Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Sao Vũ Khúc

Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh Tính: Âm Hành: Kim L oại: Tài Tinh, Quyền Tinh Đặc Tính: Tiền bạc Tên gọi tắt thường gặp: Vũ
Sao Vũ Khúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 4 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.

Vị Trí Ở Các Cung

  • Miếu địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
  • Vượng địa ở các cung Dần, Thân, Tý, Ngọ.
  • Đắc địa ở các cung Mão, Dậu.
  • Hãm địa ở các cung Tỵ, Hợi.
Ý Nghĩa Vũ Khúc Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Sao Vũ Khúc ở cung đắc địa, người đó có thân hình nở nang cao vừa tầm, nặng cân, đầu và mặt dài, vẻ mặt uy nghi, tiếng nói to, có nốt ruồi ở chỗ kín.
Sao Vũ Khúc ở cung hãm địa thì người bé nhỏ, thấp, hơi đen, có nhiều ngấn vết, tóc rậm và xấu.
Tính Tình
Sao Vũ Khúc đắc địa thì thông minh, có chí lớn, có óc kinh doanh, có tài buôn bán, tính tình mạnh bạo, quả quyết, cương nghị, thẳng thắn, hiếu thắng. Người nữ thì tài giỏi, đảm đang, gan dạ, can trường.
Sao Vũ Khúc hãm địa thì kém thông minh, tham lận, thiếu lương thiện, hà tiện, bủn xỉn, ương ngạnh.
Công Danh Tài Lộc
  • Vũ Khúc vốn là sao tài nêu ý nghĩa tài lộc rất mạnh.
  • Vũ Khúc đắc địa thì suốt đời giàu sang, tiền bạc dư dả, được nắm giữ tiền bạc, có uy danh lừng lẫy, sự nghiệp lớn lao.
  • Vũ Khúc hãm địa thì bất đắc chí, công danh trắc trở, tiền bạc khó kiếm, thường phá tán tổ nghiệp, thường phải ly hương tự lập, không nhờ được người thân.
  • Vũ Khúc ở Sửu, Mùi thì lúc thiếu thời thì no ấm, nhưng chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng về công danh và tiền bạc. Phải sau 30 tuổi mới tốt và càng về già càng tốt.
Phúc Thọ Tai Họa
Vũ Khúc là sao cô độc, dù là đắc địa hay hãm địa, thường cách biệt với người thân, ít bè bạn. Cũng có nghĩa cô độc, ít hạnh phúc gia đình và xã hội, nếu Vũ Khúc đi liền với Cô Thần, Quả Tú, Đẩu Quân, Thái Tuế, là những sao hiu quạnh, làm tăng ý nghĩa lẻ loi của Vũ Khúc.
Vì Vũ Khúc là sao cô độc, nên người nữ có sao này thường có sự trắc trở về duyên nợ. Do đó phải cần có nhiều sao tốt đẹp thì duyên nợ mới tốt, giàu sang.
Những Bộ Sao Tốt
  • Vũ Khúc, Văn Khúc đắc địa: Thông minh, học rộng, có tài năng, biết cả văn lẫn võ, làm việc bán văn bán võ, nếu là võ nghiệp thì làm ở văn phòng, tham mưu, thiết kế.
  • Vũ Khúc, Lộc Tồn, Thiên Mã: Lập nghiệp ở xa quê hương nhưng rất thịnh vượng. Nếu ở Dần có cách này thì sự nghiệp rất lớn ở tha hương.
  • Vũ Khúc, Lộc Tồn, Hóa Quyền ở Dần, Thân: Hết sức giàu có (như Vũ Tướng ở Dần Thân). - Vũ Khúc, Hóa Quyền nữ Mệnh: Khôn ngoan tần tảo, gầy dựng tất cả sự nghiệp cho chồng, chồng phải nể sợ.
  • Vũ Khúc, Thiên Phủ, Tử Tướng: Phú quý và thọ.
  • Vũ Khúc, Tấu Thư, Đào Hồng, Thiên Hỷ: Ca sĩ, kịch sĩ giỏi; thợ may khéo.
  • Vũ Khúc, Thiên Hình, Thiên Riêu, Tấu Thư: thợ mộc giỏi.
Những Bộ Sao Xấu
  • Vũ Khúc, Phá Quân ở Tỵ Hợi: Tham lận, bất lương, lập nghiệp ở xa, suốt đời vất vả, lao khổ; không giữ được nghiệp tổ mà phải phá tán cho đến hết.
  • Vũ Khúc, Thất Sát, Phá Quân, Liêm Trinh ở Mão: Bị tai nạn về điện lửa, sấm sét và bệnh thần kinh, cô đơn, bần hàn.
  • Vũ Khúc, Kình Dương, Đà La, Phá Quân: Bị khốn hại vì tiền.
  • Vũ Khúc hãm địa Kiếp Sát đồng cung, Kình Dương chiếu: Rất gian ác bất lương, giết người không gớm tay, khát máu.
Ý Nghĩa Vũ Khúc Ở Cung Điền Trạch
  • Sao Vũ Khúc đơn thủ tại Thìn, Tuất: Cơ nghiệp của tiền nhân để lại rất lớn lao. Càng về sau càng thịnh vượng.
  • Vũ Khúc, Thiên Phủ đồng cung: Giữ gìn được tổ nghiệp, nếu không được hưởng điền sản, thì cũng thừa hưởng được nghề nghiệp của cha mẹ, dòng họ. Về sau càng làm nên sự nghiệp nhà đất.
  • Vũ Khúc, Tham Lang đồng cung: Có nhà đất của tiền nhân để lại, nhưng chính mình phải tự tay tạo dựng mới lớn lao. Càng lớn tuổi thì càng có nhiều nhà cửa.
  • Vũ Khúc, Thiên Tướng đồng cung: Nhà đất ban đầu mua vào bán ra thất thường, nhưng càng lớn tuổi thì có nhiều nhà đất.
  • Vũ Khúc, Thất Sát đồng cung: Không điền sản, hoặc có rất ít điền sản, hoặc có nhà đất của cha mẹ để lại mà vì hoàn cảnh, thời cuộc mình phải bỏ đi. Về già mới có được nơi ăn chốn ở chắc chắn.
Ý Nghĩa Vũ Khúc Ở Cung Quan Lộc
Ba loại mệnh Thổ, Thủy, Kim gặp Vũ Khúc đắc địa ở Quan Lộc và thêm cát tinh hội chiếu thì sự nghiệp công danh vô cùng hiển đạt.
  • Vũ Khúc, Thiên Phủ đồng cung: Đường công danh dễ gặp sự toại nguyện, tài hoa, hoặc buôn bán, kinh doanh, làm công kỹ nghệ, pha chế, chế biến cũng phát tài.
  • Vũ Khúc, Thiên Tướng đồng cung: Quan trường hay thương nghiệp đều đắc lợi.
  • Vũ Khúc, Thất Sát đồng cung: Thành công trong công danh sự nghiệp, nhưng phải đi xa mới tốt. Đường công danh thời tuổi trẻ lên xuống thất thường, hạp ngành nghề quân sự, kỹ thuật, công kỹ nghệ, thầu khoán, xây dựng, địa ốc.
  • Vũ Khúc, Phá Quân đồng cung: Đi vào quan chức không tốt bằng làm ăn mua bán.
  • Vũ Khúc, Tham Lang đồng cung: Rất hạp với nghề kinh doanh, làm thợ khéo, công kỹ nghệ, có tinh thần nghệ sĩ, nhưng phải sau 30 tuổi.
Ý Nghĩa Vũ Khúc Ở Cung Thiên Di
Mệnh Thủy, Thổ và Kim gặp Vũ Khúc đắc địa lại thêm cát tinh tốt hội chiếu thì ra ngoài buôn bán làm giàu rất dễ dàng. Nếu hãm địa và mệnh khắc Vũ Khúc thì là tiểu thương hoặc khó kiếm tiền. Dù sao Vũ Khúc ở cung Thiên Di tất phải đi xa làm ăn.
Ý Nghĩa Vũ Khúc Ở Cung Tật Ách
  • Vũ Khúc ở Mão, dù là đắc địa, thường bị bệnh thần kinh hay khí huyết.
  • Vũ Khúc ở Dậu thì bị nội thương khó chữa.
  • Vũ Khúc, Thiên Tướng đồng cung ở Tật: Có ám tật.
  • Vũ Khúc, Tham Lang, Xương Khúc đồng cung: Nhiều nốt ruồi, hay mắc bệnh có liên quan đến lông tóc.
  • Vũ Khúc, Thất Sát đồng cung: Bệnh ở bộ máy tiêu hóa.
  • Vũ Khúc, Long Trì đồng cung: Có nốt ruồi đỏ.
  • Vũ Khúc, Thiên Riêu đồng cung: Bệnh tê thấp hay phù chân tay.
  • Vũ Khúc, Thiên Riêu, Thiên Việt, Phá Toái: bị câm.
Nếu hợp ở Mệnh lại đắc địa thì khí huyết tốt, mạnh khỏe luôn. Nếu hãm địa và khắc Mệnh thì hay có bệnh phong hay trĩ.
Ngoài ra người mệnh Kim và Thủy (tức là 2 hành tương sinh với Vũ Khúc) cũng ít bệnh. Trái lại, nếu mệnh Mộc và Hỏa thì bệnh nhiều hơn.
Ý Nghĩa Vũ Khúc Ở Cung Tài Bạch
Vũ Khúc là sao tài, đóng ở cung Tài Bạch tất mang lại tiền bạc. Tài lộc dồi dào hay không còn tùy vị trí đắc địa hay hãm địa của Vũ Khúc và sự hội tụ với cát tinh.
Các sao hợp với Vũ Khúc về tài lộc gồm có:
  • Chính tinh: Thiên Phủ, Âm Dương sáng sủa, Tử Vi, Thiên Tướng.
  • Trợ tinh: Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tràng Sinh, Đế Vượng, Thai Tọa, Quang Quý, Tả Hữu, Long Phượng, Đẩu Quân, Cô Thần, Quả Tú, Thiên Mã, Hóa Quyền.
Các sao khắc với Vũ Khúc về tài lộc:
  • Chính tinh: Phá Quân đồng cung.
  • Trợ tinh: Đại, Tiểu Hao, Tuần, Triệt, Không, Kiếp, Kình, Đà, Phục Binh, Hóa Kỵ.
Tùy theo sự hội tụ ít nhiều và đặc tính nặng nhẹ các sao đi kèm, tùy theo sự đồng cung hay chiếu mà kết hợp luận đoán, sau khi xét qua hàm số của Phúc, Mệnh, Thân.
Vũ Khúc Khi Vào Các Hạn
  • Vũ Khúc, Lộc Tồn, Thiên Mã, Thiên Cơ, Thiên Hỷ, Hồng Loan: Thành gia thất.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Vũ Khúc

Thú vị với giấc mơ giặt đồ

Đôi khi trong giấc mơ, bạn mơ thấy mình làm việc nhà, cụ thể là giặt quần áo, vậy giấc mơ này là điềm dữ hay điềm lành? Đừng quá lo lắng nhé, mọi điều tốt đẹp
Thú vị với giấc mơ giặt đồ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

sớm hay muộn cũng sẽ đến với bạn.

 

Thu vi voi giac mo giat do hinh anh
Ảnh minh họa

Nếu nằm mơ thấy giặt quần áo của chính mình, là bạn đang cố gắng để hòan tất một công việc nào đó hoặc đang lo lắng và tìm cách thay đổi vẻ bề ngoài của bản thân.

 

Nếu mơ thấy có người giặt quần áo cho mình có nghĩa rằng bạn sẽ bị ai đó tiết lộ chuyện riêng tư. Hãy thận trọng những lời đồn thổi và tìm cách thoát ra khỏi chúng.

 

Mơ thấy mình đang chọn quần áo đưa đi giặt biểu thị rằng bạn chưa có quan điểm sống rõ ràng và bạn đang phân vân và loay hoay tìm hướng đi đúng.

 

Nằm mơ thấy túi lưới giặt đồ của máy giặt trong mơ ám chỉ rằng bạn không thích người khác ra lệnh cho mình, bạn muốn làm việc độc lập. Ngoài ra, nó còn mang ý nghĩa là bạn đang có những suy nghĩ tiêu cực. Hãy tích cực hơn, gạt những lo lắng, muộn phiền sang một bên, tương lai tươi sáng sẽ đến với bạn.

 

Mơ thấy mình đang ở tiệm giặt ngụ ý sắp có một sự thay đổi trong con người bạn. Bạn sẽ sớm thoát khỏi những nỗi đau trong quá khứ và sẵn sàng bước vào một tương lai tốt đẹp.

 

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thú vị với giấc mơ giặt đồ

Nguồn gốc và ý nghĩa ngày cá tháng tư

Vào ngày Cá tháng Tư, mọi người trên khắp thế giới được phép trêu đùa nhau mà không ai được quyền cáu giận.
Nguồn gốc và ý nghĩa ngày cá tháng tư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta vẫn biết ngày ngày 1 tháng 4 là ngày Nói Dối – hay ngày Cá tháng Tư. Vào ngày này, mọi người trên khắp thế giới được phép trêu đùa nhau mà không ai được quyền cáu giận. 

Nguồn gốc ngày Nói Dối
 
Ngày Cá tháng Tư có nguồn gốc từ nước Pháp. Từ thời trung cổ cho tới cuối thế kỷ 16, người dân châu Âu nói chung và người dân Pháp nói riêng thường tổ chức đón năm mới vào ngày 1 tháng 4, đây được coi là ngày bắt đầu của mùa xuân. Thế nhưng vào năm 1564, đức vua Pháp là Charles IX đã quy định lại ngày đầu tiên của năm mới là ngày 1 tháng 1 và ban hành thống nhất trong cả nước. Do phương tiện liên lạc thời xưa khá lạc hậu, tin tức được truyền đi bằng cách chạy bộ truyền tin cho nhau nên nhiều người dân vẫn chưa được biết tới sự thay đổi này. Và một số khu vực, người ta biết tin này nhưng lại không chấp nhận, vẫn cố chấp coi ngày 1 tháng 4 là ngày đón năm mới. Việc này được cho là “ngớ ngẩn” và trở thành trò đùa của mọi người.

Nguon goc va y nghia ngay ca thang tu hinh anh
Ảnh minh họa
Truyền thống này được lan truyền từ Pháp sang Anh và Scotland (thế kỷ 18). Người Anh và người Pháp đưa tục lệ nói dối sang các thuộc địa ở Bắc Mỹ. Từ đó, ngày Cá tháng Tư trở thành một lễ hội quốc tế được chấp nhận ở nhiều nước khác nhau.
 
Ý nghĩa ngày Cá tháng Tư
Trong ngày Cá tháng Tư, bạn có quyền thỏa thích đùa cợt người khác mà không hề bị giận hờn trách móc, tuy nhiên, hãy chắc chắn rằng những lời đùa cợt này không gây ra hậu quả nghiêm trọng. Để mọi người có được tiếng cười sảng khoái trong ngày này thì rất nhiều trò đùa độc đáo, thú vị cũng ra đời, giới truyền thông cũng sẽ đứng ngoài cuộc trong ngày này.
 
Du có chung mục đích là mua vui và mang lại tiếng cười cho mọi người trong ngày nay, thế nhưng tại mỗi quốc gia, ngày Cá tháng Tư lại có một ý nghĩa khác nhau và người dân mỗi nước lại có cách riêng để trêu chọc gia đình và bạn bè.  
 
Ngày Nói dối tại đất nước Mexico sẽ diễn ra vào ngày 28 tháng 12. Theo lịch sử, vào ngày này, nhà vua Herod đã ra lệnh thảm sát trẻ em vô tội, chính vì vậy mà những trò đùa chỉ mang tính chất nhẹ nhàng. Bạn bè có thể “ăn trộm” đồ của bạn và nếu muốn lấy lại chúng bạn phải đổi bằng kẹo. 
 
Ở Scotland lại có tới 2 ngày Cá tháng Tư. Ngày thứ hai đặc biệt để trêu ghẹo phần sau lưng của mỗi người nên được gọi là “Ngày vuốt đuôi”. Đây được coi là ngày phát sinh của trò đùa “Hãy đá tôi một phát”. Và những người bị lừa được gọi là “gowk” (kẻ ngốc).
 
Ngày 1 tháng 4 tại vương quốc anh được gọi là “April Fool”, từ “fool” cũng có nghĩa là kẻ ngốc. Những trò đùa  sẽ được tiến hành trong buổi sáng và kết thúc vào 12h trưa, nếu bạn bị “mắc câu” thì bạn sẽ bị coi là một “con cá”.  

Nguon goc va y nghia ngay ca thang tu hinh anh 2
Ảnh minh họa
Người dân Pháp thì gọi ngày này là “Poissons D’Avril”, và do ảnh hưởng của văn hóa Pháp nên ở Việt Nam chúng ta cũng gọi ngày này là ngày Cá tháng Tư hay ngày Nói Dối.
 
Ngày nay, ở Anh người ta gọi những người bị lừa trong dịp 1/4 là “April Fool” cũng có nghĩa là fool – kẻ ngốcNgười Pháp thì gọi những người bị lừa là Poissons D’Avirl có nghĩa là “những con cá tháng Tư”. Và có lẽ do ảnh hưởng của người Pháp nên ở Việt Nam chúng ta gọi ngày này là ngày Cá tháng Tư - ngày nói dối.
 
Tại sao lại chọn con Cá?
Quay lại thế kỷ XVI ở nước Pháp, mọi người thường tặng quà cho nhau là thực phẩm. Tuy nhiên, vào dịp lễ ăn chay, thịt hay những đồ ăn có liên quan tới thịt sẽ bị cấm đối với người dân theo đạo Thiên Chúa, nhưng Cá thì lại được phép thoải mái sử dụng. Khi truyền thống này được phổ biến thì Cá giả là những “bẫy lừa” được người dân sử dụng phổ biến nhất, họ có thể dán những mẩu giấy hình con cá vào sau lưng áo của người khác.    Tại một số quốc gia khác, người ta tin rằng ngày cá tháng Tư bắt nguồn từ những trò đùa tai hại của những người đánh cá, họ cho rằng ngày 1 tháng 4 thuộc thời kỳ cá giao phối nên việc câu cá bị cấm. Tuy nhiên, một số người thì tin rằng việc sử dụng hình ảnh cá lại liên quan đến vòng quay của mặt trời. Bởi lẽ trong những ngày đầu tháng Tư, mặt trời  sẽ quay quanh cung Song Ngư theo chiêm tinh thì chùm sao có hình con cá.
 
=> Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Lichngaytot.com
 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc và ý nghĩa ngày cá tháng tư

Đặt tủ lạnh vào nơi hợp phong thủy

Phong thủy tủ lạnh tìm nơi đặt tủ lạnh thích hợp với phong thủy trong nhà, lựa chọn màu sắc tủ lạnh thích ứng với ngũ hành của Bát Tự người chủ nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vị trí đặt tủ lạnh có ảnh hưởng lớn đến phong thủy của ngôi nhà. Đây là yếu tố quan trọng mà mọi người thường không biết hoặc không để ý đến. Một trong những cách thức cần nghiên cứu về phong thủy cải mệnh.

Tủ lạnh thuộc Kim, người khuyết Kim cần đặt một chiếc tủ lạnh lớn trong nhà. Thông thường đại đa số các gia đình đều đặt tủ lạnh trong nhà bếp, nhà bếp là nơi Hỏa vượng, Hỏa khắc Kim, đặt tủ lạnh trong nhà bếp, kỳ thực đã tiết hao được tính Hỏa ở không gian này.

phong thủy tủ lạnh - vị trí đặt tủ lạnh hợp phong thủy

Một thành viên nào đó trong nhà cần Kim, nên đặt tủ lạnh vào vị trí phong thủy tương ứng với thành viên đó.

- Nếu nam chủ nhà cần Kim thì đặt tủ lạnh vào góc Tây Bắc của nhà bếp hoặc phòng khách, 

- Nếu nữ chủ nhà cần Kim, đặt tủ lạnh vào hướng Tây Nam. 

- Nếu con trai lớn cần Kim, đặt tủ lạnh ở hướng Đông. 

- Nếu con gái lớn cần Kim, đặt tủ lạnh vào hướng Đông Nam. 

- Nếu con trai thứ cần Kim, đặt vào hướng Bắc

- Nếu con gái thứ cần Kim, đặt vào hướng Nam. 

- Nếu con trai út cần Kim, đặt tử lạnh hướng Đông Bắc.

- Nếu con gái gái út cần Kim, đặt vào hướng Tây. 

Căn cứ vào nguyên lý phong thủy học trên có thể biết được nên đặt tủ lạnh vào vị trí nào trong nhà.

Ngoài việc đặt tủ lạnh trong nhà bếp ra, đặt thêm một chiếc tủ lạnh nữa trong phòng khách cũng là một việc làm cực Kim, người khuyết Kim có thể tăng cường hành vận, nhưng nếu là người kỵ Kim thì có thể vì thế mà chiêu gọi hung vận, người kỵ Kim cần xử lý một cách cẩn thận.

Có người đặt một chiêc tủ lạnh trong văn phòng công ty. Điều này cũng có thể mang lại may mắn.

Khi một người khuyết Kim, có thể chọn đặt tủ lạnh trong văn phòng. Ví dụ bản thân bạn cần Kim, Thủy, mà vận sự nghiệp không được tốt, có thể đặt thêm một chiếc tủ lạnh trong văn phòng bên trong trữ đầy nước, đá, bia, kem và sữa, như vậy là đã tăng cường cho mình được một kết cấu Kim - Thủy. Rượu thuộc Hỏa nhưng bia lại có xu hướng thuộc Kim - Thủy, các loại bia đến từ phương Tây như bia Pháp, bia Đức đặc biệt thuộc Kim. Người cần Kim - Thủy nên bố trí cho mình một kết cấu phong thủy tốt, đặt ở gần một chiếc tủ lạnh lớn, bên trong đặt đầy bia và thực phẩm đông lạnh.

Ngưòi kỵ Kim không nên đặt tủ lạnh gần mình. Có một vài phòng làm việc chọn một nơi kín đáo để đặt tủ lạnh. Rất có thể ngưòi lãnh đạo ở đó kỵ Kim!!!

Thông thường các phòng trong quán rượu hoặc các khách sạn có thể giấu tủ lạnh trong tủ gỗ. Đối với người kỵ Kim thì đây là một lựa chọn tốt.

Người cần Kim không được dùng tủ lạnh màu đỏ hoặc nóng

Tủ lạnh thuộc Kim, người cần Kim lựa chọn tủ lạnh màu trắng là tốt nhất. Mà người kỵ Kim có thể lựa chọn tủ lạnh màu mận hoặc tủ lạnh màu xanh.

Về màu sắc của tủ lạnh, màu trắng đương nhiên là cực Kim, tủ lạnh màu trắng khá phổ biến, Nhưng người kỵ Kim cũng không thể từ chối dùng tủ lạnh. Vì thế, tủ lạnh có sự xuất hiện những màu mận chín, màu xanh, những màu này được thiết kế dành cho người kỵ Kim. 

Khi bạn chọn tủ lạnh, kỳ thực là một phép hành vận, khi cần Kim mà lại hành vận, bạn nên lựa chọn tủ lạnh màu trắng.

Kỳ thực tất cả mọi vật trong cuộc sống đều đang chờ sự lựa chọn của con người, vấn đề là bạn sẽ chọn các vật trợ vận hay các vật phá vận. Vì thế cần cân nhắc khi quyết định lựa chọn bất kỳ vật nào để đảm bảo phong thủy.

Có người mở tủ lạnh hằng ngày, sự thực là họ đã lựa chọn vận Kim mà không hay biết. Bạn có hay mở tủ lạnh không?

tủ lạnh màu đỏ hoặc màu kim

Hướng dẫn kiểm tra người cần hành Kim trong Tứ Trụ bằng tiện ích trực tuyến trên Xem Tướng chấm net

Bài viết phong thủy về vị trí đặt tủ lạnh trên khá quan trọng với những người cần Kim. Vậy làm sao để biết mình cần hành nào?

Bạn có thể sử dụng tiện ích trực tuyến Tra lá số Tứ Trụ, nhập thông tin giới tính nam hay nữ, nhập giờ sinh, ngày tháng năm sinh theo dương lịch và nhấn nút xem. Nhìn xuống đoạn cuối của mục Phân tích Tứ Trụ, bạn sẽ thấy dòng Dụng thần dự đoán của bạn là hành gì, Hỷ thần là hành gì. Nếu Dụng thần hoặc Hỷ thần là hành Kim, nghĩa là bạn là người cần Kim để giúp cân bằng ngũ hành trong Bát Tự của bạn.

Khi đã biết mình cần hành Kim thì căn cứ vào địa vị trong gia đình, nếu là nam chủ nhà thì đặt tủ lạnh ở góc Tây Bắc, nữ chủ nhà ở hướng Tây Nam. Nếu bạn là con trai cả trong gia đình mà cần Kim, nên đặt tủ lạnh hướng Đông, con gái cả thì hướng Đông Nam. Tương tự con trai thứ nếu cần Kim hãy đặt vào hướng Bắc, con gái thứ thì hướng Nam. Cuối cùng, con trai út tủ lạnh nên đặt ở hướng Đông Bắc, con gái út đặt theo hướng Tây của ngôi nhà.

Hiện nay có rất nhiều chủng loại tủ lạnh trên thị trường Việt Nam như tủ lạnh Sam Sung, tủ lạnh Toshiba, tủ lạnh Panasonic, tủ lạnh Hitachi, tủ lạnh Sanyo... với nhiều lựa chọn về chức năng và màu sắc khác nhau. Các hãng này đã nghiên cứu kỹ về văn hóa phong thủy châu Á nói chung và người Việt nói riêng nên đã cung cấp ra thị trường các màu sắc hợp phong thủy. Đơn cử là chiếc tủ lạnh màu mận của Sam Sung như trong hình trên dành cho những người kỵ Kim.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tủ lạnh vào nơi hợp phong thủy

Thiên Ất quý nhân - thông tuệ, phú quý

Thiên Ất quý nhân là cát tinh (sao tốt) chủ về trí tuệ, sự thông minh. Người mà trong tổ hợp tứ trụ có Thiên Ất quý nhân thì cuộc đời gặp hung hóa cát. Người
Thiên Ất quý nhân - thông tuệ, phú quý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Ất quý nhân là cát tinh (sao tốt) chủ về trí tuệ, sự thông minh. Người mà trong tổ hợp tứ trụ có Thiên Ất quý nhân thì cuộc đời gặp hung hóa cát. Người mà thân vượng thì càng thêm phú quý, sức khỏe dồi dào.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Trong tổ hợp tứ trụ, cách tra Thiên Ất quý nhân là lấy can ngày sinh hoặc can năm sinh làm chủ, từ đó xét đến mối liên hệ với các can chi khác của giờ, ngày, tháng hoặc năm sinh. 

- Can ngày hoặc can năm là Giáp (hoặc Mậu) gặp chi Sửu (hoặc Mùi) trong tứ trụ

- Can ngày hoặc can năm là Ất (hoặc Kỷ) gặp chi Tý (hoặc Thân) trong tứ trụ

- Can ngày hoặc can năm là Bính (hoặc Đinh) gặp chi Hợi (hoặc Dậu) trong tứ trụ

- Can ngày hoặc can năm là Canh (hoặc Tân) gặp chi Dần (hoặc Ngọ) trong tứ trụ

- Can ngày hoặc can năm là Nhâm (hoặc Quý) gặp chi Mão (hoặc Tỵ) trong tứ trụ

Ví dụ

Người có ngày sinh (âm lịch) là giờ Thìn ngày 27 tháng 2 năm 1993, tổ hợp tứ trụ là: giờ Canh Thìn, ngày Canh Ngọ, tháng Giáp Dần, năm Quý Dậu.

Xét trong tổ hợp tứ trụ, căn cứ vào trường hợp thứ 4, can ngày là Canh (Canh Ngọ) gặp chi Dần (Giáp Dần) của tháng, như vậy cuộc đời người này được Thiên Ất quý nhân phù trợ.

(Theo Dự đoán theo tứ trụ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiên Ất quý nhân - thông tuệ, phú quý

Tướng đàn ông môi dày –

Mỗi người sinh ra có một đặc điểm riêng biệt không giống nhau vì những đặc điểm ấy nói lên vận mệnh của một người. Đặc biệt là theo nhân tướng học, đôi môi của con người có thể nói lên trí tuệ và tài vận của người đó. Tuy nhiên, khi phán đoán phải to
Tướng đàn ông môi dày –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông môi dày –

Ngọc Chiếu bình chú

Ngọc Chiếu Đinh Chân Kinh là bộ sách cổ về mệnh lý, tuy hiện nay thị trường có xuất bản thế nhưng lời văn chú thích khá lủng củng, có nhiều chỗ không hợp lý trong ứng dụng thực tiễn.
Ngọc Chiếu bình chú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì lẽ đó, tôi mạo muội sưu tầm kinh văn của Ngọc Chiếu và bình chú lại sao cho phù hợp với nguyên lý ứng dụng của bát tự. Quá trình biên tập có chổ nào không phù hợp rất mong các bậc cao minh chỉ điểm thêm, cho tôi được tinh tấn trên con đường đam mê nghiên cứu mệnh lý học.

1. Kinh văn:
Quái Phùng Sanh Khí, Thiên Đức Hợp, Thế Thế Trường Niên.

_Chú vân : Tam hợp sanh phương giả vi sanh khí, tu yếu nhật thời giả.
_Hựu vân: Trường sanh diệc danh sanh khí. Giáp mộc đáo hợi, ất mộc đáo ngọ. Bính hỏa đáo dần, đinh hỏa đáo dậu. Mậu thổ đáo dần, kỷ thổ đáo dậu. Canh kim đáo tị, tân kim đáo tí. Nhâm thủy đáo thân, quí thủy đáo mão.
Thiên đức giả, chính đinh, nhị khôn, tam nhâm, tứ tân, ngũ càn, lục giáp, thất quí, bát cấn, cữu bính, thập ất, nhập nhất tốn, thập nhị canh.
Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp.

Bình chú:
_Mỗi trường hợp bát tự đều có mỗi bố cục riêng, thuật ngữ thường gọi là mệnh cục. Vậy kinh văn trên dùng đến từ “quái” là chỉ cho mệnh cục trong bát tự.
Đến đây có thể tạm dịch:
Mệnh cục gặp được sanh khí, cùng Thiên Đức Hợp thì mệnh tạo ấy hưởng được tuổi thọ và vinh hoa phú quí.

Thế nào là mệnh cục được sanh khí?
Có thuyết cho rằng tam hợp, bán hợp là sanh khí. Có thuyết cho rằng trường sanh nhật can là sanh khí.
Theo tôi khái niệm sanh khí trong bát tự, điều kiện cần thiết nhất là sự cân bằng âm dương và ngũ hành của nhật can. Thực tế khó có lá số bát tự nào tự động cân bằng trung dung về mặt âm dương ngũ hành, do đó cần đến hệ số điều chỉnh tức dụng thần của mệnh cục.
Vậy đoạn “tu yếu nhật thời giả” trong lời chú, nói lên quan trọng tại nơi nhật trụ(trụ ngày) và thời trụ (trụ giờ)
Nếu dụng thần trong bát tự xuất hiện tại nhật trụ, hay thời trụ điều đó nói lên rằng mệnh cục gặp được sanh khí tại khoảng thời điểm trung và hậu vận của đời người, thì mệnh số ấy sẻ được cao thọ và hưởng được nhiều lạc phúc.
Còn việc ứng dụng thêm thần sát là việc phụ trợ, được xem là công cụ nhấn mạnh phân tích luận giải mệnh lý. Nếu ứng dụng thần sát một cách tùy tiện thì không có giá trị phân tích luận giải mệnh lý.

_Nếu nhật can suy nhược, nhưng được trường sanh, quan đới hay lâm quan tại nguyệt lệnh cùng sự tam hợp hay bán hợp, lục hợp địa chi tại nhật trụ và thời trụ tương trợ nhật can, cũng được xem là mệnh cục gặp phương sanh khí.

Ví dụ càn tạo: Năm mậu thân, tháng mậu ngọ, ngày ất hợi, giờ kỹ mão.
Với ví dụ trên, nhật can ất mộc tuy bị lực thổ kim dày tương khắc làm cho thân mệnh suy nhược. Nhưng nhật can đuợc truờng sanh tại nguyệt lệnh ngọ hỏa, và được nhật chi là Thiên Đức Hợp tương sanh, đồng thời nhật chi hợi bán hợp mão mộc cuộc tương trợ nhật can ất mộc. Do đó mệnh cục này được xem là phùng sanh khí cùng Thiên Đức, chủ phát phúc hậu vận và được trường thọ vậy.
Câu: “Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp”. Lấy ví dụ trên làm sáng tỏ.

2. Kinh Văn:
Thân Mệnh Phùng Hình, Phản Khắc Thời Tất Nhiên Yểu Tiện.

_Chú vân: chi dữ nạp âm dã. Phàm nhân thân mệnh nhật thời khắc phá giả, yểu tiện dã.
Giả lệnh Mậu thìn niên, chính nguyệt, nhâm thân nhật, thời ất tị. Chính nguyệt hựu hình nhật thời chi, nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã.
Giả lệnh Canh ngọ, tứ nguyệt, thủy nhân nhâm ngọ phục hình nhật thời, cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại.

Bình Chú:
Đoạn kinh văn trước dùng từ “quái” để nói lên tình hình của từng loại mệnh cục của bát tự, còn đoạn này dùng từ “thân mệnh ” để chỉ thẳng tình trạng của nhật can.
Ở đây tôi xin lưu ý đọc giả khi trên tay quí bạn đang có quyển Ngọc Chiếu Định Chân Kinh mới phát hành, phần nhiều lối hành văn dụng nghĩa của quyển này chập choạn, không có tính ứng dụng nghiệm lý mệnh vận.
Chính bản thân tôi phát hiện có nhiều chổ sai lệch không khế hợp với sách cổ của tôi đã có trong tay do lưu truyền.

Câu: “Phàm nhân thân mệnh nhật thời khắc phá giả, yểu tiện dã.” điểm nhấn mạnh ở đây là nhật can gặp phải hình xung khắc hại quá nhiều, khiến cho thân mệnh suy nhược thái quá, mệnh tạo rất dễ gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn hoặc yểu mệnh bất đắc kỳ tử, do đó từ “thời” ở đây không dùng chỉ đến thời trụ, dụng ý ở đây từ “ thời” nói lên nhật can ngộ phải, gặp phải thực trạng hình xung khắc hại quá nhiều, dẫn đến thân mệnh hoạn nạn hay yểu vong. Vậy lời chú đến đây đã thích trọn nghĩa cho kinh văn của Ngọc Chiếu, và ta có thể tạm dịch kinh văn như sau:
Nhật can gặp phải hình xung khắc hại, mệnh tạo rất dể yểu vong hay bần tiện nghèo hèn là điều tất yếu.

Câu: “ Giả lệnh Mậu Thìn niên, chính nguyệt, nhâm thân nhật, thời ất tị. Chính nguyệt hựu hình nhật thời chi, nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã.”
Ví dụ : Năm mậu thìn, Tháng giáp dần, ngày nhâm thân, giờ ất tị.

Câu : “chi dữ nạp âm dã” sẽ phân tích ở ví dụ này, ta thấy trụ ngày cùng với trụ năm cùng không vong tại càn tuất hợi, trong khi đó hợi tàng chứa nhân nguyên nhâm thủy, và con nhà giáp tí của trụ năm cùng trụ ngày vốn không có nạp âm hành thủy “nạp âm dã khuyết thủy” từ đó cho thấy nhâm thủy đã bị vô chơn, nay nguyệt trụ dần là đất suy bệnh của nhật can nhâm. Trong khi đó mệnh cục này lại xuất hiện thế tam hình dần tị thân tại nguyệt nhật thời chi, vậy mệnh tạo này phản ảnh số mệnh rất bần tiện, hoặc yểu vong, do đó lời chú mới viết “nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã”.

Câu : “ Giả lệnh Canh ngọ, tứ nguyệt, thủy nhân nhâm ngọ phục hình nhật thời, cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại.”
Ví dụ: Năm Canh ngọ, Tháng canh thìn, Ngày Nhâm ngọ, Giờ Nhâm ngọ.

Nhật can nhâm thủy mộ địa tại nguyệt trụ đề cương của lệnh thìn thổ, nay nhâm thủy lấy hỏa làm tài, thổ làm quan. Trong mệnh cục này có 3 địa chi ngọ, nhân nguyên trong ngọ là kỷ quan, đinh tài, nhưng thân mệnh (nhật can) nhược do mộ địa tọa trên địa chi tài tự hình, cùng với nguyệt trụ thìn là tự hình do đó câu “cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại". Nói lên mệnh tạo không thể làm quan chức được, trước sau gì cũng bị nạn quan trường tù hình, vì vậy gọi là đại bại.

By Thiện Minh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngọc Chiếu bình chú

Bày bình hoa ở huyền quan cho gi đình bình an, mĩ mãn

Bình hoa không chỉ có tác dụng làm đẹp mà còn rất tốt cho phong thủy huyền quan. Nếu khu vực huyền quan đơn điệu, thiếu sức sống thì hãy tham khảo nhé.
Bày bình hoa ở huyền quan cho gi đình bình an, mĩ mãn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bình hoa không chỉ có tác dụng làm đẹp, mang lại sự tươi mới mà còn rất tốt cho phong thủy huyền quan. Nếu bạn cảm thấy khu vực huyền quan của mình đơn điệu, thiếu sức sống thì hãy tham khảo ngay bài viết dưới đây nhé.


Bay binh hoa o huyen quan cho gi dinh binh an, mi man hinh anh
 
Bình hoa có tác dụng phong thủy rất đáng chú ý. Chữ “bình” giống như bình an, bày bình hoa ở huyền quan tức là mang bình an, hài hòa vào nhà. Hoa tươi cũng tượng trưng cho tình cảm vợ chồng tốt đẹp, người độc thân có thể gia tăng nhân duyên vận, nhanh chóng tìm được ý trung nhân.   Mỗi hình dạng bình hoa lại có ý nghĩa phong thủy khác nhau, nên khi trang trí huyền quan, hãy lưu ý điều này. Nếu muốn thúc giục đào hoa vận thì dùng bình hoa hình tròn là thích hợp. Bình hoa hình vuông dùng để thúc đẩy tài vận. Không nên trưng bình hoa có hình thù quái lạ, sẽ ảnh hưởng xấu tới phong thủy huyền quan.   Nên căn cứ vào diện tích lớn nhỏ của huyền quan để chọn bình hoa có kích cỡ phù hợp. Nếu huyền quan rộng mà đặt bình hoa nhỏ hoặc huyền quan hẹp mà lại đặt bình hoa lớn thì không chỉ ảnh hưởng tới mĩ quan mà còn ảnh hưởng tới gia vận, tài vận không tốt.
Trang trí cho huyền quan Các hình thức thiết kế huyền quan Có phải mọi cửa hàng đều cần thiết kế huyền quan?
Bình hoa bày ở huyền quan nên tuân theo nguyên tắc “Bình đạm hoa tươi đẹp”, kị nhất là ở huyền quan bày bình hoa có màu sắc quá rực rỡ, diễm lệ, khoa trương, sẽ khiến cho tình cảm của người trong nhà tan vỡ. Người có gia đình thì vợ chồng lục đục, người độc thân thì quan hệ xã giao giảm xuống. Vì thế, bình hoa màu sắc trang nhãn, tươi sáng, nhạt hơn màu hoa là tốt nhất.
Bay binh hoa o huyen quan cho gi dinh binh an, mi man hinh anh
 
Ở huyền quan bày bình hoa tức là ngụ ý gia đình bình an nên tối kị ảm đạm, u ám. Cần có ánh sáng tươi tắn, trong bình là nước sạch, hoa tươi, hoặc trúc phú quý. Vừa đẹp lại có tác dụng hóa sát, vượng đào hoa, tăng cường vận thế sự nghiệp. Nên chăm cây cho tươi tốt, nếu héo úa thì phải đổi cây mới ngay.

► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com
Vai trò của huyền quan trong phong thủy nhà ở Hướng dẫn bố trí huyền quan hợp phong thủy
Trần Hồng
 
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày bình hoa ở huyền quan cho gi đình bình an, mĩ mãn

4 quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống

Bốn quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống để thêm hành trang vững bước vào đời.
4 quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bốn quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống để thêm hành trang vững bước vào đời.

4 quy tac tam linh can ap dung trong cuoc song hinh anh
 
1. Quy tắc đầu tiên: “Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp.”
 
Điều này có nghĩa rằng không ai xuất hiện trong cuộc đời chúng ta một cách tình cờ cả. Mỗi người xung quanh chúng ta, bất cứ ai chúng ta giao lưu, đều đại diện cho một điều gì đó, có thể đến để dạy chúng ta điều gì đó hoặc giúp chúng ta cải thiện tình hình hiện tại.
2.Quy tắc thứ hai: “Bất cứ điều gì xảy ra thì đó chính là điều nên xảy ra."
 
Không có điều gì, tuyệt đối không có điều gì chúng ta trải nghiệm lại nên khác đi. Thậm chí cả với những điều nhỏ nhặt ít quan trọng nhất. Không có. Nếu như tôi đã làm điều đó khác đi..., thì nó hẳn đã khác đi. Không. Những gì đã xảy ra chính là những gì nên xảy ra và phải xảy ra giúp chúng ta học ra bài học để tiến về phía trước. Bất kỳ tình huống nào trong cuộc đời mà chúng ta đối mặt đều tuyệt đối hoàn hảo, thậm chí cả khi nó thách thức sự hiểu biết và bản ngã của chúng ta.
 
4 quy tac tam linh can ap dung trong cuoc song hinh anh 2
 
3.Quy tắc thứ ba: “Trong mỗi khoảnh khắc, mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm.”
 
Mọi thứ bắt đầu vào đúng thời điểm, không sớm hơn hay muộn hơn. Khi chúng ta sẵn sàng cho nó, cho điều gì đó mới mẻ trong cuộc đời mình, thì nó sẽ có đó, sẵn sàng để bắt đầu.
 
4. Quy tắc thứ tư: “ Những gì đã qua, cho qua"
 
Quy tắc này rất đơn giản. Khi điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta kết thúc, thì có nghĩa là nó đã giúp ích xong cho sự tiến hoá của chúng ta. Đó là lý do tại sao, để làm phong phú thêm trải nghiệm của mình, tốt hơn hết là chúng ta hãy buông bỏ và tiếp tục cuộc hành trình.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống

Bài trí phong thủy văn phòng theo mệnh để hút tài lộc

Căn cứ vào quy luật tương sinh tương khắc trong Ngũ hành mà có cách bài trí phong thủy văn phòng hợp lí để tăng vượng khí hút tài lộc và tránh điềm dữ.
Bài trí phong thủy văn phòng theo mệnh để hút tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

1. Mệnh Kim: Hướng từ Tây Bắc sang Đông Nam
 
Những căn phòng thuộc mệnh Kim đồng nghĩa với việc công trình kiến trúc này hướng từ Tây Bắc sang Đông Nam. Khi bài trí văn phòng mệnh Kim, cần đảm bảo đủ ánh sáng, tạo cảm giác rộng rãi sáng sủa giống như tính chất của Kim (sáng sủa, kị ánh sáng yếu, tối tăm). 
 
Ngoài ra, dựa vào mối quan hệ tương sinh tương khắc trong Ngũ hành mà có cách chọn màu sắc phù hợp. Vì Thổ sinh Kim, nên có thể chọn màu vàng đặc trưng của Thổ làm gam màu chủ đạo, đồng thời tô điểm bằng màu trắng của hành Kim.

Bai tri phong thuy van phong theo menh de hut tai loc hinh anh
Ảnh minh họa

2. Mệnh Mộc: Hướng từ Đông sang Tây

 
Theo phong thủy văn phòng, những kiến trúc có hướng từ Đông sang Tây được gọi là mang mệnh Mộc. Bài trí văn phòng mệnh Mộc cần phải vuông vắn hào phóng về bố cục, tạo cảm giác cao và sâu giống như tính chất của Mộc. Như vậy sẽ thúc đẩy tài lộc, khiến tinh thần làm việc của mọi nhân viên lên cao.
 
Theo quy luật tương sinh trong Ngũ hành, Thủy sinh Mộc nên có thể dùng gam màu trắng hoặc đen đặc trưng của hành Thủy để tạo điểm nhấn cho văn phòng. Hoặc có thể lựa chọn các đồ nội thất có màu xanh đặc trưng của Mộc, như vậy sẽ hút nhiều vượng khí và tăng tài lộc.

3. Mệnh Thủy: Hướng từ Bắc sang Nam
 
Những công trình kiến trúc hướng từ Bắc sang Nam được gọi là mệnh Thủy. Tính chất của Thủy là trầm lắng, có tác dụng giữ gió tụ khí. Theo đó, văn phòng làm việc phải được bài trí khá kín đáo, tránh bị lộ liễu, tạo cảm giác huyền bí, như vậy mới có lợi cho sự phát triển của công ty. 
 
Ngoài ra, lợi dụng quy luật tương sinh Kim sinh Thủy trong Ngũ hành để lựa chọn các gam màu phù hợp cho văn phòng. Ở đây có thể sử dụng màu trắng đặc trưng của hành Kim kết hợp với màu đen của hành Thủy để trang trí cho văn phòng.
 
4. Mệnh Hỏa: Hướng từ Nam sang Bắc
 
Ngôi nhà mang mệnh Hỏa thường có hướng chính từ Nam sang Bắc. Khi bài trí phong thủy văn phòng mệnh Hỏa cần chú ý lựa chọn những gam màu đậm, tạo ấn tượng mãnh liệt nhưng trang trọng, mang lại cảm giác chắc chắn và ôn hòa. 
 
Có thể dựa vào quy tắc tương sinh trong Ngũ hành, ở đây là Mộc sinh Hỏa để lựa chọn cách phối màu hợp lí. Ví dụ có thể dùng tông màu xanh lá đặc trưng của mệnh Mộc kết hợp với màu đỏ, tím, hồng mang tính chất hành Hỏa để bài trí cho văn phòng.
 
5. Mệnh Thổ: Hướng từ Đông Bắc đến Tây Nam
 
Theo phong thủy văn phòng, các tòa nhà có hướng từ Đông Bắc đến Tây Nam được gọi là mệnh Thổ. Nếu văn phòng mang mệnh Thổ, cần bài trí rộng rãi, chắc chắn và có cảm giác chứa được vạn vật, phù hợp với đặc trưng của đất.
 
Khi lựa chọn màu sắc chủ đạo và các tông màu phụ để trang trí văn phòng, cần dựa vào mối quan hệ tương sinh tương khắc trong Ngũ hành. Ở dây Hỏa sinh Thổ, do đó có thể dùng màu sắc của mệnh Hỏa như đỏ, tím, hồng hoặc màu vàng đất của bản mệnh Thổ.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí phong thủy văn phòng theo mệnh để hút tài lộc

Báo đáp ơn cha, nghĩa mẹ

Người con Phật hiếu đạo luôn phụng dưỡng và kính thuận cha mẹ trong hiện đời nhưng cũng không quên tạo dựng hành trang an lành cho cha mẹ
Báo đáp ơn cha, nghĩa mẹ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người con Phật hiếu đạo luôn phụng dưỡng và kính thuận cha mẹ trong hiện đời nhưng cũng không quên tạo dựng hành trang an lành cho cha mẹ khi giả từ cuộc thế, để tái sinh vào cõi lành. Hành trang đó chính là tín, giới, thí và tuệ.

Một thời, Thế Tôn ở Sàvatthi, tại vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

1. Này các Tỷ-kheo, ta sẽ giảng cho các Thầy về địa vị bậc không phải Chân nhân và địa vị bậc Chân nhân. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

Này các Tỷ-kheo, thế nào là địa vị bậc không phải Chân nhân? Người không phải Chân nhân, này các Tỷ-kheo, không biết ơn, không nhớ ơn. Ðối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Ðối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn.

2. Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.

(Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Tâm thăng bằng, phần Đất)

SUY NGHIỆM:

Sống ở đời, biết ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ để hiếu kính đã là điều khó. Nhưng để trở thành người con có hiếu đúng nghĩa, tâm hiếu và hạnh hiếu vẹn toàn lại càng khó khăn hơn. Trong nhiều kinh điển, Thế Tôn thường nói đến công ơn cha mẹ bao la như trời biển, dù chúng ta có hiếu thảo đến mấy vẫn khó có thể đáp đền. Tuy vậy, pháp thoại này Thế Tôn đã chỉ bày một phương thức báo hiếu khác với lệ thường, đó là hướng dẫn cha mẹ tu học, chuyển hóa ba ác nghiệp, mà theo Ngài là “trả ơn đủ cho mẹ và cha”.

Trước hết, Thế Tôn xác quyết rằng, biết ơn và nhớ ơn là đặc tính của bậc chân nhân, của bậc thiện nhân. Khi một người không có hay đã đánh mất đặc tính biết ơn và nhớ ơn thì chắc chắn đó là người độc ác, là kẻ bất nhân, bất chính.

Ngay cả những bậc giàu sang, uy quyền tột bậc trên thế gian, một lòng cung phụng song thân thì vẫn không đủ, vì ân đức cha mẹ sinh dưỡng, tác thành cho con cái nên người quá lớn, đến độ không thể nghĩ bàn.

  • Theo Thế Tôn, hiếu dưỡng trong ý nghĩa thông thường thì dù chu toàn, tận hiếu cũng vẫn chưa đủ.
  • Nên song hành với phụng dưỡng vật chất, kính thuận, người con Phật chí hiếu phải biết khuyến hóa cha mẹ tin tưởng Tam bảo sâu sắc, an trú vào thiện giới, biết bố thí cúng dường, luôn sống với sự soi sáng của tuệ giác.
  • Làm được như thế tức là đã làm đủ, trả ơn đủ cho mẹ và cha.

Rõ ràng, Thế Tôn rất chú trọng đến sự chuyển hóa nghiệp lực cho cha mẹ để mong đời sau cha mẹ tái sanh vào cảnh giới tốt đẹp hơn. Vì đời sống hiện tại vốn hữu hạn và vô thường. Sau đời sống này còn vô số kiếp sống khác nữa. Nếu thương cha mẹ mà thiếu trí tuệ, có thể tạo thêm nghiệp cho cha mẹ mà không tích lũy được phước báo nào cả thì chưa thể gọi đó là thương, là hiếu đúng nghĩa và trọn vẹn nhất.

Vì thế, người con Phật hiếu đạo luôn phụng dưỡng và kính thuận cha mẹ trong hiện đời nhưng cũng không quên tạo dựng hành trang an lành cho cha mẹ khi giả từ cuộc thế, để tái sinh vào cõi lành. Hành trang đó chính là tín, giới, thí và tuệ. Điều này có nghĩa là đời này và đời sau cha mẹ đều hạnh phúc. Vì thế mà Thế Tôn khẳng định là đã làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Báo đáp ơn cha, nghĩa mẹ

Con trai mặt chữ điền thì sao?

Theo quan điểm của nhân tướng học thì những người đàn ông hay con trai sở hữu khuôn mặt hình chữ điền thường là những người cương nghị, quyết đoán và tính tự lập rất cao.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan điểm của nhân tướng học thì những người đàn ông hay con trai sở hữu khuôn mặt hình chữ điền thường là những người cương nghị, quyết đoán và tính tự lập rất cao. Vậy những khuôn mặt chữ điền là như thế nào? Con trai có mặt chữ điền có tính cách và quan điểm tình yêu ra sao? Hãy cùng Phong thủy số tìm hiểu về vấn đề này.

Con trai mặt chữ điền thì sao?

Theo nhân tướng học thì mỗi người sở hữu một hình dạng khuôn mặt khác nhau: Có người sở hữu khuôn mặt trái xoan, có người lại sở hữu khuôn mặt chữ điền, hay mặt hình ô -val, mặt hình trái tim,....Phong thủy số xin chia sẻ thông tin về nhân tướng con trai mặt chữ điền theo quan niệm nhân tướng học để các bạn cùng chiêm nghiệm.

Mặt chữ điền là như thế nào?

Hầu hết con trai mặt chữ điền có những đặc điểm là trán cao, rộng, cằm hơn nhô ra, độ dài và rộng của cằm tương đương với phần rái. Nếu có thêm hàm én, mày ngài ( râu quai nón, lông mày rậm) thì là người quý tướng, có vận khí cuộc đời tốt.

Khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt vuông vức, cương nghị mà có phần đầy đặn. Những người con trai có gương mặt chữ điền thường là người có quý tướng, tương lai sáng lạn. Họ thường có sự nghiệp lớn.

Con trai mặt chữ điền

Đối với con trai mặt chữ điền thì đây là không mặt quý tướng. Theo ngũ hành mệnh thì khuôn mặt này thuộc ngũ hành mệnh Kim, đại diện cho sự chín chắn, quyết đoán, những người này thường có vận số rất tốt.

Những người mặt chữ điền thường có trí thực hơn người, lại giỏi giang toàn diện. Nhất là theo nghề võ như quân đội hay sĩ quan, vệ sĩ,...

Nhiều nhà nhân tướng học nhận đinh, con trai mặt chữ điền thì trung thực và giàu sang. Nhưng một trong số họ cũng là những kẻ trộm nổi tiếng hay những kẻ haker có tài năng.

Trên đây là những ý nghĩa về nhân tướng học của người con trai mặt chữ điền. Để xem thêm những bài viết khác, có thể tham khảo tại: Xem bói  - Phong thủy số.

Những cô gái có gương mặt phúc hậu nên lấy làm vợ

Xem vận mệnh của người phụ nữ mặt vuông

“Điểm danh” các Nốt ruồi phú quý ở đàn ông

Nốt ruồi có lông là tốt hay xấu

+ Những đường chỉ tay của bạn nói lên điều gì

+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con trai mặt chữ điền thì sao?

Tại sao cá vàng lại được gọi là cá phong thuỷ? –

Theo truyền thông thì cá vàng được gọi là cá phong thủy không những có thể khắc phục được khiếm khuyết nào đó về mặt phong thủy mà còn làm cho căn nhà thêm tràn đầy sức sống. Ngày nay, trong nhà có đặt một bể nuôi cá vàng được coi là lối chơi tương
Tại sao cá vàng lại được gọi là cá phong thuỷ? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo truyền thông thì cá vàng được gọi là cá phong thủy không những có thể khắc phục được khiếm khuyết nào đó về mặt phong thủy mà còn làm cho căn nhà thêm tràn đầy sức sống.

Ngày nay, trong nhà có đặt một bể nuôi cá vàng được coi là lối chơi tương đối thời thượng; trong nhà đặt bể nuôi cá vàng, làm tăng thêm sức sông gia đình, những lúc trà dư tửu hậu, ngắm nhìn những chú cá vàng bơi lội tung tăng, thấy tâm hồn thư thái hơn. Hợp vđi lý lẽ phong thủy xưa nói làm căn nhà như tăng thêm sức sông cùng hào khí.

Mot-so-dieu-cam-ky-trong-thiet-ke-nha-theo-phong-thuy-04

Khi có một bể cá cảnh trong nhà cần chú ý:

–   Vị trí kê, đặt bể cá vàng

Phong thủy xưa cho rằng ngôi nhà quay lưng hướng 212

Nam, Bắc và hướng Đông Nam, bể cá vàng tại phòng khách không nên đặt ở bôn phương hướng là Đông, Đông Nam, Bắc và Nam.

Với căn nhà quay lưng các hướng Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc và Tây, bể cá vàng nơi phòng khách không nên kê ở mé Tây, Tây Nam, Tây Bắc và Đông Bắc.

Kê, đặt bể cá vàng phải chú ý phôi hợp với chỉnh thể phong cách ngôi nhà, đồng thời còn phải phối hợp với quan hệ giữa khí trường và kiến trúc của ngôi nhà, tăng linh khí tự nhiên, tăng thêm sinh khí của ngôi nhà.

–  Hình dáng bể cá:

Bể cá hình tròn, Ngũ hành thuộc mệnh Thuỷ, có thể sinh vượng thuỷ, cát lợi.

Bể cá hình chữ nhật, Ngũ hành thuộc mệnh Mộc, mặc dù thoát hơi nước ra ngoài nhưng có tác dụng hỗ trợ, cát lợi.

Bể cá hình vuông, Ngũ Hành thuộc mệnh Thổ, Thổ có thể khắc Thuỷ, xuất hiện những lực lượng tương khắc nhau, chọn bể cá vàng không nên lựa chọn hình vuông Ngũ hành thuộc mệnh Thổ.

Bể cá hình lục giác, lấy số 6 làm số nước, Ngũ hành thuộc mệnh Thuỷ, nhưng Ngũ hành của hình đa giác thuộc mệnh Hoả, bởi vì thuỷ hoả pha tạp trộn lẫn nên hình lục giác không tốt cho bố cục gia tăng tài vận.

Bể cá hình tam giác hoặc hình tám góc, Ngũ hành thuộc mệnh Hoả, gặp thuỷ trở nên tương khắc, không nên chọn dùng.

Theo phân tích Ngũ hành ở trên thì hình cát lợi nhất là hình chữ nhật và hình tròn, bạn nên chọn theo hình dáng đó để mang lại cát lợi.

–   Chọn giống cá vàng để nuôi.

Tuy cá nước mặn có hình dáng đa dạng, màu sắc phong phú, nhưng phải nuôi trong nước biển, nước gần với độ mặn của nước biển nên chăm sóc khá khó khăn, vì vậy bạn không nên chọn nuôi loại cá này.

Cá nhiệt đới rất khó nuôi, thường hay chết, theo phong thuỷ học, nếu sinh vật nuôi trong nhà chết nhiều thì đó không phải là điềm lành, ảnh hưởng tới sự vận hành hài hòa của khí trường cơ thể, gây ảnh hưởng phụ về mặt tâm lý.

Nên nuôi nhiều cá vàng, chúng đều có sức sông khỏe khoắn, bền bỉ, dễ nuôi, nhất là những loài cá vàng như cá thần tiên, bảy màu, cẩm lý (chép gấm), kim ngư, màu sắc rất đẹp, tính khí ôn hòa, dễ nuôi và cũng dễ làm vệ sinh bể nuôi, khiến tâm tình người nuôi phấn chấn, mà theo phong thuỷ, tên các loài cá như cẩm lý hoặc kim ngư, âm của nó giông với gấm, lợi, vàng (kim), đều có liên quan tới phát tài, giàu có.

–   Số lượng cá nuôi.

Bạn có thể tham khảo cách lấy ố lạc thư kết hợp 214 với đuôi cá dưới đây để chọn số lượng cá nuôi theo phong thuỷ:

Nhất Vĩ (Một đuôi): Bạch Tham Lang Tinh là sao cát, có thể phát tài phát lộc.

Nhị Vĩ (Hai đuôi): Nhị Hắc Cự Môn Tinh là sao hung, bất lợi cho tài vận.

Tam Vĩ (Ba đuôi): Tam Bích Lộc Tồn Tinh là sao hung, bất lợi cho tài vận.

Tứ Vĩ (Bôn đuôi): Tứ Lục Văn Khúc Tinh là sao cát, có thể phát tài phát lộc.

Ngũ Vĩ (Năm đuôi): Ngũ Hoàng Liên Trinh Tinh là sao hung, bất lợi cho tài vận.

Lục Vĩ (Sáu đuôi): Lục Bạch Ngũ Khúc Tinh, là sao cát, có thể phát tài phát lộc.

Thất Vĩ (Bảy đuôi): Thất Xích Phá Quân Tinh là sao hung, bất lợi cho tài vận.

Bát Vĩ (Tám đuôi): Ất Bạch Tả Phụ Tinh là sao cát, có thể phát tài phát lộc.

Cửu Vĩ (Chín đuôi): Cửu Tử Hữu Bật Tinh là sao cát, có thể phát tài phát lộc.

Thập Vĩ (Mười đuôi): được coi là Nhất Vĩ (Một đuôi), Thập Nhất Vĩ được coi là Nhị Vĩ, Thập Nhị Vĩ được coi là Tam Vĩ, cứ suy tính như vậy đôi với những số lượng đuôi khác.

Trên đây là dùng Lạc Thư để tính sự hung cát của ố lượng cá nuôi, lại tiếp tục dùng Hà Đồ Ngũ hành để tính sự hung cát, ta có:

Nhất Vĩ: Hà Đồ Ngũ hành thuộc mệnh Thuỷ, có thể gia tăng lực lượng của nước, nước là khí vượng tài, cát lợi.

Nhị Vĩ: Hà Đồ Ngũ hành thuộc mệnh Hoả, có thể làm tổn hao lực lượng của nước, khí nước bị rò rỉ ra ngoài, bất lợi.

Tam Vĩ: Hà Đồ Ngũ Hành thuộc mệnh Mộc, có thể làm tổn hao đến lực lượng của nước, hơi nước bị bốc ra ngoài, bất lợi.

Tứ Vĩ: Hà Đồ Ngũ Hành thuộc mệnh Kim, có thể sinh vượng lực lượng của nước, thuỷ khí tăng cường tài vượng, cát lợi.

Ngũ Vĩ: Hà Đồ Ngũ Hành thuộc mệnh Thuỷ, có thể tăng cường thêm lực lượng của nước, thuỷ khí bị khắc chế, được coi là bất lợi.

Lục Vĩ: Hà Đồ Ngũ hành thuộc mệnh Thuỷ, có thể gia tăng lực lượng của nước, thuỷ khí vượng tài, cát lợi.

Thất Vĩ: Hà Đồ Ngũ hành thuộc mệnh Hoả, có thể tổn hao đến lực lượng của nước, thuỷ khí bị tổn hao, bình thường.

Bát Vĩ: Hà Đồ Ngũ hành thuộc mệnh Mộc, có thể làm tổn hao đến lực lượng của nước, thuỷ khí bị rò rỉ, bất lợi

Cửu Vĩ: Hà Đồ Ngũ hành thuộc mệnh Kim, có thể sinh vượng lực lượng của nước, thuỷ khí càng được hưng vượng, cát lợi.

Thập Vĩ: Hà Đồ Ngũ hành thuộc mệnh Thổ, có thể tăng cường lực lượng của nước, thuỷ khí tài vượng, cát lợi.

Từ việc kết hợp giữa Hà Đồ (Hình Sông) và Lạc Thư thì con ố có lợi nhất trong việc nuôi cá là Nhất Vĩ, Tứ Vĩ, Lục Vĩ, và Cửu Vĩ, quý vị nào muôn nuôi cá để gia tăng tài vận hãy chú ý thêm.

–  Màu sắc của cá:

Cá vàng có màu sắc không giông nhau thì mệnh Ngũ hành cũng khác nhau, đối với phong thuỷ dù ít dù nhiều đều có ảnh hưởng.

Màu sắc loại cá nuôi là màu bạc hoặc màu trắng, thì Ngũ Hành thuộc mệnh Kim, mà Kim có thể sinh Thuỷ, thúc đẩy tài vận gia tăng rất nhiều.

Màu sắc loại cá nuôi là màu đen, màu xanh lam, màu tro xám thì Ngũ hành thuộc mệnh Thuỷ, có thể vượng nước, tăng thêm tài lộc rất nhiều.

Màu sắc loại cá được nuôi là màu thiên thanh, màu xanh lá cây thì Ngũ hành thuộc mệnh Thổ, Thổ sẽ bị thoát nước, tài vận gia tăng rất kém.

Màu sắc loại cá được nuôi là màu đỏ, màu tím, màu da cam thì Ngũ hành thuộc mệnh Hoả, lửa sẽ làm tổn hao đến lực lượng của nước, tài vận tăng kém.

Màu sắc loại cá được nuôi là màu vàng hoặc màu cafê, Ngũ hành thuộc mệnh Thổ, mà Thổ thì khắc Thuỷ, tài vận cũng tăng kém.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao cá vàng lại được gọi là cá phong thuỷ? –

Bài trí nội thất trong nhà để tìm ra vượng khí

Khi thiết kế nội thất trong nhà, bạn phải nghiên cứu bố trí các cửa chính, cửa sổ, cầu thang, rồi sắp đặt các phòng. Trong phòng bạn phải nghiên cứu sắp xếp các đồ vật ra sao... Đó chính là việc cấu trúc, bố trí nội thất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy nhà ở có âm trạch (xem nơi đặt mồ mả) và dương trạch (xem nơi làm nhà). Những thầy địa lý ngày trước thường rất quan tâm đến âm trạch. Họ chú ý đến việc đi tìm những nơi đất tốt để đặt mồ mả, tin rằng làm như thế các thế hệ sau sẽ gặp vận hội may mắn, làm ăn phát đạt. Tuy nhiên, ít có cơ sở để giải thích được mối liên hệ giữa nơi an táng người đã khuất với cuộc sống của con cháu họ sau này, nhất là đối với chuyện làm ăn, học hành, đỗ đạt, thăng quan tiến chức.

Vì vậy, các thầy địa lý thường bị phê phán và việc xem âm trạch bị coi là chuyện mê tín, nhảm nhí.

Sách “Chích di” chép: Trong một lần đi săn, vua Đường Huyền Tôn đến một cánh đồng, ngựa của vua phi nhanh chỉ có ngựa của Bạch Vân tiên sinh Trương Ước theo kịp. Khi qua đầu núi thấy một ngôi mộ, Trương Ước nhìn chăm chú rồi còn ngoái đầu lại, Đường Huyền Tôn hỏi nhìn cái gì thì Trương Ước đáp: “Chôn lệch đất, yên đầu rồng, gối lên sừng rồng, chưa đến 3 năm tự tiêu trầm”. Cạnh đấy có người tiều phu, Huyền Tôn hỏi ai chôn trong mộ. Tiều phu trả lời là nhà Thôi Tốn dưới núi. Huyền Tôn và Trương Ước đến nhà Thôi Tốn. Con Tốn không biết là vua cứ mặc áo thường ra tiếp. Huyền Tôn bảo: “Ngôi mộ trên núi không phải đất lành”. Con Tốn đáp “Trước khi lâm chung bố tôi có nói: Yên đầu rồng, gối tai rồng, chưa đến 3 năm Hoàng đế đến nhà”. Huyền Tôn vô cùng ngạc nhiên, còn Trương Ước tự than mình không bằng Thôi Tốn, sau đó bỏ lên núi tu hành.

Để tìm ra vượng khí, phong thủy quan niệm cửa giả được coi như là môi, miệng, mắt để chuyển khí vào nhà. Phòng lớn như là động mạch chính dẫn khí đi vào các phòng khác trong ngôi nhà. Đồ đạc, cây cối, các vật trang trí, cửa giả bên trong như là mạch máu nhỏ làm thông khí.

Nhưng truyện “Quách Tấn” trong sách Hậu Hán thư cũng kể, đời Thuận Đế có người ở Hà Nam tên là Ngô Hùng lúc bé nhà nghèo, khi mẹ chết chẳng chọn đất cũng không chọn giờ, cứ thế đem mẹ đi chôn. Thầy cúng bảo: “Ngô Hùng sau này sẽ bị họa diệt tộc”. Nhưng Ngô Hùng và các con sau này đều làm quan đến chức Đình úy, chả thấy tai họa đâu. Nói vậy để thấy, ngay cả đời xưa nhiều người cũng không tin vào âm trạch.

Lại nói về dương trạch, người xưa cũng thường chú trọng đến ngoại thất hơn: xem thế đất, hướng đất để làm nhà là chính. Ngược lại trong cuộc sống hiện đại ngày nay, người ta lại cho rằng phong thủy trong nhà (nội thất) ảnh hưởng đến chúng ta nhiều hơn núi sông bên ngoài. Điều này có lẽ bắt nguồn từ sự phát triển của xã hội. Xã hội hiện đại cuốn cuộc sống con người vào dòng chảy theo nhịp điệu của đời sống công nghiệp. Con người mải miết tất bật với công việc ở công sở, nhà máy. Hết giờ làm việc về nhà chỉ muốn đóng chặt cửa nghỉ ngơi, tìm sự yên tĩnh trong căn nhà của mình, quan hệ xã hội, sự tiếp xúc với thiên nhiên giảm đi. Vì vậy mà ngoại cảnh ít tác động hơn chăng? Vả lại con người ta sinh ra ngày càng nhiều nhưng đất đai lại không sinh sôi thêm. Vì vậy đất ở, nhất là đất ở các thành phố lớn ngày càng chật chội, nhà cửa san sát. Do đó, người ta cũng ít có cơ hội để tìm kiếm một lô đất (hình dáng, hướng, vị trí…) theo đúng ý mình. Đành phải chấp nhận lô đất có những khiếm khuyết nhỏ nào đó rồi tự cải tạo bằng cách bố trí cửa, các phòng sao cho có lợi nhất làm hạn chế hoặc triệt tiêu những bất lợi của ngoại cảnh. Vì vậy mà phong thủy đi sâu vào cấu trúc nội thất chăng?

Phong thủy ngày nay cho rằng, ảnh hưởng chính từ sự sắp đặt ở văn phòng, nhà ở và ảnh hưởng phụ là ra thế giới bên ngoài của chúng ta (nghĩa là âm tác động dương). Mẫu mực và đời sống của người ta là phản ánh trung thực từ sự cấu trúc, hình dạng và đồ đạc sắp đặt ở trong phòng.

Để tìm ra vượng khí, phong thủy quan niệm nhà cửa như một cơ thể có hoạt động bên trong của nó, cửa giả được coi như là môi, miệng, mắt để chuyển khí vào nhà. Phòng lớn như là động mạch chính dẫn khí đi vào các phòng khác trong ngôi nhà. Đồ đạc, cây cối, các vật trang trí, cửa giả bên trong như là mạch máu nhỏ làm thông khí. Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu cách bố trí các cửa (cửa chính, cửa thông gió, cửa sổ), cầu thang, sắp xếp đồ đạc trong các phòng… để bạn đọc tham khảo.

(Theo Xây dựng)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí nội thất trong nhà để tìm ra vượng khí

Xem tướng đàn ông thành đạt và hạnh phúc

Sử dụng kinh nghiệm của Nhân tướng học, xem tướng đàn ông có thể biết được họ thành đạt trong sự nghiệp hay có hạnh phúc trong tình yêu & hôn nhân không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bằng cách sử dụng các kinh nghiệm của Nhân tướng học, xem tướng đàn ông có thể biết được họ thành đạt trong sự nghiệp hay không, có hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân hay không. Có những người đàn ông thành công trên cả sự nghiệp lẫn tình cảm. Vậy đâu là mấu chốt để nhận biết?

Rất nhiều người đều mong muốn có được sự thành công trọn vẹn trong cả sự nghiệp và tình yêu, nhưng kết quả thường không như mong đợi, nếu như không phải là sự nghiệp không thăng tiến thì là tình yêu không được như ý, hai phương diện này không thể được song toàn. Trong thực tế cuộc sống, rất nhiều người lao tâm khổ tứ vì vấn đề này, thậm chí không được người thân và bạn bè thấu hiểu.

xem tướng đàn ông thành công và hành phúc

Nhưng cũng có một số người vẫn có thể bình tĩnh để đối mặt, kết quả là không chỉ sự nghiệp lên như điều gặp gió mà đường tình duyên cũng rất thuận lợi. Đến đây có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao vẫn có những người luôn lạc quan ngay cả lúc khó khăn? Thực ra rất đơn giản, chúng ta có thể tìm thấy lời giải đáp trong bộ môn Nhân tướng học.

1. Tướng đàn ông có mắt nhỏ và một mí: suy nghĩ kỹ và thấu đáo trước khi làm

Người có mắt một mí là người bình tính đối mặt với mọi chuyện, tình cảm ít dao động, thường suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi làm. Do đó, họ không bao giờ hành động một cách mù quáng mà phải nghĩ ra kế sách vẹn toàn mới hành động. Chính những người này tránh được rất nhiều chuyện phiền toái trong cuộc sống.

Xem tướng người có mắt nhỏ thường bảo thủ nhưng có con mắt rất tinh tường, luôn mong sự việc có kết cục hoàn hảo. Do vậy, trong sự nghiệp cũng như tình yêu, họ thường có thể suy nghĩ và cân nhắc chín chắn, suy xét đến nhiều khía cạnh nên ít phải trắc trở, khó khăn.

2. Mắt hai mí và to là tướng người đàn ông nhiệt tình trong công việc lẫn tình yêu

Với người có mắt hai mí và mắt to là người nhiệt tình trong cả sự nghiệp và tình cảm, nhưng dễ bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài, thường trọng tình cảm nên dễ được mọi người yêu mến, kính trọng, nhiều khi thương nhớ.

Con mắt đã đủ để nhận biết hết chưa? Còn một vị trí nữa cũng cần phải xem qua. Đó là vị trí Thừa tương, kết hợp vị trí này có thể xem tướng đàn ông vừa giàu có, vừa hạnh phúc mới được chuẩn xác.

Thừa tương là vị trí lõm xuống ở bên dưới môi. Ở phần giữa của môi dưới và cằm. Phần lõm ngay dưới môi dưới.

3. Thừa tương lõm là tướng đàn ông biết cách cân bằng giữa gia đình và sự nghiệp.

Thông thường, người có thừa tương rõ nét là người rất chuyên tâm cho sự nghiệp, giỏi giao tiếp nên quan hệ xã hội tương đối tốt. Ngoài ra, những người này biết cách hưởng thụ cuộc sống, coi trọng phẩm chất của cuộc sống. Họ biết cách cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình, vừa chuyên tâm lo toan sự nghiệp, vừa chăm sóc gia đình, nên sự nghiệp và gia đình của họ đều song toàn.

Ngược lại, người có Thừa tương không rõ nét là người không giỏi giao tiếp nên quan hệ xã hội tương đối căng thẳng. Ngoài ra, những người này thường chỉ có thể chuyên chú vào một việc chứ không có khả năng xử lý đồng thời nhiều vấn đề một lúc.

Giữ chữ tín là một điều kiện quan trọng không thể thiếu được trong quan hệ xã giao trong xã hội hiện đại ngày nay. Không đưa ra lời hứa thì không được, nhưng hứa rồi lại không thực hiện lại càng không thể chấp nhận được. Một người không giữ chữ tín thì rất nhiều sự việc trong cuộc sống và sự nghiệp sẽ không thể được thực hiện và tiến triển thuận lợi được. Trong thực tế cuộc sống, rất nhiều người chỉ biết nói mà không biết làm, gọi là "nói thì hay, làm thì dở". Ngày nay luôn cần những người không những biết nói hay mà còn phải làm giỏi.

Một người giữ chữ tín, có thể gánh vác trách nhiệm một cách nghiêm túc thì trước khi hứa điều gì cũng đều có sự suy nghĩ kỹ càng. Ví dụ như phải đánh giá kỹ năng lực của bản thân rồi mà lượng sức mà làm. Từ đó có thể thấy được rằng không dễ dàng đưa ra lời hứa chính là biểu hiện của việc giữ lời hứa. Các nhà Nhân tướng học cho rằng, thông qua tướng mặt có thể nhận biết được một người có phải là người biết giữ lời hứa hay không.

tướng đàn ông biết giữ chữ tín

Phần này áp dụng cho cả tướng đàn ông và tướng phụ nữ

4. Mắt nhỏ, mũi thẳng, miệng rộng là tướng người biết giữ chữ tín

Người có mắt nhỏ là người bảo thủ nhưng lại thông minh, có năng lực, và khả năng phán đoán sự việc, nhận định vấn đề rất chính xác nên không xảy ra những sự việc ngoài tầm kiểm soát. Những người này rất giữ chữ tín, những việc đã nhận lời vì người khác đều cố gắng hết sức hoàn thành.

Người có mũi cao là người có lòng tự trọng cao. Để người khác không coi thường mình, họ luôn cố gắng hoàn thành những việc đã hứa.

Người có tướng miệng rộng là người rất tự tín, giỏi giao tiếp. Do vậy, họ được mọi người xung quanh quý mến. Những người này cũng rất giữ chữ tín, không tùy tiện hứa điều gì, nhưng một khi đã hứa thì luôn giữ lời.

Mũi tượng trưng cho lòng tự trọng. Mũi cao thể hiện người này rất có lòng tự trọng, luôn hoàn thành mọi việc người khác uỷ thác, không muốn người khác coi thường mình, là người rất đáng tin cậy.

5. Trán rộng, tai cao tướng người theo chủ nghĩa hoàn hảo

Trán và tai cũng là bộ phận quan trọng quyết định xem một người có chữ tín hay không.

Thông thường, người có trán cao, rộng là người luôn suy nghĩ chín chắn kỹ càng, làm việc tuân theo quy tắc, làm việc có trật tự, và rất có lòng tự trọng. Khi làm bất kỳ việc gì, họ cũng đều muốn thực hiện một cách tốt nhất. thậm chí có khuynh hướng theo chủ nghĩa hoàn hảo.

Xem tướng mặt mà tai cao là người được giáo dục tốt, giỏi giang toàn diện có khả năng tổng hợp tương đối cao. Đồng thời, những người này cùng có hoàn cảnh gia đình tốt. Do vậy, họ thường được người thân giúp đỡ và ủng hộ, làm việc gì cũng toàn tâm, toàn ý, làm hết khả năng của mình. Cho nên họ là những người rất giữ chữ tín. Họ đã hứa với người khác việc gì thì dù khó khăn thế nào cũng vẫn hoàn thành.

Ngược lại, người có trán hẹp, tai thấp là người không có khả năng phân tích sự việc, làm việc nóng vội, lỗ mang, thường thường không thực hiện được những việc đã hứa. Nên những người này phần lớn không biết giữ chữ tín.

Xem tướng biết người. Ông chủ nào cũng muốn có được những nhân viên biết làm việc chắc chắn, chăm chỉ và luôn một lòng làm tốt chức trách của mình. Tương tự như vậy, ai trong chúng ta cũng muốn có người bạn thẳng thắn, chân thành, chịu khó, thực thà. Trong xã hội hiện đại, chỉ có những người nhu vậy mới có thể thành công trong thương trường cạnh tranh khốc liệt. Còn những người lười nhác, không chịu lao động, nằm chờ sung rụng, luôn mơ hão rằng không làm vấn có ăn là những kẻ chỉ biết nằm mơ giữa ban ngày, giấc mộng đẹp rồi sẽ đến lúc bị phá vỡ bởi hiện thực tàn khốc.

Dưới đây, là những căn cứ của Nhân tướng học để chỉ ra những tính cách và phẩm hạnh của con ngưòi ẩn dưới những đặc trưng của tướng mặt.

6. Tai, mũi, trán thấp là tướng người tôn trọng kỷ luật

Ở phần trên, chứng ta đã bàn về những nội dung có liên quan đến các bộ phận như tai, sống mũi, trán. Dưới đây sẽ tiếp tục bàn các bộ phận này từ một góc độ khác.

Thông thường, người có tai, sống mũi, trán thấp là người làm việc theo nguyên tắc, không có chủ trương riêng. Những người này có ý thức kỷ luật và tinh thần tập thể rất cao, luôn coi trọng tập thể và đại cục, luôn chăm chỉ làm tốt nhiệm vụ được giao.

7. Xem tướng lông mày thô và ngắn là người đáng tin cậy

Người có lông mày thô, ngắn đôi khi làm việc lỗ mãng nhưng rất giữ chữ tín, những việc đã hứa với người khác thì sẽ cố gắng hoàn thành, dù có vất vả, khó khăn nào cũng không than thở. Ngoài ra, những người này rất thực thà, chân thành, toàn tâm toàn ý với công việc, không bao giờ có âm mưu ám hại người khác, là người đáng tin cậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông thành đạt và hạnh phúc

Sự nghiệp và tài vận 12 con giáp trong tháng Giêng

Trong tháng này, nhiều con giáp phải chú ý tình hình tài chính của mình. Nhiều người rơi vào cảnh tiền tiêu xong không biết mình đã tiêu vào mục đích gì.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý:

Sự nghiệp: Tháng này công việc gặp khá nhiều vấn đề rắc rối, thành tích trong công việc không được nâng cao, thậm chí có những việc dễ bị hủy bỏ. Đến giữa tháng trở ra phải đối mặt với các mối quan hệ xã giao liên quan đến công việc, mặc dù bạn cũng hi vọng cùng họ kết bạn, giao lưu hợp tác nhưng rồi bạn phát hiện ra do vấn đề lợi ích kinh doanh nên vẫn không thể “cùng hội cùng thuyền”.

Tài vận: Tài vận tuổi Tý tháng này bình thường, tiền tiêu xong không biết mình đã tiêu vào mục đích gì. Mặc dù tài chính có phần hạn chế nhưng tháng này tuổi Tý có nhiều thời gian hơn để suy nghĩ đến sự nghiệp, con đường kinh doanh riêng của mình, mưu tính trước hành động sau, không nên quá gấp gáp.

Tuổi Sửu:

 su nghiep va tai van 12 con giap trong thang gieng - 1

Sự nghiệp: Công việc của tuổi Sửu tháng này cơ bản ổn định, cuối tháng thu nhập tăng đáng kể. Chủ yếu là do hành động, quyết định của bạn cần đúng đắn, trước hết bạn nên nắm bắt rõ tình hình mọi việc xung quanh, nhưng khi hành động cũng không nên quên những tình tiết nhỏ nhặt, nếu không rất dễ mắc sai lầm. Chú ý quan sát những động thái mới, những mối quan hệ người – người trong công ty cũng là điều bạn không nên xem nhẹ.

Tài vận: Tài vận tháng này có lên có xuống, mặc dù công việc có tiến triển, những đơn hàng đã ký có hi vọng mang lại cho bạn thu nhập khá khả quan. Thậm chí còn có cơ may có được những nguồn thu bất ngờ nữa. Thế nhưng đến cuối tháng, bạn phải chi vào các mối quan hệ bạn bè xã giao hay chuyện học hành của con cái khá nhiều, nên cần chú ý cân đối chi tiêu hợp lý.

Tuổi Dần:

Sự nghiệp: Tháng này trong công việc cũng xuất hiện không ít những thăng trầm. Việc đi công tác, xuất bản, giáo dục… có thể phát sinh những thay đổi hoặc kéo dài thời gian, nên có sự chuẩn bị trước. Giữa tháng trở ra bạn rơi vào trạng thái “tranh quyền đoạt vị” với đối thủ, họ lúc nào cũng chăm chăm bắt lỗi của bạn, vì vậy thàng này cần thật cẩn thận khi làm việc.

Tài vận: Tháng này tài vận bình thường, cũng được xem như tháng cần nhờ vào “bóp miệng thắt ví tiền” để có thể “tồn tại” cho hết tháng. Mặc dù có rất nhiều thứ bạn muốn mua nhưng tạm thời tháng này chưa thực hiện được. Kiến nghị tuổi Dần cuối tháng có thể đầu tư nhỏ.

Tuổi Mão:

Sự nghiệp:Tháng này công việc gặp khá nhiều phiền phức, mặc dù không lớn nhưng cũng đủ khiến người ta bực mình. Bạn nên nhớ khi tức giận hãy thử hít một vài hơi thật sâu, điều này có tác dụng rất lớn trong việc trấn an tinh thần, nếu không sẽ khiến không khí chung quang càng thêm căng thẳng. Tháng này tuổi Mão mất mát khá nhiều trong công việc, nên cần chú ý công tác trù bị.

Tài vận: Tháng này tài vận cũng có phần đi lên, chủ yếu nguồn tài chính đến từ các mối quan hệ xã giao. Nhưng cũng nên chú ý những thông tin mới nhất của thị trường đầu tư. Và cũng không nên trao đổi thông tin công việc quá nhiều với người khác nhé.

Tuổi Thìn:

 su nghiep va tai van 12 con giap trong thang gieng - 2

Sự nghiệp: Sự cạnh tranh trong sự nghiệp khá khốc liệt, nếu chỉ đơn thuần dùng khẩu chiến mà muốn đạt được thắng lợi sau cùng thì đó là điều không thể, mọi việc hãy dùng thực lực để giải quyết. Những bạn đang ở vị trí quản lý thì hãy quản lỹ cho tốt cấp dưới của mình, không được để xảy ra bất kỳ sai sót nào. Giữa tháng trở ra khi giao nhiệm vụ thì cần cực kỳ chi tiết để tránh hiện tượng lơ là trách nhiệm.

Tài vận: Tháng này tâm thái với tài lộc của tuổi Thìn khá gấp gáp, việc gì cũng muốn thử sức. Vì vậy tuổi Thìn cũng gặp khá nhều vận tốt, nhưng cũng nên quản lý tốt hầu bao của mình nữa bởi “Tiền vào như nước sông Đà. Tiền ra cũng chẳng kèm Đà là bao”. Cuối tháng thích hợp để đầu tư kinh doanh nhỏ.

Tuổi Tỵ:

Sự nghiệp: Bước vào tháng này, công việc của tuổi Tỵ không có lãng phí nào là quá lớn, nhưng cũng cần chú ý công việc kinh doanh. Những kẻ tiểu nhân hay là quý nhân cũng đều xuất hiện cùng lúc, do vậy mối quan hệ bạn bè xã giao là vấn đề quan trọng mà tuổi Tỵ tháng này cần chú ý. Cuối tháng tuổi Tỵ cần chú ý thêm động thái mới nhất trong công việc kinh doanh của mình nữa.

Tài vận: Sự thay đổi lên xuống trong vận mệnh khá lớn, không nên vì mới có khoản tiền nhỏ mà dưng dưng tự đắc bởi cuối tháng có thể bạn sẽ trắng tay. Công việc đầu tư không nên chỉ chăm chăm định hướng đầu tư vào một nơi.

Tuổi Ngọ:

Sự nghiệp: Tổng thể công việc cả tháng có tiến triển khá tốt, có thể bạn sẽ rời vị trí hiện tại để đảm nhận nhiệm vụ, công việc khác mới mẻ hơn. Giữa tháng trở ra, sự sáng tạo trong công việc không ngừng tăng, mục tiêu dễ dàng được thực hiện bằng những con đường mà người khác không nghĩ đến. Quan trọng là không dành quá nhiều thời gian, tiền bạc cho những người không liên quan.

Tài vận: Bước vào tháng 2 này, tuổi Ngọ không mấy phải quá lo lắng về vấn đề tài chính của bản thân mình. Nhưng cũng không nên quá tham lam, nên cẩn trọng, dùng chính sức lực để làm việc thì bạn cũng nhận lại được sự đền đáp đúng nghĩa. Tháng này bạn cũng cần phải chi tiêu khá nhiều đầy.

Tuổi Mùi:

Sự nghiệp: Công việc của tuổi Mùi khá nhiều, cấp trên có thể có bài kiểm tra trình độ dành cho bạn. Có thể việc phải tăng ca là điều đã rất bình thường đối với bạn, nói chung là bỏ sức ra bao nhiêu sẽ nhận được đền đáp bấy nhiêu, với lượng công việc khổng lồ như vậy bạn sẽ học hỏi được rất nhiều điều bổ ích.

Tài vận: Tiền bạc tháng này rất dễ tuột khỏi túi, đặc biệt là cuối tháng, vậy nên cần lưu tâm và cẩn thận hơn với những khoản chi cuối tháng. Hoặc khi bạn tỏ ý muốn vay mượn thì bên kia mới nghe thôi cũng đã tỏ rõ thái độ không muốn cho bạn mượn rồi.

Tuổi Thân:

 su nghiep va tai van 12 con giap trong thang gieng - 1

Sự nghiệp: Công việc tháng này gặp khá nhiều thăng trầm, khó khăn, nhưng đây cũng là thời cơ để bạn chứng minh được năng lực của bản thân. Đầu tháng cho đến giữa tháng mặc dù có những việc bạn không muốn làm nhưng tình thế bắt buộc bạn phải đi giải quyết, nếu bạn không làm thì người khác sẽ ngồi thay vào vị trí của bạn luôn. Cuối tháng nên chuyên tâm vào nguồn thu nhập chính, những khoản thu nhập phụ còn đang mơ hồ thì không nên dành thời gian quá nhiều vào nó.

Tài vận: tài vận tháng này khá tốt, mặc dù công việc không giúp bạn tăng nguồn thu nhập nhiều, nhưng bạn có quý nhân phù trợ, có thể bạn được thừa hưởng gia tài kếch xù, hoặc người thân biếu tặng. Những khoản tiền này là nền tảng cho sự phát triển vững chắc với công việc của bạn.

Tuổi Dậu:

Sự nghiệp: Những việc đột xuất trong công việc của tháng này khá nhiều, nếu xử lý không tốt sau này rất phiền phức. Rất nhiều việc bạn không nên chỉ nghĩ mà không đi thực hiện, nếu chỉ ngồi một chỗ mơ mộng với những nghĩ suy, ước vọng quá cao thì chẳng có lợi gì với thực tế hiện tại cả. Khi có thời gian rảnh hãy học thêm chuyên môn nữa, điều này sẽ có lợi cho con đường phát triển sự nghiệp của bạn.

Tài vận: Tháng này bạn cần chi tiêu nhiều hơn trước. Muốn phát triển sự nghiệp cũng cần chi khá nhiều cho các mối quan hệ xã giao, gia đình cũng nhiều khoản phải chi hơn. Kiến nghị tuổi Dậu không nên quá sợ đầu tư, sau này có cơ may thu hồi lại vốn.

Tuổi Tuất:

 su nghiep va tai van 12 con giap trong thang gieng - 2

Sự nghiệp: Tháng này tổng thể sự nghiệp khá phát đạt, có đủ can đảm thử sức vào các kế hoạch khác nhau mặc dù gặp nhiều trắc trở nhưng bạn lại học thêm rất nhiều thứ. Cần chú ý vấn đề lợi ích giữa các đồng nghiệp với nhau, nếu lơ là đối chút là mất đi hòa khí. Tháng này có thể không phù hợp để đi công tác hay du lịch.

Tài vận: Tổng thể tài vận tăng cao, điều này có quan hệ không nhỏ đến sự tiến triển trong công việc của người tuổi Tuất. Đầu tư khá nhiều nhưng kiến nghị không nên quá mưu cầu có thành công ngay lập tức. Cuối tháng hơi đau đầu về vấn đề tài chính.

Tuổi Hợi

Sự nghiệp: Tổng thể công việc không phải quá tốt nhưng cũng không phải lo lắng quá nhiều. Với các vấn đề có liên quan đến con số thì dễ xuất hiện sai sót. Kiến nghị hãy dành cho mình khoảng thời gian để nghỉ ngơi, điều này tốt hơn nhiều so với việc căm đầu cặm cụi làm việc mà xảy ra nhiều sai sót. Tháng này cũng cần chú ý những kẻ phá hoại sau lưng.

Tài vận: Tài vận cũng tương đối ổn, cơ bản là những khoản thu không ngờ tới. Có thể do đầu tư từ trước bây giờ sinh lời hoặc người khác trả nợ… Giữa tháng thích hợp để cải thiện cuộc sống của mình.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự nghiệp và tài vận 12 con giáp trong tháng Giêng

Không nên đặt cành vàng, lá ngọc xin ở chùa lên bàn thờ

Nhiều người đi lễ hay mua những cành vàng lá ngọc, đồ hàng mã đẹp để dâng cúng, rồi lại xin lộc mang về trưng trên bàn thờ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, nhà nghiên cứu Phật học (Viện Nghiên cứu Ứng dụng và Tiềm năng con người), không nên tùy tiện mang các thứ được coi là “lộc” sau khi cúng bái về bày lên bàn thờ. Trước khi đặt lên bàn thờ bất cứ vật gì cũng nên suy xét.

Bày “đồ giả” liệu có tốt?

Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, đa phần người dân sau khi đi lễ mang lộc về cắm ở nhà mình, coi đấy là lộc. Nhưng tốt nhất mọi người không nên mang về vì ở những nơi đó có thể có vong, rồi đủ thứ bám vào… Nếu tới di tích mua những cành vàng lá ngọc đó dâng lên, công đức sẽ được bề trên chứng giám thì nên hóa đi, không nên mang về nhà.

Ông Nguyễn Quang (chuyên gia trang Tử vi lý số Việt) cũng cho rằng, bàn thờ là nơi tâm linh, thanh tịnh nên những cành vàng lá ngọc không nên đặt lên. Những thứ cành vàng lá ngọc có nhiều điều khó nói như: Bày bán chỗ có sạch không, cất giữ thế nào, có bị ô uế hay không… “Không nên đi bất cứ đến chùa chiền, đền phủ nào cũng xin lộc về đặt lên bàn thờ, cũng không nên tùy tiện đặt các thứ đó lên bàn thờ. Muốn trưng thì cần biết rõ gốc tích của nó”, ông Quang nói.

Theo Đại đức Thích Thanh Hải – Trụ trì chùa Nghi Khê (Hải Dương), bày cành vàng lá ngọc lên bàn thờ cúng là theo triết lý dân gian, còn theo nhà Phật thì không có điều này. Trước đây, những ngày đầu xuân người dân đi hái lộc thường là những chồi non, nhưng giờ họ thay bằng hình thức mua những cành vàng lá ngọc, hoa… cầu sự phú quý. Đó có thể coi là lấy may đầu xuân chứ không phải vật để thờ cúng. Mọi người có thể bày lên bàn thờ nhưng khi tới ngày Rằm tháng Giêng thì hóa luôn. Ngay cả hoa giả cũng chỉ là phần trang trí chứ không thuộc vào lễ nghi thờ cúng. Bàn thờ cúng là phải sạch sẽ, thanh tịnh, không nên đặt những cái đó vào sẽ làm bàn thờ trông không được thông thoáng. Việc cắm cành vàng, lá ngọc cài ngược cài xuôi nhằm mong phú quý nó thuộc về tâm tà, mê tín. Chính tín là đồ thờ trên bàn thờ phải là đồ thật, thanh tịnh.

Theo các nhà nghiên cứu, không nên mang các đồ đã cúng bái về bày bàn thờ. Ảnh: T.L
Có nhiều người cho rằng, bày  “đồ giả” lên bàn thờ sẽ mang tội bất kính. Tuy nhiên, theo Đại đức Thích Thanh Hải, việc bày biện các đồ giả trên thì không có gì là bất kính hay có lỗi cả. Có lỗi hay không là ở nơi tâm ý, thái độ và việc làm của chúng ta chứ không phải ở nơi đồ vật. Điều quan trọng là ở nơi tấm lòng thành kính của Phật tử. Nếu như Phật tử dâng cúng những phẩm vật sang trọng, đẹp đẽ, giá trị mà không có lòng chí thành thì đó mới là mất trang nghiêm, bất kính. Tuy vậy, trong việc thờ phụng thì giả tạo cũng không nên. Những đồ bày trên bàn thờ là biểu hiện của tấm lòng nên sẽ không tốt khi dùng lễ giả để mong biểu thị tấm lòng chân thật.

Không tùy tiện cắm chân hương vòng vào bát hương

Từ bao đời nay, ở các nơi thờ tự chùa chiền, đình đền, phủ đều có que sắt cắm trong bát hương để thắp hương vòng. Nhưng trong gia đình thì có nên đặt những que hương sắt vào bát hương để thắp hương vòng hay không?

Ông Nguyễn Mạnh Cường cho rằng, theo các nhà tâm linh, bát hương thể hiện cho cái đầu của gia chủ, khi bốc bát hương mà không lèn chặt, thì sau một thời gian tro hương sẽ chắc lại, dân gian cho là có thể làm gia chủ đau đầu. Bàn thờ nếu có đủ ngũ hành là tốt. Nhưng các đồ kim loại như đỉnh đồng, lư đồng, bát hương đồng, hạc đồng, đỉnh đồng, chân nến… những đồ cúng lễ bằng kim loại cũng không nên đặt nhiều. Bởi theo nhiều nhà tâm linh, nếu đặt đồ kim loại đồng nặng và lớn sẽ không tốt cho sức khỏe gia chủ. “Người dân nếu muốn thắp hương vòng trong những ngày lễ Tết thì hãy đốt ở ngoài bát hương, như đặt trong đĩa, vừa không động bát hương, vừa dễ làm sạch bàn thờ”, ông Cường tư vấn.

Đại đức Thích Thanh Hải cho biết, trên bàn thờ ngày Tết cần phải có hoa tươi. Người Việt Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa dơn, hoa mai, hoa đào trong cúng gia tiên ngày Tết... Song trên bàn thờ không nên kết hợp nhiều loại hoa sẽ giảm sự thanh thoát, mất thẩm mỹ. Trên bàn thờ lúc nào hoa trái cũng tươi tốt, nhang đèn sáng và bàn thờ sạch sẽ là điều lý tưởng.  “Ngoài ra, nhiều gia đình có thói quen bày tiền vàng lưu trên bàn thờ cả năm là không nên. Năm mới bước sang một công việc mới, những đồ trên bàn thờ cần đốt hóa để mọi thứ đều mới. Cần phải hóa số tiền vàng đó vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm giúp cho gia chủ có sự luân chuyển về tiền bạc dồi dào, năm sau nhiều hơn năm trước. Theo quan niệm dân gian, nếu để quên không hóa vào cuối năm, việc làm ăn của năm tới sẽ bị ngưng trệ, gặp nhiều khó khăn”, Đại đức Thích Thanh Hải cho hay.

Bàn thờ cần luôn thanh tịnh, đồ cúng lễ chỉ nên bày hương, hoa, trà, quả, bánh kẹo, xôi oản… chay tịnh. Muốn bày mâm cỗ mặn nên đặt riêng ở mâm dưới phía trước bàn thờ, rồi cắm nén hương vào đó để báo và mời các cụ thụ hưởng.

Theo Hà Dương – Hà My (Gia đình & Xã hội)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Không nên đặt cành vàng, lá ngọc xin ở chùa lên bàn thờ

Kiến thức chiêm tinh học đáng kinh ngạc của tộc người cổ xưa

Nền văn minh Anasazi là một trong những nền văn minh mất tích một cách bí ẩn với kiến thức chiêm tinh học đáng nể, nhưng những di tích còn lại của nó vẫn cho
Kiến thức chiêm tinh học đáng kinh ngạc của tộc người cổ xưa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nền văn minh Anasazi là một trong những nền văn minh mất tích một cách bí ẩn, nhưng những di tích còn lại của nó vẫn cho thấy sự phát triển vượt bậc trong lĩnh vực kiến trúc kết hợp chiêm tinh học.
 

► Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope được cập nhật mới nhất

Kien thuc chiem tinh hoc dang kinh ngac cua toc nguoi co xua hinh anh
 
Trong các công trình của nền văn minh Anasazi thì Pueblo Bonito đáng được chú ý nhất. Các nhà khoa học đã tìm thấy một hình khắc mà từ đó tìm ra được mối liên hệ giữa Pueblo Bonito và mặt trời trong kiến thức chiêm tinh học   Từ lúc mặt trời mọc cho đến buổi trưa bóng được tạo ra bởi bức tường giữa biến mất, bởi vì chính bức tường này được xây thẳng theo trục Bắc Nam. Cả bức tường dài theo trục Đông Tây của Pueblo Bonito cũng liên quan đến mặt trời. Quĩ đạo chuyển động của mặt trời di chuyển theo đúng bức tường vào đúng những ngày Xuân và Thu phân. Bức tường còn phân chia rõ ràng thời điểm ban ngày và đêm bởi vì vào các ngày phân thời gian mặt trời biến mất vào màn đêm đúng như thời gian mặt trời bắt đầu tỏa sáng vào ban ngày. 
 
Các nhà nghiên cứu còn tìm ra rằng có 3 kiến trúc của nền văn minh Anasazi nữa cũng liên quan đến mặt trời như vậy đó là Hungo Pavi, Tsin Kletsin và Pueblo Alto. Một điều ngạc nhiên hơn nữa khi kết nối 4 kiến trúc Pueblo Bonito với Chetro Ketl, Pueblo Alto với Tsin Kletsin bằng những bức tường thì sẽ tạo thành trục Bắc Nam và Đông Tây chính xác đến không ngờ.
 
Nhưng chu kì chuyển động của mặt trăng lại không như mặt trời, người Hopi – một tộc người nổi tiếng với tên gọi “người quản lý không gian” gọi mặt trăng là anh chàng ngốc chạy loanh quanh mà không có nhà. Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng chu kì chuyển động của mặt trăng phức tạp hơn. 
 
Theo kiến thức chiêm tinh học, trăng tròn xảy ra vào giữa mùa đông, mọc và lặn xa dần về hướng Bắc theo năm. Nhưng nếu quan sát trăng tròn mọc vào giữa mùa đông vào các đêm tương tự trong 9 và 1/4 năm thì sẽ nhận thấy trăng tròn mọc và lặn xa dần về phương Bắc và sau đó di chuyển về phía Nam để hoàn thành một chu kì 18 và 1/2 năm. Điểm trăng mọc đầu tiên và cuối cùng khi di chuyển về phía Bắc được gọi là điểm cực tiểu và cực đại.
 
Để phát hiện ra chu kì dài này của mặt trăng, có lẽ người Anasazi đã phải trải qua vài thế hệ quan sát và ghi chép cẩn thận. Khi trăng tròn tại điểm cực tiểu, vòng xoắn ốc to ở ngọn đồi Fajada sẽ được chia đều làm 2 gồm nửa sáng và tối (đường mép của bóng ở chính giữa tâm điểm của vòng xoắn ốc). 
 
Vào thời gian 9 và 1/4 năm sau tức là khi mặt trăng ở tại điểm cực đại, bóng đen sẽ ở ngoài vòng xoắn ốc (đường mép của bóng ở sát vòng xoắn, gần như tạo thành một đường tiếp tuyến với vòng xoắn ốc). Nếu bắt đầu tại điểm xuất phát, hàng năm bóng tạo ra bởi những tấm đá sẽ đi dần qua từng rãnh của vòng xoắn ốc và kết thúc đúng một chu kì 9 và 1/4 năm khi đi hết qua 9 rãnh. 
 
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có 7 công trình có liên quan đến điểm cực tiểu và cực đại của mặt trăng như Una Vida, Penasco Blanco, Pueblo del Arroyo, Kin Kletso, Chetro Ketl, Salmon Ruin và Pueblo Pintando.
 
Tại sao những người Anasazi lại chọn một hẻm núi nơi đây để xây dựng thế giới của riêng họ? Ai là những người đã khắc những hình khắc trên đỉnh của ngọn đá? Những hiểu biết của họ về bầu trời thật là đáng kinh ngạc, những tri thức đó đã dẫn dắt họ xây dựng những kiến trúc kì vĩ hơn 1000 năm trước. Những kiến trúc hùng vĩ này chứa đựng những bí ẩn trong vòng hơn 30 năm qua đối với giới thiên văn khảo cổ học. 
 
Nhưng câu hỏi lớn nhất là tại sao sau khi xây xong những kiến trúc này những người Anasazi lại rời đi với không một lí do để lại? Đồ đạc và quần áo họ đều để lại, dường như họ có ý định cho một ngày trở về nhưng điều đó đã không xảy ra. Tất cả tri thức cổ xưa đã được mang theo những người đã khuất, chỉ một số câu chuyện thần thoại còn được lưu lại ngày nay. 
 
Các nhà nghiên cứu kiến thức chiêm tinh học cho biết rằng không tìm thấy bất cứ văn tự nào được ghi chép qua những cổ vật được tìm thấy ở hẻm núi Chaco. Những điều mà người Anasazi làm được thật phi thường mà ngày nay thiên văn học ngày nay phải dùng những công cụ đo đạc phức tạp mới có thể làm được.
ST
 
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức chiêm tinh học đáng kinh ngạc của tộc người cổ xưa

Một cách so đôi tuổi vợ chồng

Một phương pháp so đôi tuổi vợ chồng trích từ cuốn Từ Điển Tử Vi của tác giả Đắc Lộc. Mời bạn đọc đọc tham khảo.
Một cách so đôi tuổi vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lấy vợ lấy chồng, ta có tục so đôi tuổi, xem có hợp thì mới lấy, tin rằng hễ không hợp thì về sau vợ chồng ở với nhau không được chu toàn. Cũng có khi là một cách nhã để từ chối không gả, đổ cho tại tuổi, chứ không phải chê bai. Nhưng phần nhiều là tin thật.

Ngũ hành tương sinh là hợp, là tốt:

  • Kim sinh Thủy
  • Thủy __ Mộc
  • Mộc __ Hỏa
  • Hỏa __ Thổ
  • Thổ __ Kim

Ngũ hành tương khắc là không hợp, là xấu:

  • Kim khắc Mộc
  • Mộc __ Thổ
  • Thổ __ Thủy
  • Thủy __ Hỏa
  • Hỏa __ Kim

Hành của chồng mà sinh hành của vợ thì gọi là sinh xuất, hành của vợ mà sinh hành của chồng thì gọi là sinh nhập. Khắc cũng thế, chồng khắc vợ là khắc xuất, vợ khắc chồng là khắc nhập.

Sinh nhập thì thật là tốt. Sinh xuất thì là tiết khí, hơi kém. Khắc xuất thì xấu, nhưng còn tiềm tiệm được. Khắc nhập thì thật là xấu, không nên lấy nhau.

Tị – Hòa: hai vợ chồng cùng một hành thì là tị – hòa cũng có thể dung được.

Có câu rằng:

  • Lưỡng mộc, mộc chiết
  • Lưỡng kim, kim khuyết
  • Lưỡng hỏa, hỏa diệt
  • Lưỡng thủy, thủy kiệt
  • Lưỡng thổ, thổ liệt

Mỗi hành chia làm mấy thứ, như hành Hỏa, thì có Tích – lịch – hỏa (lửa sấm sét) với Thiên – thượng – hỏa (lửa trên trời), hai thứ cùng dữ dội. Hai thứ hỏa ấy là hỏa – diệt, không thể đi được với nhau.

Lại có câu:

  • Lưỡng hỏa thành viêm
  • Lưỡng mộc thành lâm
  • Lưỡng thủy thành xuyên
  • Lưỡng thổ thành sơn
  • Lưỡng kim thành khí

Những thế cùng hành ấy là dung nhau được, như Phù đăng hỏa (lửa đèn) với Sơn – hạ – hỏa (lửa dưới núi) phải nhờ lẫn nhau mới sáng, thế là Lưỡng hỏa thành viêm.

Cũng có thế khắc, nhưng mà khắc nhẹ, vợ chồng ở với nhau chỉ lạt lẽo mà thôi, chứ không đến nỗi phải lìa.

Tuổi nào hành gì?

Bảng Lục Thập Hoa Giáp
Năm Can chi Niên mệnh Nghĩa niên mệnh Quẻ dịch nam Quẻ dịch nữ
1905 Ất Tỵ Phú Đăng Hỏa Lửa đèn to Khôn Thổ Khảm Thủy
1906 Bính Ngọ Thiên Hà Thủy Nước trên trời Tốn Mộc Khôn Thổ
1907 Đinh Mùi Thiên Hà Thủy Nước trên trời Chấn Mộc Chấn Mộc
1908 Mậu Thân Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Khôn Thổ Tốn Mộc
1909 Kỷ Dậu Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Khảm Thủy Cấn Thổ
1910 Canh Tuất Thoa Xuyến Kim Vàng trang sức Ly Hỏa Càn Kim
1911 Tân Hợi Thoa Xuyến Kim Vàng trang sức Cấn Thổ Đoài Kim
1912 Nhâm Tý Tang Đố Mộc Gỗ cây dâu Đoài Kim Cấn Thổ
1913 Quý Sửu Tang Đố Mộc Gỗ cây dâu Càn Kim Ly Hỏa
1914 Giáp Dần Đại Khe Thủy Nước khe lớn Khôn Thổ Khảm Thủy
1915 Ất Mão Đại Khe Thủy Nước khe lớn Tốn Mộc Khôn Thổ
1916 Bính Thìn Sa Trung Thổ Đất pha cát Chấn Mộc Chấn Mộc
1917 Đinh Tỵ Sa Trung Thổ Đất pha cát Khôn Thổ Tốn Mộc
1918 Mậu Ngọ Thiên Thượng Hỏa Lửa trên trời Khảm Thủy Cấn Thổ
1919 Kỷ Mùi Thiên Thượng Hỏa Lửa trên trời Ly Hỏa Càn Kim
1920 Canh Thân Thạch Lựu Mộc Gỗ cây lựu Cấn Thổ Đoài Kim
1921 Tân Dậu Thạch Lựu Mộc Gỗ cây lựu Đoài Kim Cấn Thổ
1922 Nhâm Tuất Đại Hải Thủy Nước biển lớn Càn Kim Ly Hỏa
1923 Quý Hợi Đại Hải Thủy Nước biển lớn Khôn Thổ Khảm Thủy
1924 Giáp Tý Hải Trung Kim Vàng trong biển Tốn Mộc Khôn Thổ
1925 Ất Sửu Hải Trung Kim Vàng trong biển Chấn Mộc Chấn Mộc
1926 Bính Dần Lư Trung Hỏa Lửa trong lò Khôn Thổ Tốn Mộc
1927 Đinh Mão Lư Trung Hỏa Lửa trong lò Khảm Thủy Cấn Thổ
1928 Mậu Thìn Đại Lâm Mộc Gỗ rừng già Ly Hỏa Càn Kim
1929 Kỷ Tỵ Đại Lâm Mộc Gỗ rừng già Cấn Thổ Đoài Kim
1930 Canh Ngọ Lộ Bàng Thổ Đất đường đi Đoài Kim Cấn Thổ
1931 Tân Mùi Lộ Bàng Thổ Đất đường đi Càn Kim Ly Hỏa
1932 Nhâm Thân Kiếm Phong Kim Vàng mũi kiếm Khôn Thổ Khảm Thủy
1933 Quý Dậu Kiếm Phong Kim Vàng mũi kiếm Tốn Mộc Khôn Thổ
1934 Giáp Tuất Sơn Đầu Hỏa Lửa trên núi Chấn Mộc Chấn Mộc
1935 Ất Hợi Sơn Đầu Hỏa Lửa trên núi Khôn Thổ Tốn Mộc
1936 Bính Tý Giảm Hạ Thủy Nước cuối khe Khảm Thủy Cấn Thổ
1937 Đinh Sửu Giảm Hạ Thủy Nước cuối khe Ly Hỏa Càn Kim
1938 Mậu Dần Thành Đầu Thổ Đất trên thành Cấn Thổ Đoài Kim
1939 Kỷ Mão Thành Đầu Thổ Đất trên thành Đoài Kim Cấn Thổ
1940 Canh Thìn Bạch Lạp Kim Vàng chân đèn Càn Kim Ly Hỏa
1941 Tân Tỵ Bạch Lạp Kim Vàng chân đèn Khôn Thổ Khảm Thủy
1942 Nhâm Ngọ Dương Liễu Mộc Gỗ cây dương Tốn Mộc Khôn Thổ
1943 Quý Mùi Dương Liễu Mộc Gỗ cây dương Chấn Mộc Chấn Mộc
1944 Giáp Thân Tuyền Trung Thủy Nước trong suối Khôn Thổ Tốn Mộc
1945 Ất Dậu Tuyền Trung Thủy Nước trong suối Khảm Thủy Cấn Thổ
1946 Bính Tuất Ốc Thượng Thổ Đất nóc nhà Ly Hỏa Càn Kim
1947 Đinh Hợi Ốc Thượng Thổ Đất nóc nhà Cấn Thổ Đoài Kim
1948 Mậu Tý Thích Lịch Hỏa Lửa sấm sét Đoài Kim Cấn Thổ
1949 Kỷ Sửu Thích Lịch Hỏa Lửa sấm sét Càn Kim Ly Hỏa
1950 Canh Dần Tùng Bách Mộc Gỗ tùng bách Khôn Thổ Khảm Thủy
1951 Tân Mão Tùng Bách Mộc Gỗ tùng bách Tốn Mộc Khôn Thổ
1952 Nhâm Thìn Trường Lưu Thủy Nước chảy mạnh Chấn Mộc Chấn Mộc
1953 Quý Tỵ Trường Lưu Thủy Nước chảy mạnh Khôn Thổ Tốn Mộc
1954 Giáp Ngọ Sa Trung Kim Vàng trong cát Khảm Thủy Cấn Thổ
1955 Ất Mùi Sa Trung Kim Vàng trong cát Ly Hỏa Càn Kim
1956 Bính Thân Sơn Hạ Hỏa Lửa trên núi Cấn Thổ Đoài Kim
1957 Đinh Dậu Sơn Hạ Hỏa Lửa trên núi Đoài Kim Cấn Thổ
1958 Mậu Tuất Bình Địa Mộc Gỗ đồng bằng Càn Kim Ly Hỏa
1959 Kỷ Hợi Bình Địa Mộc Gỗ đồng bằng Khôn Thổ Khảm Thủy
1960 Canh Tý Bích Thượng Thổ Đất tò vò Tốn Mộc Khôn Thổ
1961 Tân Sửu Bích Thượng Thổ Đất tò vò Chấn Mộc Chấn Mộc
1962 Nhâm Dần Kim Bạch Kim Vàng pha bạc Khôn Thổ Tốn Mộc
1963 Quý Mão Kim Bạch Kim Vàng pha bạc Khảm Thủy Cấn Thổ
1964 Giáp Thìn Phú Đăng Hỏa Lửa đèn to Ly Hỏa Càn Kim
1965 Ất Tỵ Phú Đăng Hỏa Lửa đèn to Cấn Thổ Đoài Kim
1966 Bính Ngọ Thiên Hà Thủy Nước trên trời Đoài Kim Cấn Thổ
1967 Đinh Mùi Thiên Hà Thủy Nước trên trời Càn Kim Ly Hỏa
1968 Mậu Thân Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Khôn Thổ Khảm Thủy
1969 Kỷ Dậu Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Tốn Mộc Khôn Thổ
1970 Canh Tuất Thoa Xuyến Kim Vàng trang sức Chấn Mộc Chấn Mộc
1971 Tân Hợi Thoa Xuyến Kim Vàng trang sức Khôn Thổ Tốn Mộc
1972 Nhâm Tý Tang Đố Mộc Gỗ cây dâu Khảm Thủy Cấn Thổ
1973 Quý Sửu Tang Đố Mộc Gỗ cây dâu Ly Hỏa Càn Kim
1974 Giáp Dần Đại Khe Thủy Nước khe lớn Cấn Thổ Đoài Kim
1975 Ất Mão Đại Khe Thủy Nước khe lớn Đoài Kim Cấn Thổ
1976 Bính Thìn Sa Trung Thổ Đất pha cát Càn Kim Ly Hỏa
1977 Đinh Tỵ Sa Trung Thổ Đất pha cát Khôn Thổ Khảm Thủy
1978 Mậu Ngọ Thiên Thượng Hỏa Lửa trên trời Tốn Mộc Khôn Thổ
1979 Kỷ Mùi Thiên Thượng Hỏa Lửa trên trời Chấn Mộc Chấn Mộc
1980 Canh Thân Thạch Lựu Mộc Gỗ cây lựu Khôn Thổ Tốn Mộc
1981 Tân Dậu Thạch Lựu Mộc Gỗ cây lựu Khảm Thủy Cấn Thổ
1982 Nhâm Tuất Đại Hải Thủy Nước biển lớn Ly Hỏa Càn Kim
1983 Quý Hợi Đại Hải Thủy Nước biển lớn Cấn Thổ Đoài Kim
1984 Giáp Tý Hải Trung Kim Vàng trong biển Đoài Kim Cấn Thổ
1985 Ất Sửu Hải Trung Kim Vàng trong biển Càn Kim Ly Hỏa
1986 Bính Dần Lư Trung Hỏa Lửa trong lò Khôn Thổ Khảm Thủy
1987 Đinh Mão Lư Trung Hỏa Lửa trong lò Tốn Mộc Khôn Thổ
1988 Mậu Thìn Đại Lâm Mộc Gỗ rừng già Chấn Mộc Chấn Mộc
1989 Kỷ Tỵ Đại Lâm Mộc Gỗ rừng già Khôn Thổ Tốn Mộc
1990 Canh Ngọ Lộ Bàng Thổ Đất đường đi Khảm Thủy Cấn Thổ
1991 Tân Mùi Lộ Bàng Thổ Đất đường đi Ly Hỏa Càn Kim
1992 Nhâm Thân Kiếm Phong Kim Vàng mũi kiếm Cấn Thổ Đoài Kim
1993 Quý Dậu Kiếm Phong Kim Vàng mũi kiếm Đoài Kim Cấn Thổ
1994 Giáp Tuất Sơn Đầu Hỏa Lửa trên núi Càn Kim Ly Hỏa
1995 Ất Hợi Sơn Đầu Hỏa Lửa trên núi Khôn Thổ Khảm Thủy
1996 Bính Tý Giảm Hạ Thủy Nước cuối khe Tốn Mộc Khôn Thổ
1997 Đinh Sửu Giảm Hạ Thủy Nước cuối khe Chấn Mộc Chấn Mộc
1998 Mậu Dần Thành Đầu Thổ Đất trên thành Khôn Thổ Tốn Mộc
1999 Kỷ Mão Thành Đầu Thổ Đất trên thành Khảm Thủy Cấn Thổ
2000 Canh Thìn Bạch Lạp Kim Vàng chân đèn Ly Hỏa Càn Kim
2001 Tân Tỵ Bạch Lạp Kim Vàng chân đèn Cấn Thổ Đoài Kim
2002 Nhâm Ngọ Dương Liễu Mộc Gỗ cây dương Đoài Kim Cấn Thổ
2003 Quý Mùi Dương Liễu Mộc Gỗ cây dương Càn Kim Ly Hỏa
2004 Giáp Thân Tuyền Trung Thủy Nước trong suối Khôn Thổ Khảm Thủy
2005 Ất Dậu Tuyền Trung Thủy Nước trong suối Tốn Mộc Khôn Thổ
2006 Bính Tuất Ốc Thượng Thổ Đất nóc nhà Chấn Mộc Chấn Mộc
2007 Đinh Hợi Ốc Thượng Thổ Đất nóc nhà Khôn Thổ Tốn Mộc
2008 Mậu Tý Thích Lịch Hỏa Lửa sấm sét Khảm Thủy Cấn Thổ
2009 Kỷ Sửu Thích Lịch Hỏa Lửa sấm sét Ly Hỏa Càn Kim
2010 Canh Dần Tùng Bách Mộc Gỗ tùng bách Cấn Thổ Đoài Kim
2011 Tân Mão Tùng Bách Mộc Gỗ tùng bách Đoài Kim Cấn Thổ
2012 Nhâm Thìn Trường Lưu Thủy Nước chảy mạnh Càn Kim Ly Hỏa
2013 Quý Tỵ Trường Lưu Thủy Nước chảy mạnh Khôn Thổ Khảm Thủy
2014 Giáp Ngọ Sa Trung Kim Vàng trong cát Tốn Mộc Khôn Thổ
2015 Ất Mùi Sa Trung Kim Vàng trong cát Chấn Mộc Chấn Mộc
2016 Bính Thân Sơn Hạ Hỏa Lửa trên núi Khôn Thổ Tốn Mộc
2017 Đinh Dậu Sơn Hạ Hỏa Lửa trên núi Khảm Thủy Cấn Thổ
2018 Mậu Tuất Bình Địa Mộc Gỗ đồng bằng Ly Hỏa Càn Kim

BẢNG LẬP THÀNH ÐỂ SO ÐÔI TUỔI VỢ CHỒNG THEO NGŨ HÀNH KHẮC HỢP

  1. Chồng Kim, vợ Kim là hai kim lấy nhau, sinh đẻ không lợi, hay cãi nhau, có khi phải lìa nhau.
  2. Chồng Kim vợ Mộc, tức là kim khắc mộc (khắc xuất) đói rét cay đắng, chồng nam vợ bắc.
  3. Chồng Kim vợ Hỏa, hay cãi nhau, sinh dục khó, cửa nhà bần bạc.
  4. Chồng Kim vợ Thủy, thiên duyên tác hợp, con cháu đầy đàn, cơ nghiệp thịnh vượng.
  5. Chồng Kim vợ Thổ, vợ chồng hòa hợp, con cháu đầy đàn, cửa nhà vui vẻ, lục súc bình yên.
  6. Chồng Mộc vợ Mộc, quan lộc tốt, con cháu nhiều, gia đình hòa thuận.
  7. Chồng Mộc vợ Thủy, mộc thủy tương sinh, tiền tài thịnh vượng, con cháu đầy đàn, vợ chồng bách niên giai lão.
  8. Chồng Mộc vợ Hỏa, mộc hỏa tự thiên hợp với nhau, con cháu nhiều, người khá, tiền tài vượng, quan lộc cũng vượng.
  9. Chồng Mộc vợ Thổ, thổ mộc sinh nhau, con nhiều, làm nên đại phú.
  10. Chồng Mộc vợ Kim, hai thứ khắc nhau, trước hợp sau lìa, con cháu bất lợi.
  11. Chồng Thủy vợ Thủy, hai thủy tuy không hay, nhưng khá, điền trạch yên, đầy tớ khá.
  12. Chồng Thủy vợ Kim, kim thủy sinh tài, sung sướng đến già, con cháu khá
  13. Chồng Thủy vợ Mộc, thủy mộc nhân duyên, bách niên giai lão, đầy tớ khá.
  14. Chồng Thủy vợ Hỏa, duyên tự nhiên thành, tuy xấu mà cũng hợp.
  15. Chồng Thủy vợ Thổ, tướng hình khác nhau, vui tẻ chẳng thường, làm việc gì cũng khó.
  16. Chồng Hỏa vợ Hỏa, hai hỏa giúp nhau, nhiều khi còn hưng vượng, con cháu đầy đàn.
  17. Chồng Hỏa vợ Kim, hỏa kim khắc nhau, hay cãi mắng và kiện cáo, gia đình không yên.
  18. Chồng Hỏa vợ Mộc, hỏa mộc hợp duyên, thất gia hòa hợp, phúc lộc kiêm toàn.
  19. Chồng Hỏa vợ Thủy, thủy hỏa tương khắc, vợ chồng phân ly, con cháu bất lợi, cảnh nhà gian nguy.
  20. Chồng Hỏa vợ Thổ, hỏa thổ có duyên, tài lộc sung túc, con thảo cháu hiền.
  21. Chồng Thổ vợ Thổ, lưỡng thổ tương sinh, trước khó sau dễ, lắm của nhiều con.
  22. Chồng Thổ vợ Kim, vợ chồng hòa hợp, con cháu thông minh, tài lộc sung túc.
  23. Chồng Thổ vợ Mộc, thổ mộc bất sinh, vợ chồng phân ly xuất ngọai.
  24. Chồng Thổ vợ Thủy, thủy thổ tương khắc, trước sau hợp ly, sinh kế không lợi.
  25. Chồng Thổ vợ Hỏa, thổ hỏa đắc địa, quan lộc rồi rào, con cháu đông đúc.
Trên đây là nội dung phương pháp "So đôi tuổi vợ chồng" lấy từ cuốn "Từ điển tử vi" của tác giả Đắc Lộc để bạn đọc tham khảo. Cá nhân tôi không đưa ra lời nhận xét nào. Nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Một cách so đôi tuổi vợ chồng

Gia phả là gia bảo có đúng không ?

Đúng và rất đúng với những người có ý thức tôn kính tổ tiên và quý trọng tình cảm họ hàng gia tộc. Gia phả là lịch sử của một dòng họ, một gia đình lớn. Thiết tưởng không cần phải nói nhiều về ý nghĩa mà mỗi cuốn gia phả của từng dòng họ đều đã nói rõ trong từng lời tựa.
Gia phả là gia bảo có đúng không ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đành rằng cái ăn, cái mặc để nuôi sống gia đình và bản thân là việc hàng đầu. Nhưng có thấy nỗi day dứt của những người có tâm huyết muốn truyền cho con cháu biết đời cha mình do ai sinh ra, từ đâu đến, tổ tiên công đức ra sao, ngặt vì gia phả đã mất; có thấy được nỗi niềm của những người trú ngụ ở phương xa không được cha ông truyền cho biết gốc gác của mình từ đâu, họ hàng là ai, khi đó mới thấy đầy đủ ý nghĩa của hai chữ "Gia phả-Gia bảo". Giọt nước rất quý đối với người sống trên sa mạc, còn đối với người sống ven sông, dễ gì mỗi lần "Uống nước" lại phải "Nhớ nguồn".

Thời trước họ nào cũng có gia phả, có họ từng nhà còn có gia phả. Nếu vì thuỷ, hỏa, đạo tặc để mất vàng bạc- của cải gì thì mất, chứ không để mất gia phả. Ngặt vì gia phả ngày xưa viết bằng chữ Hán, hơn nữa từng chi từng nhà chỉ nối phần trực hệ của chi mình, nhà mình, thảng hoặc mới có một cuốn gia phả ghi đời tiếp nối của chi anh, chi em, đến đời hai đời ba là cùng, do đó nếu một chi mất gia phả thì chi khác không thể bổ cứu. Hiện nay, do mất gia phả nên nhiều họ tuy cùng ở với nhau trong một địa phương vẫn không biết nhau, không nhận được quan hệ họ hàng.

Về một ý nghĩa khác, gia phả sở dĩ gọi là gia bảo vì đó là lịch sử của tổ tiên nhiều đời truyền lại, là điều tổ tiên muốn gửi gắm lại cho đời sau. Bất cứ họ nào, bất cứ con người nào trong họ, có tài năng lỗi lạc đến đâu, cá nhân cũng không thể viết được toàn bộ gia phả mà chỉ có kế thừa đời trước và truyền dẫn đời sau.

Gia phả các họ là các nguồn bổ sung tư liệu rất quý, rất dồi dào cho quốc sử, nếu các nhà sử học biết khai thác cũng có khả năng từ gia bảo trở thành quốc bảo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gia phả là gia bảo có đúng không ?

"Nam nữ thụ thụ bất thân" nghĩa là gì?

Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, đó thường gọi là "Nam nữ thụ thụ bất thân"
"Nam nữ thụ thụ bất thân" nghĩa là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nam nữ thụ thụ bất thân là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho.

Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai chữ “thụ thụ” trái ngược nghĩa: một chữ “thụ” là trao cho, một chữ “thụ” là nhận).

Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!

Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là chuyện thường. Nhưng người Việt Nam và người Á Đông nói chung, nam nữ vô ý chạm vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.

Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường “cấm cung” con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính.

Thời phong kiến xưa, chỉ những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải phân biệt đàn ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên phải.

Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường. Nhưng ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài. Ngày xưa phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: "Nam nữ thụ thụ bất thân" nghĩa là gì?

Bài trí nhà ở hợp phong thủy rước phú quý trong năm Ất Mùi

Trong năm mới 2015, những lưu ý trong bài trí đồ đạc có thể giúp gia đình đón tài lộc, phú quý và may mắn vào nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giữ gìn cửa chính sạch sẽ

phong thủy nhà ở
Gia chủ nên giữ cửa chính luôn sạch sẽ, gọn gàng

Phong thủy học truyền thống quan niệm, cửa chính có ảnh hưởng rất lớn đến phong thủy nhà ở. Cửa này cũng là yếu tố quan trọng quyết định đến sự lành dữ của căn nhà. Do đó, gia chủ nên tránh để cửa chính bị phá vỡ, bị nứt hoặc bị bẩn bởi điều đó tượng trưng cho sự bần cùng, nghèo nàn và thiếu thốn. Bên cạnh đó, điều này cũng cho thấy chủ nhà là người không thích chủ động, lười biếng. Nếu bạn không khắc phục tình trạng này ngay lập tức, chắc chắn Thần Tài sẽ không gõ cửa căn nhà của bạn.

Tủ lạnh và nhà bếp luôn được lấp đầy

phong thủy phòng bếp
Nhà bếp nên đầy đủ đồ ăn, dụng cụ làm bếp

Phong thủy cho rằng, phòng bếp là “cái kho của”. Do đó, gia chủ nên để đầy những vật dụng cho nấu nướng, các hộp gia vị, trái cây khô hoặc trái cây tươi ngon... Điều này sẽ tạo cảm hứng giúp bạn kiếm tiền và làm giàu.

Bên cạnh đó, bạn cũng nên lưu trữ một ít đồ ăn trong tủ lạnh và những nơi khác trong phòng bếp để giữ gìn của cải. Bạn vẫn cần dự trữ đồ ăn ngay cả khi là người ít nấu nướng tại nhà. Bởi vì, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu của bạn lúc cần thiết mà còn nâng cao sự thịnh vượng, dồi dào cho căn bếp

Bố trí cây xanh thu hút tài lộc

cây phong thủy
Chủ nhà nên trồng những loài cây mang lại tài lộc

Phong thủy học quan niệm, một số loại cây trồng trong ngôi nhà không chỉ có tác dụng thanh lọc không khí và trang trí mà còn có thể mang đến tài vận dồi dào cho gia chủ. Vì thế, việc trồng cây cảnh có ảnh hưởng trực tiếp tới vận khí của chủ nhà.

Ở góc Nam hoặc góc Đông phòng khách, bạn có thể bố trí các loại cây cát tường như cây đồng tiền, cây trúc - tượng trưng cho phú quý, cây quất, cây hoa lan... mỗi loài cây đều sản sinh cát khí, mang một nguồn năng lượng nuôi dưỡng tài lộc khác nhau, mang đến tài lộc và may mắn.

Bài trí tranh phong thủy để dẫn dắt tài lộc

tranh phong thủy
Treo tranh hợp phong thủy sẽ mang tài lộc vào nhà

Bức tranh treo tường tại phòng khách bên cạnh việc tăng tính thẩm mỹ còn một vai trò rất quan trọng khi bạn muốn có thêm thu nhập. Năm Ất Mùi, bạn hãy bài trí một số loại tranh phong thủy như tranh Cửu ngư quần hội, tranh hoa mẫu đơn... để thu hút thịnh vượng, tiền tài cho gia chủ. Tuy nhiên, trong năm nay, không nên treo các bức tranh phong thủy khác về bốn con vật Rồng - Chó - Trâu - Dê do phạm phải tứ hành xung như bức Cửu long tranh châu, Tam dương khai thái.

Bên cạnh đó, bạn có thể đặt các linh vật phong thủy trong nhà để chiêu tài, đơn cử như tượng thần tài, hồ cá, cóc tài lộc, bình tài lộc... Bạn hãy chọn vị trí đặt sao cho thích hợp tùy vào chất liệu của linh vật.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí nhà ở hợp phong thủy rước phú quý trong năm Ất Mùi

Những điều nên tránh trong phong thủy nhà vệ sinh - Phong thủy - Xem Tử Vi

Những điều nên tránh trong phong thủy nhà vệ sinh, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Những điều nên tránh trong phong thủy nhà vệ sinh, tu vi Những điều nên tránh trong phong thủy nhà vệ sinh, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những điều nên tránh trong phong thủy nhà vệ sinh

Nhà vệ sinh không nên đặt gần khu vực bếp nấu ăn. Bởi, bếp cần vệ sinh an toàn trong khi nhà vệ sinh luôn tiềm ẩn sự ô nhiễm.

Thời gian vừa qua nhiều bạn đọc hỏi về việc nên bố trí nhà vệ sinh thế nào cho hợp lý với một số không gian khác trong nhà như bếp, phòng ngủ… Chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty Cổ phần Nhà Xuân nêu một số điều nên tránh khi bố trí nhà vệ sinh để bạn đọc nắm bắt rõ.

Đó là, nhà vệ sinh không nên đặt gần khu vực bếp nấu ăn. Bởi, bếp cần vệ sinh an toàn trong khi nhà vệ sinh luôn tiềm ẩn sự ô nhiễm. Đặc biệt, không nên mở cửa nhà vệ sinh thẳng ra bếp nấu. Theo phong thuỷ, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến người phụ nữ trong gia đình và dễ phát sinh bệnh tật.

Tương tự, các phòng ngủ hiện nay đề cao tính tiện lợi, sinh hoạt dễ dàng nên đặt luôn phòng vệ sinh trong phòng ngủ (còn gọi là phòng vệ sinh khép kín). Tuy nhiên, phòng ngủ là chốn nghỉ ngơi rất cần không khí trong phong thuy lành nên khi thiết kế cần bố trí cửa nhà vệ sinh cần một số lưu ý. Không thẳng vào giường ngủ, điều này không những ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng. Ngoài ra, giường ngủ bên dưới nhà vệ sinh hoặc đầu giường dựa vào nhà vệ sinh cũng không tốt, người ở dễ gặp những chuyện thị phi, suy nghĩ không được minh mẫn, sáng suốt.

Bên cạnh đó, những không gian cần sự tập trung tư duy như bàn học hay bàn làm việc cũng cần tránh đối diện khu vệ sinh. Khu vực ban thờ đặt dưới khu vệ sinh, đối diện cửa hay dựa vào bức tường nhà vệ sinh cũng đều ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của không gian thờ cúng. Nhà vệ sinh không nên đặt giữa nhà…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều nên tránh trong phong thủy nhà vệ sinh - Phong thủy - Xem Tử Vi

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Nhìn thời điểm chuột rút nắm rõ điềm báo hung cát

Mỗi sự biến hóa của con người đều mang lại điềm báo nhất định. Trong các cách bói vui, dựa vào thời điểm bị chuột rút luôn được nhiều người sử dụng.
Nhìn thời điểm chuột rút nắm rõ điềm báo hung cát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi sự biến hóa của con người đều mang lại điềm báo nhất định. Trong các cách bói vui, dựa vào thời điểm bị chuột rút luôn được nhiều người sử dụng.


 
Nhin thoi diem chuot rut nam ro diem bao hung cat hinh anh
 
Chuột rút vốn là phản ứng tự nhiên của cơ thể, song lại đem đến nhiều ý nghĩa như điềm báo về tương lai. Các nhà tử vi đã dựa vào thời gian xảy ra hiện tượng đó để đưa ra dự đoán:

Giờ Tý (23 giờ - 1 giờ)
Có tiền bối đến giúp, đại cát
Giờ Sửu (1 giờ - 3 giờ) Cát tường tìm đến, đại cát
Dự đoán gia vận đi xuống với 5 điềm báo phong thủy
Vận thế của mỗi người và gia vận luôn có mối quan hệ với phong thủy trong nhà. 5 điềm báo phong thủy dưới đây chính là lời nhắc nhở cho việc gia vận đang đi

Giờ Dần (3 giờ - 5 giờ) Hóa hung thành cát   Giờ Mão (5 giờ - 7 giờ) Sắp có tiền tài, đại cát lợi
Giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) Đại hung sắp đến, gia chủ cẩn thận
Giờ Tỵ (9 giờ - 11 giờ) Sắp gặp khách quý hoặc bạn thân, đại cát
Giờ Ngọ (11 giờ - 13 giờ) Sắp có ưu phiền
Nhin thoi diem chuot rut nam ro diem bao hung cat hinh anh 2
 
Giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) Sắp có hỷ sự, đại cát
Giờ Thân (15 giờ - 17 giờ) Sắp có thị phi, hóa giải được hóa cát   Giờ Dậu (17 giờ - 19 giờ) Vì tiền tài phải gặp nạn, đại hung
Giờ Tuất (19 giờ - 21 giờ) Có người từ phương xa tới, đại cát   Giờ Hợi (21 giờ - 23 giờ) Hỷ sự sắp đến, đại cát
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát
6 loại hoa quả không thể không sử dụng trong tiết Tiểu Mãn Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn thời điểm chuột rút nắm rõ điềm báo hung cát

Những dấu hiệu tâm linh dự báo điềm xấu

Từ những nhận thức về nguy hiểm, con người chúng ta càng có kinh nghiệm trong việc phòng tránh hiểm nguy, vì thế mới có nhiều điều kiêng kỵ trong cuộc sống.
Những dấu hiệu tâm linh dự báo điềm xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ những nhận thức về nguy hiểm, con người chúng ta càng có kinh nghiệm trong việc phòng tránh hiểm nguy, vì thế mới có nhiều điều kiêng kỵ trong cuộc sống như: đi hơn về kém, chớ đi ngày Bảy, chớ về ngày Ba... Có y học chẩn đoán thì sẽ có phong thuỷ chẩn đoán từ đó có các phán đoán theo logic.


Chó tự nhiên hướng về một phía và tru

Chó  tru ngụ ý có việc chẳng lành, có người tử vong vì cô độc, bị ngược đãi, bệnh dịch hoặc không thích ứng được với nhân tố môi trường.

Chó hướng về một phía và sủa điên cuồng

Nếu bạn nhìn về hướng này và không phát hiện ra bất kỳ mục tiêu nào thì có nghĩa là hướng ấy đang tồn tại một linh hồn mà mắt người không nhìn thấy được. Người xưa thường cho rằng chó có khả năng nhìn thấy ma, tuy nhiên, trong trường hợp này ngụ ý rằng trong nhà bạn đang có người bị bệnh. Nên cẩn thận nếu trong nhà có người già và bị bệnh lâu này, có thể người đó sắp qua đời.

Nhung dau hieu tam linh du bao diem xau hinh anh
Ảnh minh họa

Nghe thấy tiếng chim lợn kêu

Sợ nhất ban đêm nghe thấy tiếng chim lợn, vì nó ngụ ý trong nhà có người sắp chết. Điều này không có nghĩa chim lợn là loài vật quái dị, mà bởi vì nó có trực giác rất nhạy cảm. Thân thể con người là một tổ hợp điện chất, khi con người ngừng thở loại điện chất này sẽ phân giải thành một loại mùi vị như mùi thịt thối. Và chim lợn là loại vật ăn thịt (chúng ăn thịt chuột, chim nhỏ, bò sát nhỏ…) chúng sẽ ngửi thấy và bay tới.

Bài vị tổ tiên bị lật ngược

Ngày nay trong nhà thờ tổ dòng họ, nhiều gia đình vẫn giữ thói quen thờ phụng bài vị hoặc linh vị của tổ tiên. Nếu thấy bài vị tổ tiên bị lật ngược thì ngụ ý gia đình sẽ mất đi sự phù hộ từ tiên tổ, trong nhà sắp xảy ra đại nạn lớn. 

Ngọc vô cớ bị vỡ

Những đồ vốn gắn bó bấy lâu tự nhiên mà mất, hoặc đứt, vỡ đều ngụ ý về hoạ hạn. Tuy vậy nứt và vỡ mang nhiều ngụ ý khác nhau, trong trường hợp bị vỡ thì bạn và người nhà của bạn bị đe doạ về tính mạng an toàn.

Đột nhiên hoa mắt, chóng mặt hoặc tim đập nhanh

Ngoại trừ những nguyên nhân do cao huyết áp, tiểu đường mà bỗng dưng gặp triệu chứng trên là ngụ ý người thân gặp đại nạn. Nếu trước khi ra khỏi nhà bạn gặp vấn đề này thì bạn nên cẩn thận có thể thay đổi thời gian xuất hành, hoặc thay đổi kế hoạch.

Đầu que hương bị gãy khi thắp

Hương gãy thì không thể dâng lên bàn thờ được, ngụ ý vợ con ly tán, ngưng đường con cái.

Nhung dau hieu tam linh du bao diem xau hinh anh 2
Ảnh minh họa

Trước khi xuất phát lốp xe bị nổ

Thực ra người xưa kỵ nhất việc trước khi ra khỏi nhà làm việc gì đó mà công cụ lao động bị huỷ hoại. Nên nếu bạn xuất phát mà lốp xe đột nhiên bị nổ thì nên thay đổi thời gian xuất phát.

Khi khai trương, kết hôn mà hàng xóm có người chết, hoặc đưa ma

Đây coi là hỷ sự đụng phải tang sự đại xấu. Nên khi xuất phát nên tránh nơi có tang sự nếu vô tình gặp phải thì nên im lặng thành kính mà đi qua, không được cười nói ngả ngốn thì sẽ bình an vô sự.

► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Hà Xuyên (Theo 12ky)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những dấu hiệu tâm linh dự báo điềm xấu

Nâng cao vận trạch gia đình với vị trí lợi thủy

Nguồn thủy trong nhà có tác động nhiều tới vận trạch nên vị trí bồn chứa nước hợp phong thủy là điều mà gia đình nào cũng cần lưu ý.
Nâng cao vận trạch gia đình với vị trí lợi thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguồn thủy trong nhà có tác động nhiều tới vận trạch nên vị trí bồn chứa nước hợp phong thủy là điều mà gia đình nào cũng cần lưu ý.


Nang cao van trach gia dinh voi vi tri loi thuy hinh anh
 
Bồn chứa nước trong gia đình là nơi tích tụ thủy, đại diện cho tài lộc và phúc khí của gia chủ và người trong nhà. Ngoài ra, nó cũng có tác dụng lớn trong việc cân bằng khí trong nhà, nâng cao vận khí, thu hút tiền tài. 
 
Vị trí bồn chứa nước hợp phong thủy là phải hòa hợp với hướng nhà. Hướng nhà ở phương nào thì đặt bồn chứa nước ở phương tương ứng, thì thủy trong nhà sẽ tốt, nâng cao trạch vận rất nhiều.
 
Hướng nhà Vị trí đặt bồn nước
Nhâm Tuất
Tý  Mùi, Khôn
Quý Thân
Sửu Tỵ, Bính
Cấn Bính
Dần Hợi
Giáp Tuất, Càn
Mão Càn
Ất Mùi, Khôn, Thân
Tốn Tốn
Bính Nhâm, Tý
Ngọ, Đinh Càn, Hợi
Mùi Giáp, Mão
Khôn, Thân Cấn, Dần
Canh Tuất
Dậu Cấn, Sửu
Tân Cấn
Càn Tuất, Càn
   Nhà ở 4 hướng Thìn – Tuất - Tỵ - Hợi thì không cần chọn hướng đặt bồn nước hợp phong thủy.
 
Tuy nhiên, vị trí lợi thủy chỉ kéo dài từ 6 tháng tới 1 năm chứ không cố định. Sau thời gian đó nên dịch chuyển bồn chứa nước một chút theo chiều kim đồng hồ, hoặc thay mới.
 
Nếu nhà không có bồn chứa nước thì có thể dùng bể cá, bể bơi thay thế cũng có tác dụng tương tự.  
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Theo Thiên Việt

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nâng cao vận trạch gia đình với vị trí lợi thủy
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd