Đặt tên bé trai hay nhất –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Đại vận và cách xác định
Những người nam sinh năm Dương (như năm Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm), nữ sinh năm Âm (như năm Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý): vòng chu chuyển của vận theo chiều thuận của kim đồng hồ (như Giáp --> Ất --> Bính --> Đinh --> Mậu --> Kỷ --> ...). Cách tính đại vận: kể từ ngày sinh, đếm thuận đến ngày chuyển tiết sang tháng mới xem bao nhiêu ngày, sau đó chia cho 3, kết quả là số của đại vận. Ví dụ: người nam sinh ngày 21/5/Bính Tuất (2006), ngày 13/6 là ngày Tiểu thử là ngày sang tháng 6 âm. Ta đếm từ 22/5 đến 13/6 là 21 ngày, lấy 21:3=7. Vậy đại vận đầu là 7, sau là 17, tiếp là 27, 37, 47, 57, 67, 77 (cộng 10)... Nếu phép chia dư 1 hay 2, ta bỏ số dư này. Nữ sinh cũng năm 2006, ví dụ ngày 7/5. Ngày chuyển tiết từ tháng 4 sang tháng 5 là 11/5 Mang chủng. Ta xuất phát từ chính ngày chuyển tiết này là 11/5 đếm lùi lại đến 7/5 đúng 4 ngày, ta lấy 4:3=1 dư 1. Vậy đại vận người nữ này là 1, tiếp 11, rồi 21, 31, 41, 51, 61, 71, 81...(cộng 10).
Nam sinh năm Âm, nữ sinh năm Dương, chu chuyển của vận theo chiều nghịch của kim đồng hồ, như: Kỷ --> Mậu --> Đinh Bính --> Ất --> Giáp --> Quý --> Nhâm --> Tân --> Canh --> Kỷ -->... Cách xác định đại vận tính như cách trên.
1. Cách sắp xếp nam sinh năm Dương
Ta xét ví dụ sau: Sinh năm Bính Tuất (2006), ngày 15 - Canh Ngọ, tháng Năm- Giáp Ngọ, giờ Tân Tỵ (từ 9h-11h).
Bước 1: xếp thứ tự bát tự năm sinh như sau:
Bước 2: tính số đại vận: đây là người sinh năm dương, nên đại vận chu chuyển theo chiều thuận kim đồng hồ. Đếm từ ngày 15 đến ngày chuyển tiết là 13/6 Tiểu thử đúng 27 ngày, lấy 27:3=9. Vậy đại vận đầu tiên là 9 tuổi, tiếp theo là 19 tuổi, 29,39,49, 59, 69,79,...
Bước 3: xếp vận trình cho cả cuộc đời:
Công thức xếp như sau: nam sinh năm dương, theo chiều thuận lấy Can Chi tháng sinh tiếp sau làm năm đại vận đầu tiên, sau đó cứ thuận theo can chi tháng tiếp theo mà ghi. Ví dụ trên, tháng 5 Giáp Ngọ, vậy đại vận đầu là Ất Mùi 9 năm, tiếp Bính Thân 19 năm,...Ta sắp xếp như sau:
2. Cách sắp xếp nữ sinh năm Dương:
Ta xét ví dụ sau: người nữ sinh năm Bính Tuất (2006), ngày Canh Ngọ: 15/5, giờ Tân Tỵ.
Bước 1: xếp thứ tự bát tự của năm sinh như sau:
Bước 2: tính số đại vận như sau: nữ sinh năm dương theo chiều nghịch, tính từ ngày sinh đếm ngược đến ngày chuyển tiết của tháng trước sang tháng có ngày sinh, ở đây, ngày 11/5 tiết Mang chủng là gianh giới giữa tháng 4 sang tháng 5 âm lịch. Từ ngày 15 ngược đến ngày 11 là 4 ngày, lấy 4:3=1 dư 1, vậy đại vận đầu tiên cuộc đời của họ là 1 năm, sau đó là 11 năm, tiếp là 21, 31, 41, 51, 61, 71, 81... năm (cộng 10 liên tiếp).
Bước 3: xếp vận trình cả cuộc đời:
Công thức tính như trên, nhưng xếp ngược: bắt đầu từ tháng Can Chi tháng trước tháng sinh. Người này sinh tháng Giáp Ngọ, Can Chi tháng trước là Quý Tỵ, ta xếp như sau:
Cách xếp đặt đại vận nam sinh năm âm, nữ sinh năm âm tương tự. Để dễ xếp đặt, người lập mệnh cần xem chính xác ngày chuyển tiết từ tháng này sang tháng khác, để làm mốc tính số ngày sinh kể từ ngày sinh, sau đó chia cho 3 để tìm đại vận ban đầu (khi chia có dư bỏ số dư). Việc đếm thuận hay nghịch số ngày sinh tuỳ thuộc vào năm sinh âm hay dương của nam hay nữ. Để xác lập Lục thần của từng đại vận, xin xem kỹ phần Nhân nguyên và bảng sinh khắc tính nhanh lục thần đã nêu trên.
Luận về đại vận, các nhà mệnh lý xưa cho rằng, mệnh tốt là cái cơ bản tạo ra diễn trình cuộc đời của một người tốt đẹp. Nếu trong diễn trình cuộc đòi mệnh không đẹp, gặp đại vận tốt thì cái xấu có giảm đi, nhưng không đáng kể.
Trong mỗi một đại vận đều có những thần trong 10 thần làm chủ. Do vậy, khi sắp xếp xong tứ trụ thời gian sinh của một người, phải kết hợp với Nhật can (ngày sinh) của tứ trụ để xét sự sinh khắc, tìm sự xuất hiện các thần (trong 10 thần) để cùng xét chung với các dữ kiện khác trong tứ trụ.
Nếu các thần trong tứ trụ kỵ với dụng thần (dụng thần: sẽ nói chi tiết sau đây) là không hay, nhưng mức độ tốt hay xấu như thế nào, còn phải xem xét với các dữ kiện khác nữa có trong tứ trụ. Để xét đoán chính xác diễn trình cuộc đời một người qua trứ trụ của họ, các nhà mệnh lý xưa cho rằng, cần phải nắm vững mức độ sinh khắc hình xung càng chính xác thì sự xét đoán càng chính xác. Nắm được hỷ kỵ của mười thần trong đại vận có quan hệ tốt xấu của từng năm (người xưa gọi là lưu niên). Nắm vững sự hỷ kỵ này là nắm được những cái chính trong vận và mệnh của một người.
II. Xác định tiểu vận
Tiểu vận là sự thay đổi về chất trong từng năm trong từng đại vận. Xét về những thay đổi cuộc đời của một người, qua tiểu vận cụ thể hơn. Ngày nay, cách xác định tiểu vận thường được tính như sau:
Lấy Chi của giờ sinh mà khởi tiểu vận. Nếu Dương nam và Âm nữ thì: từ giờ sinh tính đi theo chiều thuận kim đồng hồ, ví dụ như: sinh giờ Giáp Tý, thì 1 tuổi là Ất Sửu, 2 tuổi là Bính Dần, 3 tuổi là Đinh Mão...
Cũng như vậy, nếu Âm nam, Dương nữ: cũng giờ sinh Giáp Tý: thì tính lùi lại hay theo chiều ngược kim đồng hồ, như: 1 tuổi là Quý Hợi, 2 tuổi là Nhâm Tuất, 3 tuổi là Tân Dậu, 4 tuổi là Canh Thân...
III. Đại vận và lưu niên
Các nhà mệnh lý cho rằng, mệnh là sự hưng suy của cả cuộc đời, nó phản ánh những thuận lợi hay khó khăn của từng giai đoạn. Lưu niên là năm một người đang trải qua và sẽ trải qua, nó là chủ thể của mọi sự kiện sẽ đến với một người. Do vậy, sự tương sinh tương khắc, xung hình giữa đại vận và lưu niên (thông qua sinh khắc của ngũ hành trong bát tự được lập của một người, như mệnh, đại vận, tiểu vận, lưu niên...) phần nào có thể cho biết những diễn biến cuộc đời của một người.
1. Vận chu chuyển thuận là tốt
Quy luật tự nhiên, vạn vật diễn trình có thể thuận hoặc nghịch hay xáo trộn. Vận của một người cũng vận hành theo những trạng thái như vậy, nếu thuận là tốt, không thuận hay xáo trộn là ngược lại. Vận của một người vận hành thuận theo 12 diễn trình theo vòng Trường sinh từ: Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Tuyệt, Thai, Dưỡng rồi lại về Trường sinh....
Vận hành mệnh của một người theo chu trình trong bảng trên, nếu theo chiều thuận thứ tự như trên là tốt, còn nghịch lại thì không hay. Các nhà mệnh lý cho rằng, đã có tuổi, già cả mà mệnh theo quy luật phải là suy (tốt), nhưng lại rơi vào Đế vượng, thật trái quy luật thì xấu. Đối với người trẻ mệnh sợ rơi vào suy, trung niên sợ nhất vào Tử, Tuyệt, Thai. Ví dụ trên, người nam sinh năm Bính Tuất (2006), ngày Canh Ngọ, Tháng Giáp Ngọ, giờ Tân Tỵ, đại vận năm 59 tuổi rơi vào năm Canh Tý; Lấy Can nhật chủ tức Can ngày sinh là Canh (Ngọ), rơi vào Chi Tý của đại vận 59 tuổi, đối chiếu thấy hành vận rơi vào Tử, như vậy hành vận của người này thuận, đúng quy luật, là tốt. Cũng ví dụ này đối với người nữ như nêu trên, đại vận lúc 61 tuổi rơi vào Đinh Hợi. Nhật chủ cũng là Canh Ngọ, đối chiếu Canh với Hợi là bệnh, hành vận của người nữ này cũng đúng quy luật, cuộc đời tốt.
Nhà mệnh lý còn cho rằng, Vận sinh Mệnh là tốt, Vận khắc Mệnh thì không lợi. Ví dụ trên, người nam sinh năm Bính Tuất là thổ, đại vận năm 49 tuổi là Kỷ Hợi Mộc, Mộc khắc Thổ, nên đại vận này chưa tốt. Đến đại vận 59 tuổi là Canh Tý Thổ, vận và mệnh tỵ hoà, nên đại vận này nói chung là có tốt. Cũng ví dụ như trên, người nữ Bính Tuất đến đại vận 51 tuổi là Mậu Tý Hoả, Bính Tuất Thổ được Hoả sinh hay vận sinh mệnh, thế là tốt. Đại vận năm 61 tuổi là Đinh Hợi hành Thổ, mệnh vận đều Thổ tỵ hoà, nên đại vận này cũng được.
2. Dự đoán qua Đại vận và Lưu niên
Các trường hợp có thể xảy ra giữa đại vận và lưu niên như sau:
1. Hỉ thần, dụng thần của Mệnh Cục thì đại vận và lưu niên đó tốt.
Hai là: đại vận và lưu niên là kỵ thần của mệnh cục thì cả đại vận và lưu niên đều xấu.
2. Nếu cả hai không là hỉ thần, kỵ thần, dụng thần của mệnh cục, thì đại vận và lưu niên đó bình thường.
3. Đại vận hoặc lưu niên hình xung khắc hợp làm mất hỷ thần, dụng thần trong mệnh cục là chuyển tốt thành xấu.
4. Đại vận hoặc lưu niên là hỷ thần hay dụng thần, nhưng bị một chữ nào đó trong mệnh cục xung khắc hay hợp hỉ thần, dụng thần của đại vận, lưu niên thì tốt, nhưng không thực, nên thành bình thường.
5. Đại vận hoặc lưu niên là kỵ thần nhưng có một chữ nào đó xung, khắc mất hoặc hợp chặt kỵ thần ấy thì xấu vừa, thành bình thường.
6. Đại vận hoặc lưu niên hợp hoá thành với mệnh cục thì lấy hoá thần đó để luận cát hung. Hoá thành hỷ thần, dụng thần là tốt, hoá thành kỵ thần là hung.
7. Đại vận hay lưu niên hình phạt mệnh cục đều không hay.
8. Địa chi của đại vận và lưu niên phát sinh thiên khắc địa xung với nhau, hay can chi của đại vận và mệnh cục cũng vậy, hoặc lưu niên và mệnh cục xung khắc với nhau thì đều chủ về hung.
9. Trong đại vận và lưu niên, mệnh cục có 4 chi hợp với một chi, 4 can hợp với một can, một chi hợp với 4 chi, hoặc 1 can hợp với 4 can thì báo tình cảm có sóng gió, bệnh tật hoặc thất thoát tài sản.
10. Trong mệnh cục lấy thương quan làm dụng thần, có thế tan nát nhân duyên, kiện tụng hay phá sản.
11. Mệnh cục, đại vận, lưu niên có 6 địa chi hợp thành 2 cục khác nhau hoặc tam hợp cục tương khắc nhau thì đại hoạ đến nơi, sự sinh tử khó tránh.
12. Đại vận, lưu niên thấy 2 chi xung một chi, xung nhập cung thê là ảnh hưởng đến vợ, cung phu ảnh hưởng đến chồng, cung phụ mẫu là cha mẹ, cung tử tức là con cái.
13. Can ngày khắc can của lưu niên (năm đang trải qua - tuế quân) thì xấu, nếu có can khắc hợp hoặc quý nhân thiên đức thì khó tiến tài, không gặp của.
14. Trong đại vận, lưu niên và mệnh cục xuất hiện 4 chi: Tý , Ngọ, Mão, Dậu thì tốt.
Các nhà mệnh lý chia mệnh cục thành 4 thời kỳ: từ năm sinh đến 15 tuổi; từ 16 - 31 tuổi; từ 31 - 47 tuổi; từ 47 - 65 tuổi.
IV. Lưu niên và thái tuế
Theo các nhà mệnh lý, lưu niên chính là năm đang trải qua, ví dụ: đang trải qua năm 2007 là năm Đinh Hợi thì Đinh Hợi chính là lưu niên. Còn Thái tuế - là Chi của lưu niên trùng với chi năm sinh của một người, ở đây Hợi là Chi của lưu niên, nên những người sinh năm Hợi là phạm Thái tuế (năm sinh trùng với năm đang diễn ra); năm 2009 Kỷ Sửu, ai sinh vào năm Sửu là phạm Thái tuế. Năm Quý Tỵ 2013 là năm lưu niên, ai sinh vào năm Tỵ thì đối với họ năm 2013 là năm Thái tuế, người sinh vào các năm khác thì không. Như vậy trong năm đương niên, không phải ai cũng phạm Thái tuế.
Theo các nhà mệnh lý xưa trong dự báo theo Tứ trụ Bát tự, xét Thái tuế là xét Can Chi của Ngày sinh hay Nhật chủ có trùng hay không trùng với Can Chi năm sinh. Thông qua sự hình xung khắc hại giữa Nhật chủ và Thái tuế, giữa Đại vận và Thái tuế cũng cho biết tình trạng của một người. Cụ thể như sau:
1. Thiên khắc địa xung: đó là khi Can Chi của lưu niên khắc Can Chi của Nhật chủ (cột ngày), hoặc Can Chi Nhật chủ khắc Can Chi lưu niên. Ví dụ lưu niên Mậu Ngọ (Mậu Thổ, Ngọ Hoả), người có ngày sinh (Nhật chủ) Giáp Tý (Giáp Mộc, Tý Thuỷ) khắc lưu niên, như vậy đã bị thiên khắc địa xung, năm này rất không hay.
2. Xung khắc Tuê vận: vẫn lấy cột ngày Nhật chủ làm chuẩn, nếu nó khắc Thái tuế thì tai hoạ nặng. Nếu Can Chi ngày sinh vừa xung khắc với Thái tuế, vừa xung khắc với đại vận mà không được các Can Chi trong 4 cột thời gian hoá giải hay cứu giải thì rất nguy hiểm tới cuộc sống. Ví dụ ngày sinh (Nhật chủ) là Canh Ngọ (Canh Kim, Ngọ Hoả), gặp lưu niên là Giáp Thân (Giáp Mộc, Thân Kim), gặp đại vận là Ất Dậu (Ất Mộc, Dậu Kim) thì Nhật chủ Canh Ngọ khắc cả hai tình huống này, năm này người đó rất nguy hiểm.
3. Tứ trụ đều xung khắc Thái tuế: cũng nguy đến tính mạng. Ví dụ Nhật chủ là Dậu Kim, cột năm cột tháng cũng là Dậu Kim; hoặc ngày là Dậu Kim, tháng , giờ là Dậu Kim, lưu niên, Thái tuế là Mão Mộc, như vậy 3 Dậu khắc 1 Mão, 1 Mão xung 3 Dậu. Nếu trong 4 cột thời gian và đại vận không có Can Chi nào cứu giải (Tương sinh) thì tính mạng không an toàn.
4. Tứ trụ, đại vận, tiểu vận kết lại hình xung, khắc, hại Thái tuế: Như Nhật chủ, tháng, đại vận đều là Dậu Kim; hoặc Nhật chủ, đại vận, tiểu vận đều là Dậu Kim, thái tuế là Mão Mộc, như vậy là 3 Dậu Kim khắc 1 Mão Mộc, hoặc 1 Mão xung 3 Mộc (Dậu), nếu trong tứ trụ không có Can Chi nào cứu giải thì báo tai họa.
5. Trong tứ trụ có khắc Thái tuế sinh tai vạ: có trường hợp cả năm, tháng, nhật chủ, giờ đều thiên khắc địa xung phạm đến Thái tuế. Như: năm, tháng, ngày, giờ đều là Mậu Ngọ, lưu niên là Nhâm Tý đều bị chúng xung khắc, nhưng hiếm có khi xảy ra như vậy. Phổ biến là năm, hoặc tháng, hay Nhật chủ thiên khắc địa xung với thái tuế. Theo các nhà mệnh lý, năm là cha mẹ, tháng là anh chị em, ngày là mình và vợ, giờ là con cái, nếu thiên khắc địa xung năm sẽ ảnh hưởng đến mình mà còn ảnh hưởng đến cha mẹ, người trong nhà. Sự ảnh hưởng này nặng hay nhẹ còn tuỳ trong tứ trụ có các can chi nào hoá giải hay không. Trường hợp thiên khắc địa xung với thái tuế ở cột giờ, ngày, tháng xét tương tự.
6. Thái tuế và vận cùng gặp nhau thì chủ về hung: nghĩa là khi Can Chi của đại vận và Can Chi của lưu niên giống nhau, như đại vận là Tân Mùi, lưu niên cũng là Tân Mùi, các nhà mệnh lý xưa nói: tuế vận gặp nhau không mất mình cũng mất người thân. Nhưng nếu có các Can Chi cứu giải thì mọi việc lại khác.
7. Tương sinh tương hợp thì có tin mừng: đó là khi lưu niên, thái tuế, Nhật chủ, dụng thần giống nhau thì có quý nhân, có tin mừng, có thắng lợi.
Nếu Nhật chủ (cột ngày) hoặc dụng thần hợp thái tuế sẽ gặp may trong mọi việc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Máy giặt hiện đang là một trong những đồ gia dụng cần thiết và không thể thiếu trong các gia đình. Nó giải phóng phụ nữ khỏi những thau đồ khổng lồ, cho họ thêm thời gian để lo việc cá nhân. Trong thời hiện đại, cuộc sống của hầu hết mọi người đều không thể thiếu vắng máy giặt.
Dù là vật dụng hiện đại nhưng máy giặt cũng có vai trò rất quan trọng trong phong thủy. Vì vậy mọi người không nên coi thường những chiếc máy giặt tưởng như vô tri vô giác này.
Không nên đặt máy giặt trong phòng bếp
Không nên đặt máy giặt trong bếp (Ảnh: Internet)
Thông thường nếu nhà quá chật người ta sẽ đặt máy giặt trong phòng bếp để tận dụng không gian. Đây không phải là vị trí tốt vì theo phong thủy, đặt máy giặt trong phòng bếp sẽ khiến gia đình thường nảy sinh bất hòa, tranh chấp. Bình thường các chuyên gia phong thủy sẽ khuyên mọi người không nên đặt máy giặt trong phòng bếp. Ngoài ra máy giặt cũng ứng với dạ dày, nhà bếp là lửa, đặt máy giặt trong bếp sẽ gây bất lợi đến cơ thể chủ nhà, lâu dài sẽ phát sinh các bệnh liên quan đến bao tử.
Không nên để máy giặt ở ban công
Ban công cũng là nơi cấm kị để máy giặt (Ảnh: Internet)
Trong phong thủy, máy giặt đặt ở ban công là điều cấm kỵ. Theo chuyên gia, ban công không nên để đồ lặt vặt, trồng các loại dây leo hay đồ gia dụng. Đặt máy giặt ở ban công không chỉ che ánh sáng vào nhà mà còn giảm khí lưu thông, gây tắc đọng khí xấu ảnh hưởng đến sức khỏe gia chủ. Nếu như bắt buộc phải đặt máy giặt ở ngoài ban công thì nên đặt theo hướng đông hoặc hướng đông nam để giảm bớt tác động xấu.
Không nên đặt máy giặt ở tường bên phải
4 phương của gia đình là Thanh Long, Chu Tước, Bạch Hổ và Huyền Vũ. Một gia đình bình an, hạnh phúc nghĩa là 4 phương cân bằng và khắc chế lẫn nhau. Tường phải của gia đình là phương Bạch Hổ chủ về sự hung hại, tường trái của căn nhà là Thanh Long chủ về sự cát lợi. Đặt máy giặt sát tường phải đồng nghĩa với việc Bạch Hổ được hỗ trợ để mạnh hơn. Bạch Hổ mạnh, Thanh Long yếu sẽ tạo thành thế "Bạch Hổ chèn ép Thanh Long", ảnh hưởng xấu đến cả gia đình.
Tốt nhất nên đặt máy giặt trong nhà vệ sinh, vừa thuận tiện cho việc giặt đồ vừa hợp phong thủy.
Tốt nhất nên đặt máy giặt trong nhà vệ sinh, vừa thuận tiện cho việc giặt đồ vừa hợp phong thủy. (Ảnh: Internet)
Nhà vệ sinh là nơi nhiều nước, máy giặt lại thuộc tính nước nên cả hai bên đều không ảnh hưởng xấu đến nhau.
Các hướng đặt máy giặt tốt:
Hướng Đông hoặc Đông Nam: Nếu hai vợ chồng thuộc mạng Mộc thì nên đặt máy giặt ở hướng này là tốt nhất. Nhà vệ sinh thuộc Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa giúp gia đình ấm áp hạnh phúc.
Đặt ở hướng Nam: Hướng Nam thuộc hỏa, nhà vệ sinh là âm hỏa, có tác dụng tương sinh giúp gia đình hòa thuận.
Tuyệt đối không nên đặt máy giặt ở các hướng:Hướng Đông Bắc, Tây Nam: Nếu hai vợ chồng mệnh Thổ, mà đặt máy giặt ở hướng này trong phong thủy gọi đây là vị trí "quỷ môn" khiến gia đình bất hòa, hay lo lắng.
Hướng Tây, Tây Bắc: Nếu hai vợ chồng mệnh Kim sẽ thường cãi nhau.
Hướng Bắc: Hướng Bắc cực xấu, chịu ảnh hưởng nhiều nhất là người lớn tuổi trong nhà.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu xem nhé. Con người thường hay sợ cô đơn, chẳng thế mà ai cũng thích có người bầu bạn, có người yêu thương. Nhưng đâu phải cứ muốn yêu là được, có người yêu nhau thì cũng có nhiều người vẫn một mình.
Bạn bè xung quanh lần lượt có đôi có lứa, bạn vẫn độc thân. Nhìn mọi người hạnh phúc kết hôn rồi sinh con đẻ cái, chắc hẳn những trái tim cô đơn không khỏi thấy chạnh lòng, cũng thập phần ngưỡng mộ.
Rồi lễ Tết, cưới xin, gia đình họp mặt, đi đâu người ta được dăm ba câu chào hỏi là đến tiết mục tra khảo “Dạo này có ai chưa?”, “Bao giờ cho cô/bác/anh/chị ăn cỗ?”, “Khi nào lấy chồng/lấy vợ?”… Cứ phải gọi là căng thẳng, chẳng thua kém gì tra khảo.
Có người yêu rồi còn đỡ, chứ chưa có ai như bạn thì càng khốn khổ vô cùng. Nhất là lũ bạn, chẳng ngại ngần gì mà chọc vào nỗi đau: “Sao giờ vẫn ế?”
Bạn đâu thua kém gì ai, cũng chẳng phải xấu tới “ma chê quỷ hờn”, vì sao bạn vẫn độc thân? Hãy xem lý do của bạn có giống với câu trả lời của 12 con giáp không nhé.
Còn nếu bạn vẫn hoang mang chưa biết lý do tại sao mình ế, vậy thì hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn nhìn rõ vấn đề để sớm tìm được một nửa yêu thương.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
hổ biến trong giới đá quý ngày nay là Đá Canxedon. Bài viết sau cùng Tìm hiểu về đá Canxedon.
Nội dung
Canxedon là một loại đá được tạo thành bởi thạch anh và các hạt moganit rất nhỏ và xen kết nhau. Thạch anh hay moganit đều có thành phần giống nhau nhưng cấu trúc tinh thể lại khác nhau, moganit là tinh thể đơn tà còn thạch anh lại là hệ tinh thể ba phương.
Đá Canxedon có màu khá mờ và ánh sáp, nhưng rất đa dạng về màu sắc, phổ biến nhất là xám xanh, trắng tới xám và nâu tới đen. Canxedon không hoàn toàn được gọi là đá quý mà là đá bán quý.
Đá mã não (Agat) cũng là một dạng của Canxedon nhưng có bề mặt gồm nhiều vân đồng tâm.
– Tạo thành trong các lỗ hổng trong nhiều loại đá khác nhau, đặc biệt là trong dung nham núi lửa. Phần lớn Canxedon thành tạo ở nhiệt độ tương đối thấp, là sản phẩm kết tủa từ các dung dịch giàu SiO2. Canxedon còn là sản phẩm mất nước của opal.
Canxedon màu xanh lam được nhiều người tin là có thể giúp chủ nhân tránh khỏi cơn sầu muộn và giảm bợt giận dữ.
Trong Canxedon có nhiều ete và các túi khí có thể làm bình ổn tâm lí và tình cảm của con người.
Đồ trang sức làm từ canxedon hỗ trợ rất tốt với người dễ bị kích động, trầm cảm và hỗ trợ điều trị bệnh về thần kinh.
Cũng như agat (mã não) canxedon còn được coi là lá bùa hộ mệnh, đặc biệt với những người thủy thủy.
Canxedon còn được coi là lá bùa hộ mệnh, đặc biệt với những người mệnh thủy và theo quan niệm của người cổ xưa có ghi chép lại, Canxedon được coi là lá bùa hộ mệnh cho những người đi biển. Canxedon mang trong nó tính nữ vừa ban tặng cuộc sống và đồng thời đầy mâu thuẫn. Người Mông Cổ xưa gọi những viên Canxedon màu xanh da trời được tìm thấy trong sa mạc Gobi là “đá niềm vui”. Họ có niềm tin rằng chúng có khả năng xua đuổi nỗi buồn và thay vào đó là tâm trạng hứng khởi và vui vẻ. Theo một số văn bản cổ của Ấn Độ ghi lại rằng loại đá này có ánh sáng của ý thức tinh khiết. Khi đeo trang sức bằng Canxedon màu xanh da trời, nó có khả năng loại trừ nổi sợ hãi và đem đến cho người sở hữu niềm tin vào sức mạnh của chính mình.
Trong một vài văn bản cổ tại Ấn Độ, đá được cho là mang tới năng lượng tinh khiết cho ý thức con người.
Đá Canxedon có màu xanh da trời có thể mang tới niềm tin vào sức mạnh bản thân.
Canxedon màu xanh lam được nhiều người tin là có thể giúp chủ nhân tránh khỏi cơn sầu muộn và giảm sự giận dữ. Bởi trong Canxedon có nhiều ete và các túi khí có chức năng làm bình ổn tâm lí và tình cảm của con người. Vì vậy đồ trang sức làm từ Đá Canxedon hỗ trợ rất tốt cho người dễ bị kích động, trầm cảm và hỗ trợ điều trị các bệnh về thần kinh.
Canxedon là đá biểu tượng cho chòm sao Nhân Mã, nếu người sinh vào tháng thuộc Nhân Mã mà đeo trang sức từ đá này có thể gặp may mắn trong tình yêu và luôn có một sức hấp dẫn với người khác giới.
Để biết đá có hợp với mệnh của mình hay không còn tùy thuộc vào màu sắc của Canxedon.
Nếu Canxedon màu xám hoặc trắng thì hợp với người mệnh Kim, Thổ và Thủy.
Nếu Canxedon màu nâu thì hợp với người mệnh Thổ, Hỏa và Kim.
Nếu Canxedon màu đen thì hợp với người mệnh Thủy, Mộc và Kim.
Dâm cũng là một nhu cầu rất tự nhiên, nhất là trong đời sống vợ chồng. Tuy nhiên dâm sẽ là một điều xấu nếu như con người không biết kiềm chế khi thực hiện nhu cầu tự nhiên này một cách bừa bãi cẩu thả, thô bỉ và trơ trẽn.
Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài nét tướng đặc biệt. Dưới đây là một số dấu hiệu của người phụ nữ đam mê nhục dục:
1. Da mặt trắng hơi pha màu hồng
Đàn bà trời phú cho sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng nhạt gọi là đào hoa sắc, hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm. Điều đó thể hiện đây là người phụ nữ đa “phu”.
2. Mắt lá khoai
“Những người con mắt lá khoai; liếc chồng, chồng chết, liếc trai, trai mù”, đây là loại phụ nữ không đoan chính, là loại “đa dâm”, chắc chắn sau này sẽ ngoại tình. Người sở hữu con mắt ấy là người có sức mạnh phi thường, có khả năng làm cho những gã si tình “không chết cũng bị thương”.
3. Hai môi đều mỏng
Người có kiểu môi này là người thiếu điềm tĩnh, phản ứng nhanh lẹ với ngoại cảnh, về tình cảm thiếu thủy chung, chân thật. Chưa nói mà môi đã vọng động là tướng tà dâm.
Có thói quen lấy đầu lưỡi khoa động nước răng, hoặc cận răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng là người có ham mê nhục dục.
4. Nhân trung có tía đỏ
Phía trên Nhân trung là mũi, phía dưới là miệng, mũi và miệng có hình dạng tương tự như bộ phận sinh dục của nam và nữ giới. Tướng học căn cứ vào đó để phát hiện ra rằng phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đỏ hoặc hồng (tuỳ theo truy hoan nhiều hay ít), nhỏ như sợi tơ nhện, phải tinh mắt lắm mới thấy. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể biết là người phụ nữ đó quả là đã có gì rồi.
Người có nhân trung gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên không vì bệnh tật cũng là dấu hiệu của người háo dâm.
5. Mắt tam bạch
Bình thường nếu người đàn bà đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh lòng đen bị thu hẹp dần nhường lại chỗ cho lòng trắng khiến lòng đen đều bị lòng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời. Còn như nếu bình thường vẫn là hạ tam bạch nhãn, thì nếu có thông gian ta sẽ thấy Nhân trung có vạch hồng hoặc đỏ như trên vừa nói.
6. Khu vực Lệ đường (phía dưới mắt)
Bình thường không có màu sắc xanh đen, nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến sang màu xanh đen, có lằn xếp hay gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt (Ngư vĩ), là tướng đàn bà thường có khuynh hướng ân ái vụng trộm.
Mắt đào hoa thì khi thấy người đàn ông xa lạ, ưa nhìn, thường hay cười tình liếc xéo.
7. Khu vực Sơn căn và Ngư vĩ
Khu vực này đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường chứng tỏ người phụ nữ đó đã hoan lạc.
Tất cả các dấu hiệu về màu sắc ở bộ vị nói trên là các bằng chứng cụ thể của kẻ lặn hụp trong tình dục. Những đàn ông chưa từng ân ái với tình nhân, những đấng phu quân xa nhà một thời gian dài khi gặp mặt vợ hoặc người tình mà đã thấy có hầu hết các dấu hiệu dẫn thượng thì quả là đáng ngại.
1. Nội thất không tiện dụng
![]() |
Phòng khách nhỏ nhưng bạn lại mua sofa quá lớn. Ảnh minh họa: Pinterest. |
Đồ đạc nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng của chủ nhà chứ không chỉ để ngắm. Một chiếc sofa sành điệu, hợp mốt sẽ vô dụng nếu bạn không cảm thấy thoải mái khi ngồi. Nếu bộ ghế đắt tiền thì đó là một sai lầm quá tốn kém. Bạn cần kiểm tra kỹ nội thất trước khi mua. Bạn có thể nằm, ngồi... sử dụng chúng như nhu cầu thực tế.
2. Màu sơn không phù hợp
![]() |
Quá nhiều mảng màu nóng khiến phòng khách bí bức. Ảnh minh họa: Livingimpressive. |
Trong nhà bạn có những món đồ nội thất tuyệt đẹp nhưng màu tường không ăn khớp sẽ làm hỏng tất cả. Điều này không có nghĩa bạn phải sử dụng những màu sắc đơn điệu, không hợp sở thích. Bạn cần sơn thử trên phạm vi nhỏ và đánh giá màu sắc của tường vào các thời điểm khác nhau trong nhà.
3. Bộ đèn trần quá hoành tráng
![]() |
Đèn chùm to ấn tượng nhưng khiến trần bị thấp đi. Ảnh minh họa: NFOE. |
Theo About, nếu muốn căn phòng nặng nề, trần nhà có vẻ thấp hơn, bạn hãy mua những chiếc đèn chùm, bộ đèn phòng ăn diêm dúa, nặng nề. Nếu bạn vẫn muốn có một chiếc đèn ấn tượng thì nên chọn thiết kế đơn giản, bố trí ở không gian thoáng.
4. Thảm sai kích cỡ
![]() |
Thảm nên đủ chỗ kê trọn vẹn các món đồ chính. Ảnh minh họa: Emily Anderson. |
Bạn có thể trải thảm kín phòng hoặc một phần khu vực kê bàn trà. Tuy nhiên, bạn đừng để tình trạng, một phần bàn kê trên thảm, phần còn lại nằm bên ngoài. Chiếc thảm phù hợp cần đủ chỗ kê những món đồ quan trọng trong nhà. Nếu thảm quá nhỏ, bạn nên bỏ chúng đi cho nhà đỡ lộn xộn.
5. Nội thất theo quá nhiều phong cách
![]() |
Bạn không nên mua đồ theo ngẫu hứng. Ảnh minh họa: Decor4all. |
Một trong những cách dễ nhất để biến phòng khách thành thảm họa là mua sắm theo mốt. Từng món đồ có thể rất đẹp, đáng yêu nhưng khi ghép vào tổng thể lại không phù hợp. Nếu thích đồ thời thượng, bạn nên lựa chọn những thứ nhỏ, rẻ để không phải hối tiếc khi xu hướng đó qua đi.
Lam Huyền
Có một câu nói hay của Trung Quốc, đó là "Cho con vàng bạc không bằng dạy con một nghề, dạy con một nghề không bằng đặt cho con một cái tên hay".
Bạn đừng đánh giá thấp tầm quan trọng của việc lựa chọn một cái tên tốt lành cho con mình. Thật thiếu sót nếu như ngay từ khi con bạn chào đời, bạn đã không tìm hiểu, suy nghĩ cẩn thận để tìm đặt cho con mình một cái tên. Việc này giống như bạn đang mở ra một chương mới, cực kỳ quan trọng trong cuộc đời của con mình sau này.
Cái tên của con sẽ đi theo và trợ vận con mãi mãi! Tên của bé là một nguồn cảm hứng, một động cơ thúc đẩy tầm nhìn, mục tiêu cuộc đời và là một trong những đặc điểm để phân biệt giữa con mình và hàng nghìn người khác. Trên hết, cái tên mang cả bao nhiêu điều hy vọng và nguyện vọng của bậc làm cha mẹ đối với con của mình. Như một công ty kinh doanh, đó là một "thương hiệu". Ngược lại, nếu một cái tên được cha mẹ đặt cho một cách tùy tiện, cẩu thả thì đứa trẻ sẽ là mục tiêu cho sự nhạo báng và chế giễu của bạn bè, đồng nghiệp trong suốt cuộc đời của mình. Đừng để con bạn chịu gánh nặng của sự bị bắt nạt ngoài ý muốn.
Việc đặt tên con theo các quan niệm về can chi, ví dụ như không nên đặt tên có liên quan đến HỢI (Hào, Nghị, Duyên, Tụ) cho các Bé tuổi Dần vì quan niệm "Cọp ăn thịt Heo", là không có căn cứ và không chính xác.
Người Trung Hoa tin rằng theo Phong thủy truyền thống thì có 10 yếu tố chính để thành công trong cuộc sống. Đó là Nhất mệnh, Nhì vận, Tam Phong Thủy, Tứ Phúc Đức, Ngũ khảo thư ... và các yếu tố khác, trong đó, tên của Bé thuộc Phúc Đức mà Cha Mẹ dành tặng cho cuộc đời của Bé. Một cái tên tốt lành sẽ có ảnh hưởng tích cực đến sự nghiệp, sức khỏe, hôn nhân và các mối quan hệ cá nhân khác của người ấy nữa. Do đó việc đặt cho con một cái tên là điều rất quan trọng mà các bậc cha mẹ cần lưu ý. Tên tốt sẽ cải thiện tình hình sức khỏe, giáo dục, sự nghiệp, mang lại may mắn và sự thịnh vượng.
Bạn hãy sớm nghĩ ra tên cho con để con có thể bắt đầu được hưởng lợi từ sự may mắn này.
Họ tên đầy đủ được chia thành Thiên cách, Địa cách, Nhân cách, Tổng cách & Ngoại cách:
Thiên cách - là Họ, đây là thành phần không được thay đổi vì đây là đại diện của tổ tiên, tiền định dòng Họ bên Cha.
Nhân cách - (ảnh hưởng mạnh đến bé từ 17-32 tuổi) là thành phần cốt lõi nhất, đại diện cho chính con người ấy ví dụ như tính cách, tài năng, sự nghiệp, sức khỏe, các thành tựu đạt được trong cuộc sống.
Địa cách - (ảnh hưởng mạnh đến bé từ 1-17 tuổi) đại diện cho tuổi thơ, con cái, vợ, chồng, cấp dưới.
Ngoài ra độ tuổi từ 32 trở đi, Tổng cách sẽ ảnh hưởng chính cho các kỹ năng của con người, môi trường gia đình, Ngoại cách sẽ đại diện cho các mối quan hệ bạn bè và đồng nghiệp.
![]() |
Ảnh minh họa |
Giấc mơ về rụng răng thường phản ánh nỗi lo sợ về ngoại hình, sự lúng túng hoặc những lo âu quá mức trong con người bạn. Việc mất răng trong giấc mơ có thể xuất phát từ những bế tắc trong cuộc sống. Có thể bạn đang gặp khó khăn trong việc bộc lộ bản thân hoặc một công việc quan trọng của bạn bị gián đoạn? Bạn cảm thấy nản lòng khi tiếng nói của mình không được người khác lắng nghe. Có thể bạn đang trải qua cảm giác tự ti và thiếu tự tin trong hoàn cảnh hay mối quan hệ nào đó. Giấc mơ này biểu thị rằng bạn nên tự tin và quyết đoán hơn.
Theo quan niệm của người Hy Lạp, khi nằm mơ thấy răng bị rụng, bị hỏng hoặc thiếu răng, điều này ám chỉ rằng có một thành viên trong gia đình bạn hoặc một người bạn thân đang bị bệnh nặng, thậm chí có thể sắp tử vong. Ngược lại, người Trung Quốc cho rằng nếu mơ thấy răng rụng thì đó là điềm báo tốt lành về tiền bạc.
Tuy nhiên theo quan niệm cổ xưa trong dân gian, chiêm bao thấy răng phần lớn là điềm không may: Thấy mình nhổ một cái răng là gặp xui xẻo buồn bực. Thấy mình nhờ người nhổ một cái răng thì người nhổ cho mình là người sắp chết. Thấy mình nhổ răng cho người là có người làm nhục mình.
Thấy mình rụng một cái răng là có một người thân bị nguy hiểm. Thấy rụng nhiều răng một lúc thì chính người nằm chiêm bao sẽ có nguy cơ bị chết. Thấy răng lung lay là sẽ mất hết cảm tình của những người từ lâu gần gũi với mình. Mơ thấy hàm răng của bạn thối rữa hoặc mục nát, có nghĩa là sức khỏe hoặc công việc của bạn đang lâm nguy.
Theo Bí ẩn điềm chiêm bao
Hoả khí tụ tại phương Nam, Hoả vượng tại Ngọ nên vào năm Giáp Ngọ 2014, Hỏa khí mạnh lên, xung chiếu Thủy khí ở cung đối diện là phương Bắc.
Thủy – Hoả đấu nhau, tạo ra hung sát, những ngôi nhà/căn hộ có cửa ra vào tại phương Bắc sẽ chịu tác động xấu trong năm nay. Năm 2014, phương Bắc là phương vị bị Tam sát. Tam sát là gọi tắt của Kiếp sát, Tai sát và Tuế sát. Theo phong thủy học, Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là 5 loại khí (năng lượng). Phương Đông tụ tập Mộc khí, phương Tây tụ tập Kim khí, phương Nam tụ tập Hoả khí, phương Bắc tụ tập Thuỷ khí, trung cung tụ tập Thổ khí. Các khí ở vị trí đối nhau có tính chất tương phản, thông qua tác dụng của Thổ ở trung cung mà tương khắc, tương xung, tạo ra hung sát. Tuy nhiên, không phải lúc nào khí của các cung đối nhau cũng tạo ra hung sát, mà phải căn cứ theo năm, tháng khác nhau, khí của phương vị nào đó thịnh vượng thì mới tạo ra hung sát.
Bạn thường nghe nói rằng Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông thể hiện cho chủ nhân của nó là người giàu sang, phú quý. Tuy nhiên, cánh tay được tính từ phần tiếp giáp vai đến hết bàn tay. Liệu tất cả nốt ruồi mọc trên cánh tay phải đàn ông đều thể hiện họ là người giàu sang hay không? Cùng Phong thủy số giải đáp vấn đề này:
Khi nhắc đến cánh tay dù là bên phải hay bên trái, dù là đàn ông hay đàn bà thì tốt hơn hết là bạn nên hiểu nó ở nghĩa rộng nhất và toàn diện nhất. Đặc biệt là khi bạn đang muốn biết về Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông hay nốt ruồi trong lòng bàn tay phải đàn ông. Bởi theo Nhân tướng học, mỗi vị trí khác nhau của nốt ruồi sẽ biểu hiện những ý nghĩa khác nhau. Thậm chí chỉ cần cách nhau vài cm là ý nghĩa đã có thể khác nhau hoàn toàn, thậm chí là ngược lại. Do đó, khi muốn tìm hiểu về Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông có giàu sang hay không thì bạn nên tìm hiểu ở nhiều vị trí khác nhau nhé. Dưới đây là một số vị trí trên cánh tay phải đàn ông mà nốt ruồi mọc ở đó sẽ có ý nghĩa khác biệt.
Là vị trí trên cùng của cánh tay, nơi tiếp giáp với vai. Khi có nốt ruồi ở đây nó sẽ biểu hiện cho người đàn ông này có số giàu sang, phú quý và khỏe mạnh. Như vậy, trong trường hợp này, quan niệm Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông là giàu sang có vẻ đúng với quan niệm của Nhân tướng học.
Khi đàn ông có nốt ruồi ở khủy tay thì coi như là một “điểm trừ” trong mắt chị em phụ nữ. Vì trong Nhân tướng học, những người đàn ông có nốt ruồi ở khủy tay là người không chung thủy trong cuộc sống vợ chồng. Có lẽ nhiều chị em khi nghe đến ý nghĩa này sẽ khá e dè và nghi ngại khi gặp người đàn ông có nốt ruồi ở khủy tay.
Khi có Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông mà cụ thể là ở khủy tay thì các cánh mày râu cũng nên chú ý. Đây được xem là nốt ruồi không mấy tốt đẹp cho các anh. Bởi nó thể hiện người đàn ông đó là người dễ thay đổi, tính tình nóng nảy, khó chiều. Có lẽ với những chị em phụ nữ thích được chiều chuộng thì sẽ dè chừng với người đàn ông có nốt ruồi ở cổ tay.
Nhắc đến nốt ruồi ở bàn tay thì chúng ta lại phải xét đến nốt ruồi trên mu bàn tay hay nốt ruồi trong lòng bàn tay phải đàn ông. Bởi chúng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.
Khi nó ở mu bàn tay phải đàn ông thì nghĩa là người ấy là người ngơ ngơ ngẩn ngẩn, như người mất hồn và rất hay lo lắng, băn khoăn.
Còn khi có nốt ruồi trong lòng bàn tay, chúng ta lại có nhiều vị trí khác nhau nữa. Trong đó có thể kể đến như:
Nốt ruồi ở dưới ngón tay trỏ: là người làm nên sự nghiệp và có sự hỗ trợ đắc lực từ nhà vợ
Nốt ruồi ở dưới ngón tay giữa: nếu là nốt ruồi son thì làm nên nghiệp lớn, nếu là nốt ruồi đen thì lấy được con nhà giàu sang nhưng dễ bị lệ thuộc
Nốt ruồi ở dưới ngón tay áp út: có chuyện bất ngờ trong tình cảm, có thể gặp tình yêu sét đánh
Nốt ruồi ở dưới ngón tay út: chuyện tình duyên không mấy suôn sẻ, tham lam, bị vợ hại. Nếu là nốt ruồi son thì nhân duyên tốt đẹp hơn.
Nốt ruồi giữa lòng bàn tay: là người tự lập, sớm xa gia đình từ nhỏ.
Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông có rất nhiều ý nghĩa, phụ thuộc vào từng vị trí của nó phải không nào? Điều đó cho thấy không hẳn cứ đàn ông có nốt ruồi ở cánh tay phải thì đều giàu sang. Ví dụ chứng minh chính là ý nghĩa của nốt ruồi trong lòng bàn tay phải như đã nói ở trên. Tuy vậy, đây cũng chỉ là kết quả cho các bạn tham khảo, hãy so sánh, đối chiếu và tin tưởng hợp với bản thân của mình nhé!
Xem thêm những bài viết hữu ích khác:
+ Nốt ruồi có lông là tốt hay xấu
+ Nốt ruồi ở nhũ hoa phụ nữ có ý nghĩa gì?
+ Giải nghĩa câu nói nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn
+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh
Sao Thiên cơ tại cung Tý, Ngọ độc tọa nhập miếu, là cung vị tốt nhất, trong đó cung Ngọ là đẹp nhất, cần phải kiếm lợi dựa vào danh tiếng, tích cực tiến thủ, phải để gia tài làm việc công thì mới có thể mở rộng nguồn vào và tiết kiệm đầu ra.
Sao Thiên cơ tại cung Tý, Ngọ là độc tọa nhập miếu, sao Cự môn thế vượng xung chiếu tại cung Phúc đức. Cung Mệnh là sao Thái âm (cung Thìn là rơi vào thế hãm, cung Tuất là thế vượng), cung Quan lộc là sao Thiên đồng, Thiên lương (cung Thân: Sao Thiên đồng là thế vượng, sao Thiên lương là rơi vào thế hãm; cung Dần: Sao Thiên đồng là thế lợi, sao Thiên lương là nhập miếu), cung Điền trạch là sao Thiên tướng (cung Mùi là thế địa, cung Sửu là nhập miếu), cung Thiên di là sao Thái dương (cung Tuất là không đắc thế địa, cung Thìn là thế vượng).
Sao Thiên cơ tại cung Tý, Ngọ độc tọa nhập miếu, là cung vị tốt nhất, trong đó cung Ngọ là đẹp nhất, cần phải kiếm lợi dựa vào danh tiếng, tích cực tiến thủ, phải để gia tài làm việc công thì mới có thể mở rộng nguồn vào và tiết kiệm đầu ra. Trước tiên cần phải là người làm công ăn lương, khí vận tốt thì tiếp tục kiếm việc kinh doanh ngành nghề thích hợp, cần cẩn thận đối với việc xuất nhập tiền nong.
Cung Mệnh có sao Thái âm, chủ tài phú, là chủ của cung Tài bạch, Điền trạch, hài lòng với hiện tại, có thể quản lý tiền tài, làm việc chịu khó, có thu nhập cao, giàu có nhờ bất động sản. Cung Mệnh Tam phương hội chiếu sao Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương là mệnh cách Cơ nguyệt đồng lương, chủ về giỏi lên kế hoạch, nên truyền bá sự nghiệp văn hóa. Sao Thiên cơ tại cung Ngọ, cung Mệnh sao Thái âm, cung đối diện sao Thái dương là thế vượng, là mệnh cách Nhật nguyệt bính minh, quyền và lộc đều không ít.
Sao Thiên cơ tại cung Tý, sao Thái âm tại cung Mệnh là rơi vào thế hãm, sao Thái dương ở cung đối diện là không đắc thế địa, là mệnh cách Nhật nguyệt phản bối, vất vả không ngừng nghỉ.
Sao Cự môn tọa cung Phúc đức, thu nhập có nhiều biến đổi, kiếm tiền vất vả, có tinh thần nghiên cứu, nghĩ sao nói vậy, có tài ăn nói và có phúc ăn nói.
Sao Thiên tướng tọa cung Điền trạch, có thể kế thừa tổ nghiệp, cũng có thể tự mua nhà cửa; cung Sửu sao Thiên tướng là nhập miếu, chủ nhà cửa nhiều.
Sao Thiên đồng, Thiên lương cùng tọa thủ cung Quan lộc, làm việc có trách nhiệm, có khả năng lãnh đạo, có thể chuyên sâu nghiên cứu, có sáng kiến, có thành tựu, không thích hợp kinh doanh buôn bán. Sao Thái dương tọa cung Thiên dỉ, có cơ duyên xuất ngoại, thích du lịch, nên phát triển ở bên ngoài, làm việc nhiệt tình, lao tâm khổ tứ sẽ được đánh giá tốt.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác gửi tới độc giả |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Tuy nhiên, trong 9 sao đó có cả sao tốt và sao xấu. Năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật… người ta gọi là vận hạn. Để có thể phòng tránh hay giảm nhẹ vận hạn, người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào ngày đầu năm (rằm tháng Giêng) là tốt nhất.
Các sao chiếu mệnh gồm: sao Thái Dương, Thái Âm, Mộc Đức, Vân Hán, Thổ Tú, Thái Bạch, Thủy Diệu, La Hầu và Kế Đô. Tuy nhiên, cùng độ tuổi nam và nữ lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Ví dụ ở tuổi 37 nam là sao La Hầu, nữ là sao Kế Đô. Tuổi 47 nam là sao Thổ Tú, nữ là sao Vân Hán… và như vậy cứ sau 9 năm, sao đó lại chiếu vào mệnh của mình.
Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó dân gian cũng hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày (Âm lịch) như sau:
Sao La Hầu: ngày mùng 8 hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 hàng tháng
Sao Kế Đô: ngày 18 hàng tháng
Sao Thổ Tú: ngày 19 hàng tháng
Sao Thủy Diệu: ngày 21 hàng tháng
Sao Mộc Đức: ngày 25 hàng tháng
Sao Thái Âm: ngày 26 hàng tháng
Sao Thái Dương: ngày 27 hàng tháng
Sao Vân Hán: ngày 29 hàng tháng
Dân gian cũng tin rằng, làm lễ dâng sao giải hạn vào đầu năm và vào ngày rằm tháng Giêng là tốt nhất vì mọi tai ách, mọi sự xui xẻo ta phải giải trừ nó ngay từ đầu năm thì suốt cả năm con người đều có thể yên tâm, an lành.
Các sao xấu xuất hiện trong tháng vào các ngày khác nhau lại có hình khác nhau nên việc làm lễ phải chọn ngày, dùng số lượng nến, lập bài vị và màu sắc phù hợp, lại phải thiết kế ban thờ cho đúng hướng.
(Theo Nghi lễ thờ cúng của người Việt)
Theo chuyên gia phong thủy Phạm Cương, bộ môn bát trạch trong phong thủy nghiên cứu về mối quan hệ giữa tuổi của gia chủ và hướng nhà thì con người phân ra hai nhóm: Đông tứ mệnh và Tây tứ mệnh; đất đai cũng có hai loại là Đông tứ trạch và Tây tứ trạch.
Dựa vào năm sinh dương lịch, phong thủy bát trạch cũng chia con người thành 8 phi cung là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Những người thuộc bốn phi cung Khảm, Chấn, Tốn, Ly thuộc Đông tứ mệnh. Đi cùng bốn cung này là hợp với kiểu nhà Đông tứ trạch bao gồm bốn hướng: Đông, Đông Nam, Bắc, Nam. Bốn phi cung còn lại là Càn, Cấn, Khôn, Đoài thuộc Tây tứ mệnh. Bốn hướng: Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc và chính Tây phù hợp với hướng nhà người Tây tứ mệnh.
Ngoài ra, phong thủy cũng hướng dẫn, những người thuộc nhóm nào làm nhà nên theo trạch đó thì hướng bếp, hướng ban thờ, hướng giường ngủ của người Đông hay Tây tứ mệnh cũng nên quay về một trong bốn hướng trên.
guồn cảm hứng từ đó mà tạo ra bao kiệt tác, giúp thạch anh hồng trở thành một sản phẩm thật sự gần gũi với đời sống con người. Vậy ý nghĩa của Thạch anh màu hồng là gì.
Nội dung
Thạch anh hồng có tác dụng tốt với các bệnh ở hệ tim mạch và hệ thần kinh. Bằng tác động lên hệ thần kinh loại đá này loại trừ sự mệt nhọc ra khỏi cơ thể, nó còn có tác dụng làm hoạt hóa hệ thống lympha mà hoạt động của hệ này có liên quan đến hệ miễn dịch .
Thạch anh hồng còn ảnh hưởng đến hệ tiết niệu, mạch máu và tủy xương, có ý kiến cho rằng, thạch anh hồng có thể tránh thụ thai ngoài ý muốn và giúp kéo dài tuổi thọ.
Theo phong thủy, thạch anh hồng giúp chống lại stress , nó dập tắt những cơn nóng giận bộc phát. Thạch anh hồng có khả năng tăng cường sự sáng tạo và đem lại cảm giác tự tin cho chủ nhân của nó.
Thạch anh hồng làm dịu những cơn đau về mặt tình cảm và những vết thương lòng nó còn là lá bùa hộ mệnh giúp cải thiện quan hệ giữa chủ nhân với người khác.
Qủa cầu bằng thạch anh hồng hoặc cặp tỳ hưu bằng thạch anh hồng có ích lợi trong việc bảo vệ tình yêu, bảo vệ hạnh phúc gia đình và giúp những phụ nữ chưa chồng hoặc những đấng nam nhi chưa vợ sớm tìm được tình yêu của mình.
Đặt một quả cầu thạch anh hồng ở góc tây nam của phòng ngủ, để tăng cường năng lượng tích cực cho tình yêu và hôn nhân, khi còn là độc thân. Hoặc khi đã lập gia đình thì để cuộc sống hôn nhân của v/c được hạnh phúc hơn.
Thạch anh hồng tăng cường năng lượng tích cực cho tình yêu và hôn nhân. Nó thường được dùng để dưới giường ngủ của vợ chồng để tránh các mối bất hòa có thể xảy ra.
Giúp tăng cường sự tự tin và khả năng sáng tạo, giúp ngủ ngon, không mơ hoảng, giúp phục hồi trí nhớ.
Thạch anh hồng hợp với những người mệnh Hỏa và mệnh Thổ. Người mệnh Hỏa dùng thạch anh hồng để được tương hợp, và người mệnh Thổ dùng để được tương sinh.
Tra cứu cung mệnh
Người mệnh Hoả sinh vào các năm 1956, 1957, 1964, 1965, 1978, 1979, 1986, 1987, 1994, 1995, 2008, 2009
Người mệnh Thổ sinh vào các năm 1960, 1961, 1968, 1969, 1976, 1977, 1990, 1991, 1998, 1999, 2006, 2007.
Ngoài ra, thạch anh hồng là đá của người sinh vào tháng giêng và là món quà cưới vào dịp kỷ niệm lần thứ 2.
Theo đặc tính cơ bản của đá thạch anh hồng như đã nói ở trên, trên thị trường rất ít có khả năng có đá thạch anh hồng giả, do đây là loại đá phổ thông, có sản lượng cao và giá thành không phải ở mức quá cao. Tuy nhiên, trên thị trường đôi khi vẫn xuất hiện đá giả làm bằng nhựa, loại hàng này có thể dễ dàng nhận biết bằng mắt thường.
![]() |
![]() |
Tháng 1: Công việc tích cực, yêu thương gia đình
Trong công việc, bạn có tinh thần cầu tiến và chăm chỉ. Làm việc khôn khéo, có năng lực, suy nghĩ chu đáo, bạn thường được cấp trên khen ngợi. Bên cạnh đó, bạn cũng thích phê bình người khác, mối quan hệ với đồng nghiệp không suôn sẻ cho lắm. Bạn yêu gia đình, quý trẻ con, đối với tình yêu rất chân thành nhưng lại không biết cách bày tỏ.
Tháng 2: Có lý tưởng, giỏi bày tỏ nội tâm
Bạn có tư chất thông minh, khả năng thích ứng nhanh, làm việc có mục tiêu, có ước mơ nhưng tự tin không đủ, dễ gây trở ngại cho sự phát triển của bạn. Đối với gia đình, bạn trung thực và đáng tin cậy. Trong tình yêu, bạn nhạy cảm và dễ bị tổn thương, may mắn là bạn biết cách bày tỏ nội tâm của mình nên đối phương cũng phần nào hiểu rõ về bạn.
Tháng 3: Cảm xúc tình cảm mãnh liệt
Trong công việc, bạn là một nhân viên chăm chỉ và đáng tin cậy. Đối với bạn bè, bạn thích giúp đỡ họ, vì thế trong lớp ai cũng yêu mến bạn. Trong gia đình, bạn giỏi quan sát và đáp ứng nhu cầu của mọi người và thường trao sự hỗ trợ đúng lúc.
Tình cảm rất mãnh liệt nhưng bạn thường che đậy để đối phương tự suy đoán, nên cảm xúc dễ thay đổi.
Tháng 4: Quyết đoán mạnh mẽ, có chủ kiến
Có chủ kiến, khả năng quyết đoán mạnh mẽ chính là ưu điểm nổi trội của bạn trong công việc. Bạn dễ kích động, nhưng có thể vì mọi người mà giải quyết nhiều rắc rối. Bạn chăm sóc người thân và người yêu rất chu đáo. Trong tình yêu, bạn dễ ghen tỵ và có tâm lý báo thù lớn, điều này khiến bạn cảm thấy khổ sở và người yêu cảm thấy bối rối.
Tháng 5: Tính cách cố chấp, thích phân tích
Niềm tin và động lực của bạn rất mạnh mẽ, bạn giỏi phân tích nên đạt nhiều thành công hơn là thất bại. Nhưng bạn cố chấp, không chịu nghe lời người khác nói. Bạn thấu hiểu lòng người, đối với người thân và người yêu thường bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc, mang lại cho họ sự ủng hộ lớn nhất.
Tháng 6: Che đậy bản thân, khó yêu
Bạn có tầm nhìn xa trông rộng và nhiều ý tưởng, nhưng trong thời gian ngắn, bạn khó hoàn thành công việc, điều này khiến cấp trên thường đau đầu vì bạn. Bạn ít khi bày tỏ cảm xúc trước mặt người thân, đối với tình yêu, bạn thường “kén cá chọn canh”, không dễ yêu. Vẻ ngoài của bạn tuy bình tĩnh nhưng nội tâm lại dễ tổn thương, một khi thất bại, bạn cần thời gian dài để hồi phục.
Tháng 7: Say mê công việc, có lòng khoan dung
Bạn có óc quan sát, đối với công việc rất chăm chỉ, có kỹ năng làm việc và ứng xử trong các mối quan hệ. Nhưng bạn không dễ được người khác thấu hiểu vì dễ căng thẳng. Trong tình yêu, bạn rất độ lượng, có lòng bao dung với người yêu. Bạn khát vọng được yêu thương nên không ít lần khiến người yêu cảm thấy áp lực.
Tháng 8: Tự tin, hành động theo cảm tính
Bạn tự tin và có năng lực lãnh đạo.Trong gia đình, bạn rất tự lập, không cần người thân chăm sóc. Trong tình yêu, bạn muốn cả hai có không gian riêng tư, không thích suốt ngày bị quấn lấy nhau.
Điểm yếu của bạn là làm việc không cẩn thận, thiếu sự kiên nhẫn, thường hành động theo cảm tính khiến tình hình thêm phức tạp.
Tháng 9: Bình tĩnh, đầu óc tỉnh táo
Sở trường của bạn là làm việc cẩn thận, tỉ mỉ, đầu óc tỉnh táo, tư duy thông suốt, nhưng lại thích trách móc sai lầm của người khác. Bạn thường lý trí giải quyết khó khăn cho gia đình nhưng lại ít khi bày tỏ cảm nhận của bản thân.
Đối với tình yêu, bạn hay bắt bẻ, vì mong muốn chọn một người tốt nhất để chăm sóc cho mình.
Tháng 10: Yêu gia đình, có tinh thần trách nhiệm
Bạn làm việc rất quyết đoán, có chủ kiến nhưng lại cố chấp, không chịu tiếp thu ý kiến của người khác. Nói cách khác, bạn thường nghĩ cách bày tỏ quan điểm của mình nên tạo cho người đối diện cảm giác bạn bướng bỉnh. Đối với người thân, bạn có lòng yêu thương và nhẫn nại; đối với người yêu, bạn rất coi trọng, dễ cảm động và dễ hài lòng, bản tính chiếm hữu không cao.
Tháng 11: Nguyện trả giá vì tình yêu
Bạn thông minh, có cách nhìn mới lạ, làm việc cẩn thận và tỉ mỉ, tốc độ tiến về phía trước thường nhanh hơn so với người khác. Tuy bạn rất tự lập, nhưng đối với việc trong gia đình thì không hề thoái thác trách nhiệm. Đối với tình yêu, bạn thiếu sự tin tưởng nhưng rất nhanh chìm đắm và nguyện trả giá vì tình yêu. Bạn không dễ kiểm soát tình cảm của chính mình.
Tháng 12: Dẻo miệng, giỏi giao tiếp
Bạn có kỹ năng nói chuyện và ứng xử trong các mối quan hệ, sách lược của bạn thường có khuynh hướng ảnh hưởng đến cả một tập thể. Đối với người thân và người yêu, bạn có sự tận tâm hết mình khiến họ hoàn toàn tin cậy và bạn cũng mong muốn nhận được sự quan tâm tương tự từ họ
Trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp
Mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đưa đón rồi, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, mọi tin thất thiệt, nên mới định ra lễ này, biểu hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ.
Thời gian này chú rể và cha mẹ chú rể rất bận rộn không thể sang nhà gái, nên nhờ người đại diện sang báo trước như bộ phận “Tiền trạm”.
Để trong trường hợp vạn nhất hoặc do thời tiết, hoặc do trở ngại giao thông, gần qua giờ quy ước mà đoàn đón dâu chưa đến, nhà gái biết để chủ động làm lễ gia tiên hoặc phái người sang nhà trai thăm dò.
Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận với nhau miễn bớt lễ này, hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu làm một.
Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn còn chỉnh đốn tư trang, sắp xếp lại ai đi trước, ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng với một người đội lễ (một mâm quả trong đựng trầu cau, rượu… ) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn toàn đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu.
Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Thiên khắc địa xung
Khái niệm "tôi" ở đây có thể hiểu là đối tượng được nói đến trong sự tương quan với thái tuế. Nó có thể là giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh hoặc năm sinh. Bài này lấy trụ ngày là "tôi".
Nếu thiên can địa chi của thái tuế đồng thời khắc thiên địa chi của trụ ngày, hoặc thiên can địa chi của trụ ngày khắc thiên can địa chi của thái tuế thì gọi là thiên khắc địa xung. Cái hại của trường hợp này là khắc đơn.
Ví dụ tôi (trụ ngày) Giáp Tý khắc lưu niên (gồm cả can và chi năm) Mậu Ngọ tức là tôi thiên khắc địa xung thái tuế; hoặc lưu niên Canh Thìn khắc tôi (trụ ngày) Giáp Tý thì gọi là thái tuế thiên khắc địa xung tôi.
![]() |
Tranh cát tường |
2. Xung khắc tuế vận
"Tôi" (trụ ngày) xung khắc thái tuế thì tai họa nặng, nếu thiên can địa chi của trụ ngày vừa xung khắc thái tuế, vừa xung khắc đại vận mà không được các can chi khác của tứ trụ giải thì rất nguy hiểm.
3. Tứ trụ đều đến xung khắc thái tuế
Ví dụ tôi (trụ ngày) là Dậu Kim, trụ năm, trụ tháng cũng là Dậu Kim, hoặc trụ ngày là Dậu Kim, trụ tháng, trụ giờ cũng là Dậu Kim còn thái tuế là Mão, đó là 3 Dậu xung khắc một Mão, 1 Mão xung 3 Dậu, nếu trong tứ trụ và đại vận, tiểu vận không có can chí khác cứu giải thì đặc biệt nguy hiểm.
4. Tứ trụ, đại tiểu vận cấu kết lại hình, xung, khắc, hại thái tuế
Ví dụ trụ ngày, trụ tháng, đại vận đều là Dậu Kim, hoặc trụ ngày, đại vận và tiểu vận đều là Dậu Kim, thái tuế là Mão Mộc, như thế là 3 Dậu xung khắc 1 Mão hoặc 1 Mão xung 3 Dậu, nếu không được cứu giải thì tai họa khôn lường.
(Theo Dự đoán tứ trụ)
![]() |
Hướng nhà là một trong những yếu tố cực kì quan trọng, quyết định phong thủy nhà ở. Nhà ở tốt hay xấu liên quan trực tiếp tới vận trình gia trạch nên không thể không quan tâm.
![]() |
![]() |
- Đầu ngón trỏ tròn, đều đặn là người có tư cách.- Ngón trỏ thật dài là người thích quyền lực, kiêu căng, thích chinh phục kẻ khác.
- Ngón trỏ ngắn là người đần, thiếu nhân cách, kẻ sát nhân hay quá khiêm nhường.
- Ngón trỏ mỏng và gầy (dù ngón trỏ có dài chăng nửa) là người mơ ước chỉ huy nhưng bao không giờ thành tựu.
- Ngón trỏ cong như cái móc là người ích kỷ, thiếu thận trọng.
- Ngón trỏ cứng là người tàn bạo, chuyên chế.
- Đầu ngón trỏ vuông: Quyền lực + trật tự.
- Đầu ngón trỏ nhọn: Quyền lực lý tưởng.
- Đầu ngón trỏ bè bè: Giảm tính tốt gò Mộc tinh.
- Đầu ngón trỏ dầy là người nhiều dục tính.
- Đầu ngón trỏ mỏng mảnh là người kín đáo, nghiêm nghị.
- Ngón trỏ có đường hướng thuợng lên các lóng tay: Tốt, thuận lợi cho thành công.
- Lóng thứ 3 (sát bàn tay) có (+) hay (*): Có sự xúc phạm thuần phong mỹ tục.
- Lóng thứ 3 có lằng ngang: Can tội nặng (tham khảo thêm các chỉ khác).
- Vòng Salomon do Tâm đạo quấn quanh ngón trỏ: Tài tiên tri, có khiếu khoa học huyền bí, có linh tính.
- Ngón trỏ dài hơn ngón áp: Có may mắn về vật chất, ưa khoái lạc, cao vọng, tự ái, ưa chỉ huy, độc đoán.
- Lóng 1 dài (lóng có móng): Óc tôn giáo, đà sầu, đa cảm, thường là nghệ sĩ.
- Lóng 1 ngắn: Đa nghi, vội vàng, thiếu xét đoán.
- Lóng 1 hình nón: Ưa đọc sách.
- Lóng 1 vuông: Tôn trọng sự thật, khoan dung.
- Lóng 1 mập: Chú trọng khoái lạc thể chất.
- Lóng 1 rộng, móng cong: Dấu hiệu đau phổi.
- Lóng 2 dài: Mục đích cao, quyết thỏa mãn tham vọng.
- Lóng 2 ngắn: Ít nghị lực.
- Lóng 2 mập và dầy: Ưa yên thân trong hạnh phúc.
- Lóng 2 khô: Có tham vọng về danh dự hơn vật chất.
- Lóng 3 dài: Mơ ước sự thống trị.
- Lóng 3 ngắn: Lãnh đạm, nghèo khổ.
- Lóng 3 mập: Ham ăn, ưa tiện nghi vậ chất và khoái lạc.
- Lóng 3 khô: Coi thường lạc thú cuộc sống.
Nguồn: Tổng hợp
![]() |
Mâm ngũ quả miền Bắc |
![]() |
Mâm ngũ quả miền Nam |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
=> Xem tướng người đoán vận mệnh chuẩn xác |
Đây là quẻ Quan Âm thứ 51 được xây dựng trên điển cố: Khổng Minh Nhập Xuân – hay Khổng Minh vào đất Xuyên.
Đây là quẻ thượng cát. Là quẻ nói thời cơ đã đến, không nên chần chừ quá lâu sẽ vuột mất cơ hội hiện hữu. Không nên dè chừng thái quá cũng như không nên hành động tùy tiện.
Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, vào cuối nhà Hán, Lưu Chương là con của quan mục Ích Châu là Lưu Yên, sau khi Lưu Yên mất, được tập ấm tước vị của cha, trở thành quan Mục của ích Châu. Lưu Chương lầ người nhu nhược đa nghi, Trương Lỗ ờ Hán Trung kiêu ngạo, không nghe theo lệnh của Lưu Chương, vì thế Lưu Chương giết cả nhà mẹ và em của Trương Lỗ, khiến hai bên trở thành thù địch. Lưu Chương đưa quân đánh Trương Lỗ, nhưng thất bại.
Khi nội loạn ở Ích Châu vẫn chưa dẹp yên, lại nghe tin tướng của Tào Tháo đem quân tập kích. Lâm vào tình cảnh trong ngoài đều khó khăn, Lưu Chương nghe theo chủ trương của các thuộc hạ thân tín là Trương Tùng và Pháp Chính, đón Lưu Bị vào Ích Châu, muốn mượn uy lực của Lưu Bị để chống lại Trương Lỗ và Tào Tháo. Năm 211, Lưu Chương sai Pháp Chính mang bốn nghìn người và một khoản tiền lớn tặng cho Lưu Bị, Lưu Bị đích thân thống lĩnh quân đội vào đất Thục. Đến Bồi Thành (nay thuộc thành phố Cẩm Dương của Tứ Châu), Lưu Chương đích thân ra nghênh đón. Khống Minh cũng theo Lưu Bị đến ích Châu, xem xét địa thế. Một dải Tây Xuyên, địa thế hiểm yếu, có thể công cũng có thể thủ. Nhờ Khổng Minh bố trí chu toàn, Tây Châu đã trở thành nơi khởi nguồn của chính quyền Thục Hán của Lưu Bị.
Ở Bồi Thành, Trương Tùng, Pháp Chính và Bàng Thống đều kiến nghị với Lưu Bị, nhân cơ hội này hãy giết Lưu Chương, nhưng Lưu Bị lại có tính toán khác. Lưu Chương giao binh sĩ cho Lưu Bị, lệnh cho Lưu Bị tấn công Trương Lỗ, nhưng Lưu Bị lại chưa xuất binh, mà muốn thu phục lòng dân.
Năm 212, Lưu Bị mượn quân và mượn lương thực của Lưu Chương để đem quân trở về Kinh Châu tiếp viện cho Tôn Quyền, nhưng Lưu Chương chỉ cho Lưu Bị một nửa binh lực. Đồng thời Lưu Chương phát hiện thuộc hạ của mình là Trương Tùng cấu kết với Lưu Bị, vì thế hai bên thành ra chia rẽ. Vì thế Lưu Bị tiến đánh Ích Châu. Bọn Lãnh Bao, Trương Nhiệm, Đặng Hiền cố thủ ở Bồi Thành chống lại Lưu Bị, nhưng bị đánh bại. Lưu Bị đánh đến cửa ải Cẩm Trúc, tướng giữ cửa ải là Lý Nghiêm đầu hàng. Năm 214, Lưu Bị bị chặn lại ở Lạc Thành (nay thuộc thành phố Quảng Hán tỉnh Tứ Châu), chiến sự kéo dài một năm. Sau đó Gia Cát Lượng, Trương Phi và Triệu Vân đem quân từ Kinh Châu vào đất Thục cứu viện, Pháp Chính lại làm nội ứng cho Lưu Bị. Lưu Chương buộc phải đầu hàng Lưu Bị vào năm 214.
Sau khi Lưu Bị chiếm được ích Châu, tiến hành luận công ban thưởng, Gia Cát Lượng được thưởng năm trăm cân vàng, một nghìn cân bạc, năm nghìn đồng tiền, một nghìn sức gấm, lại được phong làm Quân sư tướng quân, làm việc ở phủ Tả tướng quân. Sau đó Lưu Bị liên tục xuất binh chinh phạt, Gia Cát Lượng phụ trách việc trấn thủ Thành Đô, chuẩn bị lương thực, binh sĩ cho Lưu Bị.
Năm Diên Khánh thứ nhất đời Hán Hiến Đế (tức năm 220), Tào Phi chiếm ngôi nhà Hán tự lên ngôi. Năm Ngụy Hoàng thứ 2 (tức năm 221), quần thần nghe được tin Hán Hiến Đế bị hãm hại, khuyên Lưu Bị, lúc này đã là Hán Trung Vương, đăng cơ xưng đế, nhưng Lưu Bị không nghe theo. Gia Cát Lượng dùng câu chuyện Cảnh Thuần thuyết phục Lưu Tú đăng cơ để khuyên Lưu Bị, Lưu Bị mới đồng ý. Sau khi Lưu Bị xưng đế, giao cho Gia Cát Lượng làm Thừa tướng lục thượng thư sự.
Sau khi Lưu Bị qua đời, Lưu Thiền kế vị, phong cho Gia Cát Lượng làm Vũ Vương Hầu. Không lâu sau, Gia Cát Lượng lại làm Ích Châu Mục. Những sự việc lớn nhỏ trong chính quyền nhà Thục Hán, Lưu Thiền đều hỏi ý kiến của Gia Cát Lượng, do Gia Cát Lượng quyết định.
Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?
1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên
Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.
Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:
"ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
uống nước nhớ tới nguồn", hoặc:
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con".
Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:
"Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân".
hay ở đoạn khác:
"Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời".
Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).
"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".
Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.
Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).
Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".
Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.
Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.
2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.
Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.
Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.
Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?
Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.
Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.
Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:
- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.
- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".
3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"
Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.
Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.
Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?
Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.
Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.
4. Kết luận
Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.