Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Qúy Hợi 1983

Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Qúy Hợi 1983, Gặp tuổi đại kỵ trong vấn đề hạnh phúc hôn nhân thì nên âm thầm không nên làm lễ hôn nhân hay ra mắt bà con thân tộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Qúy Hợi 1983

Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Qúy Hợi 1983

Xem tử vi trọn đời cho nữ mạng tuổi Qúy Hợi sinh năm 1983, thuộc cung Cấn, mạng là Đại Hải Thủy, xương con Heo và tướng tinh là con Gà, bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng.

Quý Hợi, cung Cấn số này,

Mạng Thủy nước biển chảy tràn vào sông.

Số gái sanh thuận Thu Đông,

Thanh nhàn sung sướng ít ai sánh bằng.

Xuân Hạ thì lỗi số nàng,

Giàu nghèo cũng cực thân nàng thảm thương.

Tưởng đâu chết hụt, chết oan,

Cũng nhờ mạng lớn khỏi mang tật nguyền.

Có chồng cũng kể như không,

Vì đâu nên nỗi duyên thừa đắng cay.

Anh em xung khắc chẳng hòa,

Ở gần gây gỗ đi xa thì buồn.

Miệng thì nói dữ lòng hiền,

Biết người phản phúc có tiền cũng đưa.

Trung niên tài lộc có thừa,

Thế mà hậu vận hưởng phần giàu sang.

Nhìn chung về cuộc sống của nữ mạng tuổi Qúy Hợi:

Nói chung, cuộc đời của những nữ nhân tuổi Quý Hợi phải trải qua nhiều khó khăn, muộn phiền ở thời tiền vận và trung vận. Họ phải vất vả bươn chải vì cuộc sống mưu sinh, đời sống tình cảm và gia đạo lại có nhiều biến động, trở ngại. Chỉ đến hậu vận thì cuộc sống mới khởi sắc hơn và được sống trong an nhàn, sung sướng.

Xem tử vi về đường tình duyên của nữ mạng tuổi Qúy Hợi:

Nếunhư tuổi này sinh vào các tháng 4, 9 và 12 âm lịch thì con đường tình duyên sẽ khá long đong lận đận. Cuộc đời có khi sẽ phải trải qua khoảng 3 lần thay đổi trong tình duyên. 

Tuy nhiên, nếu như nữ mạng tuổi Quý Hợi mà sinh vào các tháng 2, 5, 8 và 10 âm lịch thì đường tình duyên có phần tốt đẹp hơn, thế nhưng cũng có khi phải trải qua khoảng 2 lần đổi thay trên con đường tình duyên.

Vẹn tròn và ấm êm nhất là những nữ mạng tuổi này sinh vào các tháng 1, 3, 6, 7 và 11 âm lịch, đường tình duyên sẽ cực kì thuận lợi, không phải nếm trải sự thay đổi, hạnh phúc khá viên mãn và trọn vẹn.

Xem tử vi về đường công danh và gia đạo của nữ mạng tuổi Qúy Hợi:

Những người phụ nữ tuổi này thường phải trải qua thời tiền vận khá nhiều trở ngại, muộn phiền trong gia đạo của mình, phải từ hậu vận trở đi thì họ mới mong có được một gia đạo ổn định, yên ấm hơn. Và con đường công danh mà những người phụ nữ tuổi Quý Hợi đạt được cũng chỉ dừng lại ở mức trung bình mà thôi.

Đối với những người phụ nữ tuổi Quý Hợi nếu không lấy công danh làm trọng, mà theo đuổi con đường làm ăn lập nghiệp thì sẽ có được một sự nghiệp khá vững chắc. Bắt đầu bước vào thời trung vận là họ đã tạo dựng được sự nghiệp cho riêng mình, nếu càng kiên định theo đuổi con đường của mình thì sẽ càng đạt được thành công rực rỡ.

Những tuổi làm ăn hợp với nữ mạng tuổi Qúy Hợi:

Nếu có ý định làm ăn hay hùn hạp vốn liếng cùng ai đó để gây dựng sự nghiệp kinh doanh lớn thì tuổi Quý Hợi nữ mạng nên chọn những người tuổi sau để kết hợp làm ăn, đó là những tuổi: Quý Hợi, Ất Sửu và Đinh Mão. 3 tuổi trên khá hợp với tuổi Quý Hợi nữ trong làm ăn kinh doanh, thế nên nếu kết hợp cùng thì mọi chuyện sẽ khá thuận lợi, việc làm ăn vì thế cũng phát triển tài lộc nhiều.

Lựa chọn vợ chồng của nữ mạng tuổi Qúy Hợi:

Nếu bạn kết hôn với những tuổi Quý Hợi, Ất Sửu, Đinh Mão, Kỷ Tỵ, Tân Dậu, cuộc đời của bạn có thể sẽ được sống cao sang và giàu có. Bởi những tuổi này rất hợp về việc tình duyên và về cả phần tài lộc, nên dễ tạo được một cuộc sống sang giàu, phú quý.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi sau đây có thể đời bạn chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là nếu bạn kết hôn với các tuổi: Giáp Tý, Mậu Thìn, Canh Ngọ, Nhâm Tuất. Những tuổi này chỉ hạp với tuổi bạn về đường tình duyên. Mà lại không hạp về đường tài lộc, nên chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi.

Nếu bạn kết duyên với những tuổi này cuộc đời bạn có thể sẽ gặp cảnh nghèo khổ, làm ăn khó khăn, đó là nếu bạn kết hôn với các tuổi: Bính Dần, Mậu Dần. Hai tuổi này không hạp với tuổi của bạn về đường tình duyên cũng như về đường tài lộc, nên chỉ tạo lấy cảnh nghèo khổ mà thôi.

Vào các năm bạn 20 tuổi, 26 tuổi, 28 tuổi, 32 tuổi, 38 tuổi và 40 tuổi thì bạn không nên tính đến chuyện kết hôn vì các năm này đại kỵ với chuyện cưới hỏi đối với tuổi của bạn.

Nếu bạn sinh vào các tháng 1, tháng 2, tháng 5 và tháng 7 Âm lịch thì bạn là một người phụ nữ có số đa phu, phải trải qua nhiều đời chồng.

Những tuổi đại kỵ với nữ mạng tuổi Qúy Hợi:

Sau đây là những tuổi đại kỵ trong cuộc đời bạn không nên kết hôn hay hợp tác làm ăn có thể sẽ gặp cảnh biệt ly, xa cách, thất thoát  đó là các tuổi: Nhâm Thân và Canh Thân.

Gặp tuổi đại kỵ trong vấn đề hạnh phúc hôn nhân thì nên âm thầm không nên làm lễ hôn nhân hay ra mắt bà con thân tộc. Trong việc làm ăn nên tránh việc giao dịch nhiều về tiền bạc. Trong gia đình nên cúng sao, giải hạn cho cả hai tuổi và phải tùy theo sao hạn từng năm của mỗi tuổi mà cúng thì sẽ được giải hạn.

Những năm tháng khó khăn nhất của cuộc đời:

Những người phụ nữ tuổi Quý Hợi sẽ gặp các năm khó khăn nhất trong cuộc đời của mình vào các năm 23 tuổi, 27 tuổi, 30 tuổi và 35 tuổi. Trong những năm tuổi này, bạn sẽ có thể phải chịu cảnh hao tiền tốn của hoặc bị đau ốm bất ngờ. Chính vì thế hãy đề phòng trong mọi chuyện, cố gắng giữ gìn sức khỏe thật tốt.

Ngày giờ xuất hành hợp với nữ mạng tuổi Qúy Hợi:

Tuổi Quý Hợi, xuất hành vào những ngày chẵn, giờ chẵn và tháng chẵn thì hợp nhất cho mọi việc làm ăn cũng như về vấn đề phát triển tài lộc, không sợ bị thất bại về tiền bạc cũng như về mọi phương diện khác.

Những diễn biến của cuộc đời qua từng năm:

Từ 18 đến 22 tuổi: Năm 18 tuổi, sẽ có một tin vui về vấn đề công danh như thi đậu hoặc xin được một sở làm tốt. 19 tuổi, đề phòng những sự lợi dụng về vấn đề tình cảm của những người khác phái ở thân cận bạn. Năm nầy tài lộc rất vượng nhưng tình cảm lại có nhiều chuyện lộn xộn bực mình. Năm 20 tuổi, bạn sẽ gặp một chuyện thương đau về vấn đề tình ái nhưng đó là số phận bắt buộc tuổi bạn phải chịu. Qua năm 21 tuổi, bạn sẽ vẫn còn gặp nhiều chuyện buồn phiền chán nản về vấn đề tình cảm khiến cho đôi khi bạn không còn thiết sống nữa. Nhưng bạn chớ nên quá chán đời, hãy cố gắng phấn đấu vì trong năm 22 tuổi, tình yêu đẹp như một bài thơ sẽ bất ngờ đến với bạn, và bạn sẽ vui cảm thấy yêu đời trở lại vô cùng.

Từ 23 đến 28 tuổi: Đây là những năm đẹp nhất của đời bạn về mọi mặt, bao thương đau, giông tố đã trôi qua, giờ đây bạn có thể nhìn đời với một màu hồng đầy tươi đẹp về mọi mặt. Suốt trong khoảng thời gian nầy bạn sẽ gặp được toàn những chuyện may mắn về mọi phương diện. Những năm nên nhất của đời bạn.

Từ 29 đến 34 tuổi: Năm 29 tuổi kỵ đi xa. Năm 30 tuổi kỵ mùa Đông, tháng 9 và tháng 11 Âm lịch. Năm 30 tuổi, coi chừng bị hao tài, hoặc bị lừa gạt. 31 và 33 tuổi, trong hai năm này bạn sẽ bị đau bệnh bất ngờ và rất nặng. Có hao tài tốn của trong hai năm này. Năm 32 tuổi, có hoạnh tài vào mùa hè, kỵ chỗ đông người. Chỉ có năm 34 tuổi là tốt, năm nầy bạn sẽ có một tin vui bất ngờ và gặp được nhiều may mắn về vấn đề tài lộc.

Từ 35 đến 40 tuổi: Thời gian này tài lộc chỉ ở mức trung bình, sức khoẻ rất dồi dào, nhưng gia đạo sẽ gặp nhiều chuyện lộn xộn. Bạn sẽ gặp một chuyện nan giải về vấn đề tình cảm khiến cho bạn lâm vào hoàn cảnh khó xử. Bạn nên hết sức cẩn thận, coi chừng bị đổ vỡ hạnh phúc vì những quyết định nông nổi của bạn.

Từ 41 đến 45 tuổi: Thời gian này có kết quả về đường tài lộc, hùn hạp, giao dịch hay phát triển về tiền bạc có cơ hội tốt sẽ gặp nhiều may mắn trong cuộc đời, thời gian tài lộc lên đếm tột độ, tình cảm phát đạt mạnh mẽ.

Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi, năm này việc làm ăn trung bình. Năm 47 và 48 tuổi, hai năm nầy có kết quả về tài chính, phần tài lộc có nhiều tốt đẹp đáng kể. Năm 49 và 50 tuổi, hai năm nầy được khá tốt về tình cảm cũng như về cuộc sống.

Từ 51 đến 55 tuổi: Năm 51 tuổi, năm này có đại hạn, nên cẩn thận việc tiền bạc, cuộc sống có phần yếu kém về tiền bạc. Năm 52 và 53 tuổi, hai năm nầy tốt đẹp, việc làm ăn phát đạt. Năm 54 và 55 tuổi, hai năm nầy được nhiều kết quả tốt về phần tài chính, gia đình êm ấm.

Từ 56 đến 80 tuổi: Thời gian này, phần gia đình và sự nghiệp có nhiều tốt đẹp, nhưng phần bổn mạng thì suy yếu và không được sáng tỏ cho lắm. Cẩn thận việc giao dịch tiền bạc cũng như về sự làm ăn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi trọn đời xem cho nữ mạng tuổi Qúy Hợi 1983

Giải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Kỷ Sửu là trâu cày ruộng, cá tính chân thật trung trực, thuần lương, thích lo chuyện bao đồng, cả đời yên ổn vui vẻ.
Giải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lục Thập Hoa Giáp của Kỷ Sửu là trâu cày ruộng, cá tính chân thật trung trực, thuần lương, thích lo chuyện bao đồng, cả đời yên ổn vui vẻ, không phải lo lắng, cương nhu hài hòa, được người kính trọng.


► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

Giai ma van menh nguoi tuoi Ky Suu theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Vận mệnh người tuổi Kỷ Sửu: Tích lịch Hỏa là tia sáng trên trời, có hình chớp điện ngoằn ngoèo, mạnh mẽ giống như tiếng vó ngựa ầm vang. Hỏa này cần có lôi hỏa phong trợ giúp mới có thể biến hóa. 
 
Nếu như nhật trụ, thời trụ gặp Quý Hợi Đại hải Thủy là Dẫn phàm nhập thánh cách. Các trụ khác có Bính Ngọ Thiên hà Thủy, bẩm tính ẩn chứa sự linh hoạt, thông minh khác thường. Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy, vô ích. Gặp Bính Ngọ Thiên hà Thủy, gọi là Liệt phong lôi môn cách.
 
Mộc ưa Tân Mão Tùng bách Mộc, có lôi; Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc, có phong; Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc, có thiên môn, cùng với Hỏa này trợ giúp nhau, chủ về cát lợi. Các Mộc khác vô dụng.
 
Thổ gặp Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ; Đinh Tỵ Sa trung Thổ, lại được Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy trợ giúp, chủ về quý hiển.
 
Lục Thập Hoa Giáp của Kỷ Sửu không ưa Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa, phạm phải chủ về nghèo khó.
 
Các trụ khác có Thìn, Tỵ là mệnh cách đẹp.
 
Các trụ khác nếu như có bất kỳ Hỏa nào đều chủ về trước phú quý sau nghèo hèn, cuối đời chán nản thất vọng.
 
Nhật chi có Sửu, khắc vợ hoặc chồng, vợ chồng duyên bạc. Khi hợp hôn nếu như bạn đời có Địa chi là Sửu nên khéo léo từ chối hoặc nhanh chóng tìm phương pháp hóa giải hợp lý.
 
Nhật trụ, thời trụ có Mão, gọi là Lôi đình đắc môn cách.
 
Kỷ lộc tại Ngọ, Địa chi của các trụ khác ưa Ngọ. Đáng tiếc Kỷ Sửu Không vong tại Ngọ, lộc lạc Không vong, chủ về nghèo khổ.
 
Kỷ quý tại Thân, Địa chi của các trụ khác ưa Thân.
 
Người tuổi Kỷ Sửu gặp năm Sửu, năm Mùi, trong nhà không yên ổn. Nếu không thương hại đến bản thân cũng thương hại đến người nhà.
 
Người sinh năm Kỷ Sửu chọn bạn đời nên tìm người sinh năm Nhâm, Quý. Không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ.
Theo Tử vi toàn tập

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Sửu theo Lục Thập Hoa Giáp

Cách thiết kế, bài trí phòng ngủ giúp vợ chồng luôn hạnh phúc

Nếu cảm thấy chưa có những giây phút nghỉ ngơi thoải mái, hai vợ chồng bạn nên xem xét lại không gian phòng ngủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Phòng ngủ là một trong những khu vực quan trọng nhất trong nhà vì bạn dành tới 8 tiếng mỗi ngày ở đó. Nếu chỗ ngủ nghỉ chưa phải là thiên đường yên bình thì bạn cần thay đổi một số các chi tiết cho phù hợp.

anh1-5550-1451881726.
Các tông màu gần gũi, ấm áp với đồ mang tính cân đối giúp phòng ngủ lãng mạn hơn. Ảnh: Homedecor.

1. Sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, dễ chịu

Màu sắc đã được chứng minh có tác động lên tâm sinh lý của con người. Với phòng ngủ, các nhà thiết kế thường gợi ý các tông ấm áp như màu đất, đồng, san hô, đào, kem, chocolate...

Với những người đang chịu nhiều áp lực, các màu xanh dịu, tím nhạt có tác dụng tốt. Trong nơi nghỉ của các cặp vợ chồng trẻ, màu hồng, đỏ sẽ tăng cảm giác lãng mạn, giúp chuyện phòng the thêm mặn nồng. Nếu bạn không thích hai màu này, có thể chuyển sang tông màu gần giống như màu rượu, đào, vỏ trứng...

2. Vị trí kê giường

Giường nên kê cách cửa càng xa càng tốt nhưng vẫn phải quan sát được người đi vào. Nơi lý tưởng nhất để kê giường là có khoảng trống hai bên để cả hai vợ chồng có thể lên xuống ở phía mình. Nếu nhà chật, bạn có thể kê sát góc tường nhưng để thoáng phía cuối giường.

Ngoài ra, bạn tránh đặt giường nằm ngay dưới xà nhà, quạt trần bởi sẽ có cảm giác bị áp lực đè nặng khi nhìn lên trên. Nếu đầu giường có cửa sổ, bạn cần làm chắc chắn, kín đáo, rèm dày, tránh tác động của mưa gió. Bạn không nên làm giá sách hoặc để nhiều đồ trên đầu giường.

3. Giữ gìn phòng ngủ gọn gàng

Nhiều người thường coi phòng ngủ là nơi chứa đồ không hợp mùa, các món đồ lặt vặt ít sử dụng. Không chỉ vậy, nhiều chị em còn coi đó là phòng thay đồ, vứt quần áo khắp giường, trên sàn vào buổi sáng khi vội đi làm. Khi trở về nhà sau ngày làm việc, hai vợ chồng đều sẽ cảm thấy mệt mỏi vì phải thu dọn đống lộn xộn. Bạn hãy cố gắng dậy sớm hơn một chút để dọn dẹp, loại bớt những thứ ít sử dụng.

4. Loại bỏ tivi, máy tập

Phòng ngủ phải là nơi thư giãn hoàn toàn, chỗ vợ chồng tâm sự, nghỉ ngơi. Bạn đừng biến nơi này thành phòng giải trí hay chỗ tập thể dục với đủ loại thiết bị điện tử, máy tập hay cả tủ sách đồ sộ. Chiếc máy nghe nhạc nhỏ hoặc một kệ sách là đủ để không gian thêm lãng mạn.

5. Tránh chọn đồ tạo cảm giác lẻ loi

Những người cô đơn thường có xu hướng chọn đồ một món duy nhất như một chiếc đèn đọc sách đầu giường, một lối lên xuống giường... Bạn hãy lưu ý bố trí phòng ngủ thuận lợi cho cả hai vợ chồng như khi ai muốn bật đèn đọc sách thì không làm phiền giấc ngủ của người còn lại.

6. Treo tranh phía đối diện giường ngủ

Điều cuối cùng bạn nhìn thấy trước khi ngủ và đầu tiên khi thức dậy phải là thứ đem lại niềm vui cho bạn. Đó nên là các tác phẩm nghệ thuật bạn yêu thích, thể hiện quan điểm về cuộc sống, hạnh phúc của bạn. Bạn có thể treo ảnh gia đình khắp mọi nơi trong nhà nhưng ở phòng ngủ nên treo ảnh của hai vợ chồng.

7. Không treo gương, bố trí WC đối diện giường

Gương là yếu tố cần hạn chế trong phòng ngủ. Bạn tránh kê gương trong tầm nhìn khi nằm trên giường vì sẽ tạo ảo giác có người lạ trong phòng, nhất là trong bóng đèn đêm. Nếu đối diện giường là WC, tủ đồ lộn xộn, bạn nên làm rèm hoặc đóng cửa khi không sử dụng để che đi.

8. Ánh sáng linh hoạt tùy thời điểm

Trong phòng ngủ, bạn cần ánh sáng tự nhiên vào ban ngày, ánh sáng dịu nhẹ vào buổi tối. Bởi vậy, phòng cần có cửa sổ rộng. Đèn không quá chói, có nhiều nguồn khác nhau như đèn trần, đèn bàn... Các công tắc đèn cần bố trí gần giường để điều chỉnh dễ dàng.

Theo HGTV

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách thiết kế, bài trí phòng ngủ giúp vợ chồng luôn hạnh phúc

3 mẹo hay đặt tên cho cặp song sinh

Đặt tên các bé sinh đôi là một việc rất quan trọng, bạn cần cân nhắc kỹ lưỡng. Dưới đây là gợi ý cho bạn để các bé yêu có cơ hội được sở hữu những cái tên hay,
3 mẹo hay đặt tên cho cặp song sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên các bé sinh đôi là một việc rất quan trọng, bạn cần cân nhắc kỹ lưỡng. Dưới đây là gợi ý để con bạn có cơ hội được sở hữu những cái tên hay, ý nghĩa trong suốt cuộc đời.

Đặt 2 tên theo dạng có vần
Hầu hết tên gọi của các bé song sinh đều có tên chính hoặc tên đệm giống nhau. Điều này giúp tạo sự gắn kết giữa các bé trong cuộc sống. Vì thế, cha mẹ cũng nên nghĩ đến phương án đặt tên này cho các con.

Theo đó, bạn có thể đặt 2 tên có vần, hay 2 cái tên bắt đầu bằng chữ cái hoặc có cùng một kết thúc tên giống nhau. Chẳng hạn như Tuấn Anh và Tú Anh hoặc Thúy Hằng và Thúy Hạnh, Thanh Minh và Thanh Nhàn...

3 meo hay dat ten cho cap song sinh hinh anh
Việc đặt tên cho bé sinh đôi cần được cân nhắc kỹ lưỡng






Đặt 2 tên hoàn toàn khác biệt
Trong thực tế, nếu 2 bé song sinh có tên gọi hoàn toàn khác biệt nhau sẽ tạo được ấn tượng mạnh hơn. Điều này sẽ giúp phân biệt 2 bé một cách dễ dàng.

Theo đó, bạn hãy đặt tên cho 2 em bé song sinh với 2 cái tên mà âm thanh, hình ảnh hoàn toàn khác nhau. Điều này sẽ tạo nên bản sắc độc đáo cho em bé nhà bạn khi chúng lớn lên sau này.

Không đặt những cái tên quá ngộ nghĩnh
Hãy nhớ rằng 2 em bé sinh đôi sẽ phải lớn lên, sẽ đi học, đi làm và sẽ trở thành những chàng trai hoặc các quý cô xinh đẹp trong tương lai. Vì thế, bạn không nên đặt những cái tên quá ngộ nghĩnh, oái oăm hoặc gây cười vì cái tên có thể là một trở ngại cho con bạn sau này.

Cha mẹ trẻ nên nhớ rằng, đặt tên làm sao để 2 em bé song sinh nhà bạn sẽ không bị bạn bè trêu chọc hoặc để cho chúng luôn cảm thấy tự tin, hãnh diện khi giao tiếp với mọi người.

Theo Socola.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 mẹo hay đặt tên cho cặp song sinh

Tướng tai và các dự báo |

1. Trong tướng pháp xem tai là “thái thính quan”. - Cơ quan thu nhận thông tin. Sinh lý học gọi cơ quan thính giác: tại nơi thu nhận thông tin đưa lên não bộ phân tích: nghĩa là bộ phận trợ giúp cho “thiên” (trời) quan hệ mật thiết với: ngu, tuệ, thọ
Tướng tai và các dự báo |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng tai và các dự báo |

3 chòm sao nữ không thích yêu xa, ngại ngần khoảng cách địa lý

Tính cách yếu đuối và khát khao được quan tâm, chăm sóc nên 3 chòm sao nữ không thích yêu xa dưới đây thường ngại ngần với một mối tình có khoảng cách.
3 chòm sao nữ không thích yêu xa, ngại ngần khoảng cách địa lý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Yêu xa luôn là thử thách vô cùng lớn đối với tất cả các cặp đôi, đặc biệt là với con gái. Tính cách yếu đuối và khát khao được quan tâm, chăm sóc khiến họ dần mệt mỏi với khoảng cách của tình yêu. 3 chòm sao nữ không thích yêu xa dưới đây là điển hình cho trường hợp này.


► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc

3 chom sao nu khong thich yeu xa, ngai ngan khoang cach dia ly hinh anh 2
 

Cự Giải 

  Cô gái Cự Giải rất dịu dàng, rất chung tình nhưng cũng thiếu cảm giác an toàn và luôn muốn có một chỗ dựa về tinh thần. Vì thế, họ là chòm sao nữ không thích yêu xa. Nội tâm mẫn cảm, những cuộc điện thoại đường dài, những tin nhắn vô cảm, những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi không đủ để thỏa mãn Cự Giải. Cái cô ấy cần là những cái ôm ngọt ngào, những phút động viên, chia sẻ khi cô ấy gặp chuyện buồn, những khoảnh khắc lãng mạn trong các dịp lễ tết. Những điều này thì tình yêu xa không mang lại được, lại còn phải phấp phỏng chờ mong, hoàn toàn không phù hợp với Cự Giải.  

Sư Tử

  Không nên nhìn cô gái Sư Tử bề ngoài mạnh mẽ, ngang tàng nhưng nội tâm lại vô cùng yếu đuối, cần được che chở, yêu thương và bao dung. Nếu có tình yêu xa, Sư Tử sẽ thiếu niềm tin vào bản thân, thậm chí bắt đầu hoài nghi người yêu, tìm mọi cách để giám sát, theo dõi nhất cử nhất động của đối phương. Thời gian lâu dần, đôi bên cùng mỏi mệt, cuộc sống ít điểm chung dần lộ ra khoảng cách, rồi cãi vã, hờn giận, rồi tổn thương, nhung nhớ dồn lại, dẫn đến đường ai nấy đi. Vì thế mà Sư Tử là chòm sao nữ không thích yêu xa, cứ bên nhau là tốt nhất.
3 chom sao nu khong thich yeu xa, ngai ngan khoang cach dia ly hinh anh 2
 

Song Tử 

  Thích chơi bời, yêu tự do mới mẻ, muốn thử sức ở những phương diện mạo hiểm, có tính kích thích cao. Thực ra, có nhiều lúc Song Tử rất thích yêu xa vì sẽ chẳng có ai kè kè bên cạnh giám sát, thoải mái muốn làm gì thì làm, quang minh chính đại kết giao cùng người khác cũng được ấy chứ. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, dù thế nào thì cô nàng cũng vẫn yếu đuối và có những lúc chạnh lòng như bao cô gái khác. Song Tử càng vui đùa, càng lao vào những mối quan hệ không rõ ràng thì lại càng mơ đến một tấm chân tình. Nên chòm sao nữ không thích yêu xa này chỉ muốn có ai đó gần bên, cầm cương và cho cô một vòng tay ấm áp thôi.
Chỉ số sợ hãi của 12 chòm sao khi yêu xa Báo động 3 chòm sao nữ tiêu hoang khiến tài chính lao đao 4 cô nàng hoàng đạo có mệnh công chúa cao sang

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao nữ không thích yêu xa, ngại ngần khoảng cách địa lý

Lịch sử chọn ngày giờ

Nước ta ở cạnh Trung Quốc, lại trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc. Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá cổ đại của thế giới, cố nhiên thuuật chiêm tinh Trung Quốc qua các triều đại phong kiến lần lượt lan truyền sang ta và các nước phương Đông nói chung.
Lịch sử chọn ngày giờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một câu hỏi được đặt ra: Vậy trước thời bắc thuộc, dân tộc ta có thuật chọn ngày, chọn giờ chưa ?

      “...Nhân dân Việt Thường đã biết xét nghiệm sự vật theo hiện tượng thiên nhiên mà làm lịch để áp dụng vào nông nghiệp khá sớm. Sách thông chí của Trịnh Tiều TQ chép rằng: Đời Đào Đường (Nghiêu) năm 2253 trước công nguyên, phương Nam có họ Việt Thường cử sứ bộ, qua hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ sống một nghìn năm, mình dài hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu, ghi việc khi trời đất mở mang. Vua Nghiêu sao chép lấy, gọi là “Quy lịch” (tức lịch rùa). Vậy đây chưa rõ khoa văn đẩu 9 chữ hình con nòng nọc trên lưng con rùa là văn sẵn trên mai nó, mà các nhà làm lịch nước Việt- thường nghiên cứu theo sự tiến triển của nó hàng nghìn năm để rút ra quy luật về sự tuần hoàn của thời tiết, hay đó là một thứ ký hiệu ta gọi là chữ Khoa- đẩu mà các nhà làm lịch nước ta vạch lên mai rùa.

       Dù sao “Quy lịch” lúc đó là phát hiện riêng của các nhà thiên văn nước Việt Thường. Các nhà thiên văn Trung Quốc cũng làm ra lịch của họ nhưng người Việt thường không theo lịch của Trung Quốc. Mãi đến đời nhà Hán, dưới triệu Văn Vương (con trai của Trọng Thuỷ, cháu của Triệu Đà), người nước ta vẫn dùng lịch truyền thống của mình. Khi làm lịch, tổ tiên ta đã biết dựa vào những mốc tiêu chuẩn của thời gian theo chu kỳ của mặt trời, mặt trăng. Tín hiệu còn thể hiện qua hoa văn trống đồng Ngọc Lũ. Thí dụ: Trung Tâm mặt trống là hình ảnh mặt trời, vòng trong là hạ chí, vòng giữa là vòng xuân phân, thu phân vòng ngoài là Đông chí...”.

(Trích “Vài nét về Văn hóa thời Hùng Vương” trong bài của GS. Bùi Văn Nguyên đăng trong tạp chí Văn học số ra tháng 9,10/1973)

      Như vậy từ lich sử xa xưa, ta đã có lịch và qua đó suy luận ra ta cũng đã có thuật chọn ngày. Kể cả khi tiếp thu thuật chiêm tinh trung quốc, ta cũng không tiếp thu toàn bộ, nhất là trong dân gian các tục kiêng cữ có nhiều chỗ khác nhau.

      Ở nước ta hồi đầu thế kỷ 20, nhất là trong phong trào “Duy Tân”, nhiều nhà tri thức tân tiến đã lên tiếng công kích các thói hư tật xấu, đã loại bỏ được nhiều hủ tục lỗi thời, trong đó tục chọn ngày cũng đã giảm nhẹ và có phần cải tiến, không nhất mọi việc đều chọn ngày, chọn hướng như thời xưa.

Sau cách mạng tháng 8-1945, tiếp đến 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Hiệp kỷ lịch ban hành dưới triều nguyễn mất dần, số người biết chữ Hán thưa thớt dần, trước cao trào diệt thù cứu nước, chẳng mấy ai quan tâm đến việc chọn ngày, chọn giờ: nhận lệnh thì chiến đấu, công tác; ban ngày máy bay địch bắn phá thì hoạt động ban đêm, nhà dột thì lợp lại trai gái yêu nhau, hai gia đình bằng lòng, thấy ngày nào thuận tiện, thì hẹn nhau cưới ngày ấy, cưới hỏi muốn đông người dự thì chọn ngày chủ nhật, muốn biết ngày nắng, ngày mưa thì nghe dự báo thời tiết, chết thì chôn không để quá 24 giờ. Mọi việc như xuất hành, tu tạo, hôn nhân, tang tế kể gì ngày giờ Hoàng đạo, Hắc đạo, trùng phục, Trùng tang, trực khai, trực bế. vả lại trong không khí mọi người bận rộn vật lộn với cuốc sống hàng ngày, tranh chấp giữa cái sống, cái chết, cái đói, cái no, không còn điều kiện để chọn ngày tốt, tránh giờ xấu, nghỉ phép được ít ngày, cố lo xong công việc để kịp trả phép, thôi thì “vô sư, ô sách, quỷ thần bất trách”.

Tuy rằng không mở sách, không mời thầy, nhưng tục chọn ngày chọn giờ vẫn âm ỉ lan truyền trong dân gian. Mặc dầu quần chúng nhân dân mấy ai biết: ngày nào là ngày “Thiên ân”, ngày nào là ngày “sát chủ”, nhưng những câu nói cửa miệng vẫn có thế dùng làm cơ sở lý luận chọn ngày chọn giờ. Thí dụ: Tâm lý chung thích chọn ngày chẵn, tránh ngày lẻ, tránh tam nương, nguyệt kỵ, tránh ngày sóc (mồng 1), ngày nguyệt tận (cuối tháng)...

  • Mồng năm, mười bốn, hai ba

         Đi chơi còn nhỡ nữa là đi buôn

  • Một, ba, sáu, tám tuổi Kim lâu

         Cưới vợ làm nhà chẳng được đâu (lấy tuổi mụ của người chủ sự, trừ bội số của số 9, số dư cuối cùng là 1, 3,6 ,8 tức là tuổi Kim lâu)

  • Dù ai buôn bán trăm nghề

         Gặp ngày con nước cũng về tay không.

  • Làm ruộng tháng năm, trông trưng rằm tháng 8.
  • Cưới vợ xem tuổi đàn bà_

         Làm nhà xem tuổi đàn ông.

  • Kính thưa hai họ, hôm nay ngày lành tháng tốt (!)

         Mừng cho hai cháu đẹp duyên...

  • Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba...
  • Ngày đoan dương (5 tháng 5) được nhân dân ta xem như ngày đẹp nhất cả năm, vì thế có tục giết sâu bọ (người lớn thì uống rượu nếp, đeo chỉ ngũ sắc, xâu tai cho con gái đến tuổi dậy thì, tục hái thuốc vào giờ ngọ: 12:00 loài cỏ quanh vườn gọi là bách dược để chữa các bệnh trong năm,
  • Mồng 8 tháng 4 (tức ngày Phật đản cũ) là ngày cá chép vượt suối Vũ môn hoá rồng, lên đường đi học, đi thi vào ngày đó dễ đỗ đạt.
  • Những ngày đầu năm, đầu tháng (tức ngày sóc) phải kiêng cự nhiều điều, tránh tranh chấp cãi cọ, tránh va chạm đổ vỡ, tránh xuất tiền, xuất kho, sợ dông cho cả năm.
  • Ổ gà mới nở, muốn gà con dễ nuôi, phải chọn giờ con nước: khi nào nước thuỷ triều bắt đầu xuống, mới hạ ổ gà xuống.

      Trên đây toàn là những câu truyền miệng trong dân gian nhưng khá phổ biến.

Sau khi hoà bình lập lại nhất là trong những năm gần đây, tập quán chọn ngày, chọn giờ lại rộ lên. Ngoài những tư liệu thời xưa còn rải rác lưu truyền ở các địa phương, còn nhiều sách vở từ Thái Lan, từ Đài Loan, Hồng Kông và các nước Đông Nam á khác tràn vào. thầy cũ cộng thêm thầy mới, tự nhiên hình thành tầng lớp thuật sĩ chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp đủ các dạng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lịch sử chọn ngày giờ

Cuộc đời và con đường chính trị của bà Hillary Clinton

Việc cựu ngoại trưởng Hillary Clinton dự kiến thông báo kế hoạch tranh cử tổng thống năm 2016 tiếp tục khẳng định hoài bão chính trị của người phụ nữ ảnh hưởng bậc nhất nước Mỹ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ảnh chân dung của nữ sinh Hillary Diane Rodham tại trường phổ thông Park Ridge East, bang Illinois, năm 1965. Ảnh: AP

Hillary Diane Rodham từng là một thủ lĩnh sinh viên ở trường đại học Wellesley, bang Massachusetts. Thời gian đầu, Hillary ủng hộ đảng Cộng hòa. Sau này, bà quan tâm đến vấn đề bình đẳng giữa các chủng tộc nên đã rời đảng. Ảnh: AFP
Hillary Diane Rodham từng sinh viên ở Đại học Wellesley, bang Massachusetts. Thời gian đầu, Hillary ủng hộ đảng Cộng hòa. Sau này, bà quan tâm đến vấn đề bình đẳng giữa các chủng tộc nên rời đảng. Ảnh: AFP

Ông Bill Clinton và bà Hillary chụp ảnh tại trường Luật thuộc đại học Yale vào năm 1972. Họ kết hôn năm 1975. Ảnh: Time
Ông Bill Clinton và bà Hillary chụp ảnh tại trường Luật thuộc Đại học Yale vào năm 1972. Họ kết hôn năm 1975. Ảnh: Time

vợ chồng ông bill clinton chào đón con gái đầu lòng năm 1980. lúc này ông bill clinton đang giữ chức thống đốc nhiệm kỳ đầu tiên tại bang arkansas. ảnh: ap
Vợ chồng ông Bill Clinton chào đón con gái đầu lòng năm 1980. Lúc này ông giữ chức thống đốc nhiệm kỳ đầu tiên tại bang Arkansas. Ảnh: AP

gia đình clinton trong dịp ông bill clinton thông báo tranh cử tổng thống mỹ ngày 3/11/1991. ảnh: ap
Gia đình Clinton trong dịp ông Bill Clinton thông báo tranh cử tổng thống Mỹ ngày 3/11/1991. Ảnh: AP

bà clinton tham gia một sự kiện để vận động tranh cử cho chồng vào ngày 19/6/1992. ảnh: ap
Bà Clinton tham gia một sự kiện để vận động tranh cử cho chồng vào ngày 19/6/1992. Ảnh: AP

ngày 26/1/1992, ông clinton xuất hiện trên truyền hình cùng vợ để bác bỏ những tin đồn ông quan hệ lén lút với cô gennifer flowers, nữ ca sĩ phòng trà nổi tiếng ở bang arkansas. những tin đồn nảy sinh trước khi đảng dân chủ tổ chức đại hội để chọn ra ứng viên đại diện chính thức. sự xuất hiện
Ngày 26/1/1992, ông Clinton xuất hiện trên truyền hình cùng vợ để bác bỏ những tin đồn ông quan hệ lén lút với cô Gennifer Flowers, nữ ca sĩ phòng trà nổi tiếng ở bang Arkansas. Những tin đồn nảy sinh trước khi đảng Dân chủ tổ chức đại hội để chọn ra ứng viên đại diện chính thức. Sự xuất hiện "tay trong tay" cùng người vợ đã khiến ông Clinton giành lại tỷ lệ ủng hộ đáng kể, phục hồi lòng tin của cử tri. Ảnh: CBS

gia đình clinton trong đại hội toàn quốc của đảng dân chủ vào ngày 15/7/1992. ông clinton chính thức trở thành ứng viên đại diện đảng để tranh cử chức tổng thống mỹ. ảnh: ap
Gia đình Clinton trong đại hội toàn quốc của đảng Dân chủ vào ngày 15/7/1992. Ông Clinton chính thức trở thành ứng viên đại diện đảng để tranh cử tổng thống Mỹ. Ảnh: AP

gia đình clinton và gia đình ông al gore trong buổi lễ nhậm chức tổng thống và phó tổng thống mỹ ngày 17/1/1993. bà clinton trở thành đệ nhất phu nhân mỹ đầu tiên có học vị sau đại học. ảnh: ap
Gia đình Clinton và gia đình ông Al Gore trong buổi lễ nhậm chức tổng thống và phó tổng thống Mỹ ngày 17/1/1993. Bà Clinton trở thành Đệ nhất Phu nhân Mỹ đầu tiên có học vị sau đại học. Ảnh: AP

tổng thống bill clinton giao cho vợ nhiều trọng trách so với các vị phu nhân tiền nhiệm. chương trình nổi bật của bà clinton khi đó là đề xuất cải cách hệ thống chăm sóc y tế toàn quốc. ảnh: ap
Tổng thống Bill Clinton giao cho vợ nhiều trọng trách so với các vị phu nhân tiền nhiệm. Chương trình nổi bật của bà Clinton khi đó là đề xuất cải cách hệ thống chăm sóc y tế toàn quốc. Ảnh: AP

bà hillary cùng chồng và con gái trong ngày ông bill clinton nhậm chức tổng thống mỹ nhiệm kỳ 2 ngày 20/1/1997. ảnh: white house
Bà Hillary cùng chồng và con gái trong ngày ông Bill Clinton nhậm chức tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 ngày 20/1/1997. Ảnh: White House

bà clinton sát cánh bên chồng khi tổng thống thứ 42 của mỹ phát biểu cảm ơn những nghị sĩ đảng dân chủ bỏ phiếu chống luận tội ông vào ngày 19/12/1998. ban đầu, ông bill clinton phủ nhận chuyện đã quan hệ ngoài luồng với nữ thực tập sinh monica lewinsky. sau này, ông thừa nhận sự việc và phải công khai xin lỗi. hạ viện đã thông qua đề nghị luận tội tổng thống, nhưng thượng viện đã bác bỏ điều này. ảnh: ap
Bà Clinton sát cánh bên chồng khi tổng thống thứ 42 của Mỹ phát biểu cảm ơn những nghị sĩ đảng Dân chủ bỏ phiếu chống luận tội ông vào ngày 19/12/1998. Ban đầu, ông chủ Nhà Trắng phủ nhận chuyện đã quan hệ ngoài luồng với nữ thực tập sinh Monica Lewinsky. Sau này, ông thừa nhận sự việc và phải công khai xin lỗi. Hạ viện đã thông qua đề nghị luận tội tổng thống, nhưng Thượng viện bác bỏ điều này. Ảnh: AP

bà clinton cùng chồng và con gái trong ngày ăn mừng chiến thắng đắc cử chức thượng nghị sĩ đại diện bang new york ngày 7/11/2000. đến ngày 7/11/2006, bà tiếp tục đắc cử để đại diện bang new york tại thượng viện thêm một nhiệm kỳ. ảnh: ap
Bà Clinton cùng chồng và con gái trong ngày ăn mừng chiến thắng giành chức thượng nghị sĩ đại diện bang New York ngày 7/11/2000. Đến ngày 7/11/2006, bà tiếp tục đắc cử để đại diện bang New York tại Thượng viện thêm một nhiệm kỳ. Ảnh: AP

bà clinton trong một buổi vận động tranh cử tổng thống mỹ vào ngày 27/1/2007.  từ trước đến nay, chưa chính đảng nào ở mỹ đề cử phụ nữ làm ứng viên chính thức để tranh cử ghế tổng thống. ảnh: ap
Bà Clinton trong một buổi vận động tranh cử tổng thống Mỹ vào ngày 27/1/2007. Từ trước đến nay, chưa chính đảng nào ở Mỹ đề cử phụ nữ làm ứng viên chính thức để tranh cử ghế tổng thống. Ảnh: AP

bà clinton tham dự một chiến dịch tranh cử cùng ông barack obama vào ngày 27/6/2008. sau thất bại ở các vòng bầu cử sơ bộ, bà clinton tuyên bố ngừng cuộc đua vào nhà trắng và quay sang ủng hộ ứng viên tổng thống gốc phi đầu tiên. ảnh: ap
Bà Clinton tham dự một chiến dịch tranh cử cùng ông Barack Obama vào ngày 27/6/2008. Sau thất bại ở các vòng bầu cử sơ bộ, bà Clinton tuyên bố ngừng cuộc đua vào Nhà Trắng và quay sang ủng hộ ứng viên tổng thống gốc Phi đầu tiên. Ảnh: AP

ngày 1/12/2008, sau khi nhậm chức tổng thống mỹ, ông obama tuyên bố đề cử bà clinton giữ chức ngoại trưởng mỹ. ảnh: ap
Ngày 1/12/2008, sau khi nhậm chức tổng thống Mỹ, ông Obama tuyên bố đề cử bà Clinton giữ chức ngoại trưởng Mỹ. Ảnh: AP

ngoại trưởng mỹ hillary clinton trao đổi cùng tổng thống nga vladimir putin bên lề hội nghị cấp cao apec diễn ra ở thành phố vladivostok, nga, vào ngày 8/9/2012. bà cũng là ngoại trưởng mỹ công du nhiều quốc gia nhất (112 nước). ảnh: ap
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton trao đổi cùng Tổng thống Nga Vladimir Putin bên lề hội nghị cấp cao APEC diễn ra ở thành phố Vladivostok, Nga, vào ngày 8/9/2012. Bà cũng là ngoại trưởng Mỹ công du nhiều quốc gia nhất (112 nước). Ảnh: AP

tổng thống obama và ngoại trưởng clinton trong tấm ảnh nổi tiếng về quá trình theo dõi chiến dịch tiêu diệt trùm khủng bố osama bin laden ngày 1/5/2011. ảnh: white house
Tổng thống Obama và Ngoại trưởng Clinton trong tấm ảnh nổi tiếng về quá trình theo dõi chiến dịch tiêu diệt trùm khủng bố Osama bin Laden ngày 1/5/2011. Ảnh: White House

ngày 23/1/2013, ngoại trưởng clinton điều trần trước quốc hội về vụ tấn công đại sứ quán mỹ ở libya. vài ngày sau, bà kết thúc nhiệm kỳ ngoại trưởng, rời khỏi chính phủ và nhường nhiệm vụ lãnh đạo bộ ngoại giao mỹ lại cho ông john kerry. ảnh: ap
Ngày 23/1/2013, bà Clinton điều trần trước Quốc hội về vụ tấn công đại sứ quán Mỹ ở Libya. Vài ngày sau, bà kết thúc nhiệm kỳ ngoại trưởng, rời khỏi chính phủ và nhường nhiệm vụ lãnh đạo Bộ Ngoại giao Mỹ cho ông John Kerry. Ảnh: AP

Cuối tháng 9/2014, Chelsea Clinton sinh con gái đầu lòng. Ông bà Clinton trở thành ông bà ngoại. Ảnh: CNN
Cuối tháng 9/2014, ông bà Clinton đón cháu ngoại. Ảnh: CNN
bà clinton dự một sự kiện về chính sách đối ngoại ngày 14/5/2014. sau khi rời bộ ngoại giao, bà clinton lần đầu tiên trở thành công dân bình thường và không can dự vào chính sự sau hơn 30 năm. tuy nhiên, giới chuyên gia và truyền thông đều nhận định bà clinton đang chuẩn bị cho chiến dịch tranh cử tổng thống mỹ năm 2016. ngày 10/4/2015, một số nguồn tin của hãng ap cho biết, bà clinton sẽ chính thức xác nhận kế hoạch chạy đua vào nhà trắng vào cuối tuần này. ảnh: ap
Bà Clinton dự một sự kiện về chính sách đối ngoại ngày 14/5/2014. Sau khi rời Bộ Ngoại giao, bà Clinton trở về với cuộc sống đời thường, không can dự vào chính sự sau hơn 30 năm. Tuy nhiên, giới chuyên gia và truyền thông đều nhận định bà đang chuẩn bị cho chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ năm 2016. Ngày 10/4/2015, một số nguồn tin của hãng AP cho biết, bà Clinton sẽ chính thức xác nhận kế hoạch chạy đua vào Nhà Trắng vào cuối tuần này. Ảnh: AP

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cuộc đời và con đường chính trị của bà Hillary Clinton

Tuyệt đối không trồng 5 cây mang nhiều xui xẻo, âm khí trong vườn nhà

Nếu những người trong gia đình bạn thường xuyên ốm đau bệnh tật, gặp nhiều xui xẻo thì hãy kiểm tra ngay trong khuôn viên nhà mình có trồng các loại cây này không nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong khuôn viên của tất cả các nhà hầu hết đều trồng một đến một vài loại cây vừa đem lại sự phong phú vừa là nguồn cung cấp oxy cho hoạt động sống của con người.

Tuy nhiên, các bạn có biết, đứng dưới góc độ phong thủy, không phải loại cây nào cũng có tác dụng đem lại nguồn sinh khí tốt cho căn nhà của bạn. Trong số đó có một số loại cây còn đem âm khí, điềm gở gây ảnh hưởng tới sức khỏe và cuộc sống của những người trong gia đình. Vì thế, khi lựa chọn cây trồng trong nhà cần tránh những loại cây đem nhiều xui xẻo này.

Cây hòe


tuyet doi khong trong 5 cay mang nhieu xui xeo, am khi trong vuon nha - 1

Cây hòe là một loại cây thường được nhiều gia đình trồng để lấy hoa, xao lên và nấu nước uống. Bên cạnh đó, hoa hòe còn là một trong những vị thuốc bắc hiếm có.

Tuy nhiên, theo phong thủy, cây hoa hòe không nên trồng ở sau nhà, nếu trồng cây này sau nhà nó có thể khiến đường công danh của gia chủ gặp trục trặc, bị vùi dập.

Nếu bạn vẫn muốn trồng loại cây này, tốt nhất chỉ nên trồng trước nhà, lúc này thậm chí nó còn có thể mang lại may mắn đáng kể.

Cây liễu


tuyet doi khong trong 5 cay mang nhieu xui xeo, am khi trong vuon nha - 2

Từ lâu nay cây liễu vẫn là một loại cây mà nhiều nhà tránh trồng. Từ “liễu” khi đọc lên gần giống giọng điệu của từ “lưu”, nghĩa là đổ đi, chảy đi. Trồng cây liễu trong nhà, tiền bạc tài sản của gia chủ cẩn thận bị "trôi hết đi".

Ngoài ra, cây liễu còn được coi là loại cây mang nhiều âm khí nặng, dễ dụ tà khí, ma quỷ đến nhà.

Cây xương rồng


tuyet doi khong trong 5 cay mang nhieu xui xeo, am khi trong vuon nha - 3

Cây xương rồng có sức sống rất tốt, nó có thể sống trong mọi điều kiện. Tuy nhiên, trong phong thủy cây xương rồng là biểu tượng của điềm xui, chỉ nên trồng trong nhà mới có đám ma, đám cháy để giúp xua đuổi tà khí.

Cây bách


tuyet doi khong trong 5 cay mang nhieu xui xeo, am khi trong vuon nha - 4

Nếu để ý bạn sẽ thấy cây bách thường được trồng ở gần những phần mộ của người đã chết vì nó mang nhiều âm khí, xui xẻo. Vì thế, đừng dại mà mang cây này về trồng trong khuôn viên nhà ở vì nó sẽ đem lại điều xui xẻo cho người sống.

Cây dâu


tuyet doi khong trong 5 cay mang nhieu xui xeo, am khi trong vuon nha - 5

Người xưa thường trồng cây dâu để trừ tà ma. Muốn thịnh vượng, gia đình gặp nhiều may mắn thì tuyệt đối không nên trồng cây dâu trước cổng nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyệt đối không trồng 5 cây mang nhiều xui xẻo, âm khí trong vườn nhà

Cách quý: Những sao làm Quan

1. Các chính tinh có nghĩa quan lộc trực tiếp:
Cách quý: Những sao làm Quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử Vi: Tử Vi đắc địa ở cung Quan có nghĩa quyền quý. Tử Vi chỉ người có dịp chỉ huy, điều khiển, giữ những chức vụ quan trọng trong công quyền, có nhiều thuộc hạ cao cấpl có tài lãnh đạo, có bản lãnh chế phục người khác. Ngôi thứ quan lộc cao thấp tùy thuộc vị trí miếu địa hay đắc địa: càng đắc địa thì ngạch trật càng cao. Nếu Tử Vi được nhiều quyền tinh, dũng tinh đi kèm thì chức quyền càng lớn, có nhiều thuộc hạ đông đảo trợ lực. Nếu thiếu trợ tinh, Tử Vi chỉ loại viên chức hay sĩ quan cao cấp làm việc tham mưu, phục vụ trong ngành chuyên môn, ít có dịp cầm quyền, cầm quân, hoặc nếu có, thì chỉ điều khiển một số thuộc hạ giới hạn và thời gian chỉ huy không lâu.

Thái Dương: Nam số có Thái Dương sáng sủa ở Quan lộc đều quý hiển, cụ thể là có phẩm trật cao, có chức vụ lớn, thành công trong sự nghiệp nhờ sự thông minh, tài năng và đạo đức của mình. Thông thường, Thái Dương chỉ ngành văn hơn là ngành võ.

Liêm Trinh: đắc địa trở lên chủ về quan lộc, giống như Thái Dương, cho nên tọa thủ ở Quan lộc rất hợp vị. Liêm Trinh chủ yếu chỉ về võ nghiệp nhưng cũng có khi kiêm nhiệm cả chính trị nếu đóng ở hai cung Dần và Thân. Cái hay của Liêm về quan lộc bắt nguồn trước hết từ khả năng toàn diện đó. Trong cả hai ngành đều sáng chói, hiển đạt trong thời bình lẫn thời chiến, nhờ ở tài thao lược, khả năng thích ứng với nhiều hoàn cảnh. Ngoài ra, Liêm Trinh đắc địa ở Dần và Thân còn ban cho san này những điều kiện tốt đẹp để thành công: sự liêm khiết, thẳng thắn, mực thước, rất trong sạch, có đạo đức, không chịu làm điều trái phép, trái lương tâm chức nghiệp. Nếu Liêm Trinh đi với Thiên Tướng thì sự chính trực càng nổi bật. Liêm Trinh hãm địa ở Quan báo hiệu chức vụ nhỏ, thấp, thường gặp hung sự trong công vụ, đặc biệt là hình tù.

Thiên Tướng: sao này là quyền tinh, dũng tinh, thích hợp với ngành võ. Càng đắc địa (ở Thìn, Tuất, Tý, Ngọ, Dần, Thân Sửu, Mùi, Tỵ và Hợi), công danh càng sáng chói. Thiên Tướng là người đảm đang, tháo vát, có chí khí lớn, nhất là có ý thức công bằng, bình đẳng rất cao, có hoài bão mang trật tự xã hội. Nếu Thiên Tướng đi kèm với Tử Vi ở cung Quan đó là người có tài lãnh đạo, có tài thừa hành, dám làm dám quyết, có khí phách hơn người, có hoài bão cao xa. Tuy nhiên, cặp sao này nói lên tính tự phụ và khuynh hướng á quyền (do sao Tử Vi). Tử Tướng đồng cung có tài và có tham vọng lãnh đạo chỉ huy. Nếu Thiên Tướng được Tướng Quân xung chiếu hay ngược lại thì rất hiển đạt trong võ nghiệp.

Thất Sát: ở Quan là quân nhân, đặc biệt thích hợp với quân nhân cầm binh xuất trận đi tiên phong, nghênh địch ở vùng hỏa tuyến. Sao này không thích hợp với trách nhiệm phòng thủ hậu phương và không đắc dụng ở ngành tham mưu, nhất là hành chính, chính trị. Đi với Hóa Quyền, là loại sĩ quan có binh lính dưới trướng, có khả năng tác chiến cao, lập được nhiều chiến công trên trận địa.

Thiên Phủ: là quyền tinh, chỉ cách làm quan văn đồng thời là nghề liên hệ đến tài chính. Nếu Phủ ở miếu và vượng địa, chức vụ tài chính sẽ cao hơn ở đắc địa. Nếu có thêm phụ tinh tốt, nhất là trợ tinh và tài tinh, đương số có thể là người đứng đầu cơ quan tài chính. Bằng không, sẽ có nghĩa là tiền bạc, giàu có hơn các đồng nghiệp khác.

2. Những chính tinh có nghĩa quan lộc gián tiếp

Vũ Khúc: Đắc quý cách ở Thìn Tuất Sửu Mùi (miếu địa), Dần Thân Tỵ Ngọ (vượng địa) và Mão Dậu (đắc địa). Trong trường hợp này, Vũ chỉ võ nghiệp đặc biệt nếu đi cùng với các sao võ như Tướng, Sát, Phá, Tham. Đi với Văn Khúc thì có tài về cả văn lẫn võ. Vũ là người có chí lớn, có tài thao lược, tính toán giỏi, dám mưu đại sự, lại can đảm, quả cảm. Đây là ngôi sao tham mưu, đánh giặc bằng mưu lược nhiều hơn là bằng binh đao và hỏa lực. Nếu Vũ đi cùng với Tướng hay Sát thì sĩ quan đó kiêm cả tham mưu lẫn tác chiến, và có dũng vừa có mưu. Nếu hãm địa, năng tài của Vũ Khúc bị phai mờ, hoặc kém cỏi, hoặc không có chỗ dụng, hoặc thất bại. Trong trường hợp đơn thủ hoặc đồng cung với Phủ, Vũ Khúc làm quan văn, coi về ngành kinh tế rất đắc dụng. Đó là người có tài kinh doanh mang lợi lộc cho quốc gia, vận dụng tiền bạc giỏi, biết bắt mạch và khai thác cơ hội. Trong bất cứ trường hợp đắc địa nào, Vũ cũng là người có tiền bạc dư dả.

Tham Lang: Trừ phi miếu địa ở Thìn Tuất, Tham Lang tầm thường, có thể nói là bất tài, hám lợi. Ngay trong trường hợp đắc dụng, sĩ quan có Tham Lang ở Quan có nhiều nét xấu: từ hiếu thắng, tự phụ cho đến tính hình thức, ham vui, bê trễ và nhất là lòng tham dưới nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, nếu Tham miếu địa đi với Linh hay Hỏa miếu địa thì lại rất hay cho võ nghiệp.

Phá Quân: Quan có Phá miếu (ở Tý, Ngọ), vượng (ở Sửu Mùi), đắc địa (ở Thìn, Tuất) thì can đảm, hoạt động nhưng hiếu thắng, tự kiêu, mưu cơ, gian trá và nhất là bất nhân. Bản chất của Phá Quân ở Quan là không được trung tín, hay lấn lướt người trên. Trong trường hợp hãm địa, quan cách của Phá Quân rất tầm thường, hay gặp tai nạn khó thoát, hay hại người và bị người hại.

Thái Âm: là phú tinh, chỉ điền trạch. Nếu sáng sủa, cũng có quan cách nhưng không rực rỡ bằng Thái Dương. Tuy nhiên, người tuổi Âm, sinh ban đêm, lúc trăng lên có Thái Âm sáng sủa ở Quan thì quý cách rực rỡ hơn người tuổi Dương, sinh ban ngày. Nếu có thêm trợ tinh thì càng sáng lạng: đó là trường hợp người sớm phát đạt, toại ý, vừa có danh, vừa có lợi. Nếu là tuổi Dương, sinh ban ngày thì công danh có ít, lợi lộc nhiều hơn. Thái Âm chỉ cách làm quan văn. Nếu hãm địa, quan cách tầm thường, chậm phát, thường gặp những hoàn cảnh không toại ý, thiếu cơ hội thi thố tài năng. Nếu Âm Dương đồng cung ở Sửu Mùi thì có lộc nhưng không quý hiển. Muốn đắc quý, phải có Tuần, Triệt án ngữ hay Hóa Kỵ đồng cung.

Thiên Đồng: chỉ có ý nghĩa quan lộc nếu đắc địa trở lên. Thông thường, sao này chỉ quan cách nhưng riêng ở Mão thì văn võ kiêm toàn. Đồng chỉ thực sự quý hiển nếu ở cung Tý, cung Dần và cung Thân. Trong mọi trường hợp, Đồng chỉ loại viên chức làm việc lưu động, thường hay đổi công việc, cụ thể như thanh tra, đại sứ, liên lạc viên, giao liên hoặc gặp hoàn cảnh phải đổi nghề, đổi chỗ làm tương đối mau chóng. Nếu đồng cung với Thiên Lương, Đồng rất xuất sắc trong các ngành chính trị, y khoa, sư phạm. Đồng cung với Nguyệt ở Tý, Đồng cũng lỗi lạc. Nếu hãm địa, quan cách nhỏ thấp, thăng giáng thất thường và bất đắc chí trong nghề nghiệp.

Thiên Lương: là cách quan văn. Đắc địa trở lên, Lương là người có tài mưu sĩ, cố vấn, khuyến cáo đường lối chiến lược, chính sách, đặc biệt khi đóng ở Thìn Tuất (đồng cung với Thiên Cơ) hay ở Mão (đồng cung với Thái Dương). Tại những vị trí này, Lương là người hay tìm tòi, hiếu học, có khả năng nghiên cứu và thiết kế các chương trình lớn, rất thích hợp với công việc tham mưu. Nếu có thêm các sao khoa bảng thì công danh rất sáng chói, được ở cạnh chức quyền cao cấp. Nếu Lương ở Sửu Mùi thì quan cách tầm thường còn hãm địa ở Tỵ Hợi thì chức vị càng thấp, tính tình phóng đãng, hay thay đổi chí hướng, ưa phiêu lưu, không toại chí, phải bôn ba lưu lạc, tha phương cầu thực. Trường hợp đồng cung với Nhật ở Dậu cũng có ý nghĩa tương tự.

Cự Môn: Miếu, vượng và đắc địa, sao này chỉ quan văn, đặc biệt là chính trị gia hay luật gia hoặc nhà ngoại giao. Sao này rất thích hợp cho quan tòa, trạng sư, giáo sư, dân biểu, nghị sĩ, những người có học lực uyên bác, năng khiếu hùng biện, thiên về chính trị. Viên chức có Cự Môn sáng sủa thường có hoài bão cải tạo xã hội, có ý chí muốn làm việc lớn, có xu hướng chính trị cấp tiến, muốn thay đổi hoàn cảnh chứ không bảo thủ, chấp nê hiện trạng. Do đó, Cự Môn đắc địa thường là người bất mãn hiện tại, nhưng lại không chịu thúc thủ chờ thời, trái lại muốn đóng góp để tạo thời thế. Chỉ khi nào hãm địa, Cự Môn mới là người bất đắc chí, bất mãn mà bất lực, thường bị tụng ngục, kìm hãm không hoạt động được. Đi chung với Thiên Cơ ở Mão Dậu, đi chung với Thái Dương ở Dần Thân thì quan chức cao, có cả phú lẫn quý cách. Nếu hãm địa ở Tỵ thì quan chức nhỏ, ở Hợi thì có cao vọng, thường bất mãn; ở Thìn Tuất tuy có tài và có chức phận trong hậu vận nhưng thường gặp thị phi, đố kỵ, cạnh tranh, gièm xiểm.

Thiên Cơ: là kỹ năng, kỹ thuật, sự tinh xảo trong ngành chuyên môn, đặc biệt là máy móc. Nghề của Thiên Cơ có thể là kỹ sư, kỹ nghệ. Ngoài ra, Cơ trong bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ nghề công chức, quan lại, cụ thể là ngành y khoa hay dược khoa. Đồng cung với Cự Môn ở Mão Dậu, đồng cung với Thiên Lương ở Thìn Tuất, Thiên Cơ là viên chức tham mưu, giỏi về kế hoạch, chính sách, chiến lược. Tại bất cứ vị trí đắc địa nào, Cơ cũng là viên chức khéo léo, tinh xảo, tinh thục, có lương tâm chức nghiệp cao.

3. Những phụ tinh có ý nghĩa quan lộc:

a. Phụ tinh chỉ quyền uy, chức phận:
Hóa Quyền: biểu tượng cho quyền hành và thế lực, đặc biệt nếu đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Nếu bình thường hoặc hãm địa (ở Tý, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi) thì quyền không cao, không nhiều, không quan trọng, hoặc chỉ có hư quyền hoặc quyền chỉ có trong bóng tối hoặc có thế lực mà không có quyền hoặc quyền tước hàm. Hóa Quyền có nhiều địa hạt: võ quyền, văn quyền, giáo quyền tùy theo cách làm quan nhưng cách nào có Quyền cũng đều hiển hách. Nếu đi với Hóa Kỵ trong bối cảnh cung Quan tốt đẹp thì hai sao này chỉ người có quyền và có mưu, hết sức quyền biến, không ngoan nhưng do có Kỵ nên thường bị người ta e ngại. Nếu đi với Kiếp Không ở Tỵ Hợi, Quyền càng phát nhanh và phát lớn do sự đưa đẩy của thời thế để tạo ra anh hùng nhưng vì có Kiếp Không nên có thể không lâu bền. Thông thường, người có Hóa Quyền hay tự đắc, tự tôn, kiêu căng, lấn lướt, hiếu thắng cho nên sao này tuy có lợi cho công danh nhưng không mấy hay về tính nết. Phải có thêm các sao đức hạnh thì Quyền mới hướng thiện. Nếu gặp hung tinh, vận xấu, Hóa Quyền tác họa cấp kỳ cho đương số. Hóa Quyền ở Quan tượng trưng cho sự tham chính, cho cách làm quan hiển đạt, đặc biệt là khi đi với Khoa và Lộc.

Quốc ấn: chỉ người có chính chức và có quyền vị. ý nghĩa của ấn giống như Quyền nhưng không mạnh bằng. Nếu ấn đi chung với Binh, Hình, Tướng thì võ nghiệp rất vinh hiển: đó là quân nhân có binh, có quyền, có uy. Người có ấn ở Quan là viên chức có công, được thưởng công bằng sự thăng chức, thăng trật, hoặc bằng sắc phong huy chương, tưởng lục. Nếu ấn ở vị trí các cung ban đêm, có thể là sự khen ngợi thông thường, cũng có thể là sự truy tặng (sau khi chết). Dù sao, Quốc ấn ở Quan, Mệnh, Thân là người dễ tiến đạt, được trọng vọng, được ghi công trên đường hoan lộ.

Long, Phượng, Hổ, Cái (tứ linh): là quý cách khá cao, do những biểu tượng đi kèm.

Thanh Long, Long Đức ở Thìn: tượng trưng cho quyền tước, tài năng được dùng đúng chỗ.

Phong Cáo, Thai Phụ, Đường Phù: chỉ bằng sắc, công trạng, huy chương, quyền hành nhưng không mạnh bằng Quyền hay ấn. Đường Phù có nghĩa kém nhất.

Tiền Cái hậu Mã: cung Quan trước giáp Hoa Cái sau giáp Thiên Mã là một biểu tượng của quyền uy, có lọng (Cái), có ngựa (Mã) theo chầu. Duy cách này nên đóng ở cung ban ngày mới rạng.

Quan Đới: biểu tượng cho chức vị, quyền hành (là cái đai). Chức quyền có thể cao.

Bạch Hổ, Tấu Thư: hai sao này họp thành cách hổi đội hòm sắt, cũng khá tốt cho công danh. Ngụ ý được tín nhiệm, trọng dụng, nhất là đồng cung và ở cung Dần (hổ cư hổ vị).

Bạch Hổ, Phi Liêm ở Dần: chỉ công danh thăng tiến dễ dàng, nhất là ngành võ.

Tướng Quân: chỉ cách làm quan võ có cầm quân nhưng thuộc loại thấp, chỉ huy đơn vị nhỏ. Nếu đi cùng với Thiên Tướng là võ quan cao cấp và có nắm quyền chỉ huy. Cách quan của Tướng Quân tuy có can đảm, hiên ngang nhưng táo bạo, có tinh thần sứ quân, tự tôn, tự phụ, sử dụng binh quyền đôi khi sai mục đích nên Tướng Quân gặp sao xấu dễ bị nguy kịch. Đi với cát tinh, Tướng Quân rất đắc dụng: đó là viên chức hay quân nhân rất tháo vát, có tinh thần xung phong, tình nguyện làm việc khó, có sáng kiến, đôi khi có quá nhiều sáng kiến nên đi sai lệch đường lối ở trên. Đi với Thiên Tướng, nhất là ở thế xung chiếu thì rất hiển hách trong binh nghiệp.

b. Phụ tinh chỉ tài năng tổng quát:
Thiên Mã: ngụ ý tháo vát, may mắn, đa năng, thao lược, xông pha. Người có Thiên Mã ở Quan hay Mệnh thường nhậm lẹ, lanh lợi, lăn lóc, từng trải nên đa hiệu, đa nhiệm. Đây là bộ sao rất cần cho công danh, rất lợi và rất hợp với các công việc có tính lưu động. Vì đa hiệu, Mã là sao có rất nhiều phối cách rất hay với một số phụ tinh khác để làm cho năng tài đắc dụng hơn. Ví dụ như cách Mã Tử Phủ, Mã Nhật Nguyệt, Mã Lộc Tồn, Mã Hỏa hay Linh, Mã Tướng, Mã Khốc Khách. Mặt khác, cách hay trên còn tùy vị trí của Thiên Mã. Nếu ở Dần (Mộc) và Tỵ (Hỏa) thì tốt đẹp thêm, ở Thân (Kim) thì vất vả, còn ở Hợi (Thủy) thì lu mờ. Tốt khi Mã ở Dần (Mộc) mà Bản Mệnh thuộc Mộc, Mã ở Tỵ (Hỏa) với Hỏa Mệnh, Mã ở Thân (Kim) với Kim Mệnh, Mã ở Hợi với (Thủy Mệnh). Bao giờ gặp nghịch khắc giữa hai hành thì kém hoặc xấu: tài năng sút kém, trở ngại gia tăng, công danh không rạng.

Lộc Tồn: chỉ tài năng, đặc biệt là tài tổ chức, tài thích ứng với hoàn cảnh. Lộc Tồn có nhiều sáng kiến, biết tùy theo nhu cầu mà quyền biến, xử sự tùy hoàn cảnh, lúc cương lúc nhu, một cách chừng mực. Đi với Thiên Mã, Lộc Tồn là người khai sơn phá thạch, mở đường cho kẻ khác đi theo, rất đắc dụng trong các trách nhiệm tiền phong, khai quang an vị, tổ chức cơ sở. Đặc biệt, sao này chỉ về tiền bạc nên rất lợi cho nhà kinh doanh khai thác tài nguyên kinh tế, tổ chức nền móng sản xuất. Đi với Hóa Lộc, Lộc Tồn chuyên đoán, có óc lãnh tụ, độc quyền và tập quyền. Gặp Tuần, Triệt hay sát tinh đồng cung, Lộc Tồn mất nhiều cơ hội hoạt động, bị khiếm dụng, bị dùng phí phạm, bị dùng không đúng chỗ, tài năng bị tiêu mòn hoặc bị dùng vào việc sái đạo đức. Trong lãnh vực tài chính, sao này chỉ sự tiết kiệm, xài kỹ, xài có quy tắc, sự chắt mót, giữ của, có lợi cho các chức vụ quản trị ngân sách.

Thiên Khôi, Thiên Việt: Miễn là đừng gặp Tuần, Triệt hay Hóa Kỵ, Khôi Việt chỉ năng tài xuất chúng, uy tín và hậu thuẫn, phần lớn nhờ ở tài văn học, mô phạm, tính tình cao thượng, thanh khiết, tinh thần cạnh tranh và thi đua.

Bạch Hổ, Tang Môn đắc địa ở Dần: chỉ sự tài giỏi, quyền biến, thao lược, ứng phó được nhiều nghịch cảnh, đồng thời cũng có khả năng xét đoán, lý luận, hùng biện phù hợp với các chức vị chính trị, ngoại giao, tư pháp, sư phạm. Ngoài ra Tang Hổ đắc địa còn có khả năng về võ, có khí phách lãnh đạo, chỉ huy nhất là khi được sao võ đi kèm. Do đó, Tang Hổ đặc biệt là Hổ có nhiều phối cách rất hay với Tấu Thư, với Phi Liêm, với Long Phượng Cái, với Kình Hình. Với Tấu Thư, Bạch Hổ chỉ năng tài hùng biện rất khích động, xuất sắc về tâm lý chiến, vận động quần chúng. Với Phi Liêm, Bạch Hổ rất tháo vát, lanh lợi như Thiên Mã lại được thời cơ thuận lợi. Với Kình hay Hình, Bạch Hổ có chí khí, mưu lược cả văn lẫn võ. Với Long Phượng Cái, Bạch Hổ chỉ sự hiển đạt về uy danh, sự nghiệp, khoa giáp.

Thiên Khốc, Thiên Hư đắc địa ở Tý, Ngọ: chỉ người có chí lớn, có văn tài hùng biện cùng năng khiếu hoạt động chính trị, đặc biệt là về hậu vận. Khốc Hình Mã thì hiển đạt võ nghiệp, nhất là ở Dần và Tỵ. Khốc Hư Sát hay Phá đắc địa thì có quyền cao chức trọng, uy danh lừng lẫy, được thiên hạ nể phục.

c. Phụ tinh chỉ thời thế, hoàn cảnh:
Ân Quang, Thiên Quý: Đóng ở Mệnh, Quan, Thân, Di viên chức được tín nhiệm, trong dụng nâng đỡ, che chở của người trên. Ngoài ra, Quang Quý có nghĩa là viên chức đó trung tín, hết lòng, có lương tâm chức nghiệp, xứng đáng với sự tín nhiệm của thượng cấp dành cho. Quang Quý có nghĩa gặp nhiều dịp may trong hoạn lộ, cụ thể như được thời thế thích hợp, được sử dụng đúng năng khiếu, làm việc vừa ý, được hạnh phúc trong nghề nghiệp.

Thanh Long, Lưu Hà hay Hóa Kỵ đồng cung: có vận may tốt, cơ may lớn để ra làm quan, không cần cầu cạnh và lúc ra làm quan thì đắc dụng, đắc thời theo ba ý nghĩa nêu trên của Quang Quý. Ngoài ra, Thanh Long gặp Long Đức ở Thìn cũng rất tốt đẹp vì rồng đóng ở cung Thìn chỉ đắc danh, đắc lộc mà không cần cầu cạnh, được nhiều may mắn trên hoạn lộ.

Tràng Sinh, Đế Vượng: chỉ sự phong phú; áp dụng vào quan trường, công danh sẽ dồi dào, năng tài đa diện trong nhiều lĩnh vực, chức quyền tương đối cao. Người có Sinh, Vượng ở Quan có nhiều sáng kiến trong công vụ, được giao phó nhiều trách nhiệm, dễ thăng tiến.

Thiên Mã, Tràng Sinh: gặp vận hội tốt, có ý nghĩa giống như hai bộ sao Thanh Long Hóa Kỵ và Thanh Long Lưu Hà. Cách này có ý nghĩa tiền bạc, cụ thể là đắc lợi trong quan trường. Nếu ở cung Hợi thì kém hay.

Phi Liêm, Bạch Hổ: gọi là hổ mọc cánh, rất tốt ở cung Dần, tượng trưng cho thời vận đang lên, sự may mắn đặc biệt, sự thăng chức, thăng cấp dễ dàng.

Đào Hoa, Hồng Loan: ở Quan, Đào Hoa và Hồng Loan rất hợp cách: chỉ làm quan lúc tuổi trẻ, tuổi trẻ tài cao, công danh tảo đạt, nhẹ bước thang mây, không phải bôn ba cầu cạnh.

d. Phụ tinh chỉ nhân sự trợ giúp:
Tả Phù, Hữu Bật: chủ sự giúp đỡ của người đời, đặc biệt là đồng sự, đồng song. Người có Tả Hữu ở Quan có tài giao tế nhân sự, có đức tính khéo léo thu được thiện cảm của người trên, có sự mềm mỏng cần thiết để được người ngang hàng cộng lực. Ngoài ra, cũng có nghĩa là quyền tước hiển vinh, nhờ có nhiều người phục tùng. Tả thuộc văn tinh nên hợp với Tử Phủ, Hữu chiếu vào Tử Phủ thì tốt hơn đồng cung. Trong cả hai trường hợp, Tả Hữu không nên đi chung với sát tinh. Tả Hữu còn có nghĩa là đa nghệ, là hệ số của tài năng, của quyền hành.

Thiên Quan, Thiên Phúc: chỉ sự giúp đỡ của ân nhân, bạn bè, cảm tình viên, cổ động viên ...

Tướng Quân, Phá Quân, Phục Binh: nếu cung Quan có Thiên Tướng mà được thêm ba sao này hội tụ thì sẽ tăng thêm uy quyền cho Thiên Tướng có có nghĩa như tướng có quân, cầm quân.

Thiên Mã, Tràng Sinh, Đế Vượng: là bộ sao phụ tùy cho quan cách.

Binh, Hình, Tướng, ấn: chỉ cộng sự đắc lực và có quyền, trợ uy cho võ cách.

Ân Quang, Thiên Quý: chỉ ân sủng của thượng cấp và sự hậu thuẫn trung kiên và lâu bền của thuộc hạ.


4. Sát, hung tinh trong quan cách:

a. Những loại võ cách:
Hung sát tinh đắc địa gặp Sát Phá Liêm Tham đắc địa hay Vũ Tướng đắc địa: báo hiệu sự hiển đạt của võ nghiệp trong thời loạn, nhờ đức tính táo bạo, mạo hiểm, bất khuất trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn. Bộ sao này có cả phú lẫn quý, tức là vừa có danh vừa có lợi. Nhưng công danh không được lâu bền, phát nhanh nhưng cũng tàn lẹ. Gặp bộ Vũ Tướng đắc địa thì toàn mỹ về cả công danh lẫn tiền bạc trong suốt thời gian sinh tiền, không bị ảnh hưởng của sự thăng trầm, hoạch phá. Nếu hai bộ này hãm địa, sát tinh dù có đắc địa cũng không quân bình được bất lợi: công danh nhỏ, chức vụ thấp, thăng giáng thất thường.

Hung sát tinh hãm gặp Sát Phá Liêm Tham hãm hoặc Vũ Tướng hãm: giảm chế công danh khiến quân nhân khó thăng tiến, trở thành bất đắc chí, càng tung hoành càng gặp hung họa lớn lao. Nếu bốn sao chính mà sáng sủa thì quan cách tương đối cao hơn, nhưng thiếu thuộc hạ đắc lực vì hung sát tinh hãm địa, thậm chí còn gây họa cho chính mình. Gặp Vũ Tướng hãm địa thì cũng dưới mức trung bình và gặp nhiều hung họa. Trái lại nếu Vũ Tướng đắc địa thì rất hay: chẳng những có uy danh mà còn khắc phục được trở ngại và những âm mưu bất chính của đối thủ.

b. Hung sát tinh với Tử Phủ Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương (văn cách): văn cách trong mỗi bộ sao này phải né tránh sát tinh thì mới hiển đạt. Gặp sát tinh, quan trường phải cạnh tranh, đối chọi, đấu trí, gian nan, chưa kể những hung họa hiểm nghèo khả hữu. Để thắng những sát tinh đó thì mỗi sao trong bộ phải đắc địa trở lên. Nếu chính tinh trong mỗi bộ sao mà hãm địa nốt thì quan cách chẳng những không ra gì mà còn gặp nhiều hiểm nguy đến bổn mạng.

c. Đặc điểm của hung sát tinh trong võ cách:
Địa Không, Địa Kiếp: chỉ khi nào đắc địa mới lợi cho công danh trong khuôn khổ võ cách. Không Kiếp giúp bộc phát rất nhanh, đặc biệt là trong thời loạn. Dù sao, võ nghiệp của Không Kiếp hết sức cực nhọc, khó khăn và nguy hiểm, phải đương đầu với nhiều địch thủ lợi hại trong môi trường đầy nguy hiểm. Tuy nhiên, Kiếp Không dù đắc địa cũng thăng trầm, chỉ giúp võ nghiệp hiển đạt một thời mà thôi. Trong giai đoạn hiển đạt, nếu Kiếp Không đắc địa được trợ lực bởi các sao khác, cụ thể như Tướng Quân, Thiên Mã hay Binh, Hình, Tướng, ấn thì quan cách thêm hiển hách. Thiếu những trợ tinh này, Kiếp Không đắc địa chỉ một tài năng cô độc. Mặc dù Kiếp Không đắc địa tương hợp với cách Sát Phá Liêm Tham đắc địa nhưng sự hoạnh phát không tránh được cảnh hoạnh tán: con người tuy có võ chức cao, có thành công lớn nhưng vẫn dễ bị phá sản trong một giai đoạn nào đó. Chỉ trừ phi đi chung với Vũ Tướng đắc địa thì quan toàn mỹ (rất hiếm). Nếu hãm địa, Kiếp Không chẳng những vất vả gian truân mà còn bất đắc chí và thường gặp hung sự hiểm nghèo, có hại đến tính mệnh hoặc bị bệnh tật nặng nề, tai họa về binh lửa. Có ba biệt lệ tốt đẹp cho trường hợp hãm địa: i) Không Kiếp hãm đi chung với Vũ Tướng đắc địa: trở lực nhiều nhưng con người khắc phục được, có công danh sự nghiệp lớn; ii) Không Kiếp hãm gặp Tử Phủ sáng sủa, Cự Nhật hay Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa: tài quan tuy lớn lao nhưng có nhiều bất trắc, vất vả, gian truân, chỉ được sự hậu thuẫn của người trên mà ít được sự trợ giúp của kẻ dưới; iii) Không Kiếp hãm gặp Sát Phá Liêm Tham đắc địa: công danh cao nhưng người còn bất đắc chí, được người trên giúp đỡ nhưng thiếu nhân sự ở dưới trợ lực, phần lớn hạ cấp đều bất tài, tham nhũng, sát chủ.

Kình Dương, Đà La: chỉ hay khi hai sao này miếu địa: Kình ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Đà thì đắc địa thêm ở Tý và Hợi. Kình Đà nếu đắc địa thì cương nghị, quả cảm, khí phách, cơ mưu, thủ đoạn, có tinh thần bất khuất, có tài và đắc dụng. Nếu được thêm Hỏa, Linh đắc địa hội tụ thì rất khét tiếng trong binh nghiệp, có khả năng chế phục địch quân. Được Tướng Quân, Thiên Mã, Khoa, Quyền, Lộc thì quan cách hết sức lẫy lừng, thường bách chiến bách thắng. Nếu gặp hung tinh như Không, Kiếp, Hình, Kỵ thì cũng tài giỏi nhưng phải gặp nhiều thăng trầm, hung họa lớn lao, chết thảm. Nếu hãm địa, Kình Đà là người rất bướng bỉnh, ngoan cố, ngỗ ngược, liều lĩnh và gian trá do đó tai họa dễ xảy đến từ hình tù cho đến thương phế và chết thảm. Kình Đà hãm ở Quan tượng trưng cho trở lực, khó khăn gặp phải, sự gian nan cơ cực và hiểm nghèo của công tác, có làm mà không được hưởng, chung quy dễ gặp nạn. Riêng sao Kình ở Ngọ thì rất hung hiểm, dễ chết bất đắc, trừ phi được cát tinh như Tướng, Mã, Khoa, Quyền, Lộc hội tụ mới hiển đạt. Nếu Kình (đắc hay hãm địa) đi chung với Lực Sỹ thì người đó khó tiến đạt, bị bỏ quên, bị đè nén. Đắc địa thì có tài mà không được biết hoặc biết mà không được dùng hoặc được dùng mà bị kiềm tỏa. Hãm địa thì là hạng vô dụng, bị bỏ xó, ngồi chơi xơi nước. Riêng Đà La ở Dần Thân, vô chính diệu thì đắc cách quý hiển cả về văn lẫn võ. Nếu bị Tuần Triệt án ngữ thì sẽ mất hết cái hay. Trong mọi trường hợp Kình Đà hãm địa mà bị thêm sát tinh khác hãm địa đi kèm thì hung họa, cơ cực không sao kể xiết: nghèo thì trộm cướp, hình tù, khá thì bất nhân bất nghĩa, thông thường thì yểu vong và chết không toàn thây.

Hỏa Tinh, Linh Tinh: Tính tình Hỏa Linh giống như Kình Đà. Nếu đắc địa (ở những cung ban ngày), nhất là hội với Tham miếu địa, đều có tài năng, có chí khí, có uy danh và thường hiển đạt trong binh nghiệp. Nếu hãm địa thì công danh trắc trở, chậm lụt nhất là hay gặp tai nạn, thường phải bôn ba đâu đó. Có hai biệt lệ của Hỏa Linh hãm địa sau: ở Sửu Mùi có Tham Vũ Việt đồng cung t hì võ cách hết sức hiển hách nhất là về hậu vận nhưng kỵ hai sao Không Kiếp sẽ làm phá tán hết cái hay; ở Hợi, đồng cung với Tuyệt có Tham Hình hội chiếu cũng rất vang danh trong binh nghiệp.

Kiếp Sát: chỉ sự đa sát, chém giết, gieo họa, hay xuống tay mạnh, thường dùng biện pháp cứng rắn, cực đoan lúc xử thế, nóng tính, không chịu nổi những sự bất bằng, hay tầm thù. Kiếp Sát là người lợi hại và nguy hiểm, có thể ví như hung đồ nên nếu ở Quan dễ gặp ha và có nhiều kẻ thù. Đi với các sao hung khác rất dễ thành phiến loạn, cướp của giết người, bất lương, vô loại.

Thiên Không: rất kỵ cung Quan lộc vì tượng trưng cho sự cản trở. Có Thiên không, khó thăng tiến, chậm thăng, thăng chật vật, thăng không cao, bị đè nén, kìm chế trong hoạn lộ. Thiên Không ở Quan là người bất mãn, hay làm hỏng việc, giữ chức vụ gì lớn không bền vững, lên thì chậm, xuống thì nhanh, quan trường hay bị đó kỵ, ganh ghét và chính đương số cũng có bụng tiểu nhân, ganh hiềm, đâm thọt, xuyên tạc, phá phách, gây chia rẽ, ly gián.

Phục Binh: ở Quan, sao này chỉ sự đố kỵ, hãm hại bằng thủ đoạn ngầm, có khi đi đến chỗ phục kích, ám sát để loại trừ địch thủ. Phục Binh có thể hoặc là nạn nhân của bọn tiểu nhân, hoặc chính mình là tiểu nhân, hoặc vừa là nạn nhân vừa là tiểu nhân, do sự trả đũa qua lại.

Hóa Kỵ: trước hết có nghĩa đố kỵ, ganh tỵ, thấy người hơn mình thì không thích. Thủ đoạn của Hóa Kỵ cũng bí mật, lén lút, thường là dùng miệng lưỡi để gièm pha, chỉ trích xuyên tạc, vu khống. Do đó, Hóa Kỵ ở Quan tượng trưng cho thị phi, khẩu thiệt, vạ miệng. Mặt khác, Hóa Kỵ hãm địa có nghĩa là nông nổi, xu thời, thiếu lập trường, ai mạnh thì theo, dễ bỏ bạn bè để theo danh lợi. Trong trường hợp đắc địa (ở Thìn, Tuất, Sửu và Mùi) thì là người có khuynh hướng cách mạng, muốn thay cũ đổi mới, ý nghĩa tương đối hướng thượng, quan cách dễ thành công nếu được cát tinh hỗ trợ.

Thiên Hình: đắc địa ở Dần, Thân, Mão, Dậu. Thiên Hình chuyên về quân sự, có dũng khí, có uy phong, có tài cầm binh, thiên về sát phạt. Nếu là quan văn thường là thẩm phán, trạng sư, có năng khiếu luật pháp, xét xử công minh. Nếu thêm Thiên Y đi kèm, có thể là bác sĩ giải phẫu, châm cứu. Thiên Hình là người nóng tính, khắt khe, cương nghị, làm việc theo nguyên tắc, không chấp nhận trái lệ, trái luật, có tinh thần liêm chính, công bình, có tinh thần chu đáo, tinh vi, kỹ lưỡng, hay chú ý đến chi tiết. Quân nhân có Thiên Hình đắc địa ở Quan thường rất mực thước, vô tư, ngay thẳng, có lương tâm chức nghiệp, có bản lĩnh hành xử trách nhiệm một cách khả quan. Đi với Binh, Tướng, ấn thì là võ cách tham mưu, có uy dũng và mưu lược, thường được giao phó trọng trách. Nếu Hình hãm địa thì quan cách hay gặp hung sự, tụng ngục, bị điều tra, bị tố cáo. Gặp Tuần, Triệt án ngữ thì có thể bị giáng chức, cách chức, ở tù, bị kiện.


5. Tuần, Triệt ở cung Quan:

Thông thường, Tuần Triệt là sao phá, đóng ở cung nào thì gây trở ngại cho cung đó: ở Mệnh, thì thiếu thời lận đận, ở Thân thì trắc trở, gian truân; ở Phu Thê thì hỏng một duyên nợ; ở Tử thì hao con; ở Tài thì kém tiền bạc. Chỉ có Tật, Tuần Triệt phá tán bệnh tật, họa, tạo sức khỏe cho đương số.

Vì vậy, Tuần Triệt đóng ở Quan tiên quyết gây trục trặc cho quan trường, thể hiện dưới nhiều hình thái: hoặc chậm công danh; hoặc công danh phải lận đận, chật vật; hoặc công danh không mấy cao, thăng giáng thất thường; hoặc không bền vững. Nếu gặp Triệt, cong danh chậm phát lúc thiếu thời, chỉ về già mới hanh thông. Nếu gặp Tuần, sự trục trặc có tính cách triền miên, tuy không nặng như Triệt nhưng kéo dài suốt đời.

a. Trường hợp cung Quan có chính tinh:
Nếu chính tinh sáng sủa, Tuần Triệt làm cho bớt sáng, có thể trở thành tối. Do đó, công danh có thể bị trở ngại, hoặc chậm phát hoặc trục trặc, hoặc không lâu bền, hoặc có nhiều hung sự xảy ra, có thể là mất chức, mất quyền, bị thay đổi, bằng không thì cũng bất toại, hay gặp những sự bực mình, bất mãn, tài năng không thi thố được. Nếu tại Quan mà có Thiên Tướng hay Tướng Quân thì càng bất lợi: vào công quyền ắt phải có lần mất chức, bị cách chức. Tuy nhiên, có hai chế giảm cho cung Quan bị Triệt, Tuần: i) cung Quan có Sát Phá Liêm Tham hay bại tinh sáng sủa gặp Tuần Triệt thì tương đối bền vững, chức vụ tương đối cao, không đến nỗi phải lụn bại, thăng trầm. Những sao Tử Phủ, Cự Nhật, Cơ Nguyệt-Đồng Lương đi với sao sáng sủa khác gặp Tuần Triệt thì công danh thất thường, không bền, gặp hung sự; ii) cung Quan ở Sửu, Mùi có Âm Dương tọa thủ đồng cung: quan lộc được rực rỡ, đặc biệt là về sau vì tại Sửu Mùi, Âm Dương tương đối xấu, gặp Tuần, Triệt thì sáng lại và tại Sửu Mùi vốn là âm cung nên tốt cho hậu vận.
Nếu chính tinh ở Quan mà hãm địa, Tuần Triệt phục hồi sức sáng cho chính tinh, công danh sẽ quý hiển nhưng không tránh khỏi trắc trở: quan trường chỉ phát lúc hậu vận. Đặc biệt nếu Sát Phá Liêm Tham hay bại tinh hãm địa gặp Tuần Triệt đồng cung thì lại phát nhanh và mạnh hơn những bộ sao khác hãm địa. Duy đối với Thiên Tướng, dù đắc hay hãm địa, Tuần Triệt bao giờ cũng gây thảm tử, như quân nhân chết trận, viên chức bị cách, giáng.

b. Trường hợp cung Quan vô chính diệu:
Cung Quan vô chính diệu, dù được chính tinh đối diện sáng sủa chiếu vào, quan lộc cũng không toàn mỹ (công danh tầm thường, chức vị không mấy cao) huống hồ gặp chính tinh đối diện hãm địa. Duy có hai biệt lệ quan trọng làm khởi sắc cho cung Quan vô chính diệu:

Cung Quan có Tuần hoặc Triệt án ngữ: cách này nói chung không hoàn hảo nhưng cũng đỡ xấu. Quan trường tuy nhiều trở ngại nhưng vẫn có thể hiển đạt trong vãn vận. Nếu tảo đạt và phát nhanh thì lại sớm tàn và hoạnh tán.

Cung Quan được Nhật Nguyệt cùng sáng sủa hợp chiếu hay xung chiếu: cách này trở thành đắc lợi nhờ ánh sáng phối hợp của hai nguồn năng lực Nhật Nguyệt: công danh sáng lạn, chức vụ lớn, quyền hành cao, có triển vọng đắc phú, tóm lại vừa giàu vừa sang. Nếu cung Quan có Tuần hay Triệt trấn thủ tại đó thì phú quý sẽ tăng tiến nhiều hơn nữa.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách quý: Những sao làm Quan

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Quy trình trao mâm tráp quả đúng chuẩn ngày ăn hỏi

Theo truyền thống của người Việt từ xa xưa thì trước đám cưới bắt buộc phải có đám hỏi. Phần quan trọng nhất của đám hỏi chính là mâm quả cưới, đây được xem là
Quy trình trao mâm tráp quả đúng chuẩn ngày ăn hỏi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

một nét đẹp không thể thiếu trong phong tục cưới hỏi.


Xem ngày cưới, xem tuổi kết hôn đại cát đại lợi

Tùy theo từng vùng miền, từng phong tục tập quán khác nhau mà cách chuẩn bị mâm quả cưới sao cho chu đáo, đẹp mắt đầy đủ số lượng, chất lượng cũng khác nhau. Điều này cũng không khó để thực hiện vì trước khi tiến hành ngày trọng đại, các cặp đôi cũng như 2 bên gia đình đã tìm hiểu rất kỹ càng. Để buổi lễ diễn ra suôn sẻ, vui vẻ hạnh phúc thì cả 2 bên gia đình, nhất là bên nhà trai cần nắm rõ cách trao mâm quả.

Quy trinh trao mam trap qua dung chuan ngay an hoi hinh anh
Số lượng các tráp thường là số lẻ, trung bình từ 5 tráp trở lên
 
Trước ngày diễn ra đám hỏi thì 2 bên nhà trai và nhà gái có gặp mặt, trao đổi và thống nhất số mâm lễ cũng như là các lễ vật theo yêu cầu của nhà gái. Và trong ngày này thì mâm quả sẽ được nhà trai chuẩn bị chu đáo và mang tới nhà gái. Đội bê tráp của nhà trai theo thứ tự sẽ trao lễ vật cho đội bê tráp của nhà gái. Những tráp lễ vật này sẽ được dâng lên bàn thờ tổ tiên của nhà gái, và sau khi đám hỏi kết thúc thì nhà gái sẽ chia lại một phần lễ vật cho nhà trai (lại quả) theo truyền thống.

Quy trình trao mâm quả được diễn ra như sau:     1. Chuẩn bị: Hai gia đình sẽ bàn bạc và thống nhất số lượng tráp (Số lượng tráp cưới thường là số lẻ và trung bình từ 5 tráp trở lên). Nhà trai chuẩn bị đội bê tráp và nhà gái cũng chuẩn bị đội đỡ tráp. Tới đúng ngày giờ đã định, đoàn đại diện nhà trai sẽ lên đường mang lễ vật tới nhà gái.
 
2. Trao quả: Khi tới giờ đẹp đã chọn trước, nhà trai sắp xếp đội hình theo thứ bậc trong gia đình, đi đầu là ông bà, bố mẹ, chú rể, đội bê tráp và các thành viên liên quan. Sau khi hai nhà chào hỏi, đội bê tráp nam sẽ trao lễ cho đội đỡ tráp nữ để cùng đỡ mâm quả vào nhà. Sau đó, đội bê tráp nam và đội bê tráp nữ sẽ trao phong bao lì xì (đã chuẩn bị trước) để trả duyên cho nhau. Các phong bao này do hai nhà tự chuẩn bị.
 
3. Nhận và mở tráp: Sau khi trao tráp, gia đình hai nhà sẽ cùng ngồi uống nước, nói chuyện. Đầu tiên, gia đình nhà gái sẽ giới thiệu các đại diện trong buổi lễ. Để đáp lại, nhà trai cũng giới thiệu các đại diện của gia đình. Đại diện nhà trai sẽ phát biểu lý do. Đại diện nhà gái đứng lên cảm ơn, chấp nhận tráp hỏi của nhà trai. Mẹ chú rể và mẹ cô dâu sẽ cùng mở tráp.
 
4. Cô dâu ra mắt hai gia đình: Sau khi mở tráp quả thì gia đình nhà gái cho phép chú rể lên phòng đón cô dâu xuống chào gia đình nhà trai, hoặc mẹ cô dâu sẽ dẫn cô dâu ra ra mắt họ hàng 2 bên (trước khi chú rể lên đón, cô dâu không được xuất hiện trong lễ ăn hỏi). Cô dâu sẽ xuống chào hỏi và rót nước mời thuốc gia đình chú rể, ngược lại, chú rể cũng sẽ rót nước mời gia đình cô dâu.

Quy trinh trao mam trap qua dung chuan ngay an hoi hinh anh 2
Sau khi trao và đỡ tráp thì sẽ trao lì xì cho nhau để lấy duyên

5. Làm lễ gia tiên nhà gái: Sau khi cô dâu ra mắt, mẹ cô dâu sẽ lấy từ mâm ngũ quả một số vật phẩm và lễ đen (bao lì xì có chứa một khoản tiền nhà gái thách cưới nhà trai) để mang lên bàn thờ thắp hương cúng ông bà, tổ tiên. Bố mẹ cô dâu sẽ đưa cô dâu và chú rể lên thắp hương trên bàn thờ nhà gái.   6. Bàn bạc về lễ cưới: Sau khi cúng ông bà tổ tiên xong, bố mẹ hai nhà sẽ thống nhất ngày giờ đón dâu và lễ cưới. Trong thời gian đó, cô dâu chú rể mời nước quan khách và chụp ảnh lưu niệm cùng mọi người trong lễ đám hỏi.   7. Lại quả: Nhà gái sẽ chia đồ lại quả cho nhà trai và trả lại các mâm tráp. Lưu ý, khi chia đồ lại quả không được dùng kéo cắt mà phải xé bằng tay, đồ lại quả phải là số chẵn (thông thường là 10 lễ vật) và khi nhà gái trả lại mâm tráp phải để ngửa nắp lên, không được đóng lại. Sau khi nhận đồ lại quả thì nhà trai xin phép ra về.
 
Lichngaytot.com  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quy trình trao mâm tráp quả đúng chuẩn ngày ăn hỏi

Tìm hiểu về sự tích và phong tục Tết Đoan Ngọ của người Việt.

Dẫu qua bao biến đổi, Tết Đoan Ngọ vẫn tồn tại trong lòng người dân Việt như một phong tục đẹp, với ý nghĩa thiêng liêng về đạo lý làm người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Đoan Ngọ hay Tết Đoan Dương, ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, là một ngày Tết truyền thống tại Việt Nam. Tết Đoan Ngọ tồn tại từ lâu trong văn hoá dân gian Phương Đông và có ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hoá. Ở Việt Nam, dân gian còn gọi là Tết giết sâu bọ.

Nguồn gốc của Tết Đoan Ngọ.

Có người cho rằng Tết Đoan Ngọ có từ đời Xuân Thu. Khuất Nguyên (nước Sở), vì can ngăn vua Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La mà tự vẫn.

Hôm ấy đúng là mùng 5 tháng 5. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm, cứ đến ngày đó, nhân dân Trung Quốc lại làm bánh ngọt, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên.

http://img.vietdaikynguyen.com/2014/05/screen-shot-2014-05-30-at-11.59.47-am-676x377.png

Ở Việt Nam, ít người biết chuyện Khuất Nguyên, mà chỉ coi mùng 5 tháng 5 là "Tết giết sâu bọ" - vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh, nông dân cần phải tìm cách trừ diệt để bảo vệ cho sự canh tác, trồng trọt.

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam cũng còn gọi là “ngày giết sâu bọ” là ngày phát động bắt sâu bọ, tiêu diệt bớt các loài gây hại cho cây trồng trên cánh đồng, trong đó nhiều loài sâu có thể ăn được và chúng được coi như là chất bổ dưỡng. Người ta tin rằng khi ăn món ăn đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ; giun sán trong người sẽ bị chết hết.

http://lh5.ggpht.com/bocvboveetxa_hor4lwvkuxfzf54h-cujiqwu2bqzyimjocxsh72ua7oe1bncdcg97ldvz9lckhi3qc4rcf1iya_=s1000
Bánh tro là món ăn truyền thống trong dịp Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam.

Tết này đến vào sau vụ mùa. Lúa nếp, bắp đậu và kê khá dồi dào. Nông dân nghỉ ngơi lấy sức. Tại một số tỉnh miền Trung người ta gọi là “ĂN MÙNG NĂM”

Trong tết này, các gia đình có làm lễ cúng gia tiên, cỗ cúng có cả chay lẫn mặn. Các chàng rể phải sắm quà biếu bố mẹ vợ nhân tết mồng năm, trong đó thường có mấy thứ: Ngỗng, dưa hấu, hoặc đậu xanh đường cát. Học trò cũng đến tết thầy, lễ vật tuỳ tâm, đại thể cũng như trên.

Ở một số vùng quê, vào giờ Ngọ (12 giờ trưa) ngày mồng 5 tháng 5, nhiều người còn đi hái lá làm thuốc, vì tin rằng lá hái trong giờ phút này dù chỉ là các lá thông thường như lá chanh, lá bưởi, kinh giới, tía tô, ngải cứu, sen vồng…, đều trở nên công hiệu hơn rất nhiều.

Bên cạnh đó cũng vào giờ Ngọ (12 giờ trưa) ngày mồng 5 tháng 5, nhiều người ra sân nhìn lên mặt trời bằng mắt trần và nháy mắt 7 lần (đối với nam), nháy mắt 9 lần (đối với nữ) để quanh năm không bị bịnh đỏ mắt.

Nhiều người cho rằng vào tết Đoan Ngọ, cây cối sẽ tích trữ nhiều dược chất để chống lại dương khí khắc nghiệt. Do đó nhiều lương y tổ chức hái thuốc vào trưa 5/5 để mong có hiệu quả cao hơn.

Tết Đoan Ngọ (Mồng 5 tháng 5) có những tục gì?

Thành lệ, cứ đến sáng sớm ngày mồng 5, người ta cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, kê, bánh đa, mận, muỗm, dưa hấu, uống nước dừa... bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì uống rượu hòa ít tam thần đơn hoặc bôi phẩm hồng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để trừ trùng.

Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu.

rượu nếp
Rượu nếp là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam. Ảnh: Văn hóa Việt Nam.

Nhiều người mua bùa chỉ đeo cho trẻ con. Bùa kết bằng chỉ ngũ sắc, kết theo hình hoa sen, quả đào, quả ớt... Lại may áo lụa mang đến các cửa chùa, cửa tĩnh in dấu vẽ bùa rồi mặc cho trẻ, có ý trừ ma tà cho khỏi quấy.

Giữa trưa hôm ấy thì làm cỗ cúng gia tiên, rồi đi hái lá mồng năm. Tục hái thuốc mồng 5 cũng bắt đầu từ giờ Ngọ, đó là giờ có Dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư.

Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể, nhất là lá ích mẫu, lá cối xay, lá vối, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... đem về ủ rồi phơi khô, để sau đem nấu uống cho rằng uống thế thì lành.

Lại có nhiều người đi lấy lá ngải cứu, năm nào thì kết hình con thú nǎm ấy như năm Tý thì kết con chuột, năm Sửu kết con trâu, năm Dần kết con hổ... treo ở giữa cửa, để trừ ma quỷ và về sau ai có bệnh đau bụng thì dùng làm thuốc sắc uống.

Trong những tục lễ của ngày Tết Đoan Ngọ, có lẽ tục người ta chú ý nhất là tục lễ sêu - một tục lệ mang tính nhân văn giữa người với người, con cháu với ông bà, cha mẹ, người bệnh với thày thuốc, học trò với thày giáo. Những chàng trai đã dạm vợ hoặc hỏi vợ nhưng chưa cưới thường đi sêu bố mẹ vợ nhân ngày Tết Đoan Ngọ. Lễ sêu trong dịp này bao giờ cũng có đậu xanh mới hái vào tháng Tư, gạo nếp của vụ chiêm.

http://i1190.photobucket.com/albums/z443/bulgaria1976/na%20sam%20na%20tam/doanngo-2010s.png

Ngoài ra tháng Năm cũng là mùa ngỗng và mùa chim ngói, cùng với gạo nếp, đậu xanh, bao giờ cũng có một đôi ngỗng và một, hai chục chim ngói. Kèm thêm là cân đường cát, trái dưa hấu, nghĩa là toàn những sản phẩm trong mùa. Chỉ những chàng rể chưa cưới vợ mới đi lễ sêu, còn những chàng rể đã cưới vợ rồi thì hết lễ sêu, nhưng trong dịp Tết, các chàng rể dù nghèo vẫn cố chạy món quà nhỏ để biếu bố, mẹ vợ. Lễ biếu này nhiều, ít tuỳ tâm và không quan trọng bằng lễ sêu. Các ông đồ xưa dạy học thường không lấy học phí.

Hàng năm vào dịp mồng 5 tháng 5, các học trò đều có đồ lễ Tết thầy. Thúng gạo, đôi ngỗng, phong chè, gói bánh hoặc túi hoa quả, tùy tâm bố mẹ học trò. Những gia đình giàu có thường phong bao một số tiền. Học trò cũ đã làm nên danh vọng cũng không quên thǎm thầy vào dịp này. Các con bệnh được các ông lang chữa khỏi bệnh, mặc dù đã trả tiền thuốc, nhưng cũng không quên ơn cứu mệnh cho mình, nên trong dịp Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết hái thuốc cũng mang quà tết thầy lang. Đồ lễ cũng gồm: đậu xanh, gạo nếp, ngỗng, chim ngói... như đồ lễ học trò tết thầy.

 Hồng Vân sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về sự tích và phong tục Tết Đoan Ngọ của người Việt.

Phong thủy âm trạch: Những lưu ý quan trọng về bia mộ

Trong phong thủy âm trạch, không chỉ huyệt vị, hướng mộ, thế mộ, thế đất phải đẹp mà bia mộ cũng cần tốt thì mới toàn vẹn.
Phong thủy âm trạch: Những lưu ý quan trọng về bia mộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là một số lỗi phong thủy bia mộ ảnh hưởng tới hậu thế, khiến con cháu rủi ro, bạn đọc nên tham khảo để tránh.

Phong thuy am trach Nhung luu y quan trong ve bia mo hinh anh
 
1. Phong thủy âm trạch cho rằng bia mộ bị tổn hại hoặc bị vỡ thì ứng với những thương tổn trên cơ thể con cháu. Tổn hại phía trên thì bị thương ở đầu, tổn hại ở giữa thì lục phủ ngũ tạng bị thương hoặc phải động dao kéo, tổn hại phía dưới thì đùi chân bị thương.   2. Không nên sử dụng đá tự nhiên chưa qua cắt chỉnh để làm bia mộ bằng không con cháu đoạn tuyệt, không người hương khói hoặc tàn phế, bệnh nặng hoặc thành con trai nuôi, không may mắn.   3. Trên mộ bia mà có rêu xanh, cây cỏ che lấp, dây leo quấn quanh thì trong nhà có người bị bệnh lâu năm.    4. Bia mộ màu sắc lờ mờ thì con cháu vận trình không thuận.    5. Bia mộ bị vùi lấp, chôn trong đất thì gia đình bất hòa, hỗn độn, sinh ra người điên cuồng, tâm thần phân liệt.   6. Trên bia mộ có xú uế, phân chim thì nên dọn dẹp sạch sẽ ngay kẻo con cháu có người bị đau đầu.   7. Bia mộ biến thành màu đen, tối xám thì vận trình con cháu không trôi chảy, sự nghiệp cũng gặp nhiều trở ngại, lao tâm lao lực.
Xem thêm bài viết 2 đại nguyên tắc phong thủy khi táng mộ giúp con cháu ấm no
 
8. Mộ bia bị gãy thành hai phần ba khối thì con cháo có họa huyết quang rất lớn, ứng với vị trí như sau: bia gãy phần trên thì đầu bị thương, bia gãy phần giữa thì ngực bụng bị thương, bia gãy phần dưới thì đùi bị thương, bia gãy vỡ phía sau thi lưng bị thương. Còn nếu bia vỡ tan thì chắc chắn có tai ương lớn.   9. Bia mộ có vết lõm, vết cắt thì con cháu bị bệnh ở lưng hoặc bị tàn phế.   10. Bia mộ có vết bẩn, vết ố thì con chau có bệnh lâu dài.   11. Bia mộ ở đỉnh có vết lõm hoặc tổn hại thì con cháu có bệnh ở não, đầu tổn thương hoặc thần kinh không bình thường.   12. Bia mộ mà có chiều cao nhỏ hơn chiều rộng thì con cháu lao tâm lao lực, không được thanh nhàn.   13. Bia mộ quá dài hoặc quá cao thì con cháu trong nhà không thọ, kém may mắn.   14. Bia mộ mà nửa sau lờ mờ thì con cháu có bệnh thận, nửa đầu sáng sủa nửa sau lờ mờ thì không thể phát triển ở quê hương, phải ra bên ngoài mới có cơ hội.   15. Phong thủy âm trạch cho biết phần mộ bị ao hãm, tù đọng thì chủ thương tổn nữ mệnh, bia mộ nứt vỡ chủ về tai nạn xe cộ, có họa huyết quang, hại tài.   16. Phía trên mộ bị giẫm đạp, bia mộ bị giẫm đạp thì con cháu bị người đời xem thường, bắt nạt, không đạt được thành tựu đáng kể.   17. Bia mộ quanh năm không có ánh sáng mặt trời rọi tới, bị đọng nước, ẩm ướt , hoen ố thì con cháu sinh bệnh không ngừng hoặc có bệnh lâu năm.   18. Bia mộ nhiều năm bị ngâm nước thì con cháu có bệnh phong hàn, phong thấp, đau nhức, chết chìm, nghiện rượu.   19. Bia mộ có cây cối bao trùm, dây leo quấn quanh thì con cháu có người bị bệnh mãn tính.   20. Phần mộ tổ tiên bị trôm, bia mộ bị đổ, thi hài lộ ra ngoài, thú vật gặm nhấm thì con cháu có họa huyết quang, vô cùng hung hiểm.
Phong thuy am trach Nhung luu y quan trong ve bia mo hinh anh
 
21. Bia mộ bị nhành trúc, mũi tên xuyên qua thì con cháu có họa huyết quang, hung họa.   22. Bia mộ bị gạch ngói hoặc vật bỏ đi chèn đè lên thì con cháu có người trúng gió, trúng phong hoặc hung họa. Phía trước, phía sau và bên cạnh mộ không nên chất đống gạch đá, xi măng, vật bỏ đi.
Xem thêm bài viết 15 lỗi phong thủy âm trạch tuyệt đối đừng mắc phải
 
23. Trái phải mộ phần có mộ cao hơn hoặc kiến trúc to hơn thì con cháu vận trình không thuận, có họa quan tai thị phi, kiện tụng.   24. Mai táng qua loa, không có bia mộ thì con cháu phiêu bạt bất định, lao khổ nghèo khó, vận trình không thuận, sự nghiệp không làm nổi.   25. Phía trước phần mộ là ao hãm, sụp đổ khiến mồ mả lao đao, bia mộ lệch lạc là hiện tượng nguy hiểm, con cháu có họa huyết quang, tai nạn xe cộ, trượt chân hoặc rớt lầu.   26. Theo phong thủy âm trạch, cắt bỏ cây cối, nhất là cây cổ thụ trên 30 năm gần mộ phần thì người nhà không may mắn, có thể mắc bệnh sinh dục. Nếu cắt bỏ cành nhỏ thì không hại, nhưng nên cắt từ từ, mỗi lần một ít thì mới tốt.   27. Mộ phần toàn bùn nước thì con cháu có người cha con ly tán do bỏ nhà ra đi hoặc tử vong.   28. Mộ phần gặp gió lớn khiến bia mộ bị xiêu vẹo, nghiêng đổ, vùi lấp lại gặp rắn chui vào mộ, mối gặm thì là hiện tượng mộ kết, chủ sinh ra người không hiền lành, hiếu chiến, có oán thù, có tai ương lao ngục.   29. Phần mộ có cửa thoát nước quá lớn, không tụ tài và con cháu mắc bệnh ở bàng quang. Cửa thoát nước bị ngăn chặn thì chủ về bệnh tai, mắt và âm chứng ở phụ nữ.   30. Bên mộ có cây đại thụ, rễ xuyên qua quấn quanh mộ và bia mộ thì con cháu có người đau ốm, đường quan lộc không thuận. Ngoài ra cũng tùy loại cây mà định cát hung.   31. Phần mộ ở phía trước gạch ngói cát đá chồng chất thì con cháu có người mắc bệnh dạ dày, chướng bụng, kết sỏi.   32. Mộ phần bị mai một, mô bia bị mờ mà lại có phần mộ mới mẻ táng ở bên cạnh thì con cháu sinh ra kẻ bất tài, vô tích sự, địa vị xã hội thấp hèn. Mộ con cháu táng ở trên mộ tổ tiên thì chủ vận trạch không thuận, bệnh tật không ngừng.   33. Mộ mà không có lối ra vào thì con cháu có quan tụng hoặc tai họa lao ngục.
Xem thêm bài viết 10 thế mộ hung hiểm trong phong thủy âm trạch: Mộ phạm bi thạch đoạn pháp
 
34. Bên mộ có trồng hoa tươi, màu sắc rực rỡ thì con cháu có người gặp nạn đào hoa.   35. Phần mộ và bia mộ bị bụi đất khói ám thò con cháu thân thể kém, có người khuyết tật nhẹ.   36. Trong chu vi gần mộ phần có cây cao gấp 10 lần mộ mà lười tới quét dọn thì con cháu bệnh tai không ngừng.   37. Phía trên mộ có dây điện chạy qua chủ về hao tiền tốn của, không tụ tài.
Phong thuy am trach Nhung luu y quan trong ve bia mo hinh anh
 
38. Phía trước mộ có cột cửa, cửa sắt, khóa sắt thì không may mắn, con cháu cá tính quái dị, cô độc, là phường bất lương trong xã hội.   39. Bia mộ bị phần đất bên cạnh vùi lấp thì con cháu có bệnh nặng.   40. Phong thủy âm trạch cho rằng phần mộ xây trên đất nhân tạo thì tài vận không tốt, trong vòng hai năm sẽ có người tử vong.   41. Phần mộ xây ở vách núi hoặc bên giếng nước, con cháu vận trình không thuận, bại tài hoặc có tai họa hỏa hoạn.   42. Mộ ở phần đất thấp, khi mưa nước chảy tới từ phương Tây hoặc phương Bắc gây tù đọng thì trong nhà có người vợ mất sớm, đoản mệnh hoặc sinh bệnh. Nếu nước chảy tới từ phương Đông hoặc phương Nam thì chồng đoản mệnh hoặc sinh bệnh.    43. Mộ ở trên đỉnh núi, con cháu bại tài, cha chết sớm hoặc bị cho đi làm con nuôi vì không may mắn.   44. Bia mộ bị phong hóa, bong tróc khiến chữ khắc mờ nhòe không rõ, con cháu có bệnh về mắt. Nếu chỉ phần giấy thếp vàng bị bong ra thì không sao.   45. Bia mộ làm bằng đá hoa cương là tốt nhất, lấy hoa văn cân đối, màu vàng nhạt là thượng hạng. Đá quan âm hoặc đá bành hồ kém hơn một chút, các loại đá khác như đá tinh đấu, hồng bảo, đá nhập khẩu cũng được. Quan trọng nhất là tính chất cứng rắn, không chứa tạp chất.   46. Dùng đá màu đỏ làm bia mộ rất không may mắn, con cháu bất hòa, có nạn đào hoa, hung hiểm.   47. Theo phong thủy âm trạch, bia mộ có rêu xanh, bụi trắng, có vật sống bám vào, có vệt đen thì con cháu không thể khấm khá.
Xem thêm bài viết Hung cát 8 hướng chọn đất đặt mộ giúp con cháu tránh họa
 
48. Bia mộ xuất hiện sắc tái di động thì bên trong mộ có nước vào, bị ẩm, phía trên đầy vết bẩn màu đen bám vào chủ có tai ương với người lớn tuổi, ở giữa có điểm đen thì cần phòng tai họa cho người trưởng thành, phía dưới có vết bẩn đen thì trẻ nhỏ có tai   49. Mộ bia sáng sủa sạch sẽ, con cháu thông thuận, tài vận tốt, có tài hoa văn nhã, thêm hoa văn đẹp nữa thì vận trình càng cao.   50. Phần giữa và dưới bia mộ có rêu xanh, vết nứt trắng, có điểm đen ám lại thì con cháu bệnh tật nhiều, khí huyết kém lưu thông.
Những lưu ý phong thủy âm trạch khi trồng cây tại mộ 15 lỗi phong thủy âm trạch tuyệt đối đừng mắc phải Tìm hiểu 25 thế nước trong phong thủy âm trạch để chọn huyệt cát
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy âm trạch: Những lưu ý quan trọng về bia mộ

Đừng phóng đại những đau khổ, buồn phiền và thất vọng

Đừng phóng đại những đau khổ, buồn phiền và thất vọng. Cuộc sống vốn dĩ không bao giờ bình lặng, vậy nên bất cứ ai cũng không thể tránh khỏi những nỗi đau khổ, buồn phiền, thất vọng trong cuộc sống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống vốn dĩ không bao giờ bình lặng, vậy nên bất cứ ai cũng không thể tránh khỏi những nỗi đau khổ, buồn phiền, thất vọng trong cuộc sống. Nhiều người luôn tự cho mình là người kém may mắn trong cuộc sống, nhưng thật ra hoàn cảnh của họ còn may mắn hơn biết bao nhiêu người.

Điều đáng nói là, chúng ta phải có những suy nghĩ và thái độ trước những đau khổ ấy như thế nào? Đau khổ là điều không tránh khỏi trong cuộc sống. Chúng ta không thể đau khổ chỉ để… đau khổ. Vậy thì, ẩn chứa đằng sau mỗi đau khổ, hẳn phải có một ý nghĩa sâu xa nào đó?

Khi đang phải sống trong đau khổ, chúng ta đừng nên ngồi khoanh tay lại và than thân trách phận, sao mình khổ quá! Đang khổ mà còn ngồi đó tự nghĩ mình khổ, thì nỗi khổ sẽ tăng thêm gấp đôi. Thay vào đó, hãy nghĩ về những điều may mắn mà mình đang có được. Nhiều khi, nỗi khổ mà ta đang gánh chịu quả thực là quá nhỏ bé so với những điều may mắn mà ta đang có trong cuộc sống!

Khi làm một phép so sánh đơn giản như vậy, bạn sẽ thấy những may mắn của mình như được nhân lên gấp bội, còn những nỗi khỗ đã bị thu hẹp lại rất nhiều. Bạn sẽ hiểu ra rằng, thì ra lâu nay mình cứ cảm thấy khổ chỉ vì mình cứ tự phóng đại thêm nỗi khổ của mình mà thôi, chứ thực tế thì nó cũng đâu đến nỗi như vậy!

Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn có thể có những trường hợp mà cuộc đời bạn lâm vào cảnh đau khổ cùng cực, bạn không còn đủ sáng suốt như những lúc bình thường để nhận ra mình được may mắn như thế nào. Thế nhưng, chỉ riêng việc bạn còn sống trên đời, còn suy nghĩ, còn cảm nhận được tức là bạn đã may mắn hơn rất nhiều người rồi! Khi suy nghĩ như vậy, ngay lập tức bạn sẽ biết trân trọng cuộc sống của mình. Chỉ cần còn sống trên đời, thì ta còn nhiều cơ hội để làm nên những điều tốt đẹp. Chỉ cần còn sống trên đời, thì ta còn có cơ hội đón nhận những điều tuyệt vời của cuộc sống đang chờ đợi ta ở phía trước.

Những đau khổ, buồn phiền, thất vọng chỉ là một phần trong cuộc sống, chứ không phải là tất cả cuộc sống của bạn. Sao bạn không nghĩ rằng, những đau khổ mà bạn đang phải chịu đựng chỉ là những thử thách trên con đường vươn tới hạnh phúc. Sao bạn không nghĩ, những nỗi buồn phiền chỉ là lý do để bạn cảm nhận sâu sắc hơn những niềm vui của cuộc sống. Và ngay cả những nỗi thất vọng trước đây cũng chỉ là lý do để bạn nhen lên trong lòng mình những tia hy vọng mới ở tương lai.

Cho nên, bạn tuyệt đối đừng bao giờ phóng đại những đau khổ, buồn phiền, thất vọng của mình, vì bản thân việc phóng đại như vậy có thể làm che khuất những gì tốt đẹp trong cuộc sống mà bạn đang có hoặc sẽ có. Nếu những người bi quan thường hay mắc phải tật phóng đại này, thì trái lại, những người lạc quan không bao giờ mắc phải tật xấu này cả.

Bên cạnh tật xấu phóng đại những nỗi buồn khổ như đã nói trên, trong cuộc sống lại có những người không “phóng đại” nỗi khổ, nhưng hằng ngày họ lại làm công việc “kéo dài”thêm nỗi khổ! Thật vậy, có những chuyện đã xảy ra từ rất “xa xưa” rồi, nhưng cho đến tận ngày hôm nay họ vẫn cố ngồi “gặm nhấm” nỗi khổ năm xưa của mình. Dù cuộc sống hiện tại của họ chẳng thiếu thốn điều gì, chưa kể còn may mắn hơn hàng triệu người khác, nhưng họ vẫn cảm thấy khổ. Lẽ nào trong quá khứ họ chịu khổ chưa đủ sao? Cho nên, họ mới tìm cách đem nỗi khổ từ quá khứ vào hiện tại để được tiếp tục… khổ tiếp! Những người như vậy không biết nâng niu, trân trọng một cách trọn vẹn những gì họ đang có.

Hãy để quá khứ được “ngủ yên”! Mọi chuyện trong quá khứ đã xảy ra rồi thì không thể thay đổi được, đừng nên tìm cách đào bới sâu thêm mà chỉ có một cách duy nhất là chấp nhận. Hãy chấp nhận quá khứ là quá khứ, và nhất là cố gắng đừng để cho những nỗi khổ trong quá khứ ảnh hưởng một cách tiêu cực đến hiện tại!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đừng phóng đại những đau khổ, buồn phiền và thất vọng

Tháng cô hồn là tháng mấy?

Câu hỏi tháng cô hồn là tháng mấy là không ít thắc mắc của mọi người, trong suốt tháng này những vong hồn từ dưới địa ngục sẽ vảng vất ở dương gian.
Tháng cô hồn là tháng mấy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi tháng cô hồn là tháng mấy là không ít thắc mắc của mọi người, trong suốt tháng này những vong hồn từ dưới địa ngục sẽ vảng vất, xuất hiện ngay tại dương gian.


Tháng cô hồn là tháng mấy?

  Quan niệm dân gian cho rằng con người gồm có hai phần: phần xác và phần hồn. Khi con người chết đi, phần xác sẽ mất nhưng phần hồn sẽ được đi đầu thai kiếp khác, nhưng cũng có nhiều hồn ma vất vưởng vì nhiều lý do chưa thể đi đầu thai ngay được mà còn ở lại nhân gian. Cụm từ “cúng cô hồn” là ám chỉ việc cầu cho các linh hồn khốn khổ, chưa thể siêu sinh đi đầu thai kiếp khác.
 
Theo những truyền thuyết dân gian và tín ngưỡng tâm linh từ lâu của người Việt, tháng 7 Âm lịch là thời điểm mà Diêm Vương sẽ mở cửa Quỷ môn quan từ ngày 1/7, đó cũng chính là ngày “âm khí xung thiên”, quỷ đói được trở lại cõi trần và đến 29/7 bởi cửa địa ngục sẽ đóng. Trong suốt tháng này những vong hồn từ dưới địa ngục sẽ vảng vất, xuất hiện ngay tại dương gian. 
 
Từ đây, chúng ta dễ dàng trả lời được câu hỏi tháng cô hồn là tháng mấy? Đó là tháng 7 Âm lịch được xem là tháng cúng cô hồn đặc biệt là ngày rằm tháng bảy là ngày “xá tội vong nhân” nhân trùng với lễ Vu Lan, báo hiếu cha mẹ của Phật giáo. Bản chất của ngày Rằm này rất nhân bản, là lòng yêu thương con người với con người. Ngày có ý nghĩa mọi người tưởng nhớ, tỏ lòng biết ơn với tổ tiên, nó giống như lễ Vu Lan, những người con hướng về mẹ vậy.
 
Tục cúng cô hồn được xem là một nghi thức nhân đạo, của mọi người rất nhân văn được thể hiện là bên cạnh việc thắp hương thờ cúng tổ tiên, rất nhiều gia đình còn cúng cô hồn, họ cầu nguyện cho những linh hồn sa cơ, những vong linh ẩn dật thân cô thế cô, không nơi nương tựa tìm được chốn đầu thai, thoát khỏi cảnh vất vưởng ở nhân gian.
 
Người ta quan niệm trên dương thế có rất nhiều quỷ đói nên phải cúng cháo, gạo, muối hối lộ cho chúng để chúng không quấy nhiễu cuộc sống bình thường. Thậm chí, nhiều nơi người ta còn gọi quỷ đói là “người anh em tốt”, “thần cửa sau” để lấy lòng những linh hồn quỷ này. Cũng có một tích Phật lý giải phong tục cúng cô hồn.

Xem thêm: Tháng 7 cô hồn – Tháng ma thần quỷ quái bắt đầu

Thang co hon la thang may
 

Những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn

  Người dân cũng quan niệm rằng, tháng cô hồn là tháng ma quỷ, không đêm lại may mắn nên hầu hết các công việc cưới hỏi, khởi công xây dựng, mua sắm, đi xa,… đều tránh tháng 7.   Ngoài ra, người ta thường kiêng ra đường buổi đêm, nhất là với trẻ con. Phần đông cho rằng, ban đêm là lúc ma quỷ ra đường nên cần tránh xa kẻo bị bắt mất. 
 
Ngày này, người ta không dám lái xe vào ban đêm. Họ sợ sự va chạm – được coi là hành động xúc phạm tới quỷ thần và có thể reo rắc vận rủi sau này.
 
 
thang co hon2
 
Bơi ngoài sông, ngoài biển cũng là một điều tối kỵ mỗi dịp tháng cô hồn. Ngạ quỷ thường sống ở nơi nhớp nhúa, ẩm ướt, do đó nếu bơi dễ gặp phải chúng, bị chúng kéo chân làm cho chết đuối. Để xoa dịu, lấy lòng ngạ quỷ và các cô hồn, người ta tổ chức lễ cúng cô hồn. Trong lễ này, điều tuyệt đối bị cấm là sờ vào thức ăn trên mâm cúng như gạo, cháo, muối.   Người xưa lý giải rằng, làm như vậy là chọc giận ngạ quỷ và chúng sẽ gieo rắc căn bệnh bí hiểm lên người phạm thượng. Cần phải tránh xa những chỗ đốt vàng mã cho các cô hồn. Ngoài ra khi đốt vàng mã hối lộ cho các loài quỷ, ông bà xưa cũng cấm con cháu bước lên hoặc lại gần vùng đốt lửa. Nguyên nhân là vì lửa sẽ mở ra cánh cửa vào thế giới linh hồn, nếu chẳng may dẫm phải sẽ bị quỷ dữ lôi kéo, trêu ghẹo.   Mặc dù những điều kiêng kỵ không nên làm trong tháng cô hồn trên vẫn chưa được bất kỳ ngành khoa học nào có thể kiểm chứng đúng sai nhưng với quan niệm rằng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” nên người dân vẫn chú trọng làm theo. Không những thế, tại thời điểm này trong năm thường xảy ra nhiều tai họa liên quan tới thiên tai, dịch bệnh nên đây cũng là cách con người, thể hiện lòng kính trọng, tôn nghiêm của người còn sống đối với người đã khuất, đề cao việc báo hiếu và làm phúc bố thí…    Minh Minh

Cho đàn ông sờ ngực sẽ gặp may mắn trong tháng cô hồn? Tháng cô hồn và 10 điều tuyệt đối không được quên Kinh nghiệm cúng lễ đuổi ma xua tà trong tháng cô hồn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng cô hồn là tháng mấy?

Bố trí bàn ăn hợp phong thủy

Việc kê bàn ăn hợp lý không chỉ giúp mang lại những bữa ăn vui vẻ, ngon miệng mà còn giúp những người sống trong gia đình có sức khỏe và tinh thần tốt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Để bàn ăn không bị phạm các thế phong thủy xấu cần tránh những điều sau:

- Bàn ăn không được đặt đối điện với ban thần tài. Thần tài là nơi thờ cúng thần linh, cho dù bạn tin hay không tin vào thần linh thì bạn cũng cần phải có sự tôn trọng nhất định. Vì thế bàn ăn và ban thần tài cần phải có khoảng cách nhất định, không đặt ngay cạnh nhau hoặc đối diện với nhau.

- Mặt bàn không được lồi lõm. Việc mặt bàn không phẳng sẽ ảnh hưởng đến cảm giác ngon miệng của mọi người, từ đó sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Ngoài ra, bàn ăn thông thường là nơi tụ tập ăn uống nên không tránh được va chạm bát đũa, nếu mặt bàn không phẳng chỉ cần va chạm nhẹ cũng dễ làm đổ thức ăn.

bàn ăn hợp phong thủy
Luôn giữ cho mặt bàn gọn gàng, sạch sẽ

- Không bày nhiều đồ đạc linh tinh trên bàn ăn, nếu không sẽ làm phá hỏng phong thủy của phòng ăn và bàn ăn.

Bàn ăn luôn bừa bãi thậm chí sẽ làm ảnh hưởng đến sự hòa thuận trong gia đình, ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng và tình thân giữa cha mẹ và con cái. Vì thế cần phải luôn giữ cho bàn ăn gọn gàng, sạch sẽ.

- Không kê bàn ăn quá to trong căn phòng nhỏ. Nghĩa là kích cỡ của bàn ăn cũng cần phải hợp lý, tốt nhất phải phù hợp với diện tích thực tế của phòng ăn hoặc phòng bếp trong ngôi nhà bạn. Nếu phòng ăn quá nhỏ mà kê bàn ăn quá to sẽ khiến mọi người “đứng ngồi không yên”.

Và ngược lại, nếu phòng ăn quá lớn mà kê bàn ăn quá nhỏ thì sẽ thể hiện sự “không phóng khoáng, keo kiệt của gia chủ”. Vì thế bàn ăn nhất định phải chọn kích cỡ cho phù hợp.

(Theo Kienthuc.net)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí bàn ăn hợp phong thủy

Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Mùi

Nam nữ tuổi Mùi sánh đôi với nhau sẽ có cuộc hôn nhân hạnh phúc, nhưng rất dễ mất ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bang-vo-chong-tuong-sinh-tuong-khac-cua-nguoi-tuoi-mui
Mùi - Tý Mùi - Sửu Mùi - Dần Mùi - Mão
Mùi - Thìn Mùi - Tỵ Mùi - Ngọ Mùi - Mùi
Mùi - Thân Mùi - Dậu Mùi - Tuất Mùi - Hợi

Maruko (theo Sohu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Mùi

Thiết kế phòng ngủ cho trẻ như thế nào? –

Trẻ em là mần non tương lai của đất nước. Để mầm non ấy được tốt tươi, phát triển khoẻ mạnh, bạn không chỉ phải chứ ý tới việc giáo dục trẻ mà còn phải tạo cho bé có một không gian sống phù hợp. Nếu có điều kiện bạn hãy bố trí cho bé một phòng ngủ ri

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

êng để tạo cho bé một không gian riêng biệt – không gian cổ tích – nơi bé vun đắp những ước mơ của mình thành hiện thực thông qua cách trang trí mà bố mẹ đã dành cho bé.

1

Khi thiết kế phòng ngủ cho bé, bạn cần chú ý:

–  Hướng thông gió và ánh sáng

Điều đầu tiên và quan trọng nhất khi thiết kế phòng ngủ cho trẻ là bạn cần phải chú ý đến ánh sáng và hướng thông gió Nếu trong phòng không có đủ ánh sáng sẽ khiến thị lực của bé giảm đi, hoặc căn phòng không được thông gió, quá bí bách sẽ khiến cho bé mắc phải nhiều căn bệnh về đường hô hấp.

Thêm vào đó, bạn cũng cần phải chú ý tới các nhân tố trong môi trường xung quanh phòng bé để có sự điều chỉnh sao cho phù hợp. Ví dụ, nếu xung quanh phòng có các trạm điện thoại, các xưởng cơ khí… thì những tiếng ồn, tạp âm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thần kinh của trẻ, làm giảm khả năng tư duy và gây ra những căn bệnh không tốt cho sức khỏe của bé yêu nhà bạn.

–    Đồ nội thất trang trí trong phòng bé phải đơn giản, sạch sẽ và có chất liệu tốt.

Khả năng miễn dịch của trẻ còn rất yếu, bạn nên chú ý tới các chất liệu để xây dựng căn phòng của bé, không nên chỉ chú ý tới thương hiệu của sản phẩm mà bỏ qua tính an toàn cũng như sự phù hợp với bé.

Nếu có thể, bạn hãy sử dụng chất liệu thiên nhiên để chọn vật dụng cho bé vì các sản phẩm làm từ thiên nhiên sẽ an toàn hơn đốì với sức khỏe của bé.

Để không ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của trẻ đệm giường ngủ của bé không quá cứng cũng không quá mềm.

Đồ chơi và vật dụng nên là những thứ có khả năng kích thích trí thông minh của bé. Bạn cũng nên cho bé biết về những thứ trong môi trường xung quanh bằng cách đưa tranh ảnh thiên nhiên vào phòng để bé làm quen.

Khi trẻ đến tuổi đi học, bạn nên giành cho bé một tủ đựng sách riêng, tạo cho bé có thói quen đọc sách

ngay từ khi còn nhỏ vì điều này rất có lợi cho não của trẻ em.

–  Chọn màu sắc và tranh treo trong phòng trẻ Phòng của trẻ được trang trí càng đơn giản thì càng tốt. Tuy nhiên, sự đơn giản ở đây không có nghĩa là đơn điệu. Màu sắc và nội thất phòng trẻ có ảnh hưởng rất lớn đến tâm tính của trẻ. Nếu bạn có thể thiết kế phòng của trẻ có càng nhiều màu sắc sặc sỡ thì sẽ rất có ích cho sự phát triển trí não và khả năng nhận biết màu sắc của bé.

Phòng của trẻ nên chọn những mầu nhạt, thanh nhã như màu xanh lam, xanh lục, vàng nhạt, hồng nhạt, không nên chọn những màu mang tính kích thích như đỏ sẫm hoặc tím sẫm, để tránh kích động trẻ.

Màu bạc, xám và trắng đem lại cảm giác lạnh lẽo, không phù hợp với phòng của trẻ, chỉ cần thay đổi màu vách tường thì không khí của gian phòng sẽ thay đổi theo.

Treo tranh ảnh trong phòng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sự trưởng thành của trẻ. Trên vách tường nên treo những tranh về phong cảnh thiên nhiên và các loài vật để bé làm quen với môi trường tự nhiên, thêm yêu và có ý thức về thiên nhiên.

Giấy gián tường trong phòng của bé không nên có những hình thù quá kích động khiến bé bị ảnh hưởng đến tâm lý và sự phát triển.

–   Thiết kế mặt sàn trong phòng trẻ

Trẻ thường có tính hiếu động, mặt sàn trong phòng phải có tính ma sát. Sàn nhà của bé có thể được làm bằng gỗ tự nhiên để không gây ô nhiễm hoặc dễ dàng chùi rửa. Tốt nhất nên trải thảm trong phòng trẻ. Với tính bảo vệ cao bởi có độ mềm sẽ tránh làm trẻ đau khi bị ngã trong những tình huống bất ngờ xảy ra. Song, khi chọn thảm cần tránh những loại có chất liệu dễ gây dị ứng cho da của bé.

–   Tạo chỗ chơi trong phòng trẻ

Để tạo được chỗ vui chơi cho trẻ, bạn không nên sắp xếp đồ đạc quá nhiều. Các đồ nội thất trong phòng phải có tính liên kết cao, không gây trở ngại cho di chuyển và có thể dễ dàng thay đổi vị trí trong một không gian.

Trẻ con hiếu động, thích tuỳ đâu vẽ đó, để không bị bẩn tường bạn có thể treo một tấm bảng trắng nơi trẻ hay nô đùa, để trẻ có thể tự do viết, vẽ. Như vậy vừa không phá vỡ tính trật tự trong phòng, vừa phát huy tính sáng tạo của trẻ. Cũng có thể lợi dụng những khoảng không ở góc tường, treo một tấm bảng ghi những thành tích trẻ tự tay làm để khích lệ trẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiết kế phòng ngủ cho trẻ như thế nào? –

Lời chúc Giáng sinh nào 'đốn gục' trái tim 12 con giáp

Tùy vào vận mệnh, tính cách của mỗi con giáp, bạn nên chúc tiền tài, tình cảm hay sự nghiệp nhân dịp Giáng sinh để đốn gục trái tim họ nhé!
Lời chúc Giáng sinh nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý, Dần và Thân

Ba con giáp này cá tính mạnh, có ý chí kiên cường về việc tạo dựng sự nghiệp lớn lao. Do đó, lời chúc ý nghĩa nhất dành cho con giáp này là những gì liên quan đến tiền tài, sự nghiệp, thành công.

Dan-5345-1418055123.jpg

Bên cạnh đó, người tuổi Tý, Dần và Thân cũng sở hữu trái tim nồng hậu mặc dù bề ngoài họ không bao giờ thể hiện ra. Sau khi nói lời chúc về sự nghiệp, bạn cũng đừng quên nắm chặt tay họ hoặc dành cái ôm ấm áp để mang lại sức mạnh tinh thần người tuổi Tý. Có như vậy họ mới thực sự yên tâm phấn đấu cho những khát khao sự nghiệp của mình.

Tuổi Sửu, Mùi và Hợi

Có phần trái ngược với nhóm con giáp trên, người tuổi Sửu, Mùi và Hợi không màng danh vọng, thứ duy nhất họ cần chính là tình cảm chân thành. Chiếc thiệp bé nhỏ có kèm những lời yêu thương nồng nàn sẽ “đốn gục” trái tim những con giáp này trong dịp Noel tới. Đó cũng là cơ hội để bạn bày tỏ tình cảm đã cất giấu bấy lâu nay. Hãy mạnh dạn thổ lộ tâm tư thầm kín, chắc chắn cả hai bạn sẽ vỡ òa trong hạnh phúc.

Hoi-5082-1418055123.jpg

Tuổi Mão, Thìn và Dậu

Sở hữu trí tuệ thông minh, nhạy bén và tâm hồn lãng mạn, nhóm con giáp này sẽ ngất ngây nếu được nghe những lời chúc ở một nơi tuyệt đẹp chỉ có hai người. Bạn đừng nhầm tưởng vẻ bề ngoài mạnh mẽ và có phần lạnh lùng của họ mà quên đi những cử chỉ âu yếm ngọt ngào.

Dau-8214-1418055123.jpg

Do đó, lời chúc ý nghĩa nhất dành cho người tuổi Mão, Thìn và Dậu chính là lời tâm tình thủ thỉ xuất phát từ trái tim. Thay vì viết ra tấm thiệp dễ thương, bạn có thể nhân cơ hội ở bên người tuổi Dần, trực tiếp nói ra lời chúc chân thành. Trái tim của họ sẽ hoàn toàn bạn bị chinh phục.

Tuổi Tỵ, Ngọ và Tuất

Mong muốn có được cuộc sống bình yên và hạnh phúc là điểm chung nổi bật trong nhóm con giáp này. Giáng sinh chính là thời điểm để người tuổi Tỵ, Ngọ và Tuất trải lòng, hòa mình vào không khí an lành để nguyện ước về một tương lai êm đềm, viên mãn.

Tuat-3136-1418055124.jpg

Lời chúc ý nghĩa đồng thời cũng là món quà tinh thần lớn nhất cho họ trong dịp này chính là mong ước họ có được cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Bạn hãy chọn một nơi cảnh vật thanh bình để nói ra những lời chúc chân thành này nhé. Nhóm con giáp này sẽ thực sự ngất ngây khi tâm nguyện của mình được như ý.

Mr.Bull (theo BDB)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời chúc Giáng sinh nào 'đốn gục' trái tim 12 con giáp

Cách bệnh, tật. Những sao bệnh, tật

1. Những bệnh về bộ máy tiêu hóa: thông thường, bộ máy tiêu hóa do 5 sao chỉ định: Thiên Đồng, Đại Hao, Tiểu Hao, Thiên Riêu, Hỷ Thần. Chỉ riêng Thiên Riêu chỉ ruột và Hỷ Thần chỉ Hậu Môn, ba sao còn lại không chỉ đích danh bộ phận nào trong bộ máy tiêu hóa. Theo nguyên tắc, hễ sao chỉ bộ máy tiêu hóa mà đi chung với sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh thì tất bị bệnh.
Cách bệnh, tật. Những sao bệnh, tật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa Không, Địa Kiếp: đây là hai sao chỉ bệnh nặng nói chung, trong đó có bệnh về bộ máy tiêu hóa nếu đi chung với một trong 5 sao chỉ bộ máy tiêu hóa. Vì Không Kiếp chỉ ung nhọt, chốc lở nên bộ máy tiêu hóa có thể bị rách, chảy máu. Về cường độ, vì Không Kiếp là sát tinh hạng nặng cho nên bệnh sẽ nặng, nhất là khi hãm địa. Vốn là sao Hỏa, nên bệnh bột phát bất ngờ.

Thiên Hình, Kiếp Sát: một trong hai sao này chỉ về mổ xẻ. Bộ máy tiêu hóa có thể bị giải phẫu. Bệnh sẽ tương đối nặng, nhất là khi gặp cả hai sao.

Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh: bốn sao này chỉ bệnh nhưng không rõ tính chất và cường độ nhưng chắc chắn không nặng bằng Không Kiếp.

Đại Hao, Tiểu Hao: Đúng ra, Song Hao chỉ bệnh đau bụng, tiêu chảy. ở Mệnh hay Tật, Song Hao chỉ tạng của người hay đi tiêu chảy, tái đi tái lại, hầu như kinh niên. Cũng có thể là bệnh ăn không tiêu, kém ăn, trúng thực, thượng thổ hạ tả.

Hóa Kỵ: chỉ trục trặc nhỏ trong bộ máy tiêu hóa, do sự dùng thuốc quá liều, hay ăn trúng phải chất có hại cho tiêu hóa (Hóa Kỵ là hóa chất).

Thiên Khốc, Thiên Hư: chỉ sự lục đục, hao hoại ngấm ngầm của bộ máy, không hẳn là bệnh nhưng gây khó chịu như ăn không tiêu, trục trặc không rõ căn nguyên. Một nguyên do khả hữu là vì bộ răng không tốt, nhai thức ăn không kỹ. Đây cũng là một bệnh kinh niên.

Ngoài ra, những bộ sao dưới đây liên quan đến bệnh tiêu hóa nói chung:
- Thái Âm hãm địa
- Vũ Khúc, Thất Sát
- Thiên Đồng, Hóa Kỵ
- Thiên Trù, Đại, Tiểu Hao
bệnh do ăn uống quá độ hoặc ăn món lạ bị ngộ độc. Đây là bệnh của người ăn nhiều cao lương mỹ vị, trà dư tửu hậu, thường thấy trong giới ngoại giao, bợm nhậu.

- Riêu, Đà, Kỵ: đau bao tử, đau ruột
- Không, Kiếp, Bệnh, Cơ: bệnh mật
- Không, Kiếp, Hỷ Thần: bệnh trĩ
- Tham, Đà: bệnh do ăn uống quá độ, bội thực
- Bệnh Phù: hay đau dạ dày, đầy hơi, kiết lỵ hoặc thiếu dinh dưỡng sinh ra phù thũng.

2. Những bệnh về bộ máy hô hấp:

Địa Không, Địa Kiếp: chỉ bệnh đau phổi dưới nhiều hình thái và cường độ khác nhau từ ho, suyễn, yếu phổi, kém khí cho đến lao, ung thư phổi, sưng phổi.

Tang, Hổ, Khốc, Hư: ho lao

Thái Âm hãm địa: đau phổi

Thiên Cơ, Khốc, Hư: phong đờm, ho ra máu

Thiên Khốc: phổi yếu, hay ho vặt

Hình, Bệnh hay Tử: có thể bị lao hay kinh phong

Ngoài ra, những sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, kỵ tinh ứng dụng vào bộ máy hô hấp sẽ mô tả thêm rõ hơn hình thái hoặc cường độ của bệnh. Ví dụ, gặp Thiên Hình Kiếp sát thì bệnh hô hấp có thể phải mổ, bị Song Hao thì bệnh phổi hay tái phát nhiều lần gần như trầm kha; gặp Hóa Kỵ thì sinh thêm bệnh tiêu hóa vì dùng quá nhiều thuốc trị phổi; gặp Lưu Hà thì có thể là phổi có nước ...


3. Những bệnh về bộ máy tuần hoàn:

Hai sao Tang Môn và Bạch Hổ chỉ máu.

Lâm Quan, Hỏa hay Linh: bệnh chảy máu cam, xuất huyết, đứt mạch máu

Bạch Hổ: máu xấu, nhất là đối với phụ nữ.

Tang Môn, Bạch Hổ: bệnh khí huyết, bệnh thiếu máu, căng mạch máu, yếu tim, đau tim.

Đào Hoa, Hồng Loan: yếu tim

Lưu Hà: bệnh máu loãng, hay ra máu khi bị thương, bệnh hoại huyết


4. Những bệnh về bộ máy bài tiết và sinh dục:

Thiên Riêu hay Thiên Hư: bệnh suy thận, dương hư

Tham, Riêu - Đào, Hồng, Không, Kiếp - Riêu, Cái: chỉ bệnh phong tình

Đào, Hồng, Kỵ, Mộc - Đào, Hình, Thai, Mộc: chỉ bệnh "phạm phòng".

Thai, Không, Kiếp: chỉ bệnh đau tử cung, lệch hay sa tử cung

Cự, Kình, Hỏa - Tham ở Tý, Ngọ (có thể đi kèm với Đà La): bệnh do tửu sắc, sinh dục quá độ.

Nếu đi chung với Không Kiếp thường là nặng và có máu mủ; với Thiên Hình, Kiếp Sát có thể bị mổ xẻ ...


5. Những bệnh về tai, mũi, họng: Long Trì chỉ mũi, Phượng Các chỉ tai, Phá Toái chỉ cuống họng:

Phượng, Kình, Đà: bệnh ở tai, cứng tai, lãng tai, sớm lãng tai, điếc.

Trì, Khốc, Hư: bệnh lở mũi, có Thiên Hình là có mổ, có Hỏa Tinh Linh Tinh là có đốt.

Lâm Quan, Địa Kiếp: bệnh yết hầu, thịt dư ở cổ họng.

Phá Toái, Hình hay Hư, Khốc: đau cuống họng, tiếng khàn rè

Riêu: đau răng, hư răng, sớm rụng răng.


6. Những bệnh của sản phụ:

Đào, Hồng, Kình, Kỵ, Mộc: bệnh tiểu sản, hậu sản

Không, Kiếp, Mộc hay Kỵ, Mộc: bệnh sản thai, đau dạ con, khó đẻ

Nguyệt hãm hay Nguyệt, Kỵ hay Nhật, Kỵ, Hư: âm hư, kinh nguyệt không đều, dương hư, có bệnh về bộ phận sản dục ảnh hưởng đến sự thụ thai, sinh đẻ.

Lưu Hà hay Tang, Hổ: khi sinh đẻ hay bị băng huyết vì máu loãng.


7. Những bệnh ngoài da:

Vũ, Cơ: Bệnh ngoài da hay tê thấp.

Tướng ở Mão, Dậu: da mặt vàng, có bệnh thuộc khí huyết hoặc ngoài da.

Cơ, Nguyệt: hay có mụn nhọt

Không, Kiếp, Cơ: mụn nhọt, lở chốc có máu mủ

Phá: máu nóng lúc nhỏ tuổi sinh nhọt

Liêm, Phá: chân tay có tỳ vết

Kình, Cái, Không, Kiếp: phát ban, lên đậu

Hỏa, Linh, Mộc: phỏng nước, phỏng lửa

Liêm hãm, Hình, Kỵ: máu nóng sinh nhọt

Cự Môn hãm: môi thâm

Tham Xương: lang ben, da loang lổ


8. Những bệnh về mắt: Nhật, Nguyệt chỉ cặp mắt. Nhật là mắt trái. Nguyệt là mắt phải. Đi với sát, hình, hao, bại tinh, mắt bị bệnh từ nặng đến nhẹ.

Nhật, Kình, Kỵ ở Hợi, Tý: bị đau mắt có thể mù

Nguyệt, Riêu, Hình, Kỵ: cũng đồng nghĩa

Đà, Riêu, Kỵ: mắt kém

Phá, Vũ: hay đau mắt


9. Những bệnh về thần kinh:

Thái Dương, Thái Âm sáng sủa thường là chỉ dấu của bệnh thần kinh, biểu lộ dưới nhiều hình thái như mất ngủ, căng thẳng tinh thần, tăng huyết áp, lo âu quá đáng.

Nhật, Cự: ngây ngô, hơi khùng, suy luận không bình thường. Nhật càng sáng, bệnh càng nặng.

Nhật, Không, Kiếp - Phá, Hỏa, Linh - Nhật và nhiều sao hỏa ở cung Hỏa - Phá, Kình, Đà, Hình, Kỵ: khùng và điên.

Ngoài ra, Mệnh nào có Tang Hổ Khốc Hư Cô Quả Đẩu Quân thường u buồn, ủy mị, dồn ép.


10. Những bệnh ở chân tay, gân cốt:

Về cơ thể, chân tay do Thiên Mã chỉ danh. Về bệnh lý, Kình, Đà cũng có nghĩa bệnh tật liên quan đến tứ chi.

Mã, Đà: có tật ở chân tay

Mã, Hình: có thương tích ở chân tay

Mã, Tuần, Triệt: trật xương, gãy chân tay

Hình, Đà: chân tay bị yếu gân

Vũ, Riêu: tê thấp hoặc phù chân tay


11. Những bệnh lạ:

Cơ, Hỏa, Linh: bệnh ma làm, quỷ ám

Riêu, Hỏa, Linh: bị ma quỷ phá phách, quấy nhiễu

Sát, Hao, Mộc, Kỵ: ung thư

Bệnh Phù, Hình, Kỵ: hủi


12. Những tật:


Vượng, Kình, Đà hay Hình: lưng có tật: lưng gù, sái chiều nghiêng về phía phải hay trái.

Mã, Đà hay Tuần Triệt: có tật ở chân tay: què, chân dài chân ngắn, tay cán xẻng, tay lọi, chân hay tay to nhỏ không đều, có thể cụt một chân hay một tay, hoặc mất bàn chân, bàn tay.

Việt, Đại Tiểu Hao: so vai, xệ vai, vai cao, vai thấp. Khôi, Việt gặp Hình cũng có nghĩa này.

Tướng, Hình: có tật ở trên đầu: đầu méo, đầu to hay thật nhỏ, đầu xói hết tóc ...

Phục, Hình: nói ngọng

Tuế, Đà, Riêu, Cái: nói lắp

Vũ, Riêu, Việt, Toái: câm

Sát, Kình, Đà, Linh, Hỏa: gù lưng

Cự, Hỏa hay Linh: miệng méo

Kỵ, Riêu: sứt môi

Phượng, Kiếp, Kình: điếc

Trì, Kình: mũi sống trâu, mũi lệch

Nhật, Nguyệt gặp Riêu, Đà hay Kỵ: mắt có tật: cận thị, viễn thị, loạn thị. Nếu gặp cả ba thì tật nặng có thể lòa, quáng gà.

Vũ, Tướng: có ám tật, tật kín

Cự, Nhật: hình dáng dị kỳ

Tồn, Không, Kiếp: có ám tật mới sống lâu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bệnh, tật. Những sao bệnh, tật

Sửa tuổi có ảnh hưởng đến vận mệnh?

Trong quan niệm phương Đông, tử vi được xem là một trong những phương pháp chính xác để xem xét vận mệnh con người dựa trên 4 yếu tố thời gian chính (tứ trụ) là ngày, giờ, tháng và năm sinh của một con người. Vậy thì việc sửa tuổi (ngày tháng năm sinh) có ảnh hưởng gì đến lá số tử vi không?
Sửa tuổi có ảnh hưởng đến vận mệnh?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong chiến tranh, sửa tuổi (tăng lên hoặc giảm xuống) để đủ điều kiện (về độ tuổi) nhập ngũ đánh giặc, đó cũng là chuyện bình thường. Thậm chí có một số người còn được biểu dương, ca tụng cùng với thành tích lập công. Tuy nhiên, thời bình thì việc sửa tuổi, nhất là khai man giảm tuổi đi để làm gì? Với một số người, nếu không phải là để kéo dài thời gian công tác tại chức; làm chậm thời gian về hưu…

Cũng kịp thời, vừa rồi Ban Bí thư Trung ương Đảng ta mới ra Thông báo số 13, quy định chi tiết về việc xác định mốc và “hằng số năm sinh”, tuổi đảng viên, để khắc phục tình trạng sửa tuổi, “chạy” tuổi trong Đảng.

Người viết thiết nghĩ cơ quan Đảng đã tích cực như vậy; cơ quan Chính quyền cũng cần có Chỉ thị cụ thể để xác định mốc, “hằng số năm sinh”, tuổi của công chức, viên chức ngoài Đảng, những người làm công ăn lương.

Đặc biệt thú vị, xét quá khứ thực tế hòa bình, đã có số người sửa tuổi. Song, liệu họ có thể sửa được số tử vi? Bởi vì số tử vi là một môn khoa học, có trong nội dung Kinh dịch và Almanach-những nền văn minh Thế giới, chứ không phải chuyện mê tín dị đoan.

Đa số mọi người-chúng ta có lá số tử vi phụ thuộc vào giờ, ngày, tháng, năm sinh, giới tính của mình. Và nhiều người đã biết đi cậy nhờ người thông tuệ coi số tử vi sẽ được luận giải trung thực, chính xác Cung mệnh, quan lộc, nghề nghiệp, tiền tài, vợ chồng, phúc đức, con cái, nhà cửa đất đai, kể cả bệnh tật, vận hạn… của họ. Có thể nói qua số tử vi, có thể biết được tổng quan cả cuộc đời họ.

Như phần trên đã nêu: Số tử vi phụ thuộc vào giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính từng người. Trong đó giờ, ngày, tháng, năm sinh đã an bài, không thể điều chỉnh-thay đổi được (có thể ví như hằng số C trong Toán học).

Chính vì vậy, những người “khai man” năm sinh để sửa tuổi; nhưng họ không thể sửa được số tử vi của họ. Cho dù có trường hợp “Nhân định thắng Thiên” chăng nữa, cũng chỉ có khả năng thực hiện khi họ có Thế giới quan và Nhân sinh quan một cách đúng đắn, lành mạnh. Không thể xảy ra với số người sửa tuổi nhằm mục đích “tham quyền cố vị”.

Ngoài ra đến một ngày, tháng, năm nào đó, số người sửa tuổi sẽ vĩnh biệt chúng ta để họ “ra đồng”; không biết gia đình, họ hàng, thân nhân của họ cho viết cáo phó, hoặc tin buồn và cho người đọc Điếu văn theo tuổi nào? Tuổi thật hay tuổi sửa?

Nếu cáo phó hoặc tin buồn, Điếu văn theo tuổi thật, hóa ra khi sống làm việc ở cơ quan, họ đã ăn gian nói dối tuổi hay sao?

Nếu cáo phó hoặc tin buồn, Điếu văn theo tuổi sửa (khai rút tuổi đi), thì cũng thật trớ trêu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sửa tuổi có ảnh hưởng đến vận mệnh?

Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên?, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên?, tu vi Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên?, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên?

Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên? Trong 12 con giáp thì nàng tuổi Sửu sinh tháng 4 được cho là người không bộc lộ đam mê, sở thích rõ ràng, tính tình khô khan, lạnh lùng thậm chí hơn cứng rắn, vì thế họ dễ lận đận tình duyên. Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên?

Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên?

Tuổi Sửu

Xem bói tình duyên những nàng tuổi Sửu sinh tháng 4 được cho là người không bộc lộ đam mê, sở thích rõ ràng, tính tình khô khan, lạnh lùng thậm chí hơn cứng rắn, vì thế họ dễ lận đận tình duyên và gặp nhiều thất bại trong chuyện tình cảm.

Những người đàn ông vốn yêu thích sự mãnh liệt và những cảm giác mới mẻ sẽ dần dần cảm thấy nhàm chán và rời xa những cô nàng này. Vì thế, tăng chút dịu dàng, cảm xúc sẽ giúp bạn đáng yêu và quyến rũ hơn.

Tuổi Dần

Xem bói những nàng tuổi Dần sinh tháng 8 thường nhìn đời bằng nửa con mắt, nhưng bản thân họ lại không ý thức được điều đó. Đối với đàn ông, các nàng vẫn giữ thái độ “bề trên”, chỉ tay năm ngón, khí thế mạnh mẽ.

Trong mắt họ, đàn ông không theo kịp hay không đáp ứng được yêu cầu của họ rất dễ bị họ bỏ rơi. Việc tự tin là rất quan trọng, nhưng thái quá sẽ trở thành kiêu ngạo. Muốn có được tình cảm tốt đẹp lâu dài, bạn cần phải bỏ qua cái tôi quá lớn của mình, cần tôn trọng và lắng nghe đối phương hơn.

Tuổi Dậu

Những nàng tuổi Dậu sinh tháng 10 lại có thói quen luôn phê phán, phán xét người khác rất gay gắt. Khi phê phán người khác, đôi khi họ sử dụng những lời nói gay gắt, thậm chí có phần bỗ bã.

Các nàng không biết rằng những lời nói sắc tựa lưỡi dao không chỉ làm tổn thương người khác mà còn tổn hại chính mình. Đây chính là điều khiến các nàng tuổi Dậu sinh tháng 10 dễ thất bại trong tình yêu.

 

Tuổi Tỵ

Những cô nàng tuổi Tỵ sinh tháng 3 đều là những bậc thầy đa nghi. Họ không chỉ luôn nghi ngờ mục đích của những người đang theo đuổi mình mà thậm chí còn luôn nghi ngờ chính cả người mình đang yêu.

Chính vì thế người đàn ông bên cạnh họ luôn cảm thấy ngột ngạt và rời xa họ. Tin tưởng lẫn nhau chính là một trong những cơ sở để có được tình yêu. Khi không còn niềm tin, thì sự nồng nàn, sâu đậm bao nhiêu dần dần cũng sẽ tan biến.

Tuổi Ngọ

Những nàng tuổi Ngọ sinh tháng 6 lại là những cô nàng cực kỳ đào hoa và luôn đầy sức hút với đàn ông.

 

Nhưng điểm yếu chết người của các nàng lại chính là “sự đào hoa” cộng với sở thích giao thiệp và giao du cùng lúc với rất nhiều người khác giới đã khiến người đàn ông của bạn luôn cảm thấy bạn đang bỡn cợt tình cảm và dần rời xa bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phụ nữ sinh tháng nào dễ lận đận tình duyên? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Cách chọn quả cầu đá mắt mèo phong thủy hợp mệnh –

Trong Phong Thủy, Quả cầu tượng trưng cho sự hoàn hảo, thập toàn thập mỹ, Quả Cầu Phong Thủy là một vật phẩm may mắn, mang ý nghĩa tốt đẹp cho việc học hành, tình yêu, cũng như công việc kinh doanh, Qủa cầu phong thủy không những đem lại sự thông min

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

h, của cải, tài lộc mà còn có tác dụng chế ngự hung khí. Bài sau đây sẽ hướng dẫn các bạn Cách chọn quả cầu đá mắt mèo phong thủy hợp mệnh.

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa quả cầu đá Mắt mèo
  • 2 Quả cầu đá Mắt mèo theo mệnh
    • 2.1 Quả cầu đá Mắt Màu mèo trắng hợp với mệnh Kim
      • 2.1.1 Ý nghĩa màu trắng 
      • 2.1.2 Theo mối quan hệ ngũ hành 
    • 2.2 Quả cầu đá Mắt mèo màu xanh lục hợp mệnh Mộc
      • 2.2.1 Ý nghĩa màu xanh lá 
      • 2.2.2 Theo mối quan hệ ngũ hành 
    • 2.3 Quả cầu Đá Mắt mèo màu xanh dương hợp mệnh Thủy
      • 2.3.1 Ý nghĩa màu xanh dương
      • 2.3.2 Theo mối quan hệ ngũ hành 
    • 2.4 Quả cầu đá Mắt mèo màu đỏ hợp mệnh Hỏa
      • 2.4.1 Ý nghĩa màu đỏ 
      • 2.4.2 Theo mối quan hệ ngũ hành
    • 2.5 Quả cầu đá Mắt mèo màu vàng hợp với mệnh Thổ
      • 2.5.1 Ý nghĩa của màu vàng 
      • 2.5.2 Theo mối quan hệ ngũ hành 

Ý nghĩa quả cầu đá Mắt mèo

– Quả Cầu đá mắt mèo tượng trưng cho cái nhìn sâu sắc, tăng cường sức mạnh thể chất, khuyến khích sự sáng tạo thể hiện , giúp tinh thần minh mẫn và tập trung

Quả cầu phong thủy đá mắt mèo ngũ sắc là vật khí có năng lượng thúc hỗ trợ vô cùng mạnh mẽ cho những ai theo đuổi việc học hành cũng như thúc đẩy bạn quan tâm, chú ý hơn đến việc học hành.

– Qủa cầu phong thủy đem lại sự tôn trọng, tự tin, may mắn đến cho bạn. Qủa cầu phong thủy không những đem lại sự thông minh, của cải, tài lộc mà còn có tác dụng chế ngự hung khí.

– Qủa cầu phong thủy mang lại sự thông tuệ, uyên bác, sáng suốt và mở mang mối quan hệ, giao tiếp cho bạn. Nhiều nhà doanh nghiệp thành đạt, những người giàu có, học vấn cao, luật sư, chính trị gia, đều đặt quả cầu phong thủy trên bàn làm việc

– Đặc biệt với các công ty, quả cầu phong thủy đảm bảo công việc kinh doanh trôi chảy, phát đạt, đó cũng là lý do tại sao rất nhiều logo của các công ty làm ăn phát đạt có hình quả cầu.

– Quả cầu đá mắt mèo ngũ sắc chứ đựng đủ các màu trong ngũ hành nên có thể hợp với tất cả các mệnh. Điều này rất quan trọng, trong tường hơp ta cần dùng để đặt trong không gian dành cho nhiều người hoặc khi chúng ta dùng làm quà tặng cho khách hàng hoặc một nhân vật quan trọng mà ta không biết được và cũng không tiện hỏi người được tặng có mệnh gì ! Nếu ta chọn đại một màu nào đó, chẳng may màu đó tương khắc với mệnh người được tặng thì thật không hay

Quả cầu đá Mắt mèo theo mệnh

Quả cầu đá Mắt Màu mèo trắng hợp với mệnh Kim

Ý nghĩa màu trắng 

Màu trắng còn gắn liền với ánh sáng, sự khởi đầu . Theo quan niệm màu trắng tượng trưng cho những gì không vấy bẩn, không ô uế , tượng trưng cho cho sự tinh khiết, ngây thơ, trinh nguyên, trong sạch, thánh thiện … Màu trắng còn đồng nghĩa với sự hòa giải, trung lập … Có thề được xem là màu của sự hoàn hảo.

Vì Vậy , khi sử dụng quả cầu phong thủy đá Mắt Mèo màu trắng sẽ mang đến cho bạn sự hoàn hảo, tập trung trong học tập , trong kinh doanh thì công việc luôn thuận lợi.

Theo mối quan hệ ngũ hành 

Người mệnh kim thích tự mình đề ra những mục tiêu cho bản thân, để đạt được mục tiêu họ luôn làm việc cật lực, chăm chỉ, không chịu bỏ cuộc cho dù gặp phải khó khăn, trở ngại, họ sẵn sàng lao vào cuộc chiến để đấu tranh cho quyền lợi của mình và không dễ quay lưng khi đối mặt với thử thách

Những người thuộc mệnh kim thường có tính kiên định, sắt đá vì thế khi đã quyết định một điều gì đó không gì có thể lay chuyển được họ, họ có thể hoàn thành nhiều việc nhờ thái độ nghiêm túc và khả năng tập trung cao độ trong khoản thời gian dài

Để mang lại sức khỏe, may mắn, công danh, tài lộc, sự phát đạt cho người mạng kim, Khi lựa chọn đá phong thủy cần cân nhắc theo quy luật màu sắc ngũ hành, các mối quan hệ tương sinh, tương hợp, tương khắc và chế khắc là điều rất quan trọng : Về sự hòa hợp, với người mệnh Kim nếu dùng đá phong thủy có màu sắc tương hợp sẽ rất tốt cho đường tài lộc, màu sắc rất đặc trưng cho hành Kim là Màu Trắng.

Quả cầu đá Mắt mèo màu xanh lục hợp mệnh Mộc

Ý nghĩa màu xanh lá 

Ngay từ tên gọi, màu xanh lá đã đem lại cho ta cảm giác của tự nhiên cho tượng trưng cho sự phát triển, hòa thuận, tươi mát, màu mỡ nhưng ngoài ra, nó còn tượng trưng cho sự thông thái.Màu xanh lá cây còn mang lại cảm giác an toàn. Đây là lý do tại sao đèn giao thông sử dụng màu xanh lá làm báo hiệu cho các phương tiện được phép di chuyển

Màu xanh này còn mang lại sự nhẹ nhàng cho mắt. Màu xanh lá cây còn mang ý nghĩa của sự phát triển và hy vọng.

Khi sử dụng quả cầu phong thủy đá Mắt Mèo màu xanh lá sẽ mang đến bạn cảm giá tươi mát , tràn đầy sức sống , giúp cho công việc học tập hay kinh doanh của bạn mỗi ngày phát trển tốt đẹp.

Theo mối quan hệ ngũ hành 

Người mệnh mộc là người được mọi người yêu quý nhất so với những người thuộc hành khác vì bản tính tử tế, hào phóng và chu đáo của bạn. Người mệnh mộc đối xử nhân hậu với mọi người và yêu thương thú vật. Đôi lúc tính hào phóng của bạn dường như không có giới hạn, tuy nhiên bạn có chủ ý như thế vì bạn thật sự quan tâm tới người khác

Để mang lại sức khỏe, may mắn, công danh, tài lộc, sự phát đạt cho người mạng mộc, Khi lựa chọn đá phong thủy cần cân nhắc theo quy luật màu sắc ngũ hành, các mối quan hệ tương sinh, tương hợp, tương khắc và chế khắc là điều rất quan trọng : Về sự hòa hợp, với người mệnh Mộc nếu dùng đá phong thủy có màu sắc tương hợp sẽ rất tốt cho đường tài lộc. Vì “Mộc hợp Mộc”, nhiều cây sẽ thành rừng. Màu sắc rất đặc trưng cho hành mộc là màu xanh lá cây

Quả cầu Đá Mắt mèo màu xanh dương hợp mệnh Thủy

Ý nghĩa màu xanh dương

Màu xanh dương là biểu tượng cho trí tuệ, hiểu biết, năng lượng, sức mạnh, sự vững vàng, sự an tâm, tính chuyên nghiệp, tính chính trực và nghiêm nghị …Màu xanh dương có lợi cho tinh thần. Mọi người sẽ làm việc có năng suất trong phòng có màu xanh dương.

Vì vậy sử dụng quả cầu phong thủy đá Mắt Mèo màu xanh dương sẽ mang đến cho bạn sự thông thái trong học tập , sức khỏe tràn đầy năng lượng và trong kinh doanh sự nghiệp luôn vững vàng.

Theo mối quan hệ ngũ hành 

Mệnh Thủy là biểu trưng của sự dịu dàng, người mệnh thủy hầu hết dùng cách tiếp cận gián tiếp để đạt được mục tiêu. Bạn không thích dùng quyền lực để áp đặt người khác theo ý của mình, nhưng bạn thích chinh phục đối phương bằng cách kiên trì và nhẫn nại, bạn luôn trình bày quan điểm của mình một cách khôn khéo.

Để mang lại sức khỏe, may mắn, công danh, tài lộc, sự phát đạt cho người mạng thủy, Khi lựa chọn đá phong thủy cần cân nhắc theo quy luật màu sắc ngũ hành, các mối quan hệ tương sinh, tương hợp, tương khắc và chế khắc là điều rất quan trọng : Về sự hòa hợp, với người mệnh Thủy nếu dùng đá phong thủy có màu sắc tương hợp sẽ rất tốt cho đường tài lộc, màu sắc rất đặc trưng cho hành Thủy là màu Xanh Dương.

Quả cầu đá Mắt mèo màu đỏ hợp mệnh Hỏa

Ý nghĩa màu đỏ 

Màu đỏ là màu của lửa và máu, nó đi liền với sức mạnh, quyền lực, sự quyết tâm.Màu đỏ là màu của sự dũng cảm và hy sinh, đó là lý do ta thấy một số quốc kỳ của một số nuớc có màu đỏ.

* Màu đỏ nhạt: là màu của sự thụ hưởng, đam mê, nhạy cảm và tình yêu

* Màu đỏ tím : là biều tượng của lãng mạn, tình yêu và tình bạn. Nó thể hiện sự cảm xúc nữ tính

* Màu đỏ đậm: là biểu tượng của sự quyết tâm mạnh mẽ, sự lãnh đạo, dũng cảm, đợi chờ.

Vì vậy , quả cầu phong thủy đá Mắt Mèo màu đỏ sẽ giúp bạn hạnh phú trong tình yêu , hôn nhânvà thăng tiến trong công việc.

Theo mối quan hệ ngũ hành

Người thuộc mệnh hỏa thường mang đến cho cuộc sống sự sôi động, hào hứng. Bạn truyền cho mọi người nhiệt huyết, và niềm đam mê. Mọi người cũng thật sự bị thu hút bởi tính cách nổi bật của bạn. Bản năng cho bạn biết cần phải làm gì, nếu không có, chính bạn sẽ tạo ra việc để làm

Bạn là một người năng động, luôn tiến về phía trước. Bạn chỉ có thể chịu đựng tình trạng không hoạt động trong một thời gian ngắn. Ban luôn là người khởi xướng và làm mọi việc tiến triển trong mọi tình huống.

Về sự hòa hợp, với người mệnh Hỏa nếu dùng đá phong thủy có màu sắc tương hợp sẽ rất tốt cho đường tài lộc, màu sắc rất đặc trưng cho lửa là màu đỏ .Để mang lại sức khỏe, may mắn, công danh, tài lộc, sự phát đạt cho người mạng hỏa, Khi lựa chọn đá phong thủy cần cân nhắc theo quy luật màu sắc ngũ hành là đều rất quan trọng.

Quả cầu đá Mắt mèo màu vàng hợp với mệnh Thổ

Ý nghĩa của màu vàng 

Màu vàng: là màu của nắng mặt trời ấm áp. Nó đi liền với cảm giác thụ hưởng hạnh phúc. Nó còn là màu của sự thông thái và mạnh mẽ. Màu vàng mang lại cảm giác ấm áp, làm tăng sự thích thú và khả năng hoạt động trí óc. Màu vàng nhạt còn mang sự thu hút đáng kể. Từ hàng nghìn năm trước màu vàng tượng trưng cho sự giàu sang, sung túc, thịnh vượng, thành công,…

Quả cầu phong thủy đá Mắt Mèo màu vàng sẽ giúp chung ta thu hút tài lộc , gia đình thịnh vượng , phát triển học tập.

Theo mối quan hệ ngũ hành 

Người mệnh thổ là người thực tế, trong cuộc sống hằng ngày đối với người mệnh thổ không đơn giản là việc gì đến sẽ đến mà luôn được lên kế hoạch với những suy tính kĩ lưỡng như điều gì cần phải làm và cách nào là tốt nhất

Với bản tính khiêm tốn, giản dị, không phô trương nhưng lại vô cùng bản lĩnh và vững vàng những người mệnh Thổ luôn khiến cho mọi người xung quanh đánh giá cao về họ. Bên cạnh đó người mệnh thổ còn đem lại sự hòa hợp giữa các thành viên trong nhóm một cách lặng lẽ, âm thầm, nhờ vào sự khéo léo trong cách cư xử vốn là một đặc tính của hàng Thổ

Để mang lại sức khỏe, may mắn, công danh, tài lộc, sự phát đạt cho người mạng thổ, Khi lựa chọn đá phong thủy cần cân nhắc theo quy luật màu sắc ngũ hành là rất quan trọng : Về sự hòa hợp, với người mệnh Thổ nếu dùng đá phong thủy có màu sắc tương hợp sẽ rất tốt cho đường tài lộc , màu sắc rất đặc trưng đó là màu vàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn quả cầu đá mắt mèo phong thủy hợp mệnh –

3 vị trí phong thủy quan trọng "đừng nên quên"

Bạn không cần phải quá cầu toàn khi chú ý phong thủy cho tất cả vị trí trong nhà nhưng đừng quên chăm lo cho 3 vị trí đặc biệt quan trọng dưới đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống, luôn có một số yếu tố cụ thể hoặc khu vực có tầm quan trọng hơn so với những thứ khác và phong thủy cũng vậy. Trong phong thủy nhà ở, các chuyên gia luôn luôn ưu tiên 3 khu vực quan trọng nhất, bao gồm cửa chính, phòng ngủ và nhà bếp, trước khi xem xét đến các khu vực khác.

Phong thủy tốt thu hút năng lượng dương mang lại sự giàu có và cơ hội vào cuộc sống của bạn. Ngược lại, nếu 3 khu vực không có đủ năng lượng tốt hoặc mang năng lượng tiêu cực, bạn có xu hướng bị sa vào các chướng ngại vật trong cuộc sống. Vì vậy, hãy cùng khám phá những cách cơ bản để áp dụng phong thủy vào các không gian này.

Phong thủy cửa chính

Cánh cửa chính được ví như "cái miệng" của ngôi nhà, vì vậy bạn cần phải đảm bảo rằng không có trở ngại hoặc tắc nghẽn ngăn chặn dòng chảy từ ngoài vào trong nhà. Bên cạnh đó, bạn có thể muốn diệt trừ năng lượng âm (sát khí) từ bên ngoài trỏ đến cửa chính. Đó có thể là các cạnh của bức tường đối diện với cửa hoặc thậm chí một cái gì đó xa hơn, như một góc của tòa nhà bên kia đường.

 3 vi tri phong thuy quan trong

Phong thủy phòng ngủ

Phòng ngủ là một nơi mà chúng ta dành một phần ba cuộc sống của mình và nó là một không gian tĩnh để thư giãn. Do đó, điều quan trọng là chúng ta chăm sóc tốt cho các năng lượng trong phòng, cũng như vị trí đặt giường. Nói chung, hình dáng phòng ngủ nên là hình vuông hoặc hình chữ nhật, để cung cấp cho bạn một cảm giác thoải mái so với những căn phòng có hình dạng không đều.

Giường nên được đặt vào một bức tường vững chắc và đường chéo đối diện với cửa phòng. Bên cạnh đó, có thể lên giường được từ cả hai phía.

 3 vi tri phong thuy quan trong
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 vị trí phong thủy quan trọng "đừng nên quên"

Tướng mặt Donald Trump nói lên điều gì?

Tướng mặt Donald Trump nói lên điều gì. Hãy cùng ## tìm hiểu những bí mật thú vị đằng sau khuôn mặt của tân tổng thống Mỹ.
Tướng mặt Donald Trump nói lên điều gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trong một bài viết trước thềm bầu cử tổng thống Mỹ, nhà nhân tướng học nổi tiếng thế giới Jean Haner đã đọc vị tướng mặt của tân Tổng thống Mỹ, Donald Trump.
  

► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
  Chuyên gia nhân tướng học nổi tiếng thế giới - Jean Haner - tác giả của cuốn "The Wisdom of Your Face" (Trí tuệ của khuôn mặt bạn), cho biết: "Khuôn mặt của một người thường sẽ tiết lộ tính cách cơ bản và thái độ sinh hoạt của người đó".   Trong một bài viết trước thềm bầu cử tổng thống Mỹ, nhà nhân tướng học nổi tiếng này đã đọc vị khuôn mặt của Donald Trump, như sau:  

1. Kiểu tóc

  Trên khuôn mặt, kể cả kiểu tóc mà một người chọn cũng nói được bản chất bên trong của họ. Với người đàn ông có kiểu tóc phủ trán như ông Trump, nó có thể cho thấy một dấu hiệu vô thức rằng người này đang cố gắng che giấu một số vấn đề về tình cảm. Kiểu tóc này còn thể hiện là một người có nhiều cú đột kích.

Tuong mat Donald Trump noi len dieu gi hinh anh 2
 
 

2. Lông mày

  Lông mày là nơi phản ánh về sự tự tin, quyết đoán, quyết liệt, càng dày, càng đậm thì những phẩm chất này càng mạnh mẽ hơn. Donald Trump có lông mày khá dày và mọc theo đường thẳng, chỉ ra rằng ông là người coi trọng logic hơn tình cảm khi đưa ra quyết định.
 

3. Nếp nhăn trán

  Hai nếp nhăn giữa lông mày của Trump cho thấy ông thường thất vọng hay giận giữ, là người coi trọng công việc và suy nghĩ nhiều. Nó còn có thêm một ý nghĩa khác: Ông là một "thợ săn" có ham muốn mạnh mẽ giành chiến thắng.
 
Con người này sẽ không "ngủ yên trên chiến thắng" và không cho phép mình hài lòng khi đã đạt được mục tiêu. Thay vào đó, tâm trí thúc giục ông tiến đến những mục tiêu tiếp theo và thống trị nó.
 

4. Mắt

  Trump có đôi mắt hẹp và hay nheo. Đôi mắt kiểu này thể hiện là người hay nghi ngờ, không dễ dàng tiếp nhận ý kiến của người khác. Nó cũng cho thấy ông không dễ nói chuyện về mọi thứ, chắc chắn sẽ dè dặt về đời tư.  

5. Vùng dưới mắt trắng nhạt

 

Vùng dưới mắt của Trump có làn da trắng. Nếu không phải đây là vùng da nhân tạo thì nó có thể có những ý nghĩa là: Họ không rung động với cảm xúc của người khác. Nói cách khác, rất ít người có thể đi vào thế giới nội tâm của họ.    Một thông điệp khác, nó thể hiện cho người ham muốn danh vọng và đã trải qua nhiều năm theo đuổi.  
Tuong mat Donald Trump noi len dieu gi hinh anh 2
 

6. Mũi

 

Mũi của ông Donald Trump không to và cũng không có đường nét rõ ràng, có nghĩa ông không phải là người để ý tiểu tiết và chắc chắn không phải người cầu toàn.
 
Nó còn có một thông điệp khác, người này hay bị kích thích.
 

7. Miệng mím căng

  Miệng Trump luôn mím căng và khi nói thì môi ông đẩy khá xa một cách rõ ràng. Kiểu miệng này cho thấy không có nhiều sự đồng cảm với người khác. Ông cũng hay mím miệng, thể hiện cho việc với ông, săn đuổi mục tiêu không bao giờ là đủ. Ông muốn chiến thắng, nhiều, nhiều hơn nữa.  

8. Cằm

  Trump có cằm nhô ra - yếu tố biểu hiện cho sự thành công trong kinh doanh, một con người quyết tâm và giàu ý chí. Cằm của Trump cũng nói lên ông rất ít bị người khác lay chuyển quan điểm của mình.
 
ST
Xem tướng mặt đoán biết nơi phù hợp để phát triển sự nghiệp Tướng mặt đàn ông tiền không có lại còn phúc phận khốn khó Xem tướng mặt xem tuổi kết hôn thích hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt Donald Trump nói lên điều gì?

Tết Trung Thu kính ngưỡng ngày sinh Nguyệt Quang Bồ Tát

Tết Trung Thu 15/8 âm lịch cũng là ngày sinh của Nguyệt Quang Bồ Tát – Nguyệt Thần theo Phật giáo. Kính ngưỡng Nguyệt Quang Bồ Tát, tu thêm phúc, tâm thanh
Tết Trung Thu kính ngưỡng ngày sinh Nguyệt Quang Bồ Tát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Trung Thu 15/8 âm lịch cũng là ngày sinh của Nguyệt Quang Bồ Tát – Nguyệt Thần theo Phật giáo. Kính ngưỡng Nguyệt Quang Bồ Tát, tỏ lòng thành dưới trăng để tu thêm phúc, tâm thanh tịnh.


► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Tet Trung Thu kinh nguong ngay sinh Nguyet Quang Bo Tat hinh anh
 
Tết Trung Thu vào Rằm tháng 8 hàng năm là dịp lễ hội lớn, thể hiện đậm nét văn hóa truyền thống Á Đông. Đối với Phật giáo, đây không chỉ là ngày trông trăng đoàn viên, ấm tình thân ái mà còn là ngày sinh của Nguyệt Quang Bồ Tát – vị Bồ Tát làm chủ ánh trăng, dịu mát từ bi.   Nguyệt Quang Bồ Tát hay còn gọi là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, nguyệt quang phổ chiếu, cùng với Nhật Quang Bồ Tát là hiếp thị theo bồi của Dược Sư Như Lai. Nguyệt Quang Bồ Tát hiện thân màu trắng, ngự trên tòa, tày cầm Nguyệt Luân, cũng có lúc thấy Nguyệt Quang Bồ Tát đứng phía bên phải Dược Sư Như Lai.   Trong Phật giáo, Nguyệt Quang Bồ Tát là một trong 16 Kim Cương giới Mạn Đồ La, thứ bậc ở sân phía Tây, mặc đồ màu trắng, tay trái để ở giữa, tay phải cầm Nguyệt Quang hoặc Liên Hoa, tam muội hình bán nguyệt, ngồi xếp bằng trên đài sen.    Nguyệt Quang Bồ Tát cùng Nhật Quang Bồ Tát và  Quan Thế Âm Bồ Tát có quan hệ mật thiết, tụng “Đại Bi Chú” thì cũng sẽ tăng thêm thần nhân của Nguyệt Quang Bồ Tát vô lượng, có hiệu nghiệm. Người tu hành tụng “Đại Bi Chú” có thể tụng thêm Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni, thì Nguyệt Quang Bồ Tát sẽ đến che chở, loại trừ tất cả chướng khó ốm đau, đạt thành tựu tất cả thiện pháp, rời xa các loại bố úy.
Tet Trung Thu kinh nguong ngay sinh Nguyet Quang Bo Tat hinh anh
 
Tết Trung Thu, ngoài trông trăng phá cỗ rước đèn, sum vầy cùng người thân, hãy dành thời gian để tâm hồn lắng lại dưới ánh trăng, hướng về Nguyệt Quang Bồ Tát mà thành kính tụng niệm. Đây cũng là vị Nguyệt Thần mà người phương Đông thường tổ chức lễ bái vào ngày Rằm.   Bái Nguyệt Thần để mưa thuận gió hòa, mừng lúa mới, mừng mùa bội thu, hướng tứi giá trị văn hóa truyền thống tâm linh tốt đẹp của cư dân nông nghiệp, cư dân châu Á. Dẫu đã xa rồi thưở làm nông nhưng phong tục tập quán ăn sâu trong tiềm thức vẫn còn vẹn nguyên như ngày nào. Nguyệt Thần trong Tết Trung Thu theo quan niệm Phật giáo Đèn Trung Thu, giá trị truyền thống dần bị mai một Tết Trung Thu hướng Phật niệm Bồ Tát, tỏ lòng dưới trăng
Tâm Lan

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Trung Thu kính ngưỡng ngày sinh Nguyệt Quang Bồ Tát

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd