm chính thất mà phù hợp làm thiếp hay vợ kế hơn. Đặc biệt, phụ nữ có chóp mũi nhọn như kiếm khắc chồng, không tương trợ cho chồng con trong đời sống.

Chi ra tuong phu nu khac chong, khong nen lay lam vo hinh anh 2
Tướng phụ nữ khắc chồng
 

6. Răng mọc không đều
 

"Cái răng, cái tóc là góc con người", cổ nhân đã có câu như thế. Phụ nữ hàm răng mọc lộn xộn, không đều làm cho khuôn mặt phá tướng, không thành thực, tính gian ngoan, hay reo rắc thị phi. Đàn ông dễ bị họ lừa tình vì người kiểu này hay giả nghèo, giả khổ chuộc lợi. 

 

7. Giọng nói trầm đục
 

Nữ nhân có giọng nói uyển chuyển, mềm mại, có khí chất, đa phần có tính cách thân thiện, hiền hòa, chắc chắn là người vợ đảm đang, người mẹ tốt. Ngược lại, nếu như âm giọng quá trầm kiểu đàn ông là có khả năng sát chồng, có hại đến con cái và thường dễ nổi giận mặc dù họ cũng dễ mang đến phúc đức cho gia đình, bản thân. 
 

8. Một số đặc điểm khác
 

Phụ nữ có tướng mạo khắc chồng còn có những đặc điểm sau:
- Trán vuông, mày lớn cao và đậm
- Trán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm - Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết - Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau - Xương che lỗ tai (mạng môn cốt ) nổi cao - Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi
* Bài viết chỉ mang tính chất nghĩa tham khảo
 
Những nét tướng phụ nữ bất hạnh trong hôn nhân
Chất tóc khô cứng, môi miệng cong, mắt lộ hung quang... là một trong những nét tướng phụ nữ dễ gặp bất hạnh trong hôn nhân.
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ ra tướng phụ nữ khắc chồng, không nên lấy làm vợ

Bí ẩn về 4 viên đá quý nguy hiểm nhất thế giới

Những viên đá quý này đều rất đắt giá nhưng không ai muốn sở hữu chúng. Những yếu tố tâm linh kỳ bí xoay quanh những hòn đá chết
Bí ẩn về 4 viên đá quý nguy hiểm nhất thế giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Kim cương Koh-i-Noor và lời nguyền chỉ dành cho đàn ông

 Viên kim cương Koh-i-noor được mệnh danh là viên kim cương đẹp nhất thế giới. Hiện nó đang được gắn lên vương miện của nữ hoàng Anh.

Theo lời đồn đại, bất kỳ người đàn ông nào mang viên kim cương này đều có một kết cục thảm thương, chỉ có Thượng đế hoặc những người phụ nữ mới có thể mang nó mà không bị trừng phạt.

Kim cương đẹp nhất thế giới

Sự thật về viên kim cương đẹp nhất thế giới

Lời nguyền đã thực sự xảy ra vào thế kỉ 16, vua Mughal sở hữu viên kim cương đã bị trục xuất khỏi vương quốc. Người kế vị là Shah Jahan sau đó đã gắn nó lên ngai vàng và bị con trai giam giữ tới già. Tiểu vương Duleep Singh cống nạp Koh-i-Noor cho Anh, đã được nhận khoản tiền 50.000 bảng Anh/năm, nhưng rồi cũng phải chết trong cảnh nghèo đói tại Pháp năm 1893.

Đến nay, viên kim cương Koh-i-Noor thuộc quyền sở hữu của nữ hoàng Anh Elizabeth II. Nó được bảo quản trong Tháp Luân Đôn như một phần trong bộ sưu tập châu báu của Hoàng gia Anh.

2. Viên kim cương Hope

Hope (Hi vọng) là một viên kim cương đặc biệt nặng 45,52 carat, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên Smithsonian, Washington. Bằng mắt thường, nó có màu xanh đậm. Khi soi dưới ánh đèn tia cực tím, nó sẽ phát ra ánh sáng màu đỏ. Hiện tại, viên kim cương đang được sử dụng làm mặt của một sợi dây chuyền được gắn 61 viên kim cương khác.

Viên kim cương Hope

Truyền thuyết kể rằng, viên kim cương này ban đầu được gắn vào một bên mắt của nữ thần Sita linh thiêng của người Hindu và nặng tới 123 carat. Sau đó, nó đã bị những tên trộm lấy đi mất. Lập tức, các trưởng lão Bà la môn đã sử dụng bùa chú, reo rắc lời nguyền khủng khiếp giáng xuống đầu bất cứ kẻ nào nắm giữ viên đá quý.

Liên tiếp những người chủ sở hữu của viên đá quý gặp tai họa, như vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette bị chém đầu; nhà buôn Simon Frankel gặp rất nhiều khó khăn về tài chính và phải bán kim cương; và tai ương nhất là quý bà Evalyn Walsh McLean bị khánh kiệt, chồng li dị, con trai gặp tai nạn ô tô qua đời, con gái chết vì sốc thuốc.

Sau đó, không ai dám sở hữu viên đá quý này và nó đã được hiến tặng lại cho Bảo tàng Smithsonian.

3. Con bọ hung bằng ngọc và lời nguyền chết chóc

Con bọ hung bằng ngọc và lời nguyền chết chóc

Người Ai Cập cổ đại luôn nổi tiếng với những lời nguyền nhằm bảo vệ lăng mộ Pharaong khỏi đạo tặc. Một trong số đó là lời nguyền lên viên ngọc hình con bọ hung bằng ngọc của vua Tutankhamun :"Kẻ nào dám quấy rầy giấc ngủ của Pharaoh, đều phải chết!"

Một linh hải quân người Nam Phi sau đó đã sở hữu viên ngọc quý. Theo ghi nhận, người lính này đã bị chết đuối trong một lần đi biển. Không lâu sau, con gái ông ta cũng qua đời vì bệnh máu trắng.

Do quá sợ hãi, vợ của người lính hải quân đã bán lại con bọ hung bằng ngọc cho một người phụ nữ Nam Phi khác. Con gái của người này cũng bị chết vì bệnh máu trắng, còn chồng bà thì qua đời đột ngột không rõ nguyên nhân. Bà ta sau đó đành phải giao lại con bọ hung bằng ngọc cho Chính phủ.

4. Thạch anh tím Delhi

Viên đá thạch anh tím Delhi được mang từ Delhi, Ấn Độ tới Anh bởi một Đại tá người Bengal có tên W. Ferris. Từ khi sở hữu viên đá, gia đình của ông dần dần khánh kiệt, bản thân ông sức khỏe ngày càng suy sụp và chết. Viên đá được trao lại cho vị con trưởng, nhưng không ngờ một thời gian sau, ông cũng bị thiệt hại tài sản rất nặng, phải sống trong nghèo khổ tới cuối đời.

Thạch anh tím Delhi

Những người sở hữu sau của viên đá cũng nhận phải nhiều tai ương đó là nhà khoa học Heron Allen và sau đó là hai người bạn khác của ông. Đến năm 1904, ông đã phải chôn viên đá và dặn con cháu đào lên sau khi ông chết được 30 năm.

Con gái ông làm theo và nhận được lời cảnh báo đi kèm viên đá của cha rằng “Hãy ném chiếc hộp cùng viên đá xuống biển”. Tuy nhiên, bà đã không ném đi mà tặng cho Bảo tàng Lịch sử tự nhiên.

Nhiều năm sau, một cựu Giám Giám đốc thư viện tên là John Whittaker đã mang câu chuyện kỳ lạ về viên đá đến một hội nghị chuyên đề về nhà khoa học Heron Allen.

Sau khi buổi hội nghị lần thứ nhất, hai vợ chồng ông gặp phải trận mưa bão kì lạ. Đêm trước khi hội nghị thứ hai, ông đã phải chịu một trận đau nặng và phải vào viện phẫu thuật. Đến hội nghị thứ ba thì ông không thể đến dự vì bệnh sỏi thận và phải phẫu thuật lần hai.

Theo Tạp Chí Tâm Linh Bốn Phương


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn về 4 viên đá quý nguy hiểm nhất thế giới

Mơ thấy mình khóc –

Trong chiêm bao bạn mơ thấy mình khóc nức nở, bạn lo lắng không biết có điềm báo xấu hay tốt. Nhưng theo các chuyên gia giải mã giấc mơ đã nghiên cứu và chứng minh được răng nước mắt sẽ cuốn trôi mọi nỗi buồn. Trong giấc mơ, nó là điềm báo thuận lợi.
Mơ thấy mình khóc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mình khóc –

Thầy Lác

Thầy Lác là một truyện ngắn kinh điển của tác giả Thao Thao (Cao Bá Thao) viết bóc mẽ giới các thầy tướng số. Từ đó giúp người đọc có cái nhìn chính xác, đầy đủ hơn về việc xem tướng số.
Thầy Lác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là một truyện ngắn mà cũng là một bức vẽ. Nên không phải một cây bút họa công và nếu không có con mắt quan-sát tinh-tế, đâu có được những nét truyền thần ấy!

THẦY LÁC

Truyện ngắn của Thao-Thao

Tôi đã được nghe nói nhiều về ông thầy tướng số ấy. Mọi người quen gọi là thầy lác. Vì mắt hơi lác lác. Sự thật thì là bạch tình lộ.

Thầy lác, ngoài cái đặc điểm khi nói không nhìn thẳng vào mắt ai bao giờ, lại còn đặc điểm này nữa: ít nói.

Lúc nào cũng cứ lầm lầm, lỳ lỳ. Chính vì cái đặc điểm lầm lầm lỳ lỳ đó mà nhiều người phục thầy lác vô kể. Phục... vì, thầy lác, khi nào đã nói thì cứ như đanh đóng cột. Nghĩa là không sai bao giờ.

Không mở ngôi hàng xem tướng, thầy lác không có chỗ ngồi nhất định như những ông thầy tướng khác.

Nay nhà này, mai nhà nọ, thầy lác thường đóng đô hàng tháng ở nhà những người bạn giàu có hết sức thù phụng thầy. Và thầy lác ngồi xem tướng ngay ở nhà người bạn giàu có đó.

Phải là người giàu có lắm, giầu của đã đành lại còn phải giầu lòng tin tưởng và nhất là giầu lòng hào hiệp mới có thể lưu được thầy lác ở nhà. Bởi thầy lác là người khó tính lắm.

Đến nhà nào thầy phải ở riêng một nơi thật tĩnh mịch. Không uống rượu, thầy "ăn thuốc". Hút thật nhiều. Nhiều gấp hai ba mọi người. Sau mỗi bữa cơm đem lại phải có hoa quả tráng miệng.

Thầy không lấy tiền của ai. Người nào muốn thầy xem cho chỉ việc đỡ chủ nhà hai khoản đó: thuốc phiện và hoa quả.

Thế rồi, một mình - thầy chỉ tiếp một người một thôi - vào ngồi từ bi từ tại hàng giờ ở trước mặt thầy nhìn thầy hút, nhìn thầy ăn - ăn lê, ăn táo - và đợi thầy xem.. tướng cho.

Trong khi hút - thầy tiêm lấy - thầy chỉ thỉnh thoảng đưa cặp mắt bạch tình lộ - không phải mắt trắng rã - liếc nhìn người ngồi cung kính trước mặt thầy. Rồi như khám phá ra được điều bí quyết gì, thầy gật gật giây lâu rồi, im lặng, mơ màng nhìn khói thuốc phiện thở ra mờ tỏa chung quanh...

Một lúc sau, thầy lại liếc nhìn như thế. Lại gật gật như thế. Lại mơ màng nhìn khói thuốc như thế.

Vài giờ sau, xong bữa cơm nâu, thầy lác ngồi lên, ung dung gọt vài quả lê hay quả táo, thủng thẳng vừa nhai vừa nói...

Thầy lác nói về quá khứ. Một vài điều về quá khứ. Ít thế thôi. Nhưng là một vài điều đáng tiền, à! Đáng thuốc, đáng lê, đáng táo...

Thật vậy. Nó đúng quá. Nó làm người nghe phải lạnh người, chỉ muốn van thầy lác đừng nói nữa.

Thầy lác, tức thì, mỉm cười, khoan khoái... Người nghe vừa nói, thấy thầy lác ngừng lại thì cúi gầm mặt xuống, vẻ sượng sùng...

Một ngời bạn thân được thầy lác xem cho, đã thân mật nói với tôi như thế này:

- Giỏi thật. Thầy lác bảo tôi thường có những mối tình thầm vụng với người trong nhà... Việc đó, tôi giữ bí mật lắm. Không ai biết cả. Thế mà thầy lác "gọi" ra!

Một người bạn gái - vâng người bạn gái của tôi - cũng đã thân mật nói với tôi như thế này:

- Thầy lác đã làm em sượng sùng chết được. Thầy bảo em phải... lưỡng phu quân. Phu quân thứ hai lại là... và.. Nhưng thôi. Còn một vài người bạn trai, bạn gái khác đã thân mật nói lại với tôi, thầy lác bảo thế này, thầy lác bảo thế nọ; nhưng, nhắc lại, cũng chẳng hơn gì. Vì.. toàn những chuyện bí mật, thuộc về đời riêng của người ta cả. Có điều... sao không thấy các ông thầy tướng khác nói đến?

Sau khi nói cho nghe một vài điều đặc biệt ấy, thấy đã chiếm được lòng tin phục của người ngồi nghe, thầy lác mới mạnh bạo tấn công:

-Tháng vừa rồi bà vừa thua thiệt một món tiền lớn hàng vạn. Bị bạn lừa... Đích bị bạn lừa!.

- Nhất định cụ nhà thế nào cũng qua đời vào ngày mão này Phải Nhất định ngày mão, giờ ngọ.. (Ông cụ ấy tuổi Dậu, mà năm là năm Tý!)

- Nhất định tháng sau bà sẽ ốm lượt giường.

- Nhất định sang năm ông sẽ được cất nhắc, cuộc đời sẽ thay đổi hẳn...

- Nhất định, sang năm ông sẽ tan nát cơ nghiệp.

Và nhiều nữa. Nhiều nữa. Với người nào, thầy lác cũng làm cho hoảng, hay làm cho mừng... Nhưng chỉ hoảng trong giây lát và cũng chỉ mừng trong giây lát... Vì thầy lác bảo:

- Tháng sau bà sẽ ốm liệt giường đấy, có thể gần đất xa trời được; nhưng.. nhưng nếu bà nghe tôi...

Bà nọ vội vàng:

- Vâng. Xin nghe thầy. Trăm sự nhờ thầy trỏ đường sống cho.

Chậm rãi, thầy lác gật gù vừa nhai nốt miếng táo, vừa nói:

- Bà phải nghe tôi về kê ngay lại giường bà nằm. Phải đầu "gối" hướng Đông, chân "đạp" hướng Tây. Bà cứ về kê lại như thế. Rồi bệnh sẽ qua khỏi và rồi làm ăn sẽ vô cùng thịnh vượng.

Và bà này đã về kê ngay lại giường nằm. Bà ấy đã ốm và đã khỏi. Và đã trở lên giầu có sau mấy chuyển buôn. Đa-dơ-năng về hậu phương, không bị vấp váp.

Với ông sắp được cất nhắc thầy lác bảo:

-Sang năm thì ông sẽ một bước nhảy lên quan, vì có quan thầy đỡ đầu; nhưng.. ông phải nghe tôi...

Ông nọ vội vàng ngồi nghiêm chỉnh hơn, trịnh trọng hơn:

- Vâng. Xin thầy làm ơn chỉ bảo cho. Nếu đúng như lời thầy nói tôi sẽ hậu tạ thầy thật xứng đáng.

Thầy lác bắt lời ngay:

- Đừng sai nhời nhé. Một nghìn?

Ông nọ vội suýt soa:

- Vâng. Xin có một nghìn.

Và xin đưa trước năm trăm. Nhé tiền vào ví xong, thầy lác ung dung truyền phán:

- Đầu sang năm, ông phải đeo kính gọng vàng, quan thầy trông thấy tự nhiên tin yêu ông. Rồi ông sẽ được cất nhắc như lời tôi nói.

Ông nọ, về mua sẵn ngay kính gọng và chờ đầu năm sau đeo lên sống mũi nom thật là đạo mạo. Và năm sau, ông nọ được quan thầy cất nhắc thật. Đúng như lời thầy lác đã nói.

Với ông sắp bị tan cơ nghiệp thầy lác nói:

- Sang năm thì thế nào ông cũng đi đời cả cơ nghiệp đấy. Nhưng nếu ông nghe tôi...

Ông này rắn rỏi đợi chờ:

- Xin thầy cứ cho nghe...

Thầy lác ngập ngừng rồi nói:

- Tôi chắc bảo thì bảo ông cũng chẳng tin nghe nào. Và vì thế, tôi e ông sẽ tan cơ nghiệp mất.

- Thì thầy cứ nói.

Miễn cưỡng thầy lác nói:

- Ông nên nghe tôi may quần áo màu nâu gạch mà mặc.

- Sao lại dùng mầu nâu gạch? Dùng màu khác thì sao?

- Thì không ăn thua gì chứ sao!

- Thầy nhất định tôi phải dùng mầu nâu gạch mới khỏi tan cơ nghiệp. Có phải không?

- Phải.

Ông nọ đứng lên, đầy vẻ hoài nghi:

- Có lý nào! Tôi đánh bạc! Tôi không chung vốn buôn to nữa! Thử xe có việc gì không nào?

Và nhất định không may quần áo màu nâu gạch. Năm sau, thủ đô xảy ra nạn khói lửa. Mấy ngôi nhà của ông nọ thành tro than cả.

Thế là thế nào? Phải. Thế là thế nào? Kê lại giường nằm, đầu gối hướng Đông, chân đạp hướng Tây thì khỏi ốm, thì phát tài? Đeo kính gọng vàng thì được quan thầy cất nhắc thay đổi hẳn cuộc đời? mặc quần áo mầu nâu gạch thì không bị tan cơ nghiệp? Cưỡng lại, không chịu nghe lời thầy lác thì có mấy ngôi nhà thành tro than cả mấy. Thế là thế nào? Phải. Thế là thế nào? Lại còn thế này nữa: ông này đến năm ấy phải để râu thì mới đại phát tài, ông này phải húi trụi đầu đi thì mới có lộc, bà này lúc nào cũng phải đeo thật nhiều vàng ở cổ tay mới phát được.

Thế là thế nào? Phải. thế là thế nào?

Câu hỏi ngờ vực, đầy sự bán tín, bán nghi ấy cứ luôn luôn lởn vởn ở đầu óc tôi. Nhiều lúc tôi vò đầu, vò tai, tự hỏi:

- Có thể như thế được không?

Nhưng vô ích. Tôi chỉ làm tội cái đầu, cái tai của tôi phải rối lên, phải đỏ bừng lên chứ có ăn thua gì? Thế rồi, nghĩ mãi vẩn cả óc chẳng tìm ra lý lẽ gì cả, tôi bực mình hạ lệnh cho tôi nhất định không bao giờ thèm nghĩ đến chuyện khó hiểu ấy nữa.

Bẵng đi ít lâu. Một hôm một chuyện xẩy ra đã khiến tôi lại nghĩ đến... Mà không sao nghĩ được?

Việc xảy ra ngay bên nhà hàng xóm.

Bà Bốn bán bánh cuốn, ế hàng, không tiền đóng họ góp năm, sáu ngày còn đọng lại bị người chủ họ ỉ eo điều tiếng. Chẳng hiểu bà Bốn nghĩ ngợi quẩn chí thế nào, bà treo cổ tự tử. Đàn con nhỏ của bà ta, có đứa trông thấy, khóc ầm lên. Hàng xóm đổ sang đỡ bà ta xuống, thoát chết. Trong số những người sang thăm hỏi bà ta có tôi và anh Kiến, bạn cùng sở, ở cạnh nhà tôi.

Anh Kiến đã ôn tồn bao bà Bốn như thế này:

- Bà không phải lo gì nữa. Chỉ dăm hôm nữa bà sẽ có người mang đến bạc vạn tận nhà giao cho bà. Bà sẽ tha hồ mà tậu nhà...

Lúc ấy, nghe anh Kiến nói thế tôi cũng chỉ cho lời nói an ủi của một người hàng xóm với nhau

Bất ngờ, năm hôm sau đó một người đã cao tuổi, tay ôm một gói chăn có vẻ nặng nề bước vào nhà bà Bốn. Thấy người này, bà Bốn reo lên:

- A! Cụ Cả! Cụ mới ở hậu phương về à?

Vâng, tôi về thăm nhà cửa nhưng đổ cả. Đêm nay, tôi đến đây ngủ nhở một đêm, bà có cho ngủ không?

- Xin cụ cứ chiếu cố. Chỗ người làng, người nước với nhau!

Thế rồi cụ Cả đi tìm chỗ để gói chăn. Bà Bốn trông thấy gói chăn có vẻ nặng nề thì hỏi:

- Gói gì mà có vẻ nặng thế cụ?

A! Một vài thứ đồ đồng tôi bới được ở trong đống vôi gạch ra ấy mà!

Đêm hôm ấy, cụ Cả đi ra ngoài để tiểu tiện chẳng may trúng phải gió độc. Năm phút sau thì cụ Cả tắt thở. Trước khi nhắm mắt, cụ Cả gọi bà Bốn giao cho cho gói chăn kia. Dở ra, bà bốn thấy hai chục thoi vàng nằm trên hai nghìn tờ giấy một trăm cũ.

Theo lời cụ Cả đã trối trăng lại với bà Bốn thì đó là của trôn ở trong nhà trong của cụ Cả ở phố Hàng H.. vừa đào lên. Chỗ của đó, cụ Cả trao cả cho bà Bốn để nuôi con cái vì cụ Cả chẳng còn biết trao cho ai; con trai độc nhất của cụ Cả đã thiệt mạng ở ngoài hậu phương.

Sau khi an táng cụ Cả xong, bà Bốn vung tiền tậu hai ngôi nhà, một để ở, một cho thuê...

Thế là thế nào? Phải, thế là thế nào? Anh Kiến, bạn tôi cũng là thầy tướng chăng? Không là thầy tướng thì sao lại nói đúng như thế được: năm hôm sau nữa, bà sẽ có người mang của đến tận nhà giao cho bà. Bà sẽ tha hồ tậu nhà?

Tôi quyết phải hỏi cho ra. Nhưng anh Kiến cứ trối bai bải mãi. Anh nhất định câu nói của anh chỉ là câu nói để an ủi bà Bốn đang lúc cùng quẫn. Nếu đúng thì chẳng qua là sự ngẫu nhiên thôi. Không nên tin làm gì cả.

Nhưng tôi không nản lòng. Tôi đem những chuyện nghe được ra thuật lại tường tận với anh, mong anh giảng giải để tôi khỏi phải khổ sở về nỗi bán tín, bán nghi..

Thấy tôi khẩn khoản thật lòng, anh Kiến, không sao được, đành phải lên tiếng:

- Cứ theo như anh nói thì thầy lác đã trộn lẫn tướng với số để mê hoặc mọi người. Thầy lác đã lợi dụng cái biết về tướng, số để đón trước việc cát hung của đời người. Thầy lác thấy bà này sắp ốm, và sau khi ốm, sẽ gặp nhiều sự may mắn về tiền tài thì mượn chuyện xoay giường, xoay hướng để mưu kiếm chác. Thấy ông kia sắp động về công danh thì mượn chuyện xoay giường, xoay hướng để mưu kiếm chác. Thấy ông kia sắp động về công danh thì mượn chuyện kính gọng vàng để sơi ngon năm trăm và còn nhiều nữa. Thấy ông này sắp bị tan cơ nghiệp, thì mượn chuyện quần áo mầu nâu gạch để rử. Nếu ông này nghe lời, thì thầy lác sẽ bảo thêm cho biết, sau năm năm chẳng hạn, ông này sẽ lại khôi phục được cơ nghiệp. Tôi không biết thầy lác có nói thêm như thế hay không. Nếu có nói thì nhất định ông này, sau khi ở hậu phương ra, sẽ mặc quần áo mầu nâu gạch cho mà xem!

Tôi hỏi:

- Hình như tướng có thay đổi kia mà? Trong sách chẳng khối chỗ nói người này, người nọ bị thầy tướng chê là tướng bần tiện thế mà, ít lâu sau, thầy tướng đó đã đổi dọng:

Ông sắp phú quý đến nơi rồi!

Hỏi ra mới rõ người bị thầy tướng chê vừa cứu được một người thoát chết đuối.

Anh Kiến nói:

Tướng người ta có thay đổi, nhưng đó là những trường hợp đặc biệt. Việc cứu người không phải là việc thường xảy ra. Thí dụ người tướng bần tiện, có thể nói là tướng chết đói. Vì tướng "đằng sà nhập khẩu". Nhưng vì làm một việc đại phúc nên, trong lòng vui thích, tướng nhân thế thay đổi. Tướng "đằng sà nhập khẩu" biến thành tướng "thanh long quá giang".

Tướng biến vì là tâm biến. Cái tâm mới là quan trọng. Đổi được cái tâm có phải chuyện dễ đâu?

Còn đổi những cái bề ngoài như để râu chỉ là để chữa một phần nào. Dùng màu sắc để chế hóa theo ngũ hành, tôi tin chỉ là trò bị bợm..

Để kết luận, anh Kiến nói:

- Biết tướng để trỏ bảo họa phúc cho người đời thì được; nhưng để thay đổi họa phúc thì không có lý nào! Định mệnh là định mệnh.

Khi chia tay, anh Kiến thân mật bảo tôi:

- Thí dụ tôi biết tướng, tôi cũng không bảo anh. Vì, biết anh chỉ luẫn quẫn với anh, không ích lợi gì cả. Cứ làm cứ ăn. Cái dở trong cái hay. Cái hay trong cái dở. Đời là một cuộc biến chuyển phiền phức, sao ta lại cứ tin những anh thầy lác để ta luẫn quẫn với ta làm gì?

Từ hôm ấy, tôi hết bán tín, bán nghi.

Tác giả: Thao Thao

-----------------------------------------------

Mình gõ lại theo link: http://baochi.nlv.gov.vn/baochi?a=d&d=HxpJ19490320.2.13#

Đây là một truyện ngắn kinh điển của tác giả Thao Thao viết được mọi người đánh giá rất cao. Bóc mẽ được các mánh khóe của thầy Tướng Số.

Về tác giả Thao Thao: Link Wiki: http://vi.wikipedia.org/wiki/Thao_Thao

Ông sinh ngày 11 tháng 6 năm 1909, tại xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ông là cháu xa đời của danh nhân văn hóa Cao Bá Quát: 1809-1865. Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở thị xã Bắc Ninh.

Tác giả Thao Thao viết loạt sách:

  1. Tự điển tử vi (1950)
  2. Xem tướng lấy (1952)
  3. Tướng pháp thực hành (1952)
  4. Nhìn mặt đoàn người (1952)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thầy Lác

Tiết Thu Phân - Nửa mùa thu trôi qua

Tiết Thu Phân bắt đầu từ ngày 22 hoặc 23 tháng 9 hàng năm, đánh dấu thời điểm mùa thu đã trôi qua một nửa, thời tiết từ nóng chuyển lạnh, âm thịnh dương suy.
Tiết Thu Phân - Nửa mùa thu trôi qua

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiết Thu Phân bắt đầu từ ngày 22 hoặc 23 tháng 9 hàng năm, đánh dấu thời điểm mùa thu đã trôi qua một nửa, thời tiết từ nóng chuyển lạnh, âm thịnh dương suy, ngày dài đêm ngắn.


► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Tiet Thu Phan - Nua mua thu troi qua hinh anh
 
Tiết Thu Phân là một trong 24 tiết khí âm lịch hàng năm, đại diện cho sự thay đổi của khí hậu. Ở khoảng thời gian này Nam Bắc bán cầu hai nửa bằng nhau, lại đúng vào thời điểm mua thu đã qua đi một nửa, nên mới có tên gọi Thu Phân.    Ở tiết khí này, Mặt Trời đi qua kinh độ 180 độ, thẳng với Xích Đạo nên thời gian chiếu sáng ở các điểm bằng nhau, đêm ngày đều là 12 giờ. Nên trong “Xuân Thu phồn lục” có viết: Trong tiết Thu Phân, âm dương mỗi bên một nửa, ngày đêm đều không nóng không lạnh.   Mặt Trời chiếu thẳng đến Xích Đạo của Trái Đất, khi Trái Đất xoay, càng về phía Nam thì Bắc bán cầu càng gần với trường hợp ngày ngắn đêm dài, nhiệt độ tương đối thấp.   Trong tiết Thu Phân, khí khô bắt đầu bốc cao, sinh ra cảm giác háo nóng, chân tay nứt nẻ, phổi khí bị tổn hại. Cân bằng âm dương là trọng điểm đối với dưỡng sinh trong tiết Thu Phân. Cần bổ sung nhiều các thực phẩm có tính mát, bình kết hợp với thực phẩm ấm, nóng để giữ cho cơ thể luôn hài hòa, không bị khí khô xâm chiếm, cũng không bị khí âm hàn lạnh chiếm đóng.
Tiet Thu Phan - Nua mua thu troi qua hinh anh
 
Nên ăn các loại rau củ như súp lơ, cà rốt, xà lách, bí đỏ, củ cải, mộc nhĩ, củ từ, khoai lang,.. chứa nhiều vitamin và khoáng chất có lợi cho sức khỏe. Nên ăn thịt vịt, thịt dê – những loại thịt có hàm lượng protein cao nhưng lượng mỡ thấp, tính ấm, giúp cơ thể chống lại âm khí ngày một tăng mạnh trong môi trường.   Ngoài ra, vận động phù hợp cũng giúp thân thể cảm thấy sảng khoái, dễ chịu hơn, máu huyết lưu thông, phổi nở, khí trường, không chỉ mạnh khỏe hơn mà tinh thần sẽ sảng khoái, dễ chịu, tránh cảm giác âu sầu, buồn bã, tiêu cực thường thấy trong mùa thu.   Ngủ sớm, dậy sớm, tiếp thu ánh nắng buổi sáng trong tiết thu phân có lợi cho đường hô hấp và cân bằng âm dương trong cơ thể. Càng vào những ngày âm u càng nên tranh thủ chút nắng sớm này để hấp thụ dương khí.
Dưỡng sinh trong tiết Bạch Lộ, an tâm tĩnh thần Điểm vận 12 chòm sao trong tiết Thu Phân Tiết Xử Thử - tiết khí đẹp nhất trong năm
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Thu Phân - Nửa mùa thu trôi qua

9 nét đáng yêu của chòm sao Kim Ngưu

9 điều “yêu yêu” về chòm sao Kim Ngưu sẽ khiến bạn cảm thấy con người này thú vị hơn rất nhiều so với vẻ bề ngoài ù lì, chậm chạp.
9 nét đáng yêu của chòm sao Kim Ngưu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

‎9 điều “yêu yêu” về chòm sao Kim Ngưu sẽ khiến bạn cảm thấy con người này thú vị hơn rất nhiều so với vẻ bề ngoài ù lì, chậm chạp.


9 dieu yeu yeu cua rieng Kim Nguu hinh anh
 
1. Thích ăn đồ mềm hơn đồ cứng, Kim Ngưu thích những thứ nhẹ nhàng, dễ “chén”.
 
2. Vẻ ngoài lạc quan, nội tâm bi quan. Suy nghĩ cảm tính. Thế nên chòm sao Kim Ngưu cứ hay bị tự kỉ, tự dọa mình.
 
3. Hay nhiệt tình giúp đỡ bạn bè mà nhiều khi thiếu cảnh giác nên Kim Ngưu bị lừa. Buồn buồn rồi lần sau lại vậy, tính không sửa được.
 
4. Lạnh lùng với người lạ, với bạn bè thân thiết thì cởi hết tấm lòng. Thế nên đừng ai nghĩ Kim Ngưu khó gần nhé.
 
5. Luôn cố tỏ mạnh mẽ nhưng thực chất cũng mềm yếu như ai, vẻ ngoài ấy khiến họ hay bị hiểu lầm nhưng bản thân họ lại tỉnh bơ không thèm giải thích.
 
6. Vô cùng lười biếng, thích ngủ nướng và tâm hồn treo ngược cành cây, giả vờ ngốc nghếch. Kim Ngưu cứ thích nhàn rỗi trong sự ngốc nghếch vậy đấy.
 
7. Thích tiền nhưng không hay chấp nhặt chuyện tiền bạc. Kim Ngưu tiêu tiền khá rộng rãi đấy.
 
8. Ghét phải làm những việc nhàm chán vô vị, Kim Ngưu không muốn phải làm lặp đi lặp lại một việc nhiều lần.
 
9. Rất sợ bị cô lập hay bị người họ quan tâm phớt lờ. Kim Ngưu luôn quan tâm, chăm sóc tới mọi người xung quanh và cũng mong muốn nhận được tình cảm, sự gần gũi từ mọi người. Nếu bị lãng quên, họ sẽ rất tủi thân.
Theo Mật ngữ 12 chòm sao

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 nét đáng yêu của chòm sao Kim Ngưu

Nên chọn địa điểm mở cửa hàng rộng rãi, tránh chật hẹp –

Khi lựa chọn căn nhà theo phong thủy, yêu cầu trước mặt căn nhà phải rộng rãi để tiếp nhận sinh khí từ bốn phương tám hướng, cũng có nghĩa là chào đón khách hàng từ khắp nơi đến ký hợp đồng. Đối với cửa tiệm có mặt tiền chật hẹp hoặc bị cửa hàng khác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chắn mất, có bốn cách cải thiện như sau:

– Cố gắng dẹp bỏ vật cản trước cửa hàng để mặt tiền hiện ra.

– Đối với mặt tiền chật hẹp không thể sửa chữa được thì nâng cao mặt tiền lên để cho khách hàng từ xa cũng có thể nhìn thấy cửa hàng.

– Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, vô tuyến, biển quảng cáo để tuyên truyền, quảng cáo cố gắng làm cho khách hàng biết được địa chỉ cửa hàng, hàng hóa kinh doanh và đặc điểm dịch vụ của cửa hàng.

– Tích cực tham gia những hoạt động từ thiện để quảng bá danh tiếng của cửa hàng.

Năm 2004 quẻ Cấn bát vận bắt đầu chuyển động, quẻ Cấn tượng trưng cho núi cao. Bát vận chuyển động, núi cao cũng chuyển động, các cao nhân sống trong núi cũng thay đổi tâm lý, cùng xuống núi mưu cầu công danh. Điều này có nghĩa là ngũ thuật: sơn, y, mệnh, bặc, tướng của các sơn nhân nêu lên chắc chắn sẽ tung hoành thiên hạ trong năm bát vận (2004 – 2023).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên chọn địa điểm mở cửa hàng rộng rãi, tránh chật hẹp –

5 con giáp đào hoa đấy nhưng chớ vội chủ quan

Sức hấp dẫn của người tuổi Dậu tăng lên đáng kể nhờ vận đào hoa nâng bước. Đây là một trong những con giáp đào hoa nhất trong tháng 6.
5 con giáp đào hoa đấy nhưng chớ vội chủ quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Bước sang tháng 6, vận đào hoa của những con giáp dưới đây rất vượng. Tuy nhiên lại rơi vào cục diện trong cát tàng hung, đừng vội đắc ý hay chủ quan.


1. Người tuổi Tý   Sang tháng 6, người tuổi Tý gặp cục diện Tý Ngọ tương xung. Nhưng vận đào hoa lại cực vượng. Vì thế, con giáp này tiềm tàng nhiều nỗi lo lắng, bất an, nhất là những ai 32 tuổi.   Vận đào hoa vượng tuy tốt đấy nhưng lại gặp cục diện tương xung, tình yêu có thể nở hoa nhưng chưa chắc đi tới bến bờ hạnh phúc cuối cùng. Nhất là những ai đã kết hôn, vận đào hoa càng nhiều càng dễ gây phiền nhiễu, hạnh phúc gia đình bị đe dọa.   Đối với người độc thân, khả năng thoát khỏi sự đeo bám của kiếp FA rất cao. Bạn có thể chủ động mở rộng mối quan hệ xã giao, nhờ bạn bè giới thiệu hay người thân mai mối… Dẫu vậy, luôn giữ thái độ khiêm tốn, tránh khoa trương để rồi tuột khỏi cơ hội tốt đẹp.  
5 con giap dao hoa day nhung cho voi chu quan hinh anh 2
 
2. Người tuổi Dần   Bước vào tháng 6, người tuổi Dần đón Hồng Nhan tinh nhập cung Hôn nhân. Điều này đồng nghĩa với vận thế tăng, nhất là về phương diện tình duyên. Thế nên, đây cũng là một trong những con giáp đào hoa nhất tháng 6.   Người tuổi Dần độc thân được cát tinh tương trợ, vận đào hoa thăng cấp bất ngờ, không khó để gặp được đối tượng ưng ý, thậm chí có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc.   Nhưng với người đã kết hôn lại không hề đơn giản. Cát tinh khiến đời sống tình cảm của bạn muôn phần phong phú, không tiết chế cảm xúc tốt, e rằng sẽ lạc quá sinh bi, tự mình đánh đổi hạnh phúc lâu dài để có được niềm vui chớp nhoáng.   Xem lịch tránh tháng xấu không nên đi xa cho 12 con giáp Chỉ ra 3 con giáp trọng tình cảm, coi tình bạn là trên hết 5 con giáp có sự nghiệp thành công rực rỡ nửa cuối năm 2016
3. Người tuổi Ngọ
  Tháng 6 chính là tháng của bản mệnh Ngọ. Con giáp này được Nguyệt Đức quý nhân phù trợ, có sức mạnh biến hung thành cát trong phương diện tình cảm. Nhờ nguồn năng lượng tích cực của cát tinh, vận thế người tuổi Ngọ dần được khôi phục và thăng cấp.

Người độc thân có Nguyệt Đức đứng ra làm mai mối, tỉ lệ tìm được đối tượng ưng ý rất cao. Lại có thêm Dịch Mã tinh thôi thúc, cơ hội thoát khỏi kiếp FA là vô cùng vô tận.    Nhưng những ai đã có đôi có cặp cần hết sức cảnh giác. Vận đào hoa tăng mạnh khiến bạn rơi vào tình huống dở khóc dở cười. Nếu không sáng suốt, kẻ thứ ba sẽ thừa thắng tấn công, mối tình lâu dài tới đâu cũng có thể đổ vỡ.
 
5 con giap dao hoa day nhung cho voi chu quan hinh anh 2
 
4. Người tuổi Mùi   Tháng này, người tuổi Mùi đi vào cục diện Lục hợp, vận đào hoa càng thêm hưng vượng. Cơ hội tiếp xúc, tạo ấn tượng tốt với người khác giới rất cao, đáng khiến người khác trầm trồ ngưỡng mộ.    Với người độc thân, đây là thời điểm lý tưởng để thực hiện cuộc “tổng tấn công” trên phương diện tình cảm. Nếu đã có người trong mộng, hãy mạnh dạn tỏ tình, tỉ lệ thành công rất cao.   Vận đào hoa tăng khiến những ai đã có nửa kia gặp không ít rắc rối. Tuy bạn không tơ tưởng tới những điều xa vời, nhưng đối phương cứ tấn công, khiến nửa kia của bạn phiền lòng. Mâu thuẫn từ đó nảy sinh. Nếu không bình tĩnh, nhẫn nại để xử lý, mọi việc sẽ rối như tơ vò, khó mà giải quyết triệt để.   Bí kíp bỏ túi để 12 con giáp đỗ đầu mọi kỳ thi 12 con giáp đón tin vui gì trong 6 tháng cuối năm 2016? (P1) 3 con giáp sinh ra đã mang mệnh phú quý hơn người
5. Người tuổi Dậu
  Sức hấp dẫn của người tuổi Dậu tăng lên đáng kể nhờ vận đào hoa nâng bước. Vệ tinh vây xung quanh bạn rất nhiều, không cần phải phiền não về vấn đề tình cảm nữa.    Tuy nhiên, nếu không nghiêm túc trong tình yêu, bạn sẽ dễ phạm đào hoa sát, ngày lắm mối tối nằm không, chưa thể tìm được người thực sự tâm đầu ý hợp để theo bạn suốt cuộc đời.   Những ai đã kết hôn cũng vậy, nên có thái độ rõ ràng về mặt tình cảm. Nếu cứ mải mê chạy theo những thứ không thuộc về mình, bạn sẽ phải lĩnh hậu quả nghiêm trọng. Nên nhớ, gia đình mới là thứ mà bạn cần tôn trọng và gìn giữ trong cuộc đời.   
► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu

Ngọc Diệp
Muốn vượng vận, 12 con giáp nên đi đâu trong tết Đoan Ngọ
Ngũ hành mệnh cách của Thân và Dậu đều thuộc Kim. Thời điểm tết Đoan Ngọ Hỏa vượng khắc Kim, tuy thứ tài khá nhưng hai con giáp này gặp phải không ít chuyện

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 con giáp đào hoa đấy nhưng chớ vội chủ quan

Kiếp trước có ảnh hưởng kiếp này hay không?

Khi chúng ta mang hình dáng con người đến thế gian này, từ cuộc sống chúng ta sẽ có những bài học nhất định về luân hồi và kiếp trước, kiếp sau
Kiếp trước có ảnh hưởng kiếp này hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có lẽ kiếp trước chính là nền tảng để lý giải kiếp này rõ hơn!

Rằng tại sao có người sinh ra đã bị mù, bị giết chết trong chiến tranh? Tại sao có người sống trong cảnh nghèo đói bần cùng trong khi có người lại sống yên bình, hạnh phúc và thu nhập ổn định? Cũng như vậy, tại sao có người liên tục gặp phải những chuyện xui xẻo không may mà họ dường như không cách nào thay đổi được?

Một cách nhìn nhận vấn đề, khi chúng ta mang hình dáng con người đến thế gian này, từ cuộc sống chúng ta sẽ có những bài học nhất định. Thậm chí tới cuối đời gặp thất bại con người mới nhận ra bài học chân thực để làm người, thật quá muộn!

Và thượng đế cho họ một cơ hội khác để “sống tốt hơn” ở một kiếp sống khác – với một bộ dạng và hoàn cảnh khác hoặc có thể giống y đúc với kiếp trước đó. Nhưng những gì xảy ra trong đời của họ là không báo trước. Do đó mâu thuẫn và những khổ nạn bắt đầu phát triển. Đằng sau những thành công, con người để lại cho mình những kinh nghiệm sống cố hữu và theo thời gian trở nên thâm căn cố đế, và thật khó để đột phá.

Thế nên từ quan điểm cuộc sống hiện đại con người không cách nào lý giải được những rủi ro bất hạnh và không cách nào giải thoát tự thân. Thực ra, nó chỉ là một bài học cụ thể được lặp lại để con người hoàn trả món nợ từ kiếp trước.

Liệu họ có nhận ra? May mắn thay có một hình thức khiến con người có thể kết nối với quá khứ gọi là thôi miên. Mỗi việc tốt, xấu, ân oán từ các kiếp sống đều được lưu giữ lại trong bộ nhớ tiềm thức, và trong trạng thái vô thức con người có thể tiến nhập và biết được các mối quan hệ nhân duyên lâu đời của nó.

Sau khi biết được các mối quan hệ nhân duyên từ tiền kiếp, con người hiểu biết và học cách tha thứ để nó không bao giờ trở lại trong kiếp sống này cũng như các kiếp sống tiếp theo nữa.

Hầu như bất kỳ vấn đề nào chưa được giải quyết từ các kiếp đều có liên quan đến sức khỏe, các mối quan hệ, sự nghiệp, tài chính, nỗi sợ hãi, ám ảnh và nghiện ngập trong kiếp này.

Vì vậy cứ để nỗi sợ hãi ám ảnh trong tiềm thức có thể khiến bạn phải chịu một số phận tương tự trong kiếp này. Vì mọi ân oán đều được xóa hoàn toàn bởi sự tha thứ cho thủ phạm và sự hồi tưởng ký ức thông qua người thôi miên hoặc người có năng lực hòa giải.

Dưới đây là những nỗi sợ hãi khác nhau và những trường hợp có thể đã từng phát sinh từ kiếp trước:

  • Sợ phải lãnh đạo – Điều này được gây ra bởi lạm dụng quyền lực trong một cuộc sống quá khứ. Có thể vì điều đó họ đã từng gây ra tội lỗi sai lầm chỉ vì một quyết định mà dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nào đó.
  • Sợ thân mật – Nhiều người gặp phải vấn đề này đã vi phạm hoặc bị lạm dụng trong đời trước, nên kiếp này họ thiếu tin tưởng và nang theo một nỗi sợ hãi khi tiếp cận với người khác.
    Không thể buông bỏ một mối quan hệ- Những người này có thể cần phải giải quyết nợ nần tiền kiếp trước khi chấm dứt mối quan hệ đó. Thông thường, họ không dễ không nhận ra cho tới khi nghiệp đã hoàn thành và đó là thời gian để nó di chuyển.
  • Vấn đề tiền bạc- Đây có thể là một sự tham lam đến mức làm tổn hại tới sức khỏe và kế sinh nhai của người khác trong một kiếp sống. Khiến kiếp sống này có tình trạng khan hiếm tiền tiền bạc, mất mát, thiệt hại tài chính hay những thất bại liên tiếp khiến họ không kiếm được tiền.
  • Tăng cân/vấn đề mất mát – Nhưng đôi khi đây cũng là kết quả của quá khứ thiếu thốn thực phẩm, chết đói. Nên trong kiếp này người ta ăn quá nhiều vì nỗi ám ảnh sợ hãi thiếu ăn trong tiềm thức.
  • Bệnh tật – một số bệnh, đặc biệt là những căn bệnh y học không lời giải, có thể liên quan trực tiếp đến quan hệ nhân quả từ tiền kiếp. Đối với những bệnh tật khác, kiếp trước có thể là một trong những yếu tố góp phần gây ra.

Nhiều người cảm thấy triệu chứng vật lý trong quá trình thôi miên, chẳng hạn như đau đầu hoặc tức ngực, run rẩy cơ thể, khó thở và khóc. Các triệu chứng này biến mất khi gần kết thúc quá trình. Nếu thủ phạm/nạn nhân được cho biết đích danh trong đời này của họ thì cần một cuộc đối thoại để bài trừ những hiểu lầm hiện tại dựa vào quá khứ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiếp trước có ảnh hưởng kiếp này hay không?

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Kiêng kỵ đầu tháng: 7 điều tốt nhất không nên làm vào mùng 1

Những điều kiêng kỵ đầu tháng ngày mùng 1 theo tâm linh thường được mọi người truyền tai nhau và thực hiện. Để an tâm, bạn cũng nên tham khảo nhé.
Kiêng kỵ đầu tháng: 7 điều tốt nhất không nên làm vào mùng 1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những điều kiêng kỵ đầu tháng ngày mùng 1 âm lịch theo tâm linh thường được mọi người truyền tai nhau và thực hiện. Để an tâm, bạn cũng nên tham khảo nhé.


1. Kiêng xuất tiền của

Vào ngày đầu tháng, mọi người thường kiêng xuất tiền của vì sợ bị "dông" cả tháng. Tương tự như vậy, dân gian kiêng đi vay mượn, đi trả nợ.

2. Kiêng một số món ăn

7 dieu tot nhat khong nen lam vao mung 1 dau thang hinh anh
Ăn thịt chó vào đầu tháng sẽ bị xúi quẩy

Theo quan niệm dân gian, nếu ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt, xôi trắng  vào ngày đầu tháng (từ mồng 1 - mồng 10) theo Lịch Vạn Niên thì sẽ bị hãm tài, xúi quẩy, bệnh tật lâu khỏi, mất của, không may...

3. Kiêng gặp gái, gặp người vía dữ


7 dieu tot nhat khong nen lam vao mung 1 dau thang hinh anh
Ra ngõ gặp gái rất kỵ cho người làm ăn buôn bán

Vào buổi sáng sớm, nếu có việc phải đi xa, đi buôn bán, đi làm ăn... thì người ta rất kỵ ra ngõ gặp đàn bà con gái hay người vía dữ, khó tính, keo kiệt. Để tránh gặp phải vía dữ, người ta sẽ hẹn với một người (có tình tình cởi mở, hay gặp may mắn) đứng đón ở ngõ khi người này đi ra thì người đón ngõ sẽ chào hỏi và chúc lên đường may mắn.

4. Kiêng ngã giá mua hàng rồi bỏ đi


Người buôn bán rất kỵ việc vào buổi sáng sớm có khách tới xem hàng, đã thỏa thuận giá cả nhưng lại không mua hàng nữa. Họ quan niệm như vậy thì trong cả ngày đó việc buôn bán sẽ gặp xúi quẩy. Để xua đuổi sự xúi quẩy này người bán hàng sẽ phải "đốt vía" bằng cách vơ vội nắm rác hay que đóm, tờ giấy... quanh đó rồi châm lửa đốt ngay trước mặt người mua hàng vô duyên đó.

5. Kiêng cắt tóc

Điều kiêng ngày mùng 1 mà hầu như ai cũng biết là cát tóc. Người ta cho rằng, tóc là một phần thân thể, cắt vào ngày đầu tháng thì tháng đó sẽ tiêu hao tiền bạc, sức khỏe.

6. Kiêng nói bậy, chửi tục, nói những điều rủi



7 dieu tot nhat khong nen lam vao mung 1 dau thang hinh anh
 Cãi nhau đầu tháng khiến bạn gặp nhiều xui xẻo


Nhiều người quan niệm nếu đầu tháng mà nói bậy chửi tục thì cả tháng sẽ gặp những chuyện thị phi, nói điều rủi thì sẽ gặp điều xấu giống như lời nói. Vì vậy nói lời không hay là điều không nên làm ngày đầu tháng.

7. Kiêng đánh vỡ bát đĩa, ấm chén

Ông bà ta quan niệm, vỡ, bể là những từ tạo nên sự chia cắt, đứt lìa trong gia đình. Vì thế, trong ngày đầu tháng theo lịch âm không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình.

Theo Những điều kiêng kỵ theo phong tục dân gian


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ đầu tháng: 7 điều tốt nhất không nên làm vào mùng 1

Lựa chọn hình dáng bàn làm việc cần xem xét những vấn đề gì? –

Văn phòng làm việc là nơi kích thích trí não, cũng là quyết định mẫu chốt cho thành công trong sự nghiệp của bạn. Một chiếc bàn làm việc thoải mái ổn định đem lại cho bạn sự tự tin, một chiếc bàn làm việc bé, hỗn loạn phản ánh chủ nhân là người thiếu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tự tin.

Bàn hàm việc hình bầu dục cũng được chấp nhận, bởi vì bề mặt tròn, nên có gắng tránh sử dụng những bàn có hình nhọn. Trên bàn làm việc nên có đủ không gian để có thể đạt được máy tính, điện thoại, văn kiện ví những vật phẩm khác.

Mudule-ban-lam-viec4

Một cái bàn hình chữ U có thể tiện tay ném đồ vào vị trí, có thể nâng cao hiệu quả. đem lại tiện lợi lớn.

Người Âu Mỹ đều thích lựa chọn những bàn làm việc theo thiết kế tương đối đơn giản, bàn làm việc và ghế ngồi của người phương Đông chặt chẽ và tỉ mỉ hơn hẳn. Nếu một người mà ngày nào cũng sử dụng bàn làm việc hình vuông dễ làm việc, thì nguyên tắc xứ lý mọi việc đều cương trực.

Bàn làm việc hình tròn tất sẽ khiến cho người sử dụng trong lòng có sự trơn trượt.

Bàn làm việc kiểu uốn lượn bờ biển, tất sẽ đem lại kích động trong lòng người đó, hơn nửa làm việc gì cũng có đã tâm, có tính công kích.

Bàn làm việc nằm bên cạnh tủ sẻ khiến người sử dụng thăng hoa tinh thần sáng tạo.

Bàn làm việc có tủ cạnh bên và có chỗ hổng, tất sẽ khiến cho người sử dụng an tâm phần tầng phụ trách, khiến cho bản thân có không gian làm việc thoải mái. Mỗi loại bàn làm việc đều sẽ ảnh hưởng đến tâm thái của người sử dụng, thềm vào đó là vị trí cao thấp của ghế giữa chủ và khách cũng sẽ có những huyền cơ tương ứng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa chọn hình dáng bàn làm việc cần xem xét những vấn đề gì? –

Xem tướng về ẩm thực quí tiện

Ăn uống là biểu tượng cho sự quí tiện. Quí tiện đây không chỉ riêng về giàu sang, mà còn nghĩa là sung sướng hay cực khổ. Có những người giàu có sang trọng mà tướng ăn uống lại cực khổ vất vả, trái lại có người nghèo, nhưng tướng ăn uống lại sang, cho nên dầu sao tướng ăn uống cũng chỉ ảnh hưởng bề ngoài nhiều hơn.
Xem tướng về ẩm thực quí tiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Đôi khi người ta giữ cách ăn cho thanh nhã cũng được. Nhưng ăn trái với tánh nết cố hữu sẽ mất ngon. Vậy muốn nhận xét về ăn uống cần chú ý về điều đó.

Ăn như chuột nghĩa là ăn uống lật đật, ăn không nhiều mà hay ăn, uống không nhiều mà hay uống là bần hàn mạng yểu.

Ăn nhỏ, ăn ít mà liếm láp, uống bằng lưỡi cũng là tướng cùng khổ đói khát mà yểu thọ.

Mạnh ăn, ăn nhiều, ăn miếng to, mồm há không thấy họng là người phước tướng, nhưng phải có tướng tốt là tam đình hợp, địa các tròn hoặc vuông nở nang, bằng tướng xấu mà ăn uống như vậy thì chỉ là kẻ ăn mày ăn xin mà thôi.

Xem mục ruồi (nốt ruồi) trong thân thể và chỗ kín

Mục ruồi mọc giữa cổ đỏ là thọ, đen là ăn hay trúng thực. Mục ruồi có lông dài nhiều sợi, mọc ở chỗ tốt thì thật tốt, mọc ở chỗ xấu tăng sự xấu hơn. Mọc ở 2 bên tai là gồng gánh nặng nề cực nhọc.

Mọc ở trước ngực là giàu có, đỏ lại có hoạnh tài. Mọc ở vú trái sanh trai quí, vú mặt có gái lành. Phụ nữ có mục đỏ mọc trong nhũ hoa là sanh con quí tử, thông minh tài tuấn. Nhưng có mục ruồi đen trên đầu nhũ hoa và núm vú hay trong quầng vú là khó nuôi con. Nếu có con cũng là nghịch tử.

Mục ruồi mọc giữa kẻ hở của đôi nhũ hoa, đỏ thì tình duyên nồng thắm, vợ chồng rất mực thương nhau, nếu đen là truân chuyên buồn khổ, có khi dang dở.

Mục ruồi mọc ở bụng là phú quí, mọc quanh rún, trong rún nếu đỏ là giàu có lớn, sanh con quí, đen là ăn uống trúng thực chột bụng.

Mục ruồi mọc ở hông, ngang 2 bên rún dưới cạnh sườn non. Bên mặt sanh toàn gái, bên trái sanh toàn trai. Mục ruồi đỏ quí hơn.

Mọc ở bắp đùi, vế là không con. Mọc ở bắp chuối, ống quyển là không vợ. Mọc ở kẹt háng là bôn tẩu tha phương, mọc ở dương vật và âm nang, đỏ sanh con quí tử, đen bị âm bịnh trúng phòng.

Phụ nữ chỗ kín âm hộ có mục ruồi đỏ là có chồng sang quí, có mục ruồi đen là tình duyên dang dở, sanh con ngu hèn, coi chừng mắc nạn vì người khác bị thượng mã phong.

Mục ruồi mọc sau gáy cổ ngay ót, bị người đời thường nói là mục ruồi “chết chém”, sự thật không hẳn đúng, mục ruồi mọc sau ót màu đỏ là rất tốt, có lợi cho sự thi cử, công danh. Nếu đen là ngang trái, trở ngại trong mọi công việc làm ăn, đại kỵ đối đường quan trường danh vọng.

Đàn bà sau ót có mục ruồi đen sanh con ra khó nuôi, mục ruồi đỏ là sang quí, không mệnh phụ phu nhân cũng là đại phú gia. Những mục ruồi mọc ở chỗ khác, ở sau lưng, bất kỳ ở chỗ nào mình không tự nhìn thấy, nếu đỏ là quí nhơn trợ giúp ngầm, đen là có nhiều tiểu nhơn mưu hại, có thể bị đánh, đâm chém lén.

Có như các dấu “bớt” là những vết lớn từ đồng xu cắc bạc trở lên mà là màu đỏ, hường, chu sa thì bất kỳ ở chỗ nào trong thân thể cũng tốt, đen u ám là xấu.

Đàn bà ở các chỗ kín trong thân như ngực, nhũ hoa, âm bộ mà có bớt son là nhứt định lại rất xấu. Đen mà chỗ bớt cợm lên mà lại mọc lông dài cứng như lông heo là dâm đãng, cộc cằn nóng nảy, làm việc ít suy nghĩ, không thủy chung.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng về ẩm thực quí tiện

Tìm may mắn cho tuổi Đinh Tỵ

Người tuổi Đinh Tỵ (mệnh Thổ, sinh năm 1977) số giàu sang, phúc lộc dồi dào, dễ thân cận với người quyền quý, có số may mắn về đường làm quan.
Tìm may mắn cho tuổi Đinh Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: Người tuổi Đinh Tỵ (mệnh Thổ, sinh năm 1977) số giàu sang, phúc lộc dồi dào, dễ thân cận với người quyền quý, có số may mắn về đường làm quan. Tiền vận vất vả, trung vận phát đạt.

Nữ tuổi Đinh Tỵ thường xinh đẹp, hiền tài, sự nghiệp phát đạt, số trường thọ, có quý nhân phù trợ, con cháu thành đạt.

Những tuổi đại kỵ với tuổi Đinh Tỵ là: Mậu Ngọ, Giáp Tý, Bính Dần, Canh Ngọ, Giáp Dần, Nhâm Tý.

Những tuổi khó khăn nhất trong cuộc đời nữ Đinh Tỵ là: 23, 26, 31, 38, 42; ở nam là: 24, 38, 45.

Tính cách: Là người thông minh, ham học hỏi, tính tình nóng nảy, thiếu ý chí phấn đấu. Nữ tuổi Kỷ Tỵ hiền lành, tự lập và sáng tạo.

Tình duyên: Tuổi Đinh Tỵ gặp nhiều may mắn trong tình duyên. Thời trẻ ít gặp chuyện buồn phiền, càng về sau càng hạnh phúc, đầm ấm.

Tuổi này nên kết hôn với các tuổi: Tân Dậu, Đinh Mão, Ất Mão cuộc sống vợ chồng sẽ hòa thuận, vui vẻ, gia đình phát đạt, quyền quý.

Tuổi Đinh Tỵ sinh vào tháng 3, 6, 7, 11 cả đời sẽ được yên ấm, hạnh phúc.

Gia đạo: Là người có gia đạo yên ấm, hòa thuận.

Công danh sự nghiệp: Tuổi Đinh Tỵ nếu kiên nhẫn và có ý chí phấn đấu sẽ làm nên danh tiếng.

Những tuổi hợp cho việc làm ăn của tuổi này là: Canh Thân, Nhâm Tuất, Bính Thìn.

Tiền bạc: Công danh sự nghiệp càng phát triển, tiền bạc càng dồi dào. Tuổi này cả đời sung túc, no đủ.

(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh, tuổi Tỵ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho tuổi Đinh Tỵ

Các ngày “không phùng” tránh cưới, hỏi –

Tháng Giêng kỵ ngày Tý, Dần Tháng Hai kỵ ngày Dần, Mão Tháng Ba kỵ ngày Thìn, Tị Tháng Tư kỵ ngày Ngọ, Mùi Tháng Năm kỵ ngày Thân, Dậu Tháng Sáu kỵ ngày Tuất, Hợi Tháng Bảy kỵ ngày Dẩn Tháng Tám kỵ ngày Dậu, Dần Tháng Chín kỵ ngày Tị Tháng Mười kỵ n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cuoi1

  1. Tháng Giêng kỵ ngày Tý, Dần
  2. Tháng Hai kỵ ngày Dần, Mão
  3. Tháng Ba kỵ ngày Thìn, Tị
  4. Tháng Tư kỵ ngày Ngọ, Mùi
  5. Tháng Năm kỵ ngày Thân, Dậu
  6. Tháng Sáu kỵ ngày Tuất, Hợi
  7. Tháng Bảy kỵ ngày Dẩn
  8. Tháng Tám kỵ ngày Dậu, Dần
  9. Tháng Chín kỵ ngày Tị
  10. Tháng Mười kỵ ngày Ngọ
  11. Tháng Mười một kỵ ngày Thân, Dậu
  12. Tháng Chạp kỵ ngày Thìn, Tị


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngày “không phùng” tránh cưới, hỏi –

Nhìn tướng đàn ông –

Cung Điền Trạch nằm ở phần giữa lông mày và mắt, chính là phần thể hiện tài sản, đất đai, hoàn cảnh gia đình và danh vọng của mỗi người.Cung Điền Trạch tốt: Nếu người có mi mắt trên đầy đặn, cao rộng, thanh tú, không có vết sẹo, không có nốt ruồi đượ
Nhìn tướng đàn ông –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng đàn ông –

Lá số tử vi cụ Nguyễn Công Trứ

Xem và luận giải lá số tử vi của cụ Nguyễn Công Trứ - Sinh ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Tuất giờ Thìn. Các cung Mệnh, Thân, Quan, Nô thể hiện sự nghiệp lừng lẫy của cụ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lá số  tử vi cụ Nguyễn Công Trứ, sinh ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Tuất giờ Thìn 

Tiểu sử

1803: Dâng Thái Bình Thập Sách cho vua Gia Long, được ban khen

 1807: Thi hương lần đầu và trượt sau đó là trượ liên tục

 1819: 42 tuổi thi đậu Giải Nguyên, khởi đầu hoạn lộ 28 năm.

 1819: Quốc Sử Quán Hành Tẩu thăng Biên Tu

 1823: Tri phủ Mỹ Hào

 1824: Quốc Tử Giám Tư Nghiệp

 1825: Tham Hiệp Trấn Thanh Hóa

 1827: Thăng Hình Bộ Thị Lang, lập công đánh dẹp loạn Phan Bá Vành ở Nam Định

 1828: Thăng Hình Bộ Tả Thị Lang lĩnh Nam Định Doanh Điền Sứ. Công nghiệp: Khai hoang mở đất, lập 2 huyện mới là Kim Sơn, Tiền Hải ở Ninh Bình, Nam Định.

  1830: Thăng Binh Bộ Thự Tham Tri (Tương đương Thứ Trưởng Quốc Phòng)

 1831: Bị giáng 8 cấp xuống làm Tri Huyện

 1832: Được lên chức lại làm Bố Chính Sứ Hải Dương

 1833: Thăng Thự Tổng Đốc Hải An

 1834: Thăng Tham Tán Đại Thần, cầm quân đánh dẹp loạn Nùng Văn Vân, Cao Bá Quát

 1836: Bị giáng 4 cấp vì để tù xổng

 1838: Có công khai hoang lập 1 làng ven biển và tiểu trừ cướp biển nên được vời về Kinh thăng Hữu Tham Tri kiêm Phó Đô Ngự Sử (Cở Phó Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Tối Cao hàm Thứ Trưởng), sau lại được cử làm Chánh Chủ Khảo Trường Thi Hương Hà Nội

 1840-1841: Thăng Tham Tán Quân Vụ Trấn Tây thành mang quân đi đánh dẹp Cao Miên, do lui binh về An Giang không tuân theo chỉ dụ triều đình nên bị kết án "Trảm Giam Hậu" (Án chém đầu nhưng còn treo đầu để đó). Sau đó lập công nên chỉ bị giáng 3 cấp làm Binh Bộ Thị Lang kiêm lĩnh Tuần Phủ An Giang

 1843: Bị đàn hặc vì dung túng cho người nhà buôn lậu nên bị cách tuột hết chức vụ xuống làm Lính Thú ở Quảng Ngãi. (Đời lên voi xuống chó như vậy là cùng, từ Tỉnh Trưởng rớt 1 phát xuống làm lính biên phòng)

 1846: Được thăng lên lại làm Chủ Sự, Hình Bộ Thự Viên Ngoại Lang (Tương đương chánh thư ký một vụ trong bộ Tư Pháp). Sau đó thăng lên Quyền Án Sát Quảng Ngãi (Phó Tỉnh Trưởng đặc trách tư pháp)

 1847: Thăng Phủ Doãn Thừa Thiên (Tương đương Đô Trưởng Đặc Khu Thủ Đô)

  1848: Trí sĩ hồi hưu

 1858: Mệnh một, trước khi mất nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng, Nguyễn Công Trứ dù tuổi đã 80 nhưng cũng hăng hái xin tòng quân đánh giặc.

Công nghiệp:

Quân sự:

 Dẹp loạn Lê Văn Lương, Phan Bá Vành, Nông Văn Vân, Cao Miên

Kinh Tế:

 Khai hoang lấn biển, lập thêm 2 huyện Kim Sơn, Tiền Hải, được dân 2 huyện này lập đền thờ sống tôn làm "Uy Viễn Tướng Công"

Văn Hóa:

 Với hàng ngàn bài thơ Nôm có giá trị, Nguyễn Công Trứ đã góp phần tạo nên một bước tiến lớn của văn học chữ Nôm thế kỷ 19.

 Mệnh Mộc Cục Mộc sinh phùng tuyệt địa

 Thế Âm Dương 

Tử Vi: Thìn bị Tuần

 Phá Quân: Tuất đồng cung Thái Tuế

 Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi tại Nô nhưng Nguyệt hóa Quyền tự Khoa lại nằm trong chính vị của Tam Hóa Liên Châu

  Triệt: Trường hợp này tác dụng yếu (TBCT06) (kiểm nghiệm)

Phân Kim:

 Mệnh Liêm Trinh, Thân Tử Vi đới Thiên Tướng, nằm trong Tam Hợp Tử Vũ Liêm nên vị trí của Thái Dương đóng phần quyết định. Thái Dương trong thế tranh huy, nhưng Nguyệt hóa Quyền trong thế Tam Hóa Liên Châu, thành ra sự thành bại của cuộc đời lại nằm ở Nô Cung vậy.

Mệnh Cách trong lá số tử vi:

 Liêm Trinh miếu địa, Mã Khốc Khách, Hợp Lộc Củng Lộc, Khoa Lộc, Tả Hữu, Long Phượng, Thai Tọa, Thiên Mã Tam Thai, Lộc Mã Giao Trì.

Quan Cách trong lá số tử vi:

 Phủ Vũ sáng đẹp, Xương Khúc chiếu thêm Lưỡng Khúc Trùng Phùng

Thân Cách trong lá số tử vi:

 Tử Tướng lạc Thiên La bị Đà La vây hãm tiếp, may có Tuần phá giải và làm Mộc cục không thực Suy để thân vượng lên.

 Nếu xem mệnh Thân như trên thì ít ra cũng làm Thượng Thư, vì Liêm Trinh rất sáng và Thiên Mã đắc lực.

 Người Lưỡng Khúc trùng phùng nên Nguyễn Tướng Công văn võ song toàn. Quan có Vũ Phủ thì tài kinh bang tế thế có thừa. Nhưng tiếc thay, Liêm Trinh không nên gặp Văn Khúc, dù là miếu địa thì khó tránh khỏi cái họa do tài hoa. Quả vậy, dù được triều đình trọng dụng bằng chứng là vì tài giỏi quá nên dù cách chức rồi nhưng cuối cùng khi cần vua cũng phải dùng đến, nhưng có bao giờ vua tin đâu, nên đâu có được vào nội các hay cơ mật viện. Tài của Nguyễn Công Trứ, thượng thư Trương Đăng Quế, Phạm Đăng Hưng làm sao sánh nổi. Vậy mà

Đây với Đó tuy đai tuy mão

 Đó với Đây khác chức khác tài

 Đây hãn mã công dày xã tắc

 Đó ngồi trên Đây có tức không?

 Thêm Mã Khốc Khách Song Lộc Tam Thai thì uy danh lừng lẫy dẹp Phan Bá Vành, phá Nông Văn Vân, bình Cao Miên, công hãn mã từng ấy nhưng tiếc thay tuy uy danh lừng lẫy nhưng phóng túng khinh mạn cũng mấy ai hơn khi Song Hao Dần Thân dẫu đắc nhưng cũng khiến Mã giãm bao phần uy nghi lẫm liệt.

 Cái chất vừa tài hoa nặng nợ tang bồng nhưng không kém phần khinh mạn thể hiện rất rõ qua bộ "Liêm Khúc và Tuấn Mã gặp Hao", khi khoa trường lận đận thì

"Có trung hiếu nên sống trong trời đất

 Không công danh thà nát với cỏ cây"

 Đến tóc pha sương mới đặng chút danh, đường hoạn lộ bao phen voi chó, sống sân rồng phải xét mặt rồng, nghe tiếng sấm vô thường quở phạt, chút danh tàn theo cánh vạc bay. Chi bằng tiêu thú qua ngày, thông rừng đâu sợ chút oai của trời.

"Ngồi buồn mà trách ông xanh

 Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười

 Kiếp sau xin chớ làm người

 Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

 Giữa trời vách đá cheo leo

 Ai mà chịu rét thời trèo với thông"

 Cách lận đận khoa trường hoạn lộ của Nguyễn Công Trứ thể hiện ở điểm Lưỡng Khúc phùng Kỵ. Vũ Khúc tại cung Quan tự Kỵ nên mới thành cách Văn Khúc phùng Kỵ "Văn nhân bất nại". Chứ sinh phùng Tuyệt địa thì chỉ liên quan đến bổn mạng lận đận thôi, không phản ánh đầy đủ cái nét học giỏi mà thi rớt hoài, làm quan thì bị lắm người ghét, xuống chó lên voi. Thói thường làm quan thời nào cũng phải có phe cánh, ông bị Vũ tự Kỵ tại cung Quan nên trong quan trường bị ghét thì làm sao có phe mạnh để hậu thuẫn. Chứ nếu NCT có phe trong triều thì đâu có thể thăng trầm vô độ như vậy.

 Điểm Vũ tự Kỵ này năm ở Cung Tý nên hơi khó xem trong cách sao Tự Hóa. Vì tính theo lịch kiến dần thì chỉ tới 10 cung thôi, còn 2 cung Tí Sửu thì không biết phải căn cứ vào con giáp trước hay sau. Nếu tính theo con giáp trước trong lá số NCT thì 2 cung này là Nhâm Tí, Quý Sữu rồi đến Giáp Dần. Nếu tính theo con Giáp sau thì 2 cung này là Giáp Tí và Ất Sữu.

 Nhưng nhờ lá số này mà CT đặt giả thuyết là nên căn cứ vào con giáp trước tức là Nhâm Tí Quý Sữu vì vị trí của Triệt Không là Nhâm Quý và theo cách của Kỳ Môn thì 2 cung này nên là Nhâm Quý. Tạm thời như vậy trước đi, sau này từ từ nghiệm nhiều số rồi mới kết luận.

 Và theo TBCT thì Triệt trong trường hợp này tác dụng rất yếu nên Hóa Kỵ mới có tác dụng dữ dội làm 1 anh học trò nghèo tài hoa dâng "Thái Bình Thập Sách" tức là 10 kế sách làm đất nước thái bình lại quá sức lận đận trong đường hoạn lộ như vậy.

 May là Kỵ có Khoa đồng cung nên không đến nổi ôm hận quan trường như Trần Tế Xương.

Cung Nô: Quyết Định đường Công Danh

 Tử Vi Tối Trọng Âm Dương

 Cung Nô vừa là Lính của ta mà cũng là Vua của Ta. Cung Nô quá sức sáng đẹp, Nhật Nguyệt Đồng Lâm Tam Hóa Liên Châu, Giáp Tả Hữu, Phượng Long, Thai Tọa lại nằm trong tam hợp Lộc Tướng Ấn thì mạnh hơn Mệnh Thân rất nhiều. Một cung lẻ ra nên Không Vong mà sáng đẹp như vậy thì làm sao là lính ta được mà phải là xếp, là vua là người ban ơn mưa móc cho ta thôi.

 Thêm vào cái thế Âm Dương này, mệnh thuộc dòng Tử Vi thuộc Dương mà Dương thì yếu hơn Âm, Âm đang ở thế bá chủ thì Dương phải tòng Âm, Thái Âm biểu trưng cho chính nghĩa của dòng Phá Quân, nay Thái Âm sáng rực như vậy mà Phá Quân lại nắm quyền Thái Tuế thì mệnh muốn suông sẽ phải Tòng theo cung Nô vậy.

 Thân sinh của Nguyễn Công Trứ là cụ Nguyễn Công Tấn vốn làm quan dưới đời Lê Chiêu Thống, ơn vua lộc nước bao đời đã gởi nơi họ Lê, nay thời thế thay đổi nhưng cái tâm trạng Hoài Lê "Thăng Long Hoài Cổ" của kẻ sĩ Bắc Hà vẫn còn mang mác lòng người.

"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

 Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"

 (Bà Huyện Thanh Quan)

 Nay thời thế thay đổi, Nguyễn triều kế truyền quốc tộ, kẻ sĩ Bắc Hà tuy thân nương cửa Phú Xuân, nhưng tránh sao cho khỏi lòng hoài niệm đất Thăng Long. Triều đình còn nghi kỵ Kẻ Sĩ Bắc Hà, nên nhiều người phải thể hiện mình "Thức thời giả vi tuấn kiệt", Nguyễn Công Trứ nằm trong số kẻ sĩ thức thời đó.

 Khi vào vận 43-52 tại cung Quan có Khoa, chịu nương nhờ ánh sáng của cung Nô là tâm điểm của Tam Hóa, thể hiện một sự thức thời rất rõ ràng, nên trong suốt 10 năm này đường công danh tuy mới khởi đầu nhưng rất suôn sẽ, chỉ có thăng mà không có giáng.

 Khi vào vận 53-62 tại cung Nô, công danh thăng giáng thất thường nhưng những công nghiệp lớn lao thành tựu trong vận này khi Khốc Quyền Minh Danh Vụ Thế. Vì tuy là vận tốt nhưng không phải mình cầm vận mà phải nương theo dòng Phá Quân mà biểu trưng là Thái Âm. Tử Vi tối trọng âm dương chắc là ở những điểm này, sự thăng giáng của mình do mình làm chủ hay theo cái buồn, vui, yêu, ghét của người ta? Hơn nữa, Văn Khúc vào vận tuy gặp Thái Âm nhưng ở gặp Thiên Thương thì tránh sao cho khỏi sự bất đắc chí. Thân ôm Đà La thì tránh sao cho khỏi đôi lần phạm lỗi với Thái Âm 

 Vào vận 63-72: Gặp ngay Song Hao. "Song Hao tối hiềm Hóa Lộc", ôm lấy Quan Phù nên có phen thất lộc bị án "Trảm Giam Hậu" nhưng dù sao toàn cảnh vẫn là một vận tốt vì tuy mắc nạn Thái Tuế nhưng vận có Long Trì chứng tỏ dù sao cũng là đài các chi nhân nên Tứ Linh ủng hộ không đến nổi nào. Khi cáo quan về ở ẩn dưới triều 2 triều Thiệu Trị, Tự Đức. Nguyễn Công phải xin cáo quan đến 3 lần mới được vua cho trí sĩ hồi hưu, quả là cáo quan ở cái vận có Thái Tuế Tứ Linh có khác người thường xin cáo quan là được duyệt cái rẹt cho đỡ tốn lương nhà nước.

 Vận chết 73-82 thì rõ ràng rồi: Già mà vào vận Đế Vượng gặp Đào Hoa và một đống sát tinh, Cơ hóa Kỵ nữa. Có 1 điều cần lưu ý trong vận này là có Thiên Quan, Thiên Phúc nên chết rất vẻ vang, được người đời sau lập đền thờ, phong thần thánh là "Uy Viễn Tướng Công". Năm 75 tuổi, cũng trong vận này. Nhân dân 2 huyện Kim Sơn, Tiền Hải nhờ ơn của ông mà có hạnh phúc ấm no nên họ lập sinh từ (Đền thờ, thờ ngay lúc còn sống) thờ ông và mời ông ra Bắc. Ông ra Bắc không bao lâu thì triều đình sợ ở lâu có loạn nên triệu về kinh ngay, như thế đủ biết cái uy danh của Uy Viễn Tướng Công lừng lẫy như thế nào. Sinh vi nhân, Tử vi thần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi cụ Nguyễn Công Trứ

Ý nghĩa bao lì xì đỏ ngày Tết

Đã thành tục lệ, cứ mỗi khi Xuân về, cùng với những lời chúc tốt đẹp là những phong bao lì xì đầu năm được trao nhau thể hiện nét văn hoá đẹp của người Việt.
Ý nghĩa bao lì xì đỏ ngày Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đã thành tục lệ, cứ mỗi khi Xuân về, cùng với những lời chúc tốt đẹp là những phong bao lì xì, mừng tuổi được trao nhau thể hiện nét văn hoá đẹp của người Việt.


Y nghia bao li xi do ngay Tet hinh anh
Lì xì đầu năm
 
Không biết từ bao giờ tục mừng tuổi đầu năm ra đời để rồi lưu truyền từ năm này sang năm khác và đến giờ vẫn được gìn giữ. Hàng năm chuẩn bị đón Xuân là người người, nhà nhà lại chuẩn bị tiền lẻ để mừng tuổi. Bắt đầu từ thời điểm giao thừa đến mồng một, mồng hai… Tết, gia đình, người thân lại quây quần, đoàn tụ, chúc tụng và mừng tuổi nhau.

Đầu tiên là cháu con mừng tuổi ông bà, cha mẹ mong được sống lâu trăm tuổi... Sau đến ông bà, cha mẹ mừng tuổi lại con cháu, mong con cháu chăm ngoan, học giỏi. Không chỉ có vậy, khi khách đến thăm hỏi vào những ngày Tết cũng không quên lì xì cho con cháu của gia chủ kèm theo lời chúc phúc đầu năm. Như vậy, đầu năm mới nhận phong bao lì xì là nhận tình yêu thương và lời chúc may mắn, hạnh phúc trong cả năm.

Theo tục lệ, phong bao lì xì thường màu đỏ một trong những màu cát tường nhất trong những lễ hội, tượng trưng cho tài lộc - người ta nhận được hay cho đi càng nhiều bao lì xì thì người ta càng tin rằng mình đã phát tài phát lộc...

Lì xì bao nhiêu thì được?
 
Số tiền bên trong bao lì xì thường là những con số may mắn, đặc biệt là con số 8. Bởi vì theo quan niệm, số 8 được phát âm giống từ “phát”. Một số người cũng thích số 9 vì âm điệu của nó giống chữ “trường tồn”, sống thọ. Số tiền trong bao lì xì sẽ là những con số chẵn, bởi số chẵn là con số tốt lành, còn những số lẻ lại biểu thị sự cô đơn, một mình. Đặc biệt, mọi người rất kiêng con số 4 vì nó đọc giống từ “tử”, ám chỉ sự chết chóc. Tiền lì xì không nên bỏ tiền vào phong bì màu trắng. Bởi vì phong bì trắng thường được dùng trong những dịp buồn như đám tang, tuy nhiên, ở các nước Phương Tây thì họ không quan niệm như vậy.

6 điềm lành báo hiệu năm mới may mắn
Người Việt có câu: “Có thờ có thiêng có kiêng có lành”. Vì thế, trong những ngày Tết, người Việt đặc biệt cẩn trọng trong mọi việc. Nếu năm mới gặp những điều
Phong lì xì màu đỏ thường được sử dụng như một vật bảo vệ những người thân yêu. Màu đỏ là gam màu mạnh mẽ, "bùng cháy", có khả năng ngăn chặn những điều xấu xảy ra và nó cũng tượng trưng cho nguồn năng lượng tích cực. 
 
Sự tích bao lì xì

Câu chuyện về bao lì lì bắt đầu từ triều đại nhà Tống ở Trung Quốc. Vào thời điểm đó, một ngôi làng có tên Chang Chiểu, bị một con quỷ hung dữ đe dọa. Không ai có thể đánh bại nó, thậm chí đạo sĩ hay là những chiến binh vĩ đại nhất. Tuy nhiên, một đứa bé mồ côi với thanh kiếm phép thuật mạnh mẽ mà cậu được tổ tiên truyền lại đã chiến đấu với quỷ dữ và cuối cùng giết chết nó. Tất cả dân làng đều rất hạnh phúc và các trưởng lão đã tặng chàng trai một Bao lì xì đầy tiền bên trong. Kể từ đó, các Bao lì xì đã mang ý nghĩa bảo hộ, che chở, và mang lại may mắn. 
Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa bao lì xì đỏ ngày Tết

Phong thủy nhà đất –

Khái niệm cơ bản của Phong Thủy là: “Khí nương theo gió thì tản mạn, gặp nước giới hạn thì dừng, người xưa làm cho tụ mà không cho tán, làm cho lưu thông mà có chỗ dừng, cho nên gọi là Phong Thủy”. Ở đây chỉ đề cập đến cửa căn nhà của bạn. Xem phong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khái niệm cơ bản của Phong Thủy là: “Khí nương theo gió thì tản mạn, gặp nước giới hạn thì dừng, người xưa làm cho tụ mà không cho tán, làm cho lưu thông mà có chỗ dừng, cho nên gọi là Phong Thủy”. Ở đây chỉ đề cập đến cửa căn nhà của bạn.

phong_thuy_nha_vuon_7

Xem phong thủy, nói cho cùng là xem tác dụng tốt xấu của “khí” đối với vị trí không gian nhất định.Trong hai tầng này, “phong” và “thủy” là môi giới liên kết “khí” với địa hình, là cách luận đoán từ hình tượng cụ thể chuyển hóa thành các tác động trừu tượng. Trong quá trình chọn lựa, đối tượng được phán đoán cụ thể là địa hình, giải thích và bình phẩm chất lượng sử dụng địa hình là khái niệm phong thủy.

Đồng thời như đã nói ở trên, người ta dùng “phong” và “thủy” thì lại lấy địa hình để diễn tả trạng thái tác động của nó, cho nên trong thuyết phong thủy, hai quá trình này cùng tồn tại. Tình huống như vậy khiến cho nhiều người cảm thấy thuyết phong thủy vừa rất huyền bí, vừa rất phức tạp.

Theo phong thủy nhà ở: Cửa trong phong thủy còn gọi là “huyền quan”. Về vấn đề này mỗi phái đều có cách lý giải riêng, nhưng nói chung họ đều công nhận cửa là quan trọng nhất. Đi đôi với cửa chính (huyền quan) còn có một thuật ngữ gọi là ‘Thủ huyền quan (trấn giữ cửa). “Thủ huyền quan” là phía sau cửa khoảng 1,5 mét cho đến 2 mét đặt một tấm bình phong, giống như một đơn vị trấn thủ cửa chính. Công dụng của bình phong là để thay đổi hướng đi của dòng khí, không cho khí xung chiếu trực tiếp vào.

Dùng bình phong để hóa giải luồng khí.

Bình phong dùng để thủ huyền quan có thể dùng bất cứ vật liệu hoặc hình dáng gì, và không cần lớn, chỉ cần cải biến hướng đi của dòng khí là được. Người ta cũng có thể dùng tấm gương làm bình phong, dùng để thủ huyền quan đồng thời vừa dùng để trang trí nội thất. Hoặc dùng một cái bàn tròn để hóa giải dòng khí xung chiếu trực tiếp vào. Đó là các biện pháp nhằm tạo luồng khí hòa hoãn để sinh tài trong phong thủy nhà ở .

Cửa không được đối nhau

Các cửa nên tránh đối nhau trực tiếp. Bên trong nhà thường có một số phòng và cửa của nó, các cửa này cần phải tránh đối nhau trực tiếp, vì một khi các cửa thông nhau sẽ làm ảnh hưởng phong thủy bên trong nhà. Lúc ấy dòng khí sẽ thịnh một nơi và yếu đi nơi khác, khó đạt tới sự hài hòa. Do đó nếu như phong thủy của một phòng không được tốt sẽ ảnh hưởng sang phòng khác.

Các nhà phong thủy cho rằng nếu phạm vào trường hợp này thì người trong nhà hay cãi vã, xung đột. Nếu không thể sửa đổi lại cách bố trí cửa trong nhà được, người ta có thể đặt bình phong hoặc treo rèm cửa để cải thiện phong thủy nhà ở.

Cửa phòng không được xuyên suốt từ trước nhà ra sau.

Trường hợp trong hình là phạm vào cuộc “Môn xung sát” rất có hại cho chủ nhân, hình thành hiện tượng mà các nhà phong thủy gọi là “Xuyên đường phong” (gió xuyên qua các phòng). Trong trường hợp này dòng khí sẽ quá mạnh làm ảnh hưởng đến sự ổn định của khí tường, có thể gây tổn thương đến sức khỏe người ở trong nhà.

Cửa lớn không được đối nhau với cửa sổ

Cửa lớn là nơi để người ta ra vào, và cũng là nơi dòng khí vào nhà, nếu cửa lớn được đặt ở hướng tốt, một khi cát khí vào nhà sẽ theo cửa sổ mà đi mất, không tụ được. Cửa lớn không nên đối thẳng với bậc thang. Trong phong thuy nha o cửa lớn không được đối thẳng với bậc thang hay đường hành lang

Cửa của hai nhà không được đối nhau

Ngay cả trường hợp cửa của hai nhà khác nhau cũng không được đối nhau. Các nhà phong thủy cho rằng có thể làm những cách sau để hóa giải như dùng bình phong che chắn phía trong cửa, đặt cặp tượng hình kỳ lân ở cửa bị xung chiếu, hoặc cặp tượng nhỏ hình con rùa bằng đồng cũng được (tượng này có thể hóa giải những loại vật phong thủy xấu khác xung chiếu vào cửa), tạo thành một hành lang để làm hòa hoãn dòng khí…

Cửa không được đối với cạnh góc phòng

Như trong hình bên, người đứng trong phòng nhìn ra ngoài phòng thấy cạnh góc của phòng đối diện xung chiếu thẳng vào phòng, đây cũng là điều cấm kỵ.

Cửa phòng không được đối thẳng với xà nhà

Dù là nhà gỗ, nhà xây hay đúc bê tông đều phải chú ý không thiết kế xà nhà đâm thẳng vào cửa chính.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà đất –

Xem tử vi trọn đời cho người tuổi Quý Mão

Tử vi tuổi Quý Mão: Người có bát tự trụ Quý Mão nhanh trí, nhưng tài vận không ổn định, gặp nhiều phong ba trong tình duyên.
Xem tử vi trọn đời cho người tuổi Quý Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người có bát tự trụ tuổi Quý Mão nhanh trí, nhưng tài vận không ổn định, gặp nhiều phong ba trong tình duyên. Để hiểu rõ hơn về tử vi trọn đời của họ, hãy tham khảo bài viết dưới đây.


Xem tu vi tron doi cho nguoi tuoi Quy Mao hinh anh
 
Trụ ngày tuổi Quý Mão có Quý Nguyên, hóa giải Nạp Âm nên đa mưu túc trí, nhân hậu lương thiện, trượng nghĩa. Bên cạnh đó, Mão Mộc của người có bát tự ngày Quý Mão là thần thực tạo nên tính cách cởi mở, hòa nhã. Mệnh chủ nên kết hợp Mậu Tuất, trong cuộc sống tất gặp Tý Thủy. 
  Mệnh trụ ngày Quý Mão có tài năng và sự nhanh nhạy, được quý nhân phù trợ, tuy nhiên, tài vận không ổn định, càng lớn tuổi càng thất thoát nhiều, thành công trên đường học vấn và sự nghiệp liên quan đến kỹ thuật.
Bí kíp phong thủy “ thoát FA” mới nhất 2016
Để thúc đẩy vận đào hoa cho bản thân, sớm thoát khỏi kiếp FA thì bạn cần xây dựng một hình tượng rõ ràng về “người trong mộng” hoặc có những sự thay đổi nho
Người tuổi Quý Mão khổ về đường tình duyên do gặp phải nhiều phong ba, dễ gây ưu sầu, nhưng về lâu về dài đều đạt được ước nguyện. Nam mệnh có thể tìm được nhân duyên tốt, tuy nhiên cần phải vừa chú trọng về vẻ bề ngoài vừa phải bồi dưỡng tinh thần. Nữ mệnh có gia vận tốt đẹp, tình duyên như ý.    Bát tự trụ ngày Quý Mão thích hợp kết hôn cùng những người sinh ngày: Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thìn, Giáp Thân, Ất Sửu, Ất Hợi, Ất Dậu, Bính Dần, Bính Tý, Bính Thân, Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Sửu, Đinh Mão, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Mậu Ngọ, Mậu Dần, Kỷ Mão, Kỷ Hợi, Kỷ Mùi, Kỷ Tỵ, Canh Thìn, Canh Ngọ, Canh Tuất, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Mùi, Tân Mão, Tân Dậu, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Quý Tỵ, Quý Mùi.  
► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo Lịch vạn sự

Chi Nguyễn (Theo Azg168)
Xem thêm Clip về Nhân quả ba đời


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người tuổi Quý Mão

Dự đoán về Con cái (2)

Sao con ở đất duy, bệnh, tử , mộ thì nhất đinh con ít, cô đơn và nghèo hèn. Trụ giờ có thương quan là hào con cái khó khăn. Trong Tứ trụ thương, thực nhiều có con. Tứ trụ có kiêu, ấn, thương là cháu khắc bà nội. Tứ trụ có thương quan gặp quan là hào con cái khó khăn. Ấn thụ, kiêu thần là khó có con.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cung con cái ở hưu, tù, tử, tuyệt, bệnh là có con cũng như không.

Trong Tứ trụ có quan sát , khi hành đến vận thương, thực thì sẽ làm tổn thương con cái, qua vận đó mới bình thường.

Trong trụ cung con cái gặp mộ thì con cái không bệnh tật nhiều cũng bị lao ngục, hoặc tàn phế khó nuôi.

Mệnh nữ không có quan tinh mà thân vượng, ấn lại nhiều thì chắc chắn tổn thương con cái.

Tứ trụ của con tài nhiều thì sẽ khắc cha mẹ, hoặc đó là đứa con nuôi.

Trong Tứ trụ có thiên tài, thiên quan, thiên ấn thì dó là con nuôi, nếu không thì cũng là con thứ 3, thứ tư về cuối.

Vận hành đến đất thương quan thì sẽ khắc con cái.

Thương quan làm hại con cái, không có phúc về sau.

Trong trụ có sát lẫn với tam hình là có đẻ không nuôi.

Trong trụ mẹ sáng, cha mờ phần nhiều là con đẻ trộm ( con hoang)

Nguyệt lệnh gặp xung là con xa rời tổ nghiệp.

Thân không có nương tựa là con nuôi.

Mệnh nữ phạm thương quan, thiên ấn thì con chết, hại chồng.

Ngày giờ tương xung nhau thì không lợi cho con cái.

Quan gặp tử tuyệt là khó có con.

Trụ năm làm thương tổn can ngày là cha và con không thân nhau.

Thực gặp kiêu ấn là khắc con.

Tuy thân mạnh nhưng bị sát hoặc xì hơi, hoặc thân nhược là con cái ít và không phát đạt.

Thìn, tuất của ngày giờ tương xung nhau thì tuy có con nhưng con học hành không đỗ đạt.

Trong trụ có kiêu, thực lại còn có thương quan là con chết, chồng chết.

Trong trụ gặp cả thực lẫn kiêu là không có lợi cho con cái, nếu không tuyệt tú thì đứa con cũng thấp bé, gầy yếu.

Mệnh nữ trụ giờ gặp hoa cái, gặp không vong là suốt đời không sinh đẻ.

Hoa cái nếu ở trụ giờ và thai là con nuôi.

Người có vong thần, thất sát là khắc con, hình phạt chồng.

Trong trụ thai bị hình phạt, lại còn có cách góc, nhiều sát, tam hình, không vong,ngũ hành không có khí thì phần nhiều sinh con hưn hỏng.

Trong trụ thực nhiều là thương quan tức ít con cái.

Trẻ em thân nhược lại gặp sát vượng thì không chết cũng tàn phế.

Trong trụ thần nhiều, kiêu thần quá vượng là mẹ không có sữa.

Thực gặp kiêu là trẻ con gặp phải thì đói sữa, người lớn gặp phải thì thiếu ăn.

Mệnh nữ quan tinh ở tử địa lại xì hơi thái quá là khắc con hoặc không có con.

Tài quan tử tuyệt là có con nuôi.

Trong ấn nhiều thì mãi đến già vẫn không có con.

Mệnh nữ phạm mão, dậu là phần nhiều sẩy thai khắc con.

Tứ trụ thuần dương, thuần âm thì khó có con.

Mệnh nữ trong trụ có đủ thìn, tuất, sửu, mùi thì vừa khắc chồng lại không sinh con.

Trong trụ có thìn, tuất, sửu mùi là khắc cha mẹ, thìn tuất khắc cha, sửu mùi khắc mẹ.

Người trong trụ tị, ngọ nhiều thì trước năm 18, 19 tuổi phải đề phòng khắc cha me.

Năm tháng tương xung nhau nếu không phải là con nuôi thì cũng là con đỡ đầu.

Giờ sinh ở thìn, tuất , sửu mùi phần nhiều là con nuôi.

Trụ ngày có tài, trụ giờ có kiếp thì cha mẹ hưng thình, con suy bại.

Mệnh nữ gặp mộc dục nếu là con đầu thì phải đề phòng dễ chết.

Trụ ngày lâm phá, hình, xung, hoặc gặp kình dương là chủ khắc con cái.

Người trong trụ có tam hợp, tam kỳ thì người đẹp mà béo, nếu không là con nuôi thì cũng là con riêng của mẹ.

Năm, tháng thương quan, kiếp tài là đứa con sinh ra ở nhà nghèo, hoặc con nuôi.

Quan, ấn gặp thiên quan là con nuôi.

Ngày giờ tương hình nhau thì tuổi trẻ chưa có con, nếu trụ giờ được quý nhân của trụ ngày phù trợ thì về già vẫn có thêm con.

Trong trụ có quả tú, cô thần là có con cái nhu nhược.

Quan hưu còn gặp thương là khó có con trai.

Thương quan vượng quá thì nuôi con của chị em ruột.

Trong trụ thất sát ở hai đầu là đến già vẫn không có con.

Cả bốn chi đều có thương quan thì thường khóc lóc vì con.

Kiêu gặp trường sinh lại gặp thực thần là đến già vẫn không có con.

Thực phá dụng thần là con làm bại gia.

Thương thực nhập mộ là khắc con cái.

Trụ ngày vượng, thực, thương , quan, sát rơi vào tuần không là không có con.

Thương quan bị chế ngự là cháu họ thừa tự.

Tài tinh của trụ năm, trụ tháng khắc ấn của trụ giờ thì con không chết cũng tàn taatn.

Trong trụ hàm trì nhiều là đứa con không được cha mẹ nuôi nấng.

Trụ giờ phạm tuần không , vong là khắc cha mẹ, người trụ ngày lâm tử tuyệt là trước 7 tuổi bệnh nhiều, sau 7 tuổi mới đỡ.

Giờ sinh gặp tang môn thì mẹ khó đẻ hoặc lúc có thai bị nhiều bệnh.

Trụ giờ quan tinh không có khí thì sinh con nhưng khó nuôi.

Trụ giờ gặp thương quan thì có con nhưng học hành dốt nát.

Trụ giờ đóng ở thiên ấn thì con cái tính hung dữ.

Tỉ kiếp đóng ở trụ giờ thì con cái nhiều nhưng gia đình suy sụp ; thất sát đóng ở trụ giờ thì con cái tính hung bạo, không nghe lời.

Kình dương đóng ở trụ giờ thì con cái ngỗ ngược bất hiếu.

Trụ giờ có hình hại thì không có lợi cho con, hoặc con nhiều bệnh . Trụ giờ gặp kình dương hoặc thương quan là làm tổn hại con cái.

Trụ giờ ở tuyệt địa thì phải đề phòng không có người thừa tự.

Giờ khắc can ngày là con không kính trọng cha.

Chi giờ là thương thực, là cô thần hoặc quả tú là không có con.

Trụ giờ gặp hoa cái là người thân cô, có con nhưng cuối đời bị thương mà chết.

Trong trụ có kim thuỷ thì đứa con chậm nói, có mộc là sớm biết nói.

Thổ vượng mà táo là không có con.

Trong trụ có đào hoa lẫn với hợp là có con lang thang.

Trong trụ thất sát nhiều lại không bị chế ngự là không có con.

Thê tài ở tuyệt địa bị khắc thì khó có con.

Trong trụ sát ở ngôi tý thì con ngỗ ngược.

Thiên ấn đóng ở trụ ngày là vợ nhiều mà đẻ ít.

Trụ ngày có sát, kiêu là vợ nhiều đẻ ít.

Tử tinh rơi vào suy, tuỵệt, tử, mộ là hỏng thai không có con.

Trụ tháng có tài thì tuy đứa con giàu có nhưng là con nuôi.

Trụ ngày gặp tài, trụ giờ gặp kiếp thì cha hưng con nhược.

Giờ sinh của trẻ em trong bảng nạp âm không được khắc năm , nếu phạm điều đó thì phải đề phòng chết yểu lúc chưa đầy tháng.

Can giờ khắc can năm hoặc can năm gặp thực thần, nếu sinh con trai thì không thuận.

Thương quan vượng quá là nuôi con chị em gái.

Trụ giờ gặp thai, hoặc mộ, tuần không , tuyệt nếu không phải là sinh đôi tức do mẹ mình sinh ra, thì là con nuôi.

Trụ giờ bính đinh nhiều bị khắc xung phá thì đầu gáo chân hương, chết yểu.

Mão dậu đóng ở trụ giờ thì mắt to hoặc là mắt hiếng, bình thường hay lêu lỏng chơi bời, thích xa rời cha mẹ. Nếu trong trụ có hình khắc thì có thể chột mắt.

Sinh vào các giờ : thìn, tuất, sửu, mùi lại không vong thì đó là con nuôi.

Giờ sinh gặp quan phù là cha đang có kiện, hoặc mẹ có việc lo sợ.

Tài mệnh có khí lại gặp kiêu thần , là khóc vì con.

Chi ngày gặp lục xung lại không có cứu trợ thì tuổi trung niên dễ chết non.

Tứ trụ tài tinh nhiều là khó có con.

Trẻ em trong trụ tài nhiều là lúc đẻ khó.


Người phụ nữ này năm nay 56 tuổi đã ly hôn một lần lại nhiều bệnh, nên sinh con mà không nuôi được . Ðiều đó chính ứng với câu : " Nữ gặp thìn tuất sửu mùi là người vừa khắc chồng lại khó nuôi con".



Tứ trụ này sinh năm 1964. Vì trong trụ giáp mộc thất sát nhiều mà vượng, thân lại nhược . Gặp trường hợp như thế không chết thì cũng tàn phế. Nhưng vì người ta không hiểu được dự đoán của Tứ trụ nên không biết đề phòng, do đó khi chưa đầy một tuổi đã sinh bệnh dẫn đến một chân bị tàn tật. Ðiều này ứng với câu: " thân nhược sát vượng thì không chết cũng tàn tật".



Tứ trụ này là con thông minh tuấn tú, lúc lên 3 vì sốt cao mà câm, thật đáng thương. nếu biết được dự đoán, gửi đứa con đến phương nam thì có thể tránh khỏi. Ðứa con bị câm là vì : trong Tứ trụ có " năm, tháng gặp tài, khắc ân của giờ thì con không chết cũng tàn phế.



Thất sát nhiều mà vượng lại không bị chế ngự cho nên cả cuộc đời không sinh lần nào.



Người này đẻ 2 trai, 2 gái. Vì cung con ở trên giờ tương xung với trụ tháng, lại mộ ở nhật kiến cho nên 1 con trai bị thành tật. Tứ trụ này ứng với câu: " Cung con cái gặp mộ thì con cái nhiều bệnh, hoặc bị tù, hoặc tàn phế".



Người đàn bà này sinh 4 lần đều chết yểu. Năm 1981 sinh lần thứ nhất, vừa sinh đã chết ; năm 1983 sinh lần thứ hai được 3 ngày thì con chết ; năm 1987 sinh lần thứ ba con cũng chết ngay; năm 1988 sinh lần thứ tư được 47 này con lại cũng mất. Ðúng là sinh nhiều mà không nuôi được , ai nghe cũng đau lòng.

Tháng 7 năm 1989 hai vợ chồng ông ta qua dò hỏi nhiều lần cuối cùng tìm đến tôi , nước mắt giọt ngắn, giọt dài khẩn thiết nhờ tôi giải hạn cho bà vợ. Tôi sắp xếp Tứ trụ của hai vợ chồng, thấy cung con cái của họ và sao con đều gặp tuyệt địa lại còn bị lệnh tháng hình xung khắc hại. Ví dụ Tứ trụ của bà cung con cái giáp dần bị trụ tháng thiên khắc địa xung, sao con cái lại tập trung ở dần. Thân kim vượng, dần mộc ở tuyệt địa bị hình xung khắc phá , nên chỉ sinh mà không sống nổi.

Vì hai vợ chồng rất thành tâm đã làm theo cách hóa giải tôi bày cho một cách cẩn thận chu đáo, kết quả tháng giêng năm 1991 sinh được một cháu gái. Sau khi hai ông bà thấy con sống được hơn 40 ngày bình an vô sự, mạnh khỏe , hoạt bát, nên họ đã tặng cho tôi một bức trướng thêu rất công phu các chữ " Trắc thiên, trắc địa càn khôn" để tỏ lòng cảm ơn. Nay cháu bé đó đã hơn 1 tuổi, thông minh khỏe mạnh, tất nhiên họ coi như có được hòn ngọc quý trong tay.

Con cái đời sau bệnh nhiều, tàn tật hoặc khó nuôi, thứ nhất là tổ hợp Tứ trụ của cha mẹ không tốt tạo thành, còn một nguyên nhân khác cũng rất then chốt là Tứ trụ của người đó và vận khí không hòa hợp nhau, một điểm nữa là phần mộ của tổ tiên hoặc phong thuỷ của nhà ở không tốt tạo nên. Ngày xưa có câu : " nhất mộ, nhì phòng, ba Tứ trụ". Tức là nói âm phúc của tổ tiên , phong thủy của nhà ở và tổ hợp Tứ trụ phải tốt. Do đó xây nhà, cất mộ, phong thuỷ âm dương không thể không chú ý đến.

Tháng 8 năm 1987 có một chuyên gia người Mỹ con trai đã hơn 10 tuổi nhưng tứ chi hoạt động rất khó khăn. Vị chuyên gia này không tiếc tiền đi nhiều nước trên thế giới để tìm thầy chữa. Nhưng không có hiệu quả. Về sau, qua một vị lãnh đạo nào đó giới thiệu đến với tôi. Tôi nói, với ông ta: Phần mộ của nhà ông trên đó có 1 cái hốc, nước chảy qua đó tưới thẳng vào mộ, nên nhanh về sửa sang lại. Nghe xong ông ta vô cùng kinh ngạc nói: đúng, năm ngoái tôi nhận được thư nhà từ Ðài Loan gửi đến nói : "Mộ tổ có một cái hang, yêu cầu tôi trở về Ðài Loan để sửa".

Tháng 5 năm 1991 khi tôi trên đường về nước nghỉ lại ở Hồng Kông để đoán cho một người bạn, phát hiện thấy mộ nhà ông ấy, ở bên cạnh một rãnh nước, nước chảy thẳng vào mộ. Sau khi nghe tôi nói việc ấy, ông ta hỏi: như thế thì có hại gì? Tôi nói : điều đó không có lợi cho đời sau. Ông ta liền hoảng hốt kêu to : Ðúng ! chẳng trách gì con tôi bị bệnh, nằm trên giường nhiều năm mà không khỏi.

Về việc con cái không vượng, hoặc bị khắc, hoặc không lợi cho con cái trửơng thành, thành đạt, chỉ cần đoán để biết trước rồi sau đó mới có thai, hoặc sau khi sinh con lập tức dự đoán ngay thì có một số em bé trong Tứ trụ ngũ hành không đầy đủ hoặc có quan sát hành nào đó mạnh quá, sau khi dự đoán biết được , khi đặt tên có thể thêm vào tên những chữ mang hành con thiếu để bù đắp. Ví dụ trong Tứ trụ thiếu hoả thì trong tên con cho thêm chữ "hỏa", hoặc những chữ bên cạnh có chữ "hỏa" ; thiếu hành kim thì thêm chữ kim, nếu chờ khi đã lớn tuổi mới đổi tên thì rất phiền phức. Những hành cho thêm không những có thể giúp vượt tránh được tai hoạ mà còn có lợi cho cả cuộc đời. Cho nên không phải cứ hễ thấy trong Tứ trụ có tai hoạ, tổ hợp không tốt thì sợ hãi và lo không có cách gì tránh được, như thế là không nên.

"Dự đóan theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán về Con cái (2)

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd