Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Ngoại cảnh tiết lộ nhà ở lành hay dữ –

Ngoại cảnh ngôi nhà là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tài vận, sự nghiệp của gia chủ. Do vậy, cần phải cân nhắc kỹ yếu tố này khi chọn mua nhà.   - Bốn phía nhà nhô cao là tốt. Phúc lộc dồi dào, làm ăn phát đạt, con cái tài giỏi. - Phí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoại cảnh ngôi nhà là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tài vận, sự nghiệp của gia chủ. Do vậy, cần phải cân nhắc kỹ yếu tố này khi chọn mua nhà.

ngoai-canh-nha

 

– Bốn phía nhà nhô cao là tốt. Phúc lộc dồi dào, làm ăn phát đạt, con cái tài giỏi.

– Phía trước nhà có gò cao, phía sau có núi đồi, phía Đông có dòng nước, phía Tây có đường là đại cát. Con cháu đời đời làm quan, hưởng lộc may mắn.

– Phía Đông cao, Tây thấp, phía Bắc có núi nhiều là đại cát. Tiền của như núi, trên dưới vui vẻ, thuận hòa.

– Tây ngắn, Đông dài, chủ nhà may mắn, của cải dồi dào, con cháu thịnh vượng.

– Phía Nam có gò đất, phía Bắc có đồi, phía Tây có dòng nước chảy về phía Nam, địa thế thấp dần về phía Đông, kéo dài hơn 1 dặm là tốt.

– Hai bên Đông, Tây có dòng sông chảy qua là tốt. Gia chủ luôn gặp may, hậu thế đời đời hưởng phúc.

– Phía Tây Nam có hồ nước, Đông Bắc có đồi núi là tốt. Gia chủ giàu sang, con cháu hưởng lộc trời.

– Hướng Tây Nam có gò đất cao, là cát. Càng ở lâu, con cháu càng vinh hiển, đời đời thịnh vượng.

– Hướng chính Bắc cò gò mộ là cát. Ở chốn này, người quân tử làm quan hưởng lộc, bình dân thì gia đạo êm ấm.

– Phía Tây Bắc có gò đồi, tốt. Gia đình ngày càng thịnh vượng. Con cháu thành đạt làm rạng rỡ tổ tông.

– Phía Nam và phía Bắc có núi cao, phía Đông và phía Tây có bãi cát, ao hồ, chủ nhà phú quý, trường thọ.

– Phía Đông Bắc có gò đồi là cát. Của cải dồi dào, con cháu hưng thịnh.

– Phía Bắc nhà ở có gò đồi, phía Nam gần ao hồ, địa thế cao dần về phía Tây Bắc là tốt. Con cháu vinh danh rạng rỡ tổ tông.

– Phía Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc có đồi cao, phía Tây Nam có núi đồi, phía Nam thoai thoải là tốt. Dựng nhà nơi đây, lắm của nhiều con. Con cháu tài ba, vinh hiển.

– Phía Tây Bắc có núi dài hơn vạn dặm, hướng Đông Nam lại có núi cao trùng trùng điệp điệp, địa thế Tây Nam, Đông Bắc bằng phẳng thì giàu sang.

– Phía Bắc có núi, phía Đông có dòng nước trong xanh, hướng Tây có đường đi là tốt. Con cháu làm vinh hiển.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngoại cảnh tiết lộ nhà ở lành hay dữ –

Cách làm bánh trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao

Cách làm bánh trung thu của Bạch Dương nhất định sẽ khác với Song Ngư vì một người thì nóng vội còn người kia rất thích mơ mộng, được thế hiện sáng tạo của họ.
Cách làm bánh trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách làm bánh trung thu của Bạch Dương nhất định sẽ khác với Song Ngư vì một người thì nóng vội còn người kia rất thích thực hiện điều gì thỏa mãn sự mơ mộng và khả năng sáng tạo của họ.   Không phải ai cũng có thể làm bánh, đặc biệt là bánh Trung thu tuy nhiên, giờ đây có rất nhiều cách sáng tạo trong việc làm bánh để tạo cảm hứng cho từng tính cách, sở thích của từng người. Đây là lý do mà cách làm bánh Trung thu của từng cung hoàng đạo hoàn toàn không giống nhau. 
 
Vậy sao chúng ta không thử dựa trên các đặc điểm nổi bật của từng cung hoàng đạo để xem họ sẽ làm bánh Trung thu như thế nào nhỉ?  

Bạch Dương 

  Với tính cách thoải mái, dễ chịu cũng như vô tư nhất trong các cung hoàng đạo Bạch Dương ưu tiên sự đơn giản trong mọi việc. Vì thế, cách làm bánh Trung thu của họ cũng không phải ngoại lệ. Họ sẽ chọn làm những kiểu bánh đơn giản hoặc nhân bánh sẽ làm theo phương pháp truyền thống.

Thêm nữa, vì thích sự mới lạ nên có thể hình thù bánh có khác thường một chút bạn cũng đừng vội chê bánh của Bạch Dương nhé. Họ cũng không đủ kiên trì để làm việc gì từ đầu đến cuối nên bánh có hơi sượng vì chưa chín kỹ, hình dáng bánh chưa hoàn hảo thì cũng đừng ngạc nhiên. 

Ngoài ra, khi mà cảm thấy các bước làm có vẻ phức tạp, họ sẽ chọn làm chiếc bánh nhỏ xinh gọi là góp vui cùng mọi người chứ không đủ "dũng cảm" để làm bánh to.

Xem thêm: 12 chòm sao lựa chọn tình yêu hay ước mơ, ai lý trí ai cảm tính?
 
Cach lam banh trung thu khong ai giong ai cua 12 chom sao
 

Kim Ngưu 

  Ít ai khéo léo và giỏi việc nội trợ như Kim Ngưu vì thế, mỗi dịp được làm bánh Trung thu cũng là cơ hội để họ trổ tài nấu nướng trước mặt bạn bè, người thân. Kim Ngưu là một trong những chòm sao vô cùng khó tính và khắt khe, đặc biệt họ là những con sâu mê ăn ngon như nên chắc chắn sẽ cẩn thận nếm thử từng vị, từng vị một rồi mới bắt tay vào làm.

Hơn nữa, họ cũng là cung hoàng đạo nổi tiếng vì yêu thích các giá trị truyền thống, với tính cách khá cứng nhắc, cầu toàn cao nên không khó hiểu nếu sự lựa chọn của Kim Ngưu là làm những chiếc bánh Trung thu có hương vị truyền thống. 
 

Song Tử 

  Song Tử là chòm sao rất hào hoa, đa tài vì thế nấu nướng, làm bánh không thể làm khó những người thuộc cung hoàng đạo này. Ngoài ra, họ cũng là người khá khắt khe, tỉ mỉ trong từng bước làm bánh, vì thế, nếu được thưởng thức món bánh Trung thu do họ làm ra bạn sẽ không ngừng trầm trồ vị vị của bánh rất ngon.

Không những thế, với khả năng sáng tạo của mình thì bánh truyền thống sẽ được xem là nhàm chán, những chiếc bánh họ làm thường khá bắt mắt, màu sắc thu hút. Đó có thể là bánh có màu xanh, màu tím như bánh Trung thu vị trà xanh, khoai môn,... hoặc trên bánh có gắn những hình bông hoa đẹp mắt.

Xem thêm: Những mâm cỗ Trung Thu đẹp lòng người lớn, vui lòng con trẻ
 
Cach lam banh trung thu cua Song Tu
 

Cự Giải 

  Cự Giải là một cung hoàng đạo luôn hướng về gia đình, về những điều bình yên và ổn định. Vì thế, cách làm bánh Trung thu đối với họ không quan trọng bằng việc có những ai cùng làm với mình. Họ xem đây là hoạt động gắn kết mọi người lại gần nhau nên luôn muốn cả nhà cùng bắt tay vào làm bánh. Người nhào bột, người làm nhân, người tạo khuôn cho bánh, người nhận nhiệm vụ cho bánh vào lò... thì bánh sẽ là thành quả của tất cả các thành viên trong nhà.

Không khí tươi vui, rộn ràng khi mỗi người một việc sẽ mang lại niềm vui khôn tả cho Cự Giải. Những chiếc bánh chỉ thể hiện giá trị tinh thần đối với họ nên dù bánh không ngon, màu sắc không chuẩn, mùi vị không hợp họ vẫn vui vẻ ngồi ăn cùng mọi người.  
 

Sư tử 

  Sư tử luôn thích được là trung tâm của mọi sự chú ý bởi tính cách mạnh mẽ cùng những điểm thu hút khác biệt. Vì thế, chỉ mình họ mới biết họ muốn làm bánh hình dáng như thế nào, loại nhân gì, và điều quan trọng là đừng ai động đến các bước trong công đoạn làm bánh của họ vì họ sợ bị hỏng.

Tuy nhiên điểm yếu của họ chính là khả năng nấu nướng không được tốt nên dù rất muốn bánh Trung thu của mình đẹp nhất có thể nhưng vì tính cách không muốn nhờ dựa ai khiến thành quả của họ thường không được như ý. Hơn nữa, trong thâm tâm Sư Tử luôn nghĩ, sao phải làm bánh trong khi bạn có thể mua từ những thương hiệu nổi tiếng, vừa sang lại vừa đỡ mất thời gian. 
 
Cach lam banh Trung thu cua Cu Giai
 

Xử Nữ 

  Sự tỉ mỉ, cẩn thận của Xử Nữ không có ai đọ nổi, vì thế cách làm bánh Trung thu của họ cũng khá cầu kỳ, họ sẽ không chọn làm những món bánh truyền thống mà sẽ chọn những hình dáng bánh lạ mắt, hình thù đáng yêu và nhân bánh cũng thật đặc biệt.

Cung hoàng đạo hảo ngọt này rất thích làm bánh có nhân socola lạ miệng. Vì thế, nếu bạn là người mê đồ ngọt và được thưởng thức bánh do chính tay họ làm bạn hoàn toàn an tâm về vấn đề vệ sinh thực phẩm và đặc biệt là vị vừa ngon vừa lạ sẽ khiến bạn vô cùng thích thú.

Tham khảo: Trung Thu 2017: Chòm sao nào say trong hạnh phúc, chòm sao nào ôm nỗi cô đơn?
 

Thiên Bình

  Thiên Bình cũng biết nấu nướng, tuy không giỏi như nhiều cung hoàng đạo khá nhưng cũng đủ bạn cảm thấy hài lòng. Họ thích những gì mới lạ và đẹp mắt nên sẽ không ngại lên mạng tìm những kiểu bánh mới nhất trong năm mà mọi người đang làm và sau đó bắt tay vào thực hiện từng công đoạn một cách say sưa.

Sự khéo léo và khả năng cảm thụ cái đẹp của Thiên Bình lần này được thể hiện qua những chiếc bánh. Vì thế, khi được ngắm nghía chúng bạn sẽ không ngừng trầm trồ vì bánh Trung thu quá đẹp. Lý do cơ bản là những bánh nào xấu họ đã tự ăn hoặc cất kín vào một xó nào đó rồi.
 
Cach lam banh Trung thu cua Thien Binh
 

Hổ Cáp

  Tính cách bí ẩn, mạnh mẽ khó hiểu của Hổ Cáp khiến bạn có thể cho rằng những người này không bao giờ thích làm bánh. Tuy nhiên, thực tế sẽ khiến bạn bất ngờ khi họ trổ tài làm bánh Trung thu trước mặt bạn. Họ không cầu kì trong việc nên làm bánh gì vì đối với họ không quá quan trọng, họ cho rằng dù sao những món ăn truyền thống nên được giữ nguyên vẻ truyền thống của nó.

Vẻ ngoài của họ khiến bạn tưởng rằng họ hướng ngoại nhưng thực ra họ lại rất hướng nội, họ thích được làm bánh cho các thành viên trong gia đình thưởng thức hơn là đi mua ở ngoài tiệm. Được ăn bánh mình làm và thưởng trà cùng với bạn bè, người thân chắc chắn là điều mà Hổ Cáp rất thích mỗi dịp Trung thu về.
 

Nhân Mã 

  Với tính cách phóng khoáng, vô lo, vô nghĩ nên cung hoàng đạo Nhân Mã không quá quan trọng mình sẽ ăn gì, làm gì. Việc làm bánh chắc chắn là việc tùy hứng hoặc có thể được bạn bè rủ rê, ham vui nên họ cũng bắt tay vào làm. Vì không quá tập trung, để tâm vào việc của mình nên bánh của họ không ngon cũng là dễ hiểu.

Tuy nhiên một chút tính tò mò, ưa mạo hiểm khiến họ thích thử nghiệm làm những chiếc bánh Trung thu có phong cách mới lạ, có khi đó là món bánh bạn chưa được thưởng thức bao giờ. Dù sao điều này cũng đã đủ bạn hào hứng chờ đón bánh do chính tay Nhân Mã làm. Hi vọng nhiều sẽ dễ dẫn đết thất vọng nhiều nên bánh của họ nhiều khi bạn chỉ nên để ngắm hơn là ăn.

Xem thêm: Tuổi Mão cung Nhân Mã: Độc lập và đa tài

Cach lam banh Trung thu cua Nhan Ma
 
 

 Ma Kết 

  Cung hoàng đạo Ma Kết luôn đề cao vấn đề sức khỏe của bản thân cũng như các thành viên trong nhà, vì thế cách làm bánh của họ rất cầu kỳ, luôn đảm bảo sự sạch sẽ, hợp vệ sinh. Nếu bạn đang rảnh tay, hãy cố gắng giúp họ thực hiện vì những người thuộc cung hoàng đạo này rất thích được ai đó hỗ trợ những gì mà mình chưa thực sự xuất sắc.   Hơn nữa, họ không thích các loại bánh Trung thu truyền thống vì có quá nhiều chất béo. Họ cũng tin rằng hoa quả luôn tốt cho sức khỏe nên bánh Trung thu của Ma Kết nhất định sẽ có rất nhiều loại hoa quả, hạt khô như: hạnh nhân, sen khô, hạt điều,...   

Bảo Bình 

  Tưởng rằng con người luôn phá vỡ sự an toàn với suy nghĩ khác biệt như Bảo Bình sẽ thích làm những chiếc bánh Trung thu đầy màu sắc tươi mới, có vị đặc biệt nhưng thực tế về vấn đề ăn uống họ khá kỹ tính, không thích sự thay đổi.

Vì thế, bánh họ làm hoàn toàn theo phong cách truyền thống, nếu có thì thay đổi một chút với nhân đậu xanh nhưng vỏ bánh vẫn mang vẻ ngoài cổ điển.  
 
Cach lam banh Trung thu cua Bao Binh
 

Song Ngư 

  Với tính cách ngọt ngào, lãng mạn nên đối với Song Ngư đây là thời gian để tận hưởng hạnh phúc bên người thân và bạn bè. Bằng khả năng sáng tạo và sự khéo léo từ trong bản năng họ sẽ làm nên những chiếc bánh đẹp mắt với những màu sắc mơ mộng như hồng, tím.

Có thể nói, những chiếc bánh được chính Song Ngư làm sẽ đảm bảo hài hòa cả sắc cả hương, vị ngon thì miễn chê vì dường như ai cũng cảm nhận sự nhiệt huyết và tình cảm của họ trong từng chiếc bánh.
MiMo

Top 4 con giáp may mắn nhất trong dịp Tết Trung Thu 2017 Tết Trung Thu tụng chú Nguyệt Quang Bồ Tát tán tai, cầu an Ý nghĩa Tết Trung thu truyền thống của Việt Nam

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách làm bánh trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao

Mơ thấy thang leo: Chiếc cầu thăng chức –

Cái thang có thể tượng trưng cho chiếc cầu đưa đến chức vị cao, hoặc hướng đến một nơi đặc biệt nào đó trong cuộc đờỉ. Khi nằm mơ, nếu bạn có cảm giác bị rơi, nguyên nhân có thể là do chính cái thang gây ra. Dù leo thang là hành động nguy hiểm, nhưn
Mơ thấy thang leo: Chiếc cầu thăng chức –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy thang leo: Chiếc cầu thăng chức –

Top 3 giáp nữ dễ tìm thấy tình yêu đích thực

Đứng đầu là tuổi Mão nhưng phải sinh vào buổi trưa này, hay tuổi Thân sinh vào nửa đêm...
Top 3 giáp nữ dễ tìm thấy tình yêu đích thực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hạng 1. Mão

Giờ sinh tốt nhất: Buổi trưa

Nếu các bạn nữ sinh vào năm Mão, lại đúng khoảng thời gian từ 11 h trưa đến 1 h chiều sẽ dễ dàng tìm được tình yêu đích thực. Bởi nhân duyên của bạn rất tốt, hơn nữa với tính cách nhẹ nhàng, dịu dàng của mình bạn cũng rất dễ nhận được tình yêu của những người bạn khác giới. Điều này có thể là lý do khiến một nửa của bạn trở nên hay ghen đấy! 

mao-7556-1403225460-9093-1403861578.jpg

Hạng 2. Thân

Giờ sinh tốt nhất: Nửa đêm

Thời gian nửa đêm ở đây là khoảng từ 11 h tối đến 1 h sáng. Nếu các bạn nữ sinh vào năm Thân và sinh đúng vào thời gian thích hợp nhất thì cũng dễ có được tình yêu đích thực. Con gái tuổi Thân thường có khí chất cao quý, nho nhã, hơn nữa cũng rất hiểu đại cục. Ở bên ngoài họ luôn cư xử nhẹ nhàng, thân thiết và biết giữ thể diện cho người yêu. Trong cuộc sống thường ngày, bạn sẽ không bao giờ ép đối phương phải đưa tiền lương cho mình mà trái lại sẽ khiến cho đối phương cam tâm tình nguyện giao quyền quyết định về tài chính cho bạn nắm giữ. 

tu-vi-2013-tuoi-than-nam-2902-1403861578

Hạng 3. Mùi

Giờ sinh tốt nhất: Giờ Hợi (9 h - 11 h tối)

Nhân duyên của bạn khá tốt, hơn nữa bạn rất tốt trong chiến thuật tấn công người mình thích, đó là có thể chăm sóc tốt cho gia đình của đối phương. Vì thế, những người con trai vô cùng tin tưởng bạn, rất yên tâm giao mọi việc trong nhà cho bạn. Bạn có thể linh hoạt giải quyết tốt mọi việc trong gia đình khiến đối phương càng thêm cảm động. Hơn nữa, bạn cũng rất biết cách giao tiếp ngoài xã hội nên dễ dàng có được sự tin tưởng và công nhận của gia đình người yêu. Một người vợ tốt như vậy, có người con trai nào không muốn yêu cơ chứ?

resize-3-670x5000-jupi-de-8-3875-1403861

Nhật Băng

ngo-1401161040-1401161054-3-5316-1403861

Top 3 con giáp 'điên đảo' vì tình

Vị trí đầu bảng không ai khác chính là người tuổi Mùi. Dẫn sát nút là người tuổi Sửu...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 giáp nữ dễ tìm thấy tình yêu đích thực

Phán mệnh giàu nghèo qua ngón chân

Hình dáng ngón chân là một trong những dấu hiệu giúp bạn phán đoán mình sẽ có vận giàu nghèo ra sao nhé!
Phán mệnh giàu nghèo qua ngón chân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ngón thứ hai dài hơn ngón cái

Đặc điểm này khá phổ biến. Nghĩa là đại đa số đều có ngón chân thứ hai dài hơn ngón cái. Điều này có nghĩa số mệnh giàu sang sẽ ít khi hỏi thăm bạn, nếu có thì sẽ đến rất muộn. Tuy nhiên, cuộc sống tiền tài của bạn ở mức hạng trung, không rơi vào tình cảnh khốn khó. Sở dĩ bạn có tố chất đứng lên lãnh đạo, nhưng tùy thuộc vào vận mệnh có hợp thời hay không để thăng tiến. Bạn còn mạnh mẽ, quyết đoán nên dễ dàng nắm bắt cơ hội kiếm tiền.

7-buoc-cham-soc-chan-5539-1442416576.jpg

2. Ngón chân thứ hai và thứ ba cách xa nhau

Nếu sở hữu hai bàn chân với đặc điểm này, điều đó có nghĩa bạn tinh tế, tỉ mỉ, khó nắm bắt và kiểm soát cảm xúc cực kỳ xuất sắc. Hơn nữa, bạn vô cùng nhanh nhạy trong việc hiểu suy nghĩ của đối phương nên thường có chiến lược giao tiếp, ứng xử sao cho mang lại thuận lợi. Vậy nên, ngay khi có nền tảng kinh tế để kinh doanh, bạn sẽ bắt nhịp và sớm gặt hái được thành quả to lớn. Sau này, bạn còn biết cách quản lý nguồn tiền và căn cơ chuẩn xác. Vận giàu sang sẽ đến với bạn.

3. Ngón chân thứ hai đổ dồn vào ngón cái

Số bạn có thể dư giả về kinh tế, nhưng lại thua thiệt về tình cảm. Bạn thuộc nhóm những người ủy mị, yếu đuối và sống thiên về hoài niệm cũ. Thậm chí, nhiều người tỏ ra khó chịu vì bạn liên tục nhắc về chuyện đã qua. Mặt khác, nếu không vướng bận vào tình yêu, bạn làm việc rất có trách nhiệm, chín chắn, nên dễ được đề bạt vị trí quan trọng trong sự nghiêp. 

4. Ngón chân út siêu nhỏ

Bạn sẽ không giàu sang về tiền bạc, mà là đại gia tình cảm. Nhờ vào vẻ trong sáng, thánh thiện và luôn thể hiện nét hồn nhiên, bạn gây thương nhớ cho rất nhiều người. Bạn được tin yêu và luôn đem lại cảm giác bình yên, thư thái cho người đối diện. Vậy nên, bạn sẽ được nhận được nhiều sự hậu thuẫn trong cuộc sống. Cho dù tiền bạc còn ít, nhưng bạn vẫn rủng rỉnh tình cảm để thấy mình hạnh phúc nhất thế gian.

Mr.Bull (theo ZB)

710201320531028601411461396-14-8692-6806 Đoán vận mệnh tương lai qua hình dáng tai

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phán mệnh giàu nghèo qua ngón chân

Xem bói tử vi tuổi Mão

Xem bói tử vi tuổi Mão qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Mão, bói tử vi theo tháng sinh & giờ sinh, hợp khắc 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Mão qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Mão, sự xung khắc của tuổi Mão với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của Kỷ Mão, Đinh Mão, Ất Mão, Quý Mão và Tân Mão theo tháng sinh và giờ sinh.

Mèo là con vật đứng thứ tư trong mười hai con giáp. Mèo tượng trưng cho lòng tốt, sự nhạy cảm và dịu dàng. Những người tuổi Mão cũng rất hiếu khách và thích giúp đỡ người khác – đây là đặc tính tự nhiên, vì họ không thích những tình huống khó lường trước.

xem bói tử vi tuổi Mão


1. Tính cách người tuổi Mão

Năm Mão tượng trưng cho lòng tốt, sự nhạy cảm và dịu dàng. Những người tuổi Mão cũng rất hiếu khách và thích giúp đỡ người khác – đây là đặc tính tự nhiên, vì họ không thích những tình huống khó lường trước. Tuy nhiên, lòng tốt và sự nhiệt tình giúp đỡ của họ thường dễ bị người khác lợi dụng. Thái độ hòa hoãn và dễ chịu của những người tuổi Mão là một sự thay đổi so với ba cung tuổi đầu tiên. Nhưng thái độ đó, lại một lần nữa, khiến họ dễ bị xúc phạm và lợi dụng.

Trong 12 con giáp, đây là cung mệnh có tính cách dịu dàng nhất. Những ai thuộc cung Mão đều là những người tinh tế, biết cảm thông, được biết đến như là những người vì hòa bình. Họ ghét bạo lực và luôn hướng tới sự thanh bình. Đây là những người khá khôn ngoan, có tài nhận thức về thế giới một cách bẩm sinh, ẩn chứa sự sâu sắc, sáng suốt bên dưới vẻ ngoài vô tình, lãnh đạm. Với óc sáng tạo phong phú và tầm hiểu biết cao, người tuổi Mão có thị hiếu vô cùng tinh tế. Họ là những người có phong cách với óc thẩm mỹ và khiếu nghệ thuật cao.

Người tuổi Mão rất biết hưởng thụ, thích thưởng thức cái đẹp và yêu thích sự giàu sang. Họ dốc sức để đẩy mạnh hòa bình cho nhân loại và giữ hòa khí giữa mọi người, tránh để xảy ra mâu thuẫn và những điều không hay. Kín đáo, dễ chịu và là người bạn tốt. Mặt khác, họ khá hợm hĩnh, hay ngồi lê đôi mách và khó có thể tự vực mình dậy khi gặp phải hoàn cảnh éo le bất trắc. Dù cởi mở dễ gần, nhưng họ thích cuộc sống yên tĩnh và tương đối bảo thủ. Sự quan tâm an ủi rất cần thiết với họ và họ thường hay than vãn mỗi khi gặp phiền toái. Đôi lúc, người tuổi Mão trở thành kẻ nhu nhược và cơ hội vì họ là người an phận. Trong cuộc sống họ không có lý tưởng cao lắm, chỉ cần lúc nào mình cũng an toàn là được.

Họ ăn nói lưu loát có tài và rất tự trọng. Khiêm nhường, biết giữ gìn ý tứ, có đức hạnh, có một thị hiếu hoàn hảo. Tuổi Mèo thích giao thiệp, người ngoài rất quý mến họ. Họ cũng thích bịa chuyện, nhưng bịa đặt rất tinh khôn, tài tình. Những điều bỉ ổi họ luôn tránh đề cập trong câu chuyện. Người tuổi Mèo rất gắn bó với những ai họ cảm mến, không mặn mà với họ hàng, bè bạn. Họ không dễ gì mất bình tĩnh, rất đằm tính, tránh cáu giận. Họ đặc biệt thành đạt trong kinh doanh.

Về khí chất, người tuổi Mèo thuộc loại ưu tư, dễ mủi lòng, thậm chí rất mau nước mắt. Người tuổi Mèo là những con mọt sách nhưng lại chẳng thông thái bao nhiêu. Số họ rất đỏ trong những trò cờ bạc, đỏ đen, bởi lẽ họ có một mẫn cảm tuyệt vời khi chọn bài, đặt cửa. Họ khá bảo thủ và không bao giờ làm gì nếu chưa cân nhắc kỹ lợi hại, hơn thiệt. Nhiều dân tộc Châu Á rất dè dặt khi cư xử với người tuổi Mèo, bởi họ tin rằng đám phù thủy thường vẫn mượn lốt những giống vật vô hại như loại này để trà trộn với người trần gian.

Người tuổi Mão có một ý chí mạnh mẽ và lòng yêu thương mãnh liệt dành cho gia đình. Đó cũng là động lực thúc đẩy dành cho họ. Họ khá phụ thuộc, đặc biệt cảm thấy vui vẻ khi được chuyện trò cùng bè bạn thân quen. Thật vậy, họ là những người thích “tám chuyện” nhất đấy!

Trong cuộc sống gia đình, Mèo là trung tâm. Đó là do họ luôn để dành toàn bộ tiền bạc và công sức để tạo nên một không gian sống đáng yêu nhất. Khiếu thẩm mỹ sẵn có sẽ giúp họ trang hoàng tổ ấm của mình vừa nhí nhảnh vừa tinh tế. Với lòng đam mê nghệ thuật, họ luôn dành thời gian cho những gì liên quan đến lĩnh vực này. Hãy nhìn đồ vật xung quanh họ xem, cả một kho báu đấy chứ. Xanh lá là màu dành cho người tuổi Mão.

Người tuổi Mão thích làm đẹp, ưa chưng diện hơn nhiều so với người bình thường. Anh ta không tiếc tâm sức, tiền bạc để sắm thêm những bộ trang phục hào nhoáng, đẹp đẽ cho mình. Cho dù không dư giả gì về kinh tế, anh ta cũng sẽ gắng hết sức làm cho mình cũng lộng lẫy, lịch sự như ai. Do quá chăm chút tới vẻ ngòai, nên rốt cuộc anh ta chỉ biết tiêu tiền vào việc làm đẹp cho bản thân, không có thời gian quan tâm tới việc làm phong phú tâm hồn, khiến anh ta giống như cái lọ hoa chỉ để ngắm chứ ít để dùng.

Người tuổi Mão là người gặp may mắn nhất trong mười hai con giáp. Đúng như trong thần thọai Trung Quốc, mèo tượng trưng cho sự trường thọ, tinh ranh và khôn ngoan. Mèo đại diện cho sự nhân từ, tao nhã, dịu dàng, đáng yêu. Cách sống nhân ái, dịu dàng, có phần thận trọng, bộc lộ những phẩm chất, tư chất của một nhà ngoại giao tài ba và một chính trị gia lão luyện dạn dày.

Người tuổi Mão thích sống trong môi trường yên tĩnh, hòa thuận, thoải mái. Anh ta là người kín đáo, yêu nghệ thuật và giàu óc phán đoán. Anh ta rất thích hợp với những công việc liên quan đến chính trị và hành chính. Song đôi lúc anh ta lại tỏ ra vui giận thất thường. Anh ta sẽ trở nên xa cách với môi trường hoàn cảnh của mình hoặc lạnh nhạt, thờ ơ với mọi người những khi như vậy.

Người tuổi Mão rất may mắn, có duyên trong lĩnh vực kinh doanh buôn bán và tiền bạc. Vì anh ta nhạy bén, tinh tường khi giao kèo kí kết hợp đồng. Anh ta thường đưa ra những ý kiến và phương án lựa chọn thích hợp nhằm đem lại lợi ích cho bản thân. Hết sức nhạy bén trong sản xuất làm ăn, thêm vào đó, còn có óc phán đoán tinh nhạy nên anh ta nhanh chóng thăng tiến dù ở bất kì lĩnh vực nào.

Tuy người tuổi Mão có vẻ thờ ơ, trơ như gỗ đá trước ý kiến của người khác, song thực ra anh ta lại suy sụp hoàn toàn khi bị phê bình. Chiến thuật “trơ như gỗ đá” của anh ta tuy chỉ để che lấp, lừa gạt tình cảm thật của mình, song sẽ trở nên giảo hoạt vô cùng khi đã dồn cả tâm trí cố làm ra vẻ như vậy. Anh ta rất dịu dàng thân thiết với những người anh ta yêu mến, nhưng lại qua loa, gượng gạo, thậm chí lạnh lùng vô tình với những người anh ta không yêu mến. Anh ta vừa dịu dàng tao nhã, lại vừa buông thả bừa bãi. Anh ta là người biết hưởng thụ hết mình và đặt mong muốn, hi vọng dồn hết vào một điểm. Anh ta vô cùng khó chịu trước những vấn đề chưa được chuẩn bị đầy đủ bởi là người thận trọng, chín chắn nên anh ta muốn người khác cũng như vậy. Anh ta khăng khăng cho rằng xây dựng mối quan hệ hữu hảo giữa người với người là việc hết sức đơn giản và thường cố gắng tỏ ra văn minh lịch sự, ngay cả với kẻ thù của mình. Anh ta phản đối bất cứ hình thức đối địch ngang nhiên nào.

Với bề ngoài rất nhũn nhặn, trầm tĩnh, nên mọi người dễ đánh giá, cảm nhận sai về con người anh ta, trong khi thực tế anh ta là con người có lòng tự tin mạnh mẽ. Anh ta đặt ra mục tiêu theo đuổi cho mình một cách rõ ràng, song thường tỏ ra trang trọng trong hành vi cử chỉ. Người tuổi Mão không thích gây sự. Song anh ta không chịu để người khác chỉ trích vì sự ngốc nghếch hay một lý do nào đó. Rất khó nắm bắt được bản chất đặc thù người tuổi Mão nên rất khó đối phó với anh ta. Dưới mắt mọi người, người tuổi Mão dường như luôn biết cách hoàn thành tốt công việc. Anh ta có khi giải thích, làm sáng tỏ vấn đề bằng những lời châm chọc, đả kích. Anh ta có thể che đậy tình cảm thật bên trong và làm phương hại đối thủ bằng vẻ ngoài tử tế, hẳn hoi. Anh ta có thể làm cho người khác hoàn toàn tin tưởng vào những gì anh ta thể hiện. Khi có việc cần giúp đỡ anh ta có thể mời bạn đi ăn ở nhà hàng sang trọng bậc nhất. Anh ta sẽ rút hợp đồng ra cho bạn kí khi đang cơm no rượu say, khi bạn nhận rõ mọi chuyện thì đã quá muộn. Người tuổi Mão rất thành thạo, điêu luyện trong công việc, thậm chí người khác còn chưa định thần, anh ta đã hoàn thành xong mọi việc, bạn chỉ là người bị động, thiệt thòi. Giờ bạn đã rõ tại sao ta thường bắt gặp hình ảnh một chú mèo nhỏ điên cuồng giành lấy thức ăn từ miệng hổ trên tranh châm biếm.

Người tuổi Mão nhiều khi tỏ ra bình thản, hoặc quá thận trọng, do anh ta vốn bản tính cẩn thận, cặn kẽ. Khi đặt bút kí bất kì văn kiện nào, anh ta thường đọc rất nhìều tư liệu liên quan đến vấn đề đó. Anh ta có khả năng đánh giá người khác và tình hình một cách chuẩn xác, nhạy bén và thường lấy làm tự hào về điều này.

Cô gái sinh năm Mão đoan trang thường suy nghĩ vấn đề rất chu toàn, hiểu và rộng lượng với bạn bè. Cô ta có khả năng sống hòa hợp với mọi người, là một người bạn mua sắm tuyệt vời, một người bạn chuyện trò, tán gẫu thú vị. Cô ta hết sức nồng nhiệt, thông minh, bạn bè ở bên cô ta luôn cảm thấy thoải mái, vui vẻ. Cô ta có khả năng hoàn thành tốt công việc mình yêu thích, có thể tính toán chu đáo từng chi tiết cho một cuộc hôn lễ của bạn bè. Khi cảm thấy chán ghét những nghi thức vụn vặt, tỉ mỉ đó, cô ta sẽ bỏ mặc mọi việc, lặng lẽ tách mình ra khỏi cuộc chơi. Bạn đã biết vì sao cô ta duy trì được sự bình tĩnh trước những nhốn nháo, ồn ào không? Khi pin của bạn cần nạp điện, bạn sẽ hiểu rõ bí quyết này. Không ai có thể nhận rõ rằng cô ta cần phải nạp điện cho pin lúc nào. Khi mọi người thục mạng lao về phía trước, cô ta biết tương lai vẫn nằm trong tầm tay, nên chẳng cần phải vội vàng, cứ bình tâm ngồi nghỉ. Cô ta sẽ pha cho bạn một cốc trà thơm, giúp bạn quên đi mọi bon chen điên cuồng bên ngoài.

Phụ nữ tuổi Mão hiền dịu, đảm đang, luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác mà không cân nhắc, suy nghĩ đến lợi ích của bản thân. Phụ nữ tuổi Mèo khá đặc biệt, họ có thể hy sinh mọi thứ cho gia đình. Đặc biệt, sau khi kết hôn, họ sẽ tận tâm tận lực, chăm sóc chồng con, họ cực kỳ thích thú với việc chăm lo, trang hoàng cho tổ ấm của mình.

Người sinh năm Mão rất biết thông cảm với nỗi khổ cuả người khác. Anh ta không để người khác cảm thấy hụt hẫng hay soi mói, dò xét hành vi của họ. Anh ta biết lúc nào cần nhẫn nhịn, anh ta không thích tỏ ra thắm thiết với người khác ở nơi công cộng. Anh ta biết giữ thể diện của mình và người khác một cách khéo léo. Nếu có cách giải quyết khiến bạn thoải mái, anh ta nhất định sẽ thực hiện.

Không nghi ngờ gì nữa, anh ta luôn để ý tới những sai lầm và sự tiến bộ của bạn, anh ta sẽ tha thứ nếu bạn không mắc sai lầm quá nghiêm trọng không thể cứu vãn nổi. Nhờ phẩm chất này, anh ta được mọi người yêu mến, đối xử thân thiện. Cách cư xử thông minh hiểu tâm lý này giúp anh ta tránh gây thù địch với nhiều người, và rất ít khi gặp phiền toái. Vì mọi người cũng sẽ đối xử với anh ra khẳng khái như vậy.

Trừ những người tuổi Mùi, những người cầm tinh con khác không ai giàu lòng thông cảm như người tuổi Mão. Anh ta rất biết cách an ủi người khác và có thể sẵn sàng lắng nghe tâm sự của bạn, anh ta biết đóng vai một người khuyên giải khéo léo. Anh ta là người theo chủ nghĩa hiện thực, cũng có thể là một người ưa hòa thuận yên vui, vì vậy chớ hy vọng anh ta sẽ làm những chuyện ầm ĩ. Bạn cần biết, cho dù bạn có là người bạn tốt thế nào của anh ta, anh ta cũng sẽ không chịu đi thám hiểm núi cao cùng bạn. Nếu cần phải chi tiền, anh ta có thể mượn tiền mời luật sư hay bảo lãnh cho bạn, song anh ta chỉ làm được đến thế. Nếu gặp trở ngại lớn lao, anh ta sẽ nhanh chóng rút lui một cách êm thấm ra khỏi cuộc sống của bạn.

Một cô gái tuổi Mão xinh đẹp duyên dáng thà lấy một phú ông tốt bụng, thủ cựu còn hơn lấy một người tình anh tuấn, nghèo xơ xác. Một phú ông có thể mang lại cho cô một cuộc sống với những điều kiện ưu việt và đáp ứng được những đòi hỏi xa hoa của cô. Người bạn đời của cô nhất thiết phải là người có khả năng che chở, bảo vệ và duy trì được cuộc sống hào hoa cho cô. Khi tâm trạng không tốt, anh ta sẽ không quấy rầy cô, và biết điều tránh xa cô. Tóm lại, bất kì một hình thức nào hay biện pháp chướng tai gai mắt nào được dùng để lấy lại cân bằng cho cô đều sẽ bị coi là một sự khinh thường.

Người tuổi Mão thích tỏ ra hách dịch trước những vấn đề gai góc, vì anh ta không thích hứa hẹn chính thức hay quá dấn sâu vào mạo hiểm, anh ta là một chuyên gia đùn đẩy trách nhiệm.

Nam giới tuổi Mão hết sức ân cần, lịch sự, cử chỉ tao nhã cuốn hút người khác, mang phong thái của một thân sĩ. Thật thế, anh ta hâm mộ, thích học hỏi tinh hoa của xã hội và phong thái ung dung của thân sĩ, mà tinh hoa của thượng tầng xã hội suy cho cùng là sự tự tin, hài hòa và cơ trí. Bạn cũng nên lắng nghe những lời khuyên thông minh, sắc bén của anh ta. Song anh ta có khuyết điểm là trí tưởng tượng quá mẫn cảm, thờ ơ. Anh ta tránh xa khổ ải mà người đời phải chịu giống như sợ một thứ bệnh truyền nhiễm.

Là người không dễ bị mắc lừa, anh ta có thể kiềm chế sở thích của mình để giữ vững bí mật hay những việc cá nhân riêng tư. Khi thấy nguy hiểm, những tính toán nhỏ nhặt tế nhị hay tâm lý đối kháng ẩn chứa trong lòng sẽ được anh ta thể hiện ra bằng chiến thuật “lật đổ”.

Quá tự tin, nên người tuổi Mão coi những đánh giá, nhận xét của bản thân là chuẩn mực hơn cả. Những lúc bức bách bị thúc ép, anh ta sẽ vứt bỏ bất cứ thứ gì hay loại bỏ bất cứ ai dám khuấy động cuộc sống yên bình của anh ta. Anh ta nổi tiếng là người linh hoạt, biến hóa khôn lường, biết cách làm cho đôi bên cảm thấy an toàn, tin tưởng lẫn nhau. Những giống loài yếu ớt trong tự nhiên thường mang mẫn cảm an toàn mạnh mẽ, vì vậy bạn khó mà bắt gặp một chú mèo nhỏ bé ở chốn nguy hiểm cùng cực.

2. Tình yêu của người tuổi Mão

Những người cầm tinh con Mèo sẽ đong đầy niềm vui và hạnh phúc khi được hòa nhập trong đám đông, là thành viên của một nhóm nào đó có cùng sở thích. Họ là những người bạn biết sẻ chia, đồng cảm, luôn khiến bạn cảm thấy dễ chịu khi ở bên cạnh. Trong chuyện tình cảm, dưới vẻ ngoài mềm mỏng, mơ màng, đôi chút hoài niệm là một tính cách khác, họ sẽ trở nên chiếm hữu người yêu, quản lý chặt chẽ khiến người ấy cảm thấy ngạt thở.

Nói chung tuổi Mão là những người điềm tĩnh ôn hòa, nếu không có gì quá phiền toái, anh ta sẽ không dễ dàng nổi cáu. Người tuổi Mão đồng thời cũng là người hay xử trí theo tình cảm, anh ta thường dễ xúc động rơi nước mắt.

Người tuổi Mão tuy chưa bước vào tình yêu nhưng rất muốn được nếm thử hương vị của nó. Như vậy trước khi tiến tới tình yêu, bạn phải có sự chân thành, chớ nên đùa giỡn với tình cảm, nếu không người chịu đau khổ luôn là bạn. Gặp bước ngoặt quan trọng, bạn nhất định phải giữ bình tĩnh, suy xét xem chỗ nào mình làm được, chỗ nào chưa làm được.

Thông thường con gái tuổi Mão sẽ là một bà chủ gia đình tốt, giải quyết công việc luôn thỏa đáng, luôn biết cách giữ thể diện cho chồng, làm mát mặt chồng, do đó được nhiều người ngưỡng mộ, song kỳ thực người tuổi Mão có tính ỷ lại, dựa dẫm rất lớn, tình cảm mềm yếu. Nếu đã kết hôn thì cuộc sống gia đình bạn vô cùng hạnh phúc, tình cảm mà bạn dành cho gia đình cũng được mọi người trong gia đình đáp lại, họ cũng hết sức yêu mến bạn.

Con gái tuổi Mão điềm tĩnh, lương thiện, dịu dàng trong sáng, giống như một đóa sen tinh khiết. Quan điểm tình yêu của bạn là “nếu đã không yêu thì sẽ mãi mãi không yêu”, nếu chàng ngốc nào đó muốn theo đuổi bạn hòng mong bạn hồi tâm chuyển ý, thì thật là lãng phí tâm sức. Tình cảm của bạn giống như là gió, không bao giờ để ý tới người bạn không yêu, trừ phi bạn muốn khẩn cầu điều gì đó ở anh ta. Bất cứ ai cũng không trói buộc được bạn, nếu ai đó làm thế bạn sẽ tránh thật xa anh ta.

Tốt nhất bạn nên kết hôn với người hiểu, hòa hợp được với tính cách và có thể giải tỏa được sự bất an trong lòng bạn. Sau khi kết hôn, bạn không nên chỉ thỏa mãn với vai trò một bà chủ gia đình thông thường, mà cần tích cực sử dụng thiên bẩm và năng lực sẵn có của mình để học hỏi các tri thức nhằm làm phong phú tâm hồn và phục vụ cho công việc mà bạn theo đuổi.

Thái độ của bạn về hôn nhân rất bảo thủ, bạn sẽ không khi nào phản bội chồng con, lúc nào bạn cũng hết lòng quan tâm săn sóc họ.

Con trai tuổi Mão có quan điểm tình yêu mới lạ, thường thu hút được nhiều nữ giới. Anh ta luôn bày tỏ tình yêu một cách thẳng thắn, chân thành khiến nữ giới dễ xiêu lòng, nhưng khi cô gái có ý trói buộc, anh ta sẽ lặn mất tăm giống như ngọn gió thổi qua.

Trưởng thành, tính cách không ưa ràng buộc của anh ta sẽ trở nên vững vàng, thận trọng hơn. Song “núi sông dễ đổi, tính người khó thay”, nghĩa là khi yêu một cô gái nào đó, anh ta cũng thường lượm hoa tết cỏ lãng mạn như ai, chỉ có điều ở cuộc chơi này, không chỉ có một người trong lòng anh ta.

Tuy vậy, dù tình cảm anh ta có nhiều biến đổi, song anh ta lại là người nghiêm chỉnh tuân thủ luật hôn nhân. Anh ta luôn đòi hỏi vợ phải tuyệt đối tin tưởng anh ta. Khi anh ta thay đổi thái độ, tỏ ra quá quan tâm tới vợ, sẽ làm nảy sinh mối nghi ngờ trong lòng người vợ.

Tình yêu của người tuổi Mão nhóm máu A

Điều dễ nhận thấy ở người tuổi Mão thuộc nhóm máu A là cảm xúc khao khát yêu đương luôn thường trực trong tâm trí. Tuy nhiên, họ không bao giờ để tình yêu lấn át lí trí, cảm xúc khi làm bất cứ một công việc gì. Khi đã thích một ai đó, họ sẽ lặng lẽ quan sát, suy xét đối phương từ nhiều phương diện: trình độ học vấn, đối xử với mọi người xung quanh, hoàn cảnh gia đình,... Khi đã thật sự hài lòng về người này, họ sẽ lên phương án "tấn công" ngay lập tức. Sau khi kết hôn, người tuổi Mão thuộc nhóm máu A thường rất tôn trọng ý kiến của người bạn đời. Trong gia đình, hai vợ chồng có quan hệ bình đẳng luôn lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhau. Ít khi hai vợ chồng xảy ra tranh cãi, chỉ đạo sai khiến nhau mà cùng nhau xây dựng tổ ấm hạnh phúc. Nam giới tuổi Mão thuộc nhóm máu A nên chọn bạn đời là những phụ nữ năng động và hoạt bát. Nữ giới nên chọn "một nửa" của mình là người đàn ông hài hước, phóng khoáng, có nhiều thành tích trong sự nghiệp. Những người cùng tuổi Mão không nên kết hôn với nhau vì có nhiều nét tương đồng mà hai người sẽ không thể chịu đựng được nhau trong thời gian dài.

Tình yêu của người tuổi Mão nhóm máu B

Những người Mão thuộc nhóm máu B thường có những quan điểm mới mẻ trong tình yêu. Họ rất giỏi giao tiếp và tự tin vào khả năng chinh phục đối tượng mà trái tim mình hướng tới. Bằng những lời lẽ thông minh, đường mật họ từ từ tấn công và chiếm được tình cảm của người ấy một cách dễ dàng. Tuy nhiên, tình yêu của những người này có lâu bền hay không mới là điều đáng phải suy nghĩ. Bởi nhiều người trong số họ có thói "cả thèm chóng chán". Khi chiếm được tình cảm của đối phương rồi thì họ lại lạnh nhạt, nếu tình trạng này diễn ra lâu thì rất có thể "đường ai người ấy đi". Cuộc sống hôn nhân của người tuổi Mão thuộc nhóm máu B thường bền vững hơn so với các cặp vợ chồng khác. Họ không quá nuông chiều con cái mà dạy chúng biết tự lập ngay từ bé. Nhìn bề ngoài, cuộc sống gia đình họ có vẻ như đơn điệu nhưng thực ra đây lại là mơ ước của rất nhiều người. Nữ giới tuổi Mão thuộc nhóm máu B nên chọn và kết hôn với những người có tính thẳng thắn, phóng khoáng, có học thức. Nam giới thì nên chọn bạn đời là những phụ nữ hiền thục, thông minh nhanh nhẹn. Nếu gặp được những đối tượng này thì chắc chắn họ sẽ có được cuộc hôn nhân kì diệu, đúng như mình mơ ước.

Tình yêu của người tuổi Mão nhóm máu AB

Người tuổi Mão thuộc nhóm máu AB luôn khao khát có tình yêu đẹp và một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Khi đã yêu, họ luôn hy vọng tình yêu của hai người sẽ mãi tươi đẹp như thuở ban đầu. Họ toàn tâm toàn ý vun đắp cho tình yêu đó và sẵn sàng hy sinh tất cả vì người yêu của mình. Họ thích cảm giác được đối phương chinh phục. Tuy nhiên, nếu tìm được một người khác giới thật sự tâm đầu ý hợp thì ngay lập tức, họ sẽ chủ động tấn công. Để có được cuộc hôn nhân hạnh phúc, nữ giới nên tìm những người bạn đời tính tình lạc quan, thẳng thắn. Nam giới tuổi này nên kết duyên với những phụ nữ chín chắn, độ lượng. Sự hòa hợp trong tính cách có thể đem lại cho họ nhiều niềm vui và hạnh phúc. Cuộc sống hôn nhân sẽ mang lại cho người tuổi Mão thuộc nhóm máu này nhiều sự thay đổi thú vị. Cả nam giới và nữ giới đều trở nên điềm đạm và thực tế hơn. Những người phụ nữ thường trở thành những người vợ lý tưởng, những bà mẹ tuyệt vời. Nam giới sẽ là chỗ dựa vững chắc cho mọi thành viên trong gia đình.

Tình yêu của người tuổi Mão nhóm máu O

Những người này thường không che giấu được cảm xúc của mình. Mọi người xung quanh sẽ thấy rõ niềm vui sướng, hạnh phúc của họ khi yêu. Những người này khá thông minh và hài hước. Yếu tố này ở họ hấp dẫn được nhiều người khác giới. Họ thường tận dụng khéo léo những cơ hội để ra hiệu cho đối phương biết tình cảm của mình. Tuy nhiên, họ cũng hay xấu hổ và không thích thổ lộ tình cảm trực tiếp. Trong một khoảng thời gian ngắn, tình cảm của họ có thể phát triển và trở nên mãnh liệt nhưng rồi lại lắng xuống nhanh chóng. Ngay từ những lần gặp mặt đầu tiên, họ đã biết cách tạo ấn tượng tốt đẹp và "ghi điểm" trong mắt đối phương. Ở bên họ, người yêu luôn có cảm giác yên tâm bởi sự chăm sóc tận tình, chu đáo. Tuy nhiên, nhược điểm của họ là dễ "xiêu lòng" trước một đối tượng khác mặc dù đã có người yêu. Tuy nhiên, sau khi kết hôn và có con, họ sẽ toàn tâm chăm lo cho tổ ấm của mình. Dù là nam hay nữ thì người tuổi Mão thuộc nhóm máu O cũng rất coi trọng gia đình. Chính vì vậy, họ sẽ trở thành những ông bố bà mẹ mẫu mực và có trách nhiệm.

3. Sự nghiệp của người tuổi Mão

Doanh nhân sinh năm Mão tính ôn hoà, mềm mỏng, ưa hoà bình. Họ là người có ý chí kiên cường, bất khuất; trong kinh doanh tính cách ấy càng thể hiện rõ. Khi họ đã tin một điều gì đó thì tin đến cùng. Họ có năng khiếu về nhìn nhận xã hội và sự biến động của chính trị.

Doanh nhân nữ tuổi Mão rất tỉnh táo, minh mẫn; thích giúp những bạn hàng mà không chút tính toán, vụ lợi. Họ luôn thông cảm trước sự thất bại trong kinh doanh của người khác và biết cách giúp đỡ khi có điều kiện.

Trong kinh doanh, doanh nhân Mão không thích lao vào các cuộc cạnh tranh, ưa lối làm ăn bình ổn, an nhàn. Cuộc đời của họ cũng như trong kinh doanh ít thăng trầm. Nam giới Mão rất ân cần, lịch sự, hoà nhã; người ta luôn khâm phục sự thông minh cơ trí và thường nghe theo lời tư vấn của họ. Nhưng vì quá tự tin luôn cho mình là đúng, đôi khi dẫn tới sai lầm, bỏ lỡ thời cơ trong cuộc đời, trong kinh doanh.

Doanh nhân Mão rất tốt nếu như ai đó không xen vào việc kinh doanh của họ. Họ thường không ưa người sinh tiêu Dần bởi tính thích tranh đấu; không ưa người Dậu vì hay nói quá về bản thân; không đồng tình với người Ngọ bởi tính hay thay đổi.

Với trí thông minh cũng như sự sáng suốt của mình, Mèo luôn là người bặt thiệp, giỏi ngoại giao. Vì thế, họ quen biết rộng rãi, có nhiều mối quan hệ xã hội. Với óc sáng tạo phong phú, những chú Mèo dịu dàng luôn tìm đến thế giới âm nhạc và hội họa, ta dễ dàng thấy rằng nhiều người trong số họ làm việc trong lĩnh vực y khoa, thiết kế, âm nhạc, và thời trang. Thêm một nét tính cách đáng yêu của Mèo là họ rất tinh tế, biết quan tâm đến người khác, biết lắng nghe và cảm thông. Họ cũng có lòng trắc ẩn có thể giúp họ thành công trong các công việc như nhà trị liệu, bác sĩ, y tá hay nhà tâm lý. Những người tuổi Mão cũng có khả năng kinh doanh và giao tiếp tuyệt vời.

Người tuổi Mão thường có cuộc sống yên ổn bình an. Điều này do bản thân tính cách người tuổi Mão chi phối, môi trường sống yên bình là môi trường anh ta ưa thích. Do đó, người tuổi Mão đa số hài lòng với hoàn cảnh hiện có, nói cách khác, anh ta chẳng có ước mong gì lớn lao to tát. Vì vậy rất ít người sinh năm Mão làm những việc rầm rộ, lập nên những thành tích chói lọi – trừ người tuổi Tân Mão, nếu biết hợp tác chân thành với bạn bè.

Với tính cách của người tuổi Mão, cuộc đời anh ta sẽ không gặp phải sóng gió, trở ngại lớn lao, cuộc sống diễn ra êm đềm đúng như anh ta muốn. Suy cho cùng, bản thân cuộc sống ấy đã đủ để bao người ước ao rồi, thì anh ta còn phải đòi hỏi cao xa gì? Nếu mong muốn cao xa, chưa biết chừng sẽ gặp nhiều trắc trở, bất lợi.

Người tuổi Mão đối xử với mọi người khẳng khái, nên gây dựng được những mối quan hệ giao tiếp tốt đẹp, rộng rãi. Nói chung người tuổi Mão có cuộc sống tiền tài sung túc, suốt đời không phải lo lắng về tiền bạc.

Song cũng chính sự lạc quan vốn có, những mối nhân duyên tốt đẹp, không tính toán nhỏ nhặt nên người tuổi Mão chả mấy ai ki cóp. Một khi dư dả trong tay thì tiêu xài thoải mái, không có điều độ, anh ta luôn mua sắm thỏa thích, thích thú vô cùng trước những món đồ xa hoa, những thứ mới lạ, do đó anh ta thường xuyên rơi vào tình trạng thu không đủ chi. Hơn nữa, anh ta không biết quản lý chi tiêu tiền bạc, cứ có tiền là tiêu. Vì vậy, tuy có khả năng kiếm tiền, song anh ta không phải là người phú quí, giàu sang.

Tóm lại, mọi cơ hội đều được chia bình đẳng cho mọi người, quan trọng là bạn có biết nắm lấy nó hay không.

4. Vận mệnh người tuổi Mão với tháng sinh

Sinh tháng Giêng

 Tức tiết Tân xuân, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, phiêu bạt khắp nơi, bôn ba lận đận, cả ngày không chút thảnh thơi. Nếu được tổ tiên che chở, số hãy còn là cao.

Sinh tháng hai

Tiết Kinh trập đôi, lúc phải đối mặt với sóng gió phong ba, có khi lại gặp chuyện hào hứng phấn khởi, trước nghèo sau giàu, tương lai rộng mở.

Sinh tháng ba

Thuộc tiết Thanh minh, oai phong tỏ rõ, thông minh sôi nổi, khí thế ngút trời, mang vẻ phơi phới, hớn hở tươi tắn, rạng rỡ như vầng nguyệt, như ánh mặt trời lúc đang mọc, cơ mưu quyền thế, thế mạnh như chẻ tre, thời vận tất đến, mưu việc tất thành, tay không lập nên cơ đồ, cuộc đời may mắn, hạnh phúc, phát đạt, tấn tới.

Sinh tháng tư

Thuộc tiết Lập hạ, ăn no mặc ấm, hào hoa phong nhã, oai phong lẫm liệt, danh lợi song toàn, vợ hiển quí, con cháu vinh hiển, biết cách xuôi chèo mát mái, tâm hồn luôn được vui vẻ, thư thái, không phải lao tâm khổ trí, mưu cầu việc được như ý, số phú quí, may mắn.

Sinh tháng năm

Thuộc tiết Mang chủng, sự nghiệp tấn tới, phát đạt, đạt được thành tựu cao, kinh doanh làm ăn thuận lợi, được người đời trọng vọng. Vận số trung niên và về già đều gặp nhiều may mắn, ăn uống sung túc, quần áo là lượt, biết hợp tác giúp đỡ người khác, đối nhân xử thế có tình, có lễ, suốt đời vinh hiển, đại chí đại lợi.

Sinh tháng sáu

 Thuộc tiết Tiểu thử, mọi vật đều tươi mới, lạc quan uy phong, đường danh lợi tinh thông tốt đẹp, được giàu sang phú quí, sự nghiệp có những tiến triển thuận lợi. Là người có tài quản lý, con cái vinh hoa, vợ hiền đẹp đảm đang, người giỏi đất thiêng, khỏe mạnh phúc thọ, gia thế hưng vượng, phong thái tôn nghiêm, mọi việc đều có thể thành công như ý.

Sinh tháng bảy

Thuộc tiết Lập thu, sinh đúng tiết đẹp khí tốt. Người tuổi Mão tháng này nam nữ đều thông minh, quyền thế hiển hách, sắt cầm hòa hợp, ung dung tự tại. Là người có chí khí lớn lao, mong ước chẳng có gì không thành công, mưu cầu toại nguyện.

Sinh tháng tám

Thuộc tiết Bạch lộ. Anh ta tính tình dịu dàng, ôn hòa, phẩm hạnh tốt, ngay thẳng chân thành, gắn bó thân thiết với bạn hữu như chân với tay, tính tình thông minh, biết cách vượt qua gian khó.

Sinh tháng chín

Thuộc tiết Hàn lộ. Là người luôn biết tiến lui thích hợp, giỏi tùy cơ ứng biến, có khả năng cứu giúp người khác, mưu kế sâu cay, trung thành hiệp nghĩa, biết đối nhân xử thế, gia thế uy phong, vinh hoa phú quí. Đôi lúc có váng đầu chóng mặt, gặp nguy khốn thì phó thác cho số phận. Rồi có ngày long ân cũng ban phát, khi khắc phục được e hoạn nạn thất bại lại giáng xuống thì nên gắng sức lập chí, kiên cường chống đỡ suốt đời sẽ lại an bình, hạnh phúc.

Sinh tháng mười

Thuộc tiết Lập đông, dịu mát trung hòa không cần gắng sức vẫn đủ ăn, không cần đôn đáo tìm chốn thảnh thơi dưỡng tính vẫn luôn trường thọ. Tuy gặp phải đôi chút hiểm nguy, song biết nhẫn nhục sẽ bình an vô sự, không mưu tính làm điều ác, không giao kết bạn bè, vẫn an hưởng vinh hoa, không mưu không chước, trong sáng thanh tao, suốt đời may mắn thuận lợi.

Sinh tháng mười một

Thuộc tiết Đại tuyết, khắp nơi bao phủ một màu trắng, vạn vật suy kiệt, cơm ăn không đủ no, ở đâu cũng không có lối thoát, mưu tính công việc đều thất bại, không đủ sức làm ăn kinh doanh, không thể nào hợp tác với người khác, không nhận được sự giúp đỡ của bạn bè, có chí mà không gặp thời, hay đau khổ buồn phiền, nguy khốn gian nan luôn rình rập. Cuộc đời ít may mắn, song nếu kiên nghị vượt qua gian khó sẽ làm nên sự nghiệp.

Sinh tháng mười hai

Thuộc tiết Tiểu hàn, quanh năm suốt tháng gia cảnh bần hàn, áo quần xơ xác, đến đâu cũng gặp nạn, chỗ nào cũng gặp kẻ thù, giao kết bạn bè không cẩn thận e dễ bị ngầm hại. Cả đời phải gánh chịu bao đại họa, không tổn hại tới con cháu song tổn hại đến cha mẹ anh chị em, vợ hiền bị người khác mưu hại, lành ít dữ nhiều, một đời lo lắng.

5. Vận mệnh của người tuổi Mão

Tuổi Đinh Mão - 1987: Mèo trông trăng (thuộc mệnh Hỏa trong Ngũ hành)

Giống như hầu hết người mệnh Hỏa thuộc sinh tiêu khác, họ là người có tính cách mạnh mẽ cùng tấm lòng nhiệt tình với công việc cũng như với người thân, bạn bè. Họ rất vui tính và vì thế bầu không khí xung quanh họ luôn tràn ngập tiếng cười. Tuy nhiên, khi trong lòng có tâm sự buồn rầu họ lại không thích để lộ ra bên ngoài cũng như không thích chia sẻ nỗi niềm với ai khác. Họ thường là nhân vật trung tâm của đám đông. Vì có năng lực lãnh đạo bẩm sinh nên họ cũng thường xuyên nhận được sự ủng hộ của nhiều người. Có thể nói rằng người tuổi Mão mệnh Hỏa luôn cố gắng chu toàn mọi việc. Họ khá nhanh nhạy khi nhìn nhận và giải quyết vấn đề. Họ có năng lực giải quyết vấn đề và có giác quan thứ sáu khá nhạy bén. Hơn nữa, họ lại biết phân biệt rõ thiện, ác, chân thành và thẳng thắn, biết cách thay đổi bản thân cho phù hợp với hoàn cảnh và xu hướng chung. Họ cũng là người thích sự thần bí và đa màu sắc. Đôi khi, họ sẽ làm những việc dũng cảm mà người khác không thể tưởng tượng nổi. Họ thích có những cảm xúc vui buồn tự nhiên. Sở dĩ họ thích làm như vậy một mặt là vì muốn mình có sức hấp dẫn đặc biệt với người khác, mặt khác là để thoả mãn sự ham muốn hư vinh của mình. Nếu dùng ý chí và quyết tâm này vào việc xây dựng sự nghiệp thì chắc chắn họ sẽ giành được những thành công lớn. Đôi khi, tính cách của người này có nhiều mâu thuẫn. Ví như, họ vừa có năng lực tạo dựng sự nghiệp nhưng cũng thường hay lo lắng rằng sự cương nghị của mình là thái quá đối với mọi người. Họ sẽ không nịnh nọt để lấy lòng người khác mà có thái độ thành thực, tôn trọng nên được nhiều người yêu mến, quý trọng. Vì vậy, họ có được thành tựu nhất định trong sự nghiệp của mình và hài lòng với công việc đang làm.

Tuổi Kỷ Mão - 1999: Mèo rời khỏi rừng (thuộc mệnh Thổ trong Ngũ hành)

Mang tính cách chung của người mệnh Thổ, họ khá thận trọng trong công việc cũng như trong cuộc sống. Họ luôn cân nhắc kỹ trước khi tiến hành công việc và tạo lập các mối quan hệ. Họ biết cách tạo niềm vui trong cuộc sống. Với họ, cuộc sống chỉ là một trong những cơ sở của sự tồn tại, giá trị cuộc sống theo quan niệm của họ là ở sự bình yên, an nhàn. Chính vì vậy, họ ít có chí tiến thủ, không ham danh lợi và quyền lực. Không ít người tuổi Mão mệnh Thổ khá bảo thủ, ít chịu lắng nghe lời góp ý của người khác. Nếu được sao tốt tương trợ, người tuổi Mão mệnh Thổ sẽ có được thành tựu đáng kể trong sự nghiệp nhờ lòng ham mê công việc. Nếu có thể khắc phục được những nhược điểm trong tính cách của mình, họ sẽ trở thành người có danh vọng. Nếu không được sao tốt tương trợ, họ sẽ vô cùng lúng túng khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn.

Tuổi Tân Mão - 1955: Mèo trong hang (thuộc mệnh Mộc trong Ngũ hành)

Là người thẳng thắn, dứt khoát, có chí khí quyền uy, được hưởng vinh hoa phú quí, thân nhàn nhưng lòng không thanh thản. Không được nhờ cậy người thân, hai bàn tay tự lập nên cơ nghiệp; thiếu thời phải chịu nhiều vất vả, về già sống sung sướng. Con gái tuổi Tân Mão nắm quyền quản lý trong gia đình, có số hưng vượng. Vốn tính lạc quan, yêu đời, người tuổi Mão mệnh Mộc sống hòa đồng, thân thiện và vì vậy được nhiều người quý mến. Họ thích sự tự do tự tại và thường khá hài lòng về cuộc sống của mình. Đa số người tuổi Mão mệnh Mộc tính tình vô tư, ít lo nghĩ. Tuy nhiên, họ là những con người sống thiếu thực tế. Không ít người tuổi Mão mệnh Mộc có trí tưởng tượng phong phú và óc sáng tạo cao. Đáng tiếc là họ ít có hứng thú với việc theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu. Tuy nhiên, điều này có thể hiểu được vì công việc nghiên cứu vốn đòi hỏi sự cần cù và không ít gian khổ, trong khi người tuổi Mão mệnh Mộc lại thích được hưởng cuộc sống an nhàn. Đa số người tuổi Mão mệnh Mộc đều rất tài hoa, học rộng hiểu nhiều. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh và theo đuổi chuyên ngành về văn hóa nghệ thuật, họ đạt được cả danh và lợi. Nhưng nếu không được sao tốt tương trợ, họ lại dễ trở thành người thiếu ý chí, không kiên định, sự nghiệp của họ cũng không có gì nổi trội.

Tuổi Quý Mão - 1963: Mèo trong rừng núi (thuộc mệnh Kim trong Ngũ hành)

Là người có cuộc sống no đủ, hưởng nhiều phú lộc, gặp hung hóa cát. Trẻ không giàu có dư dật, nhưng về già hưng vượng, thu chi thoải mái. Thời con gái, trung niên sung túc, về già phải chịu nhiều thiệt thòi, cần phải chú ý giữ gìn. Họ là người có ý thức rõ ràng về bản thân đồng thời luôn muốn khẳng định mình. Họ cũng có sức khỏe dồi dào và tính cách kiên cường, thẳng thắn. Họ thường không bao giờ đầu hàng trước khó khăn, thậm chí còn không muốn bộc lộ những nỗi khổ tâm của mình cho người khác biết mà chỉ âm thầm chịu đựng. Đời sống nội tâm của họ khá sâu sắc, tình cảm phong phú nhưng thường giấu kín trong lòng. Chính kiểu tính cách đó đã tạo nên ở họ sự không ổn định trong cả tâm lý và tình cảm. Cũng chính vì lý do này mà những việc họ làm đều khó có thể kéo dài và thường phải bỏ cuộc giữa chừng. Nếu được sao tốt tương trợ, người tuổi Mão mệnh Kim rất có thể sẽ làm được việc lớn nhờ vào tài năng và những hành động đúng đắn, kịp thời của mình. Nếu không được sao tốt tương trợ, họ dễ rơi vào vòng nguy hiểm vì xung đột với người xung quanh.

Tuổi Ất Mão - 1975: Mèo đắc đạo (thuộc mệnh Thủy trong Ngũ hành)

Họ có tính tình hiền lành, trung thực nhưng lại thiếu ý chí. Họ thường chỉ biết hài lòng về những gì mình đang có, không biết cách tạo động lực để phấn đấu mặc dù đa số họ là người hiếu học. Người tuổi Mão mệnh Thủy sống rất tình cảm. Không ít người trong số họ sống hướng nội, dễ xúc động, thích hoài niệm về quá khứ. Cũng có người khá cẩn trọng nhưng hơi bảo thủ và ít khi chia sẻ tâm tư với người thân hay bạn bè. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, người tuổi Mão mệnh Thủy sẽ gặp được nhiều cơ hội tốt. Nếu không được sao tốt tương trợ, người tuổi Mão mệnh Thủy thường chỉ có những suy nghĩ đơn giản, ngang bướng, cố chấp, khó có được thành công lớn trong sự nghiệp.

6. Tương hợp và xung khắc giữa người tuổi Mão và các tuổi khác

Tuổi Mão và Tý

Nếu là một cặp uyên ương, hai “hành tinh” này sẽ rất ăn ý với nhau. Hai tuổi này sẽ đổ vào nhau trong tình yêu và cống hiến cho nhau. Mèo mê Chuột ở cách Chuột biết chăm sóc và bảo vệ Mèo, tự hào về sự dí dỏm, năng lượng dồi dào và nhanh nhẹn. Còn Chuột thấy hứng thú với Mèo bởi sự duyên dáng, đằm thắm đến mê hoặc. Nếu cãi cọ, Tí và Mão sẽ cân bằng nhau được ngay từ đầu nhưng đa số là Chuột vẫn lấn lướt. Ngôn ngữ sắc sảo của Chuột khiến Mèo hiền lành, nhút nhát thấy Chuột luôn hợp lý. Mèo tin Chuột như một điều hiển nhiên của cuộc sống. Bởi vậy hai tuổi này sống rất hòa thuận với nhau.

Khi là bạn, họ cũng sẽ là những người bạn thực sự. Chuột trung thành, Mèo cũng trung thành. Hai tuổi này coi nhau như những người ruột thịt. Tí và Mão nếu là bạn sẽ còn bền vững hơn khi họ là hai người yêu nhau.

Nếu là đối tác kinh doanh, Chuột và Mèo sẽ kết hợp rất hiệu quả với nhau. Nếu có tranh cãi thì luôn luôn bắt đầu từ Chuột. Rồi mọi chuyện lại ổn thỏa vì mèo rất nhã nhặn và nhường nhịn. Tuy nhiên, không phải vậy mà Chuột tỏ ra không biết điều. Chuột hiểu được vai trò quan trọng của Mèo trong các mối quan hệ làm ăn.

Tóm lại, ở trong bất kỳ mối quan hệ nào, Mèo cũng chịu ảnh hưởng tích cực từ tinh thần lạc quan, sự nhanh trí của Chuột vì đôi khi tuổi Mão hơi bi quan một chút. Chỉ cần, tuổi Tí coi tuổi Mão là mối quan hệ thân thiết, tuổi Tí sẽ sẵn lòng tìm mọi cách để tuổi Mão hài lòng và bảo vệ tuổi Mão đến cùng.

Tuổi Mão và Sửu

Có thể nói, hai tuổi Trâu và Mèo sống nội tâm nhất trong 12 con giáp. Họ rất khó biểu đạt tình cảm thành lời, nhưng trong lòng họ luôn đầy ắp sự yêu thương và nhường nhịn. Cả hai đều thân thiện, cẩn trọng và chú ý chăm sóc người khác.

Khi là cặp uyên ương, họ yêu theo cách rất riêng: lặng lẽ nhưng nồng thắm. Hai con giáp này thích quanh quẩn ở nhà, làm những việc thường ngày để trang hoàng cho ngôi nhà thân yêu của họ. Họ không thích tham gia nhiều vào các cuộc tụ tập bạn bè hay lang thang đâu đó. Trong tâm thức của họ, ngôi nhà vẫn là nơi bình yên nhất. Đó là mối liên kết ngầm nhưng hết sức hiệu quả để gắn kết hai tâm hồn này lại với nhau.

Tuy vậy, do tính cách hai người, nên đôi khi 2 tuổi này thấy cuộc sống khá tẻ nhạt và cần bổ sung thêm chút “muối”. Cảm giác này sẽ qua đi rất nhanh vì cả tuổi Trâu và tuổi Mèo đều đặt niềm tin, sự gắn kết lên trên tất cả. Nếu Mão và Sửu sống cùng trong một ngôi nhà thì họ sẽ rất hài hòa, và ngôi nhà của họ dường như lúc nào cũng rất yên bình.

Còn khi là đối tác làm ăn, hai nhân cách này ứng xử có hợp nhau không? Tuổi Mèo thường làm việc theo sự chỉ dẫn của tuổi Trâu bởi người cầm tinh con Trâu rất chăm chỉ và đặc biệt Mèo rất khâm phục Trâu bởi sự tốt tính và ứng xử điềm đạm. Trong khi một số tuổi khác chơi với Mèo vì Mèo khá bị động và dễ sai khiến, thì Trâu tìm đến Mèo với lý do hoàn toàn khác: Đó là sự chân thành. Vì vậy, tuổi Mão rất khâm phục và mến mộ tuổi Sửu. Với sự hài hòa của hai nhân cách này, sự kết hợp của họ sẽ rất hệ thống và chắc chắn.

Tuổi Mão và Dần

Nhiều sự khác biệt đã tạo ra khoảng cách quá lớn khiến cho cả hai khó có thể hiểu nhau. “Mèo” sẽ phải chịu nằm yên dưới vuốt “Cọp”. Hổ cũng sẽ dễ dàng phát chán với việc thích cuộc sống an nhàn thanh tịnh của người tuổi Mèo. Tuổi Hổ can đảm, dũng cảm, thích tự do và quyền lực, khác xa so với Mèo nhút nhát và sống nội tâm. Hổ rất hấp dẫn, có sức hút lớn nhưng đam mê tự do. Ngược lại, Mèo lại thích sự bình yên, nhẹ nhàng và cần những sự quan tâm nho nhỏ. Xem ra những khác biệt lấn át hẳn những tính cách có thể dung hòa được mối quan hệ giữa hai người.

Nếu là hai người yêu nhau thì rất khó tránh khỏi những mâu thuẫn giữa hai “hành tinh” này. Mèo nghĩ rất nhiều đến người mình yêu và ít khi nói ra rằng bản thân mình không được đối xử tốt. Người tuổi Hồ vốn trung thực và nồng nhiệt và chẳng bao giờ có ý định đối xử ngược đãi với Mèo nhưng đôi khi chỉ là sự vô tình, Hổ làm Mèo tổn thương. Tuổi Mèo yêu hết mình và rất quan tâm đến sở thích và niềm vui của người mình yêu đôi khi thấy khó chịu với tính cách tự do và dễ thay đổi của tuổi Hổ.

Nếu hai con giáp này làm ở cùng một văn phòng hay công ty, họ cần phải tổ chức công việc và phân chia không gian rất rõ ràng. Trong kinh doanh, tuổi Dần luôn là người dẫn đầu và chịu trách nhiệm chính. Tuổi Mão vốn khá nhút nhát sẽ đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của tuổi Dần và sẽ cố gắng cống hiến sức lực và sự khéo léo của mình để công việc chung tốt hơn.

Tuổi Mão và Mão

Với các con giáp khác, lý tưởng hóa mối quan hệ là một vấn đề có thể gây rắc rối thì với hai người cầm tinh con Mèo sẽ chẳng có vấn đề gì, thậm chí còn làm cho tình yêu của họ càng thêm ngọt ngào và thắm đượm.

Là con giáp khá nhút nhát, nhẹ nhàng và nồng hậu, hai tuổi Mão có thể kết hợp thành một cặp trời sinh.Tuy nhiên, mối quan hệ nào cũng vậy, cần sự thông cảm, hiểu nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Tuổi Mão có cái nhìn khá chủ quan, sống tình cảm, hơi lý tưởng hóa cuộc sống. Nếu hai tuổi Mão đi cùng nhau mà không động viên, an ủi cùng nhau thì cả hai rất dễ bi quan và lo lắng. Bởi vậy, mối quan hệ giữa hai hành tinh này dễ mất cân bằng.

Khi hai tuổi Mão có tình cảm lứa đôi, mối quan hệ của họ sẽ rất nhẹ nhàng và khá suôn sẻ. Với các con giáp khác, lý tưởng hóa mối quan hệ giữa hai người là một vấn đề có thể gây rắc rối thì với hai người cầm tinh con Mèo chẳng có vấn đề gì, thậm chí còn làm cho tình yêu của họ càng thêm ngọt ngào và thắm đượm. Chỉ có điều, cả hai người tuổi Mão đều rất cần sự động viên, khuyến khích nên cả hai cần tránh mang lại sự lo lắng và muộn phiền cho nhau. Nếu hai người tuổi Mèo này sống chung nhà, ngôi nhà của họ rất ấm cúng và thoải mái. Mão có xu hướng nghệ thuật và thích chiêu đãi, gặp gỡ bạn bè tại nhà. Bởi vậy, căn nhà hai người ở rất vui vẻ và chan hòa tình thân.

Khi là đối tác làm ăn, hai người tuổi Mão kết hợp khá ăn ý với nhau. Văn phòng nơi họ làm việc cùng nhau sẽ được trang trí mang tính nghệ thuật và giống một ngôi nhà hơn là cơ quan. Họ sẽ mang không khí nghệ thuật đến nơi làm việc hơn là sắp xếp mọi thứ gọn gàng, sạch sẽ. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là hai tuổi Mão phải cùng đảm bảo được lợi ích kinh doanh, cẩn thận tính toán đến các yếu tố kinh doanh và tài chính. Nếu tự bản thân không đảm nhiệm được điều đó thì rất cần đến những người tin cậy đảm nhiệm thay mình.

Tuổi Mão và Thìn

Mão và Thìn dường như có những tính cách đối lập nhau nhưng thực tế, hai tuổi này lại hỗ trợ đắc lực và bổ sung cho nhau. Tuổi Thìn mạnh mẽ, dũng cảm và thích trở thành trung tâm của sự chú ý. Tuy nhiên, hơn bất kỳ con giáp này, tuổi Mão rất hiểu cả những điểm mạnh và điểm yếu của người tuổi Thìn.

Khi là một cặp uyên ương, mối quan hệ của hai con giáp này rất khăng khít và bền chặt. Người cầm tinh con Mèo cần nhiều sự hỗ trợ của bạn bè và gia đình để giữ trạng thái cân bằng và có cảm giác bình yên. May mắn ở chỗ tuổi Rồng chẳng ngại ngần gì là chỗ dựa, là người bảo vệ cho Mèo. Đáp lại tình cảm của tuổi Rồng, Mèo rất biết điều, nhẹ nhàng và rất chiều Rồng. Bởi vậy nên hai hành tinh này kết hợp rất ăn ý với nhau và luôn vui vẻ, thoải mái bên nhau. Nếu Thìn và Mão sống chung trong một ngôi nhà, không khí gia đình sẽ rất ấm cúng và hạnh phúc. Bởi trong tổ ấm chung đó, Mão nhạy cảm, yêu thương Rồng và biết phát huy tính nghệ thuật của mình để làm cho ngôi nhà đầy ắp tiếng cười. Trong khi đó, Thìn đảm nhiệm những việc lớn hoặc các vấn đề về vật chất, tài chính. Bên cạnh đó, tính cách hài hước, dí dỏm của tuổi Thìn còn làm Mão tự tin hơn khi giao tiếp với bạn bè bởi Mão vốn thích tụ tập và mang lại niềm vui cho bạn cùng trang lứa nhưng vẫn còn hơi nhút nhát.

Khi là đối tác làm ăn, hai hành tinh này sẽ tạo thành một tập thể làm ăn phát đạt với điều kiện cả hai cùng chung sức chung lòng. Tuổi Thìn sẽ đảm nhiệm các công việc liên quan đến vật chất và tài chính. Còn những ý tưởng sáng tạo thì cả hai cùng góp sức nhưng tuổi Rồng vẫn giữ vai trò là người lãnh đạo, điều này tuổi Mão hoàn toàn hài lòng.

Tuổi Mão và Tỵ

Nếu Mão và Tỵ yêu nhau, mối quan hệ của họ sẽ gắn bó nếu cả hai biết cách cùng nhau xây dựng, biết nhún nhường đúng lúc. Mão và Tỵ có cách tiếp cận cuộc sống khác nhau, quan điểm cũng khá khác biệt nhưng họ vẫn có thể cùng nhau xây dựng một mối quan hệ khá thân thiết. Về mặt xã hội, hai con giáp này có nhiều điểm đối lập: Trong khi Mão nhút nhát, thích tận hưởng cảm giác ở nhà với người thân hoặc bạn bè thì Tỵ lại rất sôi nổi trước đám đông. Vẻ thông minh, hóm hỉnh và tài ăn nói khiến Tỵ thường xuyên nổi bật. Tuy nhiên, cả hai hành tinh này đều ứng xử theo trực giác hơn là lý trí. Bởi vậy, ở một chừng mực nào đó, họ có thể giao tiếp và kết hợp được với nhau, ít nhất là tại những thời điểm ban đầu.

Nếu Mão và Tỵ yêu nhau, mối quan hệ của họ sẽ gắn bó nếu cả hai biết cách cùng nhau xây dựng, biết nhún nhường đúng lúc. Mão với người ngoài hơi nhút nhát nhưng khi mối quan hệ của hai người thân thiết, Mão sẽ trở nên mạnh dạn hơn. Tuy vậy, mối quan hệ giữa Mão và Tỵ có thể xảy ra mâu thuẫn bởi Mão rất cần sự hỗ trợ từ người thân, đặc biệt là người mình yêu thương để cảm thấy tâm lý luôn bình an. Trong khi đó, tuổi Tỵ lại thấy rất khó khăn để mang lại sự bình yên và an toàn cho tuổi Mão bởi chính Tỵ cũng có những nỗi bất an riêng. Đó là vì Tỵ hay ghen và có tính sở hữu. Bởi vậy, cả hai cùng phải lựa nhau và cùng đảm nhiệm tốt nhiệm vụ của mình thì mối quan hệ của họ mới lâu bền được.

Khi là đối tác kinh doanh, hai con giáp này sẽ kết hợp rất tốt với nhau. Tỵ sẽ đóng vai trò làm người lãnh đạo. Bên cạnh đó, Tỵ nhờ giao tiếp tốt sẽ chịu trách nhiệm về ngoại giao và khách hàng. Trong khi đó, Mão sẽ lo chuyện hậu phương trong tập thể của hai người, đồng thời đảm nhiệm các việc liên quan đến tài chính.

Tuổi Mão và Ngọ

Nếu Ngọ tìm được sự cân bằng giữa những điều mình mong muốn và hỗ trợ Mão lúc cần thiết thì Mão sẽ dành rất nhiều tình cảm ưu ái cho người mình yêu. Mão và Ngọ sẽ cần cùng nhau cố gắng thật nhiều để xây dựng mối quan hệ hai người luôn dung hòa và vui vẻ. Trong những nỗ lực này thì Mão sẽ đóng góp nhiều hơn. Bởi bản chất con người tuổi Mão vốn lý tưởng hóa và dành nhiều tâm sức hơn để xây dựng mối quan hệ. Người cầm tinh con Mèo vốn là mẫu người nhiệt tình và thấu hiểu người khác. Điều này khiến người tuổi Ngựa rất hài lòng. Tuy nhiên, tuổi Ngọ thích bay nhảy, thích khám phá và thích đi đó đi đây. Chỉ ngồi một chỗ thì quả là điều rất khó với Ngựa trong khi quanh quẩn trong gia đình với những người thân là điều rất tuyệt với Mão. Ngựa thông minh, quyến rũ và thích đi nhiều nơi nhưng lại chẳng thích gắn bó lâu dài với những nơi mình đến bởi Ngựa luôn có tâm lý tìm “một đồng cỏ xanh tươi ấm áp hơn”.

Nếu Mão và Ngựa là một cặp uyên ương, cả hai cần cùng điều chỉnh để tình yêu thêm thắm đượm. Tuổi Mão vốn nhút nhát, rụt rè nên luôn cần sự hỗ trợ, bảo vệ của những người thân, đặc biệt là người yêu của mình. Với Ngọ thì đây là điều không dễ thực hiện bởi Ngọ vốn thích tự do và là mẫu người khó đoán trước. Tuy nhiên, nếu Ngọ tìm được sự cân bằng giữa những điều mình mong muốn và hỗ trợ Mão lúc cần thiết thì Mão sẽ dành rất nhiều tình cảm ưu ái cho người mình yêu. Mâu thuẫn xảy ra giữa hai hành tinh này nếu Ngọ tỏ ra chẳng còn hứng thú gì với mối quan hệ của hai người và thỏa mãn tính thích tự do.

Khi là đối tác kinh doanh, Mão và Ngọ cần một bên thứ 3 để giúp cho mối quan hệ của hai người êm đẹp. Ngựa làm việc chăm chỉ và lập kế hoạch tốt nhưng rất dễ nản và bỏ cuộc. Còn Mão hay áp dụng ý kiến chủ quan vào công việc kinh doanh, hơn nữa kỹ năng về tài chính và các vấn đề khác chưa đủ vững. Bởi vậy rất cần một nhân vật thứ 3 nào đó xuất hiện để cùng hỗ trợ hai người.

Tuổi Mão và Mùi

Mối quan hệ giữa Mão và Mùi sẽ rất bền chặt. Hai tuổi này có những điểm giống nhau nhưng cũng có điểm khác nhau. May mắn là điểm khác nhau lại bổ sung cho nhau để hai con giáp này dễ dàng hòa hợp. Mão và Mùi đều mơ mộng, có tâm hồn nghệ sĩ và thường đưa ra quyết định theo cảm tính. Cả hai hành tinh này đều cần một bờ vai để dựa.

Bởi vậy nếu Mão và Mùi là một cặp uyên ương, họ sẽ rất nồng thắm và cảm thấy bình yên vì được người kia luôn ủng hộ. Mão biết cách tận dụng lợi thế của tuổi khác bởi tính hay dựa dẫm và bị động. Nhưng điều này chẳng có vấn đề gì với Mùi cả bởi Mùi hoàn toàn làm được. Mâu thuẫn xảy ra khi hai hành tinh này không có tâm lý ổn định. Cả hai tuổi này sẽ cảm thấy bi quan khi gặp khó khăn và không tìm ra phương án giải quyết hợp lý. Trong thời điểm này thì Mão mạnh dạn hơn và có thể giúp đỡ Mùi. Nếu Mão và Mùi cùng sống trong một ngôi nhà, ngôi nhà của họ sẽ rất thoải mái và được trang hoàng theo rất đẹp vì cả hai đều nhạy cảm và thích trang trí.

Khi là đối tác kinh doanh, Mão và Mùi có thể kết hợp thật tốt nếu phát huy được tính sáng tạo trong công việc. Tuy nhiên, về tài chính thì sẽ cần sự can thiệp và giúp đỡ của nhân vật thứ ba. Bởi thực tế là cả hai hành tinh này đều không thạo lắm về tài chính. Điều họ quan tâm và tập trung nhiều thời gian hơn cả đó là nghệ thuật, tình cảm. Bên cạnh đó, Mùi còn phải đảm nhiệm một số việc thay Mão vì Mão không có khả năng làm được. Mão sẽ đóng vai trò làm người dẫn đường vì khả năng giao tiếp và điều khiển cảm xúc tốt hơn.

Tuổi Mão và Thân

Mão và Thân có khá nhiều điểm khác nhau, bởi vậy cả hai cùng cần cố gắng để hiểu và dung hòa mối quan hệ. Tính hay nhún nhường của Mão sẽ cải thiện đáng kể mối quan hệ nhưng nhìn chung tuổi Mèo thường bị động và vị tha hơn mức cần thiết. Do đó, trong mối quan hệ giữa Mão và Thân thì Mão dành nhiều tâm huyết hơn. Tuổi Khỉ thì thường dành nhiều thời gian để theo đuổi những hoài bão và ước mơ của mình.

Khi là hai người yêu nhau, hai hành tinh này có rất nhiều sở thích khác nhau. Mão thích các công việc nhà, thích những bản nhạc nhẹ nhàng. Tuy hơi nhút nhát nhưng trong những cuộc gặp gỡ mang tính gia đình hoặc bạn bè thân thiết, Mão rất nhiệt tình. Tuổi Thân đam mê các buổi tiệc tùng, thích đám đông, ồn ào và náo nhiệt. Nhưng họ khác nhau ở chỗ: Mão thích tổ chức các bữa tiệc nhỏ trong gia đình còn Thân thì lại thích các sự kiện đó tại các câu lạc bộ, những tụ điểm đông người. Hai tuổi này có một số điểm có thể dung hòa được nhưng sự gắn kết khó có thể bắt nguồn từ sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn.

Khi là đối tác kinh doanh, Mão và Thân cần phối hợp thật nhịp nhàng để công việc của họ không bị đổ bể. Mão không nên đảm nhiệm các vấn đề liên quan đến tài chính và Thân cũng vậy. Bởi người tuổi Thân chi tiêu khá mạnh tay và khó có thể giữ được tiền. Tốt nhất, Thân sẽ là người ở “tiền tuyến” đảm nhận trách nhiệm tổ chức các cuộc gặp gỡ đối tác, khách hàng và Mão sẽ chăm lo việc hậu phương để hỗ trợ cho Thân. Còn tài chính chắc hẳn cần nhờ tới một nhân vật thứ ba đảm đương để công việc kinh doanh phát triển đi lên.

Tuổi Mão và Dậu

Mão và Dậu cần nỗ lực rất nhiều để hiểu được động cơ và mục tiêu cuộc sống của nhau. Mối quan hệ của họ sẽ đối mặt với nhiều giai đoạn căng thẳng. Mâu thuẫn nằm ở chỗ, Mão và Dậu có quan điểm khác nhau về cuộc sống: Mão thường đưa ra ý kiến chủ quan và gặp khó khăn khi giải quyết các vấn đề thực tế. Còn tuổi Dậu luôn đòi hỏi sự chính xác trong từng công việc mình làm. Bởi vậy nên trong con mắt của Dậu, Mão là mẫu người “đoảng”; còn với Mão thì Dậu thường đòi hỏi cao và hay chê bai người khác. Tuy nhiên, dù không hài lòng, Mão cũng ít khi phàn nàn hoặc tỏ sự không hài lòng.

Khi là một cặp uyên ương, hai tuổi này khó mà hài lòng về nhau. Mão sẽ dành nhiều tâm huyết cho mối quan hệ. Điều này thì Dậu không có ý kiến gì. Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm nhất đó là họ có quan điểm và cách ứng xử khác nhau trong tình yêu. Tuổi Gà thích mè nheo, đòi hỏi mọi người xung quanh kể cả người yêu phải thế này, thế kia để hướng tới sự hoàn hảo. Còn tuổi Mèo thì rất cần sự hỗ trợ về mặt tinh thần của người yêu để giữ cho cuộc sống cân bằng. Có những lúc Gà có thể đáp ứng được yêu cầu của Mèo một cách chân thành. Nhưng đôi khi Mèo lại thấy hình như mình bị xỏ mũi vì vậy nên Mèo cảm thấy tự ái.

Trong kinh doanh, tuổi Gà cũng nhanh chóng chán tuổi Mèo vì người cầm tinh con Gà cho rằng người cầm tinh con Mèo thiếu sự logic, thiếu thực tế. Dậu sẽ là người chủ động việc công việc tại cơ quan còn Mão thì khá thụ động và đi chệch những mong muốn của Dậu.

Tuổi Mão và Tuất

Mão và Tuất sẽ cùng nhau xây dựng một mối quan hệ bền chặt và nồng thắm dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Tuổi Mão khá nhút nhát, thường bị một số tuổi khác lợi dụng sự nhiệt tình nhưng Tuất thì không hành động như vậy. Tuất thường ít khi đặt niềm tin ở người khác nhưng trong quan hệ với Mão, Mão không để cho Tuất có lý do nghi ngờ điều gì. Cả hai hành tinh này đều đáng tin, trung thực và luôn bảo vệ nhau.

Khi là một cặp uyên ương, hai hành tinh này sẽ kết hợp rất hài hòa. Mão có xu hướng dựa vào đôi vai của người mình yêu khi có rắc rối về mặt tinh thần, tình cảm. Thiếu sự hậu thuẫn của người yêu, Mão sẽ mất bình tĩnh và tự tin. Tuổi Mão thường nhìn cuộc sống bằng ánh mắt chủ quan; Tuất đôi khi cũng có những sợ hãi vô lý của riêng mình nhưng Tuất vẫn đủ can đảm để đem lại sự thoải mái và niềm tin cho Mão. Bù lại, sự chăm sóc tận tình, tình yêu thương của Mão sẽ đem lại niềm hạnh phúc cho Tuất. Nếu họ sống trong cùng một ngôi nhà, căn nhà của họ sẽ tràn đầy tiếng cười và được trang trí mang tính nghệ thuật nhờ tài năng của Mão. Vấn đề lớn nhất mà Mão và Tuất gặp phải là sự bi quan khi sự việc cần giải quyết hỗn loạn và khó hiểu. Trong trường hợp quá lo lắng, họ sẽ không đủ bình tĩnh để tìm ra phương án giải quyết hợp lý.

Khi là đối tác kinh doanh, hai con giáp này sẽ tạo thành một tập thể vững mạnh và sáng tạo. Một số ý tưởng sáng tạo của Mão sẽ khiến Tuất ngạc nhiên và trở nên kiên nhẫn lắng nghe và thực hiện. Trong khi đó, Tuất có tài kinh doanh, cẩn thận và biết đánh giá giá trị của lao động nên sẽ đảm nhiệm tốt vấn đề tài chính. Cả hai sẽ kết hợp với nhau để tạo thành một tập thể phát triển tích cực theo hướng đi lên.

Tuổi Mão và Hợi

Mão và Hợi sẽ tạo thành mối quan hệ khá hài hòa. Tuổi Hợi cảm thấy thoải mái và sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ người mình yêu quý. Điều này rất cần cho Mão bởi tuổi Mão vốn cần sự hỗ trợ từ bạn bè, người thân khi gặp rắc rối để giữ được cân bằng cho cuộc sống. Bởi vậy, hai con giáp này hỗ trợ rất đắc lực cho nhau và tạo thành một cặp bài trùng ăn ý.

Bên cạnh đó, có thể kể đến một số tính cách khác nữa để thấy hai tuổi Mão và Hợi hợp nhau. Hợi vốn rộng lượng và thường chỉ nhìn vào những điểm tốt của người khác. Trong khi đó, Mão khi làm bạn với ai thường rất thấu hiểu và cảm thông. Bởi vậy, hai tuổi này thường bỏ qua được lỗi lầm của nhau và cùng sống chan hòa. Những điểm yếu của Mão như nhút nhát, bị động và thường đưa ra ý kiến chủ quan… thường vượt quá sự chịu đựng của một số con giáp. Nhưng riêng với Hợi thì những tính cách đó chẳng có ảnh hưởng gì tới mối quan hệ của hai người. Bù lại, tuổi Mão cảm thấy rất hạnh phúc vì có Hợi bảo vệ và che chở. Bởi thế nên Mão luôn trung thành và hết lòng vì Hợi. Khi là hai người yêu nhau, Mão và Hợi sẽ là một cặp trời sinh. Ngôi nhà chung của họ sẽ đầy ắp tiếng cười và không khí ấm cúng.

Nếu là đối tác làm ăn, Hợi sẽ đóng vai trò là người ở tiền tuyến và Mão sẽ gửi trọn niềm tin đối cho Hợi. Hợi sẽ lắng nghe sáng kiến của Mão và hai con giáp cùng nhau xây dựng một đế chế phát triển bền vững.

Xem thêm:

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Mão với các tuổi khác

Tử vi Lục thập hoa giáp

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tuổi Mão

Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 4)

Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 4). thảo luận các sao, các cách tốt hóa giải vận hạn trong lá số tử vi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 4)

Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 4)

4. Họa cho tài sản: thường hay xuất hiện ởhai cung Điền và Tài,ở những cung chiếu Điền(Tử, Tật, Bào), chiếu Tài(Phúc, Quan, Mệnh), cung Thânvà các cung Hạn.

a. Những đại họa tài sản:

Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: trong bối cảnh một cung Điền hay cung Tài xấu vì chính tinh hãm địa, sự hiện diên của 1 trong 2 sao hoặc của cả 2 sao này báo hiệu hiểm họa lớn lao cho tài sản, họa lớn, có tính chất bất khả kháng, ảnh hưởng đến nhiều người cùng một lúc. Có thể hình dung Không Kiếp như một tai họa chiến tranh làm tiêu tán tài sản, nạn lạm phát đồng tiền, thiên tai lớn, hành vi pháp lý của Nhà nước có hậu quả nặng nề đến cuộc làm ăn của toàn dân, việc quốc hữu hóa các công ty thương mại ... Mặt khác, Không Kiếp còn có thể tượng trưng cho sự cướp của, sự hủy hoại tài sản cá nhân, sự đốt nhà, phá hoại hoa màu ... Nếu hội với sao xấu như Phá Toái, Kiếp, Sát thì hệ số họa sẽ lên cao, nguy hiểm nhiều hơn. Càng hội tụ nhiều, số lượng càng chồng chất, họa vô đơn chí.

Thiên Không: hậu quả của Thiên Không trên tài sản cũng gần tương đương như Địa Không, nhất là khi tọa thủ ở Tài, Điền và nhất là khi gặp thêm hạn xấu. Hội với Địa Không, Địa Kiếp, sức tác họa càng dữ thêm, có hại đến cả sinh mạng. Thông thường, Thiên Không rơi vào cung hạn thì tác họa mạnh mẽ hơn bình thường: các dự định đều thất bại, sự nghiệp sa sút, mua bán thua lỗ, mất của thường do lường gạt, lừa đảo, có khi vướng vào tù tội.

Tuần, Triệt đồng cung ở Điền, Tài: dù Điền hay Tài có chính tinh hay không, có cát tinh đi nữa thì cũng không quân bình được bất lợi của cả Tuần lẫn Triệt đồng cung. Hai sao này hợp nhất phối hợp phá hoại tài sản đến cùng. Gặp chúng, cá nhân không có di sản, dù có cũng bán hết hoặc không thể thụ hưởng, thường phải tự lực lập nghiệp nhưng có rồi lại dễ mất ngay vì họa, hoặc vì túng thiếu. Đây là bộ sao điển hình của vô sản.

Kình Dương, Đà La hãm địa: cũng báo hiệu họa tài sản, dưới hình thức phá tán tổ nghiệp, điền trạch cũng như tiền bạc. Đi với Không, Kiếp, Thiên Không, ý nghĩa họa càng chắc chắn hơn và họa nhất định nặng hơn. Đặc biệt vào cung hạn, nếu Kình Đà gặp Lưu Kình, Lưu Đà thì họa đến mau chóng và khủng khiếp. Nếu Kình Đà và hai sao Lưu lại tọa thủ hoặc xung chiếu vào Điền, Tài thì họa vào sản nghiệp hiện có thay vì di sản.

Hỏa Tinh, Linh Tinh: chỉ riêng mối họa lửa, dù Hỏa Linh đơn thủ hay hội họp với sát hao tinh khác. Hai sao này đi chung với một số sao khác cũng mang ý nghĩa tương tự như: Hỏa Kiếp Cơ, Hỏa Tang, Linh Hình Việt, Phi Hỏa, Cự Hỏa, Cơ Hỏa, Hỏa Linh Tướng Binh. Chỉ riêng bộ sao Hỏa Tướng Binh hay Linh Tướng Binh có nói ít nhiều đến nguyên nhân hỏa hoạn: đó là việc gian phi đốt nhà, đốt ruộng, đốt hoa màu, hàng hóa.

Lưu Hà: thủy họa đối với tài sản, đi chung với Địa Không, Địa Kiếp chỉ tại họa lớn: nước lụt đắm tàu, hoa màu úng thủy, hàng hóa bị ngập nước ...

Đại Hao, Tiểu Hao: Trừ phi đắc địa ở Mão, Dậu (có tiền của dồi dào), Nhị Hao bao giờ cũng phá tán của cải, hao hụt điền sản thường là do cái đà ăn xài quá lớn không kìm hãm được nữa. Song Hao ở Điền, Tài thường xuyên có chuyện tốn kém, lớn có nhỏ có và liên tiếp. Sự hao tán của bộ sao này gần như triền miên. ở Điền, Nhị Hao ngụ ý phải lo "một kiểng hai huê". ở Tài thì luôn luông có chuyện phải tiêu lớn, tiêu nhỏ. Nếu Thiên Không tối kỵ ở cung Quan thì Nhị Hao tối kỵ ở cung Tài và cung Điền. Ngoài ra, về bệnh tật, Nhị Hao phải tốn vì một bệnh trầm kha, tái đi tái lại nhiều lần, thường là bệnh về bộ máy tiêu hóa tương đối nặng.

Tướng, Binh, Kiếp hay Không: chỉ họa cướp của. Đóng ở Điền, Tài, đương số sẽ bị cướp đến khảo của, phá nhà, tống tiền, có thể bị thanh toán. Nếu có thêm Tả Hữu thì thường có nội gián, tòng phạm lâu la đông đảo. Bộ sao này cũng nói lên trường hợp bị cưỡng bách đóng thuế bằng cách hành hung, đe dọa sinh mạng hoặc bắt cóc đòi tiền chuộc. Trong trường hợp có bắt cóc tống tiền thì thường có Thiên Hình đi kèm.

b. Những tiểu họa tài sản:

Phục Binh: điển hình cho sự mất trộm. Cung Điền, Tài bị sao Binh trấn đóng hay hội chiếu thường bị người khác lấy của bằng cách trộm, lừa đảo, ăn chặn, quỵt hụi, trốn nợ, giựt đồ, móc túi ... Có khi tai họa không do thủ phạm mà do sơ xuất của chính mình, dù sao cũng là sự mất mát ngoài ý muốn của sở hữu chủ.

Binh, Tả, Hữu: có tòng phạm giúp đõ, chỉ dẫn, dụ dỗ, đánh lừa để lấy đồ bằng mưu chước xảo quyệt. Có khi Tả Hữu còn chỉ tôi tớ trong nhà, làm nội ứng chỉ điểm cho gian phi, hoặc chính người giúp việc trộm cắp của chủ nhân. Bộ sao này cho thấy việc đánh cắp có tổ chức, có kế hoạch.

Thiên Không: đứng riêng rẽ, sao này chỉ tên lưu manh, gian hùng, xảo quyệt, có nghĩa tương tự như Phục Binh. Nếu cả hai cùng hội tụ thì đây là cách gian phi họp đang, tác họa nhiều hơn.

Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ, Hóa Kỵ: chỉ hao tài sản do sự lường gạt, phản bội, hoặc do kiện tụng mà hao hụt của cải, kiện tụng về tài sản cụ thể như bị xử ép, chia của không sòng phẳng, thanh toán không phân minh. ứng vào điền sản, những sao này cho thấy phải có tranh chấp về đất đai, ruộng vườn, phải tốn tiền vì điền thổ mới có của, phải kiện thưa mới đuổi được người cư ngụ bất hợp pháp mới cất được nhà. Cũng có thể nhà, đất của mình không có lai lịch phân minh, bị tố tụng, thưa kiện và có khi thất kiện phải mất đất, trả nhà.

Thiên Hình: ở Điền, Tài, sao này chỉ họa của người bị bắt giam vì tài sản, bị họa lụy vì tiền bạc hoặc nếu là điền sản thì có thể bị tịch thu, tịch biên. Đây là trường hợp những người bị bắt để đổi tiền chuộc mạng, của bọn khảo của, tống tiền, thu thuế bằng bạo hành, đe dọa. Nếu đương số làm nghề tài chính, thì Hình sẽ ứng vào các vụ biển thủ, quản lý sơ suất để mất tiền phải bị ra tòa, đền tiền. Nếu ở cung Điền, nhà đất dễ bị tịch thu, sai áp, niêm phong do một án tiết cá nhân, có liên quan đến của cải bất hợp pháp hoặc đến uy thế chính trị suy sụp. Nếu ứng vào cơ thể có nghĩa thương tích thì ứng vào điền trạch cũng có nghĩa bế tỏa như vậy. Bị Thiên Hình, cơ xưởng, làm ăn có thể bị sai áp, quốc hữu hóa, trưng dụng, trưng thu. Nếu có thêm sát tinh khác, đây có thể là đại họa.

Điếu Khách, Văn Xương, Văn Khúc: chỉ họa hao tài vì đánh bạc, thông thường có đi đôi với Song Hao, hoặc Khốc Hư, Tang Hổ, Xương Khúc thì thỉnh thoảng có đỏ đen, còn Điếu Khách thì máu cờ bạc quá nặng đến nỗi trở thành tập quán khó chừa, lấy đổ bát làm sinh kế và chắc chắn cũng vì đổ bát mà tán tài, tán điền.

Hỏa, Linh với Song Hao: họa tài sản bắt nguồn từ bệnh nghiện thường là nghiện á phiện, ma túy, rượu, rất nguy kịch cho của cải và sức khỏe. Không cần gì phải có cả Hỏa và Linh với Song Hao, chỉ cần Hỏa hay Linh cũng đủ.

Đào, Hồng với Song Hao: họa tài sản do gái/trai tạo ra. Đây là hoàn cảnh của các chàng hào hoa bị dại gái bị lừa gạt, phải chi khá nhiều để chu cấp cho gái hoặc phụ nữ mê trai cũng chu cấp cho các chàng thất nghiệp. Đào Hồng ở Tài, Điền thì phải tốn tiền ít nhiều cho tình nhân, nếu có Song Hao thì chi phí lớn theo tỷ lệ túi tiền của nạn nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 4)

Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Chọn đất tốt an táng là một trong những việc rất quan trọng, không chỉ với người đã khuất mà còn với gia đình, những người còn sống. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ là một gợi ý đáng lưu tâm cho bạn.
Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyệt mộ mà Hình và Thế mâu thuẫn, đại mạch không thông, phong thủy hỗn loạn thì sẽ nảy sinh hiện tượng trái với tự nhiên. An táng ở đất ấy thì thi thể không thể tiêu tan, có hại cho người đã mất và vận thế của gia đình.    Long huyệt là nơi đất tốt, có long mạch, rất thích hợp để an táng, có lợi cho người còn sống, con cháu được hưởng phúc tổ tiên. Cách chọn long huyệt cho phụ nữ không giống với nam giới. Vốn “phúc đức tại mẫu”, huyệt mộ của người phụ nữ càng tốt thì gia trạch càng hưng.   Muốn táng người nữ trong nhà ở cuộc đất tốt cho âm trạch thì phải chọn nơi phong thủy thật tốt, trước thoáng rộng, sau có chỗ dựa, chín dòng nước như Cửu Long mang nước, phân cách đồi núi như đóa hoa sen nở rộ, gọi là Cửu Long tráo ngọc liên”. Nếu thiếu một dòng, thêm một dòng hay dòng nước quá mạnh đều có thể phá vỡ thế cục, không tốt.   Số 9 là số lớn nhất ở hàng đơn vị, ẩn chứa ý nghĩa chí tôn, phát âm cũng tựa như vĩnh hằng, là kí tự cát tường, may mắn. Mặt khác, dòng nước nhỏ thì không gọi là Long mà là Xà, cũng mất thế cục.   Một cuộc đất tốt để táng người nữ khác là “Lạc thần liễn”. Thế đất này chỉ hợp với táng người nữ, táng người nam thì cả gia tộc bại vong, người nam trong nhà không ốm yếu chết bệnh cũng suy đồi.   Mộ mà phía trước có một đạo nho nhỏ dẫn tới suối hoặc ao, mà con suối ấy lại là địa mạo hiểm thủy thì chính là thế huyệt tốt. Dòng nước mà suối dẫn vào tưới tắm, làm tốt tươi cho ngôi mộ, thế đất cực tốt trong phong thủy âm trạch.   Đây là thế huyệt hiếm gặp, giữa huyệt có dòng nước vĩnh viễn chảy, không lớn tới mức tràn ra, không nhỏ đến nỗi khô cạn, tụ khí. Tìm được cuộc đất tự nhiên như vậy rất thích hợp để táng người nữ trong nhà, con cháu được hưởng phúc ấm.   Trần Hồng (Theo 99166)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

Phong thủy xe hơi –

Khi nhắc tới xe hơi, người ta thường ngầm quy ước với nhau hình ảnh của chiếc xe là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh của chủ xe, tuy vậy, hiếm có người chú ý tới việc mang lại “khí tốt” cho chiếc xe của chính họ. Những dòng khí hay năng lượng đó là tổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi nhắc tới xe hơi, người ta thường ngầm quy ước với nhau hình ảnh của chiếc xe là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh của chủ xe, tuy vậy, hiếm có người chú ý tới việc mang lại “khí tốt” cho chiếc xe của chính họ.

Những dòng khí hay năng lượng đó là tổng hòa của nội thất xe lẫn tất cả những gì thuộc về chiếc xe đó, tất nhiên dù chúng có cân bằng hay không thì cũng đều ảnh hưởng trực tiếp lên chủ xe. Khoa học phong thủy chỉ ra một số điểm chú ý nhằm mang lại phong thủy tốt cho xe hơi.

Thế Tứ Linh trong xe hơi

Nhìn chung, hơi cũng tuân thủ theo thế đất Tứ Linh kinh điển: phía sau cao hơn phía trước và được “nâng đỡ” ở hai bên xe, thậm chí chỗ ngồi của xe cũng nên theo hình thế Tứ Linh này. Những xe nào thoai thoải về phía sau và trống ở phía sau có thể khiến người ngồi trong xe cảm thấy bất an, như trong trường hợp bạn nhìn thấy ai đó lái xe mà cửa sau hoặc nắp thùng sau xe không được đóng kín.

Đèn sau xe tượng trưng cho khu vực Huyền Vũ, chính vì vậy phải chắc chắn rằng các đèn này không bị mờ tối và luôn hoạt động tốt; khi chúng bị hỏng phải thay thế ngay. Các xe có vị trí ngồi dốc về phía trước, như các loại xe thể thao đắt tiền, cũng phơi bày nhược điểm ở phía sau vì vị trí Huyền Vũ yếu. Phong thủy chỉ ra rằng không nên để những bộ phận quan trọng như thế bị hỏng hóc hoặc mờ đục.

20130831090437-san-pham-bmw

Trang trí xe

Những logo cảnh báo dán phía sau xe có tác dụng tăng cường năng lượng cho vị trí Huyền Vũ này, đặc biệt là những câu đại loại như “Làm ơn giữ khoảng cách” hoặc “Baby in car”. Với những giấy dán có tính khôi hài hoặc khó đọc sẽ mang đến tác dụng ngược vì chỉ khuyến khích xe chạy sau tiến đến gần xe của bạn hơn. Vì vậy, bất cứ loại logo hay giấy dán trang trí nào gây mất tập trung của người phía sau thì chủ xe nên tránh dùng.

Có nhiều người thường mang theo những vật có tính linh thiêng trong xe hơi khi di chuyển. Ở phương Tây hình tượng thánh Christopher được tin là vật hộ mạng vì đây là Thánh đỡ đầu cho những người đi xa trong khi ở Việt Nam đó là hình tượng Phật Bà Quan Âm hoặc Đức Mẹ Maria…

Xe hơi và “luồng khí sạch”

Không khí bên trong xe cần phải trong lành vì đây là yếu tố quan trọng liên kết người ngồi trong xe với thế giới bên ngoài. Nếu không khí thiếu trong sạch, tài xế sẽ trở nên dễ mệt mỏi và mất tập trung.

Để làm trong lành bầu không khí trong xe, chủ xe có thể dùng các chất tạo mùi tự nhiên đồng thời cũng tác động lên tâm trạng của những người trong xe. Cây hương thảo, dầu hoa cam và dầu chanh có tác dụng rất tốt trong việc làm nguôi cơn giận và giúp cho tâm trí của người ngồi trong xe được thanh thản, nhẹ nhàng. Chú ý không để cho đồ đạc trong xe bị xáo trộn bừa bãi.

Tầm nhìn lại là một yếu tố quan trọng khác khi tài xế ngồi bên trong xe hơi. Các kính xe và các đèn pha phía trước nên được giữ sạch và trong để chúng ta có thể quan sát rõ bên ngoài khi gặp thời tiết xấu. Trong phong thủy, những chiếc cửa sổ xe được xem là “mắt xe”.

Thêm vào đó, nên chú ý lên lịch bảo dưỡng xe nhằm duy trì nguồn năng lượng mạnh mẽ vốn có của chiếc xe. Đó không đơn giản là bơm xăng hay rửa xe, bởi nếu chủ xe quan tâm đến động cơ xe như quan tâm đến thân thể của mình thì chẳng ai vui khi chúng không hỏng hóc và hoạt động tốt. Vì vậy, cần đảm bảo rằng chủ xe phải thường xuyên đưa xe đến các gara để đảm bảo các bộ phận xe luôn trong tình trạng họat động tốt.

Chọn màu xe

Đứng trên quan niệm về Phong Thủy, khi chọn màu cho xe chúng ta phải chắc chắn rằng màu này không xung khắc với màu Ngũ hành tương ứng với tuổi của mình.

Ví dụ, một thanh niên tuổi Ngọ mạng Hỏa, không nên chọn xe màu đỏ vì màu này làm tăng thêm tính Hỏa của người ấy. Một chiếc xe màu xanh đậm hoặc đen sẽ làm dịu bớt Hỏa, và Kim – màu trắng hay xám – thì thích hợp hơn, và an toàn hơn, vì làm Hỏa suy yếu đi.

Mặt khác nếu người lái xe nào dễ bị mất tập trung và là người tuổi Hợi mạng Thủy thì nên chọn màu xe thuộc hành Mộc (màu xanh lá). Màu thuộc hành Kim (trắng hoặc bạc) cũng có tác dụng hỗ trợ những người này.

Tuy vậy, việc chọn màu sắc hợp phong thủy cho xe cũng tùy thuộc vào sở thích của chủ xe. Nếu chọn được màu xe hợp mạng, tuổi, nhưng chủ xe lại không thích màu đó, thì điều đó cũng không tạo nên luồng khí giao hòa tốt đẹp giữa chủ xe và chiếc xe. Nên cân nhắc kĩ về vấn đề này.

Bãi đỗ xe

Khi đỗ xe, tốt nhất nên đỗ xe ở vị trí nằm xa với nhà gia chủ hơn là đỗ xe ngay trong một địa điểm nào đấy thuộc ngôi nhà hoặc để xe nằm đối diện với ngôi nhà đó.

Lí do đơn giản cho điều này là do phong thủy vốn quan niệm xe hơi như “một con hổ sống”, nên nếu cứ đỗ xe hướng vào nhà bạn hay nơi làm việc, thì nó sẽ tạo ra sát khí đe dọa tới những người sống ở nơi nó hướng vào.

Biển số xe

Quan điểm về biển số xe có thể thay đổi tùy theo các nền văn hóa khác nhau. Tại Việt Nam, theo phát âm tiếng Hán Việt, số 4 (tứ) được phát âm như chữ “chết” (tử) cho nên đây bị xem là số mang đến điều xui xẻo. Hoặc những biển số có tổng 1 cũng thường bị coi là biển số xấu.

Cũng theo cách này, số 8 có phát âm trong tiếng Hán Việt gần giống chữ “phát” nên rất được ưa chuộng. Tương tự như vậy, số 6 có phát âm trong tiếng Hán Việt gần giống với “lộc” nên cũng được xem là một số đẹp. Biển số xe nào có chứa nhiều số 6 và 8 thường được nhiều người săn lùng và sẵn sàng trả giá cao để sở hữu.

Thêm vào đó, nếu có những con số phù hợp với mệnh của người lái thì biển số xe cũng có thể sẽ mang lại nhiều may mắn. Ví dụ, mệnh Mộc hợp với những số 1-3-4 hoặc mệnh Hỏa thì hợp những số 9-0.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy xe hơi –

Khám phá sức mạnh cá tính ngay trong lòng bàn tay (P1)

Theo các chuyên gia thông qua việc xem chỉ tay có thể giúp cho bạn đoán trí tuệ của mình và người khác chính xác. Vị trí đường đường Trí Đạo cho thấy sức mạnh
Khám phá sức mạnh cá tính ngay trong lòng bàn tay (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo các chuyên gia thông qua việc xem chỉ tay có thể giúp cho bạn đoán trí tuệ của mình và người khác chính xác. Vị trí đường đường Trí Đạo cho thấy sức mạnh cá tính của mỗi người. 


Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh
 
Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc
 
Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 2
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 3
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 4
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 5
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 6
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 7
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 8
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 9
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 10
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 11
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 12
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 13
 
Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 14
 


Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 15
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 16
 

Kham pha suc manh ca tinh ngay trong long ban tay P1 hinh anh goc 17
 
(Còn tiếp)

► Đoán vận mệnh, tài lộc của bạn qua việc xem bói theo tử vi khoa học
Kiếm Phong 
Xem Clip Nguyên nhân của nóng giận


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá sức mạnh cá tính ngay trong lòng bàn tay (P1)

Các lễ hội ngày 25 tháng 1 Âm Lịch - Lễ Cầu Ngư Ở Mân Thái

Các hội lễ tiêu biểu diễn ra trong ngày 25 tháng 1 âm lịch gồm có Hội Chùa Thánh Chúa, Lễ Cầu Ngư Ở Mân Thái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 25 tháng 1 Âm Lịch - Lễ Cầu Ngư Ở Mân Thái

Các lễ hội ngày 25 tháng 1 Âm Lịch - Lễ Cầu Ngư Ở Mân Thái

Các lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 25 tháng 1 âm lịch

1. Hội Chùa Thánh Chúa

Thời gian: tổ chức vào ngày 25 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: phường Mai Dịch và Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn vinh Phật và Nguyên Phi Ỷ Lan.

Nội dung: Chùa Thánh Chúa hiện là chùa chung của hai phương Dịch Vọng và Mai Dịch. Hội chính thức được mở vào ngày 25 tháng 1 âm lịch. Vào hội được mở suốt tử cổng vào tới tam quan, cờ và Phướng nhà Phật bay rợp đất. Người khắp nơi đến dự rất đông. Trong hội chùa có các hoạt động tụng kinh, niệm Phật, hát chèo đò đưa thuyền về Tây Trúc của các vãi và múa sen tượng trưng cho sự tinh khiết, múa chim phượng tượng trưng cho sự ấm no và hạnh phúc và hát chèo tích Phật, giúp con người luôn hướng thiện.

2. Lễ Cầu Ngư Ở Mân Thái

Thời gian: tổ chức từ ngày 25 tới ngày 26 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Thọ Quang, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Cá Ông.

Nội dung: Trong lễ Cầu Ngư, nghi thức lể chỉ diễn ra 3 năm 1 lần, sau đó tùy theo kinh phí, những năm tiếp theo, nhân dân chỉ tổ chức tiểu lễ hoặc trung lễ, trong đó tiểu lễ cúng đức Ngư Ông thần biển, không có nghi thức múa hát hoặc sướng văn. Trung lễ khác tiểu lễ là có thêm văn tế, có nghi thức cúng như đại lễ nhưng không có hát trả trạo.

Trưa ngày 25 tháng giêng, lễ cầu ngư chính thức bắt đầu: Đua ghe, bơi lội, lắc thúng, kéo co, hát tuồng..


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 25 tháng 1 Âm Lịch - Lễ Cầu Ngư Ở Mân Thái

Những con giáp mắn trong tháng 9

Con giáp may mắn nhất tháng 9: Với sự chiếu rọi của Thần May mắn, người tuổi Tỵ đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp và chuyện tình cảm.
Những con giáp mắn trong tháng 9

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với sự chiếu rọi của Thần May mắn, người tuổi Tỵ đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp và chuyện tình cảm.
 

1. Người tuổi Tỵ

Trong tháng 9 này, chỉ số may mắn về công việc, sự nghiệp và chuyện tình cảm của người tuổi Tỵ cao nhất. Nếu ai có dự định đầu tư hoặc kinh doanh thì có thể tiến hành vào những ngày đầu tháng, để cuối tháng ngồi tận hưởng thành quả đạt được.

Nhung con giap dong hanh cung Than May man trong thang 9 hinh anh
Tuổi Tỵ

Hơn thế, con giáp may mắn trong tháng 9 này còn giúp người cầm tinh con Rắn trúng thưởng, thậm chí là trúng số độc đắc.
 
2. Người tuổi Thìn
 
Khác với người tuổi Tỵ, trong tháng 9 này, người tuổi Thìn lại gặp nhiều may mắn về tình cảm hơn là công danh sự nghiệp. Nhiều khả năng bạn sẽ được nhiều người tỏ tình cùng lúc và phải khá khó khăn khi đưa ra câu trả lời vì mỗi người có sức hấp dẫn riêng.

Nhung con giap dong hanh cung Than May man trong thang 9 hinh anh 2
Tuổi Thìn

Bên cạnh đó, tình hình tài chính của người tuổi Thìn khả quan, các nguồn chính tài và phụ tài đều dồi dào. Theo đó, con giáp này lúc nào cũng rủng rỉnh tiền tiêu trong suốt tháng.
 
3. Người tuổi Tý

Mọi việc lớn nhỏ của người tuổi Tý đều được tiến hành thuận buồm xuôi gió trong tháng 9. Là con giáp may mắn trong tháng 9, con giáp này sẽ vượt qua mọi trở ngại trong công việc cũng như chuyện tình yêu đôi lứa để tiến đến sự thành công vượt bậc.

Nhung con giap dong hanh cung Than May man trong thang 9 hinh anh 3
Tuổi Tý

Đồng thời, đây cũng là thời điểm mà sức khỏe của bạn vô cùng sung mãn. Đó là nền tảng cơ bản giúp người tuổi Tý tận hưởng trọn vẹn niềm vui trong cuộc sống.
 
4. Người tuổi Ngọ
 
Tháng 9 của người tuổi Ngọ trôi qua một cách yên bình và hạnh phúc. Nhiều khả năng bạn sẽ cùng gia đình, bạn bè có chuyến du lịch xa, trải nghiệm những điều mới lạ trong cuộc sống. 

Nhung con giap dong hanh cung Than May man trong thang 9 hinh anh 4
Tuổi Ngọ

Được Thần May mắn phù trợ, người tuổi Ngọ là con giáp may mắn trong tháng 9 không những gặt hái được nhiều thành công trong công việc, tiền bạc mà cả chuyện tình yêu đôi lứa cũng vô cùng thuận lợi. 
 
Người tuổi Ngọ độc thân vượng vận đào hoa nên dễ dàng mở rộng các mối quan hệ và tìm cho mình đối tượng ưng ý. Hơn thế, mối quan hệ của hai bạn sẽ tiến triển nhanh chóng, hứa hẹn kết thúc tốt đẹp.
 
► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

ST
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp mắn trong tháng 9

Những chiêu phong thủy cho người độc thân hiệu quả

Bạn vẫn còn độc thân và đang rất buồn vì chưa tìm được tình yêu như ý? Những chiêu phong thủy cho người độc thân sau đây sẽ giúp bạn.
Những chiêu phong thủy cho người độc thân hiệu quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn vẫn còn độc thân và đang rất buồn vì chưa tìm được tình yêu như ý? Hãy chú ý đến những chiêu phong thủy cho người độc thân sau đây để có thể mau chóng tìm được người yêu thương...


Đồ vật


Nếu những đồ dùng hay vật trưng bày trong nhà bạn còn đơn lẻ thì hãy mua thêm một thứ nữa để nó có đôi có cặp.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Thủy tinh màu rất có tác dụng trong việc tăng vận may tình duyên. Các bạn gái có thể để bột thủy tinh màu vào một chiếc túi vải nhỏ, coi như là một lá bùa may mắn cho tình yêu. Đặt chiếc túi nhỏ này ở đầu giường hoặc luôn mang theo bên mình, bạn sẽ sớm gặp được người trong mộng.


Màu sắc và hình dạng


Những đồ vật màu hồng sẽ mang đến năng lượng cho tình yêu. Hãy sử dụng màu này cho những vật dụng hàng ngày như chăn màn, ga gối, rèm cửa... Không nên sử dụng màu đen.

Hình tròn tượng trưng cho sự đủ đầy, trọn vẹn. Đối với nữ giới, tránh đặt gương trang điểm ở vị trí nhìn thẳng ra cửa vì khi bạn ra vào phòng ngủ, hình phản chiếu trong gương sẽ làm bạn giật mình. Không nên đặt gương trang điểm thẳng đầu giường, nếu không bạn rất dễ thấy ác mộng và tinh thần không được tốt.

Trong phong thủy, việc gìn giữ tình yêu kỵ nhất là những đồ kỷ niệm gợi nhớ về hình bóng của người cũ. Vì thế, nếu bạn muốn thoải mái, nên bỏ hết những bức thư tình cũ, những món quà tặng không cần thiết của người cũ. Như vậy bạn mới sẵn sàng để đón nhận tình yêu mới và không để cho quá khứ làm tổn thương bạn.

Cây và hoa


Khi trồng cây, không nên chọn những cây quá nhỏ, dài, nhọn hoặc xù xì, nhiều nhánh như hoa li ti hay cây cỏ… Tất cả những đặc điểm này không phù hợp với người độc thân. Nên chọn cây cảnh có lá to bản, gốc to, màu xanh tươi, tượng trưng cho sự ổn định, bền vững.

Cần chú ý khi cắm hoa tươi trong phòng. Nếu là con trai thì hãy đặt lọ hoa ở bên phải của phòng khách. Nếu là con gái thì đặt bình hoa ở bên trái của phòng khách. Tránh dùng hoa nhựa hay hoa vải.

Nên dùng bình sứ hoặc bình gốm, cố gắng đừng để có hoa rụng vì đó là một điềm chẳng lành báo hiệu sự bi thương.

(Theo Bog Phong Thủy)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chiêu phong thủy cho người độc thân hiệu quả

Dấu hiệu nhất thời không may mắn trên khuôn mặt

Bỗng nhiên một ngày nào đó, những dấu hiệu này xuất hiện trên khuôn mặt, bạn cần hết sức lưu ý và đề phòng nhé.
Dấu hiệu nhất thời không may mắn trên khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vùng da trán xuất hiện vết thâm xanh hoặc đen

Theo quan điểm dân gian, màu sắc vùng trán là một trong những tiêu chí đánh giá vận thế tốt xấu của một người trong khoảng thời gian gần nhất. Do đó, nếu trán bạn đột nhiên xuất hiện vết thâm xanh, đen hoặc toàn bộ vùng da trán sẫm màu hơn so với các vùng da lân cận, điều đó báo hiệu điều bất lợi sẽ xảy đến với bạn.

Ngoài ra, nếu trán bị thương do ngã hoặc ai đánh vào, cũng dễ gặp xui xẻo. Bạn cần hết sức đề phòng nhé.

2. Mũi và sống mũi xuất hiện mụn đỏ hoặc sẹo

Nếu mụn đỏ hoặc vết sẹo không rõ căn nguyên xuất hiện trên mũi bạn, chứng tỏ tài vận của bạn đang gặp trục trặc. Đồng thời, phương diện tình duyên của bạn cũng không mấy thuận lợi. Bạn sẽ yêu phải người không chung thủy và dễ rơi vào trạng thái buồn chán.

Theo đó, khi thấy những dấu hiệu này, bạn cần chủ động phân biệt rõ mối quan hệ, tránh lấy dây buộc mình nhé.

khuon-mat-mat-v-line-xinh-dep-1.jpg

3. Đuôi mắt mọc nốt ruồi

Đuôi mắt còn gọi là cung vợ chồng, biểu thị mối quan hệ về tình cảm. Nếu vị trí này xuất hiện nốt ruồi, đồng nghĩa với những điều thiếu may mắn về tình cảm sẽ tới, bạn cần phải dành nhiều thời gian để “giữ nhiệt” cho tình yêu của mình, tránh xảy ra bất hòa.

4. Tóc mái dài che tầm nhìn của mắt

Chỉ một thời gian không được “tỉa tót”, tóc mái của bạn dài hơn tưởng tượng và che hết tầm nhìn. Điều đó không mang lại may mắn, ngược lại dễ khiến bạn gặp xui xẻo.

5. Lông mũi lộ thiên

Nếu ngày nào đó, lông mũi của bạn không chịu “an phận” trong hốc mũi mà lộ thiên, bạn cũng cần hết sức lưu ý. Điều đó báo hiệu những trắc trở bạn sẽ gặp phải trong chuyện tình cảm.

Ngoài ra, nếu cánh mũi xuất hiện nhiều mụn đen, những người làm kinh doanh cần lưu lý và đề phòng thua lỗ.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dấu hiệu nhất thời không may mắn trên khuôn mặt

Cách treo tranh phong thủy phòng khách hợp với từng tuổi

Chọn tranh treo phòng khách hợp phong thủy sẽ tốt cho tài lộc của gia chủ. Dưới đây là hướng dẫn của phái Huyền không phi tinh về cách treo tranh phòng khách phù hợp với 12 tuổi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tranh phong thủy treo phòng khách theo tuổi

Hiện nay có nhiều gia đình thích treo trang trí hình con giáp mà đại đa số là người cầm tinh con gì thì mua tranh trang trí hình con đó. Đối với những người cầm tinh con rồng, ngựa, gà, lợn (Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi) là không nên vì tranh trang trí 12 con giáp nên cùng với con giáp của cá nhân cấu thành tương hợp, tranh tạo thành tương xung, tương hình, tương hại.


Chọn tranh phong thủy treo phòng khách không nên dựa theo con giáp
của chủ nhà. 
Ảnh minh họa

Nếu là quan hệ tương hợp thì tranh trang trí hình con giáp sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của chủ nhân, nếu là quan hệ tương xung, tương hình, tương hại thì có thể mang lại cho chủ nhân những ảnh hưởng không tốt.

Chọn tranh phong thủy treo phòng khách phù hợp với từng tuổi:

Tuổi Thân 1944 – 1956 – 1968 – 1980 – 1992 – 2004: Nếu trong nhà có người già thì nên treo tranh đàn dơi, tranh tùng hạc, hoa điểu, trúc…Trong đó, tranh dơi là tốt nhất, nếu không thì treo tùng hạc diên niên, hoặc tùng đón khách; tăng khả năng giao tế, quan hệ công việc, buôn bán, sản xuất kinh doanh đều tốt.

Tuổi Dậu 1945 – 1957 – 1969 – 1981 – 2005: Tuổi Dậu nên treo tranh phượng hoàng, Bách điểu triều phụng, Tam dương khởi thái (Tam dương khai thái), trăm con sơn dương…

Tuổi Dậu nên chọn tranh phong thủy phòng khách có hình Phượng hoàng, Bách điều triều phụng. Ảnh minh họa

Phượng là con trống, hoàng là con mai, đôi chim vua của loài chim này thuộc linh điểu; hoặc các tranh hoa điểu, mẫu đơn; thuyền chở châu báu…Còn tranh Tam dương khai thái là mở ra vận hội mới, thái bình tốt đẹp; phượng hoàng song phi, bách điểu triều phụng là vợ chồng hoà thuận, sự nghiệp hanh thông, địa vị tôn quý, con cháu xum vầy hoà mục, đỗ đạt thành công…

Tuổi Tuất 1946 – 1958 – 1970 – 1982 – 1994 – 2006: Tranh hoa mẫu đơn hoa 8 bông, mẫu đơn hoa 9 bông là cực phẩm tranh phong thủy phòng khách cho người tuổi Tuất. Hoặc cũng có thể treo tranh hoa điểu; tranh sơn thuỷ thuộc diện bình bình chỉ có giá trị trấn trạch an gia, với ý nghĩa ngày một vinh hiển, phú quý dài lâu, chuyển nguy thành an, thay đổi vận số, khiến cho sự nghiệp, công việc gặp trắc trở thành thuận lợi.

Tuổi Hợi 1947 – 1959 – 1971 – 1983 – 1995 – 2007: Người bản mệnh (nạp âm) thiếu thuỷ nên treo tranh cá chép, phong cảnh sông nước; khuyết thiếu kim tranh Tuyết sơn, thiếu hoả treo tranh Bát mã hoặc mẫu đơn, thiếu thổ treo núi non, thành quách. Người tuổi Hợi dễ treo tranh, có thể treo các loại hoa cỏ, chim muông, linh vật như Tam dương, Bách hạc đồ; tranh chữ…

Tuổi Tý 1948 - 1960 – 1972 – 1984 – 1996 – 2008: Nên treo tranh rồng, tranh sơn thuỷ hoành tráng, khí thế như bay, hướng nước chảy hoặc hướng rồng cuộn như chầu vào cung trung. Như vậy sẽ được quý nhân tương trợ, tránh được thị phi, tàng phong tụ khí, tiến tài khai vận, gia đình viên mãn; treo trong gia đình người làm quan rất lợi cho đường danh vọng, bước bước cao thăng.

Tuổi Sửu 1949 – 1961 – 1973 – 1985 – 1997: Nên treo tranh phong cảnh mùa xuân, phong cảnh mùa thu, cây xanh cổ thụ, non xanh cỏ thắm với ý nghĩa được cấp trên đề bạt, trường thọ, tiền tài dư giả, quan lộ thanh nhàn, gia khí hưng vượng.

Tuổi Sửu nên treo tranh phong thủy phòng khách với khung cảnh mùa xuân, mùa thu hoặc cây xanh cổ thụ. Ảnh minh họa

Tuổi Dần 1938 – 1950 – 1962 – 1974 – 1986: Nên treo các loại tranh sơn thuỷ, núi cao lớp lớp, tranh hổ, hoặc tranh về ngựa, cao nguyên, trường sơn để vượng về điền trạch, vượng nhân đinh, tăng khả năng công tác, khẳng định vị thế phía sau dựa núi, trước mở đường tài - Kim Đồng tiến bảo, bên trái chiêu tài – bên phải trừ tai, chủ yên vị khách yên tâm;

Tuổi Mão 1939 – 1951 – 1963 – 1975 – 1987: Nên chọn tranh trúc báo bình an, Lan nở phú quý, Tùng cúc trúc mai. Vào các năm mậu tý – mậu ngọ (như năm 2008 – mậu tý), người tuổi Mão tài vận thường thường, cầu tài khó đắc, may được quý nhân tương trợ nên mọi việc tuy không mỹ mãn nhưng cũng hoàn tất. Vì thế nên treo Trúc báo bình an, cầu bình an.

Tuổi Thìn 1940 – 1952 – 1964 – 1976 – 1988 – 2000: Nên chọn tranh "Kim - Thủy sinh Mộc" có hỏa trợ, tài lộc - cao quý như tranh Rồng xanh hí thuỷ, Hầu vương hiến thuỵ, Bách mã đồ, Nhật xuất thiên sơn, Hồ quang sơn sắc, Hoa mẫu đơn…

Nếu là tranh ngựa (mã) hoặc hoa, cấm kỵ treo phương Nam, vì sẽ tạo ra “Hoả thiêu thiên môn”, con cái khó dạy, chủ hay đau đầu hoa mắt. Tốt nhất treo phương Đông hoặc phía tay trái chủ nhà (theo hướng phòng).

Tuổi Tỵ 1941 – 1953 – 1965 – 1977 – 1989 – 2001: Người tuổi Tỵ hợp tranh đại bàng tung cánh, rồng bay là những tranh thích hợp nhất với người tuổi tỵ; ngoài ra có mẫu đơn, cá chép ao sen, tùng hạc…Nhờ đó, gia đạo khang ninh, cát tường như ý, treo ở phòng khách còn có thể trừ vạ đào hoa; Mẫu đơn vinh hoa phú quý, cá chép ao sen mạnh khoẻ trường thọ; tùng hạc diên niên, giữ phúc vĩnh hằng.

Tuổi Ngọ 1942 – 1954 – 1966 – 1978 – 1990 – 2002: Tranh liên quan đến cá chép là thích hợp, nhất là Cửu ngư quần hội (9 con cá chép), tiếp đến là tranh sơn thuỷ, tùng bách, trúc mai…giúp dư giả vĩnh hằng, Kinh thi nói: Trời bổ khiếm khuyết, không gì không hưng thịnh, sơn như cồn dậy, thuỷ như triều dâng không gì không tăng tiến; đẹp như nguyệt hằng, mới như mặt trời mọc; thọ như nam sơn, xanh như tùng bách, chỗ nào cũng vừa vặn hài hoà.

Người tuổi Mùi nên chọn tranh phong thùy phòng khách có hình cá chép. Ảnh minh họa

Tuổi Mùi 1943 – 1955 – 1967 – 1979 – 1991 – 2003: Đây là tuổi nên dùng tranh để trang trí trong gia đình. Tốt nhất dùng tranh sơn thuỷ hữu tình, trong đó có đủ hoa cỏ và cây cối, treo tranh hoa Mẫu đơn, hoặc tranh thảo nguyên mênh mông, tranh tôn giáo như Phật ADIĐÀ, Quan Âm, hoặc chỉ cần một chữ Phật, bài tâm kinh, …

Chọn tranh phong thủy treo phòng khách theo nội dung tranh:

Nói chung, tranh mẫu đơn nở hoa phú quý hay tranh trúc báo bình an đều thích hợp với mọi nhà. Tranh cá chép bên hoa sen tượng trưng quanh năm dư dật, tranh hạc đậu cành thông tượng trưng khoẻ mạnh trường thọ,… nhà nhà đều có thể treo.

Nếu treo tranh sơn thuỷ thì phải xem thế nước chảy, không được để chảy ra ngoài, nước chảy vào thì tài khí mới vào nhà, còn nước chảy ra thì thất thoát tài khí. Nếu là tranh thuyền buồm thì đầu thuyền phải hướng vào trong nhà, kỵ hướng ra ngoài, vì hướng ra ngoài thì hao tài tổn đinh, còn hướng vào trong thì chiêu tài.

Đối với những phòng khách thiếu ánh sáng, lúc nào trông cũng tối tăm, sẽ ảnh hưởng không tốt đến tinh thần nếu ở lâu trong đó nên phải tìm cách sửa ngay. Có thể treo tranh hoa hướng dương trong phòng khách để bù đắp khiếm khuyết này. Tranh chữ treo bên trên sofa nên treo ngang chứ không nên treo dọc. Vì ngang là trời, ngụ ý đội trời đạp đất.

(Theo VietQ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách treo tranh phong thủy phòng khách hợp với từng tuổi

Bạn hiểu thế nào về xem bói tướng mặt?

Xem bói tướng mặt là cách luận mệnh thông qua việc quan sát những đặc trưng trên khuôn mặt. Đây là nghệ thuật xem tướng cổ xưa nhất của người Trung Hoa.
Bạn hiểu thế nào về xem bói tướng mặt?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Xem bói tướng mặt hay còn gọi là xem tướng mặt, bói tướng mặt, tướng mặt là cách luận mệnh thông qua việc quan sát những đặc trưng trên khuôn mặt. Đây là nghệ thuật xem tướng cổ xưa nhất của người Trung Hoa, cũng chính là thuật xem tướng quan trọng nhất.

  1. Thế nào là xem bói tướng mặt?   Xem bói tướng mặt hay còn gọi là xem tướng mặt, bói tướng mặt, tướng mặt là cách luận mệnh thông qua việc quan sát những đặc trưng trên khuôn mặt. Đây là nghệ thuật xem tướng cổ xưa nhất của người Trung Hoa, cũng chính là thuật xem tướng quan trọng nhất.   Các nhà tướng thuật xưa cho rằng, mặt của con người có Tam tài và Ngũ nhạc. Coi việc quan sát tướng mặt là công phu cơ bản nhất để dự đoán về vận mệnh giàu nghèo, sang hèn trong tương lai.
2. Ngũ quan là gì?  
Ban hieu the nao ve xem boi tuong mat hinh anh
 
Ngũ quan dùng để chỉ 5 bộ phận trên khuôn mặt con người. Bao gồm: Mắt, lông mày, tai, mũi và miệng.   Theo thuật xem tướng số truyền thống, ngũ có có các cách gọi khác theo chức năng được giao phó như sau:   - Tai được gọi là Thái thính quan 
 
- Lông mày được gọi là Bảo thọ quan 
 
- Mắt được gọi là Giám sát quan 
 
- Mũi được gọi là Thẩm biện quan 
 
- Miệng được gọi là Xuất nạp quan   Thông qua việc phân tích ngũ quanh có thể phán đoán vận thế hung cát của một người. Thông qua lông mày để biết thêm về sức khỏe, địa vị. Thông qua mắt để đoán biết về trí lực, tâm địa; Qua mũi để thấy được mức độ giàu nghèo, tình hình sức khỏe. Qua miệng để biết được sự hạnh phúc, vận quý nhân hay phúc ăn uống. Thông qua tai để biết được người nào đó có trường thọ hay không.
3. Tam đình là gì?  
Ban hieu the nao ve xem boi tuong mat hinh anh 2
 
Tam đình: Ý chỉ chia khuôn mặt thành 3 phần theo chiều ngang, bao gồm: Thượng đình, trung đình và hạ đình.   Thượng đình: Tính từ phần chân tóc xuống đến Ấn Đường (khoảng giữa hai lông mày). Chủ quản về vận trình tuổi trẻ, từ 15 đến 30 tuổi.   Trung đình: Tính từ phần lông mày xuống đến đầu mũi. Chủ quản vận trình trung niên, từ 31 đến 50 tuổi.   Hạ đình: Tính từ đầu mũi xuống đến cằm. Chủ quản vận trình về già, từ 51 đến khi chết.
4. Thế nào là 12 cung tướng mặt?   Tướng mệnh khuôn mặt con người có 12 cung, bao gồm: Mệnh Cung (cung Mệnh), Quan Lộc, Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Thiên Di, Phúc Đức, Tật Ách, Điền Trạch, Tài Bạch, Tử Tức, Thê Thiếp và Nô Bộc.  
Ban hieu the nao ve xem boi tuong mat hinh anh 3
 
- Cung Mệnh: Nằm ngay ở Ấn đường (phần giữa hai lông mày), thể hiện khả năng tiềm ẩn giữa ý tưởng và khát vọng sống. Nó liên quan đến nhiều bộ vị quan trọng của trí tuệ hay khí lực của con người như lông mày, mắt, tai… Đồng thời biểu thị 7 cung bậc tình cảm của con người: vui, buồn, giận, sợ, yêu, ghét và ham muốn.   - Cung Tài Bạch: Vị trí toàn bộ chiếc mũi chính là cung Tài Bạch. Cung này thể hiện khả năng tài chính của mỗi người.   - Cung Quan Lộc: Nằm ở vị trí chính trung, giữ trán. Cung này cho biết công danh, sự nghiệp và tài lộc của một đời người.   - Cung Phụ Mẫu: còn được gọi là Nhật Nguyệt giác, nằm ở vị trí hai bên góc trái phải của trán. Nhật – trán bên trái, liên quan đến Thiên trung, nghĩa là người cha; Nguyệt – trán bên phải, liên quan đến Thiên đình, nghĩa là người mẹ.   - Cung Huynh Đệ: Nằm ở vị trí ở hai lông mày và mi cốt (xương lông mày). Cung này cho biết các mối quan hệ anh chị em trong gia đình.   - Cung Thiên Di: Nằm ngay sát cung Phúc Đức, sát bìa trán phía trên lông mày. Cung này biểu thị sự dịch chuyển, thay đổi trong xã hội.   - Cung Phúc Đức: Nằm ở cuối đuôi lông mày và sát vào bìa trán. Cung này cho biết sự phú quý hay sang hèn trong đời người.   - Cung Tật Ách: Nằm ở Niên thượng, Thọ thượng và 2 bên chân sống mũi. Cung này cho biết các dấu hiệu về sức khỏe, bệnh tật của con người.   - Cung Điền Trạch: Nằm ở vị trí giữa lông mày và mắt. Cung này biểu thị của cải, tài sản, đất đai của một người.   - Cung Tử Nữ: Hay còn gọi là Tử Tức, nằm ở dưới lệ đường (dưới mắt). Cung này chỉ khả năng sinh đẻ của con người. Xem cùng với nhân trung để biết được mối nhân duyên với con trai hay gái, con cái có hiếu thuận hay không.   - Cung Phu Thê: hay còn gọi là cung Thê Thiếp, nằm cạnh đuôi 2 con mắt. Cung này cho biết mối quan hệ giữa vợ chồng có hòa hợp hay không, được hưởng lộc từ nhà vợ hoặc nhà chồng hay không.   - Cung Nô Bộc: hay còn gọi là Địa Các, nằm ngay dưới hai khóe miệng. Cung này thể hiện khả năng làm chủ của một người.    Việt Hoàng
Tìm hiểu về thuật xem bói tướng tay
Xem bói tướng tay hay còn gọi là xem tướng tay là một thuật xem tướng xa xưa, mức độ phức tạp của nó dường như có thể tương đương với tướng mặt. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn hiểu thế nào về xem bói tướng mặt?

Xem tướng nốt ruồi ở mông –

Nốt ruồi có thể mọc ở bất cứ đâu trên cơ thể của phụ nữ và nam giới. Thậm chí đó là ở Mông. Và ở mông thì nốt ruồi cũng mang một ý nghĩa nhất định. Nốt ruồi ở mông Nốt ruồi ở mông tuy ở vị trí khuất lấp nhưng ý nghĩa của nó khá đặc biệt dù là ở giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi có thể mọc ở bất cứ đâu trên cơ thể của phụ nữ và nam giới. Thậm chí đó là ở Mông. Và ở mông thì nốt ruồi cũng mang một ý nghĩa nhất định.

Nội dung

  • 1 Nốt ruồi ở mông
    • 1.1 Nốt ruồi ở mông đàn ông
    • 1.2 Nốt ruồi ở mông phụ nữ
  • 2 Nốt ruồi ở các vị trí gần mông khác
    • 2.1 Nam giới nốt ruồi ở vùng kín
    • 2.2 Phụ nữ nốt ruồi ở vùng kín 

Nốt ruồi ở mông

Nốt ruồi ở mông tuy ở vị trí khuất lấp nhưng ý nghĩa của nó khá đặc biệt dù là ở giới tính nào, ý nghĩa chung của nó là: Những người sở hữu nốt ruồi ở môn đều là người có năng lực, có khả năng làm việc lớn những không xác định được mục tiêu rõ ràng và kế hoạch cụ thể. Do đó tuy có năng lực nhưng họ thường thất bại do lười biếng và thường nhụt chí.

Người sở hữu nốt ruồi này thường không có ý chí quyết tâm,do đó dù có tài năng nhưng họ lại không phát huy ra được, mất dần đi tư chất. Họ chỉ như hòn ngọc thô mà không được mài dũa thì cũng không phát huy được giá trị thực sự.

Nốt ruồi ở mông đàn ông

Tuy nhiên không phải ai sở hữu nốt ruồi này cũng có những đặc điểm trên. Người đàn ông có nốt ruồi ở mông còn có tính cách khá khôn khéo và được mọi người quý trọng. Họ thông minh và biết cách giao tiếp tốt, nên hay được giúp đỡ. Vè chuyện tình duyên, đời sống vợ chồng khá hòa thuận tuy không được khá giả về tiền bạc nhưng chuyện tình cảm lại khá thành công.

Nốt ruồi ở mông phụ nữ

Người phụ nữ sở hữu nốt ruồi mọc ở mông trái hay phải đều có năng lực nhưng lại không có phương hướng nhất định, thấy sao hay vây, thấy động thì động, thấy tĩnh thì tĩnh. Người phụ nữ có nốt ruồi ở mông thường có thiên hướng nghệ thuật cao, phù hợp với những công việc như hội họa, kiến trúc…

Nốt ruồi ở các vị trí gần mông khác

Ngoài ý nghĩa Nốt ruồi ở mông đàn ông, phụ nữ thì chúng ta có thể tìm hiểu ở một số vị trí khác gần mông như: vùng kín, phần bắp đùi v.v

Nam giới nốt ruồi ở vùng kín

Nếu là nốt ruồi đen: đề phòng chứng thượng mã truy phong. Hay còn gọi là đột tử trong quá trình quan hệ của nam giới.

Nếu là nốt ruồi đỏ: nghĩa là có mệnh sinh quý tử, nhiều con cháu

Nếu nốt ruồi mọc ở đầu ngọc hành: cũng có mệnh sinh quý tử, con cháu đầy đàn.

Nốt ruồi ở phần bắp đùi kể cả trước hay sau, kể cả nốt ruồi đen hay nốt ruồi son thì đều là người gian xảo, mưu hèn kế bẩn, nói vậy mà không làm vậy.

Phụ nữ nốt ruồi ở vùng kín 

Nếu là nốt ruồi đen thì duyên tình dang dở, con cái ngu hèn, đề phòng mắc nạn vì người khác lừa đảo, lừa tình

Nếu là nốt ruồi son thì có chồng giàu sang, phú quý, rất tốt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nốt ruồi ở mông –

Văn Khấn cúng đầy tháng, cúng mụ

Văn Khấn cúng đầy tháng, cúng mụ được dùng khi đứa trẻ được đầy tháng, do đứa trẻ được sinh ra là do 12 bộ Tiên Nương (12 bà Mụ) nặn ra ban cho
Văn Khấn cúng đầy tháng, cúng mụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn cúng đầy tháng, cúng mụ được dùng khi đứa trẻ được đầy tháng. Ông bà ta xưa quan niệm rằng: Đứa trẻ được sinh ra là do các vị Đại Tiên (Bà chúa Đầu thai), Tiên Mụ mà trực tiếp là 12 bộ Tiên Nương (12 bà Mụ) nặn ra ban cho.

Vì vậy, khi đứa trẻ đầy cữ (đứa trẻ chào đời được 3 ngày), đầy tháng (đứa trẻ chào đời được một tháng), đầy năm; bố mẹ, ông bà đứa trẻ phải bày tiệc cứng Mụ để tạ ơn các bà Mụ và cầu xin các Mụ ban cho đứa trẻ mọi điều may mắn tốt lành.

Sắm lễ cúng đầy tháng, cúng mụ

Lễ cúng Mụ phải được làm cẩn thận chu đáo, với các lễ vật bao gồm:

– 12 đôi hài xanh giống hệt nhau và một đôi hài cũng màu xanh nhưng to hơn

– 12 nén vàng xanh giống nhau và một nén vàng xanh to hơn.

– 12 bộ váy áo đẹp màu xanh giống hệt nhau và một bộ váy áo xanh cắt giống 12 bộ kia nhưng to hơn.

– 12 miếng trầu cánh phượng giống hệt nhau và một miếng trầu têm cánh phượng to hơn.

– 12 bộ đồ chơi: Bát,đũa, thìa, chén cốc, con giống, xe cộ, nón, mũ… giống hệt nhau và một bộ giống như vậy nhưng to hơn (những đồ lễ này có thể bằng nhựa, bằng sành sứ).

– 12 con cua, 12 con ốc, 12 con tôm to nhỏ bằng nhau để sống (có thể đồ chín) là lễ vật dâng cúng 12 bà Mụ.Và mỗi loại một con to hơn hoặc nhiều con (ít nhất ba con) cũng để sống là lễ vật dâng cúng bà Mụ Chúa. (Các con này để vào bát to bày cúng, sau khi cúng xong thì đem cua, ốc thả ra ao, hồ; tôm có thể thụ lộc).

– Phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả chia đều thành 12 phần giống nhau và một phần có đủ phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả nhưng lớn hơn (hoặc nhiều hơn).

– Lễ mặn: Xôi, gà, cơm, canh, các món lễ mặn, rượu. . .

– Bát hương, lọ hoa tươi nhiều màu, tiền vàng, cốc nước thanh tịnh (bày ở mâm trên cùng lễ mặn).

Bày lễ:

Bày lễ cúng Mụ mang tính chất thành kính, văn hoá và nghệ thuật, thường bàn lễ cúng Mụ được bày (trình bày) một cách hài hoà, cân đối.

+ Tất cả lễ vật dâng bà Mụ chúa để ở chính giữa phía trên của hương án

+ Lễ vật dâng 12 bà Mụ chia thành 12 phần giống nhau

+ Mâm lễ mặn cùng hương, hoa nước để trên cùng

+ Mâm tôm, cua, ốc để phía dưới

Sau khi bày lễ xong, bố hoặc mẹ cháu bé thắp 3 nén hương, rồi bế cháu bé ra trước án khấn

Văn khấn cúng đầy tháng, cúng mụ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con kính lạy Đệ nhất Thiên tỷ đại tiên chúa.

– Con kính lạy Đệ nhị Thiên đế đại tiên chúa.

– Con kính lạy Đệ tam Tiên Mụ đại tiên chúa.

– Con kính lạy Thập nhị bộ Tiên Nương

– Con kính lạy Tam thập lục cung chư vị Tiên Nương

Hôm nay là ngày…. Tháng….. năm….

Vợ chồng con là ………. sinh được con (trai, gái) đặt tên là ……..

Chúng con ngụ tại:……………………………

Nay nhân ngày đầy tháng (đẫy cữ,) chúng con thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật và các thứ cúng dâng bày lên trước án, trước bàn tọa chư vị Tôn thân kính cẩn tâu trình:

Nhờ ơn thập phương chư Phật, chư vị Thánh hiền, chư vị Tiên Bà, các đấng thần linh, Thổ công địa mạch, Thổ địa chính thần, Tiên tổ nội ngoại, cho con sinh ra cháu tên là………… sinh ngày…… được mẹ tròn con vuông.

Cúi xin chư vị tiên Bà, chư vị Tôn thần giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì, vuốt ve che chở cho cháu được ăn ngoan, ngủ yên, hay ăn chóng lớn, vô bệnh vô tật, vô tai, vô ương vô hạn, vô ách, phù hộ cho cháu bé được tươi đẹp, thông minh, sáng láng, thân mệnh bình yên, cường tráng, kiếp kiếp được hưởng vinh hoa phú quí. Gia đình con được phúc thọ an khang, nhân lành nảy nở, nghiệp dữ tiêu tan, bốn mùa không hạn ách nghĩ lo.

Xin thành tâm đỉnh lễ, cúi xin được chứng giám lòng thành.

Nam mô a di Đà Phật (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn cúng đầy tháng, cúng mụ

Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm, tu vi Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm

Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm. Chọn 1 trong 3 lá bài dưới đây bạn sẽ biết tình yêu của bạn hiện tại, bạn cần quan tâm tới người ấy hay cắt bớt đào hoa của bản thân mình? Cùng xem tình yêu của bạn nhé.

Quy tắc bói bài:

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

 

2. Tự hỏi thầm bản thân: “Mình cần làm gì để chuyện tình cảm được yên bình?”.

3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.

Lựa chọn 1: Wands

i-tarocchi-floreali-4.jpg

Lựa chọn 2: The World

 
i-tarocchi-floreali-2.jpg

Lựa chọn 3: Justice

i-tarocchi-floreali-7.jpg

Xem kết quả

Lựa chọn 1: Wands – Quan tâm tới cảm xúc của “gấu”

Bốc được lá bài này cho thấy dường như bạn đang quan tâm thái quá tới đối phương. Bạn yêu chân thành, nhiệt tình và không toan tính. Từ trong thâm tâm, bạn muốn dành điều tốt đẹp nhất cho người ấy, thậm chí không ngần ngại lo toan từ điều nhỏ nhặt như chuyện ăn uống, vệ sinh cá nhân… Tuy nhiên, thực tế cho thấy nửa kia đang cảm thấy ngộp thở.

Khoảng cách cần thiết giữa hai người để tạo ra thế giới riêng đang bị bạn phá vỡ. Bạn thì nghĩ rằng mình yêu và mình có quyền làm điều đó. Thói quen đó vô tình khiến người ấy khó chịu và hờ hững trước những cử chỉ, lời nói quan tâm của bạn. Bạn sẽ hiểu lầm tình cảm đã thay đổi. Tuy nhiên, hãy nhìn lại cách hành xử của bản thân, trước khi phán xét “gấu”, bạn nhé!

Lựa chọn 2: The World – Bỏ thói quen hay cằn nhằn

Hai người thường là hai thế giới đối lập, nên sẽ có sức hút kỳ lạ với nhau. Bạn thường nói rất nhiều, hay để ý chuyện vụn vặt, mặt khác nửa kia lại lạnh lùng, kiệm lời và phóng khoáng. Bạn thích tỏ ra mình là người chủ động và có tầm ảnh hưởng nhiều hơn, nên hay phán quyết và đưa ra lời nhận xét thẳng thắn.

Do vậy, “gấu” e ngại tính cách cằn nhằn của bạn sẽ vượt quá sức chịu đựng. Sự cao thượng cũng không thể là đòn bẩy để giải gỡ được nút thắt trong mối quan hệ giữa hai người. Hoặc nếu bạn để tâm, hãy thể hiện sự ân cần, nhẹ nhàng, thay vì vẻ khó chịu thường xuyên.

Lựa chọn 3: Justice – Trừ giải vận đào hoa

Nếu lưu tâm, bạn sẽ thấy mối quan hệ của mình với người ấy bắt đầu xuất hiện những vết rạn nứt chỉ vì tính ghen tuông. Nguồn gốc sâu xa của vấn đề xuất phát từ vận đào hoa, thói hay “nhìn ngang, liếc dọc” của bạn. Bạn thuộc nhóm người thích được là trung tâm, mọi người phải chú ý và coi bạn là thành phần quan trọng. Vậy nên, trước bất kỳ ai tấn công, bạn đều “vô tình” bật đèn xanh để họ nuôi hy vọng.

Nửa kia lại là người nhạy cảm, nên cảm nhận rõ sự đào hoa và tính cách ấy của bạn. Nếu muốn chuyện tình cảm êm ấm, gắn kết bền chặt, bạn cần xác định nghiêm túc về tình yêu mình dành cho đối phương, có đủ vững chắc để duy trì lâu dài. Ngược lại, hãy giải thoát cho con tim mình được tự do bay nhảy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói bài nên làm gì để tình yêu êm ấm - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Lộ tính gia trưởng của 12 chòm sao nam

Hiện nay xã hội hiện đại, nhưng không ít chàng trai còn mang tư tưởng bảo thủ, phong kiến, cùng xem tính gia trưởng của 12 chòm sao nam được thể hiện thế nào
Lộ tính gia trưởng của 12 chòm sao nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện nay xã hội hiện đại, nhưng không ít chàng trai còn mang tư tưởng bảo thủ, phong kiến, có dục vọng chinh phục thành công và cả dục vọng chiếm hữu quá mạnh đối với người phụ nữ của mình. Tiềm thức khuyết thiếu tự tin, khuyết thiếu cảm giác an toàn, theo đuổi hoàn mĩ nên biểu hiện ra bên ngoài rất hà khắc. Cùng xem tính gia trưởng của 12 chòm sao nam được thể hiện ở phương diện nào nhé.

Lo tinh gia truong cua 12 chom sao nam hinh anh
 

Bạch Dương

  Chàng trai Bạch Dương sinh ra đã có tính hiếu thắng, thích chinh phục nhưng nhanh tới nhanh đi, nhiệt tình chỉ duy trì được trong chốc láy. Chỉ cần bản thân tự thỏa mãn thì không kiên trì nữa mà điểm mấu chốt là tốc độ thỏa mãn của họ vô cùng nhanh nên chẳng quá lo lắng về tính gia trưởng của chàng ấy đâu.   Khi cừu trắng có hành động quá khích, thích kiểm soát người yêu thì lập tức chiều theo họ, ngoan như mèo, sau khi tính nóng bớt đi mới dội nước lạnh cho chàng ta tỉnh, có như vậy mọi chuyện mới êm thấm mà bạn gái lại không phải chịu thiệt thòi. Trong hai người, phải có một người mềm một người cứng mới được.  

Kim Ngưu 

  Đừng thấy chàng trai Kim Ngư bình thường hiền lành chất phác mà tưởng họ không gia trưởng nhé, nhầm to đấy. Ngưu chan có tính độc chiếm mạnh, nhu cầu cao, nhất là trong chuyện tình cảm. Cái gì là của mình thì chỉ là của mình mà thôi, không bao giờ có chuyện chia sẻ với người khác.   Nếu là bạn gái của chàng trai này thì độc chiếm bao nhiêu chàng ấy cũng cảm thấy không đủ, nhất nhất muốn giám sát 24/7 quan tâm từng li từng tý để đảm bảo rằng cô gái ấy chính là của mình. Có vẻ như chàng ấy muốn đánh dấu chủ quyền, thỉnh thuoangr dạy cho một bài học nho nhỏ thì tự khắc sẽ ngoan ngoãn nới lỏng vòng tay ra ngay thôi.
Xem thêm bài viết Điểm danh 4 chòm sao nam đáng ghét là "sát thủ hẹn hò"
 

Song Tử


Tính gia trưởng của 12 chòm sao nam trong Song Tử khá mạnh bởi họ tự tin vào bản thân, thích khoa trương và muốn thể hiện sức mạnh. Họ không ngừng tìm kiếm cho mình đối tượng phù hợp, tư tưởng phóng khoáng, thay người yêu như thay áo nhưng lại yêu cầu bạn gái đoan chính, thú vị mà không lẳng lơ, gợi cảm nhưng không được quá trớn.   Đương nhiên, nhiều khi yêu cầu cao trở thành vô lý vì bản thân không làm được nhưng lại muốn đối phương phải đáp ứng. Do đó, để trừng trị thói này của Tử nhi, các nàng phải mềm nắn rắn buông, dằn mặt chàng ấy lúc đang đi thả “thính” lung tung để biết sợ mà lui.  

Cự Giải

  Chòm sao nam hiền lành như Cự Giải không hẳn là gia trưởng nhưng họ có sự cố chấp riêng. Coi trọng nhất chính là phẩm chất, sự thanh bạch và hoàn cảnh, thích cảm giác hiền lành, hài hòa, hấp dẫn nhưng khong quá dung tục. Điểm đáng kể nhất chính là chàng trai này rất thích cô gái đảm đang, giống hình mẫu của một người mẹ dịu dàng.
Lo tinh gia truong cua 12 chom sao nam hinh anh
 
Họ tin rằng, một cô gái nhất định phải nữ công gia chánh toàn tài, biết thu vén và coi trọng gia đình. Nhưng đó chỉ là mong muốn thôi, còn trên thực tế có rất nhiều cô gái cởi mở, năng động và có nét hấp dẫn riêng, không thể phủ nhận. Không thể nói họ thiếu nữ tính chỉ vì không quanh quẩn bếp núc suốt ngày được.  

Sư Tử 

  Hiếu chiến, kiêu ngạo, thích lãnh đạo là những đức tính vô cùng nổi bật làm nên thương hiệu của chòm sao Sư Tử. Vì thế mà tính gia trưởng của họ cũng có tiếng lắm, cảm giác muốn khống chế, chỉ huy và sắp đặt người khác rõ ràng tới mức ai cũng có thể nhận ra được.   Người yêu, bạn gái của Sử Tử có hai lựa chọn, một là cun cút tuân theo mệnh lệnh, gọi dạ bảo vâng, nói gì nghe nấy. hai là trước khi hắn nổi trận lôi đình thì biến mất tăm để tự điên tự chịu, đến khi về thì mọi sự cũng đã êm xuôi rồi, có muốn nổi nóng cũng không còn mãnh liệt như trước nữa. Vài lần như vậy là chừa ngay thôi mà.  

Xử Nữ

  Chàng trai Xử Nữ lúc nào cũng bị ràng buộc bởi những giáo điều vụn vặt, tên cũng như người, quan trọng nhất là đạo đức, thích hoàn hảo, thích sạch sẽ, có phần cổ hủ. Nội tâm phúc tạp, tính gia trưởng ăn vào trong máu nhưng thể hiện ra bên ngoài rất kiềm chế, rất có chừng mực để giữ thể diện.   Họ chú ý tới từng chi tiết nhỏ, đưa ra tất cả các quyết định và mong muốn nửa kia thay đổi theo ý mình. Để ngăn chặn tình trạng gia trưởng quá đà của chàng trai Xử Nữ, các nàng hãy mạnh dạn bày tỏ quan điểm và thái độ của mình, không nên ngồi im chịu trói kẻo chàng ấy được nước lấn tới.
Xem thêm bài viết Xếp hạng độ vị tha của 12 chòm sao nam khi nửa kia ngoại tình

Thiên Bình

    Tính gia trưởng của 12 chòm sao nam khi điểm danh tới Thiên Bình thì có thể nói là khá dễ chịu vì chòm sao này nhẹ nhàng, tinh tế, biết cách ăn nói khéo léo lại lãng mạn. Nhưng do thẩm mĩ cao nên họ có ảo tưởng cũng cao không kém, kỳ vọng nhiều vào đối phương, muốn đối phương trở thành người thanh cao, ưu nhã, lịch lãm như mình.   Chính điều này làm nửa kia của Bình nhi cảm thấy tù túng, khó chịu, lúc nào cũng phải giả vờ là duyên dáng, quý phái trong khi có thể bản chất không phải như vậy. Làm người không thể cưỡng ép, tình yêu cần nhất sự thân thật nên hãy hành xử thật tự nhiên để Thiên Bình dần quen với hiện thực về mình nhé.  

Hổ Cáp

 
Lo tinh gia truong cua 12 chom sao nam hinh anh 3
 
Sinh ra đã là người có dục vọng mạnh, là chàng trai có tính cách dữ dội nhưng lạnh lùng, ý thức sở hữu cao nên chắc chắn sẽ có rất nhiều áp đặt đối với người mình yêu. Họ tính toán và mong muốn kiềm tỏa đối phương trong tính toán của mình, không cho cơ hội thể hiện quan điểm, càng không được phép khước từ.   Đối phó với Hổ Cáp tinh vi, nguy hiểm thì các nàng cần phải vận dụng trí tuệ, vừa cứng vừa mềm, không thể chịu nhường. Hãy đặt ra quy tắc giữa hai người và làm theo đó để không ai cảm thấy khó chịu, bị kiểm soát trong chính cuộc tình của mình cả.

Nhân Mã

  Nhân Mã là chàng trai tư tưởng phóng khoáng, mới mẻ, hiện đại lại nhiệt tình tự do nên tính gia trưởng không nhiều lắm. Chủ yếu là họ thường có suy nghĩ nam tử hán thích phiêu bạt, không chú ý tới tương cà mắm muối, đẩy hết trách nhiệm hậu cần cho bạn gái nên có thể coi đây là một điểm trừ.   Đối phó với chàng vô tâm thì cứ phạt thường xuyên, cho chàng ấy tự túc là hạnh phúc thì đôi lần là vào nếp, quen thói ngay. Chiều chuộng sinh hư, ỷ lại thì sau này sẽ rất khó uốn nắn đấy. Mà nhìn chung thì Mã Mã là chàng trai ngoan, đáng yêu nên rất dễ cải tạo.  

Ma Kết

  Chòm sao Ma kết tin rằng đàn ông là để dựa dẫm, gánh vác và bảo vệ bạn gái nên rất có ý thức chèo chống. Nhưng họ quên mất tính độc lập, tự chủ của một người dù nam hay nữ thì đều có cả, đôi khi tự ý quyết định, sắp xếp mọi việc mà không thông qua ý kiến của đối phương hoặc có hỏi nhưng chỉ để đấy, không hè tham khảo, lắng nghe.   Chàng trai này nghiêm khắc, tỉ mỉ, có nhiều khi là hà khắc nên nói chuyện nhất định phải đưa ra lý lẽ, bằng chứng thỏa đáng. Ngoài ra bạn gái cũng cần có tiếng nói dứt khoát nhưng chừng mực để Kết Kết hiểu đúng sai, biết tôn trọng quyền lợi của người yêu.
Xem thêm bài viết 10 điều bạn cần biết trước khi yêu Ma Kết
 

Bảo Bình

 
Lo tinh gia truong cua 12 chom sao nam hinh anh 3
 
Tính gia trưởng của 12 chòm sao nam trong Bảo Bình không quá lớn nhưng đặc biệt. Họ tự do, khác biệt và có nhiều suy nghĩ mới nên thường tự cho mình là thông minh, cho ý kiến của người khác là kém cỏi, yêu thương đấy nhưng chưa hẳn là tôn trọng khiến người yêu cảm thấy tổn thương.   Chàng trai này mềm không ưa, phải cứng, chàng không nghe vậy hậu quả tự mình gánh chịu. Việc của ai người đó quyết, không ỷ lại thì không có chuyện bị điều khiển. Tính của Bảo Bình nhiều khi rất hấp nên không cần quá khích, cứ như gần như xa đối phó để chàng ấy biết mình biết ta, tự điều chỉnh bản thân.  

Song Ngư

  Sự cố chấp trong tình yêu của Ngư nhi có thể coi là tính gia trưởng của chàng trai này. Họ muốn người yêu phải thật thuần khiết, thật đáng yêu, mang tới cảm giác như nàng công chứa nhỏ bé trong truyện cổ tích, hai người cùng nhau yêu đương thật lãng mạn, thật ngọt ngào.   Tỉnh mộng đi chàng, ai mà làm công chúa suốt đời được, lay Song Ngư dậy bằng những bình yên giản dị hàng ngày. Hãy để họ hiểu, đôi khi sự lãng mạn nhất chính là cuộc sống yên ấm, thường nhật.
Tiết lộ nguyên nhân khiến 12 chàng trai hoàng đạo ngại lên giường Hình mẫu nữ thần trong mơ của 12 chòm sao nam Lời chia tay chất như nước cất của 12 chòm sao nam

Thái Vân
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lộ tính gia trưởng của 12 chòm sao nam

Hóa giải phòng ngủ kép gây ngoại tình –

Khi phòng ngủ được ngăn chia để tạo thêm không gian riêng khác (phòng thay quần áo, phòng kho hoặc là phòng vệ sinh có tủ quần áo...) phong thủy học gọi bố cục ấy là "phòng trong phòng" (còn gọi là phòng kép). Khi diện tích của phòng trong ấy chiếm t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi phòng ngủ được ngăn chia để tạo thêm không gian riêng khác (phòng thay quần áo, phòng kho hoặc là phòng vệ sinh có tủ quần áo…) phong thủy học gọi bố cục ấy là “phòng trong phòng” (còn gọi là phòng kép).

Khi diện tích của phòng trong ấy chiếm tỷ lệ quá lớn (tức chiếm trên 1/5 diện tích toàn bộ phòng ngủ chính), rất dễ xảy ra tình trạng dân gian vẫn gọi là “Phòng trung hữu phòng, tất xuất nhị phòng”. Câu này có nghĩa là: có phòng riêng trong phòng, ắt xuất hiện tình trạng có phòng nhì – ý chỉ vợ hai. Ngoài ra, nó cũng ám chỉ việc một trong hai người nảy sinh quan hệ tình cảm bất chính với người khác giới.

av

Tỷ lệ diện tích phòng riêng càng lớn thì khả năng và tốc độ xảy ra tình trạng có “phòng nhì” càng nhanh.

Khi quan hệ hôn nhân rơi vào tình trạng trên, thông thường chỉ có sự can ngăn, khuyên nhủ, giúp đỡ của người thân trong gia đình, bạn bè tri kỷ, thân thiết mới có thể giúp họ nghĩ lại và cứu vãn hạnh phúc gia đình.

Xuất phát từ góc độ khoa học, nguyên tắc cơ bản trong cuộc sống chung của 2 vợ chồng là cần phải thường xuyên cởi mở chuyện riêng tư với nhau. Điều kỵ nhất trong cuộc sống hôn nhân là vô tình để xuất hiện hoặc cố giấu giếm “bí mật” riêng của mình với bạn đời. Vì thế, một khi xuất hiện tình trạng phòng trong phòng thì rất dễ tạo cho một trong hai phía hoài nghi phía bên kia đang che giấu những bí mật riêng như: cất giấu tiền, kỷ vật, thư từ riêng hoặc lén tâm sự qua điện thoại…

Càng để tình trạng ấy diễn ra lâu, bí mật giữa hai vợ chồng càng phát sinh nhiều hơn và sự hoài nghi ngày càng lớn hon. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến tình cảm yêu thương và hạnh phúc gia đình họ rạn nứt, đổ vỡ.

Ngoài việc xuất hiện kết cấu phòng trong phòng thì ở bất cứ vị trí không gian nào trong nhà, việc xuất hiện thêm một cánh cửa khác nữa trong phòng ngủ, trong thư phòng, trong phòng kho, nhà bếp… cũng tạo nên tình trạng tưong tự (chỉ trừ phòng vệ sinh) và ảnh hưởng lâu dài đến người sử dụng không gian ấy.

Trạng thái cực đoan còn có thể xuất hiện đối với những ngôi nhà có 2 hộ hoặc hơn 2 hộ cư trú nếu ở ngoài cánh cửa chính của căn hộ, người ta còn dùng 1 cánh cửa sắt lớn để cách ly vói những hộ bên cạnh. Điều này sẽ khiến hiện tượng phòng trung hữu phòng xuất hiện với quy mô lớn và ảnh hưởng xấu đến cả những hộ gia đình sinh sống kế bên.

Tình trạng phòng trong phòng nếu kéo dài sẽ nảy sinh sát khí, gây nguy hiểm đối với những người sống trong không gian ấy, đặc biệt là những thành viên trụ cột trong gia đình.

Có nhiều cách để hóa giải hiện tượng phòng trong phòng. Cách trực tiếp và căn bản nhất là dỡ bỏ, phá vỡ tất cả những gì ngăn chia không gian tạo nên kết cấu đó, hoặc có thể cải tạo không gian riêng ấy trở thành một nhà vệ sinh đơn thuần.

Nếu vì nhu cầu sử dụng, chẳng hạn trong một nhà mà có nhiều hộ, nhiều gia đình riêng cùng chung sống thì không thể không có những cánh của kiên cố ngăn chia không gian sổng của từng hộ riêng biệt được. Trong trường hợp đó, biện pháp hóa giải thường được sử dụng nhất là chôn hoặc đặt phía dưới bậu cửa của cánh cửa tạo nên không gian phòng trong phòng 1 xâu 5 đồng tiền (ngũ đế tiền), đồng thòi đặt 1 chiếc hồ lô tại bất cứ vị trí nào bên trong phòng riêng nằm trong phòng chung.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải phòng ngủ kép gây ngoại tình –

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Mùi

Ngày Quý Thủy có địa chi tọa tại Mùi nên theo 12 Cung vị của ngũ hành là lâm vào Mộ Địa. Tử vi của người sinh ngày Quý Mùi dựa vào 12 Cung vị mà luận
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày Quý Thủy có địa chi tọa tại Mùi nên theo 12 Cung vị của ngũ hành là lâm vào Mộ Địa tại Mùi. Tử vi của người sinh ngày Quý Mùi dựa vào 12 Cung vị mà luận đoán.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Quy Mui hinh anh
 
Theo ngũ hành số mệnh, Quý Thủy gặp Mùi Thổ thì sẽ bị khô nóng vì Thổ hút nhiều dương khí và độ ẩm. Nên tử vi của người sinh ngày Quý Mùi lận đận và nhiều sóng gió. Đặc biệt tình duyên nhiều trắc trở, không chọn được bạn đời như ý. Người này sợ vợ/ chồng, không dám đưa ra chủ kiến của mình với bạn đời.
  Trong quan hệ xã giao, cuộc đời người sinh ngày Quý Mùi luôn bị đàn áp, ức chế, bị lãnh đạo hoặc đối phương thúc ép, quản chế. Mùi ức chế Quý, Thổ ức chế Thủy, Mùi Thổ thiên quan, trừ khi có Đinh Hỏa phù trợ thì có thể dùng Quý Thủy áp chế bên ngoài, đỡ đần phần nào hay phần ấy.    Mùi Thổ gặp Ất Mộc, thì Quý Thủy Thương Quan, Ất Mộc có thể khắc chế Mùi Thổ, giảm bớt bất trắc nhưng sức mạnh không lớn lại tiềm ẩn Đinh Hỏa nên tâm tính táo bạo, dữ dội ẩn nhẫn bên trong.   Xem tử vi quý nhân vận theo ngày sinh siêu chuẩn
Cả đời gặp quý nhân cũng không tránh khỏi bị tiểu nhân hãm hại. Vì vậy, xem tử vi quý nhân vận không chỉ là xem bạn gặp được bao nhiêu quý

Nam mệnh sinh ngày Quý Mùi nếu lấy vợ sinh ngày Đinh Hỏa, Đinh Hỏa cùng Quý Thủy hai bên đối nghịch nhưng cùng phản sinh Mùi Thổ, sẽ khắc chế Quý Thủy của chồng thì không những bị vợ quản thúc mà còn nhất nhất nghe lời vợ.
  Người này có mẹ đau ốm, thân thể yếu mệt hoặc mất sớm, tự thân trưởng thành. Tính tình thành thực, trọng chữ tín, cần cù, tiết kiệm nên cũng gặp may mắn, nhân sinh phát triển tốt đẹp.
 
Nữ mệnh sinh ngày Quý Mùi có xu hướng chi nhiều thu ít, thiếu kiên nhẫn. Tuy rằng chí hướng lớn nhưng hành động thực tế lại không nhiều, thậm chí còn gặp nhiều khó khăn, bị lợi dụng, gặp tai họa, nên cẩn thận.    Điểm tốt là người sinh vào ngày Quý Mùi bản tính giản dị, không ham hư vinh, biết cách quản lý tài sản và tích lũy, có thể hoàn thành tốt công việc được giao.   
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Quy Mui hinh anh
 
Người sinh ngày Quý Mùi cùng người tuổi Mão, Hợi gần gũi, làm ăn thì sẽ tốt đẹp, thu nhiều thành quả. Cùng người tuổi Ngọ kết giao thì lại hay bị lừa gạt, cần thận trọng. Cùng tuổi Tỵ cũng có thể ở gần, mang đến các cơ hội tài lộc. 
  Ngày này có quý nhân Bội Ngọc giá lâm, tọa Thiên Quan, Thiên Tài cùng Thực Thần nên nam thì anh dũng nữ thì vinh quang, hướng tốt là ở phía Tây. Tuy tính tình có chút nóng vội, thị phi nhưng lanh lợi, phụ nữ khá hiền lành. Chỉ tiếc vận tài lộc không vượng, tài đến tài đi, cần tính toán tỉ mỉ.   Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Mùi

Hình dáng đôi môi hé lộ tính cách, tình cảm của nam giới

Chàng trai môi dày sống có trách nhiệm với tình yêu; môi mỏng thường dẻo miệng dễ ngoại tình...
Hình dáng đôi môi hé lộ tính cách, tình cảm của nam giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đôi môi dày - Có trách nhiệm trong tình yêu

1-5806-1412569539.jpg

Chàng trai có đôi môi dày sống trách nhiệm, biết gánh vác mọi chuyện lớn nhỏ trong nhà. Dù mệt mỏi hay khó khăn thế nào, họ cũng không oán than nửa lời. Không chỉ là việc nhà, họ sẽ vì người mình yêu mà làm bất cứ chuyện gì. Lời khuyên tốt nhất dành cho họ là hãy biết tự quan tâm đến bản thân hơn.

2. Môi mỏng - Dẻo miệng dễ ngoại tình

0-2741-1412569539.jpg

Chàng trai có đôi môi mỏng thường rất dẻo miệng, tài ăn nói. Cùng họ tranh luận sẽ chỉ phí công bạn mà thôi. Có thể bạn không tin tưởng lời họ nhưng bạn cũng không thể tìm nổi lý do để phản bác, cho nên tốt nhất đừng tranh luận. Bạn cũng đừng nên để tâm đến ý nghĩa từng câu nói của họ, vì hầu hết đều là nói dối.

3. Khóe môi lớn - Biết bảo vệ tình yêu, khóe môi nhỏ - nhút nhát

top-10-nam-dien-vien-hang-a-2090-1412569

Kích thước môi cũng phản ánh tính cách của một chàng trai, người có khóe môi lớn sẵn sàng dùng tất cả sức mạnh của mình để bảo vệ người họ yêu thương, còn bản thân có gặp phải chuyện gì cũng không sợ. Khóe môi bé thì lại là người nhút nhát, khó làm nên sự nghiệp.

4. Môi lớn nhưng mỏng - Dễ gây tổn thương tình cảm

4-7016-1412569539.jpg

Chàng trai có tướng môi như vậy thường thích uống rượu, nhưng tửu lượng không cao, còn hay tức giận với người mình yêu, làm tổn thương người yêu cũng như tổn thương tình cảm hai người. Không những thế, tuýp người này còn thường dùng lời ngon ngọt để đánh lừa người khác. Họ rất giỏi trong việc dùng lời nói dối để che đậy một lời nói dối khác.

5. Môi trên dày - trọng tình cảm, môi dưới dày - dễ thành công

5-3866-1412569539.jpg

Chàng trai có môi trên dày hơn môi dưới rất trọng tình, đã yêu ai sẽ yêu rất say mê. Còn chàng trai có môi dưới dày hơn môi trên là nhà lãnh đạo bẩm sinh, có chủ kiến, gặt hái được nhiều thành tựu, nhưng lại tùy hứng trong tình yêu - lúc cuồng nhiệt, lúc lại hờ hững, lạnh lùng đến khó hiểu.

Kunie (Theo Inka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dáng đôi môi hé lộ tính cách, tình cảm của nam giới

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1961 –

Hướng kê giường tuổi Tân Sửu 1961 - Năm sinh dương lịch: 1961 - Năm sinh âm lịch: Tân Sửu - Quẻ mệnh: Chấn Mộc - Ngũ hành: Bích Thượng Thổ (Đất tò vò) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường tuổi Tân Sửu 1961

– Năm sinh dương lịch: 1961

– Năm sinh âm lịch: Tân Sửu

– Quẻ mệnh: Chấn Mộc

– Ngũ hành: Bích Thượng Thổ (Đất tò vò)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh

– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);

giuongsat

Phòng ngủ:

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Thổ, Hỏa sinh Thổ, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Hỏa, là hướng Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Cam, Đỏ, đây là màu đại diện cho hành Hỏa, rất tốt cho người hành Thổ.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1961 –

SAO ĐẾ VƯỢNG TRONG TỬ VI

đế vượng (Kim) *** 1. Ý nghĩa cơ thể: Đế Vượng là lưng hay lưng dài vì Đế Vượng chủ sự phong phú, mập mạp, thừa tha...
SAO ĐẾ VƯỢNG TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


đế vượng (Kim)

***

1. Ý nghĩa cơ thể:

Đế Vượng là lưng hay lưng dài vì Đế Vượng chủ sự phong phú, mập mạp, thừa thãi.

Đế Vượng Khốc Hư: đau lưng, thận suy.





2. Ý nghĩa tính tình:

- uy nghi, đường bệ

- quảng đại, từ thiện, bác ái

Đế Vượng gần như đồng nghĩa với Tràng Sinh và hội chiếu với Tràng Sinh.





3. Ý nghĩa công danh, tài lộc, phúc thọ:

- gia tăng phúc thọ, chủ sự thịnh đạt, phong phú

- giải trừ bệnh tật, tai họa

- tăng tiến công danh, quyền thế, tiền bạc

- lợi ích cho sự sinh nở, nhiều con, sinh mau

Do đó, Vượng và Sinh cùng với phúc tinh, quý tinh, tài tinh, quyền tinh, văn tinh sẽ làm tăng thêm phúc thọ, phú, quý, quyền, khoa của lá số rất nhiều. Vượng, Sinh có khả năng chế giải một số hung tinh hạng nhẹ.





4. Ý nghĩa của đế vượng ở các cung:



a. ở Mệnh, Thân:

- Tử Vượng đồng cung: có tài lãnh đạo, có óc lãnh tụ, có khả năng làm lãnh tụ, thủ lĩnh

- Tử, Vượng, Sinh : người có tinh thần hết sức quảng đại, quang minh, quân tử, thuộc chính phái



b. ở Tài, Điền:

- Vượng, Lộc: phát tài, có của, điền sản dồi dào

- Vượng, Tả, Hữu, Âm Dương, Tuất Thìn: triệu phú



c. ở Quan:

- Vượng Quyền: có quyền chức lớn

- Vượng Khoa: lập nên sự nghiệp văn chương lớn, sản xuất nhiều tác phẩm văn học giá trị. Nếu thêm Khôi Việt, Xương Khúc, Quốc ấn, Âm Dương sáng đẹp thì nhất định là bậc thiên tài về văn học ở hệ cấp quốc tế.



d. ở Bào:

- Vượng Thai: đông anh chị em (Vượng, Sinh cũng vậy)

- Vượng Thai Tuyệt Tướng hay Vượng Thai Phục Tướng: có anh em dị bào



e. ở Tử:

- Vượng Sinh : đông con, có hảo con

- Nếu thêm cát tinh : con đông, hiển đạt



f. ở Phúc:

- có Vượng: đông con và thọ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO ĐẾ VƯỢNG TRONG TỬ VI

Vận đào hoa, tình duyên của 12 con giáp trong tháng 2

Những người tuổi Mão dễ gặp rắc rối vì quá nhiều vệ tinh vây quanh. Người tuổi Mùi cẩn thận với kẻ tiểu nhân.
Vận đào hoa, tình duyên của 12 con giáp trong tháng 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-1 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-2 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-3
Sửu  Dần Mão
khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-4 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-5 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-6 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-7
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-8 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-9 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-10 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-11
Thân Dậu Tuất Hợi

Maruko (theo Inka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận đào hoa, tình duyên của 12 con giáp trong tháng 2

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd