Quan điểm y lý về tóc –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
- Thiên đình (Trán):
Vầng trán vuông là đặc điểm thường gặp ở nam giới. Chủ nhân của dạng trán này thường sống rất thực tế, thận trọng trong công việc. Họ là người rất kiên trì, có ý chí phấn đấu không mệt mỏi.
Nam giới có tướng trán này thường ít thành công ở giai đoạn đầu đời. Họ cần phấn đấu nhiều để có thể xây dựng sự nghiệp vững chắc.
Đa số người trán vuông có khuynh hướng trở thành thương nhân. Cũng có 1 số người dễ đạt được thành công trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhờ vào năng lực và sự kiên trì của bản thân.
Trán vuông không phải là tướng lý tốt đối với nữ giới. Nếu như vầng trán của họ lại bị biến dạng bởi các vết sẹo hay các tỳ vết khác thì độ xấu càng tăng. Họ thường gặp nhiều rắc rối, thậm chí là bất hạnh trong đời sống hôn nhân.
Thiên đình cao rộng, mũi thẳng, ngũ nhạc hướng vào nhau. Thiên đình là cung vị của sự nghiệp. Người có thiên đình cao rộng, đầy đặn là người có khả năng phân tích tốt, làm việc có kế hoạch, sự nghiệp thuận lợi. Người có ngũ nhạc (trán, mũi, cằm và 2 gò má) đầy đặn, hài hòa là người có phúc tướng, sự nghiệp ổn định. Họ chính là chỗ dựa vững chắc cho nhân viên.
- Sơn Căn (khoảng cách ở giữa 2 đầu mắt) cao, màu sắc sáng sủa; sống mũi cao, chóp mũi tròn, 2 cánh mũi phải đầy đặn; chân mày hướng đến tóc mai là người có chí lớn, tài vận tốt. Nếu nam giới có đầu mũi nhọn, xương xẩu là người rất khắt khe, thường hay trách cứ vợ con; chặt chẽ trong chi tiêu. Nếu xương sống mũi lộ ra thì càng khắc vợ.
- Gian Môn (phía trên đuôi mắt) bằng phẳng, đầy đặn, không có nếp nhăn xung phá là tướng tốt, được sự hậu thuẫn đắc lực của người vợ. Nếu bộ phận này lõm vào thì duyên phận vợ chồng có thể bị tổn hại, khắc với vợ, không thể sống với một vợ đến già mà sẽ có nhiều lần kết hôn. Vị trí này dù không lõm nhưng lại có nốt ruồi hoặc có quá nhiều nếp nhăn nơi đuôi mắt kéo dài ra tận cung Phu Thê (phần nằm ở đuôi lông mày và đuôi mắt kéo dài đến chân tóc mai) thì có ảnh hưởng không tốt đến vợ.
- Nhãn thần (Mắt) đoan chính, thần thái thanh thoát nhưng phải có vẻ uy nghiêm, tròng trắng và tròng đen rõ ràng, phân minh. Ông chủ có nét tướng này là người thông minh, sức khỏe tốt; có tấm lòng lương thiện, biết phân biệt phải trái.
Nhiều người Hoa khi đánh giá bất kỳ đối tác làm ăn nào, xem mắt là quan trọng đầu tiên.
Nên chọn người mắt sáng (sáng trong, sáng xanh), lòng đen trắng rõ ràng, lòng đen nhiều hơn lòng trắng, tướng mắt cân đối: đây là một phần của tướng người quân tử, thông minh, chính trực.
Người mắt nâu thường lãng mạn, đa cảm, có khiếu nghệ thuật hơn người mắt đen (ít người đàn ông mắt nâu).
Nên tránh người mắt trái to hơn mắt phải. Ðây là tướng người ít nhiều gia trưởng.
Người mắt tam giác là người nhiều mưu mô, tâm tính không hiền lành. Tướng này không phải là người chồng tốt.
Người mắt to quá cũng thường không hay, vì người này thường mơ mộng, thiếu năng lực thực tế. Họ hợp với nghệ thuật hơn.
Người có mắt đẹp điển hình là Quan Vân Trường của Trung Quốc, đó là tướng mắt phượng mày ngài. Người đàn ông nào có được tướng mắt ít nhiều như vậy cũng là quý tướng rồi. Người như thế quan lộc, công danh sự nghiệp rất tốt, lại thêm tính thủy chung, son sắt.
Mắt tam bạch đản hoặc tứ bạch đản (là trường hợp nhãn cầu chỉ chạm vào một mí mắt, hoặc thậm chỉ không chạm mí nào cả trên cả dưới – kết quả là để lộ ra 3 đến 4 phần trắng trong cả con mắt): Ðây là tướng người vất vả, hung khí thậm chí đến tù tội, chết oan khuất. Các chị em bạn gái chọn người này nên cân nhắc thật kỹ và xem xét thêm các bộ vị khác.
Mắt “phù quang”: Ánh mắt lúc nào cũng sáng đều đều nhưng theo dạng đục đục, vui buồn không thấy biểu hiện trên ánh mắt. Ðây là tướng người lạnh lùng đến tàn nhẫn.
- Sống mũi không quá cao, chóp mũi không quá nhọn. Nếu người có mũi cao và đường sống mũi bị lộ thì sự nghiệp gặp nhiều trở ngại, khó có được sự ủng hộ của người cấp dưới. Người có chóp mũi nhọn và không đầy đặn thường kiêu ngạo, hay chỉ trích người khác sau lưng. Họ cũng rất chi li, tính toán về mặt lợi ích với cấp dưới.
- Chóp mũi tròn, đầy đặn; địa các (cằm) tròn trịa. Đây là ông chủ rộng rãi, tốt bụng, đáng tin cậy và luôn thân thiện với nhân viên. Họ giỏi giao tiếp và luôn đánh giá, nhìn nhận về con người, công việc một cách công bằng, phân minh.
- Địa Các (cằm): đầy đặn, bằng phẳng, vuông tròn là lý tưởng. Địa Các cho biết vận mệnh cuối đời; thể hiện quan niệm, thái độ, tình cảm của một người đối với gia đình. Nếu nam giới có cằm như trên là coi trọng cuộc sống gia đình. Trái lại, người có cằm nhọn thường không thích gò bó trong vai trò của một người chồng, do đó tình cảm vợ chồng vì thế cũng bị ảnh hưởng, cuộc sống gia đình không xuôi chèo mát mái.
- Eo tròn, lưng dày, vai bằng, rộng, ngực bụng cân đối thường là người có phúc tướng. Người này có nhiều phúc lộc, có thể gánh vác trọng trách trong gia đình và ngoài xã hội. Ngược lại, nếu nam giới có vai nhọn, cao là người có sức khỏe yếu, cuộc sống vất vả, bụng dạ hẹp hòi và nóng nảy.
- Diện mạo ôn hòa, nói năng nhã nhặn, giỏi kiềm chế; khi nói thì hướng đầu lên trên, không cúi gập đầu xuống. Đây là ông chủ có trình độ, khiêm nhường, biết trước biết sau, biết nghĩ đến quyền lợi của nhân viên.
Nguồn: Xem tướng số đàn ông
Hào - Thuật Ngữ Trong Phong Thủy:
Hào là những vạch liền và đứt đoạn tạo nên bát quái. Sự biến hóa của quái (quẻ) được quyết định bởi sự biến hóa của Hào, cho nên Hào là sự biểu tượng của giao thoa và mang ý nghĩa chỉ sự biến động. Phù hiệu để tạo ra bát quái
"-" là Hào dương
"--" là hào âm. cứ 3 Hào thì hợp thành một thẻ
Đại hạn ứng hung, như đại hạn khắc phụ, đại vận ứng cát, này vận không thể, qua vận thì hung.
Đại hạn ứng cát, đại vận ứng hung, này vận không cát, qua vận thì cát.
Đại hạn ứng hung, như có vận may, đại vận có cát, chưa tới cát vận cũng ứng hung.
Giao thoát quyết: Bát tự chi vận hạn ứng cát, nhưng gặp hung đại vận thì qua vận ứng cát, không xem ứng kì.
Bát tự chi vận hạn ứng hung, nhưng gặp cát đại vận thì qua vận ứng hung, không xem ứng kì.
Bát tự chi vận hạn ứng hung, nhưng sau khi gặp cát đại vận thì chưa tới cát vận nhất định thấy hung.
Nhàn chú: Tòng lấy thượng đại hạn cùng đại vận ứng kì quy luật nhìn ra: Đại hạn cùng đại vận vốn là cùng đích quan hệ, tức vi" Cùng" Đích quan hệ," Đại vận+ đại hạn" Vi cát thì không hung, hai người cũng vi hung thời ứng hung; hai người cũng vi giờ lành ứng cát.
Như:
Khôn: Ất giáp đinh tân ất bính đinh
Mão thân hợi hợi dậu thú hợi
Bính tuất vận không thể kết hôn, nguyên nhân thương quan khứ quan rồi, tuất vận một qua, năm thứ nhất nhân tiện kết hôn. Chưa kịp đinh vận đích giáp thân năm, cứ việc thân hợi hại cũng giống nhau kết.( Tuất vận khắc không được phu, qua tuất vận, đinh vận năm thứ nhất giáp thân năm khắc phu, đại vận tạp rồi. Một qua sẽ chết, không xem lưu niên. Rốt cuộc vốn là khắc hay là kết hôn?)
Nhàn chú: Tòng lấy thượng văn tự ghi chép cùng bát tự xem: Đại hạn xem sớm đáng kết hôn đích, nguyệt đích quan tinh rất vượng, nhưng nguyên nhân thú vi thương quan vận, kết không được! Đinh vận giáp thân năm kết hôn rồi!( Trí vu khi nào khắc đã chết! Không ghi chép! Phu tinh ngồi thẳng vị, thân hại chi!)
Càn: Ất canh tân nhâm
Tị thìn mão thìn
Đại vận: Kỷ mão mậu dần đinh sửu
1 tuổi 11 tuổi 21 tuổi
Mới vu:1965 1975 1985
Đoạn thiếu niên khắc phụ, đại hạn trông nom đích,18 tuổi trước kia, nguyên cục mão hại bất tử. Cho nên mão vận không chết được. Tẩu dần vận mặc tị. Ứng kì tới rồi. Không thể lão bà, lão bà thân thể bất hảo.
Nhàn chú: Niên thượng ất mộc thiên tài vi phụ, hợp nhập nguyệt lệnh càng biểu phụ, ất= mão, nguyên cục trung lưỡng thìn kẹp hại, hại bất tử, cho nên tẩu mão vận phụ bất tử! Ất tại niên thượng ấn lý ứng thiếu niên khắc phụ đích, nhưng đại vận không thể, cho nên, thiếu niên bất tử phụ! Như đổi lại cái thời thần như nhâm giờ Thân thì mão vận nhân tiện khắc đã chết! Niên thượng ất tị vi mang tượng, tị dẫn theo ất đích tượng, đi tới dần vận, dần hại tị, phụ vong!( Này tạo phía sau có ghi chép phụ chết ở đinh sửu vận đích giáp thú năm, ứng chính là nhược thần giáp xung vượng thần canh vi vọt lên? Không biết cái kia đối với?!) cùng phương pháp thì định ứng kì!
Khôn: Tân ất tân canh bính đinh mậu kỷ
Sửu mùi dậu tử thân dậu thú hợi
Khắc phụ,18-35 trong lúc đó, bính thìn năm tử phụ, trước mắt xem dậu lộc. Tử thực thương. Mẫu sinh hạ nàng đệ nhất tuổi sẽ chết, bởi vì năm mộ rồi. Thiên tài ngồi mộ. Nam chính là xã hội đen, nữ đích bán giả khói, phụ nữ lấy đen tài. Tân dậu nhật chủ xứng sửu thổ lấy đen tài, xã hội đen.
Nhàn chú: Này tạo nhìn kỹ có thể biết, nàng vốn là tân dậu nhật đích buổi tối23:00-24:00 sinh đích, chúc vãn tử. Ất mộc tại nguyệt lệnh, vi phụ rồi! Phụ ngồi mộ, thiếu niên khắc phụ, thêm ất canh hợp, tử mặc mùi, cũng là sớm tử chi tượng. Mậu vận năm thứ nhất bính thìn năm tang phụ! Mẫu vi thực thần cũng vi lộc, tân dậu một trụ nhập sửu mộ, tân vi mẫu, mẫu tử đích sớm hơn! Một tuổi tang mẫu. Tân dậu một trụ thấy sửu nhân tiện vào mộ, sửu vi âm u địa phương, lộc thêm vi tài, cho nên, loại này kết cấu vốn là lấy đen tài đích! Nam đích thì dễ vi xã hội đen. Ất mùi vi mùi thuốc lá tượng, làm giả khói đích. Nói chung, bát tự nói quý tiện, đại vận nói cát hung, lưu niên xem ứng kì. Lưu niên ứng kì đích cái nhìn phân dưới vài loại.
Tên sao | Âm dương - ngũ hành | Hóa | Chưởng quản | Chủ | Khảo bị |
Hóa lộc | Âm thổ | Tài lộc | Phúc đức | Tài lộc, thọ, duyên phận | Mở rộng là sức lưu thông, hiển lộ là tài |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Hóa Lộc là âm thổ, hóa khí là tài lộc, chưởng quản phúc đức, chủ về tài lộc, lại còn chủ về duyên phận, Hóa Lộc còn có hàm nghĩa mở rộng sức lưu thông, hiển lộ làm tiền tài, có thể cụ thể hóa tài phú.
Các tài tinh chính như Vũ Khúc, Thái Âm, Lộc Tồn, Thiên Phủ cùng với các tài tinh thứ như Liêm Trinh, Thiên Tướng, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Cô Thần mà không gặp Hóa Kỵ thì có lợi mà không có hại đối với tiền tài. Khi gặp Hóa Lộc thì tiền tài sẽ liên tục không dứt, hơn nữa còn dễ kiếm được tiền. Nhưng các tài tinh thứ mà gặp Hóa Kị (đồng cung hoặc ở đối cung tương xung), chủ về một đời tiền của lúc có lúc không, lên xuống thất thường, các mối quan hệ giao tế không tốt, phiền não vất vả. Cần phải xem trạng thái cát hung của các sao đồng cung và các cung vị tam phương tứ chính mới có thể đoán định được việc kiếm tiền có dễ dàng hay không. Tài tinh Hóa Lộc không gặp Hóa Kị, Địa Không, Địa Kiếp, lại nhập cung mệnh, thân, tài, quan, điền trạch thì nguồn tiền cực thịnh vượng. Tài tinh Hóa Lộc nhập các cung tử tức, phụ mẫu, tật ách, nô bộc, huynh đệ, chủ về hưởng thụ, hơn nữa còn có hiện tượng đào hoa.
Sao Hóa Lộc nhập miếu tại hai cung Dần, Thân đắc địa tại cung Tị, Hợi; không đắc địa tại bốn cung mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; lạc hãm tại bốn cung Tị, Hợi, Mão, Dậu.
Sao Hóa Lộc sợ vào bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; tuy hóa cát cũng không có tác dụng gì lớn, nhưng bốn cung mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cũng là bốn cái kho, nên tiền tài có được sẽ giữ được. Hóa lộc vào bốn cung hãm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, cho dù cung mệnh đóng tại Thân, Tài, Quan, Điền, cũng không thể phát được. Sao Hóa Lộc rất sợ gặp sao Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kị xung phá, là biến thành điềm hung, nên đề phòng cảnh khó khăn không đủ chi.
Sao Hóa Lộc thủ tại các cung Mệnh, Thân, Quan Lộc, tại bốn cung Mã Dần, Thân, Tị, Hợi lại gặp lại gặp hai sao hóa là Hóa Khoa và Hóa Quyền (nếu ba sao hóa cùng ở cung mệnh thì sức mạnh mẽ sẽ kém hơn ở các cung tam vị hợp hội chiếu, nhưng vận thuở nhỏ khá thuận lợi), nếu không bị sát tinh xung phá, thì vận làm quan rất tốt.
Cách tính trùng tang
Từ xa xưa, dựa trên dịch lý, cổ nhân đã xây dựng cách tính (xác định) trùng tang. Người xưa cho rằng đối với người quá cố khi chết phải xem tình trạng ra đi có được "yên ổn" hay không? Có gì oan khuất hay không, được thể hiện qua 3 nhóm biểu hiện trạng thái vong linh của người đã khuất, đó là:
1. Nhập mộ: Yên ổn, đúng số, không có điều gì băn khoăn, oan ức... đóng ở các cung THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI.
2. Trùng tang: Chết thiêng, chết oan, còn vương vấn ở trần gian đóng ở các cung DẦN - THÂN - TỴ - HỢI.
3. Thiên Di: Có ảnh hưởng xấu đến người thân đang còn sống ở các cung TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU.
Theo sách "Tam Giáo Chính Hội": Nam nhất thập khởi Dần thuận liên tiến, Nữ nhất Thập khởi Thân, nghịch liên tiến, Niên hạ sinh nguyệt, Nguyệt hạ sinh Nhật, Nhật hạ sinh Thời. Ngộ Tý - Ngọ - Mão - Dậu Thiên di. Dần - Thân - Tỵ - Hợi Trùng tang. Thìn - Tuất - Sửu - Mùi Nhập mộ cát dã. Cụ thể như sau:
Cách tính: Phải tính cả năm, tháng, ngày, giờ (niên, nguyệt, nhật, thời). Người quá cố phải được ít nhất 1 nhập mộ mới có thể xem là giờ ổn. Nếu được càng nhiều nhập mộ càng tốt (nhiều nhất là 4 nhập mộ).
Niên (năm): Người quá cố là nam, khởi từ cung Dần, đi theo chiều thuận kim đồng hồ. Gọi cung Dần là 10 tuổi, cung Mão là 20 tuổi, cung Thìn là 30 tuổi... cứ thế mỗi cung là 10 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ người quá cố, rồi cứ tiếp mỗi cung là 1 tuổi cho đến hết số tuổi người quá cố. Người quá cố là nữ, khởi từ cung THÂN, đi theo chiều ngược kim đồng hồ. Gọi cung Thân là 10 tuổi, cung Mùi là 20 tuổi... cứ thế mỗi cung 10 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ của người quá cố, rồi tiếp mỗi cung là 1 tuổi cho đến số hàng chục của tuổi thọ của người quá cố. Nếu số đó trùng vào các cung THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI thì được niên nhập mộ, nếu các cung DẦN - THÂN - TỴ - HỢI thì bị trùng tang, vào các cung TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì bị thiên di.
Trường hợp người quá cố dưới 10 tuổi là nam thì cung Dần là 1 tuổi, cung Mão là 2 tuổi, cung Thìn là 3 tuổi... cho đến tuổi mất của người quá cố. Trường hợp người quá cố dưới 10 tuổi là nữ thì cung Thân là 1 tuổi, cung Mùi là 2 tuổi, cung Ngọ là 3 tuổi.. cho đến tuổi mất của người quá cố.
Nguyệt (tháng): Tháng giêng tiếp ngay vào sau cung tuổi. Thí dụ: Tuổi dừng ở cung Ngọ thì tháng giêng ở cung Mùi (đối với nam) và tháng giêng ở cung Tỵ (đối với nữ) cứ thế mỗi tháng tiếp 1 cung cho đến tháng mất của người quá cố.
Nếu vào THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI thì được nhập mộ; Nếu vào DẦN - THÂN - TỴ - HỢI thì bị trùng tang. Nếu gặp TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì bị thiên di.
Nhật (ngày): Ngày mùng 1 tiếp vào ngay sau cung tháng, cứ thế tiếp mỗi ngày 1 cung cho tới ngày người quá cố qua đời và xem rơi vào nhập mộ, trùng tang hay thiên di như trên.
Thời (giờ): Giờ Tý tiếp ngay sau cung ngày và mỗi cung là 1 giờ cho đến giờ người quá cố qua đời và xem rơi vào nhập mộ, trùng tang hay thiên di như trên.
Nói chung được 1 nhập mộ trở lên là yên tâm, vì "nhất mộ sát tam trùng" (một nhập mộ xoá được 3 trùng tang). Hoặc được 2 thiên di thì cũng không lo vì "nhị thiên di sát nhất trùng" (2 thiên di xoá được 1 trùng tang). Nếu không có nhập mộ nào thì phải xem ngày mất của người quá cố có phạm vào tam sa sát hay không? Theo người xưa và sách vở ghi chép lại thì: Trùng tang Ngày là nặng nhất. Trùng tang Tháng là nặng nhì. Trùng tang Giờ là nặng thứ ba. Trùng tang Năm là nhẹ nhất.
Quan niệm cổ về trùng tang
Nếu căn cứ vào phép tính trùng tang như trên thì cả nam và nữ những người chết vào các tuổi (âm lịch): 10, 13, 16, 19, 22, 25, 28, 31, 34, 37, 40, 43, 46, 49, 52, 55, 58, 61, 64, 67, 70, 73, 76, 79, 82, 85, 88, 91... sẽ rơi vào trùng tang. Từ đó quy nạp ngược lại theo hệ can - chi thì những người có tuổi: Tý, Ngọ, Mão, Dậu nếu chết vào một trong các năm TÝ - NGỌ - MÃO - DẬU thì rơi vào trùng tang; Hoặc: Dần, Thân, Tỵ, Hợi nếu chết vào một trong các năm DẦN - THÂN - TỴ - HỢI thì rơi vào trùng tang; Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu chết vào một trong các năm THÌN - TUẤT - SỬU - MÙI có nghĩa là chết vào các năm "xung (tứ hình xung) sẽ bị TRÙNG TANG.
Dưới góc độ của Dịch lý, trên cơ sở học thuyết Âm - Dương và Ngũ hành: Đồng khí (đồng cực) thì đẩy nhau, khác khí (khác cực) thì hút nhau. Tương sinh thì tốt, tương khắc thì xấu, đồng hành thì tị hoà. Vậy thì người chết vào những năm xung (tứ hình xung) thì rất xấu nên bị TRÙNG TANG. Ví dụ: Người tuổi Mão (thuộc Mộc, ở phương Đông) chết năm Dậu (thuộc Kim ở phương Tây) sẽ bị trùng tang vì Kim khắc Mộc, Tây đối lập với Đông; Hoặc người tuổi Ngọ (ở phương Nam thuộc Hoả) chết năm Tý (ở phương Bắc, thuộc Thuỷ) sẽ bị TRÙNG TANG vì Thuỷ khắc Hoả, Bắc với Nam đối lập... Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy. Như vậy, việc xác định trùng tang là dựa trên nguyên lý của dịch với học thuyết Âm dương - Ngũ hành chứ không phải sự mê tín, tuỳ tiện.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Tiền thân của Lịch vạn niên bắt nguồn từ Trung Quốc: Lịch pháp định do vua ban đã có từ thời xa xưa khoảng 3000 năm trước công nguyên (không có thời điểm xác định vì không còn cứ liệu lịch sử). Chúng ta chỉ biết cuốn Hoàng lịch xa xưa nhất đã được phát hiện là cuốn Hoàng lịch năm Bính Tuất, năm thứ tư triều Đồng - Quang nhà Hậu Đường (926). Trong lịch thư đó đã có ghi đầy đủ các mục theo lịch pháp định thông thường, ngoài ra còn ghi ngày nào thuộc trực gì và các việc nên làm, nên tránh từng ngày (theo Lưu Đạo Siêu).
Từ thời nhà Hán đến nhà Thanh, trên thị trường nảy nở đến hàng trăm thuật thuyết. Quay vòng 60 năm Hoa giáp và 24 phương vị đã có la liệt hàng vạn tên hung tinh, cát tinh. Vua Khang Hy nhà Thanh (1662 - 1722) xét thấy tình trạng chọn ngày tốt xấu quá ư hỗn loạn, bèn triệu tập các học sĩ có tiếng trong nước thời đó, thống nhất biện luận về các loại Thần sát (hung tinh cát tinh) soạn thành lịch thư. Từ đó giao cho một số học giả dùng làm cứ liệu soạn lịch hàng năm, còn các loại tạp thuật nhảm nhí bị bãi bỏ. Vua Khang Hy lệnh cho nhóm học sĩ Lý Quang - Địa biên soạn cuốn Tính lịch khảo nguyên. Tiếp đến vua Càn Long nhà Thanh (1736 - 1795) lệnh cho nhóm học sĩ Doãn I Lộc, Mai - Cốc - Thành, Hà - Quốc I Tông... biên soạn cuốn Hiệp kỷ biện phương thư, nhằm bổ sung cho Tinh lịch khảo nguyên được hoàn hảo hơn. Hiệp kỷ biện phương thư phê phán những tà thuyết lưu truyền trong xã hội đương thời, đồng thời đính chính lại những sai sót trong Lịch thư của Tòa Khâm Thiên giám.
Đến triều Đạo Quang nhà Thanh (1821 - 1849) ngang với triều Minh Mạng, Thiệu Trị nhà Nguyễn nước ta) có cuốn Trạch cát hội yếu do Diêu - Thừa - Dư soạn, toàn thư gồm 4 quyển, nội dung súc tích đầy đủ, bao hàm được những phần cơ bản của Hiệp kỷ biện phương thư. Có thể nói 3 quyển Tinh lịch khảo nguyên, Hiệp kỷ biện phương thư và Trạch cát hội yếu nói trên là tiền thân của Lịch vạn niên Trung Quốc.
Lịch vạn niên hình thành: Hiệp kỷ biện phương thư là cuốn Hoàng lịch thông thư hoàn hảo nhất, nhưng là một công trình quá đồ sộ, toàn thư gồm 36 tập, chỉ có thể dùng làm cơ sở để tòa Khâm Thiên giám biên soạn lịch hàng năm. Thời xưa, phương tiện thông tin đại chúng còn quá thô sơ, điều kiện ấn loát có nhiều khó khăn, Hoàng lịch ban hành với số lượng rất hạn chế, đến tay quần chúng nhân dân rất chậm, nhiều địa phương còn phải khắc in lại, nên lịch hàng năm dễ bị lỗi thời, chỉ dùng được một thời gian ngắn hoặc quá hạn phải bỏ đi. Đó là những nguyên cớ hình thành Lịch vạn niên (lịch dùng cho nhiều năm).
Lịch vạn niên phải rất súc tích, cô đọng và thông dụng, ở Trung Quốc Lịch vạn niên chỉ mới ra đời khoảng triều Đạo - Quang, Quang - Tự nhà Thanh (thế kỷ thứ XIX). Giới thiệu Hiệp kỷ biện phương thư Hoàng lịch triều Càn Long nhà Thanh (1736-1795) Tác giả: Doãn Lộc, Mai Cốc - Thành, Hà Quốc Tông, biên soạn theo lệnh chỉ của vua Càn 1 Long. Toàn thư có 36 quyển:
-Quyển 1 và 2 gọi là Bản nguyên; Nêu những kiến thức cơ bản về cách làm lịch gồm Hà đổ, Lạc thư, Tiên thiên bát quái của Phục Hy, hậu thiên bát quái của Chu Văn Vương, học thuyết âm dương ngũ hành, can chi, thập nhị trực, 28 sao, 24 phương vị, 24 tiết khí và căn cứ lý luận của thuật chọn ngày giờ.
-Quyển 3 đến 8 gọi là Nghĩa lệ; Giới thiệu tên các sao, tính chất nguồn gốc, cương vị và quy luật vận hành của các sao gộp thành 4 loại Thần sát: Sao vận hành theo năm, tháng, ngày, giờ.
Tác giả Khoa Tử Vi là đạo sĩ Trần Đoàn, sinh dưới thời nhà Tống. Ông này đã dựa vào Kinh Dịch cùng những khai triển về lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Đổng Trọng Thư, một triết gia thời Hán, để lập ra khoa Tử Vi.Theo nguyên ngữ, danh từ Tử Vi không nói lên đối tượng khảo cứu, Tử là màu Tím, Vi là từ của vi diệu. Nhưng mục đích của Tử Vi là tìm hiểu con người và số phận con người, dựa trên hệ thống quy luật biến hóa của triết thuyết về Vũ Trụ thời đó. Dù căn bản triết lý của Tử Vi cao siêu, nhưng đối tượng chỉ nhắm vào con người mà thôi.
6. Đặc tính vận số : |
Con người ta khi tức giận thì dường như mất hết đi lý trí, không phân biệt được đúng sai và thường gây họa vào chính thời điểm này. Bởi vậy cho nên đừng bao giờ làm điều gì trong lúc đang nóng giận, nếu không muốn sau này phải hối hận.
800 năm về trước, trên thảo nguyên bao la xuất hiện một đế quốc hùng mạnh. Tương truyền rằng miền đất đó rộng đến nỗi nếu dùng ngựa loại tốt mà chạy từ miền đông sang miền tây cũng phải mất một năm. Bởi vì đế quốc này rộng lớn như biển, cho nên vị Đại Hãn kiến lập nên đế quốc này được gọi là Thành Cát Tư Hãn, ý nói là “cũng giống như Vua Biển”.
Đại Hãn rất yêu quý một con chim ưng, khi ra ngoài săn bắn ông luôn mang chim ưng theo cùng. Chú chim ưng này khi Đại Hãn vừa ra mệnh lệnh liền bay vào không trung tìm kiếm con mồi. Nếu như nhìn thấy mục tiêu nó liền nhanh như tên bắn sà xuống quắp đi. Khi chinh chiến, chú chim chỉ dẫn phương hướng của quân địch cho Đại Hãn.
Một ngày nọ, Đại Hãn và các tùy tùng đi săn. Khi trên đường trở về, Đại Hãn lệnh cho các tùy tùng về trước, đợi khi mặt trời dần xuống, ông mới thuận theo một lối tắt mà trở về.
Đi được một hồi, do khí trời mùa hè nóng nực, Thành Cát Tư Hãn cảm thấy khát nước, muốn tìm nước uống, nhưng vì sức nóng của Mặt trời đã khiến các khe suối liền mấy tháng trời đều khô cạn. Song ông biết ở phía trước có một dòng suối nhỏ chảy mãi không bao giờ cạn.
Ông dựa vào trí nhớ, tìm kiếm rất lâu, cuối cùng đã tìm được dòng nước. Tuy nhiên, dòng nước bây giờ chảy nhỏ giọt, rất lâu mới tụ thành một giọt nước nhỏ xuống.
Đại Hãn lấy một chén rượu từ trong túi ra, từ từ hứng dòng nước. Mất một đoạn thời gian thật lâu nước mới chảy đầy chén. Bởi vì quá khát, Thành Cát Tư Hãn không đợi thêm được nữa, không dễ gì đợi cho nước chảy đầy chén. Ngay khi ông vừa muốn đưa chén nước lên môi thì đột nhiên con chim ưng yêu quý của Đại Hãn bay tới hất cái chén từ trong tay ông tuột rơi xuống đất, nước đổ hết ra ngoài.
Thành Cát Tư Hãn cảm thấy khá bực tức. Con chim ưng chuyển mình bay quay lại rất nhanh, sau đó nó đậu trên hòn đá bên dòng nước, ông không hiểu con chim ưng đang làm cái gì.
Thành Cát Tư Hãn lại nhặt cái chén lên để hứng nước. Lần này ông không muốn đợi quá lâu, nước vừa mới đầy một nửa chén ông đã nhấc chén lên, đưa gần lên môi chuẩn bị uống, liền ngay khi đó, chim ưng lại lao tới tấn công làm cái chén đổ lật ngược.
Lần này Thành Cát Tư Hãn đã thật sự nổi giận, ông trừng mắt nhìn chim ưng và nói: “Lần này là lần cuối cùng nhé, một lần nữa là mày sẽ phải trả giá cho những gì mày đã làm đấy!”
Lại thêm một lần nữa, con chim ưng kia vẫn cứ xông đến hất đổ cái chén nằm lộn ngược. Một tiếng “Xoát!”, Thành Cát Tư Hãn rút cây kiếm vàng ra, chém đứt đầu con chim ưng rơi xuống rồi lạnh lùng nói: “Đấy là mày tự làm tự chịu nhận lấy!”
Lần này Đại Hãn không muốn đợi thêm nữa, ông liền leo lên tảng đá, muốn trực tiếp tìm tới đầu nguồn uống cho bõ cơn khát. Đúng lúc ông trèo lên tới đỉnh núi tìm thấy vũng nước nhỏ đầu nguồn, ông mới vô cùng kinh ngạc, ngay giữa vũng nước đó là xác một con rắn lớn cực độc, dịch độc đang chảy hòa vào dòng nước trong suốt.
Thành Cát Tư Hãn chợt hiểu thông tất cả mọi thứ, hóa ra chim ưng là vì để cứu ông, mới hết lần này đến lần khác làm đổ chén nước. Ông hối hận vô cùng leo trở lại tảng đá, đau lòng bưng xác chim ưng lên thương tiếc, liền nói với chính mình:
Hôm nay ta đã học được một điều, đừng làm bất cứ điều gì khi giận dữ
Tinh hoa của phái phong thủy Loan đầu đó là mối tương quan giữa nhà ở và cảnh quan môi trường. Đây được xem là yếu tố quan trọng nhất, dễ nhận thấy nhất trong phong thủy.
Từ xưa đến nay, các bậc đế vương, khanh tướng, nguyên thủ khi xây dựng kinh đô, cung điện, phủ đệ … đều phải xét đến yếu tố cảnh quan môi trường đầu tiên. Cảnh quan môi trường, theo khoa học địa lý nó chính là điều kiện tự nhiên, và đặc điểm dân cư, kinh tế, xã hội và nhân văn.
Cảnh quan tự nhiên bao gồm đặc điểm về địa hình, địa chất, hình thế núi non, chế độ thủy văn, sông ngòi, khí hậu…Môi trường nhân văn bao gồm tất cả các đặc điểm về điều kiện dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội, cho tới phong tục tập quán của con người. Những yếu tố này được phân chia cụ thể như sau.
Địa hình, địa thế của vùng đất. Điều này hết sức quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự an toàn của con người. Khi lựa chọn đất xây nhà, hoặc đi mua nhà, nên tránh ở những khu vực không an toàn, như gần tả ly cao, hoặc quá gần bờ sông, về mùa mưa bão, rất dễ xảy ra sạt lở đất, rất nguy hiểm. Địa thế lý tưởng nhất để ở đấy là lưng dựa vào đồi thấp, hướng nhìn bao quan rộng lớn. Gặp được địa thế này, như người ngồi có chỗ tựa, mắt nhìn ra khoảng không rộng lớn, tiền đồ, tương lai sáng lạn, hỷ khí, mây lành tụ khắp. Xưa Hoài Âm Hầu – Hàn Tín dựng trại quay lưng về sông, với ý đồ chiến thuật dồn ép quân sĩ vào đường cùng trong chiến đấu, để tạo ra sức mạnh bất ngờ, trong nhất thời. Trong phong thủy, xây cất nhà cửa định cư lâu dài, thì nhất vị nhì hướng, tọa sơn kiến thủy. Ở khu vực đồng bằng, không có núi đồi, thì những mô đất cao, hay những tòa cao ốc chính là núi đồi trong bối cảnh này. Nên việc chọn hướng nhà rất quan trọng, nhà nằm ở hướng nào thì đón được nhiều cát lộc và khí tốt, bạn có thể tham khảo công cụ xem hướng nhà tại Phongthuyso.vn
Điều kiện giao thông xung quanh. Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng. Giao thông có thuận tiện, thì công việc mới suôn sẻ, buôn bán kinh doanh mới dễ dàng, cuộc sống đầy hi vọng. Giao thông không thuận lợi, sinh hoạt tới công việc đều bị cản trở. Điều này lý giải, tại sao ở những khu vực xa xôi hẻo lánh, giao thông không thuận tiện, việc giao lưu trao đổi về kinh tế văn hóa bị cản trở, chia cách, là những khu vực còn lạc hậu, chậm phát triển. Như vậy, chọn đất làm nhà, hay chọn mua nhà nhất thiết phải chọn nơi giao thông thuận tiện.
Các nhân tố tiềm ẩn tai họa. Nhà gần bệnh viện, nhà máy, xí nghiệp ảnh hưởng đến sức khỏe con người, vì vi khuẩn, mầm bệnh, khói bụi ô nhiễm. Không khí xung quanh không được trong lành, thì trong nhà chắc chắn sẽ bị vẩn đục. Phong thủy gọi đó là “uế khí sát”, ở những khu vực như vậy, con người như “sống chung với lũ” vì không có cách nào hóa giải, chỉ có thể giải bớt, hạn chế những điều bất lợi trên bằng việc trồng thêm nhiều cây xanh, đóng cửa kín, vệ sinh, và thực hiện nếp sống khoa học, để bảo vệ sức khỏe của mình.
Khi lựa chọn đất, và thiết kế căn nhà phải đảm bảo ánh sáng. Theo các nghiên cứu khoa học, ánh sáng mặt trời là các tác nhân lý hóa, tiêu diệt các loại vi khuẩn, mầm bệnh, đặc biệt là các bệnh đường hô hấp. Chưa kể đến việc, nhà thiếu ánh sáng, dễ gây các bệnh về mắt, cong vẹo cột sống, đối với trẻ em, còn đi học. Một căn nhà tràn ngập ánh sáng, khiến cho tâm tính con người trở nên vui vẻ, trí tuệ linh hoạt sáng suốt, cuộc sống, công việc sẽ trở nên hài hòa, hạnh phúc.
Nhà ở gần các công trường xây dựng, vùng mỏ, nhà máy, ngoài vấn đề ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, còn là những nơi thường xuyên gây ra tiếng ồn, gây ra tính trạng mất ngủ, đặc biệt đối với người già. Do mất ngủ, thần kinh thường xuyên bị căng thẳng, tâm lý bị ức chế, không thoải mái. Nhà gần các trạm viễn thông, các luồng sóng điện từ, sóng viễn thông rất mạnh, gây ảnh hưởng toàn diện tới sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản.
Tục ngữ có câu : “Nhất cận thị, nhị cận giang, tam cận lộ” . Nghĩa là gì, nhà ở tốt nhất là gần chợ, những trung tâm thương mại, mua sắm, kinh doanh có nhiều cơ hội giàu có. Thứ nữa, nhà gần sông, việc giao thông bằng đường thủy, và các hoạt động kinh tế, sinh hoạt khác được thuận lợi. Thứ ba, nhà gần những tuyến đường giao thông quan trọng, huyết mạch. Xâu chuỗi vấn đề trên, ta rút ra kết luận nhà ở nên xây dựng ở những khu vực tiện cho việc sinh hoạt, đi học, đi làm thì rất tốt.
Cảnh quan kiến trúc xung quanh, có thể tạo ra sự bất lợi cho phong thủy nhà của bạn. Cần phải nghiên cứu kỹ, để cải thiện, sửa sang, hoặc dùng vật phẩm phong thủy hóa giải những điểm hung, kị bất lợi đó..
Đặc điểm về dân cư, tình hình biến động dân số và các nhân tố xã hội. Những yếu tố này, ảnh hưởng tới nhân khí và không khí. Mật độ dân số quá đông, gây nên sự bức bối, vấn nạn kẹt xe, và các vấn đề khác về trật tự an toàn xã hội. Xưa, mẹ thầy Mạnh Tử, ba lần chuyển nhà, cuối cùng, quyết định ở gần trường học, vì muốn con mình chăm chỉ học tập. Về sau, Mạnh Tử trở thành một nhà hiền triết nổi tiếng. Như vậy, bối cảnh về dân cư, văn hóa còn ảnh hưởng sâu sắc tới nhân cách và tiền đồ của trẻ nhỏ.
Đạo giáo có câu “thuận theo đạo lý”. Đạo lý nghe có vẻ cao siêu sâu sắc, nhưng thực tế nó chính là những quy luật tất yếu, của tự nhiên và xã hội. Việc chọn lựa đất để xây dựng nhà cửa, định cư lâu dài, cần phải hài hòa với các cảnh quan môi trường, và đặc điểm xã hội, nhân văn.
Tổng hợp các nguồn
► Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
![]() |
tiêu chuẩn để đo sự vượng suy của can chi năm, ngày, giờ. Nó có thể trợ giúp yếu hoặc khống chế mạnh, là cương lĩnh của tháng, chủ tể quyền sinh sát của một tháng. Cho nên bàn về tứ trụ trước hết phải xem lệnh tháng, sau đó mới xem nhật nguyên (trụ ngày).
![]() |
Tháng sinh được ví như hình ảnh cành cây |
Tháng chủ về anh chị em (trong sách cổ cũng có nói chủ về cha mẹ). Nếu can chi của tháng tương sinh cho nhau hoặc can của tháng gặp vượng địa lại được những trụ khác (năm, giờ, ngày) đến sinh trợ, không bị xung khắc phá hại thì đó là tượng anh chị em hòa thuận.
Nếu can tháng bị khắc hoặc can chi của tháng xung khắc nhau thì đó là tượng anh chị em không nương tựa vào nhau hoặc bất hòa.
Tháng có quan hệ mật thiết với mệnh suốt cả đời người. Trong suốt cuộc đời, bất kể là nam hay nữ, vận thuận hay ngược, thời kỳ từ 50-69 tuổi đều xảy ra vận cả tháng xung khắc với 10 năm trong gia đoạn ấy, cho nên trong thời gian đó nói chung là xảy ra nhiều việc và phức tạp, biến động nhiều. Người mà mệnh cục mạnh, trụ ngày mạnh thì ít gặp biến động hoặc vô sự, ngược lại trụ ngày yếu thì sẽ gặp nhiều bất trắc.
(Theo Dự đoán tứ trụ)
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Bao lì xì nên để số tiền chẵn để tượng trưng cho ý nghĩa tốt lành
Để số lượng tiền chẵn bên trong phong bao lì xì vào dịp Tết mang ý nghĩa may mắn hơn là tiền lẻ. Tương tự cũng như vậy khi bạn bỏ tiền mừng đám cưới hay sinh nhật. Thậm chí, nhiều người chuộng để số tiền lộc phát như 88, 168 hay 168.
2. Nhét tiền mới trong phong bao lì xì
Sử dụng tiền mới đại diện cho một sự khởi đầu tươi mới. Nó thể hiện sự thành tâm cầu chúc cho trẻ em, người già một năm mới tràn ngập những điều tốt đẹp, bỏ lại sau lưng những việc không hay của năm cũ.
3. Không sử dụng bao lì xì cũ
Nhiều chị em hay giữ lại phong bao lì xì của con để tái sử dụng vào năm sau. Đó là lí do năm nay là năm con Khỉ mà có thể bạn nhận được phong bao con Ngựa hay con Dê, thậm chí còn in hẳn số năm rõ ràng. Điều này là một sự thiếu tôn trọng khi bạn đem đồ cũ tặng trong năm mới, cũng như không coi trọng người nhận.
4. Chỉ sử dụng phong bao màu đỏ
Theo truyền thống, màu đỏ mang năng lượng dương, là biểu tượng của hạnh phúc, may mắn và tài lộc. Trong dịp năm mới, từ nhà cửa, đồ trang trí, món ăn, quần áo,...mọi người đều chọn màu đỏ để hòa hợp với khí trời đầu xuân. Trên thực tế, ý nghĩa của việc tặng bao lì xì là chiếc phong bao màu đỏ, chứ không phải tiền bạc bên trong. Vì vậy, hãy lựa đúng màu sắc phong bao may mắn. Bạn đừng cố chơi trội khi mua những loại bao lì xì màu sắc khác lạ.
5. Không nên mở phong bao lì xì trước mặt người tặng
Trong văn hóa Á Đông, mở bất cứ món quà nào trước mặt người tặng cũng được coi là thiếu lịch sự. Tương tự như vậy, bạn nên dặn trẻ không nên mở ngay phong bao lì xì trước mặt người tặng. Đã có không ít trường hợp cả hai bên phụ huynh đều xấu hổ khi bé vùng vằng vì tiền lì xì quá ít.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Men theo con đường rợp bóng cây cuối khu biệt thự Tây Hồ ở thủ đô Hà Nội, giữa bát ngát hương sen và cảnh đất trời hòa quyện trong ánh nắng chiều tà, doi đảo nhỏ được người xưa ví là “bãi đất cá vàng” nhô ra giữa mặt nước lung linh, đúng là cái thế “đầu rồng, thân rồng, rùa cõng” khiến khách vãn cảnh cảm thấy âm dương đối đãi, tâm hồn mình thư thái lạ.
Vượt qua cổng Phủ Tây Hồ sừng sững bên cây đa cổ, con đường vào phủ uốn lượn theo mép hồ lơ thơ liễu rủ lại đưa bước chân du khách tới hai cây vối lớn hiếm thấy và một cây si cổ thụ ngay trước cửa Động Sơn Trang, vươn những chùm rễ đại ra mặt nước cho chim chóc đua nhau về làm tổ.
Cảnh đẹp nên thơ ấy là một trong những lý do khiến Phủ Tây Hồ luôn thu hút khách thập phương đến bằng đường bộ cũng như bằng đò trên hồ Tây. Truyền thuyết về công trình văn hóa tín ngưỡng được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia này cũng là điều khiến không ít du khách trầm trồ tán thưởng.
Sự tích vị Thánh Mẫu thờ trong Phủ Tây Hồ được người dân tổng Thượng, huyện Phụng Thiên xưa (nay là vùng Yên Phụ, Nghi Tàm, Tây Hồ, Quảng Bá, Xuân La, Vạn Dâu) kể lại rằng: Quỳnh Hoa là con gái Ngọc Hoàng thượng đế ở Đệ nhị Thiên Cung, do đánh rơi chén ngọc dâng rượu chúc thọ đã phải xuống trần gian đầu thai làm Giáng Tiên - con gái thường dân Lê Thái Công ở An Thái - Vân Cát - Vụ Bản - Nam Định vào năm 1557. Lớn lên, có nhan sắc tuyệt trần, lại giỏi thi thơ, song lấy chồng và sinh con - một trai, một gái - thì Giáng Tiên chớp mắt thăng thiên đình. Nàng giáng trần lần thứ nhất để gặp lại người thân, có hai nữ thần Quế Nương, Thị Nương hậu vệ; lần hai hiển linh để cứu nhân độ thế, trừng phạt kẻ bất lương trêu ghẹo người này, lại gia ơn cho kẻ khác và du ngoạn khắp chốn danh lam, giáng bút đề thơ.
Có truyền thuyết kể rằng chính tại mảnh đất Phủ Tây Hồ ngày nay, Quỳnh Hoa đã tái ngộ xướng họa thơ văn cùng Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (lần thứ nhất đàm đạo tại xứ Lạng) trong vai cô chủ quán tửu lâu Tây Hồ phong nguyệt, ít ngày sau Trạng Bùng quay lại đã thấy biến mất cả người lẫn quán, chỉ còn hồ nước mênh mông. Quỳnh Hoa đã được dân chúng lập phủ thờ, đặt tên là Bà Chúa Liễu Hạnh, được xem là một trong bốn vị “tứ bất tử”, là tấm gương về sự tự mình tạo lấy hạnh phúc.
Bà Chúa Liễu Hạnh theo quan niệm dân gian đã trở thành một mẫu quyền năng vô lượng và phân thân, hóa thân thành các thần linh cai quản muôn mặt của vũ trụ: Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ cai quản trên trời, Mẫu Thượng Ngàn cai quản núi rừng, Mẫu Thủy (hay Mẫu Thoải) cai quản trên sông biển, thể hiện sự ngưỡng mộ chân thành, coi trọng vai trò của người mẹ.
Phủ Tây Hồ bao gồm cổng làm kiểu tam quan, kiến trúc chính 3 nếp (Tam tòa thánh mẫu); phương đình, tiền tế, hậu cung; Điện Sơn Trang, khu nhà khách, lầu Cô, lầu Cậu. Di tích Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX, XX như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối…Đặc sắc nhất là bức đại tự ghi: “Thiên tiên trắc giáng” (Tiên trời xuất hiện) và bức hoành phi ở cửa cung đề: “Mẫu nghi thiên hạ” (làm mẹ của cả thiên hạ).
Độc đáo nhất ở Phủ thờ là ba pho tượng nữ thần đặt song hành: Mẫu Thượng Ngàn là vị mặc áo xanh lá cây tượng trưng cho rừng, nơi con người xưa sinh sống bằng các loại củ; Mẫu Thoải (thủy) là vị mặc áo trắng, tượng trưng cho nước; Mẫu Địa là vị mặc áo vàng, tượng trưng cho đất. Ba vị mẫu này hợp thành Tam phủ, giải thích quá trình tiến hóa của cư dân Việt, từ rừng núi, sông suối xuống đồng bằng định cư trồng lúa nước. Cũng theo quan niệm Tam phủ thì, cai quản thiên phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người, cai quản địa phủ có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người, cai quản thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng ngại, khó khăn cho con người. Với sức mạnh huyền bí ban phúc, xá tội và giải ách, tín ngưỡng Tam phủ rất hấp dẫn mọi người.
Vào dịp tết đến xuân về, du khách thường đổ về đây rất đông, vì cùng với việc lễ cầu may, họ còn thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ, nhớ về “áo mây xe gió” của bà chúa Liễu Hạnh. Được coi là nơi linh thiêng nên phủ Tây Hồ được nhiều người đến cúng lễ và cầu phúc, cầu lộc, nhất là vào ngày 3 tháng ba và ngày 13 tháng tám âm lịch.
Chàng trai có lông mày rậm, mắt to, hay môi trên cong thường tình cảm, lãng mạn, hài hước… Những chàng trai có đặc điểm này thường thu hút được phái nữ… Củ thể thế nào? tướng nam giới thế nào thì hút hồn phụ nữ? Tất cả các bạn đều tò mò về vấn đề này, Chúng ta cùng tham khảo trong bài viết dưới đây nhé!
Nội dung
Chàng trai có lông mày góc cạnh rõ ràng tạo cho phái nữ cảm giác rất mạnh mẽ và nam tính. Những anh chàng tướng lông mày thế này rất hay tạo được ấn tượng tốt đối với phái đẹp.
Cánh XX vốn nhạy cảm và dễ tổn thương, vì vậy, họ luôn cần những anh chàng có khả năng thấu hiểu mình. Các chàng trai lông mày rậm vốn sinh ra đã có bản năng giao tiếp – rất dễ được lòng phái nữ.
Xương mày nhô ra nhưng không quá lớn cho thấy đây là những chàng trai sẵn sàng tấn công các “đối tượng” trong “tầm ngắm” của họ.
Mắt to và hơi xếch là chàng trai tình cảm, có khiếu hài hước và thân thiện. Đây là những người có phong cách làm việc nghiêm túc, biết hướng tới tương lai nên rất được phái nữ chú ý.
Đây là những người thông minh, hiếu thảo, có phúc tướng và thường là chỗ dựa vững chắc cho phái đẹp.
Tình cảm, nhẹ nhàng, lãng mạn, hài hước, những anh chàng này rất dễ hấp dẫn phái nữ.
Đây là người rất chu đáo. Gần họ, phái nữ sẽ có cảm giác vô cùng an toàn.
Đây là những chàng trai sẵn sàng gánh vác trách nhiệm gia đình.
chết trước chồng.
Con nít cơ thể chưa phát triển đầy đủ nên không thể căn cứ vào ngũ quan, lục phủ để định tốt xấu như người đã thành niên. Việc coi tướng trẻ em phần lớn chỉ dựa vào thần khí , cử chỉ nên chỉ có tính cách phỏng chừng. Ở mục này , soạn giả cố gắng tổng hợp các nét chính về tướng tiểu nhi phân thành từng trọng điểm để độc giả tiện tham khảo.1 – Tướng trẻ em dễ nuôi:– Mới sinh ra tóc dài tới sát lông mày.
– Đầu tròn trịa, da hồng hoặc ngăm đen.
– Lỗ mũi khi thở phát ra hơi đều và mạnh, lúc ngủ ngậm miệng.
– Mắt có thần, khi cất tiếng khóc mới đầu giọng cao , tiếng lớn có âm lượng.
– Con trai, hai trứng dái (âm nang) đàn hồi và có nhiều nếp xếp.
– Tai và miệng lớn.
– Mũi cao, môi hồng và dầy cân xứng.
Sự dễ nuôi và có khả năng sống đến tuổi thành niên hay khó nuôi hoặc yểu tử còn có thể căn cứ vào xương đầu để đoán định. Trong phần xương đầu của trẻ em ta cần đặc biệt lưu ý mấy khu vực sau đây:
– Xương chẩm (phía sau đầu, trên xương gáy)
– Sơn căn
– Tỵ lương (Sống mũi )
Xương chẩm nổi rõ và rộng, sơn căn có bề ngang và cao hơn mặt phẳng của lưỡng quyền, sống mũi ở ngay giữa khuôn mặt và không lệch là dấu hiệu bề ngoài về mặt hình thể cho biết đó là cát tướng . Ngược lại là yểu tướng.
3 – Tướng trẻ em phúc hậu:
Từ khi bắt đầu biết đi đến 5 tuổi, muốn biết phúc phận trẻ em dầy mỏng ra sao thì coi thần khí . Thần khí nói ở đây bao gồm tọa thần , ngọa thần và mục thần nghĩa là ánh mắt hoà ái, nói năng thong thả trong trẻo, đi đứng nằm ngồi có vẻ nhàn hạ là tướng phúc hậu. Sau 6 tuổi coi thêm Nam, Trung và Bắc nhạc. Nam nhạc cao rộng đúng cách chủ về sơ vận phúc lộc tốt, Trung nhạc đắc thế thì trung vận khá giả, Bắc nhạc đầy đặn cân xứng thi vãn vận hưởng phúc . Tóm lại cuộc đời về sau của trẻ em có thể biết trước được một cách khái quát ngay từ khi chúng còn thơ ấu .
4 – Tướng trẻ em tương lai nghèo hèn:
Lúc còn nằm trong nôi mà tiếng khóc không trong trẻo, chủ về lớn lên vừa nghèo khổ vừa khó nên người; tiếng khóc mà âm thanh tản mát, lớn lên thì vô tài bất tướng. Thần khí bất túc, biết đi quá sớm cũng cùng một ý nghĩa như trên.
Từ 3,4 tuổi trở lên không thích quần áo sang trọng, không phân biệt sạch bẩn, Nam – Trung và Bắc nhạc lệch hãm….đều là dấu hiệu báo trước rằng khi lớn lên khó có thể khá giả.
Ngược lại, bệnh dù nặng, nhưng màu đỏ của ấn đường biến dần sang màu vàng, môi miệng từ đen xạm sang hồng lạt là dấu hiệu nội tại cho biết bệnh trạng bắt đầu thuyên giảm, sinh mạng không có gì nguy hiểm.
6 – Tướng trẻ em trai khắc cha
– Phía trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật bệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán có nhiều lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường.
– Lông mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô, mọc dựng đứng
– Thân mũi lệch về bên trái hoặc một trong các bộ vị bên trái của mũi bị khuyết hãm
– Quyền trái lộ
– Tai trái thấp hơn tai phải hoặc hình thái có Luân Quách đảo ngược
– Nhân trung lệch về bên trái
– Khoé miệng lệch về trái. Môi trên dài hơn môi dưới quá đáng.
Có từ hai dấu hiệu trên trở lên có thể coi như tướng khắc cha. Càng nhiều hơn thì sự khắc phá càng nặng. Nếu có đủ tất cả có thể quả quyết là cha sẽ chết trước mẹ, hoặc người cha sẽ khốn khổ vì đứa con đó.
7 – Tướng trẻ em trai khắc mẹ
– Nguyệt giác thấp , lệch , lẹm có lông măng quá đậm
– Lông mày phải có lông mọc ngược hoặc thẳng đứng, trái lẽ thường trong khi phía trái bình thường
– Sống mũi lệch về phải, các bộ vị phía phải của mũi có hình dạng bất thường
– Quyền phải lệch, lộ, nhọn
– Tai phải thấp , nhọn , khuyết
– Nhân trung lệch về bên phải
– Môi dưới dài hơn môi trên, hoặc khoé miệng phải lệch.
Nói chung , khuôn mặt bên phải chủ về mẹ. Nếu các bộ vị bên trái bình thường mà ít nhất hai hay nhiều bộ vị bên phải có các dấu hiệu trên thì có thể tiên đoán được đứa trẻ đó khắc mẹ. Nhẹ thì mẹ con bất hoà, tính tình xung khắc, nặng thì có thể vì sinh đứa con đó mà chết trước chồng.
![]() |
![]() |
Thời xa xưa, người Hán thường cho rằng khỉ là con vật may mắn. Từ ‘hầu’ – có nghĩa là con khỉ, đồng âm với từ ‘hầu’- một tước vị quyền quý.
Thời xa xưa, người Hán thường cho rằng khỉ là con vật may mắn. Từ “hầu” – có nghĩa là con khỉ, đồng âm với từ “hầu” – một tước vị quyền quý. Bởi vậy, trong nhiều tranh vẽ, hình tượng con khỉ mang ý nghĩa là “phong hầu” (phong chức tước).
Cùng với biểu tượng các con vật khác, khỉ được sử dụng khá phổ biến trong phong thủy. Biểu tượng khỉ với các tư thế khác nhau thể hiện những ý nghĩa cát tường riêng. Nó có thể được tạo bởi nhiều chất liệu từ gỗ, ngọc, pha lê đến đồng, mạ vàng và thậm chí là vàng nguyên chất.
Nếu thấy hình tượng con khỉ leo trên cây phong thì biểu tượng mang ý nghĩa “phong hầu quải ấn” (đeo ấn phong hầu).
Nếu là hình tượng con khỉ cưỡi trên lưng ngựa thì có nghĩa là “mã thượng phong hầu” (cưỡi ngựa phong hầu).
Nếu hai con khỉ ngồi trên cây tùng hoặc một con khỉ cưỡi lên lưng con kia, có nghĩa là “bối bối phong hầu” (đời đời phong hầu).
Bối bối phong hầu – Dây đeo “bối bối phong hầu”
Nếu đặt biểu tượng con khỉ ở vị trí thích hợp sẽ mang lại điều tốt đẹp và may mắn cho gia chủ. Ngoài ra, cũng có thể sử dụng biểu tượng này làm vật trang sức đeo trên người.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: thôn Ái Mộ, phường Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ba nữ thần: Liễu Hạnh (con gái Ngọc Hoàng), La Bình (con gái thần núi Tản Viên), Lê Ngọc Hân (vợ vua Quang trung).
Nội dung: Hội đền Ghềnh năm nào cũng thu hút đông đảo du khách thập phương. Sáng mồng 6/8, vào chính hội. Hội làng tươi vui trong đám rước kiệu bát cống của trai tân và kiệu võng của các cô gái đồng trinh.
Không thể thiếu trong các nghi thức của hội đền Ghềnh là việc đi thuyền lớn ra giữa sông Hồng, hương khói cho mẹ con nàng Ngọc Hân và rước nước thánh về đền. Bao năm tháng đã qua kể từ ngày tro xương của mẹ con nàng Ngọc Hân rải xuống khúc sông này nhưng những người dự hội vẫn không nén được xúc động khi rải tro giấy vàng xuống sông cho người xưa.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Chúa Liễu, Nguyễn Công Trứ.
Nội dung: Hội đình có tế lễ dâng hương thờ thần phật.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: phường Đông Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo, bà Bùi Thị Tự Nhiên - người giữ kho lương cho quân đội Đại Việt và có công xây dựng làng Phú Xá.
Nội dung: Nhân đây chúng tôi xin trích đoạn về cách thức chơi tam cúc điếm và một số lời xướng của một ván chơi do Phạm Khương ghi lại theo lời kể của bà Đỗ Thị Sửu, 72 tuổi, thôn Thượng Đoạn, xã Đông Hải huyện An Hải – Hải Phòng.
1. Số người chơi tam cúc: Bốn người
2. Người xướng ( nhà cái) có giọng để xướng( như hát). Phải có vốn thuộc nhiều thơ để gieo vần. Nên có hai người để thay nhau xướng, đỡ mệt và trong khi một người xướng thì người kia chi bài và phát thẻ.
3. Dụng cụ chơi: Hai cỗ bài tam cúc, 4 trống con ( trống khẩu), dùi trống cho 4 người đánh, 36 que thẻ, trong đó 32 que cho 32 quân bài và 4 que của làng để kết. Cộng là 36 que.
4. Cách chơi: Nhà cái chia bài xong. Bắt cái: một trong 4 người chơi, bắt cái để xem ai được cái thì đánh trước.
Người xướng:
Xăm xăm mới bước chân vào
Bây giờ cái bắt đĩa nào làng ơi!
Cái bắt đĩa này. Sau đó, một trong bốn người chơi bắt cái.
Người xướng:
Cái bắt nhất pháo làng ơi
Bắt cái nhất pháo làng thời gọi cho.
Người được cái đánh trước. Nếu đánh một cây thì người đó đánh một tiếng trống để mọi người chơi ra quân bài. Rồi người đánh đưa bài cho người xướng để quân bài ai cao hơn thì ăn. Nguyenếu đánh 2 cây, 3 cây, 4 cây thì đánh 2,3,4 tiếng trống để mọi người chuẩn bị đánh.
Đầu tiên nhà cài gọi một cây, người xướng:
Xa xôi ướm hỏi dông dài
Cái bắt nhất pháo gọi thời một cây
Sa chân nhỡ bước vào đây
Cái lên nhất pháo một cây tướng bà
Nếu ai không có quân bài cao hơn thì phải chui. Và nhà cái lại gọi 3 cây, đánh 3 cây gõ 3 tiếng trống và đưa bài cho người xướng, người đó biết ngay đó là 3 cây xe, pháo, mã hồng, liền xướng cho làng nghe:
Trông lên đỉnh núi trăng tà
Trở về trống lại gọi thời 3 cây
Điều Thuyền, Lão Bá, Quan Công
Kíp truyền xe, pháo, mã hồng bộ ba.
Và cứ như thế,cuộc chơi cho đến hết bài. Khi đánh hết ván người xướng cất giọng:
Hết hội làng ơi
Làng thì tính thẻ để tôi thu bài
Thẻ dùng để tính mỗi người được bao nhiêu quân thì chia từng ẩy thẻ. Ai không có thẻ (thua) thì phải bỏ tiền ra trả cho người được. Ví dụ: người được 8 quân thì được 8 thẻ, người được 2 cây thì phải trả 6 thẻ…
Cách tính bài để chia thẻ. Ai thừa quân thì được, ai thiếu quân thì phải chia tiền.
Khi có những ván kết( kết thường được tính gấp đôi), nguyenếu kết tốt thì được tính gấp 4 lần. Trường hợp người định kết tốt đen bị người có tốt đỏ đè( bắt) thì phải phạt đền gấp 8 lần.
Cho nên những ván có kêt thì người xướng ( nhà cái) xin tiền:
Nghe tin cô kết cũng tài
Cô cho nhà cái giao bài một phu
Ván sau cô lại kết bù
Cô cho nhà cái một phu ăn trầu.
Có khi hết hội không xu nào, nhà cái phải đền, người xướng đọc:
Bạch định bắt được ông già
Còn một cái lọ cho nhà hồ xin
Những người xướng thuộc rất nhiều truyện Kiều. Chinh Phụ Ngân. Lục Vân Tiên, Tam Quốc, Tần Cung Oán, Bần Nữ Thán. Xin trích dẫn một số câu sau:
1. Kiều:
Đội trời đạp đất ỏ trời
Họ Từ, tên Hải vốn người tướng công
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Mang mình vào chốn can qua
Vào sinh ra tử gọi là tốt đen
Xót xa trong dạ bồi hồi
Nửa vầng trăng khuyết đôi người tốt son.
Ví thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người sĩ đen.
2. Tam Quốc:
Trương Phi, Lưu Bị, Quan Ngài
Đào Viên kết nghĩa ba người tướng, sĩ, tượng ông
3. Bần Nữ Thán:
Mai Kha ơi hỡi Mai Kha
Rời nhau một bước tướng bà một cây
Một đêm sương tuyết lạnh lùng
Còn chăng hay đã mặc lòng cùng ai.
Tóm lại, trò chơi tam cúc điếm ỏ đền Phú Xá là một trò chơi dân gian thú vị, khác hẳn lối chơi tam cúc thông thường. Người hát xướng tủy thuộc vào từng quân bài, ván bài cụ thể mà nhanh chóng đặt câu, gieo vần cho phù hợp văn cảnh,càng chơi nhiều người xướng càng phải trổ hết tài nghệ và vốn hiểu biết văn học của mình, để cuộc chơi thêm phần sôi nổi, lôi cuốn người nghe.
Phần vui chơi trong hội tại đền Phú Xá còn phải kể đến một trò vui hấp dẫn đông đảo thanh niên nam nữ trẻ tại địa phương – trò bơi lội bắt vịt được diển ra ngay tại mặt nước hồ hình bán nguyệt trong khu cảnh quan đền. Để chuẩn bị cho cuộc vui, người điều hành thả xuống mặt hồ môt chú vịt nhà, bơi lội tung tăng quanh hồ. Ai muốn tham gia phải đăng ký với ban tổ chức mới được chính thức dự chơi, trong trang phục gọn gàng, hợp với động tác bơi lội. Mặc dù đây là trò chơi dưới nước, phải vừa bơi giỏi, vừa nhanh tay nhanh mắt, xuất phát đúng thời cơ mới bắt được chú vịt, lĩnh giải, nhưng có nhiều người thi tài, thử vận may mong cả năm làm ăn phát đạt.
Cứ tiết “ Xuân – Thu nhị kỳ”, lễ hộI đền Phú Xá hàng năm vẫn diễn ra trong khung cảnh đất nước đổi mới mở cửa, góp phần bảo lưu và phát huy di sản văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: thôn Trần Thương, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo (đức thánh Cha) và song thân của người.
Nội dung: Lễ hội đền Trần Thương gồm hai phần. Phần lễ có các nghi thức như: lễ rước kiệu, lễ dâng hương, tế lễ… trong đó lễ “diễn xướng Thanh Đồng” và rước nước là những lễ nghi đặc trưng với ý nghĩa tôn vinh công lao, tài, đức của Đức Thánh Trần; đồng thời cầu cho “mưa thuận, gió hòa”, “phong đăng, hòa cốc”, “quốc thái, dân an”. Phần hội gồm nhiều trò chơi mang đậm màu sắc văn hóa dân gian truyền thống như đánh cờ tướng, bơi chải, đi cầu kiều, tổ tôm điếm, kéo co, bịt mắt đập niêu, bắt vịt dưới nước,... Trong đó, thi đấu cờ tướng là một hoạt động văn hóa rất có ý nghĩa nhằm tái hiện tài thao lược quân sự của Trần Hưng Đạo.
Ngoài lễ hội truyền thống, vào giờ Tý ngày 15 tháng Giêng hàng năm, Ban Quản lý đền Trần Thương còn tổ chức Lễ phát lương để ban lộc đầu xuân của Đức Thánh Trần cho nhân dân và du khách thập phương; đồng thời ôn lại truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc, nhắc nhở thế hệ con cháu biết xây dựng những kho lương để đề phòng khi có binh biến.
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: xã Khánh Cư, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Trần Hưng Đạo, phu nhân cùng các Quận Chúa của người.
Nội dung: Hội lễ ở Yên Cư ngoài tế lễ như các đền khác thờ Hưng Đạo Vương, còn có cuộc rước kiệu độc đáo qua sông đáy để đến làng Phú Hào, người ta gọi là rước trước khi rã đám. Để chuẩn bị cho cuộc rước, làng chọn trai đinh từ 18 tuổi trở lên làm đô tuỳ rước kiệu và các đô khác; và chọn các cô gái chưa chồng 18 tuổi trở lên để khiêng kiệu Trần Hưng Đạo, phu nhân và các quận chúa. Kiệu qua sông Đáy phải dùng thuyền, nhưng người đi hội và dân làng cho rằng kiệu do các cô gái khiêng nhờ phép màu của Hưng Đạo Đại Vương nên không đi thuyền, vậy mà không cô gái nào ướt quần áo. Đến Phú Hào sau lễ tế trọng thể lại rước về Yên Cư. Tương truyền, khúc sông Đáy phía đông bắc đền Yên Cư, cứ đến ngày 20.8 âm lịch cá quần về nhiều vô kể, không ai đánh bắt cá vào ngày hội; đó là cá ở tận sông Bạch Đằng tìm về mừng Đức Hưng Đạo khi Ngài giáng lâm ở Yên Cư. Sau đó cá tản đi đâu hết. Rất nhiều khách thập phương trẩy hội để xem cá quần ở Yên Cư. Thuộc huyện Yên Khánh cũ, nay là xã Khánh Cư, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình.
Tốt - xấu của Thể Và Dụng
- Quẻ Thể Phải vượng mới tốt. Khí của quẻ Thể suy là điều không cát lợi. Quẻ khắc Thể phải suy mới tốt. Quẻ Dụng, Hỗ, Biến thừa vượng đều là cát lợi, nhưng không được khắc quẻ Thể, nếu khắc thì nguy hại. Nếu trong trùng quái có quẻ sinh Quẻ Thể thì dù Thể suy yếu cũng không nguy hại lắm. Ngược lại khi không có quẻ sinh Thể thì dụ quẻ Thể có vượng thì cũng không được cát lợi lắm. Vượng suy của các quẻ phải được căn cứ vào các mùa và các tháng để xem quẻ
- Ngũ hành của các quẻ đơn:
Quẻ Càn - hành Kim
Quẻ Đoài - hành Kim
Quẻ Ly - hành Hỏa
Quẻ Tốn - hành Mộc
Quẻ Tôn - hành Mộc
Quẻ Khảm - hành Thủy
Quẻ Cấn - hành Thổ
Quẻ Khôn - hành Thổ
- Ngũ hành các Tháng trong năm:
Tháng giêng - Mộc
2 - Mộc
3 - Thổ
4 - Hỏa
5 - Hỏa
6 - Thổ
7 - Kim
8 - Kim
9 - Thổ
10 - Thủy
11 - Thủy
12 - Thổ
- Quan hệ Sinh - Khắc Thể, Dụng như sau:
+ Thể khắc Dụng thì việc lanh lợi.
+ Dụng khắc Thể thì việc bất lợi
+ Dụng sinh Thể thì việc thuận lợi
+ Thể sinh Dụng thì việc chưa chắc đã thành công
+ Thể, Dụng tỷ hòa (đồng hành với nhau) thì việc thường là thuận lợi nhưng hơi lâu
+ Không có quẻ khác khắc Thể thì việc chắc sẽ thành công.
- Khi xem nhà ở có tốt không:
+ Thể khắc Dụng thì nhà thì nhà đó ở tốt, may mắn
+ Thể sinh Dụng thì tài sản kém dần
+ Dụng khắc Thể thì nhà không dễ ở, nhiều hiểm nguy
+ Dụng sinh Thể thì nhà hưng vượng dần
+ Thể, Dụng tỷ hòa thì nhà bình thường yên ổn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Vua Quang Trung rất coi trọng việc chọn đất cát tường để lập kinh đô mới nên đã nhiều lần tha thiết nhờ đến cụ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là danh sĩ giỏi về dịch lý phong thủy đương thời tìm kiếm thế đất tốt tại Nghệ An.
Lần đầu vào tháng 4 năm Mậu Thân 1788, khi Nguyễn Huệ kéo kỵ binh thần tốc ra Bắc để trừng phạt Vũ Văn Nhậm, đã dừng quân để nhờ La Sơn phu tử “giúp coi địa lý để định lập đô ở đất quê quán mình là xứ Nghệ An”.
Nhưng một tháng sau, khi xong việc, Nguyễn Huệ từ Thăng Long quay về vẫn chưa thấy La Sơn phu tử xem đất cho, nên Nguyễn Huệ đã tự tay viết một bức thư bằng mực son tàu, trách: “Trước đây đã nhờ Phu tử về Nghệ An để coi đất đóng đô, sao tới nay ta quay về thấy việc đó chưa làm?
Vì thế ta phải thẳng về Phú Xuân để binh sĩ dưỡng sức và viết chiếu này ban xuống để Phu tử hãy cùng với quan trấn thủ Thận bàn bạc, xem xét đất đai để đóng đô tại Phù Thạch (trên bờ sông Lam, dưới chân núi Nghĩa Liệt). Hành cung hãy dựng dựa lưng vào sát núi. Cuộc đất được chọn tùy nơi Phu tử dùng con mắt tinh tường mà sớm định. Hãy mau mau chọn gấp, giao cho trấn thủ Thận xây dựng cung điện thật nhanh sao cho trong vòng 3 tháng phải xong”. Nhận thư, La Sơn phu tử viện dẫn địa thế ở Phù Thạch vừa hẹp, vừa không hợp phong thủy.
Nguyễn Huệ lại có chiếu gởi trả lời đại ý tiếp nhận những ý kiến của La Sơn phu tử, không lấy Phù Thạch làm đất đóng đô nữa, nhưng vẫn giữ ý định dứt khoát chọn đặt kinh đô tại Nghệ An và nhờ La Sơn phu tử chọn đất khác:
“Nay kinh thành Phú Xuân địa thế cách trở, lại ở xa Bắc Hà nên rất khó xử lý công việc. Chính vì thế, các đình thần có quyết nghị rằng đóng đô ở Nghệ An thì sẽ khống chế được thế lực trong Nam ngoài Bắc, vả lại người trong bốn phương có việc gì cần kíp kêu kiện cũng tiện việc đi lại (…) nhiều lần ta đã nhờ tiên sinh xem đất tìm những chỗ núi non kết phát ở đất Nghệ An mà tiên sinh đã từng chú tâm xem xét địa thế. Nhưng lâu nay vẫn chưa thấy trả lời (…) ta đã từng mở xem địa đồ hình thế vùng Nghệ An thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường, đất đai rộng rãi, thông thoáng, khí sắc tươi nhuần, xem ra có thể chọn làm nơi xây kinh đô mới(…) tiên sinh gắng suy nghĩ giúp cho việc ấy”.
Đó là chiếu ngày 3.9 năm Mậu Thân 1788, tỏ rõ mong muốn được La Sơn phu tử coi đất lập đô, nhưng La Sơn phu tử vẫn tìm cách trì hoãn. Đó là lần thứ hai La Sơn phu tử ngầm ý từ chối cuộc đất mà Nguyễn Huệ đề nghị xây kinh đô.
Ba lần chọn đất lập đô của Quang Trung
Nhưng đến lần thứ ba, thì La Sơn phu tử đồng ý với địa điểm mới là Phượng Hoàng: “Ngày nay, khoảng giữa núi Quyết và núi Mèo, còn thấy dấu tích một thành cũ hình gần tam giác. Dấu thành và hào đương còn rõ, nhất là trong bức ảnh chụp từ cao. Cửa tiền ở phía Nam. Núi Mèo (núi Kỳ Lân) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chắp vào núi ấy. Mặt Đông Bắc lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành.
Ở giữa thành, còn dấu thành trong và nền nhà. Nhấtlà có nền cao ba bậc ở phần Bắc, mà ngày sau đời Nguyễn dùng làm nền xã tắc. Chắc đó là chỗ Quang Trung, ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An. Tuy gọi là Trung Đô, nhưng thành Phượng Hoàng nhỏ, thành Nam chỉ dài chừng 300 mét, bức thành Tây dài 450 mét, và cái nền cao thì ngang dọc cũng chỉ có chừng 20 mét mà thôi. Ấy vì Quang Trung mất sớm, chưa kịp đổi hành cung ra cung điện. Về sau kinh đô của Quang Toản vẫn ở Phú Xuân”.
Những trích dẫn trên đây nằm trong cuốn sách giá trị: La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp của GS. Hoàng Xuân Hãn với lời tóm lược về ba lần chọn chỗ đóng đô: Lần đầu ở núi Lam Thành Sơn, lần thứ hai ở Yên Trường (cách Lam Thành Sơn chừng mười cây số ở phía Bắc), lần thứ ba ở Dũng Quyết (cách Yên Trường chừng hai cây số ở phía Đông Nam và cách Lam Thành Sơn chừng tám cây số).
Cuối năm 2011 hội thảo về Phượng Hoàng trung đô mở tại thành phố Vinh (Nghệ An), nhà khảo cổ học và nghiên cứu phong thủy lão thành Đỗ Đình Truật được mời từ TP. HCM ra Vinh để tham dự và ông đã viết một tham luận đề cập đến phong thủy của Phượng Hoàng trung đô trích dưới đây:
“Thị trấn Thanh Nghệ xưa kia chỉ là một cuộc đất từ sông Mã chạy xuống Nam đến hết sông Lam, là cuộc đất rất thịnh dễ sinh ra những vị anh hùng cho đất nước. Căn cứ vào tấu thư của Cao Biền đời Đường và “Hoàng Phúc cố chuyện” của thời Minh thì hai nhân vật này tuy sống ở thời đại khác nhau nhưng cùng chung một ý đồ đi yểm trời đất sông núi Việt Nam. May thay Lê Lợi đã bắt được tướng Hoàng Phúc, thấy trong hành trang của Hoàng Phúc có cả bản đồ của đất Nghệ Tĩnh và tài liệu về việc Hoàng Phúc đã dựng 5 ngọn cờ ở đất Hà Tĩnh cách núi Quyết độ 10km để yểm trừ vùng đất thiêng này – gọi là “cờ 5 yểm”.
Và Hoàng Phúc dự kiến đến khoảng thiên niên kỷ III thì vùng này sẽ là trung tâm chống Bắc Triều. Nguyễn Thiếp giỏi về dịch học và khoa phong thủy đã dày công đọc hết những tài liệu đó và đi thăm dò thực hư. Quả nhiên là Tổ Sơn của vùng này xuất phát từ (khe Bò Đái) nằm trong 99 ngọn núi Hồng Lĩnh sơn và được mạch khí chạy lòng vòng xuống núi Quyết rồi quay lại về Tổ Sơn; làm cho núi Quyết trở thành âm phù dương trợ, quần phong tụ khí, nên vô cùng đắc địa. Do đó mới có tên là núi Phượng Hoàng, vì ta đứng bên dòng sông Lam quay mặt ra bể thì ta thấy bên tả Thanh Long: là con Rồng Xanh (sông Lam), bên hữu là Bạch Hổ (có dãy núi của Hà Tĩnh) cũng đưa khí về núi Quyết. Còn ở mặt trước phía Đông núi Quyết là Chu Tước – vật báo hiệu Minh Đường rất phát triển và phía sau là Huyền Vũ (sao của người giữ nhà, giữ cửa, giữ nước) làm hậu phương.
Sau khi có chiếu chỉ của vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp đã đi rà soát lại thì thấy Phượng Hoàng trung đô là nơi đắc địa hiếm có trong trời đất. Điểm này ông hoàn toàn nhất trí với tướng Hoàng Phúc (nhà Minh bạo tàn). Vì vậy ông và Trần Quang Diệu quyết tâm để lăng mộ của chủ tướng mình ở đây là hợp lý và việc xây cất trở thành việc làm vô cùng bí mật. Đứng bên ngoài mà nhìn là việc xây thành đắp lũy, bên trong thì ngấm ngầm làm việc trọng đại ấy. Tôi cũng đi rà soát lại lần nữa với hai đồng nghiệp là nhà nghiên cứu Nguyễn Thiện Đức và nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tâm thì thấy Nguyễn Thiếp miêu tả cảnh quan phong thủy của cuộc đất Phượng Hoàng như thế là rất đúng, nên đều nhất trí là di mộ của vua Quang Trung có khả năng để ở đây”.
Qua phân tích và nhận định của GS. Hoàng Xuân Hãn, cụ Đỗ Đình Truật và các tài liệu lịch sử khác như: Đại Nam chính biên liệt truyện, Hoàng Lê nhất thống chí cho chúng ta biết Phượng Hoàng trung đô đã được bắt tay xây dựng ở khoảng giữa núi Mèo và núi Quyết với lầu gác ba tầng có bố trí đồn binh bảo vệ vòng quanh đó. Xa xa về phía núi có kho lúa dự trữ. Dấu tích của thành và các đường hào đến thế kỷ 20 vẫn còn khá rõ.
Các nhà nghiên cứu kết luận địa thế của thành rất dễ giữ, vì phía trước có con Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết, vốn là hào và thành thiên nhiên kề cận để che chắn bảo bọc. Tiếc rằng vua Quang Trung mất sớm nên việc xây dựng cung điện nguy nga để định đô ở Nghệ An chưa kịp hoàn thành. Vậy là, cuộc đất tuy đại lợi về mặt phong thủy nhưng giống như con phượng hoàng đang bất ngờ lâm bệnh nên không đủ sức khỏe để cất cánh bay cao khỏi số mệnh nghiệt ngã của mình.
Nếu bạn là con trai, hãy để lộ vầng trán của mình; còn nếu bạn là con gái hãy mặc trang phục màu hồng hoặc thoa một chút son hồng… Cùng ## khám phá kiến thức phong thủy và tìm cách hóa giải nguy cơ nếu bạn có tình địch nhé!
1. Không được vội vàng, phải vững tâm lý
Theo ## thấy thì khi phát hiện ra nguy cơ có tình địch, trước tiên bạn phải bình tĩnh, không được vội vàng và xem lại bát tự của hai người. Có thể bạn sẽ phát hiện ra năm nay rất kỵ với tuổi của bạn hoặc người yêu, vận khí không được tốt nên xảy ra một số biến động cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên chỉ cần vượt qua được mấy tháng xấu trong năm, mọi chuyện sẽ tốt lên thôi.
2. Chặt một cành đào nhỏ đặt trong phòng ngủ
Cách này đồng nghĩa với việc bạn đã dùng dao cắm vào cành đào, mượn nó để loại trừ sự đào hoa (hoa đào tượng trưng cho sự đào hoa). Hoặc cành đào đó sẽ đánh bại tình định của bạn, đưa người ấy trở về bên bạn.
3. Để lộ trán nếu bạn là con trai
Trong phong thuỷ, tình yêu chính là sự giao thoa về khí giữa hai người khác giới. Trán của con người là cửa vào của khí. Nếu bạn để tóc che mất trán, có nghĩa bạn từ chối sự giao thoa khí với đối phương. Vì thế, nếu muốn toả ra hơi thở của tình yêu, đầu tiên bạn phải để lộ trán của mình. Muốn giữ lại người mình yêu, đánh bại tình địch, tốt nhất bạn nên để tóc ngắn, không được che mất trán.
4. Tỏ tình vào thời gian thích hợp nhất
## thấy việc nắm bắt được thời cơ cũng rất quan trọng. Theo phong thuỷ, 17-19 h là thời gian thích hợp nhất để tỏ tình. Trong phong thuỷ, khoảng thời gian này được gọi là giờ “đoái”, tượng trưng cho tình yêu. Ngoài ra, nó còn mang ý nghĩa vui vẻ, chờ đợi. Nếu qua mất giờ đẹp, đặc biệt là qua 23 h thì bản chất của tình yêu sẽ có những thay đổi to lớn. Từ 23 h đến 1 h sáng hôm sau là giờ “khảm”, là thời gian chức năng sinh lý dồi dào. Tỏ tình trong thời điểm này sẽ khiến tình yêu biến thành mối quan hệ của dục vọng. Vì thế bạn cần hết sức lưu ý.
5. Toả ra “sắc đào” nếu bạn là con gái
Không biết mọi người có để ý đến không nhưng có rất nhiều cô gái cứ nhìn thấy màu hồng là vui mừng khôn xiết, thậm chí còn có thể toả ra sức hấp dẫn vô hình. Màu sắc có rất nhiều tác dụng không thể bỏ qua, trong đó màu hồng phấn (gần giống màu của hoa đào) là màu tăng thêm sức hấp dẫn cho người con gái. Ở Trung Quốc, hoa đào tượng trưng cho tình yêu. Mùa xuân hoa đào nở, và cũng là mùa đẹp nhất để phát triển tình cảm. Vì thế, khi bạn có tình địch, hãy mặc những trang phục màu hồng hoặc thoa một chút son hồng… Điều này sẽ khiến cho bạn trai của bạn tăng thêm sự yêu thích đối với bạn. Tóm lại, hãy tận dụng những sắc hồng trong trang phục hay khi trang điểm để làm lu mờ cô nàng tình địch đáng ghét kia.
6. Mua đồ đôi may mắn
Bạn nên mua một đôi ngọc bội long phượng may mắn, đây là thứ các cặp đôi thường dùng. Ngọc bội màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và bền chặt của tình yêu. Hai bạn mỗi người đeo một nửa. Nó sẽ phù hộ cho cả hai mãi mãi thương yêu nhau. Đeo miếng ngọc bội này hàng ngày có thể đánh bại tình địch, khiến người bạn yêu quay về bên bạn.