Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Lý giải thế giới tâm linh là một trong những “ước mơ chưa thành hiện thực” của con người. Dù khoa học đang tiến bộ không ngừng, nhưng vẫn có những khoảng tối
Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lý giải thế giới tâm linh là một trong những “ước mơ chưa thành hiện thực” của con người. Dù khoa học đang tiến bộ không ngừng, nhưng vẫn có những khoảng tối chưa thể chạm tới.


Cham toi the gioi tam linh bang khoa hoc hinh anh
 
Nước Nga từ lâu đã thành lập viện nghiên cứu "não bộ". Họ hy vọng việc nghiên cứu bộ óc sẽ khám phá ra những điều mới lạ, đồng thời mở được cả cánh cửa "Huyền môn" để lý giải thế giới tâm linh mà từ lâu loài người thường cho là vô cùng huyền bí.
 
Bề ngoài thế giới chỉ biết được mục đích của việc nghiên cứu này ở Moscow là tìm hiểu sự liên hệ giữa bộ óc và thiên tài, năng khiếu của một con người như thế nào. Nhưng bên trong là những nghiên cứu có liên quan đến các sự kiện vượt ra ngoài ảnh hưởng của trường vật lý mà con người đang sống đó là lý giải thế giới tâm linh.
 
Ví như bộ não của Edgar Cayce, một người bình thường như bao người khác nhưng vào năm 35 tuổi ông tự nhiên thấy rõ được quá khứ xa xăm của những người bị bệnh ngồi hay nằm trước mặt ông và khi đó ông đi vào giấc ngủ thôi miên.
 
Năm 1945, ông Cayce biết trước mình sắp qua đời nên ngỏ ý tặng Viện Nghiên cứu óc não bộ óc của mình để các nhà khoa học tại đây nghiên cứu. Các khám phá từ lâu cho biết bán cầu não phía bên trái là cơ sở quan trọng của tư tưởng trừu tượng, nơi đây có thể là phần quan trọng cho các hoạt động thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí.
 
Mới đây, các nhà khoa học còn tìm thấy một bộ phận cơ thể kỳ diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh. Đó là tuyến tùng quả (Pineal gland) nằm trong hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995 đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian dài. Theo các nghiên cứu về óc não thì sau khi con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm, năng lượng bộ não của họ cũng chỉ mới sử dụng một hay hai phần mười mà thôi.
 
Năng lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng "mã phát" mà các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng gọi là mã phát chính là sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết.
 
Phải chăng đây là lời giải cho những hiện tượng tâm linh huyền bí hay những khả năng vi diệu của con người. Đến nay, năng lượng não bộ con người vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu và trong tương lai, nhiều khám phá mới sẽ được công bố.
► ## giải mã giấc mơ theo khoa học tâm linh chuẩn xác

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Văn Khấn Tết Đoan Ngọ (mồng 5/5 Âm lịch)

Văn Khấn Tết Đoan Ngọ (mồng 5/5 Âm lịch) được dùng vào Tết Đoan Ngọ là lễ tết lớn của người Việt Nam được tiến hành vào chính giờ Ngọ giữa trưa.
Văn Khấn Tết Đoan Ngọ (mồng 5/5 Âm lịch)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Tết Đoan Ngọ (mồng 5/5 Âm lịch) được dùng vào Tết Đoan Ngọ là lễ tết lớn của người Việt Nam được tiến hành vào chính giờ Ngọ giữa trưa ngày mồng 5 tháng năm Âm lịch hàng năm.

Người xưa quan niệm rằng: Trong cơ thể con người, nhất là bộ phận tiêu hoá thường có sâu bọ ẩn sống, nếu không diệt trừ thì sâu bọ ngày càng sinh sôi nảy nở gây nguy hại cho con người. Lũ sâu bọ này chỉ lộ diện vào ngày 5/5 Âm lịch nên phải làm lễ trừ sâu bọ vào ngày này.

Theo quan niệm cổ truyền, có thể giết sâu bọ bằng cách ăn thức ăn, hoa quả, rượu nếp vào ngày 5/5. Cách trừ sâu bọ trong người như sau: mọi người sáng ngủ dậy không được đặt chân xuống đất phải súc miệng 3 lần cho sạch sâu bọ, tiếp đó ăn một quả trứng vịt luộc. Rồi bước chân ra khỏi giường ăn một bát rượu nếp cho sâu bọ say, tiếp đó ăn trái cây cho sâu bọ chết.

Sắm lễ cúng tết Tết Đoan Ngọ (mồng 5/5 Âm lịch)

Ngày Tết Đoan Ngọ còn gọi là ngày Giết Sâu Bọ. Mâm lễ cúng gia tiên ngày Tết Đoan Ngọ gồm:
– Hương, hoa, vàng mã;
– Nước;
– Rượu nếp;
– Các loại hoa quả:
+ Mận
+ Hồng xiêm
+ Dưa hấu
+ Vải
+ Chuối…

Văn khấn tết Tết Đoan Ngọ (mồng 5/5 Âm lịch)

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổchư vị Tôn thần.

– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy Tổ tiên, Hiển khảo, Hiển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố, mẹ còn sống thì thay bằng Tổ khảo, Tổ Tỷ)

Tín chủ chúng con là:…………

Ngụ tại:………………………….

Hôm nay là ngày Đoan Ngọ, chúng con sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, hoa đăng, trà quả dâng lên trước án.

Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng, Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần, cúi xin các Ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ…………………, cúi xin các vị thương xót con cháu chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.

Tín chủ con lại kính mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ tại nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng bình an thịnh vượng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Tết Đoan Ngọ (mồng 5/5 Âm lịch)

Vật phẩm phong thủy hình rồng –

Rồng là linh vật trong phong thủy, ngoài việc đem lại những ý nghĩa tốt đẹp và tránh họa tiểu nhân, sử dụng hình tượng rồng còn đem lại may mắn cho phụ nữ độc thân. Một trong những vấn đề được phong thủy đặc biệt quan tâm là việc tạo ra sự cân bằng v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rồng là linh vật trong phong thủy, ngoài việc đem lại những ý nghĩa tốt đẹp và tránh họa tiểu nhân, sử dụng hình tượng rồng còn đem lại may mắn cho phụ nữ độc thân.

rong-cho-phong-thuy-nha-1

Một trong những vấn đề được phong thủy đặc biệt quan tâm là việc tạo ra sự cân bằng về năng lượng.

Cách tốt nhất để có được điều đó là vận dụng những vật phẩm phong thủy vào không gian sống. Với phụ nữ, nên sử dụng biểu tượng rồng để thu hút năng lượng dương.

Rồng là biểu tượng cung cấp năng lượng dương rất mạnh, chủ về vận may trong tình yêu cho những phụ nữ độc thân sống 1 mình hoặc sống với mẹ.

Trong trường hợp này, năng lượng toàn âm tạo ra sự mất cân bằng. Nếu việc trang trí của ngôi nhà phản ánh quá nhiều năng lượng âm, sẽ khiến người phụ nữ trong gia đình gặp khó khăn trong việc tìm kiếm người yêu và bạn đời của mình.

Bạn có thể khắc phục bằng cách khai thác năng lượng dương rất mạnh của rồng. Nơi tốt nhất để tạo năng lượng dương của rồng là phòng khách.

Bạn đứng ở giửa phòng khách nhìn ra phía trước và chọn bờ tường bên trái của phòng khách, tức là phương vị Thanh long, để bố trí một kệ nhỏ và đặt rồng trên kệ này, đầu rồng nhìn ra cửa chính của ngôi nhà.

Để đạt hiệu quả tốt nhất, bạn nên chọn ngày tốt để đặt rồng trong nhà.

Những ngày tốt đó gồm có 5 ngày (còn gọi là ngũ long nhật: 5 ngày rồng) như sau: Giáp Thìn, Bính Thìn, Mậu Thìn, Canh Thìn, Nhâm Thìn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy hình rồng –

Lưu ý để đặt máy tính hợp phong thủy

Máy tính có mặt trong hầu khắp các ngôi nhà. Đặt máy tính hợp phong thủy sẽ góp phần làm cho ngôi nhà tăng may giảm rủi, tránh những điều xấu không đáng có.
Lưu ý để đặt máy tính hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Máy tính có mặt trong hầu khắp các ngôi nhà. Đặt máy tính hợp phong thủy sẽ góp phần làm cho ngôi nhà tăng may giảm rủi, tránh những điều xấu không đáng có.


► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn

 
Theo quan niệm phong thủy, bên phải là Bạch Hổ, bên trái là Thanh Long, Long sợ xú uế, Hổ sợ động. Máy tính đặt ở bên phải – hướng Bạch Hổ sẽ bất lợi, nên đặt máy tính ở phía bên trái bàn làm việc.
 
Tương tự như gương hay màn hình tivi, tránh để màn hình máy tính đối diện với giường ngủ vì sẽ ảnh hưởng đến tinh thần con người và chất lượng giấc ngủ. Màn hình máy tính như đối tượng thứ ba chen vào cuộc sống gia đình bạn, đặt ở thế ấy là lỗi phong thủy nặng, khiến vợ chồng lục đục. Nếu không di chuyển được vị trí đặt máy tính hợp phong thủy hơn thì sau khi dùng phải lấy vải phủ lên.
 
Vị trí đặt máy tính hợp phong thủy là không đối diện cửa sổ, cửa ban công, cửa chính để tránh ánh sáng chiếu trực diện. Ở thế ấy thì gia chủ bị soi mói, gặp thị phi, điều tiếng. Cũng tối kị đặt máy tính ở góc tối, thiếu sáng, vừa không tốt cho mắt khi làm việc lại dễ khiến chủ nhân rơi vào trạng thái bất an, trầm uất.
 
Máy tính thuộc Hỏa, khi đặt gần nơi có nước như bể cá, tiểu cảnh, bình hoa,…sẽ gây nên tình trạng Thủy – Hỏa tương khắc, bất lợi cho chủ nhân, gây xung đột và tai họa bất ngờ trong nhà.
 
Vị trí xung quanh máy tính cũng như bàn làm việc cần luôn giữ gọn gàng, sạch sẽ. Tình trạng bừa bộn sẽ ảnh hưởng đến khả năng tập trung cho công việc.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý để đặt máy tính hợp phong thủy

Vật phẩm phong thủy cho người mệnh kim –

Điều kiện tốt nhất có thể có được là được tương sinh. Thổ sinh Kim. Đất bao bọc và sinh ra, và nuôi dưỡng tất cả các kim loại. Do vậy, người mệnh Kim nên sử dụng các loại đá quý tự nhiên có màu của đất mẹ, là màu nâu đất, màu vàng hoàng thổ. Màu tươn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

g ứng đá đó có thể là: đá thạch anh vàng (citrine), đá mã não màu đỏ, đá mã não sậm, đá mắt hổ,…

 vật phẩm phong thủy cho người mệnh kim

Cũng như các mệnh khác, người mệnh Kim sẽ tốt nếu dùng đá quý có màu tương hợp. Hợp với mệnh Kim chính là Kim. Màu của kim là màu trắng, màu ghi. Đá tương ứng sử dụng là đá thạch anh trắng, thạch anh pha lê, mã não ghi, mã não trắng, sapphire trắng,…

Nếu thích có thể dùng đá màu xanh lá cây, xanh da trời: Kim có thể chế khắc Mộc. Người mệnh Kim có thể chế khắc được viên đá mình đeo có màu của cây cối, là xanh lá cây, xanh da trời. Tương ứng đó là các loại đá Peridot, đá Topaz, đá Tourmaline xanh, đá sapphire,…

Không nên dùng đá có màu thuộc hành Hỏa như đá đỏ, hồng, tím. Vì Hỏa khắc Kim nên khi đeo đá có màu tượng trưng cho lửa sẽ gây bất lợi cho chủ nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy cho người mệnh kim –

Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Người xưa cho rằng, nếu một người có đủ cả 5 yếu tố của ngũ hành (về mặt tính cách) đồng thời phát triển đồng đều thì người đó sẽ rất hoàn thiện. Trên thực tế
Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

thì điều này là không thể có.

Tuy nhiên bạn vẫn có thể cải thiện, bù đắp cho bát tự của mình theo các bước sau:

Bước 1: Đầu tiên tra thiên can và địa chi của tuổi mình trong cuốn lịch vạn niên. Ví dụ bạn sinh năm 1987 thì tuổi của bạn là Đinh Mão (can Đinh và chi Mão). Chú ý là phải căn cứ theo lịch âm.

Bước 2: Theo quy luật âm dương ngũ hành của can chi để tìm ra thuộc tính âm hay dương của thiên can và địa chi.

Can Giáp và Ất theo ngũ hành thuộc hành Mộc nhưng phân chia tiếp theo âm dương thì Giáp là dương Mộc còn Ất là âm Mộc; Bính thuộc âm Hỏa, Đinh thuộc dương Hỏa; Mậu thuộc dương Thổ, Kỷ thuộc âm Thổ; Canh thuộc dương Kim, Tân thuộc âm Kim; Nhâm thuộc dương Thủy, Quý thuộc âm Thủy.

Bước 3: Nắm vững quan hệ sinh khắc của ngũ hành. Trước tiên, cần nắm vững các quy luật sinh, khắc, chế, hóa của các hành với nhau xem sự thúc đẩy phát triển và kìm hãm lẫn nhau như thế nào để phán đoán và bổ khuyết cho mình.

Bước 4: Tìm hành có quan hệ tương sinh, tương khắc với mình. Nếu thiên can của bạn thuộc Mộc, theo ngũ hành thì Thủy sinh Mộc và Kim khắc Mộc. Bạn nên học tập những ưu thế của người thuộc hành Thủy đó là những đức tính linh hoạt, khiêm tốn; nên học hỏi người hành Kim phẩm chất quả cảm, quyết đoán và kiên định. Bởi vì những đức tính đó là chỗ mạnh của người khác, nhưng là cái mà bạn thiếu.

(Theo Tử Bình nhập môn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bù đắp ngũ hành trong bát tự

Tướng chân đàn ông –

Đối với tướng học, tứ chi có một vai trò rất quan trọng trong việc quan sát mạng vận và cá tính con người.Người ta nghiệm thấy những người trì độn hoặc suốt đời khốn khổ dù bộ vị trên mặt không lấy gì quá tệ đều có tứ chi bất quân xứng hay không ngay
Tướng chân đàn ông –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng chân đàn ông –

Top con giáp "đại phát" trước 30 tuổi

Cùng dự đoán xem con giáp nào được chào đón thành công sớm trên con đường sự nghiệp trước năm 30 tuổi nhé!
Top con giáp "đại phát" trước 30 tuổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tuổi Dậu

Top con giap dai phat truoc 30 tuoi hinh anh
 
Người tuổi Dậu nhiệt tình và có tham vọng lớn về công danh sự nghiệp. Họ nỗ lực hết mình để chinh phục được khát khao lớn lao trong cuộc đời. Ngay từ trước 20 tuổi, những dấu hiệu thành công đã manh nha xuất hiện ở con giáp này.    Có thể nói, tài vận của người tuổi Dậu sớm khởi sắc, thông thường khi đến trung vận con giáp này đã sở hữu khối tài sản “kếch xù” rồi. Hơn nữa, khi đã gặt hái được những thành công nhất định, họ lại biết cách quản lý và phát triển tài sản của mình. Sự nghiệp của người tuổi Dậu sẽ càng phát về hậu vận. Tuy nhiên, họ nên cẩn trọng vì dễ đặt niềm tin vào người khác. Nếu gặp người không tử tế thì dễ bị lừa gạt, mất trắng tay.   Tuổi Mão

Top con giap dai phat truoc 30 tuoi hinh anh 2
 
Con giáp chăm chỉ, can đảm và đầy quyết tâm, nghị lực sống như người tuổi Mão chắc chắn sẽ gặt hái được những thành công nhất định về đường công danh. Tuy nhiên, so với người tuổi Dậu, thời điểm mà con giáp này có thể phát tài lại muộn hơn đôi chút.    Bước vào tuổi 27 hoặc 28, những dấu hiệu về cuộc sống giàu sang mới bắt đầu xuất hiện ở người tuổi Mão. Khi kiếm được tiền, họ cũng rất “biết cách hưởng thụ”, nên người ngoài dễ nhận thấy sự nghiệp của con giáp này đang trên đà phát triển hưng thịnh. Mặt khác, kiềm chế bản thân là thứ người tuổi Mão còn thiếu để đại phát. Do vậy, bạn cần phải kiên nhẫn cố gắng và đợi chờ.    Tuổi Hợi

Top con giap dai phat truoc 30 tuoi hinh anh 3
 
Là con giáp sở hữu nội lực mạnh mẽ, cá tính độc lập và quyết đoán, người tuổi Hợi dễ dàng thành công hơn nếu như họ biết kiểm soát bản tính nóng vội của mình. Theo đó, năm 30 tuổi, tài vận của họ mới bắt đầu khởi sắc.   Không chỉ vậy, tính cách ôn hòa, điềm đạm, khéo léo trong các mối quan hệ càng giúp cho con giáp này nhanh “phát” hơn. Khi đời sống vật chất đã quá đầy đủ, tinh thần của người tuổi Hợi lại chẳng được thanh thản, nhẹ nhàng. Bởi lẽ họ phải suy tính các bước đi trong kinh doanh, quan hệ trên dưới. 

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top con giáp "đại phát" trước 30 tuổi

Những câu nói về phương châm sống có ích cho bạn cho tôi

Những câu nói về phương châm sống có ích cho bạn cho tôi. Phương châm sống của bạn là gì? Hãy tham khảo bài viết sau đây nhé
Những câu nói về phương châm sống có ích cho bạn cho tôi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói về phương châm sống có ích cho bạn cho tôi. Phương châm sống của bạn là gì? Đã bao giờ có ai hỏi bạn câu hỏi đó chưa? Dường như đó là một câu hỏi dễ nhưng nếu suy ngẫm kĩ thì bạn mới trả lời được.

Là một con người, sống cần phải có mục đích sống, phương châm sống riêng của mình. Những mục đích và phương châm đó phải mang tính tích cực vươn lên. Có xác định được phương châm sống thì con người ta mới sống tốt và có động lực sống.

Những câu nói về phương châm sống có ích cho bạn cho tôi và cho tất cả mọi người được chúng tôi tổng hợp lại mời bạn cùng tham khảo và tìm ra phương châm sống cho mình nhé.

Những câu nói về phương châm sống có ích cho bạn cho tôi

Hãy luôn mỉm cười ngay cả khi bạn buồn, bởi vì sẽ có ai đó có thể yêu bạn vì chính nụ cười đó.

——

Đừng nên khóc vì những điều đã kết thúc mà nên cười vì những điều đã xảy ra

——

Hãy mỉm cười trong cuộc sống. Nụ cười của bạn mang lại hạnh phúc cho người xung quanh và do đó cũng mang lại hạnh phúc cho chính bạn.

Hãy chạy theo người nào đó có thể làm bạn luôn mỉm cười bởi vì chỉ có nụ cười xua tan màn đêm u tối trong bạn.

Khi bạn được sinh ra , bạn khóc còn mọi người xung quanh cười. Hãy sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người khóc còn bạn, bạn cười

Ðừng bao giờ cau mày hay nhăn mặt thậm chí khi bạn đang buồn. Chắc chắn sẽ có ai đó yêu bạn chỉ vì nụ cười của bạn thôi. Với thế giới, bạn chỉ là một cá nhân, nhưng với một ai đó, bạn là cả thế giới

Đừng xem trọng bề ngoài – bề ngoài có thể đánh lừa ta. Đừng xem trọng sự giàu sang – sự giàu sang co thể mất dần. Hãy đến với người làm ta cuời vì chỉ có nụ cười mới biến một ngày buồn thành vui tươi.

Tôi sẽ không bảo bạn đừng buồn, bạn hãy cứ buồn vì mọi việc đã xảy ra xứng đáng để cho bạn buồn. Điều ngọt ngào nhất bao giờ cũng đến phía sau những nỗi cô đơn dù không thể diễn tả thành lời.

Đừng bao giờ mất thời gian với người không sẵn sàng chia sẻ khoảng thời gian đó cùng bạn.

Đừng chạy nhanh quá, những điều tốt đẹp nhất đến với bạn nếu bạn biết đợi chúng.

Tương lai tươi sáng thường dựa trên quá khứ đã quên lãng, bạn không thể sống thanh thản nếu bạn không vứt bỏ mọi nỗi buồn đã qua.

Nhưng khi một cánh cửa đóng lại, một cánh cửa khác lại mở ra. Ðiều bạn cần làm là thôi không chờ đợi nơi cánh cửa đã đóng, hãy tìm một cánh cửa khác đang mở ra cho mình

Đừng quên hy vọng, sự hy vọng cho bạn sức mạnh để tồn tại ngay khi bạn đang bị bỏ rơi

Đừng đánh mất niềm tin vào bản thân mình. Chỉ cần tin là mình có thể làm được và bạn lại có lý do để cố gắng thực hiện điều đó.

Đừng để những khó khăn đánh gục bạn, hãy kiên nhẫn rồi bạn sẽ vượt qua.

Đừng chờ đợi những gì bạn muốn mà hãy đi tìm kiếm chúng

Hãy luôn đặt mình vào vị trí người khác, nếu điều đó làm tổn thương bạn thì nó cũng sẽ tổn thương người khác.

Người hạnh phúc nhất không cần phải có mọi thứ tốt nhất, họ chỉ là người làm cho mọi việc, mọi chuyện đều diễn ra theo ý họ.

Bạn chưa cần đến 3 giây để nói “I love you”, chưa đến 3 phút để giải thích câu nói ấy, chưa đến 3 ngày để cảm nhận được ý nghĩa của nó , nhưng để chứng minh câu nói đơn giản ấy thì cả cuộc đời vẫn là chưa đủ.

Không ai đáng giá bằng những giọt nước mắt của bạn. Và những người đáng giá sẽ không bao giờ làm bạn khóc

Có một sự thật là bạn sẽ không biết bạn có gì cho đến khi đánh mất nó, nhưng cũng có một sự thật khác là bạn cũng sẽ không biết mình đang tìm kiếm cái gì cho đến khi có nó.

Hãy làm những gì bạn muốn làm, mơ những gì bạn muốn mơ , tới đâu bạn muốn tới , trở thành những gì bạn muốn , bởi bạn chỉ có một cuộc sống và một cơ hội để làm tất cả những gì bạn muốn .

Một trong những hạnh phúc lớn nhất ở đời này là tình bạn, và một trong những hạnh phúc của tình bạn là có một người để gửi gắm những tâm sự thầm kín

Trên đây là những phương châm sống rất ý nghĩa đáng để cho chúng ta suy ngẫm. Bạn đã xác định được phương châm sống cho mình vậy hãy đi tới thành công nhé. Những câu nói hay về thành công sẽ là một động lực cũng như khởi đầu tốt giúp bạn đi lên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói về phương châm sống có ích cho bạn cho tôi

Năm tuổi có nên kết hôn, cưới hỏi?

Năm bản mệnh hay năm tuổi là năm mà địa chi trùng với cầm tinh. Năm tuổi có nên kết hôn? Năm này được coi là năm hạn vì phạm Thái Tuế, không nên tiến hành cưới
Năm tuổi có nên kết hôn, cưới hỏi?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm tuổi có nên kết hôn? Năm bản mệnh hay năm tuổi là năm mà địa chi trùng với cầm tinh của bản thân. Năm này được coi là năm hạn vì phạm Thái Tuế, không nên tiến hành các việc lớn, trong đó có cưới hỏi. Có thật như vậy không?


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Nam tuoi co nen ket hon, cuoi hoi hinh anh
 
Trả lời thắc mắc năm tuổi có nên kết hôn, năm bản mệnh cùng bát tự ngày sinh là mệnh phù ngâm. Trong bát tự, phù ngâm, phản ngâm sẽ có chuyện đau lòng phát sinh; thêm vào đó trong năm bản mệnh sẽ phạm tự hình với 4 tuổi bao gồm Thìn – Thìn, Dậu – Dậu, Hợi – Hợi, Ngọ - Ngọ. Tự hình là tự mình lo nghĩ, tính chủ động mạnh, tự làm khổ bản thân. Có người tự mình tìm đến chuyện xấu, có người chủ động làm chuyện xấu. Vì thế mà năm tuổi thường không tính chuyện trăm năm, sẽ không may mắn.   Nhưng, trong cuộc đời không phải một nguyên tắc áp dụng cho tất cả. Năm bản mệnh có cát có hung, năm bản mệnh tổ hợp với bát tự cũng có quan hệ sinh khắc khác nhau.    Nếu như đó là năm bản mệnh nhưng gặp mệnh phù ngâm thì tốt, dù cho có tự hình thì cũng có thể dùng chính năm tuổi hỗ trợ. Phù ngâm chuyện tốt thành đôi, cho dù có sóng gió cũng là đáng mừng. Tự hình tự mình tìm việc, có thể trong phúc có họa, tìm được chuyện tốt, chuyện vui nên không cần quá lo lắng.
Nam tuoi co nen ket hon, cuoi hoi hinh anh 2
 
Như vậy, trên thực tế năm tuổi theo lịch âm là năm thích hợp nhất để kết hôn, bởi dụng thần đúng chỗ Lưu Niên, nhân sinh như gấm thêm hoa. Làm ăn tốt, kết hôn cũng được, nhất định thích hợp. Ví dụ người tuổi Hợi, năm Hợi gặp tự hình nhưng trong bát tự có dụng thần, phục ngâm cùng tự hình gặp gỡ, hóa giải cho nhau, kết hôn là đại cát.   Nếu bát tự là kị thần, năm bản mệnh cần chú ý, phát sinh chuyện buồn, khả năng thành đôi thành cặp xấu, tự hình tự mình gây chuyện xấu. Trường hợp kết hôn vào năm tuổi này rất xui xẻo, không thích hợp cầu tài, càng không nên kết hôn.   Mặt khác, người không phạm phục ngâm và tự hình nhưng gặp Lưu Niên năm hạn, dùng có dụng thần nhưng bát tự không hợp dụng thần, xung đột lẫn nhau, tương hình, tương hại, tạo thành cục diện giao tranh, dù kết hợp lại thì kết cục cũng không như ý. Tuyệt đối không nên kết hôn. 
Xem giờ sinh dự đoán tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn 6 phương pháp xem bát tự hợp hôn cực chuẩn cho người muốn lập gia đình 6 sai lầm ai cũng mắc phải khi xem tuổi kết hôn
Trình Trình

Thăm dò ý kiến

Theo bạn, năm tuổi có nên kết hôn, cưới hỏi?

Bạn lựa chọn một mục. Bình chọn của bạn sẽ được công khai.

Theo bạn, năm tuổi có nên kết hôn, cưới hỏi?Theo bạn, năm tuổi có nên kết hôn, cưới hỏi?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm tuổi có nên kết hôn, cưới hỏi?

Đặt két sắt phù hợp với phong thủy –

Trong nhà, két sắt là nơi thu hút tài vượng nhiều nhất. Do mang nguồn năng lượng lớn vì vậy vị trí đặt két sắt hợp phong thủy là điều rất quan trọng. Két sắt đặt nơi có nhiều năng lượng Theo nguyên tắc phong thủy, đặt két sắt chúng ta cần chú ý hai đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong nhà, két sắt là nơi thu hút tài vượng nhiều nhất. Do mang nguồn năng lượng lớn vì vậy vị trí đặt két sắt hợp phong thủy là điều rất quan trọng.

Nội dung

  • 1 Két sắt đặt nơi có nhiều năng lượng
  • 2 Các vật phẩm này cùng két sắt
    • 2.1 Tỳ hưu
    • 2.2 Thiềm thư
    • 2.3 Đồng tiền hoa mai

Két sắt đặt nơi có nhiều năng lượng

Theo nguyên tắc phong thủy, đặt két sắt chúng ta cần chú ý hai điều. Thứ nhất là phương vị tức là vị trí và thứ hai là hướng mở cửa két hay hướng nạp khí trong phong thủy.

Khi xem theo bát quái cũng như cửu cung trong kinh dịch thì sẽ nhận thấy những người thuộc về Đông tứ trạch hơp với các hướng Bắc, Nam, Đông Nam. Còn những người thuộc về Tây tứ trạch sẽ phù hợp với những hướng Tây, Tây nam, Tây Bắc, Đông Bắc. Nếu Sinh khí của gia chủ lại thuộc về Đông tứ trạch hoặc là Tây tứ trạch thì quả là một điều quá may mắn.

Về hướng mở két sắt cũng phải quay về hướng tốt tính theo tuổi của gia chủ trong nhà. Nếu trong trường hợp không sắp xếp được vị trí hướng mở két quay về hướng tốt thì gia chủ nên ưu tiên cho hướng mở két quay ra phía cửa phòng, không đối diện trực tiếp với cửa phòng. Nếu như hướng mở đối diện với cửa sổ thì không nên mở cửa số đó, vì theo quen niệm dân gian, cửa sổ có gió lưu thông sẽ khiến cuốn đi mọi tiền tài trong nhà.

Lưu ý: phía trước mặt két phải thoáng đãng, rộng rãi, có không gian riêng, dù không gian có chật gia chủ cũng không nên tận dụng bằng cách để đồ đạc phía trước mặt két sắt. Như thế sẽ cản trở tài tộc, tiền bạc của gia chủ, không đúng theo cách đặt két sắt theo phong thủy.

Các vật phẩm này cùng két sắt

Đặt linh vật đại diện cho tài lộc trên két sắt cũng là cách để làm tăng vượng khí, đón thịnh vượng, tài lộc vào nhà cho gia chủ. Tỳ hưu, đồng tiền hoa mai hay thiềm thừ có tác dụng rất lớn để thu hút tiền tài, danh vọng cũng như giúp cho gia chủ phòng tránh được những thị phi, tai bay vạ gió không đáng có

Tỳ hưu

Tỳ hưu đại diện cho sức mạnh, đặt Tỳ hưu trong két sắt, ngoài tác dụng giúp cho vận mệnh của các thành viên trong gia đình được tốt hơn, nâng cao hơn và tránh được các tà khí xấu, giúp bảo vệ cho gia đình thì còn có vai trò tăng thêm tài lộc, tiền tài cho gia chủ.

Theo truyền thuyết thì Tỳ hưu chính là con thứ 9 – con út của Rồng. Trên đầu Tỳ Hưu phong thủy có một cái sừng, một số loại thì có hai cánh, lông đuôi có tua. Tuy khách nhau về tiểu tiết nhưng đều là Tỳ hưu trong phong thủy Việt Nam Tỳ hưu cũng được chế tác từ nhiều nguyên liệu khác nhau như gỗ, đá, sứ, đồng, ngọc.

Tỳ hưu có màu đỏ đại diện cho mong muốn chiêu tài, phát lộc. Tỳ hưu có màu vàng thì sẽ có tác dụng bảo vệ sức khỏe cho gia đình. Còn Tỳ hưu mà màu xanh thì sẽ đem lại thành công trên con đường công danh cho gia chủ.

Thiềm thư

Thiềm thư trên két sắt: Truyền thuyết kể rằng, Thiềm thư vốn dĩ là một yêu tinh xấu, nhưng được tiên ông thu phục, cải tà quy chính, từ đó Thiềm Thư tỏa đi muôn nơi để giúp đỡ người nghèo bằng cách nhả tiền cho họ. Vào đêm trăng tròn, Thiềm Thư xuất hiện ở gần nhà ai thì nhà đó sẽ nhận được giàu sang, phú quý.

Khi đặt Thiềm thư trên nóc két sắt, gia chủ sẽ phải hướng đầu của Thiềm thư vào phía trong nhà, không nên đặt đối diện và với cửa ra vào để đón được tài lộc vào nhà.

Đồng tiền hoa mai

Đồng tiền hoa mai: Đồng tiền này có năm cánh, trông rất giống một bông hoa mai. Đồng tiền hoa mai có tác dụng phát triển đường công danh, sự nghiệp. Vì vậy gia chủ nên đặt đồng tiền hoa mai trong két sắt để tăng may mắn, vượng khí, tiền tài cho nhà mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt két sắt phù hợp với phong thủy –

Treo tranh ảnh trong phòng ngủ theo phong thủy

Trong phòng ngủ, tranh ảnh phản ánh sở thích, cá tính và mong muốn của chủ nhân căn phòng nhưng vẫn phải tuân theo các nguyên tắc phong thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những điều cần tránh khi treo tranh ảnh trong phòng trẻ em
 

tranh phong thủy
Trong phòng trẻ em, tránh treo các con vật ác và nhân vật dữ tợn

Khi treo tranh trong phòng trẻ em, cần lưu ý những điểm sau đây:

- Tránh treo nhân vật dữ tợn và con vật ác.

- Không treo những bức ảnh có nước, đại dương, sông hồ.

- Tránh những bức tranh về chủ đề tôn giáo như các nhân vật tôn giáo hoặc cây thánh giá.

- Trong phòng ngủ của trẻ, mây là hình ảnh rất phổ biến. Nếu treo hình ảnh mây trên trần nhà thì hãy bảo đảm đầu trẻ không bị mây bao phủ. Nguyên nhân là do hình ảnh đó có thể tạo ra sự khó khăn cho chúng. Đối với phòng người lớn cũng phải lưu ý điều này.

Treo tranh ảnh trong phòng ngủ của người lớn và điều cần tránh

- Tránh các bức tranh về những vật thể đơn lẻ có hàm ý đơn độc.

- Tránh các bức tranh về các nhân vật tôn giáo, các vị thần, thiên đàng...

- Tránh tranh ảnh về cây cối và hoa lá, trừ khi trong gia đình có người bị ốm. Cây cối hay tranh về hoa, cây sẽ khiến cặp đôi thường xuyên tranh cãi.

- Trong phòng ngủ, không treo ảnh trẻ con. Bạn đã có thời kỳ là trẻ nhỏ rồi. Hiện tại, bạn cần dành không gian cho mình và người ấy.

Lưu ý khi tranh treo đầu giường

- Tránh treo tranh ảnh trừu tượng. Khi treo tranh loại này giống như là có một ai đó đang cưỡi trên đầu bạn, nghĩa là tinh thần sa sút và tài vận cũng dễ bị kẻ không tốt lấy đi hết.

- Tránh treo tranh ảnh sơn thủy. Những ngọn núi rất nặng nề sẽ gây ra áp lực lớn về tinh thần cho người nằm trên giường làm họ không thể ngủ ngon. Còn nước thì lại hình thành nên "thủy lâm đầu sát", mang đến vận rủi ro và bệnh tật cho chủ nhà.

- Tránh treo tranh về những loại thú dữ, chim muông bởi chúng sẽ khiến bạn luôn cảm thấy sợ sệt, lo lắng, ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ. Thêm nữa, điều đó cũng có thể mang đến cảm giác thú dữ, chim muông đang ngoạm, mổ đầu người. Từ đó sẽ xuất hiện những triệu chứng như mất ngủ, đau đầu, tinh thần mệt mỏi gây ảnh hưởng không tốt đến tài vận, sức khỏe của bạn.

- Trong phòng ngủ, chỉ nên treo một bức tranh. Nếu treo nhiều tranh ảnh sẽ ảnh hưởng đến tâm tư của ở trong phòng.

- Đầu giường, tránh treo ảnh chân dung của người thân bởi như vậy sẽ làm gia tăng áp lực cho chủ nhân khi làm bất kể việc gì.

Cách treo tranh ảnh hợp lý trong phòng người lớn
 

phong thủy phòng ngủ
Trong phòng ngủ của vợ chồng, hãy treo tranh ảnh có đôi có cặp nhằm tạo sự gắn kết

- Hãy treo những tranh ảnh có đôi có cặp nhằm tạo sự gắn kết trong phòng ngủ của vợ chồng.

- Khi ở một mình, hãy treo những tranh ảnh về nửa kia của bạn.

- Hãy treo các bức tranh về tình yêu như tình cảm hoặc vợ chồng.

- Nhằm tạo cơ hội cho chính mình, ở bức tường đối diện với giường, bạn hãy treo tranh về một cánh đồng rộng mở làm  cuộc sống của bạn sẽ rộng mở hơn và mọi trở ngại sẽ được gỡ bỏ.

Cách treo tranh ảnh hợp lý trong phòng trẻ em

- Nên treo tranh bố mẹ trong phòng trẻ em để chúng biết cách kính trọng và đối xử hơn với cha mẹ.

- Nên treo các bức tranh có hình ảnh hạnh phúc, tươi sáng.

- Treo những hình ảnh có nội dung về học tập như quả địa cầu, sách những bức ảnh nhộn nhịp vui tươi hoặc các kinh nghiệm học tập…

- Nên chọn hình ảnh các con vật mang hàm nghĩa tích cực như ngựa (rất tốt cho phòng ngủ bé trai). Ngựa mang ý nghĩa hạnh phúc và không sợ hãi. Rùa cũng là một con vật có ích và các con vật thân thuộc, gần gủi với bé. Trong phòng ngủ của trẻ, mây là hình ảnh rất phổ biến. Nếu treo tranh ảnh mây trên trần nhà thì hãy bảo đảm phía đầu trẻ không bị mây bao phủ. Bởi vì, hình ảnh này có thể gây ra khó khăn cho chúng. Phòng người lớn cũng nên bố trí như vậy.

(Theo phunutoday)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo tranh ảnh trong phòng ngủ theo phong thủy

Những điều cần biết về phong thủy nhà bếp

Bếp được các nhà phong thủy nói riêng và tổ tiên ông bà xưa nói chung xem như nguồn năng lượng sống, nguồn tài lộc, nơi quyết định sự hưng phát, hạnh phúc của cả gia đình. Vậy nên, phong thủy nhà bếp là một trong những điều bạn cần phải lưu ý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu trong nhà có một góc nào đó dễ khiến mọi thành viên nhớ nhất lúc đi xa thì hẳn đó sẽ là bếp. Bếp là nơi giữ lửa cho mái ấm gia đình, là nơi chăm sóc từ thể chất đến tinh thần cho từng cá nhân. Bếp cũng là "thế giới riêng" của người phụ nữ, để thể hiện nét mềm mại nữ tính, cả sự gọn gàng khéo léo của mình.

Bạn cũng đừng nghĩ rằng chỉ có phòng khách hay ban thờ mới cần chú ý đến phong thủy, phòng bếp được coi là nơi giữ lửa gia đình, do vậy yếu tố phong thủy nhà bếpcũng vô cùng quan trọng.  

Để hội đủ điều kiện cho một không gian bếp theo đúng phong thủy, nhà bếp cần đảm bảo các yếu tố:

Dụng cụ làm bếp

Phải có khu vực dành riêng cho dụng cụ làm bếp như dao, kéo, búa… tránh không để những dụng cụ này trên bàn bếp cũng như gần bếp vì sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự đoàn kết cũng như sự hạnh phúc trong gia đình.


Dao kéo, dụng cụ làm bếp nên được để gọn gàng trên giá, trong ngăn kéo hay trong các dụng cụ chứa chuyên dụng để giúp gia đình luôn thuận hòa.

Ánh sáng

Ngoài việc mở rộng các ô cửa sổ để đón ánh sáng tự nhiên, nếu bếp nhà bạn không có cửa sổ hoặc ở vị trí hơi tối, có thể sử dụng chất liệu nhôm, kính làm tủ bếp, vì chúng có thể giúp tạo ảo giác như những cửa sổ ánh sáng, giúp không gian bếp bớt tối tăm hơn. Một phòng bếp tràn ngập ánh sáng cũng sẽ giúp không khí gia đình hòa thuận hơn.


Những ô cửa sổ lớn giúp ánh sáng luôn ngập tràn phòng bếp tạo sinh khí cho gia đình.

Sắp xếp

Khu vực bồn rửa bát phải bố trí tương đối xa bếp vì hỏa kỵ thủy. Cũng tương tự như vậy, bếp đối diện với cửa nhà vệ sinh, áp lưng vào nhà vệ sinh hoặc đặt phía dưới nhà vệ sinh đều chưa chuẩn. Những khí xú uế của nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến đồ ăn khi đun nấu về lâu dài không tốt cho sức khỏe mọi người.


Khu vực bồn rửa nên cách xa khu vực nấu một chút giúp tránh "hỏa kỵ thủy" như ông cha ta vẫn dạy.

Nếu không gian khu vực bếp rộng, có thể bố trí bàn ăn cho gia đình. Tuy nhiên, bàn ăn phải cách bếp nấu ít nhất 1,5m. Lưu ý không cho góc nhọn của bàn ăn trực xung với bếp.


Bàn ăn cách khu vực bếp một khoảng cách nhất định sẽ không bị ám mùi thức ăn quá nặng. Góc của bàn ăn không trực xung với bếp sẽ giúp gia chủ tránh được những bất đồng tranh cãi trong gia đình.

Màu sắc

Màu sắc nên có màu tương đối nhạt vì đây là khu vực nấu ăn nên phát ra năng lượng rất nóng, cần màu sắc dịu lại làm khống chế độ nóng trong bếp. Màu trắng là gam màu nên chọn cho bếp, vì nó giúp căn bếp trở nên sáng sủa. Bạn cũng dễ dàng kiểm soát được các vết bẩn nếu có, để đảm bảo yếu tố vệ sinh, sạch sẽ.


Phòng bếp với màu sắc sáng sủa luôn tạo cảm giác sạch sẽ hơn.

Vị trí

Không được đặt bếp chéo góc. Nếu bạn đặt bếp không ngay ngắn rất dễ ảnh hưởng sức khỏe cho các thành viên trong gia đình. Bếp tránh bị nhìn trực diện từ bên ngoài cổng, từ cửa phòng khách hoặc đối diện nhà vệ sinh. Theo phong thủy, vị trí của bếp còn phải tránh gió, tránh những nơi thường đi ngang. Gian bếp lộ thì bất lợi về tài lộc cho chủ nhân.

Mặc dù phòng khách thông với phòng bếp tạo không gian mở, nhưng gia chủ vẫn rất chú ý không để lối vào phòng khách nhìn thẳng được vào phòng bếp. Bếp là nơi nấu nướng phát sinh nhiệt nên rất nóng bức. Khi đun nấu, bếp còn tỏa ra mùi thức ăn, khói dầu mỡ không tốt cho sức khỏe. Vì vậy nếu được cần tránh để bếp bên cạnh hoặc trực diện với cửa phòng ngủ tránh ảnh hưởng đến không gian nghỉ ngơi. Ngoài ra đối với nhà cao tầng tránh kê giường ngủ thẳng ngay trên bếp nấu dễ làm cho người ngủ bồn chồn không yên, dễ nảy sinh tâm lý nóng nảy.

Trang trí

Trên tường nên treo tranh ảnh mang ý nghĩa ăn uống như chén, đĩa, trái cây… tránh treo tranh ảnh hình kỳ thú, kinh dị sẽ giúp phòng bếp hài hòa hơn, tâm lý các thành viên trong gia đình cũng vui vẻ hơn.


Bạn có thể chọn hình thức tranh trang trí hay viết chữ ý nghĩa như thế này. Việc trang trí không gian phòng bếp hợp lý và hài hòa sẽ giúp không khí bữa ăn gia đình luôn vui vẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cần biết về phong thủy nhà bếp

Xem tướng phụ nữ sinh đẻ khó khăn

Nhân trung có vân ngang, dọc chằng chéo là một trong những đặc điểm của tướng phụ nữ sinh đẻ khó khăn.
Xem tướng phụ nữ sinh đẻ khó khăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nhân trung là nơi giao nhau giữa mạch Nhâm và mạch Đốc. Theo y học cổ truyền phương Đông, đây là hai mạch tạo ra mạch chủ trên cơ thể con người, một mạch thâu tóm các kinh dương, một mạch thâu tóm các kinh âm. Vì thế, thông qua đặc điểm của Nhân trung cũng cho biết phần nào về khả năng sinh đẻ của nữ giới.



1. Nhân trung có vân ngang

Khả năng sinh đẻ của nữ giới mạnh nhất trong độ tuổi từ 20-30 tuổi. Khả năng thụ thai, sinh đẻ giảm dần từ 35 tuổi.

Nhân trung là nơi giao nhau giữa mạch Nhâm và mạch Đốc. Theo y học cổ truyền phương Đông, đây là hai mạch tạo ra mạch chủ trên cơ thể con người, một mạch thâu tóm các kinh dương, một mạch thâu tóm các kinh âm. Vì thế, thông qua đặc điểm của Nhân trung cũng cho biết phần nào về khả năng sinh đẻ của nữ giới.

Trong nhân tướng học, Nhân trung có vân ngang, vân dọc chằng chéo, nốt ruồi xấu, sẹo, sắc sạm đen chứng tỏ khả năng sinh đẻ không tốt, việc thụ thai cũng khó khăn.

tuong phu nu khoi sinh1
 
2. Bọng mắt có nhiều vân hình lưới


Trong nhân tướng học, bọng mắt còn được gọi là “tam âm tam dương”, chủ quản về khả năng sinh đẻ và nối dõi đường coi cái.

Phần bọng mắt có vân hình lưới, trũng xuống, sắc xám đen, có nốt ruồi hung… là biểu hiện cho thấy khả năng sinh đẻ ở nữ giới không cao, gặp khó khăn trong chuyện sinh nở. Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận biết của tướng phụ nữ sinh đẻ khó khăn.

Đặc trưng của tướng phụ nữ lẳng lơ
Phụ nữ có mắt lá khoai hay tam bạch, môi mỏng, Nhân trung có tía đỏ...đều ham mê nhục dục, lẳng lơ, có xu hướng yêu đương vụng trộm.
3. Tai mỏng, nhỏ, thận khí không đủ


Tai mỏng và nhỏ là một trong những dấu hiệu cho thấy thận khí không đủ. Phụ nữ có nét tướng này khá khó khăn trong việc sinh nở.

Người này nên chú ý bổ sung chế độ dinh dưỡng, chăm làm việc thiện để tích phúc tích đức thì mới thay đổi được vận mệnh.

tuong phu nu khoi sinh2
 
4. Răng thưa, không đều


Răng cũng có mối liên quan nhất định tới thận khí trong cơ thể, mà thận cũng ảnh hưởng nhiều tới chức năng sinh sản. Phụ nữ có tướng răng thưa, răng dài ngắn không đồng đều thì đều là biểu hiện của thận khí không đủ, khả năng sinh sản khó khăn.

5. Lông mày thưa thớt, lộn xộn


Phụ nữ lông mày thưa, lộn xộn, không theo chiều ngang hay dọc nhất định thường thì đời sống tình cảm cũng nhạt nhẽo, vô tình vô nghĩa, không biết quan tâm tới người khác, khả năng sinh đẻ cũng kém.

Nếu có thêm đặc điểm phần xương lông mày thấp, dẹt chứng tỏ trong đời cũng vài lần xảy thay, ít được hưởng phúc lộc con cái.

Việt Hoàng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ sinh đẻ khó khăn

3 điều cấm kị phải biết khi kết hôn vào mùa xuân

Xuân đến là khoảng thời gian rất tốt để nam nữ tiến hành kết hôn. Tuy nhiên, cũng có những cấm kỵ khi kết hôn vào mùa xuân mà các cặp đôi phải hết sức lưu ý.
3 điều cấm kị phải biết khi kết hôn vào mùa xuân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sau Tết âm lịch, xuân đến là khoảng thời gian rất tốt để nam nữ tiến hành kết hôn. Tuy nhiên, ngay cả trong mùa cưới tưởng như tốt nhất năm nay, cũng có những cấm kỵ khi kết hôn vào mùa xuân mà các cặp đôi phải hết sức lưu ý.


3 dieu cam ki phai biet khi ket hon vao mua xuan hinh anh
 
1. Tổ chức hôn lễ vào tiết Vũ Thủy   Trong 24 tiết khí truyền thống hàng năm, có những tiết khí không thích hợp để tổ chức hôn lễ nên dù là mùa xuân mà rơi vào những tiết khí này, cũng nên cân nhắc tổ chức chuyện trọng đại.    Sau Lập Xuân là tiết Vũ Thủy, được coi là một trong bốn tiết khí đại kị kết hôn của năm, nên cần phải tránh. Vũ Thủy bắt đầu từ khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 3 dương lịch. 
2. Kết hôn vào tháng tuổi
Điều cấm kị khi kết hôn vào mùa xuân là tổ chức hôn lễ vào tháng tuổi của cô dâu chú rể. Ví dụ, cô dâu tuổi Dần hoặc sinh giờ Dần mà có ý định kết hôn vào tháng Giêng âm là rất không tốt, phải tránh đi. Các tháng mùa xuân lần lượt là tháng Dần, tháng Mão, tháng Thìn.
3 cách cục tử vi tuyệt đối không nên chọn làm bạn đời
Xem tử vi chọn bạn đời không chỉ giúp bạn tìm được hồng nhan tri kỉ ưng ý mà còn đảm bảo tương lai tốt đẹp cho cuộc sống gia đình.

Trường hợp nữa là tháng định kết hôn cùng tứ hành xung với năm sinh hoặc giờ sinh của cô dâu chú rể cũng nên kiêng. Hội hướng có hại cho hôn nhân, ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình sau này. Tốt nhất là nên chọn tháng sinh tam hợp.
  3. Tham gia hôn lễ của người khác
3 dieu cam ki phai biet khi ket hon vao mua xuan hinh anh
 
Nhiều người cùng lựa chọn mùa xuân làm thời điểm kết hôn nên có thể xảy ra trường hợp khi đang chuẩn bị hôn lễ thì có người mời đám cưới. Thông thường, hôn lễ và tang lễ không thể cùng đi, nên cũng như vậy hỉ sự không thể cùng hướng, nên tránh tham gia hôn lễ của người khác khi mình sắp cưới.

► ## cung cấp công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 điều cấm kị phải biết khi kết hôn vào mùa xuân

Xem tướng phụ nữ ham mê nhục dục

Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài nét tướng đặc biệt :
Xem tướng phụ nữ ham mê nhục dục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Phụ nữ trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắc hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm

- Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt, mắt lớn và sáng

- Phía dưới mắt (Lệ đường) có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt ( Ngư vĩ ) là tướng phụ nữ thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm

- Mắt đào hoa thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thừơng hay cười tình liếc xéo

- Phía dưới mắt có nốt ruồi đen nổi rõ hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt và nhìn cặp mắt không rõ cười hay khóc : tiện dâm

- Miệng lớn và khoé đi xuống lưng ong

- Ngồi hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung gối là tướng phụ nữ trong đời ít ra cũng vài ba bận thông dâm

- Eo lệch, rốn quá sâu, lòng trắng pha hồng, tiếng nói liến thoắng hầu hết là những người dễ bị quyến rũ vào đường sắc dục

- Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh lại là tướng háo dâm

- Nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật

- Mặt ngăm đen, đầu tóc rậm, ánh mắt ướt và sắc, da bóng bẩy

- Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng

- Trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, kẻ có thói quen thở khói rất mạnh là kẻ háo dâm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ ham mê nhục dục

Các lễ hội diễn ra trong ngày 18 tháng 6 âm lịch - Hội Đền Lảnh Giang

Hội Đền Lảnh Giang được tổ chức vào ngày 18 tháng 6 âm lịch tại thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 18 tháng 6 âm lịch - Hội Đền Lảnh Giang

Các lễ hội diễn ra trong ngày 18 tháng 6 âm lịch - Hội Đền Lảnh Giang

Hội Đền Lảnh Giang

Thời gian: tổ chức vào ngày 18 tới ngày 25 tháng 6 âm lịch.

Địa điểm: thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn tam vị đại vương thời Hùng Duệ Vương có công đánh Thục thờ Tiên Dung.

Nội dung: Hàng năm, cứ vào dịp đầu tháng 6 (âm lịch), người dân thôn Yên Lạc lại nô nức chuẩn bị cho lễ hội đền Lảnh Giang, một lễ hội đã có truyền thống từ rất lâu đời. Nét độc đáo trong lễ hội đền Lảnh Giang là sự phục dựng lại các diễn xướng dân gian hầu thánh, tái hiện huyền tích các vị thánh đền Lảnh Giang

Phần lễ có hoạt động rước kiệu trên triền đê sông Lảnh với sự tham gia của đông đảo người dân địa phương và du khách đến tham quan. Mở đầu là lễ rước kiệu từ đền Lảnh Giang vào đền thờ Mẫu Tiên Dung. Sau đó làm lễ tại đền thờ Mẫu Tiên Dung và rước kệu về lại đền Lảnh Giang. Đoàn nghi lễ rước kiệu kéo dài hơn 2 cây số trên triền đê sông Lảnh cùng với tiếng trống trầm hùng và tiếng kèn đồng rộn rã khiến cho không khí buổi rước kiệu càng trở nên uy nghiêm và náo nhiệt.

Phần hội được tổ chức phong phú đa dạng với các trò chơi dân gian truyền thống như múa rồng, múa lân, múa sư tử, biểu diễn võ thuật, đánh gậy, chọi gà, đánh tổ tôm, bắt vịt dưới nước… cùng các hoạt động văn nghệ như chiếu chèo sân đền… 

Bên cạnh các trò chơi truyền thống, còn có các hoạt động văn hoá thể thao khác như thi đấu cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền, bóng đá và các tối giao lưu văn nghệ giữa các thôn trong xã và giữa các xã trong huyện làm tăng thêm không khí tưng bừng của ngày hội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 18 tháng 6 âm lịch - Hội Đền Lảnh Giang

Đừng quên địa điểm kị phong thủy đối với chuyện ấy

Địa điểm kị phong thủy sẽ khiến sức khỏe và cả tinh thần của hai bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu tiến hành chuyện ấy.
Đừng quên địa điểm kị phong thủy đối với chuyện ấy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Chuyện chăn gối không chỉ ảnh hưởng đến tinh thần, hứng thú mà cả sức khỏe của hai bên đương sự. Chọn địa điểm “mây mưa” không hợp phong thủy là một trong những nguyên nhân khiến sức khỏe đôi bên giảm sút.

  1. Địa điểm mà nữ giới cảm thấy không thoải mái   Dù bạn không tin, nhưng trên thực tế, có những phụ nữ khá nhạy cảm. Họ cảm nhận môi trường xung quanh bằng những giác quan thứ sáu, thấy được mối hiểm họa, rủi ro nào đó.   Chính vì thế, với bất cứ địa điểm kị phong thủy nào, khi vừa đặt chân tới mà nửa kia của bạn than phiền rằng chỗ đó khó chịu, không thoải mái, thì cả hai nên chuyển địa điểm.  
Dung quen dia diem ki phong thuy doi voi chuyen ay hinh anh
 
2. Tầng trệt và tầng trên cùng của khách sạn   Tầng trệt hay tầng 1 của khách sạn thường có trường khí rất loạn, lộn xộn vì có nhiều người qua lại, vừa có tà khí lại vừa có tạp khí và khí tốt. “Yêu” ở nơi này sẽ khiến cho mối quan hệ hai bên bất lợi. Tình cảm mặn nồng đấy nhưng lại sớm phai nhạt, dẫn tới chia ly.    Tầng thượng tưởng chừng yên tĩnh hơn tầng 1 nhưng vẫn gây bất lợi cho cánh mày râu. Tại đây, nam giới chịu áp lực từ trường quá mạnh. Sau khi “chinh chiến” kết thúc, đàn ông dễ bị suy kiệt, quá sức. Hoặc trong quá trình “hành sự”, từ trường xấu ảnh hưởng khiến đàn ông thiếu bản lĩnh, không chuyên nghiệp làm chị em “mất hứng”.   3. Nhà tắm, nhà bếp   Đôi khi, để “đổi gió”, các cặp đôi chọn nhà tắm hay nhà bếp để tiến hành cuộc hoan hỉ. Nhưng xét về mặt phong thủy, điều này không hề tốt cho mối quan hệ đôi bên.   Nhà tắm là nơi vượng Thủy, nhà bếp vượng Hỏa, tiến hành “mây mưa” ở những nơi này khiến vận khí của cả hai bị ảnh hưởng, mối quan hệ dần phai nhạt khi không cảm thấy hứng thú với nửa kia.  
Dung quen dia diem ki phong thuy doi voi chuyen ay hinh anh
 
4. Nơi gần doanh trại quân đội, đồn cảnh sát, nhà máy cơ khí hạng nặng   “Hành sự” ở những nơi này ảnh hưởng xấu tới nguyên khí của người nữ, lâu đần sẽ tạo ra áp lực vô hình về tinh thần và sức khỏe.   Tần suất diễn ra “chuyện ấy” ngày càng rút đi dần, nhưng tốc độ lại nhanh, mạnh khiến ảnh hưởng tới sinh lực cả hai. Lâu dài còn ảnh hưởng đến cơ quan sinh sản, dẫn tới khó thụ thai.   5. Phòng có quá nhiều màu tím hoặc đỏ rực   Hai gam màu này dễ khơi gợi sự chú ý của các thế lực tâm linh nhất. Màu tím gợi sự chú ý và kích thích tổ tiên, những vị thần linh đáng quý. Còn màu đỏ lại hấp dẫn những vị thần của loài vật. 
 
Bạn nghĩ sao nếu để thần linh, đấng tối cao chứng kiến cảnh “bất nhã” của mình. Tốt nhất, là hãy đổi đèn hoặc tắt đèn đi, tránh tình trạng sợ hãi, hoang mang, phân tâm khi “hành sự”.   
Dung quen dia diem ki phong thuy doi voi chuyen ay hinh anh
 
6. Nơi gần chùa, nghĩa trang, bệnh viện, trường học   Từ góc độ phong thủy, các chuyên gia cho rằng những địa điểm trên có nhiều tạp khí, nguồn từ trường nhiễu loạn, trường khí quá mạnh gây tổn hao nguyên khí con người.   Thêm nữa, những nơi này vốn dĩ không có người sinh sống vào ban đêm, nên sẽ gây ra hiệu ứng không tốt khi lại gần. Xung đột từ trường bất lợi sẽ “tấn công” cặp đôi dễ dàng khi đang ở trạng thái thăng hoa nhất, làm ảnh hưởng về sức khỏe, chất lượng tinh trùng và cực kỳ bất lợi cho việc thụ thai.      7. Phòng có màu sơn trắng toát   Trong phong thủy, màu trắng, nhất là trắng toát sẽ tạo ra lực phản xạ mạnh, ảnh hưởng lớn tới nguyên khí và sức khỏe của các cặp đôi. “Yêu” ở đây sẽ khiến người nam phấn khích, tăng sinh lực lên gấp nhiều lần. Nếu cả 4 bức tường đều màu trắng, các luồng sinh khí bị phản chiếu lẫn lộn, dội ngược vào cơ thể, khiến hao hụt sức khỏe, sa sút phong độ và giảm mạnh chất lượng tinh trùng.    Việt Hoàng  
5 mẹo phong thủy vượng phu khiến chồng càng ngày càng yêu
Lấy vợ vượng phu là niềm mong mỏi của nhiều người đàn ông. Nhưng quan hệ vợ chồng, đâu chỉ dựa vào một người mà tốt đẹp được, muốn hôn nhân thuận buồm xuôi

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đừng quên địa điểm kị phong thủy đối với chuyện ấy

Người tuổi Dần mệnh Thủy

Người tuổi Dần mệnh Thủy là những người sinh Giáp Dần 1914, 1974...
Người tuổi Dần mệnh Thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Dần mệnh Thủy là những người sinh Giáp Dần 1914, 1974...

Họ thường có vẻ ngoài hiền hòa nhưng nội tâm thì lại cứng rắn, cương nghị. Dù không nói ra nhưng họ không thích bị ngựời khác vượt qua hay nổi trội hơn mình. Chính vì vậy, họ thường lặng lẽ làm tốt mọi việc, dùng kết quả để chứng minh cho năng lực của mình. Họ cũng là người sống khá nội tâm.


 

Tuoi Ty (8)
 
Họ thường rất tin tưởng vào thực lực của mình. Dù gặp phải khó khăn thử thách nào, họ cũng có thể làm việc theo đúng kế hoạch đã định và không vì một cản trở nhỏ mà làm hỏng việc. Có thể nói, họ là người bình tĩnh và luôn tỉnh táo.

Những người này luôn thích tìm tòi, khám phá và suy xét chính xác về mọi việc. Họ khá giỏi trong việc nắm bắt suy nghĩ cũng như xu thế sẽ thịnh hành trong tương lai.

Nếu được sao tốt tương trợ thì với tư duy nhanh nhạy và khả năng xuất chúng của mình, người tuổi Dần mệnh Thủy sẽ có được địa vị cao trong xã hội hoặc trở thành  những doanh nhân thành đạt, được nhiều người kính trọng, ngưỡng mộ.

Nếu không được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì với tính cách cố chấp, tự tư tự lợi của mình, họ sẽ khó làm nên nghiệp lớn.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Dần mệnh Thủy

Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất

Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất. Mùa xuân đến mang theo tình yêu và cảm xúc dâng tràn. Hãy tham khảo bài viết sau đây bạn nhé
Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất. Mùa xuân đến mang theo tình yêu và cảm xúc dâng tràn. Xuân đến cho lòng người tràn ngập hạnh phúc, thêm tuổi mới thêm niềm vui mới.

Hãy tham khảo những vần thơ xuân hay nhất chứa đựng những câu nói hay về cuộc sống ngay sau đây bạn nhé!

Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất

BÀI THƠ: CHỜ XUÂN
Thơ: Trần Minh Đạo
Khoảnh khắc mùa xuân đã đến gần.
Mây bàng bạc vẫn ngủ lang thang.
Cỏ hoa lấp lửng rời đông tiết.
Chim én chưa về báo hiệu xuân.
Đất nước mang hình tia chớp lửa.
Đồng bào còn rạn dấu chia phân.
Từng cơn gió chướng đầy sinh khí.
Rạo rực nàng xuân đến thật gần.

—-

BÀI THƠ: SẮC ĐẸP MÙA XUÂN
Thơ: Dạ Thế Nhân
Xuân về tết trở lại rồi đây
Những đóa mai vàng đẹp ngất ngây
Cúc rạng tươi màu phô vẻ thắm
Đào xinh sắc rực tỏa hương đầy
Lan chờm bệ cửa khoe nụ biếc
Giữa lối hồng nhô đóa hoa gầy
Đó trạng nguyên kề bên vạn thọ
Giăng đầy khắp cả cõi trần ai.

BÀI THƠ: KHI NÀNG XUÂN ĐẾN
Thơ: Khởi Lê
Xuân về thắm đượm nét mi ai
Thục nữ đoan trang giẫm gót hài
Mắt biếc kiêu sa tình huyễn hoặc
Môi cười chớm nụ mộng liêu trai
Điểm tô luyến cúc vần thơ lạc
Thỏ thẻ bên đào khúc nhạc phai
Bướm gởi ong trao rào rạt ái
Nắng vàng ấm nhẹ lối thiên thai.
1001 bài thơ người Lính xa quê ngày Tết, xuân xa nhà

BÀI THƠ: GỌI XUÂN
Thơ: Tình Say
Xuân đã thẹn thùng trong áo mới
Mơn man hơi thở của đất trời
E ấp nụ mai vàng chớm nở
Ngại ngùng chi chưa đến Xuân ơi!

Ta đã chờ em trong nhớ thương
Đợi em treo lộc biếc xanh vườn
Xua đi giá lạnh Đông già cỗi
Ngàn hoa khoe sắc ngát thơm hương..

Chẳng thể chờ em thêm phút giây
Xuân ơi hãy đến ngay đêm nay
Cho ta thôi mỏi mòn trông ngóng
Khao khát tình xuân men đắm say.

BÀI THƠ: XUÂN VỀ
Thơ: Nguyen Huynh
Xuân về ước vọng thuở thời son
Diễm tuyệt đài trang dáng vẻ tròn
Ái mặn nồng trao tình nghĩa cỏn
Hương ngào ngạt tỏa sắc đời non
Hồi dương sức khỏe niềm vui chọn
Mãn kiếp lòng nhân bổn phận còn
Trả nợ gia đình nuôi dưỡng bón
Từ ân hiếu thảo mãi không mòn.

BÀI THƠ: RỰC RỠ XUÂN
Thơ: Cư-Nguyễn
MAI đào rực rỡ nắng vàng hong
Những chuyến thuyền hoa đợi nước ròng…
Náo nhiệt xuôi bờ vui vẻ đếm
Tưng bừng cập bãi nói cười đong
Người mua hỏi chọn vừa tâm ý
Kẻ bán hòa trao vẹn trí lòng
Tiếng gọi mời nhau rôm rả ngõ
Xuân ngời hạnh phúc thỏa chờ mong.

BÀI THƠ: CÓ PHẢI XUÂN VỀ
Thơ: Nguyễn Hồng Chinh
Xuân đã về có phải không anh?
Sao nghe đông lạnh rớt sau thềm
Bữa nay mây khoác màu vũ hội
Đỏ rực nụ đào trên áo em.
***
Xuân đã về rồi, có phải không?
Sao ta xao động nhạc tơ lòng
Ngước nhìn lên đỉnh trời xanh ngắt
Đàn én rập rờn bao ước mong
***
Xuân đã về ư? Về thật ư?
Chao ôi! năn ngói đến bây chừ
Anh đi biền biệt không lần ghé
Trên giàn thiên lý nắng tương tư
***
Xuân về rồi! Xuân đã về rồi!
Chúc mừng, nào cạn chén tri bôi
Chợt nghe bên cốc tràn hương sắc
Một cánh hoa dường sắp sửa rơi..

BÀI THƠ: XUÂN VỀ 2
Thơ: Phong Mai
Trên giàn lũ bướm lượn đùa chơi
Chắc bởi nàng Xuân đã gợi mời
Cúc ngỡ vươn mình khoe vẻ đẹp
Lan dường vẫn thẹn dấu mầu tươi
Thềm bên thiếu nữ thầm mong đợi
Ngõ cạnh chàng trai cứ ngẩn người
Nắng trải chan hoà chim rộn rã..
Sang mùa dựng tổ cũng tìm đôi./.

BÀI THƠ: XUÂN NGỜI
Thơ: Hương Lan
Lặng lẽ xuân về nắng thả chơi
Ngoài sân cánh nhạn vẫy chao mời
Bên thềm rẽ nhánh hoa vàng rực
Trước ngõ vươn cành nụ đỏ tươi
Chắc bởi tình anh chừng giã bạn
Thời nên nghĩa chị muốn bên người
Mưa phùn đổ nhẹ mây trời biến
Lũ yến theo bầy hẹn ủ đôi

BÀI THƠ: XUÂN ẤM
Thơ: Mộng Thu
Mùa xuân đã về trước ngõ
Nắng hồng lên hoa cỏ xanh tươi
Gió xuân nhẹ thổi khung trời
Mân mê nhành nụ bờ môi em cười

Tàn đông thật sự qua rồi
Chẳng còn giá lạnh tiết trời ấm lên
Xuân đã về! Xuân ở bên
Vòng tay ấm áp ta tìm lại nhau

Xuân ơi xuân có ngọt ngào?
Nhờ xuân rót mật nụ đào trổ hoa
Đón xuân vui thật chan hoà
Cùng nhau chúc phúc nhà nhà bình an.

BÀI THƠ: MÙA XUÂN TRONG EM
Thơ: Quý Phương
Em giấu xuân trong làn tóc
Thoảng bay theo gió nồng nàn
Làm cõi lòng ai ngây ngất
Quyện hương trời đất mênh mang

Em giấu xuân trong tà áo
Thướt tha trên phố chiều nay
Hoa xuân tình về nương náu
Trong tim ấp ủ bao ngày

Em giấu xuân trên môi thắm
Cười duyên tỏa nắng rạng ngời
Xuân về cho bao nắng ấm
Để em tôi cũng xinh tươi

Em giấu xuân trong mắt biếc
Ngẫn ngơ bao kẻ ngắm nhìn
Ngại ngần theo em từng bước
Nàng xuân trông thật là xinh

Em giấu tình trong tim nhỏ
Tặng anh nhịp đập yêu thương
Em đã buộc câu duyên nợ
Cùng anh đi đến cuối đường.

BÀI THƠ: SẮC ĐẸP MÙA XUÂN
Thơ: Dạ Thế Nhân
Xuân về tết trở lại rồi đây
Những đóa mai vàng đẹp ngất ngây
Cúc rạng tươi màu phô vẻ thắm
Đào xinh sắc rực tỏa hương đầy
Lan chờm bệ cửa khoe nụ biếc
Giữa lối hồng nhô đóa hoa gầy
Đó trạng nguyên kề bên vạn thọ
Giăng đầy khắp cả cõi trần ai
1001 bài thơ Đêm Giao Thừa, tâm trạng chờ đón năm mới

BÀI THƠ: TIẾNG XUÂN
Thơ: Khánh Mỹ Trần
Em có nghe xuân về xuân gọi nắng
Én chao vờn xua khoảng lặng trời cao
Hàng cây xanh gió quyện lá thì thào
Dường câu nói ước ao niềm hạnh phúc

Em có nghe xuân về xuân thúc giục
Sợi tơ tình vừa kịp lúc đan nhau
Đào mai ơi nụ duyên hãy hé màu
Mừng năm mới nở mau vườn diễm hạnh

Em nhớ không tối giao thừa viếng cảnh
Ngọn đèn soi lóng lánh hạt sương đêm
Chùa linh thiêng khói tỏa ngát hương mềm
Nhành lộc rước, bên thềm ta khấn nguyện

Cả trời xuân ngập tràn bầu khí quyển
Khúc xuân tình uyển chuyển tiếng du dương
Nàng xuân ơi em đẹp đến vô thường
Trong khoảnh khắc vấn vương hồn trỗi dậy.

BÀI THƠ: NÍU XUÂN
Thơ: Khánh Mỹ Trần
Thò tay níu lại, nhỏ xuân cười
Úi úi buông dùm… rách cụ ơi
Khổ cái già thêm đành trách phận
Buồn cho tuổi lớn chỉ than trời
Mai đào trước ngõ khoe màu thắm
Bưởi hạnh sau nhà rộ sắc tươi
Mỗi một ta ngồi hong ước tủi
Nhìn quanh chả thấy bóng ai vời.

BÀI THƠ: MỘT CHÚT MÙA XUÂN
Thơ: Sinh Hoàng
Một chút nắng vàng ươm trong gió
Một chút mùa xuân rồi đó em ơi!
Chút bâng khuâng xen lẫn bồi hồi
Anh thầm đợi xuân về ngang ngõ

Em đã hẹn mùa hoa Mai nở
Về bên anh rạng rỡ mùa xuân
Xuân này xuân nữa mấy lần xuân
Anh vẫn đợi, chút mùa xuân vẫn đợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển chọn những bài thơ xuân hay nhất

Xem bói tình yêu và tính cách qua tướng tay nam giới

Xem bói tình yêu và tính cách qua tướng tay nam giới Đối diện với tình yêu, mỗi người có một thái độ và cách nghĩ khác nhau, sự khác biệt này có thể được phản ánh ngay trên bàn tay. Hiểu được cách nghĩ của đối phương khi xử lý vấn đế trong chuyện tình cảm, há chẳng phải sẽ rất tốt cho mối quan hệ với họ sao? Thông qua việc xem bói tướng tay nam giới sẽ giúp bạn hiểu rõ về mình hoặc người ấy của mình hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng tay giàu sức sống

Những người có hai tay cứng rắn, bàn tay dày dặn, đầu ngón tay như hình cái xẻng, hơi có chút thô kệch. Kiểu người này có sức sống dồi dào. Nếu như đường Sinhmệnh dài kéo xuống gần cổ tay, gò Kim tinh nhô lên đầy đặn, biểu thị là người có thể lực siêu phàm, nhu cầu tình dục của người này cũng rất mạnh mẽ.

Tướng tay có thực lực

Người mà có tỷ lệ giữa bàn tay và ngón tay tương xứng, các gò nổi lên đầy đặn. Kiểu người này có tinh lực dồi dào, xứng đáng là chỗ dựa. Nếu như thêm đường Vận mệnh hoặc đưòng Công danh kéo từ trên xuống thì đây có thể được coi là đấng nam nhi tài giỏi.

Tướng tay dị thường

Trên bàn tay mà đường Tình cảm không cùng một hướng, hỗn loạn, đứt đoạn, phân tán (A). Đường Tình dục (B) hoặc vòng Kim tinh khá nhiều. Kiểu người này khó có thể khống chê ham muốn tình dục. Hơn nữa, nếu như thêm đường Hôn nhân phân tán (D), đường Trí tuệ không rõ ràng (E), đây có thể là kẻ biến thái.

Tướng tay bản năng

Đa số những người có đường Tình cảm (A) quá ngắn, thể hiện tình cảm lộ liễu, không thế không chế tình cảm của mình, là kiểu người bản năng dùng cái tôi làm bản thể. Nếu như có thêm đường Trí tuệ cũng rất ngắn (B), thì đó chính là bàn tay của người xử lý công việc một cách thẳng thắn.

 

Tướng tay lý luận

Trong xem bói tướng tay người có các ngón tay dài, các khớp rõ ràng, thuộc tướng người theo đuổi lý luận. Nếu như thêm đường Trí tuệ cong kéo dài đi xuống đoạn giữa gò Nguyệt, đây sẽ là người đàn ông rất coi trọng những nhu cầu tinh thần.

Tướng tay cảm thụ

Bàn tay nhỏ dài, đẹp, ngón tay thon dài. Kiểu người này đa tình, thuộc phái người cảm thụ. Nếu đoạn đầu của đường Tình cảm có nhiều đường phân nhánh nhỏ thì đây là người có thể ôn hòa, nhẹ nhàng, đối đãi với người khác thì luôn chi ly tính toán.

Tướng tay thật thà

Bạn  thấy những người có ngón tay dài, đầu ngón tay vuông lànhững  người thật thà, quy củ, bất luận là công việc hay hẹn hò đều tuân theo quy tắc. Người đàn ông, sau khi ngón tay khép lại ở điểm đầu của đưòng Trí tuệ và đường Sinh mệnh chồng lên nhau là người thận trọng trong tình yêu.

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình yêu và tính cách qua tướng tay nam giới

Tìm hiểu về phụ nữ có “tướng dâm” –

Người phụ nữ có đôi mắt hào hoa, lại thêm lông mày như lá liễu là loại trăng hoa đáo để…. Tướng’ dâm” của phụ nữ qua tướng học. Trong Tướng mệnh học, người ta nhìn con người dưới nhiều khía cạnh khác nhau, từ những nhận xét về cơ thể học, tâm lý học,
Tìm hiểu về phụ nữ có “tướng dâm” –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về phụ nữ có “tướng dâm” –

Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Thiên trảm sát (thiên phong sát): Khu vực kinh doanh đối diện với 1 khe hở giữa các tòa nhà sẽ hình thành
Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Thiên trảm sát (thiên phong sát): Khu vực kinh doanh đối diện với 1 khe hở giữa các tòa nhà sẽ hình thành "phong sát". Điều này khiến tài vận lên xuống thất thường.

(Ảnh minh họa)

Ở Trung Quốc, nếu thiết kế cửa hàng phạm phải "thiên phong sát", có thể treo xâu tiền gồm 6 loại tiền cổ qua các triều đại (Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang) để hóa giải.

2. Hướng thủy chạy nghịch: Chỗ buôn bán trước mặt có con đường đi, từ chỗ cửa của cơ sở cao chạy xuống thấp hẳn mà chạy đi. Phong thủy gọi là “thủy long phản tẩu”, tài vận không tốt, không thích hợp mở cửa hàng.

3. Mặt đối ngõ nơi chết chóc: Trước mặt đối diện với cảnh chết chóc, sự nghiệp không có lối ra.

4. Hãn đinh bổng (đuổi nhân tài): Nếu như phía trước cửa chính hoặc cửa sổ của cửa hàng có cột đèn, hộp đèn lớn thì cửa chính đã phạm phải "hãn đinh bổng", đuổi nhân tài đi. Vì thế, khi lựa chọn cửa hàng cần lưu ý điểm này.

5. Rồng nước bò ngược: Khi vừa bước ra khỏi cửa hàng, thấy con đường lớn, hướng gần cửa thì cao sau đó thấp dần về phía trước, đó gọi là "Rồng nước bò ngược", bất lợi cho việc kinh doanh, buôn bán.

(Tổng hợp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

Giới là lộ trình sống thực của chân lý, kết tinh từ nhân cách phẩm chất đạo đức, nhằm nuôi dưỡng lớn công hạnh tự lợi, yếu tố tác thành đức Phật quả.
Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Giới là lộ trình sống thực của chân lý, được kết tinh từ nhân cách phẩm chất đạo đức, nhằm nuôi dưỡng lớn công hạnh tự lợi, lợi tha, một yếu tố tác thành Phật quả. Giới cũng chính là cơ năng nòng cốt để xây dựng trật tự kỷ cương, một con người toàn diện trong sáng, nâng cao trí thức, phát triển trí tuệ”.

Đức Thế Tôn đã là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác làm bất cứ việc gì cũng cẩn thận chu đáo, không sơ sót dù là một chuyện nhỏ. Trong 12 năm đầu khi giáo đoàn thành lập chúng tăng hầu hết phần đông là căn cơ trình độ giáo pháp cao siêu là những bậc thánh A- la- hán, thành phần tu tập đoạn dứt lậu hoặc. Những vị căn cơ còn thấp kém chỉ nghe đức Thế Tôn khai thị vài lần liền chứng ngộ. Vì thế nếp sống của chư Tăng thuở ấy hoàn toàn thanh tịnh. Tuy đức Thế Tôn chưa chế Giới luật nhưng Giới vẫn có, chỉ giới hạn được trình bày dưới dạng những hình thức đơn giản tổng quát về mặt hộ trì các căn.

Thế Tôn dạy: “Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, lưỡi nếm vị, mũi ngửi hương, thân xúc chạm, ý duyên pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, cũng không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến cho các căn không được duyên theo, không bị sinh tâm tham ái, ưu bi và các bất thiện pháp khởi lên, nếu có khởi lên Tỳ kheo liền chế ngự nguyên nhân ấy sống thực hành hộ trì các căn”.

Đức Thế Tôn thực hành qua giai đoạn thực hành Trung Đạo Đế, hành Bát chánh đạo dưới hình thức, Tỳ kheo nên giữ Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Qua sự trình bày như trên chúng ta thấy Giới luật tuy có mà chưa rõ ràng.

Trong Ngũ Phần Luật quyển 1, Ngài Xá Lợi Phất trình thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn làm sao để Chánh Pháp của đức Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ rồi Chánh Pháp ấy được tồn tại lâu dài”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch Thế Tôn tại sao con không thấy Thế Tôn chế giới mà chỉ nói Pháp?”

Đức Phật nói: “Này Tôn giả, ta biết thời phải làm gì, nay chưa đến thời ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”.

Ngài còn dạy rằng : “Nếu Ta chế Giới trước khi vi phạm, thì người đời sẽ phỉ báng ta. Họ sẽ bảo rằng tôi không có gây tội, sao lại cưỡng chế ra Giới luật. Đây không phải là nhất thiết trí. Như thế là Như Lai không có tâm từ bi, không lợi lạc, không bảo bọc chúng sanh. Như người không có con lại nói rằng sẽ sanh con vào giờ ấy. Chuyện ấy không thể tin, vì không chân thật. Nếu là sự thấy đứa con người ta mới tin được, cũng thế hữu lậu chưa sanh, tội chưa làm, trời người chưa thấy làm sao chế Giới được. Cho nên cần phải thấy rõ phạm tội, rồi sau đức Thế Tôn mới chế Giới, đây là đúng thời. Này Xá Lợi Phất như y sĩ biết là nguyên nhân tật bịnh và biết thuốc nào ngọt để trị bịnh ấy”.

Từ đó, dần dần về sau trong Giáo đoàn Tăng sinh các hữu lậu với mục đích tâm họ không chân chánh. Do đó tăng đoàn đã xảy ra nhiều trường hợp nhiều Tỳ kheo thiếu kỷ cương nề nếp, đời sống buông lung phóng túng, vi phạm tịnh hạnh … khiến cho Giáo đoàn của Phật bị mang tiếng xấu lây, lại có nhiều ý kiến mâu thuẫn. Để giải quyết những vấn đề đó, Thế Tôn bắt đầu chế Giới để đối trị những lỗi lầm đã xảy ra, ngăn ngừa hành vi bất thiện pháp sắp vi phạm hay đã phạm thì phải sám hối, đồng thời duy trì uy tín của Tăng đoàn.

Giới luật được đức Thế Tôn chế vào khoảng năm thứ 13 sau khi đức Phật thành đạo, nhưng tùy phạm tùy kiết, những Giới không nhất định phải chế Giới từ 3 – 4 lần mới thành một Giới. Đây là một trường hợp điển hình nói lên tính linh động và tầm mở rộng của Giới Luật. Trường hợp khác điển hình giới dâm, phải trải qua ba giai đoạn mới thành:

đức Phật
Tinh thần của đức Phật chế giới nhìn trên bề mặt là ý của đại chúng trong Tăng đoàn, Đức Phật chỉ là người chủ trì hoặc là người chứng minh trong quá trình chế giới. Giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của đại chúng.

– Giai đọan thứ nhất : Tôn Giả Tu Đề Na con trai của thôn trưởng Ca Lan Đa, do sự yêu cầu của người mẹ phải để lại đứa con trai để nối dõi tông đường, nên Tôn giả đã hành dâm với người vợ cũ. Sau sự việc xảy ra Tôn Giả bị lương tâm cắn rứt, cảm thấy hổ thẹn với những Tỳ kheo thanh tịnh nên thú nhận tội với chư Tăng, chư Tăng bạch Phật, Phật quở trách rồi chế giới: “Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được ở chung”.

– Giai đoạn thứ hai : Một Tỳ kheo chán nản đời sống phạm hạnh, về nhà hành dâm với vợ cũ. Vì trong Giới Phật chế không cho trường hợp chán nản đời sống phạm hạnh. Do đó, Thế Tôn chế thêm “Tỳ kheo nào đã trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo, chưa hoàn giới sút kém nhưng không phát lồ, hành dâm dục Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được sống chung”.

– Giai đoạn thứ ba : Một Tỳ kheo sống trong rừng, bị thiên ma nhiễu loạn, nên đã hành dâm với con vượn cái. Nghĩ rằng Giới luật đức Thế Tôn dạy không có trường hợp cùng với loài súc sanh, thêm lần nữa Đức Thế Tôn bổ túc thêm Giới trên cho đầy đủ “Tỳ kheo nào đã thọ trì học xứ và chấp nhận đời sống của Tỳ kheo chưa hoàn giới, giới sút kém những không phát lồ mà hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sanh, Tỳ kheo ấy là kẻ Ba La Di không được sống chung”.

Đức Thế Tôn thị hiện trên cõi đời vị mục đích giải thoát chúng sanh ra khỏi dòng sanh tử, nên Giới luật của Ngài không có tính cách cưỡng chế, bó buộc mà hoàn toàn vì an lạc của chúng đệ tử. Chính nhờ những Giới pháp đó mà Đức Thế Tôn đã tu hành đạt thành Chánh giác và đem sự sáng suốt truyền lại cho chúng sanh coi như Giới thân Huệ mạng của chính mình. Bởi thế trước khi nhập Niết Bàn, đức Thế Tôn đã ân cần Di giáo: “Sau khi ta diệt độ, các ngươi phải tôn trọng giữ gìn Ba-la-đề-mộc-xoa, như người nghèo gặp được của báu, như qua sông đặng ghe, như người bệnh gặp thầy thuốc v.v… phải biết pháp này là Thầy của các ngươi, dù ta có trụ thế cũng không ngoài pháp ấy”. Đức Phật là vị thầy thuốc chữa bệnh cho chúng sanh, nếu người không bệnh mà ra toa bốc thuốc thì người ấy sẽ phản kháng, họ sẽ nhất định không chịu, còn người mắc bệnh nếu được trị liệu họ sẽ cảm kích vô cùng, đây là tâm lý thông thường của mọi chúng sanh.

Như chúng ta nhận xét qua lời giải trong các kinh đức Thế Tôn giảng dạy xong lại nói rằng: “Tất cả pháp ta nói ra chỉ là phương tiện khi tu hành xong hãy buông bỏ”. Nếu hành giả đang thời hành đạo Giới thể đã mất, thời Giới thân Huệ mạng cũng không còn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên nhân đức Phật chế Giới Luật

Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Hợi

Tử vi tháng 6 âm lịch, quan hệ tam hợp Mộc cục Hợi Mão Mùi sẽ giúp đỡ người tuổi Hợi vượt qua khó khăn do Ất Mộc bày ra.
Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Hợi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Tử vi tháng 6 âm lịch, quan hệ tam hợp Mộc cục Hợi Mão Mùi sẽ giúp đỡ người tuổi Hợivượt qua khó khăn do Ất Mộc bày ra. 

Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc
 
Tử vi tháng 6 âm lịch, vận trình người tuổi Hợi trong tháng Ất Mùi, Ất Mộc lâm “Tử” vị tại Hợi, nữ mệnh bất lợi, bản mệnh dễ gặp thất bại. Tuy nhiên quan hệ tam hợp Mộc cục Hợi Mão Mùi sẽ giúp đỡ bạn vượt qua khó khăn do Ất Mộc bày ra. Vận tài lộc có nguy cơ và thách thức song hành, có giúp túi tiền mình to ra hay không đều nằm trong đôi bàn tay bạn. Chuyện tình cảm hơi xa rời thực tế, nữ tuổi Hợi khó mà đón nhận nhân duyên mới trong tháng. Đặc biệt khi Ngũ Quỷ xuất hiện, người này cần đề cao cảnh giác. Điềm phá tài, xô xát gia đình hay bệnh tật hao tiền tốn của luôn có thể xảy ra.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 2
 
Ất Mộc lâm “Tử” vị tại Hợi, Tử vị là một trong 12 cung trường sinh vị theo Thất Tú Phái. Phương pháp này dựa theo địa chi của ngày tháng năm và giờ để luận ra vận trình cũng như tính cách con người. Trường sinh vị là để chỉ cách con người nắm bắt vận mệnh, cách sáng tạo, cách xây dựng và phát triển cuộc sống của họ.   Vì vậy khi người có mệnh tọa trường sinh thì nên nắm bắt huyền cơ của nó, thực hiện công tác nghiên cứu, thực hiện một cách thỏa đáng nhất giúp vận trình từng bước hanh thông. Tử vị là một từ không được tốt về mặt ngữ nghĩa, nhưng nếu ứng vào con người thì bản mệnh đã bước vào giai đoạn già dặn, không có sóng gió gì bạn không từng trải qua. Gặp khó khăn, người tuổi Hợi lại càng rõ ràng mục đích mình đang theo đuổi, chỉ cần kiên trì lãnh đạo sẽ hiểu ra con người bạn. Nếu có ý tưởng nên mạnh dạn đề bạt với lãnh đạo, quan hệ bán hợp Mộc cục sẽ giúp bạn hết mình.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 3
 
Vận trình tài lộc của người tuổi Hợi lại khác hoàn toàn với sự nghiệp, Hợi Mão Mùi bán hợp cục, Hợi tọa “vượng” vận tại mộc cục vận trình tài lộc có nhiều hướng tiến triển mới. Thách thức có, thuận lợi cũng nhiều, chủ yếu do bản lãnh người tuổi Hợi có thể nắm bắt được hay không mà thôi!    Bản mệnh cũng đừng để vận trình “Tử” vị ảnh hưởng tới sự minh mẫn của bạn.  Tử trong mệnh lý có nghĩa con người không linh hoạt, có chút lú lẫn, tránh để sai lầm trong số liệu khiến bản thân phải tự móc hầu bao đền bù.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 4
 
Chuyện tình cảm của bạn lại gặp nhiều bất lợi từ Ất Mộc “Tử” vị trường sinh vị. Người tuổi Hợi trở nên lãnh đạm với cuộc sống vợ chồng, gặp chút rắc rối về công việc cũng khiến bạn nghĩ không thông mà còn trút giận lên người còn lại. Tâm địa hẹp hòi, người kia phạm chút sai lầm cũng làm bạn tức giận.    Quan hệ tam hợp Mộc khiến bản mệnh Hợi có nhiều suy nghĩ hoang đường, xa rời thực tế. Xem và đọc quá nhiều chuyện ngôn tình không phải là cách giải thoát hiện tại bế tắc. Tuy vậy, nửa kia có thể nhân lúc người này yếu lòng mà xin lỗi theo cách lãng mạn nhất. Một tấm thiệp, một tin nhắn bất ngờ, một cuộc gọi hỏi thăm… sẽ là cách xoá nhòa  mâu thuẫn nhanh nhất.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 5
 
Tháng Ất Mùi, Mộc khí vượng, do gan Hỏa quá vượng tổn thương âm phần xuất hiện các hiện tượng ho khan, đau nửa đầu, hay phiền não, mắt đỏ… Nếu mắt bạn thường xuyên bị hoa, nhìn không rõ đồ vật tức tính năng của gan tạng đang đi xuống. Mắt hành Mộc, mọi căn khí ngũ hành của gan đều ảnh hưởng tới mắt. Mắt giật, mắt lồi, mắt nở lớn là dấu hiệu Mộc của gan vượng (Trương Phi, tướng nhà Thục trong Tam quốc chí, là người rất nóng tính, biểu hiện Mộc của Can vượng, mắt của ông lúc ngủ cũng mở lớn như người đang thức).   Nhìn chung, tháng Ất Mùi sẽ cát lợi nếu bạn biết cách lợi dụng vận thế sẵn có. Tránh đâm đầu vào “Tử” vị, lười suy nghĩ, lười vận động. Ngược lại, cần tích cực tham gia hoạt động tập thể, tìm cách sáng tạo, tránh lối mòn công việc, đây mới là cách mở rộng tiền đồ của bạn.   Chuyện tiền tài nên tận dụng mọi cơ hội tới với mình, tam hợp cục “vượng” tại Hợi  nên khả năng kiếm tiền của bạn sẽ mạnh hơn các tháng khác. Vượng tức sinh tài, cơ hội làm ăn dồi dào, khả năng tích luỹ cũng lớn.   Chuyện tình cảm lại trở nên hoang đường hơn, người độc thân quá mơ mộng vào một đối tượng hoàn mĩ còn chưa xuất hiện. Người có gia đình đòi hỏi quá nhiều từ người kia gây không khí nặng nề trong nhà. Mặt sức khỏe, bản mệnh Hợi cần cân bằng ngũ hành trong cơ thể, tam hợp cục vượng Mộc khiến bản mệnh Thủy tiêu hao, sức đề kháng kém đi. Người này nên bổ sung hành Kim, tiếp thêm sinh lực cho bản mệnh giúp bản mệnh mạnh khỏe, cường tráng. 
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 6
 
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Hợi

Các sao xấu – Hung tinh –

1. Sao Cang - Nguyên (Cang Kim long) - hành Kim - sao xấu Ngày có sao Cang - Nguyên chiếu cần tránh chôn cất người qua đời; cưới, hỏi; mọi việc thương mại buôn bán. 2. Sao Đê (Đê Thổ lạc) - hành Thổ - sao rất xấu Ngày có sao này không nên động thổ;

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

H 1

1. Sao Cang – Nguyên (Cang Kim long) – hành Kim – sao xấu

Ngày có sao Cang – Nguyên chiếu cần tránh chôn cất người qua đời; cưới, hỏi; mọi việc thương mại buôn bán.

2. Sao Đê (Đê Thổ lạc) – hành Thổ – sao rất xấu

Ngày có sao này không nên động thổ; dựng nhà; cưới hỏi; kinh doanh; ký kết; giao dịch; xuất hành.

Thơ rằng:
“Đê tinh rất hung đủ mọi đường

Động thổ, hôn nhân dễ tai ương

Giao thương, ký kết, thuyền dễ đắm

Xuất hành, xây cất, thật buồn thương”.

3. Sao Tâm (Tâm Nguyệt hồ) – hành Kim – sao rất xấu

Ngày có sao Tâm chiếu không nên cưới xin, đính hôn, kinh doanh, kiện cáo.

* Đó là 3 sao rất xấu (đại hung) trong cụm Thanh long ở hướng Đông.

4. Sao Ngưu (Ngưu Kim ngưu) – hành Kim – sao xấu

Ngày có sao này làm gì cũng hao tốn sức lực và tiền của mà không có kết quả.

5. Sao Nữ (Nữ Thổ bấc) – hành Thổ – sao xấu

Ngày có sao này kiêng giao dịch, ký kết, sinh đẻ.

Thơ rằng:
“Nữ tinh là nữ phải giữ mình

Sinh đẻ canh chừng chớ coi khinh

Giao dịch, hợp đồng phòng lừa đảo

Tổn hao tài sản, lụy đến mình”.

6. Sao Hư (Hư nhật thử) – hành Hỏa – sao xấu

Cần thận trọng trong quan hệ yêu đương, dễ dang dở nên nam nữ cần tránh quá đà.

Có thơ rằng:
“Sao Hư chiếu tới chủ tai ương

Nam nữ gần nhau phải giữ chừng

Một phút quá đà hoa dễ héo

Mối tình rất khó mãi yểu thương”.

7. Sao Ngụy (Ngụy nguyệt yếu) – hành Kim – sao xấu

Ngày có sao này tránh làm nhà, kinh doanh vì làm nhà không chắc được ở, kinh doanh thua lỗ.

Các việc hiếu (đến đám tang, cúng bái) đều nên tránh.

* Đó là 4 ngôi sao mang lại điều chẳng lành trong cụm sao Huyền vũ ở hướng Bắc.

8. Sao Mão ngang (Mão Nhật kê) – hành Hỏa – rất xấu

Ngày có sao này tránh làm nhà, gây giống, chăn nuôi, nhậm chức, đính hôn, cưới; nếu làm nhà có thể thiệt người, làm quan dễ gặp họa, hôn nhân không hạnh phúc.

9. Sao Chủy (Chủy hỏa cầu) – hành Hỏa – sao xấu

Ngày có sao Chủy cần thận trọng trong việc chính quyền, kiện tụng, quan chức; dễ mắc họa tai; dễ bị điều tiếng.

* Đây là hai sao xấu trong cụm sao Bạch hổ ở hướng Tây.

10. Sao Quỷ (Quỷ kim dương) – hành Kim – rất xấu

Ngày có sao này nếu làm nhà thì chủ sẽ thiệt mạng, cưới hỏi nên tránh. Riêng các việc hiếu, tang thì được.

11. Sao Liễu (Liễu thổ chương) – hành Thổ – rất xấu

Ngày có sao này làm gì cũng hao tổn và nguy hại, phải thận trọng. Nên làm điều thiện.

12. Sao Dực (Dực hỏa xà) – hành Hỏa – sao rất xấu

Ngày có sao này tránh làm nhà; quan hệ yêu đương cần thận trọng.

* Lưu ý:
Các ngôi sao này được đề cập ở lịch vạn niên.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các sao xấu – Hung tinh –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd