giác, dự báo tương lai đôi khi không được như mình mong muốn.
Giải mã giấc mơ thấy mình được khen:
Ảnh minh họa
Mơ thấy có bạn bè hoặc trưởng bối khen ngợi mình là ngụ ý sắp chuyển vận tốt, nhưng chú ý không sẽ bị lừa. Mơ thấy được vợ khen là ngụ ý vợ có hành vi không trung thành với bạn. Mơ thấy nhân viên khen ngợi mình là ám chỉ cục diện công việc hoặc chuyện làm ăn gặp khó khăn, rơi vào rắc tối khiến bản thân mất đi sự tự tin, khả năng thuyết phục, cũng như năng lực làm việc. Mơ thấy người lạ khen ngợi bản thân là cuộc sống gần đây khó tránh sự xúc động nhất thời mà phát sinh xung đột. Mơ thấy đối thủ khen ngợi mình là ngụ ý bạn sắp đầu hàng đối thủ. Vợ nếu mơ thấy mình được người khác khen ngợi là ngụ ý bạn đang có điều bất mãn với chồng.
Mơ đi shopping, cẩn thận ví tiền Trong giấc mơ, bạn thấy mình đi shopping điên cuồng, thì khi tỉnh dậy hãy quan tâm hơn tới cách xài tiền cũng như tình hình tài chính của mình nhé.Học sinh mơ thấy mình được người khác khen ngợi thì cần đề phòng thành tích thi cử, gần đây nên nỗ lực học tập. Mơ thấy mình khen ngợi vợ, bạn bè hoặc người thân là ngụ ý cuộc sống hạnh phúc. Mơ thấy mình khen ngợi đối thủ là ám chỉ đối thủ chuẩn bị tấn công bạn, bạn nên thận trọng. Mơ thấy mình khen ngợi người khác là sắp phải lo lắng về trắc trở và hoạn nạn. Người làm công ăn lương mơ thấy mình khen ngợi thượng cấp dự báo sẽ được đề bạt hoặc được tăng lương hoặc được thưởng.
=> Tra cứu: Lịch âm, Lịch âm 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com
Lichngaytot.com Mơ thấy đánh nhau là điềm báo tốt lành Trong cuộc sống thường ngày, đánh nhau bị coi là hành vi xấu. Đôi khi, chỉ vì một chút nóng giận, không làm chủ được bản thân mà mọi người sẵn sàng thượng cẳng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Việc sinh nở từ xưa đến nay , từ tây sang đông đều rất được coi trọng . Trong nền Văn Minh cổ Hy Lạp , Nữ Thần Hê – Ra vợ của Thần Chúa Tể Zớt ( Tức là ngôi thứ hai ) được coi là vị Thần bảo hộ cho các bà mẹ khi mang thai và sinh nở.
Trong Phật Giáo , Vị Đại Bồ Tát Quán Âm ( Có lúc mang hình tướng nữ ) được coi là vị Bồ Tát bảo hộ , nâng đỡ cho các bà mẹ trong việc sinh nở . Trong Phật Giáo có một câu Thần Chú của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm khuyên các bà mẹ trì đọc hàng ngày để bảo vệ cho mẹ cùng con an toàn khỏe mạnh : “ UM CA SÁ CA SÁ , VI CA SÁ , MA HA CA SÁ XOÁ HA” .
Trong Đạo giáo Trung Hoa người ta cũng tìm thấy vô số các Linh Phù ( Bùa) từ cổ xưa hỗ trợ cho việc sinh nở , nuôi trẻ . Trong Dân Gian người ta thường nói “Mẹ Tròn Con Vuông” để chỉ việc sinh nở an toàn , nhanh chóng . Hình tròn ở đây tượng trưng cho khái niệm Thiên ( Trời ) , hình vuông tượng trưng cho Địa ( Đất ) là hai khái niệm hoàn hảo trong triết học cổ Đông Phương . Cũng trong kho tàng Dân Tục Học ( Các tục lệ dân gian ) người ta thấy có vô số các mẹo ( Thủ thuật mang nặng cảm tính hình tượng ) rất thú vị . Như khi thấy vợ khó đẻ thì người chồng chạy xuống bếp lấy một chiếc nồi đất để giữa sân rồi đập vỡ - ý mong cho vợ nhanh chóng sinh con .
Trong nền nếp Nho Gia thì có một khái niệm rất hay là “Thai Giáo” , giáo dục con từ khi trong bụng mẹ . Theo đó người mẹ trong lúc mang thai con phải dè chừng , để ý từng cử chỉ , lời ăn tiếng nói để cho đứa con trong bụng mẹ có được những phong thái cử chỉ tốt sau này . Thật ra truyền thống này bắt nguồn từ tích Mạnh Mẫu ( Mẹ của Đức Mạnh Tử - Một trong hai vị Thánh của Nho Giáo ) . Truyện kể rằng khi bà mang thai ngài Mạnh Tử , chiếu trải không ngay ngắn bà không ngồi , miếng thịt cắt không vuông vắn bà không ăn …v…v… Vì thế sau này bà sinh ra Đức Mạnh Tử nổi tiếng chính trực , lễ nghĩa . Thuật Phong Thủy cũng có rất nhiều tiêu chuẩn để trợ giúp cho việc mang thai và sinh con . Các thủ thuật “Áp Tuyệt Thôi Đinh – Trừ Bỏ Không Con Thúc Đẩy Sinh Sản ” trong Phong Thủy Lý Khí thực chất là tìm ra môi trường có trường khí tốt nhất để cải thiện sức khỏe của cả hai vợ chồng , từ đó làm cho việc mang thai có tỷ lệ cao hơn . Phong Thủy cũng khuyên người ta nên tránh một số điều như sau :
1. Phía Bắc của nhà kỵ để gập nước , vì phía Bắc vốn là hành thủy , trường khí ở đây là ứng hợp với Thận Khí của con người , nếu đề quá nhiều nước sẽ dễ dẫn đến các bệnh về Thận , ảnh hưởng trực tiếp đến mang thai và sinh nở .
2. Vị Trí giường ngủ ngoài việc kê đúng nơi có trường khí hợp với thể chất hai vợ chồng , thì cũng nên tránh đối diện với bếp , nhà vệ sinh , cửa ra vào , các vật nhọn. Đặc biệt nên tránh nhìn trực tiếp vào ban thờ , gây tâm lý sợ sệt hoang mang cũng khó đậu thai .
3. Trong khi mang thai rất kỵ xây hoặc sửa nhà. Thứ nhất xây sửa nhà là công việc nặng nhọc, ô nhiễm dễ dần đến ảnh hưởng xấu cho bà mẹ vốn đã rất yếu trong lúc mang thai. Thứ hai quá trình xây sửa nhà dẫn đến thay đổi phương vị, tính chất của trường khí xung quanh. Điều này có thể người thường khó nhận biết nhưng thai nhi lại chịu ảnh hưởng. Phạm vào điều này Khoa Phong Thủy cho rằng dễ dần đến dị tật, hoặc biến chứng của thai nhi .
4. Tương tự như việc xây sửa nhà , trong quá trình mang thai người ta cũng khuyên không nên đào giếng, ngoài việc biến đổi trường khí của nhà ở, giếng nước còn được dùng trực tiếp cho ăn uống, nếu phạm vào một trong các Sát ( Điều xấu ) trong Phong Thủy thì hậu quả thật khôn lường . Tuy nhiên do ngày nay dùng nước máy nhiều nên vấn đề này cũng đã được giải tỏa bớt .
5. Nhà gần bệnh viện, nghĩa địa, hồ nước ở phương vị xấu ( Phong Thủy gọi là Huyết Bồn Chiếu Kính – Gương Soi Chậu Máu ) cũng dễ là biến chứng, hư thai. Có rất nhiều trường hợp bị xảy thai, hư thai do nhà ở tại hướng Lưu Niên Phi Tinh (Trường khí vận động theo từng năm) mang sát khí mà phương vị đó lại có bề bơi , ao , hồ ….v…v…Gặp trường hợp này tốt nhất nên tránh đi nơi khác trong lúc mang thai.
6. Việc đặt bếp lúc bình thường đã rất quan trọng ( Nhân Gian Ngũ Tự Táo Vi Tiên – Nhân Gian Năm Chữ Bếp Đứng Đầu ). Đặc biệt trong lúc mang thai, sinh nở càng nên thận trọng . Bởi việc ăn uống lúc đó trở nên rất quan trọng. Có nhiều trường hợp chỉ nhờ tác động của việc xoay hướng bếp mà loại bỏ được tình trạng vô sinh đã lâu năm.
7. Việc đặt chỗ em bé nằm cũng rất quan trọng vì ngoài việc có sức đề kháng yếu, nhưng trẻ lại đặc nhạy cảm với các điều kiện xung quanh . Vì thế nên chú ý tới độ sáng, tốc độ lưu thông khí , độ ẩm , nhiệt độ . Tất cả các điều kiện này Phong Thủy quy về hai khái niệm Âm ( Xấu ) , Dương ( Tốt ) . Điều hòa cân bằng tức là Dương ; mất cân đối , quá ít hoặc quá nhiều một trong các yếu tố trên đều là Âm .
8. Khi thấy trẻ có các biểu hiện bất thường , như khóc liên tục không dừng , ngủ ly bì không dậy , hay giật mình . Mà không có biểu hiện của bệnh lý . Lúc đó cần xem xét lại môi trường , khí trường xung quanh chỗ trẻ lằm . Thậm chí một số mẹo thuật trong dân gian cũng có thể đem lại hiệu quả tốt bất ngờ .
9. Trong Phong Thủy nói chung và Huyền Không Phi Tinh nói riêng có hai khái niệm rất quan trọng là Sơn ( Núi ) , Thủy ( Nước ) . Yếu tố Sơn chính là yếu tố hỗ trợ cho việc sinh đẻ , nuôi dạy con người . Thế nên có câu : “Sơn Quản Nhân Đinh , Thủy Quản Tài – Núi Quản Con Người , Nước Quản Tiền Bạc” . Trong Phong Thủy Huyền Không các Phi Tinh Sơn đạt tiêu chuẩn sinh vượng kết hợp với thực địa cũng tốt thì tất nhiên đó là môi trường tốt cho con người sinh sống . Tuy nhiên yếu tố Thủy cũng cần tốt đề hỗ trợ tốt cho yếu tố Sơn. Bởi bạn cứ tưởng tượng xem nếu chỉ có yếu tố Sơn tốt mà Thủy không tốt thì sao. Khi khí trường mất cân bằng cũng này sinh khó khăn.
10. Muốn đạt được tối đa việc tạo môi trường hỗ trợ thịnh phát về con người . Phong Thủy Học khuyên con người ta cần kết hợp tốt các yếu tố . Từ hình thế bố cục trong , ngoài nhà ; Sự lưu chuyển , sắp xếp của khí trường ( Bát Trạch , Huyền Không ) ; Thể chất của từng người , cũng sự kết hợp của họ với nhau . Càng có nhiều yếu tố hợp , sinh , vượng là tốt . Nếu chỉ là khiếm khuyết thì dùng các biện pháp bổ cứu (Theo thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái). Còn nếu quá xấu (Tử Địa) thì đành bỏ .
Sinh và Tử vốn là hai việc tối quan trọng của đời người . Nó như một dấu mốc của một dòng chảy trong quãng thời gian nhất định . Chính vì thế mà từ khi có nhân loài cho mãi về sau này nó vẫn là vấn đề con người coi trọng nhất . Phong Thủy với tư cách là một bộ môn học thuật nhằm chọn lựa cho con người một không gian , thời gian tồn tại tốt nhất cũng đã không đứng ngoài cuộc đề hỗ trợ con người trong vấn đề sinh sản , duy trì giống nòi . Hiểu thêm một chút về quan niệm của Phong Thủy thì cũng rất bổ ích .
Nữ giới có nốt ruồi mọc trong lông mày trái có cuộc sống giàu sang phú quý và là trợ thủ đắc lực về công danh sự nghiệp cho chồng. Nốt ruồi ở vị trí này là biểu hiện của trí tuệ thông minh, phú quý, đại cát đại lợi. Người này không chỉ giúp chồng rạng danh mà còn vô cùng thủy chung, hết lòng vì chồng con. 2. Nốt ruồi dưới cằm trái – Vinh hoa phú quý
Nốt ruồi vinh hoa phú quý
Nốt ruồi dưới cằm trái chủ tài, là tướng phú quý. Trong nhân tướng học, cằm là vị trí tài phúc. Đây là bộ phận địa các, thường được xem là dấu hiệu thể hiện cho nhà cửa ruộng vườn rộng lớn. Phụ nữ có tướng nốt ruồi này sẽ được hưởng vinh hoa phú quý suốt đời. Đồng thời, họ được thừa kế khối tài sản đất đai lớn từ tổ tiên để lại. 3. Nốt ruồi trên tai phải – Trợ giúp tài vận cho chồng
Trong nhân tướng học, phần lớn nốt ruồi trên tai đều là tốt. Nếu nốt ruồi ở dái tai là người thông minh, hiếu thuận với cha mẹ. Tai phải nữ giới có nốt ruồi, điều này cho thấy họ sẽ trợ giúp tài vận cho chồng và cả gia đình nhà chồng. Đàn ông lấy được người vợ có tướng nốt ruồi này sẽ được vinh hiển với đời, công danh sự nghiệp đều mãn nguyện. 4. Nốt ruồi vị trí dưới lông mày – Gia đình hạnh phúc
Nốt ruồi gia đình hạnh phúc
Đôi lông mày ở nữ giới đại diện cho cung vợ chồng. Nếu ở vị trí này có nốt ruồi, đây là tướng tốt. Người này có cuộc sống gia đình hòa thuận, hạnh phúc và trợ giúp lớn về mặt tinh thần cho chồng con. 5. Nốt ruồi trên cánh mũi – Tích lũy nhiều tiền tài
Nốt ruồi tích lũy nhiều tiền tài
Theo nhân tướng học, cánh mũi được gọi là “lan đài”, “kim quỹ”, có nghĩa là kho tiền bạc. Nữ giới có tướng nốt ruồi này là chủ tài, có khả năng quản lí tiền bạc tốt, cả cuộc đời sống trong phú quý, giàu sang. Đồng thời, đây là người vợ lí tưởng cho gia đình. Họ biết cách đối nhân xử thế khéo léo nên gia đình luôn hòa thuận, êm ấm. Theo XZ Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”, Gia Cát Lượng có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng
Theo truyện, năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng biết mình sắp chết trong khi sự nghiệp vẫn dở dang, ấu chúa vẫn còn nhỏ tuổi chưa cáng đáng được sự nghiệp. Ông quyết định làm phép cầm sao giữ mạng để chống lại mệnh trời hòng sống thêm 1 giáp nữa. Trong khi ông lập đàn thất tinh cần phải 7 ngày yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhưng đến ngày thứ 6, vì việc quân khẩn cấp, một tướng đã xộc vào nơi ông đang làm phép. Bởi thế việc cầm sao thất bại.
Tuy nhiên dưới góc nhìn của Tử vi học, cái căn bản nhất đối với người mệnh vô chính diệu là không thể thọ được. Các sách Tử vi lưu truyền từ xưa đều có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”. Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là: Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ hơn.
Tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng viết: “Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông quá nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì dù sát nghiệp của ông nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số mệnh Vô chính diệu?”.
Ở một sách về Tử vi khác là cuốn Tử vi thực hành thì chỉ ra rằng năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng gặp đại hạn ngộ Thái Tuế và một loạt sao xấu cho nên không thể qua được mà phải chết. Cuốn sách viết: “Số Gia Cát có Tả hữu đồng cung Thái dương ở mão, Thái âm ở Hợi gọi là Nhật Nguyệt tinh minh cách, nên số cực phú quý, tài năng lỗi lạc. Năm 54 tuổi, đại hạn ngộ Thái Tuế, Thiên Thương, Hóa kỵ, Đại, tiểu hao, Kình Đà nên chết”.
Gia Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao điếu khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hỏa công rất giỏi.
Tại cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành danh. Dưới thời nhà Thục (221- 263), Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị tướng.
Ở cung Nô Bộc của ông có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền của Gia Cát Lượng có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh (với như Mã Tốc, Ngụy Diên).
Khổng Minh cực kỳ giỏi về thiên văn và các tướng số cũng như phong thủy, nên trong những trận đánh cụ thể, ông đã bài binh bố trận chặt chẽ để giành những thắng lợi huy hoàng (ví dụ trận Xích Bích, Tân Dã, Bái Vọng…). Khi đó, theo Lưu Bị buổi ban đầu, đất và quân không có nhiều, Gia Cát Lượng đã biết xoay chuyển tình thế, vào đất Tây Thục. Dựa vào vùng hiểm trở của đất ấy tạo ra thế chân vạc của thời Tam Quốc. Tuy nhiên, trong thuật dùng binh có những trận đánh vì đại cuộc, Gia Cát Lượng đã tiêu diệt rất nhiều sinh linh. Chính vì vậy mà tuổi thọ của Gia Cát Lượng không cao được. Là người hiểu thời thế, ông biết là vận mệnh của nhà Hán đã suy nhưng vẫn một lòng phò tá Lưu Bị dựng đại nghiệp, mặc dù biết thiên thời không đứng về phía mình.
Trong cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì thường không xoay đổi được.
Trước khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm (1 giáp) nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng bị gió thổi vào, vì vậy mà ông không thể sống được nữa.
Tương truyền đây là lá số của Khổng Minh Gia Cát Lượng:
Còn đây là bài luận giải của cụ Thiên Lương:
Ở bài trước, việc chấm phá vài nét cơ bản trong lá số Tào Tháo như một ví dụ làm rõ hơn mối quan hệ tương hỗ giữa các yêu tố “cung” và “sao” trong môn Tử vi. Hai yếu tố này được ví như hai phần “thế” và “lực” khi lượng định, xét đoán từng cung, từng đại vận, từng nội dung của lá số. Tiếp theo, bàn về chữ “thời” và sự đắc thời hay lỡ thời, lá số của Khổng Minh (181 – 234 sau Công Nguyên) lại cho chúng ta một góc nhìn khác, để biết chữ “thời” quan trọng thế nào trong cuộc đời và sự nghiệp mỗi con người. Chả thế mà có câu: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công.” Đến như quân sư Khổng Minh – một kỳ nhân có tài “hô phong hoán vũ, liệu việc như thần”, được người đời sau xếp đứng đầu trong “tam tuyệt” thời Tam Quốc, trên cả hai người là Tào Tháo và Quan Vũ, cũng không thể vượt qua được chữ “thời” – như một cửa ải mang tính định mệnh này.
“Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Vận tốt”
Đây là câu phú mà ít ai đã quan tâm đến các môn Lý học, nhất là Tử vi lại không thuộc nằm lòng. Thật ra, không thể hạ thấp giá trị và tầm quan trọng của cung Mệnh, cung an Thân, nhưng yếu tố thời vận, tức là chữ “thời” trong lá số nhiều khi có ý nghĩa quyết định thành bại của một đời người, nhất là về hậu vận. Có những người không may có cung Mệnh, Thân bất lợi, nhưng vào tuổi trưởng thành gặp được vận tốt, thoả chí phát huy được năng lực của mình trong một bối cảnh thuận lợi, gọi là cách: “Khô mộc phùng xuân” (cây khô gặp được mùa xuân), với một đại vận 10 năm đắc cách cũng đã thoả nguyện lắm rồi. Trường hợp này ví như hành trình cuộc đời trên một chiếc xe yếu, công suất thấp nhưng được đi trên đường cao tốc, lại gặp mưa thuận gió hoà nên vẫn bình ổn đi đến đích. Ngược lại, Mệnh – Thân có tốt mà vận quá xấu, ví như chiếc xe to đẹp, mạnh mẽ nhưng phải đi trên con đường núi hiểm trở, nhiều mưa to bão lớn nên luôn gặp trở lực, đời nhiều thăng trầm, thành quả không có là bao; khi ấy ý chí và nỗ lực bản thân đóng vai trò quyết định. Tệ nhất là khi Mệnh, Thân đã xấu mà vận cũng xấu, khi ấy tương lại mịt mờ, suốt đời nghèo khó, gian nan vất vả, khổ nạn liên miên, sức người dù có cố làm cũng chỉ cải thiện được phần nào. Vấn đề của nhiều người là: Nếu có vận tốt, liệu có biết và tận dụng được các vận hội đắc cách ấy trong cuộc đời mình, hay là để lỡ thời rồi cuối đời phải nuối tiếc, ân hận!
Vậy thế nào là một “vận” tốt? Trong Tử Vi phân ra: Đại vận (10 năm), niên vận (1 năm), nguyệt vận (1 tháng), nhật vận (1 ngày), thời vận (1 canh giờ). Cách thức lấy từng loại vận trong một lá số và phương pháp xét đoán vấn đề vận hạn khá phức tạp và dài dòng nên xin hẹn quý vị ở một bài chi tiết khác riêng cho vấn đề này. Ở đây xin khái lược về đoán định Đại vận; các “vận” khác về cách thức xem xét cũng không khác nhau là mấy, nhưng theo nguyên tắc: “Dĩ trường chế đoản” – tức là các “vận” dài quyết định các “vận” ngắn. Đại vận tốt thì tiểu có tiểu vận có xấu cũng không quá đáng ngại; còn tiểu vận nếu rực rỡ nhưng trong một Đại vận đắc cách, như thế mới là thật sự thuận lợi và đắc thời. Khi xem xét một đại vận, cần đồng thời quan tâm đến cả 3 yếu tố:
Thiên thời: Xét cung cần xem xét trong tam hợp cung nào? Rồi xét tam hợp cung ấy so với tam hợp tuổi theo phép sinh – khắc để đưa ra nhận định
Địa lợi: Xét âm – dương, ngũ hành của cung cần xem xét so với bản mệnh của mình: Tốt nhất là được sinh nhập, nếu bình hoà thì tạm ổn, kém nhất là mệnh bị khắc nhập hay bị sinh xuất. Khi ấy thành quả (nếu có) thường không trọn vẹn, được việc này dễ hỏng việc khác, có khi sa sút, đổ vỡ hay phá sản.
Nhân hoà: Xét tương tác các bộ sao của cung xem “vận” có hợp với các sao ở cung Mệnh, nhất là chính tinh hay không? Chú ý các sao Tứ Hoá, lục sát tin, nhất là các sao hợp hành với bản mệnh. Khi ấy, vai trò của các sao hợp nhau thành bộ đóng vai trò quyết định.
Thông thường, khi quyết đoán một vận tốt cần chí ít 2 trong 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” kể trên. Nếu may được cả 3 sẽ là vận tối hảo, nhưng trường hợp này rất hiếm. Còn lỡ khi gặp vận mất cả 3 yếu tố trên, nếu khinh xuất mà vọng động thì sẽ cầm chắc thất bại. Khi ấy, chỉ nên ẩn nhẫn chờ thời, “dĩ tĩnh chế động”, lấy tiêu chí bình ổn làm đầu để chờ cho qua vận xấu, rồi mới khởi sự làm ăn, đầu tư lớn hay các quyết định quan trọng về sự nghiệp, công danh.
Quân sư Khổng Minh – người lỡ thời với đại nghiệp “phục Hán”
Khổng Minh tên thật là Gia Cát Lượng, là người có tài kinh bang tế thế, một nhà chiến lược thiên tài, xuất sắc nhất trong thời Tam Quốc, đến mức người đời sau so với một thiên tài quân sự lớn khác là Tôn Tử. Từ năm 27 tuổi theo phò Lưu Bị đến khi về trời năm 54 tuổi, ông đã tận tâm tận lực giúp họ Lưu dựng lên đại nghiệp, cùng Tôn Quyền đại thắng trận Xích Bích, khiến cho Tào Tháo tơi tả, hồn xiêu phách lạc, rồi lấy Kinh Châu, định Tây Xuyên, bình Mạnh Hoạch, dưng nước ở đất Thục. Cùng với nước Nguỵ ở phía BẮc, Ngô ở phía Đông, Lưu Bị hoàn thành đế nghiệp, tạo thành thế chân vạc chia 3 thiên hạ. Thế nhưng, trời chẳng chiều người, biết vận nhà Hán đã tận mà ông vẫn cố cưỡng cầu chống đỡ đến cùng. Sáu lần tiến binh ra Kỳ Sơn dang dở, khiến cho ông lâm vào cảnh thể chất suy nhược, sức khoẻ hao tán. Đến lần thứ 6, tại gò Ngũ Thượng, biết mệnh mình sắp hết, ông đành: “Sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại, đi xem hết dinh. Gió đông rát mặt, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng: Từ nay ta không được ra trận nữa. Trời xanh thăm thẳm, hận này biết bao giờ nguôi!” Ông hận ai? Với nhân thế thời ấy không đối thủ, ông hận cõi cao xanh kia đã bắt mình chịu yểu mệnh, hận chữ “thời” đã không ở lại với mình, để ông có thể dốc sức hoàn thành tâm nguyện “phù Hán” một cách trọn vẹn.
Theo sách sử, Khổng Minh sinh vào giờ Tuất, ngày 10/04 năm Tân Dậu (năm 181 dương lịch). Lá số âm nam, mệnh Mộc, thế cục “Kim tức cục” khắc mệnh, cung mệnh ở Mùi (âm Thổ) cũng bị mệnh khắc, đủ thấy sự nghiệp cuộc đời ông mất phần “thiên thời” mà chủ yếu nhờ vào nỗ lực bản thân. Ông có mệnh Vô Chính Diệu, tuy đắc cách cả bộ Tả Phù – Hữu Bật nhưng không có phụ tinh hay sát tinh hợp hành mệnh làm nòng cốt, cũng không có thể “đắc tam Không” nên vướng vào trường hợp: “Phi tần tắc yểu, tam vô tự” (nếu không nghèo tất yểu mệnh hoặc không có con trai). Trường hợp yểu mệnh của ông chính là vì thế. Điểm đặc sắc chính là cách: “Nhật Nguyệt chiếu hư không”: Sao Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi chiếu lên mệnh ở cung Mùi, khiến ông trờ thành một tuyệt thế kỳ nhân, thông minh quán chúng, biết người và tỏ cả việc trời, dám đông đến thiên cơ. Cung an Thân ở cung Mão, có Thái Dương (thuộc Hoả), Thiên Lương (thuộc Mộc) mới chính là cốt cách của ông, là thiên chức của người đảm nhận phận sự phò tá dựng nghiệp cho các bậc Vương Đế. Nhưng vì là mệnh Mộc phải sinh Hoả (Thái Dương) nên sự nghiệp và danh vọng càng rực sáng thì tinh khí và thể chất của ông càng sớm hao mòn, khô kiệt. Bộ sao Bệnh, Thiên Hư, Tuế Phá đóng ở cung an Thân càng làm rõ thêm điều này.
Với cung Quan Lộc ở Hợi, có sao Thái Âm (Thuỷ) với người mệnh Mộc là tuyệt hảo, nên chức Thừa tướng với ông là chuyện quá đỗi bình thường. Nhưng cung này có bộ Cô Thần – Quả Tú và Tang Môn, Phục Binh nênoong là người cô đơn trong các ý tưởng và mưu cơ siêu việt của mình, cũng hay bị xàm tấu, ganh ghét chống phá sau lưng. Sao Thiên Mã – tượng trưng cho tài năng, nghị lực được đóng chính cung Hợi (thuỷ Mã) mới thực là thần diệu: Nó không còn là “cùng đồ mã” (ngựa hết đường chạy) mà rất đắc dụng với người mệnh Mộc như ông. Cùng với sao Điếu Khách, Thanh Long ở mệnh, Hoá Quyền ở cung Tài (cung an Thân), sao Thiên Mã này giúp ông trở thành nhà hùng biện, thuyết khách với văn tài xuất chúng. Xét về vận, Đại vận 44 – 53 tuổi của ông ở cung Mão – hợp với mệnh Mộc nên ông được phần “địa lợi”, tiếc rằng mất phần “thiên thời” do tam hợp Hợi, Mão, Mùi (thuộc Mộc) bị phía đối nghịc là cung Dậu, trong tam hợp Kim (Tỵ, Dậu, Sửu) khắc chế rất nặng. Đến phần “nhân hoà”, về đại cục thì có thuận lợi, nhưng lũ bất tài và bọn tiểu nhân cũng nhiều (sao Bệnh, Tuế Phá, Thiên Hư, Địa Kiếp) mà người mang lá số “văn cách” như ông nhiều khi khó mà trị được cho đến nơi đến chốn.
Cuối đại vận này, biết mình yểu mệnh, vận số đã tận, ông thành tâm lập đàn “Nhương tinh cầu thọ” nhưng chịu thất bại, ngọn nến bản mệnh đã vụt tắt ở phút cuối. Phải chăng trong dặm dài chinh phạt thiên hạ, ông đã gây ra quá nhiều oán nghiệp: Từ trận Xích Bích hàng trăm vạn người máu chảy đầu rơi, thây trôi đầy dòng Trường Giang, đến các chuyến bình Nam đã tàn sát, đốt cháy quân Man; mưu đống hang Thượng Phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý và hàng vận quân nhưng trời mưa như trút nên họ Tư Mã thoát nạn… Thật là, khi một triều đại mà khí số đã tận, tức một người dẫu quảng bác, thần thông như quân sư Gia Cát Lương cũng chỉ kéo dài được một năm hữu hạn, chứ không thể vượt lên khỏi lẽ tối thượng cho cõi cao xanh. Vậy nên có câu rằng: “Cho hay thành bại ở đời, hơn nhau chỉ một chữ “thời” mà thôi!”
Dưới đây là hơn một nghìn cái tên dành cho bé gái sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng trong việc tìm tên cho bé yêu của mình.Ái HồngÁi KhanhÁi LinhÁi NhânÁi NhiÁi ThiÁi ThyÁi VânAn BìnhAn DiAn HạAn HằngAn NhànAn NhiênAnh ChiAnh ÐàoÁnh DươngÁnh HoaÁnh HồngAnh H
Năm mới đã gần kề và bạn đang có ý định làm ấm áp hơn không gian phòng khách của mình? Đó quả là một ý tưởng tuyệt vời và chúng tôi sẽ giúp bạn một số gợi ý theo phong thủy.
Phòng khách là không gian chung và là nơi diễn ra nhiều nhất các hoạt động trong ngôi nhà của bạn. Vì thế, để chuẩn bị cho một năm mới bắt đầu trong sự ấm áp, nồng nàn thì việc trang trí mới không gian phòng khách sẽ có một tác động rất quan trọng.
Đặc biệt, bạn nên tham khảo những cách “sưởi ấm” cho phòng khách hợp phong thủy để có được hiệu quả tốt nhất. Theo góc nhìn phong thuỷ, điều bạn cần làm để tăng cảm giác ấm áp cho một không gian nào đó là làm cân bằng môi trường sống đó với những màu sắc, cảm giác mang yếu tố lửa. Vì thế, bạn hãy tìm cách khéo léo nhất để tạo ra những “yếu tố lửa” cho phòng khách của mình. Có rất nhiều cách để bạn mang năng lượng của lửa theo phong thuỷ vào phòng khách mà bạn có thể thực hiện được.
Màu sắc chủ đạo cho căn phòng là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự ấm áp. Bạn nên lựa chọn những màu thuộc tông màu nóng như màu vàng đậm, cam, đỏ hoặc màu gạch nung để sử dụng trong trang trí. Những gam màu này có tác động đến thị giác của bạn, khiến bạn cảm thấy không gian như ấm cúng hơn.
Không gian phòng khách tuyệt vời Tết 2015
Trong số các màu sắc này, màu cam là màu phù hợp nhất để tạo sự gần gũi trong không gian quây quần tụ họp của gia đình, bạn bè, người thân trong những ngày đầu năm mới. Sự nhẹ nhàng và ấm áp mà màu cam đem lại sẽ khiến chúng ta rất thoải mái. Đây là màu sắc thuộc hành Hỏa nên khả năng làm ấm không gian phòng khách của bạn là rất tuyệt vời.
Để việc sử dụng gam màu chủ đạo của căn phòng đạt hiệu quả tốt nhất, bạn nên để ý kỹ hướng của phòng khách. Ví dụ màu cam tượng trưng cho Hỏa do đó màu này nên được sử dụng tại các hướng: Nam (Nổi tiếng và Danh vọng) và Tây Nam (Tình yêu và Hôn nhân). Tránh sử dụng màu cam tại hướng Tây và Tây Bắc bởi những hướng này bị chi phối bởi hành Kim, mà yếu tố Hỏa của màu cam sẽ làm tan chảy yếu tố Kim. Hai hướng khác cần phải tránh sự hiện diện của màu cam là hướng Đông và Đông Nam, bởi hai hướng này bị chi phối bởi hành Mộc và dĩ nhiên, sức nóng của Hỏa sẽ gây bất lợi cho Mộc.
Ngoài ra, bạn cũng có thể mang yếu tố lửa ấm áp vào phòng khách của mình bằng cách thay thảm tại khu vực trung tâm. Một chiếc thảm mới có màu sắc ấm áp sẽ rất dễ chịu và vẫn đảm bảo được yếu tố phong thủy.
Màu sắc của ánh sáng phát ra từ những chiếc đèn bàn, hoặc những cây nến cũng có tác động tích cực đến việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng phong thủy trong ngôi nhà của bạn và khiến bạn có cảm giác như được bao bọc trong một không gian ấm cúng và thoải mái. Bạn nên chọn những loại đèn có chụp đèn cho ánh sáng vàng đậm hoặc hồng.
Với rèm cửa cũng tương tự, các chất liệu và màu sắc nên được ưu tiên là chất liệu nhung hoặc đũi, màu đỏ hoặc vàng.
Cũng theo phong thủy, không gian sẽ được làm ấm hơn với mật độ vật dụng dày hơn. Đồ vật càng nhiều, không gian sẽ càng nóng lên vì chúng sẽ giữ nhiệt tốt hơn. Hãy sử dụng thêm những vật trang trí như những chiếc gối mới, những bức tranh phong thuỷ tốt lành sẽ giúp bạn vận chuyển khí hành hỏa trong phòng khách.
Việc cách ly cơ thể khỏi các đồ vật thuộc lạnh như sàn nhà, đồ đạc kim loại cũng là rất cần thiết. Điều này có nghĩa là bạn nên trang bị cho phòng khách những tấm thảm sàn và khoác cho bộ sofa của bạn thêm những tấm áo khoác.
Tổng hợp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Người có khuôn mặt tròn trịa và đầy đặn thường rất nhạy cảm, chu đáo và có nhu cầu “chuyện ấy” khá cao.
Tướng mặt hình trái tim
Đặc điểm của mặt hình trái tim là phần trán rộng nhưng cằm nhỏ. Trán rộng cho thấy đây là người thông minh, nhạy bén, có tư duy logic, song vẫn rất “nghệ sĩ”.
Điểm trừ trong tính cách của người này là sự kiên định đến mức cứng đầu và tính cách tự cao tự đại. Bạn sẽ gặp khó khăn nếu muốn thay đổi quan điểm hay suy nghĩ của họ.
Tướng mặt hình tròn
Tướng mặt tròn hay còn gọi là mặt hình giọt nước. Người có hình dáng khuôn mặt tròn trịa và đầy đặn thường rất nhạy cảm, chu đáo và có nhu cầu “chuyện ấy” khá cao.
Tương tự tính chất của giọt nước là linh động và biến đổi phù hợp với vật chứa nó, người có khuôn mặt tròn có khả năng thích nghi cao và nhanh trí. Trong tình yêu, họ thủy chung, chính chuyên. Do đó, nếu bạn đang tìm kiếm một mối quan hệ lâu dài và bền vững thì họ chính là sự lựa chọn lí tưởng.
Tướng mặt trái xoan
Đặc điểm tướng mặt này là mặt dài và phần cằm nhỏ. Sở hữu nó, bạn biết cân bằng mọi thứ trong cuộc sống và rất giỏi ăn nói. Tất nhiên, bạn thích hợp với các công việc ngoại giao. Nhờ tài ăn nói khéo léo, bạn dễ tạo thiện cảm đối với những người xung quanh.
Ngoài ra, người có khuôn mặt trái xoan được cho là có thể trạng kém, cần phải chăm chỉ rèn luyện thể thao, nâng cao sức khỏe. Thêm một bật mí thú vị khác, phụ nữ sở hữu khuôn mặt này thường là những nghệ sĩ nổi tiếng.
Tướng mặt hình chữ nhật
Đặc điểm của khuôn mặt này là dài và mỏng. Sở hữu tướng mặt hình chữ nhật, bạn có cơ thể cường tráng, khỏe mạnh. Lối suy nghĩ của bạn thực tế, cẩn thận. Nhưng bạn hơi tự cao tự đại, tạo cảm giác khó gần.
Bên cạnh đó, bạn sống lý trí, tư duy logic tốt nên không gặp khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề.
Trước khi làm bất cứ việc gì bạn luôn lập kế hoạch cụ thể. Tuy nhiên vì quá “tham công tiếc việc” nên vẫn có những việc nằm ngoài tầm kiểm soát. Điều đó khiến bạn thấy áp lực. Đừng quên tập thể dục nhiều hơn để xả stress nhé.
“Bắt mệnh” giàu nghèo, sướng khổ qua chiếc lưỡi Xem lưỡi bắt bệnh là việc làm thường thấy. Không chỉ dừng lại ở đó, hình dáng và màu sắc lưỡi cũng tiết lộ phần nào vận mệnh của đời người. Tướng mặt hình kim cương
Bạn sở hữu khuôn mặt hình kim cương nếu phần trán và cằm gọn nhưng hai gò má lại rộng ra. Bạn có xu hướng muốn kiểm soát mọi thứ. Trong công việc, bạn rất chú trọng đến tiểu tiết nên thường gặt hái được nhiều thành công.
Tuy cẩn trọng là vậy, nhưng họ có thể “nổi cơn thịnh nộ” bất cứ khi nào nếu mọi chuyện không diễn ra theo ý mình.
Tướng mặt hình tam giác
Khuôn mặt hình tam giác sẽ có phần trán nhỏ và rộng hơn về phía gò má và cằm. Những người trán nhỏ thường có xu hướng muốn kiểm soát mọi thứ. Do đó, họ gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống.
Theo Nhân tướng học, phần trán nhỏ cho thấy sức tập trung của bạn không cao, thường bị cảm xúc chi phối. Tuy nhiên, bạn khá sáng tạo, có trí tưởng tượng phong phú, thích hợp làm trong lĩnh vực nghệ thuật.
Hơn nữa, phần khuôn mặt rộng cho thấy sự quyết đoán, cứng rắn, thích hợp với vai trò người đứng đầu.
Tướng mặt hình vuông
Dấu hiệu để nhận biết người có khuôn mặt vuông là phần trán rộng và cằm bạnh ra. Người này thường thông minh, có đầu óc phân tích tốt và khá quyết đoán.
Ngoài ra, với bản tính thích chi phối người khác, họ có thể trở thành những nhà lãnh đạo trong tương lai.
► Bạn đã biết: Xem nốt ruồi trên mặt đoán tính cách chuẩn xác?
Một ngôi nhà có diện tích rộng thường có phòng chứa đồ. Phòng chứa đồ gồm cá: Chứa đồ tạp dịch, đồ dùng cũ, nơi để phương tiện đi lại (như xe đạp, mô tô) hay gara để ô tô. Một ngôi nhà không có điều kiện diện tích dành riêng nên thường để các đồ trên
Một ngôi nhà có diện tích rộng thường có phòng chứa đồ.
Phòng chứa đồ gồm cá: Chứa đồ tạp dịch, đồ dùng cũ, nơi để phương tiện đi lại (như xe đạp, mô tô) hay gara để ô tô.
Một ngôi nhà không có điều kiện diện tích dành riêng nên thường để các đồ trên một cách rất tuỳ tiện. Đó là một điều không tốt theo ý nghĩa phong thủy.
về ý nghĩa phong thủy, các đồ dùng và phương tiện đi lại kể trên đều thuộc hung đó là nơi thải ra uế khí và sát khí có hại cho cá nhân. Vì vậy cần lưu ý các vấn dề sau:
* Chọn vị trí phòng chứa đồ
– Không gần các phòng ngủ, nếu bố trí trong cùng một ngôi nhà.
– Không bố trí phía trước gió thổi vào nhà, ví dụ đối với gara ô tô hay phòng chứa đồ đạc ở bền ngoài ngôi nhà.
– Ngôi nhà không có nơi riêng để chứa đồ cũ, để xe cộ và các thứ tạp dịch lặt vặt, cần lưu ý xếp đặt gọn gàng ở một nơi dễ thoát được các uế khí, như: Mùi xăng dầu, mùi ẩm mốc, mùi thuốc tẩy rửa v.v… ra khỏi ngôi nhà
7 địa danh chiến tranh bị ma ám trở thành nỗi ám ảnh tâm linh đối với nhiều người bởi những câu chuyện, truyền thuyết xung quanh nó.
1. Côn Đảo, Việt Nam
Đây là địa danh chiến tranh bị ma ám có trại giam được Mỹ xây dựng để giam giữ và tra tấn những người theo cách mạng tại Việt Nam. Chuồng Cọp ở Côn Đảo được dân trong vùng xem là nơi xảy ra nhiều hiện tượng bí ẩn và kì lạ như có tiếng nói, tiếng bước chân hay tiếng la hét vào buổi tối. 2. Lawang Sewu, Indonesia Nguồn gốc câu chuyện ma của tòa nhà cũ ở Indonesia này gắn liền với lịch sử của chủ nghĩa thực dân tại đây. Vào cuối Thế chiến II diễn ra một trận chiến của quân đội Nhật Bản với quân đội Indonesia ở phía trước của tòa nhà, nhiều người đã bị tra tấn trong tầng hầm tòa nhà và hi sinh trong trận chiến. 3. Động Chibichiri, Okinawa Vào cuối Thế Chiến II, quân lính Nhật được cho là được khuyến khích tự sát để không phải đầu hàng quân Mỹ. Hết đoàn quân này đến đoàn quân khác đã tự sát trong các hang động khác nhau tại Okinawa. Nhiều thường dân đã thiệt mạng hoặc tự sát. Tác phẩm điêu khắc từ sọ người có thể dễ dàng tìm thấy trong các hang động ở đây và được xem như một đài tưởng niệm các sự kiện. 4. Bệnh viện Clark, Philippines
Đây là bệnh viện của quân đội Mỹ và nó được cho là đã có bóng ma của những người lính đã chết tới “viếng thăm”. Năm 1991, khi núi lửa Pinatubo phun trào, không quân Hoa Kỳ đã cho bệnh viện di tản. 5. Tòa nhà Bagua, Đài Loan Ngoài khơi bờ biển phía nam của Đài Loan, Đảo Xanh là một nơi rất thu hút khách du lịch. Đảo Xanh đã từng là thuộc địa giam giữ các tù nhân chính trị. Nhà tù vẫn còn đó, và hòn đảo được cho là bị ám bởi những người đã thiệt mạng trong giai đoạn đàn áp chính trị White Terror (1949 - 1987). 6. Yeongdeok, Nam Triều Tiên Có khá nhiều tin đồn xung quanh ngôi nhà bị ma ám nổi tiếng tại tỉnh Bắc Gyeongsang của Hàn Quốc này. Ngoài câu chuyện về một cô gái trẻ đã tự tử sau khi bị bạn trai bỏ rơi, tại đây còn có những truyền thuyết về hồn ma các binh lính Hàn Quốc đã chết trong cuộc đổ bộ Thế chiến II mà xác của họ đã được chôn cất trên đỉnh đồi gần đó. 7. Đồi ma quái ở Penang, Malaysia
Đây là một trong những địa danh chiến tranh bị ma ám nổi tiếng ở Malaysia, từng là căn cứ quân sự của Mỹ. Trên đỉnh đồi là một bảo tàng âm u trưng bày những vật phẩm chiến tranh. Theo nhiều người, nơi đây đầy những hồn ma của các binh lính Nhật bị bắt và hành quyết. Rất ít ai dám đến bảo tàng u ám này một mình. Tất nhiên, những lời đồn thổi có ma hay các linh hồn đều không được xác thực và nỗi sợ của con người chỉ bắt nguồn từ việc có quá nhiều người bị sát hại ở đây. Những địa danh gắn với lịch sử này một lần nữa cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh và những hệ quả, nỗi ám ảnh quá lớn mà nó gây ra.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác
Theo Thiên Việt Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Người tuổi Tỵ thường có phong cách làm việc rất độc đáo. Họ kiên định với kế hoạch đã đề ra, luôn cố gắng hoàn thành tốt chúng và ít khi quan tâm đến những lời
Người tuổi Tỵ thường có phong cách làm việc rất độc đáo. Họ kiên định với kế hoạch đã đề ra, luôn cố gắng hoàn thành tốt chúng và ít khi quan tâm đến những lời đàm tiếu bên ngoài.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Sự nhạy cảm và cá tính độc lập đó cũng khiến họ bị bỏ qua không ít lời khuyên bổ ích của những người xung quanh trong việc lựa chọn ngành nghề.
Người tuổi Tỵ phù hợp với công việc cần sự tập trung tinh thần. Họ ghét làm những việc nặng nề, thô kệch, những công việc lặp đi lặp lại một cách cứng nhắc.
Nhìn chung họ dễ đạt được danh lợi, nhưng nếu để có được sự nổi tiếng thì họ sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn, vất vả. Lời khuyên dành cho người tuổi Tỵ là nên chọn lựa những ngành nghề như chính trị, giáo viên, nhà tâm lý học.
Nếu thử sức ở lĩnh vực kinh doanh thì họ cũng sẽ trở nên thành công và giàu có.
Việc cưới xin, việc làm nhà cửa, việc vui mừng khai hạ, việc xuất hành đi xa, việc khai trương cửa hàng, cửa hiệu, việc gieo mạ cấy lúa, việc tế tự, việc thương biểu, việc nhập học, việc xuất quân, việc an táng... việc gì thường cũng bắt đầu làm việc gì, hoặc động thổ hoặc xuất hành, hoặc khai bút, khai ấn... lại cần xem ngày lắm. Đến những việc vụn vặt như cạo đầu xỏ tai cho trẻ thơ, việc tắm gội, may áo... cũng có người cẩn thận quá trong kén ngày.
Kén thì phải xem đến lịch. Sách lịch do toà khâm thiên giám soạn ra. Mỗi năm về ngày mồng một tháng chạp, Hoàng Đế ngự điện khai trào, các quan Khâm thiên giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi khâm mạng vua mà ban lịch khắc nơi...
... Ban lịch trọng thể nhất là để cho thiên hạ biết chính xác nhất tiết khí, tháng thiếu tháng đủ, ngày tốt ngày xấu, để tuân hành được đều nhau.
Đại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên đức, nguyệt đức, thiên ân, thiên hỷ... hoặc là ngày trực khai, trực kiến, trực bình, trực mãn thì là ngày tốt. Ngày nào có những sao hung tính như sao trùng tang, trùng phục, thiên hình, nguyệt phá thì là ngày xấu.
Kiêng nhất là ngày sát chủ, ngày thụ tử, việc gì cũng phải tránh. Mỗi tháng có ba ngày là ngày năm, mười bốn, hai mươi ba, gọi là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng. Trong một năm lại có mười ba ngày gọi là ngày Dương công kỵ nhật, hết thảy việc gì cũng phải tránh những ngày ấy.
Những ngày ấy là:
Ngày 13 tháng giêng
Ngày 11 tháng hai
Ngày 9 tháng ba
Ngày 7 tháng tư
Ngày 5 tháng năm
Ngày 3 tháng 6
Ngày 8, 29 tháng bảy
Ngày 27 tháng tám
Ngày 25 tháng chín
Ngày 23 tháng mười
Ngày 21 tháng một
Ngày 19 tháng chạp
Hễ phạm phải ngày ấy thì việc gì cũng hư hỏng không thành. Phàm việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng ngày tuổi. Ngoại giả lại còn những ngày thập linh, ngày đức hợp là tốt, ngày thập ác đại bại, ngày tứ lỵ, ngày tứ tuyệt là xấu Nói qua mâý việc dân gian cần dùng nên kén nên kỵ.
Cưới xin nên tìm ngày thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngày trực phá, trực nguy. Làm nhà nên tìm ngày thiên ân. Thiên hỷ, kỵ ngày thiên hoả, địa hoả và ngày kim lâu. Xuất hành nên tìm ngày lộc mã, hoàng đạo, kỵ ngày trức phá, trực bế. An táng nên tìm ngày thiên hỷ, thiên đức, kỵ ngày tử khí quan phù...
Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc mới xuất hành, lúc mới ra ngõ đi cưới, lúc mới dựng nhà, lúc hạ huyệt... Thường đều kén lấy giờ hoàng đạo. Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ bốn câu thơ:
Dần, thân gia tý; mão dậu dần Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân; Tị, hợi thiên cương tầm ngọ vị Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân
Lại cần phải nhớ hai câu:
Đạo viễn kỷ thời thông đạt Lộ dao hà nhật hoàn trình.
Lúc đánh giờ trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấm mà gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt, dao hoàn" thì giờ ấy là giờ hoàng đạo... ... Xét phép chọn ngày, từ đời Đường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngày: Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng cương. Nội sự là việc trong như việc tế tự cưới xin... thì dùng những ngày âm can là các ngày: ất, đinh, kỷ, tân, quý. Ngoại sự là việc ngoài như đánh dẹp, giao thiệp... thì dùng ngày dương can là các ngày: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. Dùng như thế chỉ có ý làm các việc êm ái, hoà nhã thì theo về ngày âm, việc cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngày dương, nghĩa kén lấy ngày có chút ý nghĩa hợp với nhau mà thôi.
Đến đời sau các nhà âm dương thuật số mỗi ngày mới bày thêm ra ngày tốt, ngày sao xấu, ngày này nên là việc nọ, ngày kia nên làm việc kia. Hết ngày rồi lại có giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc, động làm việc gì cũng phải xem ngày, kén giờ, thực là một việc phiền toái quá. Đã đành làm việc gì cũng nên cẩn thận, mà chọn từng ngày, kén từng giờ mà phí câu nệ khó chịu. Mà xét cho kỹ thì có ích gì đâu, chẳng qua việc thành hay bại cốt do ở người chớ có quan hệ gì ngày tốt hay ngày xấu. Nếu cứ chọn ngày giờ mà nên việc thì không cần gì phải dùng đến sức người nữa hay sao ?
Trong các trường hợp phạm giờ kim xà, trai hay gái, dễ yểu trước 13 tuổi. Còn nếu chỉ phạm bàng giờ thì có cơ may tồn tại, nhưng sẽ hết sức khó nuôi. Tuy nhiên, nếu Bản Mệnh đứa trẻ bị Bản Mệnh người mẹ hoặc người cha khắc thì ít hy vọng, đứa nhỏ sẽ có thể yểu, sau nhiều lần đau yếu. Tuy nhiên, trong trường hợp có hy vọng tồn tại, còn phải xem thêm các sát tinh thủ Mệnh đứa trẻ để quyết đoán cho chắc chắn.
Giờ quan sát: Phạm giờ quan sát, trẻ con hoặc hay đau yếu, hoặc bị tai nạn bất ngờ đe dọa sinh mệnh. Cách tính chỉ dựa theo giờ, tháng sinh theo bảng dưới đây:
Tháng Sinh
Giờ Quan Sát
1
tỵ
2
ngọ
3
mùi
4
thân
5
dậu
6
tuất
7
hợi
8
tí
9
sửu
10
dần
11
mão
12
thìn
Cần lưu ý rằng tai nạn sơ sinh có ảnh hưởng sâu rộng đến tính nết đứa trẻ. Thông thường, tai nạn đó khiến đứa trẻ sau này rất ngỗ ngược, liều lĩnh, ngang tàng.
Giờ tướng quân: Phạm giờ này, trẻ hay bị bệnh, đặc biệt là ghẻ lở và thần kinh không quân bình, thẻ hiện bằng tính khóc hoài không nín, khóc rất dai. Tuy nhiên, tính mạng đỡ lo, có hy vọng tồn tại nhiều hơn hai giờ kim sà và quan sát. Cách tính giờ tướng quân theo mùa và giờ sinh theo bảng dưới đây:
Mùa sinh
Giờ Tướng Quân
Xuân: 1-1 tới 30 tháng 3
Thìn - Tuất - Dậu
Hạ: 1-4 tới 30 tháng 6
Tý - Mão - Mùi
Thu: 1-7 tơi tháng 9
Dần - Ngọ - Sửu
Đông: 1-10 tới 30 tháng 2
Thân - Tỵ - Hợi
Giờ Diêm vương: Phạm giờ này, trẻ con thường có nhiều chứng dị kỳ, như hay giật mình, hốt hoảng, trợn mắt, lè lưỡi, hầu như bị một ám ảnh nào lớn lao trong tâm trí mà đứa trẻ cơ hồ như ý thức được. Cách tính giờ Diêm vương theo tháng và giờ sinh như sau:
Mùa sinh
Giờ Diêm Vương
Xuân: 1-1 tới 30 tháng 3
Sửu - Mùi
Hạ: 1-4 tới 30 tháng 6
Thìn - Tuất
Thu: 1-7 tơi tháng 9
Tý - Ngọ
Đông: 1-10 tới 30 tháng 2
Mão - Dậu
Giờ dạ đề: Phạm giờ này, trẻ chỉ hay khóc về đêm. Cách tính cũng dựa theo tháng và giờ sinh âm lịch:
Trường hợp xung khắc Bản Mệnh với người mẹ: Nếu Bản Mệnh của Mẹ khắc Bản Mệnh con sơ sinh thì càng nguy kịch cho đứa trẻ. Nếu gặp thêm hai trường hợp trên thì chắc chắn không thọ. Nếu bị Bản Mệnh người cha khắc, không nguy kịch bằng.
Những xung kỵ khác:
Sinh năm Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu vào bốn giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tối độc.
Sinh năm Dần, Hợi, Tỵ vào giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi thì khắc cha, cha chết trước lúc con còn nhỏ tuổi nhưng nếu qua 16 tuổi mà chưa mồ côi cha thì sự hình khắc đó coi như tiêu tán và cha con có thể chung sống lâu dài được.
Sinh năm Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi vào giờ Tý, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu thì khắc mẹ trước.
Tướng cằm đã nói ở phần khu vực dưới và khu 12 cung. Cằm thuộc khu vực dưới có cung điền trạch, ở đây chỉ nói thêm phần nhân tính. - Cằm vuông, bạnh: Người kiêu hùng, hãnh tiến, nhưng không hạnh phúc. - Cằm nhọn: Tướng mưu mẹo vặt. - Cằm tròn đẹp: Tư
Răng cửa được ví như “mặt tiền” trên khuôn mặt. Tướng răng cửa tốt hay xấu không chỉ ảnh hưởng tới việc ăn uống, chuyện trò mà còn có mối liên hệ mật thiết với
Răng cửa được ví như “mặt tiền” trên khuôn mặt. Hình dáng nó tốt hay xấu không chỉ ảnh hưởng tới việc ăn uống, chuyện trò mà còn có mối liên hệ mật thiết với vận thế của đời người.
1. Răng cửa và sức khỏe
Theo nhân tướng học, răng cửa là bộ phận đại diện cho tuyến yên (tuyến này quản lí hệ thống nội tiết). Do đó, răng cửa cũng có sự ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới việc bài tiết hormon giới tính của cơ thể. Răng cửa đều, sạch và sáng phản ánh sức khỏe tốt, khí huyết lưu thông. Ngược lại sẽ cho biết khí huyết suy yếu, khả năng phòng the của đàn ông giảm.
Ngoài ra, một vài ý kiến khác cho rằng kích thước răng cửa lớn chứng tỏ tinh lực dồi dào, nhu cầu tình dục cũng nhiều hơn. Nếu răng cửa to và đều đặn là người trung thực. Đàn ông có răng cửa to thì ham muốn “chuyện ấy” càng lớn, cách nói chuyện thẳng thắng. Dù là nam hay nữ có răng cửa to và ngay ngắn đều hấp dẫn phái khác. 2. Nhìn tướng răng đoán vận khí tốt xấu của đời người
- Chủ nhân của hàm răng không đều thường có tính tình nóng nảy, bốc đồng, dễ bị kích động. Vì vậy cuộc sống vợ chồng không hòa thuận, thường xảy ra xung đột.
- Răng cửa khuyết hãm, thò thụt không bằng phẳng cho thấy nhân duyên với cha mẹ của người này không tốt.
- Người có tướng răng cửa lớn chứng tỏ tinh lực dồi dào.
- Đàn ông răng khểnh không những nhân duyên với cha mẹ không tốt mà duyên vợ chồng cũng mờ nhạt. Ngược lại, phụ nữ có răng khểnh thì cho dù hôn nhân hay tài vận đều hanh thông, mĩ mãn.
- Người có khuôn mặt nhỏ nhưng răng lại to thì cho dù về đường tiền tài hay tuổi thọ đều không tốt.
- Người có răng khấp khểnh thì tính cách thô lỗ, dễ vướng vào phiền phức, tai họa, thậm chí phá sản.
- Răng cửa có khe hở cho thấy nhân duyên của chủ nhân với cha mẹ không tốt, đồng thời khó tích lũy tiền của.
- Hàm răng đều, trắng, chắc chắn và cân xứng với khuôn mặt cho thấy người này có tính cách cởi mở, lạc quan, nhiệt tình và rất năng động.
- Người có răng vẩu khá năng động nhưng bẻm mép, tính cách cố chấp, không biết tiếp thu ý kiến của người khác nên dễ khiến mọi người khó chịu. Ngoài ra, cuộc sống gia đình của người này cũng không thuận lợi.
- Nữ giới có hai răng cửa rất to, dân gian gọi là “răng bàn cuốc” có vận khí tốt, gặp khá nhiều may mắn trong cuộc đời và có thể sinh quý tử.
- Trường hợp răng cửa có xu hướng quặp vào trong cho thấy người này có thể mắc bệnh di truyền.
- Người có hàm răng mà cả răng trên và dưới đều nhỏ thường rất đa nghi và hay ghen ăn tức ở.
► Lịch ngày tốt gửi đến các độc giả thông tin bói nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác
Theo khái niệm âm dương, thì gió (phong) bao gồm 2 loại: gió từ đỉnh núi thổi xuống gọi là gió dương, gió từ khe núi thổi lên gọi là gió âm.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Ở vùng đồng bằng thì huyệt không sợ gió. Các loại gió thổi từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc là gió ấm, gọi là gió dương thì không cần đề phòng. Các loại gió hướng Tây, hướng Bắc gọi là gió âm thường lạnh, vì vậy huyệt nên có Án Sơn - núi che phía trước, nếu không xương cốt trong mộ sẽ bị lạnh, gia chủ sẽ khuynh gia bại sản.
Theo sách Địa lý giảm giả lục: “Gió âm sẽ làm tản sinh khí. Vì vậy, nếu gió này thổi trực xạ (thổi thẳng) vào mộ là hung (xấu). Ở đồng bằng và vùng sông, biển mênh mông, an táng mộ không cần núi gò cao che chắn gió dương, vì gió này không kỵ, không có sát khí.”
Long khí không thông gió sẽ vượng, dương trạch (nhà ở) nên đóng cửa sổ vì nếu gió dữ thổi, cửa không đóng, khí lạnh tràn vào nhà sẽ hung. Nếu triều án sơn lõm khuyết bị gió thổi gọi là trực xạ.
Theo sách Địa lý 88 hướng chân quyết, có 8 loại địa hình xấu không vì không che được 8 loại gió hung dữ (bát phong):
1. Tiền phong: Minh đường (khoảng đất trước huyệt mộ) bị nghiêng lệch, Án Sơn (ngọn núi che chắn trước mộ) lõm khuyết, bị gió âm (gió Tây Bắc) trực xạ, không thể tụ khí chủ về sự bần hàn, con cháu phải chịu cuộc sống long đong, xa quê.
2. Hậu phong: Không có Phụ Mẫu Sơn (núi che chắn phía sau mộ), gió thổi lưng huyệt thì chủ về sự khốn cùng, đoản mệnh...
3. Tả phong: Gò Thanh Long thấp bé, không cản nổi gió tả phong thì gia chủ vong, nữ chủ nhân quả phụ.
4. Hữu phong: Gò Bạch Hổ thấp bé, không cản nổi gió hữu phong thì nữ gia chủ vong, dễ tuyệt tự.
5 - 6. Lưỡng mày phong: Gió thổi vào chỗ giao nhau dưới Chủ Sơn và gò Thanh Long hoặc gò Bạch Hổ bị lõm khuyết thì gia chủ vong, tự tuyệt.
7 - 8. Đuôi Long Hổ phong: Đuôi Long Hổ thấp, gió thổi qua chỗ đó gọi là đuôi Long Hổ phong, là đại hung. Chủ nhân dễ bị khuynh gia bại sản. Nếu gió từ hướng (Cấn) Đông Bắc thì rất dữ.
Tuy nhiên, nếu huyệt mộ được Sa và Thủy bao bọc tầng tầng, lớp lớp thì sẽ không lo 8 loại gió hung nói trên.
Tổng quan: Người tuổi Thìn sinh vào năm 1940, 1952, 1976, 1988, 2000, 2012. Xét về tổng thể, vận thế năm 2015 của người tuổi Thìn không thuận lợi và may mắn so với năm trước. Công việc vất vả và bận rộn hơn, việc gì cũng đến tay nên không có nhiều thời gian nghỉ ngơi. Do đó, luôn cảm thấy áp lực, mệt mỏi. Công việc tạm ổn định nhưng dễ dính họa thị phi, cạnh tranh trong nghề nghiệp, đặc biệt là vào tháng 3 và tháng 9. Tài vận: Trong năm Ất Mùi, tài vận của người tuổi Thìn không gặp nhiều thuận lợi, dù vất vả bận rộn trong công việc. Người sinh vào mùa Đông có tài vận tốt hơn những mùa khác. Con giáp này cần phải chủ động nắm bắt cơ hội, tăng cường bài trí phong thủy phòng làm việc để kích hoạt trường khí cho mình, tránh bỏ lỡ những thời cơ hiếm có. Sự nghiệp: Công việc bận rộn, số tiền thu về không nhiều nhưng bù lại, trong năm nay, người tuổi Thìn có cơ hội thăng chức. Người kinh doanh tự làm chủ đều có cơ hội làm giàu trong năm nay, tuy nhiên, công sức bỏ ra cũng rất nhiều. Với người làm công ăn lương, công việc khá ổn định, tiền bạc vẫn ở mức thường. Ngoài ra, trong công việc, người tuổi Thìn dễ gặp chuyện thị phi, mâu thuẫn với đồng nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới công việc. Đặc biệt là những người sinh năm 1988, cần phải điều chỉnh tốt cảm xúc của mình, tránh bị kéo vào những rắc rối thị phi phức tạp nơi công sở. Sức khỏe: Năm nay, sức khỏe của người tuổi Thìn ở mức trung bình. Cộng thêm với công việc bận rộn nên lúc nào cũng cảm thấy mệt mỏi. Nam mệnh tuổi Thìn cần chú ý hơn về vấn đề tiêu hóa, đặc biệt là những người sinh năm 1952, 1964 và 1988. Tình duyên: Chuyện tình cảm trong năm 2015 của người tuổi Thìn không thuận lợi. Tuy không ít người theo đuổi nhưng đều không đi đến kết quả tốt đẹp. Dù ấn tượng ban đầu tốt, nhưng trong quá trình xuất hiện nhiều cản trở, khiến tình cảm đôi bên chưa thông suốt đã bị đứt đoạn. Cách hóa giải: Người tuổi Thìn được Phật bản mệnh Phổ Hiền Bồ tát độ trì, do đó có thể bài trí tượng phật này trong nhà. Ngoài ra, có thể dùng các đồ trang sức, ngọc phong thủy để hóa giải sự xui xẻo. Bạn có thể chọn các loại trang sức màu đỏ hoặc tím như mã não, ruby, thạch anh…đều mang lại may mắn và sự thuận lợi cho bạn. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Minh Tuyết (##)
Sao Thái Dương trong tử vi được lấy từ hình tượng nhân vật thừa tướng Tỷ Can - hoàng thúc của vua trụ vương; chủ về quan lộc, danh vọng, là sao cát tinh, đứng đầu chòm Trung Thiên Đẩu
Trong tử vi, sao Thái Dương được lấy từ hình tượng thừa tướng Tỷ Can - là hoàng thúc của vua Trụ Vương.
Bắc Bá hầu Sùng Hầu Hổ theo mệnh Trụ Vương xây dựng Lộc Đài trong hai năm bốn tháng mới hoàn thành. Trụ Vương vô cùng hoan hỉ, bèn cùng Đát Kỷ lên xe thất hương, mệnh cho các đại thần Tỷ Can, Hoàng Phi Hổ hộ giá đến Lộc Đài dự lễ khánh thành. Tỷ Can thấy cảnh tượng Lộc Đài cực kỳ nguy nga lộng lẫy, thì trong lòng rầu lĩ, nghĩ thầm: "Thiên tử thật là ngày một u mê, cho xây dựng công trình xa hoa đến nhường này, không biết đã vắt kiệt bao nhiêu mô hôi xương máu của nhân dân, dưới chân đài không biết đã vùi chôn bao nhiêu vong hồn oan uổng!"
Sao Thái Dương - Hình tượng Tỷ Can
Trụ Vương hỏi Đát Kỷ rằng: "Lộc Đài đã xây xong, không biết đến bao giờ mới được đón thần tiên giá lâm đây?". Đạt Kỷ bèn đáp: "Vào ngày 15 tháng này, bệ hạ hãy cho bày yến tiệc, đặt bàn cửu long, chỉ cần thành tâm thành ý, thần tiên ắt sẽ giáng lâm!". Trụ Vương nghe vậy, rất hài lòng. Đát Kỷ trở về dặn dò các chị em đồng môn (tức các loài yêu tinh) đang canh giữ huyệt mộ Hiên Viên đến đêm rằm bay xuông Lộc Đài để lừa Trụ Vương là thần tiên giáng hạ.
Đến ngày 15, màn đêm buông xuống, yến tiệc đã bày xong, Trụ Vương mệnh cho Hoàng thúc Tỷ Can bồi tiếp. Tỷ Can đến Lộc Đài, thấy cảnh mâm cao cỗ đầy, thừa mứa sơn hào hải vị, thì lắc đầu than rằng: "Vận nước đã đến hồi nguy cấp, nay lại đi tin chuyện thần tiên giáng lâm Lộc Đài, e rằng lại là lời mê hoặc của yêu tinh Đát Kỷ!"
Đến giờ Tý, chỉ thấy gió nổi ào ào, các chị em đồng môn của Đát Kỷ cưỡi yêu khí mà bay đến, kẻ thì biến thành đạo cô, kẻ thì biến thành đạo sĩ, lần lượt hạ xuống bàn tiệc cửu long yến ẩm. Vì không muốn kinh động đến nhã hứng của "thần tiên", Trụ Vương chỉ dám đứng phía xa, cách một bức màn để ngắm nghía họ say sưa thưởng thức yến tiệc.
Khi các chị em đồng môn của Đát Kỷ đang lần lượt rót rượu đến chúc mừng Trụ Vương, Tỷ Can chợt ngửi thây một mùi hôi nồng nặc toả khắp không gian, cảm thấy hết sức nghi ngờ, lại thêm đám hồ ly tinh đã lâu không được thưởng thức sơn hào hải vị, lúc này ăn uống thoả thích, mặc sức cười đùa. Khi đã no say, bọn chúng lần lượt để lộ đuôi cáo. Tỷ Can đã nhận ra chân tướng, nhưng chưa vội ra tay vạch mặt. Đát Kỷ thấy chị em bại lộ hình tích, bèn chuốc cho Trụ Vương say mềm rồi dìu về cung.
Đám yêu tinh uống đến say sưa, không bay đi được, chỉ còn cách dìu nhau loạng choạng tìm về mộ Hiên Viên. Tỷ Can mệnh cho Hoàng Phi Hổ bám theo đến mộ Hiên Viên, tìm ra sào huyệt của chúng. Đến canh năm, Tỷ Can cho người mang củi gỗ đến chất kín cửa hang, nổi lửa thiêu đốt. Sau khi lửa tàn, quân sĩ chui vào động lôi ra được mười mấy xác cáo chết ngạt.
Mấy ngày sau, Tỷ Can vào yết kiến Trụ Vương, mang theo một chiếc áo khoác lông cáo mà tâu rằng: "Mùa đông sắp tới, thần kính dâng bệ hạ tam áo khoác này để giúp long thể ngự hàn!". Trụ Vương thấy tấm áo đẹp đẽ, đường may tinh xao, thì rất hài lòng nhận lấy. Đát Kỷ nhìn tấm áo, biết rằng chị em của minh đều đã chết, trong lòng căm hận Tỷ Can thấu xương, rắp tâm tìm cơ hội báo thù.
Một hôm, Đát Kỷ cùng Hồ Hỷ Mỵ hầu Trụ Vương dùng bữa sáng tại Lộc Đài, Đát Kỷ đột nhiên hét lên một tiếng rồi ngã lăn ra đất, mắt nhắm nghiền, mặt tái mét. Trụ Vương thấy vậy thì vô cùng hoảng hốt. Hỷ Mỵ bèn nói với Trụ Vương rằng: "Bệnh tim của Đát Kỷ lại tái phát rồi!". Trụ Vương rất nóng lòng muốn tìm cách chữa khỏi bệnh cho Đát Kỷ, Hỷ Mỵ lại tâu: "Phải lấy được trái tim bảy lỗ cho nương nương ăn, bệnh mới khỏi". Trụ Vương lại hỏi trong thành Triều Ca, ai là người có được trái tim bảy lỗ. Hỷ Mỵ bấm tay tính toán vẻ rất chuyên chú, hồi lâu mới tâu lại rằng: "Trong thành Triều Ca chỉ có một vị đại thần có trái tim ấy, nhưng sợ rằng ông ta không chịu! Đó chính là Tỷ Can!" Trụ Vương không chút do dự mà nói rằng: "Tỷ Can là hoàng thúc, để cứu tính mạng của Đát Kỷ, chắc hẳn hoàng thúc sẽ đồng ý thôi!". Bèn lập tức xuống chiếu triệu Tỷ Can vào cung.
Nhận được chiếu lệnh của Trụ Vương, Tỷ Can đã cảm thấy lần này lành ít dừ nhiêu, nhưng không còn cách nào khác, chỉ biết tuân mệnh nhập cung. Trụ Vương nói lại với Tỷ Can chứng bệnh của Đát Kỷ, và đề nghị Tỷ Can cho mượn trái tim bảy lô. Thấy Trụ Vương quá u mê ngu muội, biết rằng cơ nghiệp nhà Thương sẽ mát về tay vua Trụ, Tỷ Can trong lòng hết sức chua xót, liền cầm ngay đoản kiếm, vạch áo mà hát một bài ca khuyên Trụ Vương như sau:
Yêu nghiệt cổ hoặc táng đức thất trí Nộ thanh tứ khởi dan dĩ lưu ly Tỷ Can tâm trường thương thiên khả giám Nguyện vương tâm trí tảo nhật hồi tỉnh
Hôn dung vô đạo chúng bạn ly hề Thành Thang thiên hạ tương xu diệt hề Mãn xoang huyết tử bât túc hề Ly tâm ly đức bất khả vi hề!
Nghĩa là:
Yêu tinh mê hoặc mất hết sáng suốt Tiếng than dậy đất muôn dân cùng khổ Tim gan Tỷ Can trời xanh chứng giám Mong cho nhà vua hãy mau thức tỉnh
U mê vô đạo dân chúng quay lưng Thiên hạ Thành Thang sắp phải diệt vong Một bầu nhiệt huyết đến chết không màng Đừng nên làm chuyện trái đức trái lòng!
Lời ca vừa dứt, ông cầm thanh đoản kiếm đâm ngay vào ngực, móc trái tim ra, ném thẳng lên mặt đất. Rồi khép vạt áo, không nói một lời, quay người đi thẳng.
Trước đó Khương Tử Nha đã đoán định được rằng Trụ Vương và Đát Kỷ muốn lấy trái tim của Tỷ Can, nên đã viết điều ấy lên một lá bùa và đưa cho Tỷ Can, nói rằng sau khi bị lấy tim, Tỷ Can phải đốt lá bùa, lấy tro trộn với nước để uống, sau đó rời khỏi nhà đi về hướng nam. Khương Tử Nha dặn ông rằng cho dù gặp vấn đề gì, ông cũng không được chú ý, như vậy mới có thể giữ được tính mạng.
Ông cứ thế đi một mạch đến mấy chục dặm đường, chợt nhìn thấy một người phụ nữ bán rau muống (rau muống tiếng Hán là rau không tâm, tức không tim). Người phụ nữ này rao to: "Bán rau không tâm, bán rau không tâm đây!" (Rau không tâm = Rau không tim = rau muống)
Cảm thấy khó hiểu, Tỷ Can liền hỏi: "Người nếu không có tim sẽ ra sao?" Người đàn bà bèn nói: "Người mà không có tim sẽ chết ngay!" Tỷ Can nghe vậy, bất chợt nhận ra rằng trái tim của ông không còn nữa, liền thét lên một tiếng lớn, ngã từ trên ngựa xuống, máu từ trong ngực phun trào, nhuộm đỏ mặt đất.
Hồn phách của Tỷ Can bay đến trước đài Phong Thần, được phong làm sao Thái Dương, tượng trưng cho tấm lòng trung quân ái quốc, cúc cung tận tụy của Tỷ Can như ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp nhân gian, cùng tượng trưng cho tấm lòng trong sáng, khảng khái, từ bi bác ái của ông.
Sao Thái Dương là dương Hỏa, là tinh hoa của mặt trời, là chuẩn mực của tạo hóa, là chủ tinh, cát tinh chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là quyền quý, chủ cung Quan Lộc; tại số chủ về danh vọng, sau đó là giàu có, văn võ song toàn.
Đại thi hào Nguyễn Du (13-1-1766 - 16-9-1820) trong lần đi sứ sang Trung Quốc đã viết Bắc Hành Tạp Lục, trong đó có bài thơ Tỷ Can mộ:
Độn cuồng quân tử các toàn thân Bát bách chư hầu hội Mạnh Tân Thất khiếu hữu tâm an tị phẫu Nhất khâu di thực tẫn thành nhân Mục trung sở xúc năng vô lệ Địa hạ đồng du khả hữu nhân Tàm quý tham sinh Nguỵ điền xá Trung lương hồ loạn cưỡng tương phân.
Nghĩa là:
Giả điên, chạy trốn để toàn thân Đánh Trụ chư hầu họp Mạnh Tân Bảy lỗ trong tim sao khỏi mổ? Một gò dưới cỏ đã thành nhân Giờ nhìn tận mắt khôn ngăn lệ Đất có thật tình hẳn quí thân Họ Ngụy quê mùa tham sống nhục Trung, Lương gượng ép dám chia phân.
5 lý do khiến Phật Giáo trở thành tôn giáo phổ biến
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất thế giới với hệ thống Phật tử trải rộng khắp nơi. Vì đâu mà tôn giáo này phổ biến và chiếm được niềm tin của
1. Tự do tư tưởng: Đạo Phật không có hệ thống tín điều, không lấy tín điều làm căn bản như hầu hết các tôn giáo. Đức tin của đạo Phật luôn đi đôi với cái "thấy", một trong những định nghĩa về giáo pháp là "đến để mà thấy", chứ không phải "đến để mà tin". Vì vậy, chánh kiến luôn đứng đầu trong các đức tính. 2. Tinh thần tự lực: Đấng Thượng đế hoặc tạo hóa hay các thần linh được con người tin tưởng thờ phụng, vì các đấng ấy có thể ban phúc hay giáng họa. Ấy là quan điểm của tâm lý sợ hãi, yếu đuối, mất tự tín đã sản sinh ra thần thánh (hoặc đa thần hoặc nhất thần). Phật giáo khuyến khích con người tự lực phấn đấu tu tập để hưởng phúc thần linh. 3. Tinh thần từ, bi, hỷ, xả: Chúng sanh còn khổ thì đạo Phật còn vai trò và vị trí ở cuộc đời; đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có đạo Phật, ở đó có tình thương, ở đó hận thù được hóa giải. Bởi lẽ phương châm tu tập của Phật giáo là từ, bi, hỷ, xả, còn gọi là Tứ vô lượng tâm. Người Phật tử lấy từ, bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh; tâm từ bi được coi là tâm Phật. 4. Tinh thần thực tiễn: Một trong những định nghĩa về pháp là "thiết thực hiện tại", nghĩa là giáo lý đạo Phật là thiết thực, không mơ hồ, mang tính thực tiễn, có tác dụng cụ thể, không phải lý thuyết suông. "Hiện tại" có nghĩa là không chờ đợi kết quả của tương lai, có tu tập là có hướng thượng, có giải thoát ngay hiện tại, đời này. Vì vậy, giáo lý đạo Phật là giáo lý thực nghiệm, không chờ đợi một ân sủng hay một mặc khải nào. Đức Phật thường từ chối trả lời những câu hỏi về những vấn đề siêu hình. Ngài chỉ dạy những gì cần thiết cho cuộc đời, cho con đường thoát khổ. 5. Tinh thần không chấp thủ: Đạo Phật là giải thoát và tự do; vướng mắc vào bất cứ điều gì cũng đều đưa đến đau khổ. Đức Phật dạy: "Cuộc đời là vô thường, nên nó đem đến đau khổ (vì chấp là thường). Cái vô thường mà ta cho là của ta, là ta thì hoàn toàn không hợp lý". Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc, bám víu vào cuộc đời.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật
Với các nước phương Đông, trong một số nền văn hóa, hình tượng rắn có vị trí quan trọng trong thế giới biểu tượng. Rắn thường thể hiện hình ảnh khác nhau như thần hiền, thần ác, điều tốt, điều xấu, sự hủy diệt, tái sinh, tình yêu.
Theo giáo sư Ngô Đức Thịnh, giám đốc Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng, rắn là con vật đa diện, tùy theo quan niệm từng dân tộc và tôn giáo mà nó là loài biểu tượng cho cái ác hay cái thiện. Trong văn hóa Việt, rắn không chỉ là loài động vật bình thường mà còn trở thành một biểu tượng tâm linh.
Từ xa xưa, người Việt có câu chuyện truyền thuyết về loài rắn như câu chuyện Thạch Sanh, Lý Thông; một huyền thoại khác là rắn báo oán mà Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Trong hầu hết các câu chuyện ở Việt Nam, rắn thường gắn với cái ác.
Vì thế, người Việt quan niệm rắn là loài đáng sợ nên không nhiều người thích chúng, vì nọc độc của một óố loài rắn có thể giết người ngay tức khắc. Tục ngữ Việt còn có câu nói lên tính xấu của con người với hình ảnh con rắn như "Khẩu phật tâm xà", "Đánh rắn là phải đánh dập đầu", "Cõng rắn cắn gà nhà", vì thế những người tính cách không tốt, thường được ví như người ác, gian manh hay thích nhục dục.
Trong văn hoá dân gian Việt Nam, rắn không được xem là biểu tượng gắn với tôn giáo, trừ trường hợp Phật giáo của người Khmer sống ở Nam Bộ. Tục thờ rắn là một tín ngưỡng nguyên thuỷ của người Việt cổ với hai ý nghĩa chính là tục thờ thủy thần. Tục thờ này mang ý niệm về sông nước của cư dân làm nông nghiệp. Các đền thờ rắn xuất hiện dọc theo các con sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống.
Vị thần rắn trong Ấn Độ giáo có tên gọi là Naga. Rắn được xem như biểu tượng của sự bất tử, được kính trọng như con vật linh thiêng. Người Ấn còn dành riêng cho rắn ngày tết vào tháng 8 hàng năm. Hình ảnh thường thấy ở các đền đài Ấn Độ là vị thần cầm rắn trên tay hay để rắn quấn quanh mình.
Truyền thuyết Ai Cập thường xem rắn như là một vị thần linh tối cao, vị thần hộ mạng cho các nhà vua, do đó trên các vương miện của các vua pharaoh Ai Cập đều có chạm trổ hình rắn Naja bằng vàng hay đá qúy.
Ở Hy Lạp, y học dùng biểu tượng con rắn quấn quanh cây gậy tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa trị bệnh tật. Theo thần thoại cổ Hy Lạp, vị thần Esculape, con trai của thần Apollo được xem là ông tổ ngành y dược, trên đường đi thăm bạn gặp một con rắn, ông đưa cây gậy ra, con rắn bám lấy và bò lên quấn quanh cây gậy của ông. Thấy vậy, thần Esculape lấy cây gậy đập xuống đất để giết chết con rắn. Nhưng, một con rắn khác bò tới, miệng ngậm thảo dược để cứu con rắn kia. Cũng từ đây, ông tìm kiếm các loại cây cỏ trên núi để chữa bệnh cứu sống con người. Vì vậy, để khắc họa vị thần Esculape, người ta thường để thần cầm một chiếc gậy làm bằng gỗ cây nguyệt quế và một con rắn quấn chung quanh.
Với người Thái Lan, rắn là hồn của âm vật, là thần mẹ. Trong văn hóa tâm linh, rắn là vật linh thiêng, mang lại may mắn cho con người. Vì thế ở đền thờ Thái Lan có rất nhiều đền thờ rắn.
Thờ rắn còn phổ biến trong tín ngưỡng ở Campuchia. Người Khmer vốn có tín ngưỡng thờ rắn Naga chín đầu. Rắn chín đầu là biểu tượng cho thần đất và thần nước. Sau này, do ảnh hưởng của đạo Bà la môn, rắn còn mang biểu tượng nguồn gốc các vị vua lập quốc. Vì thế, các vị vua Khmer thường cho xây dựng các cung điện và đền thờ lớn bằng đá, mà rắn Naga được xem là vị thần canh giữ, chúng xuất hiện trên cầu thang, các lối đi, trên ngưỡng cửa hoặc trên các mái tháp để xua đuổi tà ma.
Trong kiến trúc nhiều ngôi đền cổ của người Khmer, hình ảnh cầu vồng và rắn Naga tượng trưng cho cầu nối giữa trần gian và cõi Niết bàn.
Ở Trung Quốc, tín ngưỡng thờ rắn được biết đến từ khá lâu, qua hình tượng thần Phục Hy đầu người đuôi rắn, thần Nữ Oa đầu người mình rắn. Rắn Naga là biểu tượng của linh vật bảo vệ tôn giáo, cội nguồn của sự sống và cái chết.
Trích từ: vnexpress.net
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Khi bố trí sắp xếp bàn ghế phòng khách cho nhà mình, ngoài yếu tố hình dáng hay kích thước nhà, cần chú ý đến các yếu tố phong thủy.
Trong phòng khách, tránh đặt ghế quay lưng ra hướng cửa chính. Để khách đến nhà cảm nhận được sự chào đón của gia chủ, nên đặt ghế ở những vị trí hướng ra cửa. Ngoài ra, người ngồi ở vị trí này cũng không bị giật mình khi có người khác đột ngột bước vào nhà.
Nên chọn ghế ngồi có chỗ dựa lưng hoặc dạng ghế bành êm ái
Nên chọn bàn ghế có cạnh tròn bởi những đồ vật có góc nhọn bị xem như mũi tên độc, ảnh hưởng tới mối quan hệ của các thành viên sống trong nhà. Trong trường hợp không chọn được kiểu bàn ghế nào khác, hãy làm mềm những góc nhọn này bằng cách trải một tấm khăn lên trên hay đặt chậu cây cảnh bên cạnh...
Bộ ghế ngồi được xếp thành hình vuông luôn thích hợp cho những buổi họp mặt thân mật trong gia đình. Ngược lại, bàn ghế kê kiểu chữ U thích hợp cho những buổi họp hay thảo luận những vấn đề quan trọng.
Nên chọn ghế ngồi có chỗ dựa lưng hoặc dạng ghế bành êm ái. Những kiểu ghế này thường tạo cảm giác an tâm, thoải mái cho người ngồi.
Để luồng khí có thể lưu thông dễ dàng cần tránh kê bàn ghế quá gần nhau. Nên chọn bàn ghế có màu sắc tươi sáng vì điều này sẽ mang lại cảm giác vui vẻ cho mọi người.
Người có bàn chân lớn, lòng bàn chân đầy đặn, nếu là nam thì cao lớn khôi ngô, là nữ thì cao ráo xinh xắn. Đó là những tướng người có phúc lớn mạng lớn. Củ thể như thế nào chúng ta cùng nghiên cứu trong bài viết dưới đây nhé! Mặt khác thông qua bài v
Người có bàn chân lớn, lòng bàn chân đầy đặn, nếu là nam thì cao lớn khôi ngô, là nữ thì cao ráo xinh xắn. Đó là những tướng người có phúc lớn mạng lớn. Củ thể như thế nào chúng ta cùng nghiên cứu trong bài viết dưới đây nhé! Mặt khác thông qua bài viết này bạn có thể xem được bản thân mình có tướng phúc lớn mệnh lớn không?
Nội dung
1 Tướng người có phúc lớn mệnh lớn
1.1 Người gầy nhưng rắn rỏi
1.2 Vòng 3 cong đầy
1.3 Lòng bàn chân lớn, đầy đặn
1.4 Bàn tay đầy đặn
1.5 Tai lớn và dày
1.6 Trán cao rộng, sáng sủa
1.7 Mũi cao, đầu mũi tròn
1.8 Hai má cân đối
Tướng người có phúc lớn mệnh lớn
Người gầy nhưng rắn rỏi
Người này nhìn bề ngoài dường như không có nhiều phúc khí, thật ra nó ẩn hết vào trong. Dù họ đi tới nơi nào cũng được người khác công nhận, được quý nhân phù trợ, cực kỳ may mắn.
Vòng 3 cong đầy
Nghe có vẻ rất hài hước nhưng trường hợp này dù là nam hay nữ đều rất tốt. Họ có phúc khí tốt, mệnh tốt.
Lòng bàn chân lớn, đầy đặn
Người có bàn chân lớn, lòng bàn chân đầy đặn, nếu là nam thì cao lớn khôi ngô, là nữ thì cao ráo xinh xắn. Bên cạnh may mắn về ngoại hình, họ thường gặp được quý nhân, tài vận cùng phúc khí lúc nào cũng dồi dào.
Bàn tay đầy đặn
Lòng bàn tay của nam giới cần phải lớn, không nhất thiết phải trắng trẻo mập mạp, còn đối với nữ giới nếu có nhiều phúc khí thì hai bàn tay của họ phải trắng trẻo đầy đặn. Những người tay gầy guộc, xương xẩu thường không có nhiều phúc khí. Đặc biệt những người năm ngón tay xương gầy và dài thì càng phải tự lực cánh sinh mới mong cơm no áo ấm. Còn những người có bàn tay đầy đặn thì ngược lại, họ không cần phải trải qua quá nhiều vất vả cũng có thể dễ dàng có được cuộc sống hạnh phúc, gặp nhiều may mắn.
Tai lớn và dày
Một người có phúc khí hay không thường có thể nhìn thấy thông qua tai của họ. Tai càng lớn thì thọ mệnh càng dài, tai càng dày thì tài vận càng tốt. Về già phúc khí cũng tương đối thịnh vượng.
Trán cao rộng, sáng sủa
Phần trán nếu vô duyên vô cớ trở nên tối tăm thì có thể bạn đang gặp phải vận xấu. Nhưng điều này sẽ khó có thể xảy ra với những người có vầng trán cao rộng, bởi bọn họ trời sinh phúc lớn mệnh lớn.
Mũi cao, đầu mũi tròn
Người sở hữu tướng mũi như vậy thì cực kỳ tốt số, người ta có thể thông qua hình dáng mũi để nhìn thấy tài vận của mỗi người. Mũi còn được gọi là “Cung tài bạch”, có tiền thì có thể giải quyết được rất nhiều việc, bởi vậy một mặt nào đó người có tiền cũng có thể trở thành người có phúc.
Hai má cân đối
Những người có gò má quá cao hoặc cao thấp không đều, dù là nam hay nữ, cuộc sống của bọn họ đều khá vất vả, thời ấu thơ cũng không tốt. Còn người có hai má cân đối thì ngược lại, họ được nhiều người quan tâm, chăm sóc, che chở. Cuộc sống cũng êm đềm, nhiều may mắn.
Phúc khí thật ra có thể là cảm xúc của lòng mình, chứ không đơn thuần là về mặt vật chất mà người ta có thể dễ dàng nhìn thấy. Người biết tự hài lòng, cũng chính là người có nhiều phúc. Nếu như năng làm việc thiện, giữ thiện tâm, vận may tự dưng sẽ đến, vận xấu cũng sẽ bỏ đi, khổ tận cam lai.
Phòng khách trong một ngôi nhà có vai trò rất quan trọng ,nó thể hiện bộ mặt của gia chủ với mọi người , về khía cạnh phong thủy phòng khách còn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự nghiệp ,đời sống của chủ nhân gia đình nữa, Xem Tướng chấm net mời mọi người cùng đọc và tìm hiểu đôi nét về cách bài trí phong thủy trong phòng khách gia đình
1.Lựa chọn phòng lớn nhất làm phòng khách trong phong thủy
Phòng khách là căn phòng rộng nhất trong nhà, đây không những là do công năng đặc thù của nó quyết định mà còn có lý do và căn cứ trong phong thủy.
Từ góc độ phong thủy nhà ở, phòng khách rộng lớn là biểu hiện tính cách phóng khoáng hào sảng của chủ nhân, có lợi cho sự hài hòa trong mối quan hệ giao tiếp.
Phòng khách rộng rãi sáng sủa biểu hiện chủ nhân sẽ được quý nhân giúp đõ, giúp cho sự nghiệp của bản thân được phát triển. Ngoài ra, trong phong thủy phòng khách đại biểu cho nam chủ nhân trong nhà. Nếu như nó tương đốỉ nhỏ có thể khiến tình cảm vợ chồng không hài hòa, con đường phát triển sự nghiệp của ngưòi đàn ông đó cũng sẽ gặp phải những cản trở nhất định.
Nói chung cần phải chú trọng đến diện tích lớn, nhỏ của phòng khách. Nếu như muôn hỗ trợ cho sự nghiệp của bản thân phát triển thì bạn nên thiết kế phòng khách nhà mình rộng rãi, sáng sủa.
2.Hình của phòng khách có yêu cầu gì trong phong thủy
Trong phong thủy, hình dạng tốt nhất của phòng khách, là hình vuông và hình chữ nhật. Nói chung, phòng khách hình chữ nhật đại biểu cho tài vận, còn hình vuông đại biểu cho quan vận. Phòng khách vuông vắn ngay ngắn hiển thị sự vững chắc, khí thế hiên ngang là biểu hiện cho vận thế của ngôi nhà bình ổn.
Trong cuộc sống có những người thích sự mới lạ và độc đáo nên tự cho rằng phòng khách có hình dạng đặc biệt mói có thể hiển thị rõ cá tính của bản thân. Nhưng sự thực là những phòng khách có hình trạng không đúng quy tắc sẽ khồng phù hợp với yêu cầu của phong thủy.
Đầu tiên, hình trạng không theo quy tắc thưòng mang lại cảm giác bất an và trong thiết kế sẽ dần dần tồn tại chỗ không hợp lý. Tiếp theo, sống lâu trong căn phòng c hình trạng không theo quy tắc sẽ ảnh hưởng nhất định đến tình cảm của con người.
Vì vậy, khi thiết kế phòng khách không thể chạy theo sở thích và thị hiếu của cá nhân mà ảnh hưởng đến vận thế của bản thân.
3.Hóa giải góc nhọn của phòng khách trong phong thủy
Trong cuộc sông hiện đại, rất nhiều ngôi nhà có tồn tại góc nhọn ỏ phòng khách. Đây có thể là do thiết kế kiến trúc tạo thành, cũng có thể có quan hệ nhất định đến việc bố trí phương vị của ngôi nhà. Góc nhọn của phòng khách sẽ đem đến cho thị giác của con người áp lực. Đồng thời, góc nhọn không tốt cho việc lưu thông không khí. Nó giống
như một chiếc xương cá mắc trong yết hầu làm ảnh hưỏng đến việc đưa thức ăn vào trong cơ thể. Do vậy có thể thấy góc nhọn ảnh hưởng rất lớn đối với phong thủy nhà ở.
Phương pháp hóa giải phong thủy: Bạn có thể nghĩ ra phương pháp san bằng góc nhọn, ví dụ như ở chỗ góc nhọn đặt một tủ gỗ để che lấp. Như vậy sẽ làm giảm hiệu quả không tốt có góc nhọn về mặt thị giác. Đồng thời còn có thể đem một chậu cây cao lớn đặt ỏ chỗ góc nhọn cũng có tác dụng hóa giải hung tai nhất định.
Vì ở trong phong thủy cây cối là vật phẩm hóa giải hung sát hữu hiệu, cho nên phương pháp này có thể tiêu trừ ở một mức nào đó ảnh hưởng không tốt mà góc nhọn đem đến.
Muốn có phong thủy nhà ở đẹp, tài lộc dồi dào, mọi việc thuận lợi, hãy ghi nhớ nguyên tắc tứ tượng rất hữu ích dưới đây.
Huyền VũNền đất phía sau nhà tượng trưng cho Huyền Vũ phải cao hơn nền phía trước nhà. Xây một ụ đất giống như lưng rùa để tạo Huyền Vũ, giúp nhà có chỗ dựa vững chắc. Lý tưởng nhất là Huyền Vũ nằm ở phương Bắc của ngôi nhà. Nếu không tạo được mô đất, hãy treo một bức tranh rùa ở phần sau của ngôi nhà, hoặc tốt hơn nữa thì nuôi rùa ở vị trí này. Nuôi một con là đủ vì con số gắn với rùa là số 1. Rùa được cho là có thể mang lại vận may quý nhân phù trợ, sự trường thọ cũng như sự bảo vệ lâu bền. Nếu không có điều kiện nuôi rùa thì đặt một tượng rùa bằng đá hoặc bằng đồng cũng rất tốt. Kích hoạt Huyền Vũ là một trong những biện pháp quan trọng trong phong thủy nhà ở. Thanh LongRồng là biểu tượng mang lại may mắn. Trong phong thủy nhà ở, việc chọn được thế đất nhấp nhô, nơi rồng trú ẩn, được coi là hết sức tốt lành. Nhìn từ trong ra ngoài, Thanh Long nằm bên trái ngôi nhà. Nên bố trí để thế đất bên trái cao hơn bên phải. Rồng (4 móng - 5 móng) trú ngụ ở phương Đông. Nếu không có điều kiện thay đổi môi trường bên ngoài thì có thể treo ảnh rồng trên bức tường phía Đông ngôi nhà hoặc đặt tượng rồng ở phía Đông phòng khách. Nên chọn rồng bốn móng, tránh rồng năm móng (chỉ dùng cho vua chúa), vì mức năng lượng quá lớn do rồng năm móng tạo ra có thể không phù hợp với người thường. Bạch HổMãnh thú này cũng quan trọng không kém Rồng. Thanh Long tạo ra cuộc sống tốt đẹp còn Bạch Hổ lại giúp duy trì cuộc sống này. Đồi Bạch Hổ nằm bên phải ngôi nhà và nhất thiết phải thấp hơn đồi Thanh Long.Người ta tin rằng nếu thế đất bên phải cao hơn, Bạch Hổ mạnh hơn sẽ lấn át Thanh Long. Điều này cực kỳ nguy hiểm vì hổ dữ có thể gây hại cho những người sống trong nhà. Chu TướcChim sẻ đỏ là biểu tượng của phương Nam hay khoảng đất trống phía mặt tiền ngôi nhà. Khu vực này cần bằng phẳng, hoặc ít nhất là thấp hơn đất đằng sau, bên trái và bên phải nhà. Chu Tước được cho là mang lại cơ hội tiền tài vật chất. Treo tranh hoặc đặt tượng gà ở phía Nam phòng khách để kích hoạt Chu Tước là biện pháp cải thiện phong thủy nhà ở. Vật lớn chặn trước ngôi nhà được xem như trở ngại với những công việc đang thực hiện, thành công sẽ tới một cách khó khăn, tệ hơn nữa có thể mất mát nặng nề.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh
ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Vì sao trong phòng khách phải bố trí “huyền quan”?
Nó khiến khách “Tĩnh khí liễm thần” (lấy lại bình tĩnh), đồng thời cũng là nơi “Dẫn khí nhập thất” (dẫn khí vào nhà) tất phải đi qua. Huyền quan của phòng khách ngoài tác dụng phong thuỷ che đậy, tránh r rỉ ra, còn có tác dụng làm đẹp cho ngôi nhà, bởi sự bố trí của nó tốt hay xấu, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới phong thuỷ nhà ở.
Huyền quan phòng khách thiết kế tinh tế đẹp mắt không những khiến khách vừa bước vào nhà đã cảm thấy trước mắt sáng láng, tinh thần phấn chấn và còn làm cho không gian phòng khách như bừng sáng. Nếu huyền quan phòng khách thiết kế không tốt, thì với gia chủ sẽ tạo nên “khí sát”, đó là sự phá hoại đối với phòng thuỷ phòng khách.
Nhà ở nơi đô thị hiện đại thường có diện tích tương đối chật hẹp, bởi vậy mà huyền quan của phòng khách cũng chật hẹp theo. Nếu huyền quan của phòng khách thiết kế quá rộng, thì các không gian khác trong nhà sẽ cảm thấy chật hẹp hơn.
Bởi vậy, dùng bình phong thuỷ tinh làm tấm ngăn cách, nếu dùng loại tấm thuỷ tinh mở cửa thấu quang làm vật liệu ngăn cách thì vừa có tác dụng ngăn chia khoảng không gian, lại vừa có tác dụng không hoàn toàn che khuất tầm nhìn, vẫn có cảm tưởng trước mặt là không gian mở. Như vậy vừa có tác dụng ngăn không cho khí từ ngoài cửa xộc thẳng và phòng khách, lại làm cho ta không còn cảm giác huyền quan quá chật hẹp.
Thiết kế huyền quan của phòng khách theo phong thủy cần chú ý những nguyên tắc sau đây:
1. Gián cách của huyền quan phòng khách lấy thong thấu làm chính. Bởi vậy dùng tấm kính mờ và tấm gỗ tương đối dầy là tốt nhất. Bởi nếu dùng màu tối sẫm sẽ dễ gây cảm giác nặng nề, khiến huyền quan vốn đã không rộng càng có cảm giác chật hẹp hơn.
2. Việc lấy ánh sáng của huyền quan phòng khách cần sáng sủa, mà phần lớn huyền quan của nhà ở đều ít ánh sáng tự nhiên, bởi vậy về việc lấy ánh sáng cần động não nhiều hơn. Ngoài việc dùng bình phong kính mờ tương đối thông thấu ra, thì gỗ, gạch hoa lát sàn và thảm nên có màu sắc sáng sủa, chớ quá sẫm, nếu không sẽ dễ gây cảm giác u ám. Huyền quan phòng khách thiếu ánh sáng tự nhiên, nên khắc phục bằng ánh sàng đèn và để sáng thường xuyên, như vậy mới phù hợp cách nói trong phòng thuỷ học là “Sảnh minh thất ám” (Sản ngoài sàng nhà trong tối)
3. Bình phong ngăn cách của huyền quan phòng khách không nên quá cao hoặc quá thấp, mà nên vừa phải. Nói chung cao chừng 2m là vừa, nếu tấm ngăn này quá cao, thì đi trong huyền quan (hiểu nôm na là dải hành lang dẫn vào phòng khách) sẽ có cảm giác bức bách khó chịu. Kiến thức phong thuỷ học cho rằng, nếu ngăn cách huyền quan quá cao, sẽ hoàn toàn ngăn cách khí trong và ngoài nhà, như vậy sẽ chặn đứng, cắt đứt hoàn toàn không khí trong lành hoặc sinh khí từ cửa ngoài vào trong nhà, tối kị. Còn nếu quá thấp lại mất hiệu quả, thì bất kể là về mặt phong thuỷ học hay mặt thực dụng đều là không thoả đáng.
4. Huyền quan phòng khách phải luôn giữ gọn gàng sạch sẽ nếu bên rìa đặt những thứ linh tinh vướng víu, không những làm cho cảnh quan huyền quan phòng khách lộn xộn bừa bộn, mà còn ảnh hưởng tới phong thuỷ nhà ở.
Bởi vậy, đồng thời với việc làm đẹp cảnh quan huyền quan phòng khách, còn phải xét tới phong thuỷ học truyền thống, mới có thể giúp làm đẹp thêm nhà ở, mà còn có tác dụng hoá “sát”, đề phòng rò rỉ, thất thoát vượng khí.
(Theo 100 câu hỏi phong thủy về nhà ở) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Minh Tuyết (##)
Chỉ số may mắn: ★★★★★ Tài chính: ★★★★★ Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★ Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★★ Khả năng đòi nợ: ★★★★★ Nhắc nhở: Cảnh giác khi đầu tư, kí kết hợp đồng
Xin chúc mừng những quý ông, quý bà, quý anh, quý chị cầm tinh con giáp này. Tháng 5 này là quãng thời gian đại phát, đại tài, đại cát đại lợi với họ. Tiền bạc thu về đã tốt, nguồn lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ còn đáng ngưỡng mộ hơn.
Tốc độ tăng trưởng tiền bạc trong tài khoản chính, tài khoản công ty và tiền vốn đối tác đổ về sẽ “rầm rập” và nhân theo tốc độ phi mã. Đặc biệt hơn nữa là, trong 30 ngày tới, họ sẽ được quý nhân phù trợ đắc lực nên không hề gặp bất cứ trở ngại nào trong công việc, ký kết hợp đồng nên nhờ đó nhanh chóng xử lý được các khoản nợ tồn đọng từ đầu năm đến giờ.
Vận may, thần tài và niềm vui sẽ luôn ở bên, bầu bạn, sẻ chia với họ trong suốt 1 tháng tới. Tuy nhiên, họ cũng cần chú ý rằng, cần hạn chế cho vay vì một khi tiền đã trao đi sẽ rất khó đòi lại.
Khi làm ăn, cần chi li, chặt chẽ, đối tác dù tin cậy đến mấy cũng cần có chứng từ khi kí quỹ, chuyển khoản để tránh các khoản thất thoát không đáng có. Cổ phiếu sẽ đem lại cho họ nguồn doanh thu rất có triển vọng nhưng cũng đừng vì thế mà “ham hố” lướt sóng ngắn ngày, nếu tiền vốn dài hơi và dư sức, hãy chịu khó chọn những mã chứng khoán thanh khoản tốt để đầu tư dài hạn.
Top 2: Người tuổi Thìn
Chỉ số may mắn: ★★★★ Tài chính: ★★★★★ Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★ Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★ Khả năng đòi nợ: ★★★ Nhắc nhở: Tránh nhẹ dạ, cả tin trong làm ăn
Các cá nhân tuổi rồng trong tháng 4 có vẻ hơi lận đận một chút về tài chính, trục trặc một chút trong sự nghiệp. Nhưng chuyển sang tháng mới, tài vận, may mắn của họ sẽ thăng hoa tuyệt vời.
Thứ nhất, doanh thu và tiền lãi của họ sẽ rất ổn định, không chập chờn hay xuống dốc như thời điểm tháng trước. Các khoản thu phụ tuy không đem lại quá nhiều tiền bạc nhưng cũng đủ để họ luân chuyển tiền vốn đổ vào kinh doanh.
Tiếp đến là, các cơ hội đầu tư liên tục và dồn dập “đổ” xuống đầu họ, nhiều đến nỗi mà, chỉ cần ngồi không với các ý tưởng kinh doanh táo bạo, họ cũng “kiếm chác” được một món hời! Bù lại cho tháng 4 vất vả, nhọc nhằn bao nhiêu là một tháng 5 ấn tượng, “hoành tráng bấy nhiêu”.
Tuy nhiên, 30 ngày tới, họ cần đặc biệt chú ý khi giao dịch, kí kết hợp đồng, tránh việc bị lừa gạt. Khi làm việc không nên nhẹ dạ cả tin, cũng tuyệt đối không trao tiền, không chuyển khoản khi đối tác chưa đưa ra các bằng chứng, thông tin rõ ràng.
Top 3: Người tuổi Tuất
Chỉ số may mắn: ★★★★ Tài chính: ★★★★ Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★ Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★ Khả năng đòi nợ: ★ Nhắc nhở: Tiết kiệm trong chi tiêu, chú ý cân đối tài chính tránh hao hụt quá nhiều.
Tháng 5 là quãng thời gian hoàng kim với người tuổi Tuất, tài vận của họ vô cùng vượng. Vượng đến mức, chỉ cần động vào bất cứ dự án, món hàng hoặc triển khai ý tưởng kinh doanh nào, họ đều thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.
Điểm trừ của họ là do thích tiêu pha và không giỏi cân đối tài chính nên thu vào thì nhiều mà chi ra cũng ác liệt không kém. Nếu không gắt gao, sát sao trong việc cân đối thu chi thì 10 ngày cuối tháng, nhiều kế hoạch của họ sẽ đổ bể.
Bù lại, tháng này, các cơ hội vàng sẽ xuất hiện khá nhiều với tần suất cao. Người tuổi Tuất cần chủ động nắm bắt lấy chứ đừng mang nặng tâm lý “ôm cây đợi thỏ”. Hành động đúng, cẩn thận và tinh tế, họ sẽ kiếm được những món hời không nhỏ. Vì thế, lời khuyên dành cho người tuổi Tuất tháng này là nên tiết kiệm và “năng nhặt chặt bị”.
Ngoài ra, tuyệt đối không được “mon men” đến gần thị trường chứng khoán, không đầu tư ngắn hạn và cũng tránh bỏ tiền túi để liều mình đầu tư dài hạn theo cảm tính nhất thời. Không mạo hiểm đầu tư lớn và tránh cho vay, dù được gợi ý mức lãi suất cao đến mấy đi chăng nữa.
Top 4: Người tuổi Hợi
Chỉ số may mắn: ★★★ Tài chính: ★★★ Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★★★ Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★ Khả năng đòi nợ: ★★★★★ Nhắc nhở: Lên kế hoạch rõ ràng và dài hơi cho mọi dự án và các khoản đầu tư.
Tháng 5 này, người tuổi Hợi nên chủ động hơn nữa trong kinh doanh, hãy chịu khó lăn xả vào các đối tác tiềm năng. Để nhanh chóng bắt kịp với xu thế và khắc phụ khó khăn cùng bất cập trong quản lý, họ cần lên kế hoạch dài hơi và ngắn hạn rõ ràng, súc tích, chi tiết.
Chỉ cần làm được điều đó, khoản thu cố định của họ sẽ nhỉnh hơn tháng trước từ gấp 3 đến gấp 5 lần, thậm chí là tăng vọt vào cuối tháng đấy. May mắn nhất là 30 ngày tới, họ sẽ đòi lại được các khoản nợ xấu tồn đọng từ năm trước, thậm chí nhiều đối tác tự nguyện “dâng tiền đến tận miệng”. Điều đó là nhờ vào việc họ được các quý nhân giấu mặt phù trợ và giúp đỡ âm thầm.
Top 5: Người tuổi Mùi
Chỉ số may mắn: ★★★ Tài chính: ★★★★★ Chỉ số quý nhân phù trợ: ★★★ Lợi nhuận từ khoản thu bất ngờ: ★★★★★ Khả năng đòi nợ: ★★ Nhắc nhở: Cần đổi mới tu duy liên tục.
Từ đầu năm đến giờ, người tuổi Mùi đã phải vất vả, lăn lộn không ít trên thường trường, trong sự nghiệp. Các mối quan hệ với đối tác sẽ được cải thiện bất ngờ, chính nhờ vào sự nỗ lực miệt mài của họ.
Nguồn vốn đổ về nhiều hơn, tăng dần từ đầu đến cuối tháng, đặc biệt “nở hoa” vào 10 ngày cuối, tài lộc vì thế trở nên dồi dào như thể là bất tận. Có thể do quá quen với việc phải nhọc nhằn, lao tâm khổ tứ nên các cá nhân tuổi Mùi sẽ thấy khá ngạc nhiên nhưng cũng vô cùng thích thú.
Điểm họ cần lưu ý là, các mặt hàng kinh doanh có khả năng bị cạnh tranh đạo nhái cao nên cần đổi mới tư duy liên tục, cập nhật theo đúng xu thế thị trường. Các khoản thu tuy nhiều nhưng cũng có khá nhiều công việc đòi hỏi chi trả, thanh toán gấp nên chớ dại dột cho vay nhiều, vay lâu.
Việc bố trí bể cá trong phòng khách nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ và kích hoạt sinh khí cho ngôi nhà của gia đình. Trong Kinh Dịch có nói "mọi vật đều tốt tươi nhờ nước", vì vậy bể cá tạo nên sự tốt tươi cho phòng khách là đương nhiên. Cá th
Việc bố trí bể cá trong phòng khách nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ và kích hoạt sinh khí cho ngôi nhà của gia đình.
Trong Kinh Dịch có nói “mọi vật đều tốt tươi nhờ nước”, vì vậy bể cá tạo nên sự tốt tươi cho phòng khách là đương nhiên. Cá theo âm ngữ Trung Quốc là “ngư” gần giống với từ “dư” (dư thừa)… của cải.
Tạo cảnh quan vui vẻ, sống động tác dụng thu hút sinh khí, tăng cường tài vận cho ngôi nhà, bể cá nên đặt trong phòng khách, tối kỵ đặt trong phòng ngủ, phòng bếp. Nên đặt bể cá ở phương “hung” không đặt ở phương “cát” vì bể cá có thể hóa giải ngoại sát, biến “hung” thành “cát”.
* Màu sắc của cá có tác dụng ít nhiều đến phong thủy.
– Cá màu vàng kim hoặc trắng: Ngũ hành thuộc Kim (Kim sinh Thủy) có tác động tốt cho thúc đẩy tài vận. – Cá màu đen, xanh lam, xám (thuộc Thủy) có khả năng thúc đẩy tài vận khá mạnh. – Cá màu xanh dương hoặc lá cây (Mộc) áp chế Thủy, thúc đẩy tài vận yếu.
* Những loại cá cần nuôi
– Cá Huyết anh vũ (nguồn gốc Đài Loan) là loại cá âm dương, có màu đỏ tươi như ngọn lửa, đứng đầu các loại cá về phong thủy. – Cá vàng (Kim ngư) có nguồn gốc từ thời Tống ở Trung Quốc mang lại nhiều may mắn. – Cá chép (Koi) có nguồn gốc từ Nhật Bản đa dạng về màu sắc, đặc biệt vẩy, đuôi, có hình xăm; ngưòi Nhật coi đó là biểu hiện của may mắn. – Cá Rồng (Kim Long) có dáng vẻ uy nghi sang trọng, màu sắc tuyệt đẹp rất có ý nghĩa vói tâm linh phong thủy. Mang lại may mắn… cá có tuổi thọ rất cao. – Cá đĩa (còn gọi là cá “ngũ sắc thần tiên”) có nguồn gốc từ Nam Mỹ là loài cá đẹp nhất trong các loài cá cảnh. Rất tốt cho thúc đẩy tài vận. – Cá La Hán (có hình như đầu người) đem lại sự thịnh vượng và may mắn… – Cá Nheo (có nguồn gốc từ châu Âu) thường nuốt (ăn) các loại cá nhỏ nên là sở thích của một số thương gia (họ cho rằng có thể tấn công, cạnh tranh các đối thủ…). , – Cá Chọi (có nguồn gốc từ Thái Lan, Campuchia) có nhiều màu sắc là loại cá nhỏ có tác dụng bổ sung Ngũ hành…
* Số lượng cá khi nuôi
– Nuôi cá vàng nên nuôi 8 con vàng, 1 con màu đen, không những bảo vệ được tài lộc mà còn chống lại sự mất mát của tài lộc. – Số lưọng cá thưòng là bội số của 9. – Số lượng cá khác nhau biểu thị ý nghĩa khác nhau.
Ví dụ:
1 con: Nhất bạch thương, có thể vượng tài. 2 con: Nhị hắc Thổ khắc Thủy, không có lợi cho tài vận. 3 con: Tam bích Mộc tiết Thủy, không lợi cho tài vận. 4 con: Tứ lục Mộc tang tiết Thủy; nhưng tứ lục là sao văn khúc được coi là cát có thể nuôi. 5 con: Ngũ hoàng Thổ không lợi cho tài vận. 6 con: Lục bạch Kim sinh Thủy có lợi cho tài vận. 7 con: Thất xích Kim sinh Thủy tuy là hung tinh nhưng tương sinh được cho là cát. 8 con: Bát bạch Thổ khắc Thủy, tuy nhiên theo Bát trạch là hữu phụ tài tinh là sao cát. 9 con: cửu tử Hỏa, cửu tử là hữu bật phúc tinh cũng là sao cát có thể vượng tài.
Từ 10 con trở lên: Tính như số lượng trên bỏ đi hàng chục.
(Ví dụ: 20 tính như 2 con; 10 tính như 1 con; 15 tính như 5 con).
* Người thích hợp để bố trí bể cá
– Những ngưòi có Bát trạch thiếu Thủy, hợp Thủy. – Người có bát tự kỵ Thủy không nên nuôi.
Nếu nuôi cá có tác dụng hưng vượng thì nên nuôi; ngược lại nuôi cá thấy gia vận suy thì nhanh chóng thôi nuôi.
* Hình dạng bể cá
– Hình tròn (Ngũ hành tượng trưng cho Kim) Kim sinh Thủy, rất tốt nên chọn. – Hình chữ nhật (Ngũ hành tượng trưng cho Mộc) tương sinh – Bể cá hình lục giác (Ngũ hành tượng trưng cho Thủy) nên chọn. – Bể cá hình vuông (Ngũ hành tượng trưng cho Thổ) Thổ khắc Thủy, không nên. – Bể cá hình các góc nhọn (tam giác, ngũ giác… Ngũ hành tượng trưng cho Hỏa) không nên.
* Kích thước bể cá
– Không nên to quá so với phòng khách sẽ không tụ khí mà “nhân khí” bị hút mất, độ ẩm trong phòng tăng cao ảnh hưởng sức khỏe… – Bể cá cao quá phạm “lâm đầu Thủy” – bể đứng cao ngang đầu; bể đặt trên bàn khách cao ngang đầu người ngồi… là cách cục không tốt có hại cho gia chủ.
* Vị trí bể cá trong phòng khách
– Đặt ở hướng Đông, Đông Nam, Bắc của phòng khách. – Có thể đặt ở phương hung để kích thích tài vận (biến hung thành cát).