Mơ thấy gió: Tâm trạng rối ren –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Tiến cầm tay tôi lắc lắc và chỉ ra con sông gần nhà: “Ngày trước cháu chết ở kia kìa”. Tuy nhiên, theo TS Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ – Tin học Ứng dụng (UIA), chuyện của Tiến không có gì lạ.
Chúng tôi tìm đến thị trấn Vụ Bản lúc trời đã gần chính ngọ. Không khó để hỏi thăm nhà anh Tân, chị Thuận, bởi dường như câu chuyện “hồi sinh” của cháu Tiến ở cái thị trấn nhỏ này ngay cả cháu bé lên 10 cũng kể rành mạch được.
Bên ấm trà nóng, lim dim nhả làn khói thuốc xám, anh Tân gật gù khi nghe chúng tôi dè dặt nói lý do đến thăm nhà.Cổng nhà anh Tân có 3 cháu nhỏ khoảng 9-10 tuổi đang nô đùa. Thấy tôi cất lời hỏi thăm, một cháu bé nhìn trắng trẻo, khôi ngô nhất trong đám trẻ nhanh nhảu: “Cô hỏi bố cháu à! Bố cháu đang ở trong nhà. Cô vào uống nước để cháu gọi bố”. Trong lúc chúng tôi đang ngờ ngợ đoán chừng cậu bé lúc nãy chính là bé Tiến “nổi tiếng” tiêu tốn không ít giấy mực của báo chí, thì anh Tân bước ra.
Ngẫm nghĩ một lúc, anh Tân dụi tắt điếu thuốc đang cháy dở, thẳng thắn nói: “Nói thật với cô, tôi đã không có ý định tiếp phóng viên nữa. Một phần tôi cũng không muốn mọi người nhắc quá nhiều về chuyện của cháu, tôi muốn mọi người coi cháu như những đứa trẻ bình thường khác. Nhưng vì cô đã lặn lội đường xa đến đây tôi sẽ kể rành mạch không giấu giếm, cũng là để đính chính vài thông tin mà một số báo đã không nói chính xác hoàn toàn khiến tôi rất bức xúc”.
Anh Tân và chị Thuận cưới nhau được 6 năm mới sinh được cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến (28/2/1992). Cháu Tiến lớn lên bụ bẫm, xinh xắn, trong sự yêu chiều hết mực của cả gia đình. Thế nhưng, đến năm cháu 5 tuổi, tai họa bất ngờ ập xuống.
Hôm đó vào buổi chiều tháng Giêng, anh Tiến đang nằm đọc báo bỗng giật nảy mình chồm dậy, ruột gan như lửa đốt. Anh gọi chị Tân bảo: “Thằng Tiến đâu, tìm nó về đi”. Chị Tân tìm gọi mãi nhưng không thấy Tiến đáp lại, ra phía bờ sông gần nhà chị chỉ nhìn thấy đôi dép cháu để trên bờ. Dưới dòng nước xanh ngắt nhìn thấu tận đáy, không thấy điều gì bất thường. Chị chạy về báo anh Tân. Bỏ tờ báo, anh hớt hải ra phía bờ sông thì nhìn thấy xác cháu Tiến nổi cách bờ 3m.
“Tôi lao xuống dòng nước, ôm chặt lấy con nhấc lên bờ. Nhưng tất cả đã quá muộn!”, giọng anh lạc đi, không giấu vẻ kinh hoàng khi nhớ về cái ngày đau thương ấy.
Vắng tiếng cười trẻ thơ, căn nhà chỉ còn hai người lớn trở nên hoang lạnh hơn bao giờ hết. Là con một, phải chịu áp lực từ phía gia đình, anh Tân buồn bã chả thiết làm gì, suốt ngày ngơ ngẩn gần như người hóa dại. Cháu Tiến mất đi khiến cả anh Tân, chị Thuận đều như kẻ mất hồn. Nỗi đau càng nhân lên gấp bội khi chị Thuận do vấn đề sức khỏe đã “không còn khả năng làm mẹ” nữa. Trong cơn vật vã, bà cụ hàng xóm mà sau này anh Tân mới biết là “bà mế” có sang vỗ vai anh và bảo: “Con yên tâm, sớm muộn gì nó cũng tìm về với con thôi!”. Khi ấy vì quá đau buồn anh cũng coi lời bà như lời an ủi của những người hàng xóm tốt bụng khác.
Năm 2006, cả hai vợ chồng vẫn chưa nguôi nỗi đau mất con thì nghe có người rỉ tai ở Xóm Cọi, xã Yên Phú, Lạc Sơn, cách nhà anh chị chừng 3km có cháu bé nghi là “con lộn” của Tiến. Cháu tên Bùi Lạc Bình (sinh ngày 6/10/2002) là con một gia đình người Mường nhưng ngay từ khi biết nói đã khăng khăng bảo mình là con người Kinh, nhà trên thị trấn Vụ Bản.
Vốn chưa bao giờ tin có chuyện “đầu thai” như kiếp luân hồi của nhà Phật, nhưng hai anh chị vẫn đánh bạo tìm đến nhà cháu bé nọ. Thật bất ngờ khi anh chị đến nơi cháu không hề thấy lạ mà gọi bố mẹ xưng con và quấn quít không rời. Anh chị ngỏ lời mời chị Dự, người sinh cháu Bình, tên bố mẹ “mới” đặt, đến nhà chơi. Nghe thấy thế, Bình vui lắm, trèo phắt lên xe hào hứng như đứa trẻ lâu ngày được về nhà.
Vừa vào nhà, Bình đã chạy quanh nhà tìm đồ chơi mà Tiến trước kia thích. Cháu còn tự nhiên vào giường anh Tân, chị Thuận nằm lên đó rồi bi bô: “Ngày xưa con thường ngủ chỗ này bố nhỉ?”. “Ngay khi nhìn thấy cháu, nghe cháu nói, và thấy những hàng động của cháu vợ chồng tôi như chết đứng. Tất cả đều giống hệt như cháu Tiến thủa trước, có khác chỉ là khác về hình hài mà thôi”, anh Tân kể.
Kể từ ngày gặp cháu Bình thì ăn ngủ chẳng yên bởi giữa hai người với đứa trẻ xa lạ dường như có mối thâm tình gì đó day dứt lắm. Nhớ cháu, thương cháu nhưng lại sợ người ngoài bảo muốn cướp con. Vợ chồng anh hiếm muộn, nhưng vợ chồng chị Dự-anh Hoan cũng chỉ có duy nhất cháu Bình là con.
Về phần chị Dự, sau lần đến chơi nhà ấy, cháu Bình cứ nằng nặc đòi về “nhà bố mẹ”. Thấy con nhèo nhẹo khóc, chị Dự cũng không biết phải làm sao. Đưa cháu về nhà anh Tân, chị Thuận chơi thì sợ người ta dị nghị là “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Nhưng sau một lần Bình bị ốm nặng, sốt cao, cháu cứ luôn miệng “dọa”: “Mẹ không cho con về, con lại chết lần nữa!”. Hoảng quá, lần này chị đánh liều gọi cho anh Tân đưa cháu về nhà chơi. Cháu Bình về nhà anh thì khỏe khoắn, vui vẻ, không còn đau ốm nữa.
“Thấy cháu tha thiết quá, sau bao đắn đo chúng tôi dè dặt đề nghị gia đình anh Hoan, chị Dự cho cháu về ở với chúng tôi. Thật bất ngờ là cả vợ chồng anh chị và bà nội cháu đều gật đầu đồng ý. Chính bà nội cháu cũng bảo rằng: Ngay từ lúc thằng bé biết nói tôi đã biết nó không phải người Mường rồi”, anh Tân nói.
Theo lời anh Tân, kể từ ngày cháu về với anh chị, hết lần này đến lần khác hai người “thử” cháu. Thậm chí, nhiều người hàng xóm cũng sang nhà để “hỏi chuyện ngày xưa”. Tất cả cháu đều trả lời vanh vách. Từ tên bác hàng xóm, đến cô giáo mẫu giáo rồi bạn bè thân của cháu, cháu đều nhớ tên. Đường về nhà, hay những câu chuyện nhỏ nhặt như ngày xưa bà nội cho cháu uống bia ở đầu làng cháu cũng nhắc lại, ngay cả việc, “cháu đã từng chết như thế nào, bị ngã xuống nước ra sao”…
“Dù trước đó, chưa một lần tin có chuyện “hoang đường” như thế, nhưng đến lúc ấy cả vợ chồng tôi đều hoàn toàn tin rằng Bình chính là cháu Tiến, con chúng tôi 10 năm về trước”, anh Tân kể.
Từ ngày về ở với anh chị Tân, Thuận, Bình nằng nặc đòi gọi tên là Tiến, ngay cả tên đệm cháu cũng đòi giữ.
“Hãy coi con cháu những đứa trẻ bình thường”
Bé Tiến bây giờ đã bước sang tuổi thứ 9. Cháu trắng trẻo, khôi ngô, ngoan và lễ phép nhưng cũng hiếu động hệt như những đứa trẻ cùng trang lứa khác. Khi chúng tôi ngồi nghe anh Tân kể chuyện thì Tiến không ngừng nô đùa trước sân, chọc tổ ong khiến anh Tân mấy bận phải đứng dậy nạt cháu.
Câu chuyện dang dở thì chị Thuận mẹ cháu về, thoáng qua những dè dặt ban đầu, nhắc đến con chị cười nói xởi lởi lắm. Lần dở từng trang sách của cháu, đôi mắt chị vẫn ánh lên niềm hạnh phúc vô hạn: “Cháu đi học mấy năm liền đều đạt học sinh giỏi…”. Rồi chuyện trường, chuyện lớp, chuyện nghịch ngợm của trẻ nhỏ làm bầu không khí rộn ràng hẳn lên.
Mải chuyện đã quá trưa tự lúc nào, chị Thuận giữ chúng tôi ở lại ăn cơm, chúng tôi cũng vui vẻ đồng ý. Khi mâm cơm đã dọn tinh tươm, Tiến vẫn đứng ngoài sân mê mải đọc cuốn Hương Hiếu Hạnh của nhà sư Thích Tâm Hiệp viết về trường hợp “đầu thai” của Tiến. Nghe anh Tân bảo, nhà sư sau khi nghe câu chuyện của Tiến đã viết một bài in trong tập sách Hương Hiếu Hạnh và tặng anh chị một cuốn. Từ lúc rõ mặt chữ, Tiến lúc nào cũng cầm cuốn sách và đọc đi đọc lại câu chuyện kể về mình. Những câu chuyện ngày xưa cháu cũng dần quên.
Sau bữa cơm đầm ấm, chúng tôi xin phép hai anh chị tiếp tục lên đường. Trước khi đi, anh Tân trầm ngâm: “Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Trung tâm tiềm năng con người đã nhiều lần điện thoại gặp nhưng tôi đều từ chối. Hiện giờ, tôi chỉ muốn mọi người hãy coi cháu như những đứa trẻ bình thường khác. Cháu Tiến giờ ở nhà tôi với tư cách là “con nuôi”. Cháu vẫn thường xuyên qua lại nhà mẹ đẻ…”.Tôi đứng dậy gọi Tiến vào ăn cơm thì bất chợt cậu bé nắm tay tôi lắc lắc, chỉ ra phía con sông sau nhà: “Cô ơi, ngày xưa cháu chết ở kia kìa”. Dù đã nghe câu chuyện của cháu nhưng câu nói bất chợt của Tiến vẫn khiến tôi lạnh sống lưng.
Hôn nhân của người tuổi Thân thường có gia đình khá êm ấm, hạnh phúc. Họ biết trân trọng những tình cảm đã có của hai vợ chồng, luôn chân thành với những người mình yêu thương. Đồng thời, họ cũng mong người bạn đời ủng hộ ý kiến của mình trong mọi việc.
![]() |
(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)
Hành: Thổ
Loại: Phúc Tinh
Đặc Tính: Khoan hòa, nhân hậu, đoan chính, phúc thiện, giải được tai nạn, hung nguy
Phụ tinh. Sao thứ 10 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù. Luôn đóng trong cùng một cung với sao Thiên Đức.
Ý Nghĩa sao Phúc Đức Ở Cung Mệnh:
Tính Tình:
Ôn hòa, nhân hậu, đức hạnh, đẹp nết.
Từ bi, từ thiện hay giúp đỡ, làm phúc.
Phúc Thọ Tai Họa
Sao Phúc Đức có thể giải trừ được những bệnh tật nhỏ và tai họa nhỏ, mang lại một số may mắn, hỷ sự. Do đó, sao này giống như các sao Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Quang Quý, Tả Hữu, Sinh, Vượng. Sự kết hợp càng nhiều giải tinh càng làm tăng hiệu lực cứu giải.
Ý Nghĩa sao Phúc Đức Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ nhân hậu, từ thiện, có nghề khéo.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Phúc Đức:
Hiên Đức, Nguyệt Đức đồng cung thì họ hàng phúc hậu, mồ mã thuận vị.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Điền Trạch:
Đi đâu cũng có người giúp đỡ về nhà cửa, nơi ăn chốn ở.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Quan Lộc:
Công danh hay gặp may, có lương tâm nghề nghiệp.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Nô Bộc:
Bè bạn, người làm, người giúp việc, nhân hậu.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Thiên Di:
Ra ngoài khiêm tốn, hay gặp quý nhân.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Tật Ách:
Giải trừ được tai nạn, bệnh tật nhỏ.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Tài Bạch:
Kiếm tiền chính đáng, có lòng từ thiện.
Được giúp đỡ hoặc gặp may về tiền bạc.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Tử Tức:
Con cái hòa thuận, hiếu thảo.
Thiên Đồng, Nguyệt Đức: Vợ chồng có con sớm.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Phu Thê:
Người hôn phối có nhan sắc, đứng đắn.
Có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Đào Hoa thì vợ chồng tốt đôi, tương đắc.
Ý Nghĩa Phúc Đức Ở Cung Huynh Đệ:
Anh chị em hòa thuận.
Phúc Đức Khi Vào Các Hạn
Nguyệt Đức, Đào Hồng: Gặp giai nhân giúp đỡ nên tình duyên (có phụ nữ làm mai mối được vợ chồng).
► Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ |
Nếu làm việc lâu dài trong phòng văn phòng như vậy, bạn nên áp dụng những mẹo phong thủy sau để mang tới nguồn sinh khí mới mẻ, giúp công việc luôn được thuận buồm xuôi gió.
1. Đảm bảo chất lượng không khí và ánh sáng
Đây là một trong những nguyên tắc bắt buộc đối với phòng làm việc nhỏ, không cửa sổ. Bởi một căn phòng diện tích chật hẹp sẽ càng u ám, tối tăm nếu thiếu ánh sáng và không khí thoáng đãng. Yếu tố phong thủy tốt, nguồn năng lượng tích cực khó tồn tại ở nơi đó.
Trong không gian nhỏ bé, thiếu ánh sáng tự nhiên này, bạn có thể sử dụng các loại đèn chiếu sáng với 3 mức ánh sáng khác nhau nhằm kích thích hứng thú làm việc.
![]() |
2. Trang trí phòng bằng gam màu tươi sáng
Sơn tường hay trang trí phòng làm việc nhỏ hẹp bằng những gam màu tươi sáng là một trong những cách làm thông minh, vừa có thể “thắp sáng” không gian, lại mang tới nguồn hứng khởi, cảm hứng bất tận trong công việc.
3. Không quên trưng bày cây xanh
Dù diện tích căn phòng nhỏ hẹp, nhưng bạn đừng quên bài trí một vài chậu cây cảnh nhỏ trên bàn hay góc làm việc. Cây xanh vừa có tác dụng thanh lọc không khí, lại giúp điều hòa phong thủy.
Theo phong thủy văn phòng, bạn có thể chọn những loại cây xanh có kích thước nhỏ, sức sống dẻo dai, chịu được ánh sáng nhân tạo trong không gian làm việc nhỏ. Bên cạnh đó, có thể sử dụng các loại tinh dầu có hương thơm nhẹ nhàng như bạc hà, hương thảo, cam... tạo cảm giác thư thái, giúp bạn dễ tập trung vào công việc.
![]() |
4. Treo tranh ảnh nghệ thuật sống động
Việc treo một hay hai bức tranh, ảnh nghệ thuật trong phòng làm việc sẽ mang tới sự đổi mới rõ rệt về không gian cũng như cảm hứng làm việc.
Khi treo tranh, không nhất thiết phải là những bức tranh đắt tiền, chỉ cần tươi vui, rực rỡ là đã chứa đựng nguồn năng lượng tích cực, kích thích thị giác của mỗi người. Từ đó có tác dụng hữu hiệu để nâng cao sức tập trung và hiệu quả làm việc.
Tùy vào nguồn năng lượng muốn tạo dựng, bạn có thể treo bức tranh phong cảnh thiên nhiên, sơn thủy hữu tình hay thành phố lớn đầy sôi động... trong phòng làm việc.
5. Đặc biệt chú ý đến vị trí bàn làm việc
Vị trí bàn làm việc hợp phong thủy là một trong những yếu tố quan trọng giúp công việc thuận lợi, tâm trạng thoải mái. Đặc biệt, khi nó ở trong một không gian chật hẹp, thiếu nguồn sáng tự nhiên thì càng cần phải được chú trọng.
Giang Nguyễn (Theo Fengshui)
1. Trái cây lấy may
Cam, quýt, quất - Biểu tượng của sự dồi dào và hạnh phúc
![]() |
Những loại trái cây này có hình dáng giống như mặt trời thu nhỏ. Theo phong thủy, họ nhà cam quýt mang nguồn năng lượng Dương (tích cực), rất thích hợp để ở trong nhà, đem lại phúc khí cho gia chủ.
Để lấy hên, có thể sử dụng cam, quýt, quất để bày mâm ngũ quả đặt lên bàn thờ cúng bái dịp Tết, trang trí nhà cửa bằng một chậu quất cảnh, dùng làm món tráng miệng hay đãi khách đến nhà chơi trong những ngày đầu năm mới.
Ngoài ra, để cầu bình an cho con cái, cháu chắt và trẻ nhỏ trong gia đình, hãy đặt một quả quýt và một bao lì xì đỏ ở đầu giường cạnh gối ngủ của chúng. Để cầu bình an, hạnh phúc và sum vầy cho cả gia đình mình và người thân, họ hàng, có thể mang tặng những thứ trên hoặc để vào thùng gạo nhà mình.
Lưu ý khi chọn mua chậu quất cảnh, tốt nhất nên chọn những cây vừa có quả nhưng vẫn đang ra hoa. Bởi những cây này mang ý nghĩa hạnh phúc, tài lộc "đang đơm hoa kết trái", sắp thu hoạch được thành quả, giúp cả năm của bạn sẽ ngập trong thuận lợi và thành công.
Bưởi - May mắn và sum vầy
![]() |
Lại một loại trái cây thuộc họ nhà cam có mặt trong danh sách những loại quả mang lại may mắn đầu năm mới. Bưởi thực sự là loại quả không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền của người Việt.
Khi mua bưởi để trang trí, bày biện lên bàn thờ gia tiên, nên chọn một cặp bưởi thay vì một quả đơn lẻ. Cái gì cũng nên có đôi có cặp thì mọi chuyện mới suôn sẻ. Hơn nữa, nó còn biểu thị cho sự đoàn tụ, có thể đem lại sự hòa thuận, sum vầy cho cả gia đình.
Nho, mận, táo - An khang thịnh vượng
![]() |
![]() |
![]() |
Ba loại quả này là biểu tượng của sự giàu có, tiền tài, trù phú và sinh sôi nảy nở. Thường được sử dụng làm đồ cúng bái dâng Phật khi đi chùa chiền. Ngoài ra, bạn cũng có thể dùng làm thức ăn, biếu tặng người thân hay làm món tráng miệng trong dịp Tết.
2. Hoa lấy may
Phong lan - Sinh sôi và trù phú
![]() |
Theo phong thủy, phong lan là một trong những loài hoa nên trang trí trong nhà cửa để thuận lợi về mặt tình duyên và đời sống hôn nhân. Chúng là biểu tượng của sự sinh sản và dồi dào. Với những cặp vợ chồng đang khao khát có con, nên treo một giò phong lan trong nhà, vừa để làm cảnh, vừa có thể đem đến tin vui cho bạn trong năm.
Với những đối tượng độc thân, hoa phong lan sẽ mang lại nhiều cơ hội tìm được nhân duyên cho bạn.
Đào - Sung túc và phát triển
![]() |
Loài hoa quen thuộc, không thể thiếu của mọi nhà trong dịp Tết đến xuân về. Trong phong thủy, đào nói chung đại diện cho sự linh thiêng, thích hợp để đặt ở những vị trí trang trọng trong nhà như phòng khách.
Mặt khác, hoa đào cũng được coi là biểu tượng của sự lãng mạn, vinh hoa, phát triển, thích hợp để cầu tình duyên cho những đối tượng còn độc thân. Muốn được sống lâu trăm tuổi, nên sử dụng quả đào - biểu tượng của trường thọ.
Mẫu đơn - Giàu có và bình an
![]() |
Mẫu đơn là loài hoa tượng trưng cho vẻ đẹp nữ tính, sự ngây thơ, trong trắng, duyên dáng và quan tâm. Trong tín ngưỡng Trung Quốc, nó còn được biết đến là loài hoa của "sự giàu có và danh giá", nhất là hoa mẫu đơn đỏ.
Thủy tiên - Tài lộc và phú quý
![]() |
Hoa thủy tiên vốn là cái tên không xa lạ với những người có thú chơi hoa tinh tế ở Hà Nội, nhất là vào dịp Tết ta. Không chỉ đẹp và được dùng phổ biến để làm cảnh, thủy tiên còn mang ý nghĩa "tài lộc hanh thông, vạn sự như ý". Nên để một bình thủy tiên trong nhà, khi nở, hoa sẽ có hương thơm dịu nhẹ, lan tỏa khắp nơi suốt mấy ngày Tết.
Alexandra V (theo Chinahighlights)
![]() |
No1: Chàng trai tuổi Thìn
Những anh chàng cầm tinh con Rồng có tinh thần trách nhiệm cao với bất kỳ chuyện gì do họ khởi xướng. Không những vậy, họ còn sở hữu tài vận sáng lạn, tính cách ôn hòa, điềm tĩnh, làm việc gì cũng quang minh lỗi lạc nên được nhiều người tin tưởng và giao phó trọng trách lớn.
Trong tình yêu, người tuổi Thìn chân thành và chu đáo nên dành được tình cảm nồng thắm và sự tin tưởng tuyệt đối của đối phương. Sau khi kết hôn, họ sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn cho người mình yêu thương.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
No.1 Tuổi Thìn | No.1 Tuổi Sửu | No.1 Tuổi Hợi | No.4 Tuổi Mùi |
Mr.Bull
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Tra cứu Lịch vạn niên 2017 đã có tại Lichngaytot.com |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Tết Đoan Ngọ đang đến gần, tháng 5 âm lịch được mệnh danh là tháng “cửu độc”, không cẩn thận sẽ mang họa vào mình. Vậy trước Tết Đoan Ngọ này, 12 con giáp nên đặc biệt chú ý những điều gì để tránh dữ cầu an?
![]() |
![]() |
![]() |
Nguồn gốc xa xưa của Tứ linh
Thực tế, tứ linh gồm Long, Lân, Quy, Phụng được dân gian bắt nguồn từ bốn linh thần:Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tước.
Chúng được người xưa tạo ra từ bốn chòm sao cùng tên ở bốn phương trời. Chúng mang bên mình bốn nguyên tố tạo thành trời đất theo quan niệm của người xưa (lửa, nước, đất và gió).
Và việc chọn nơi để làm thành kinh đô phải hội tụ yếu tố hòa hợp giữa các nguyên tố ấy.
Long (Rồng) đứng đầu Tứ linh vì có sức mạnh, trí tuệ và quyền uy bậc nhất, đây là sinh vật tổng hợp sức mạnh của những con vật khác như rắn, hổ, chim ưng, sư tử, hươu,...
Trải qua bao đời, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở các nước phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành biểu tượng cao quý và sức sống vĩnh hằng.
Hình tượng rồng trong văn hóa Việt Nam
Con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử.
Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với mây, mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "Con Rồng Cháu Tiên"... Hình ảnh con rồng đã dần dần ǎn sâu vào tâm thức của người Việt.
2. Linh vật nhân từ - Lân
Dù cho Lân được mô tả như có sừng của loài Nai, tai Chó, trán Lạc Đà, mắt Quỷ, mũi Sư Tử, miệng rộng, có thân Ngựa, chân Hươu, đuôi Bò... nhưng linh vật này rất hiền lành theo quan niệm dân gian ta.
Lân là linh vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng cho sự nguy nga tráng lệ, sự trường thọ và niềm hạnh phúc lớn lao.
Kỳ lân mang trong mình tất cả những phẩm chất đặc trưng của một con vật nhân từ, theo truyền thuyết, khi di chuyển, nó luôn tránh giẫm lên các loại côn trùng hay cỏ mềm dưới chân mình.
Loài Lân không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào, đặc biệt nó không bao giờ uống nước bẩn, nó chỉ ăn cỏ, nên có tên gọi khác là Nhân thú.
Kỳ lân có tính linh, khi có vua chúa, thánh nhân xuất thế cứu đời thì nó sẽ xuất hiện báo trước điềm lành, sắp có thái bình thịnh vượng.
Quan niệm dân gian Việt Nam về Lân
Lân theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tượng trưng cho sự thái bình, yên ổn. Lân cũng tượng trưng cho lộc phúc, may mắn, thịnh vượng.
Chúng có dung mạo kỳ dị, là hình tượng nghệ thuật được thêu dệt từ trí tưởng tượng của người xưa nhưng đồng thời ẩn chứa trong đó một sức mạnh tâm linh to lớn.
Lân thường được với tư cách đội tòa sen làm chỗ dựa cho Văn Thù bồ tát hay các Hộ Pháp. Nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà.
3. Linh vật trường tồn - Quy
Về mặt sinh học, rùa là loài bò sát lưỡng cư có tuổi thọ cao và thân hình chắc chắn. Nó có thể nhịn ăn uống mà vẫn sống trong một thời gian dài.
Rùa không ăn nhiều, nhịn ăn tốt nên được coi là một con vật thanh cao, thoát tục. Trên bàn thờ ở các đền chùa, miếu mạo, chúng ta thường thấy rùa đội hạc, rùa đi với hạc trong bộ đỉnh thơm ngát và thanh tịnh.
Quy đã xuất hiện trong truyện cổ tích từ thời An Dương Vương. Trong tạo hình, người ta bắt đầu thấy Quy từ năm 1126 trong tư cách đội bia ở chùa Linh Ứng, Thanh Hóa, từ đó tồn tại thường xuyên dưới hình thức đội bia; đến tận thế kỷ 15 mới thấy đội hạc.
Quy là vật hợp bởi có cả âm lẫn dương: Bụng phẳng tượng trưng cho đất (âm), mai khum tượng trưng cho trời (dương). Hình tượng rùa đội bia tượng trưng cho hạnh phúc, phát triển và sự chịu đựng.
Quy là cao quý, nhiều khi nó là chủ nguồn nước (rùa phun nước thiêng), là một linh vật của đất Phật.
Rùa đầu rồng - Long Quy
Là linh vật tốt lành mang ý nghĩa trường thọ, có khả năng chiêu tài hóa sát, trấn trạch, rất lợi về tài lộc, bền vững và thịnh vượng lâu dài.
Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và văn hóa.
Tuy không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa cũng là biểu trưng cho sự trường tồn của Phật giáo.
Trong một số ngôi chùa thời Lý - Trần, rùa được chạm thành tường bằng đá, làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai, mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai.
4. Linh vật bất tử - Phụng
Nhắc đến sư bất tử và tái sinh, người ta không thể không nhắc đến 1 loài chim chỉ có trong truyền thuyết: Phụng.
Phượng Hoàng là sự kết hợp các đặc điểm xinh đẹp nhất của nhiều giống chim: đầu gà, chiếc cổ cao của chim hạc, và bộ đuôi thướt tha rực rỡ của loài công.
Phụng (Phượng) là tên con trống, con mái gọi là Loan. Phụng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công...
Các bộ phận của phụng đều có ý nghĩa của nó: Đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất.
Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phụng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ.
Vì thế phụng là hình tượng của thánh nhân, của hạnh phúc. Nếu rồng có yếu tố dương, tượng trưng cho vua chúa thì phụng lại có yếu tố âm nên tượng trưng cho hoàng hậu.
Sinh vật bất tử.
Vòng đời của chúng không bao giờ kết thúc. Khi bị thương nặng hoặc cảm thấy mình quá già yếu (không dưới 500 tuổi), phượng hoàng sẽ tự xây một cái tổ bằng lông của mình, rồi tự thiêu bằng chính nguồn nhiệt của bản thân.
Từ trong đám tro tàn, nó sẽ tái sinh dưới hình dạng một chú chim non. Với khả năng tái sinh này mà Phụng là biểu tượng của cả sự sống và cái chết.
Vì thiêng liêng cao quý nên loài chim này thường sống trên những ngọn núi cao, xa xôi mà con người không thể vươn tới.
Nếu có ai đó muốn tìm được chúng để mưu cầu sức mạnh hoặc sự bất tử sẽ phải vượt qua những thử thách chết người.
Thời gian: tổ chức vào ngày 13 tới ngày 15 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật, thiền Sư Không Lộ - là người rất giỏi Phật Pháp, giỏi cả pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý.
Nội dung: Ngày 13, mở đầu là cuộc rước kiệu kỷ niệm 100 ngày tịch của thiền sư Không Lộ. Chiều có các cuộc đua trải. Tối có cuộc thi kèn và trống. Sáng 14, kỷ niệm ngày sinh của sư Không Lộ. Sau lễ dâng hương đến đám rước gồm có đôi ngựa hồng, ngựa bạch có đủ yên cương và 4 bánh do người kéo. Tiếp đến là 8 lá cờ thần, 42 người vác bát bửu lỗ bộ... Chiều 14, tại toà Giá Roi diễn ra nghi lễ chầu thánh mang tính nghệ thuật , đó là điệu múa cổ còn gọi là "múa ếch vồ".
Ngày 15, mọi nghi lễ diễn ra như ngày 14 nhưng có thêm một số trò diễn sau khi rước kiệu hoàn cung.
Hội chùa Keo diễn ra đông vui tấp nập suốt 3 ngày, 3 đêm bằng nghi lễ tôn giáo và một số tập tục cổ truyền để tưởng nhớ vị thiền sư đã có công với nước và qua hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian đã phản ánh được lối sống của vùng dân cư ven sông mang màu sắc văn hoá nông nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ.
Thời gian: tổ chức từ ngày 13 tới ngày 16 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, Tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Thiền Sư, pháp sư Nguyễn Minh Không, tổ sư nghề đúc đồng.
Nội dung: hằng năm từ ngày 13-16/09 (âm lịch) lễ hội chùa Cổ Lễ được khai hội, thu hút hàng vạn du khách thập phương tới lễ và tham gia hội tại đây, trong phần lễ có rất nhiều nghi thức văn hóa cổ truyền như rước Phật, múa rối chầu Thánh tổ… , phần hội có nhiều trò chơi dân gian như đánh cờ tướng, tổ tôm điếm,cờ người, leo cầu ngô, bơi,thi đấu các môn thể thao. Điều đặc biệt là cuộc thi bơi chải truyền thống làng Cổ Lễ của 5 cửa họ : Dương Nhất, Dương Nhì, Lê, Phan, Nguyễn. 5 cửa họ này có 4 chải, trong mỗi ngày, mỗi cửa họ sẽ bốc thăm chọn 1 chải và bắt đầu thi đấu trên dòng sông chạy dọc địa phận cổ lễ, và quay vòng 4 lượt với tổng chiều dài xấp xỉ 8km. Sau 4 ngày tranh tài sẽ chọn ra cửa họ về nhất hội. Trong các ngày thi đấu bơi chải dọc hai bên bờ sông kéo dài gần 2km tập chung rất đông các Phật tử cũng như người dân tham gia. Có thể nói đây cũng là phần hội thu hút được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia nhất và tạo nên nét đặc trưng của phần hội hằng năm của chùa Cổ Lễ.
Thời gian: tổ chức từ ngày 13 tới ngày 15 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân trường, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật và thiền sư Không Lộ - là người giỏi chữa bệnh và giỏi thơ văn, ông tổ nghề đúc đồng, nhà kiến trúc tài giỏi có công phò tá vua giúp nước.
Nội dung: Hàng năm, tại chùa có hai lần mở hội. Đó là Hội xuân vào dịp tết Nguyên Đán và hội tháng 9 mở vào ngày 13,14,15 để kỷ niệm ngày sinh của thánh tổ Không Lộ.
Hội xuân gồm các trò chơi bắt vịt, thi ném pháo, thi nấu cơm và các hình thức văn nghệ dân gian khác. Hội tháng chín được tổ chức trọng thể, ngoài những nghi thức lễ tiết mang tính tôn giáo, hội tháng chín còn là nơi hội tụ của những sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân nông nghiệp. Chính vì vậy, vào ngày hội nhân dân không những trong vùng mà cả trong Nam ngoài Bắc đều nô nức kéo nhau về tụ hội: Dù cho cha đánh mẹ treo Em không bỏ hội chùa keo hôm rằm. Đặt biệt là ở đây thường tổ chức từ ngày 10 tháng 9 đến hết hội.
Hình ảnh các chàng trai đóng khố, mặc áo nẹp ngắn, không tay, đầu chít khăn đồng màu khoẻ mạnh, trên hàng chục chiếc chải lao vun vút, giữa dòng sông trong tiếng dồn dập, tiếng reo hò cổ vũ của hàng vạn người, đã ghi in trong tâm hồn những người dự hội Keo.
Ngoài việc thờ Phật, chùa còn thờ Dương Không Lộ, một nhà thơ thời Lý - Trần, một nhà thơ có học vấn sâu sắc về Phật học, là biểu tượng của con người sáng tạo văn hoá. Sau những lễ nghi trang trọng, tiết mục chèo tải được mọi người đón nhận nồng nhiệt nhất.
Độc đáo nhất trong lễ hội là môn đua thuyền trải: có 15 xóm trong làng tham gia đua thuyền hay gọi là bơi trải, có tất cả 10 người trên thuyền trong đó có 1 người lái thuyền. Bơi trải ở Chùa Keo Hành Thiện Nam Định khác với các nơi khác, họ không ngồi bơi mà 10 người đểu đứng để chèo. Bắt đầu xuất ở trong sông con là sông làng khoảng 5-6km rồi bắt đầu ra đến sông Ninh Cơ nhánh của sông Hồng, bơi 3.5 Vòng sông rồi quay về bắt Têu trong sông con nếu đội nào về đầu thì sẽ dành giải nhất. Trung bình mỗi cuộc thi bơi trải diễn ra từ 3.5 - 4 h đồng hồ). Đây là môn thi đấu cổ truyền rất tuyệt vời đáng được ghi nhớ cũng như lưu trong sử sách của Dân tộc ta.
Phải thôi, phải thôi! Do phấn đấu cả đời người mà chưa thi thố được tài năng về chính trị, cuối cùng Khổng Tử phải làm ông thầy dạy học, sau khi đã bươu đầu sứt trán, bất đắc dĩ phải cúi đầu nhận mệnh. “Không biết mệnh, không phải là nhà nho”, đó là ông tự vận vào mình sau khi bị nhiều lần thất bại, tâm tình ngày càng đi xuống, thế thì làm thế nào để “biết mệnh” được sớm? Thời Khổng Tử còn sống. Ngoài một số tướng thuật lẻ tẻ ra, đó là một việc không thể làm được, vì rằng lúc đó chỉ biết có mệnh mà không biết cách đoán mệnh.
Sau khi đã phát minh ra thuật đoán mệnh, do bởi tuân theo lời di huấn của bậc đại sư nho giáo, phần lớn là nghiên cứu dự đoán phú quý nghèo hèn, thọ yểu bệnh tật của một con người, tự nhiên đó là mục đích chủ yếu của thuật đoán mệnh.
Tại sao cũng một con người, sau khi sinh ra hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau? Theo cách giải thích của nhà mệnh lý học. Tức là khi người đó mới thụ thai, khí âm dương giao lưu, chân tinh hoà hợp, nếu tiếp nhận được thanh khí thì có trí lực, tài năng, nếu tiếp nhận trọc khí thì sẽ ngu đần, có tài trí trong xã hội hẳn được lợi lộc nhiều, cho nên hoặc giàu hoặc thọ, nếu ngu đần làm ăn không phấn phát thì sẽ nghèo hèn mà chết yểu.
Nó phản ánh vào trong mệnh, tự nhiên sẽ hiện ra trong bát tự sao sinh của mỗi người.
Nói về cách tính tương lai của bản thân mệnh chủ, mỗi nhà mệnh lý học đều có một lô biện pháp của mình, đó là đoán phú quý nghèo hèn trước tiên phải xem can ngày trong mệnh của người đó có được lệnh hay không được lệnh, sau đó xem dụng thần có đắc lực hay không đắc lực, cuối cùng xem hành vận có thuận lợi hay không thuận lợi, nếu như can ngày đắc lệnh, dụng thân đắc lực, vận gặp tài quan, thường là phú nhiều phát phúc, đại cát đại lợi, ngược lại thì nghèo khó chao đảo, khổ không kể xiết.
Đoán sinh tử thọ yểu phải xem kỹ tuế vận và nguyên cục dụng thần là hỷ hay kỵ, nếu như tuế vận gặp kỵ thần trùm đấu, hỷ thần không cứu được, nếu nhẹ là hung, nặng thì chết. Nhưng cũng có cách nói. Lấy “tháng sinh mà định” (ngọc môn quan tập) rằng: thọ sinh lấy tháng sinh mà định, tháng sinh ở vào chỗ can chi nạp âm vượng, là ngũ hanh tương sinh không nghịch, giò Tỵ cùng thai, đều đắc số không cùng hình khắc, chủ thượng thọ. Ngoài ra trích thiên tuỷ có cách nói về phú quý nghèo hèn thọ yểu, có ảnh hưởng rất lớn:
1. Làm thế nào biết người ấy giàu, tài khí thông qua cửa ngõ
Thế nào gọi là tài khí thông qua cửa ngõ? Lưu Cơ chú giải rằng: tài liệu thân cường, quan tinh vệ tài, kỵ ấn mà tài có thể phá ấn, hỉ nhật mà tài có thể sinh quan, thương quan trọng tài thần lưu thông, tài thần trọng mà thương quan có hạn vô tài mà ám thành tài cục, tài bộ mà thương cùng lộ, đó đều là tài khí thông cửa ngõ, cho nên giàu. Nhậm Thiết Tiều thì nói bổ sung: tài diệu thân nhược không có quan, tất phải có thực, thương. Thân vượng tài vượng thì không có thực, thương, hẳn phải có quan có sát. Thân có ấn vượng thực, thương nhẹ, tài tinh đắc cục. Thân vượng quan suy ấn thụ nặng, tài tinh đương mệnh. Thân nhảy sang kiếp, không tài ấn mà có thực thương. Thân nhược tài trọng, không quan ấn mà có tỉ kiếp, đều là tài khí thông của ngõ. Do ở mệnh cục, cách luận tài cũng giống luận thê, cho nên có cách nói “thân tài thân thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, tài thần trọc mà thân vượng thì giàu có, nếu đi sâu vào nghiên cứu thì thuyết của họ Nhậm có thể tham khảo được. Ông nói: nếu thân vượng có ấn, quan tinh tiết khí, tứ chi không thấy thực, thương đều là tài tinh sinh quan, không thực, thương thì tài tinh cũng nông, chủ thể đẹp nhưng tài mỏng. Thân vượng không có ấn, quan nhược phùng thương, đắc tài tinh hoá thương sinh quan, thì cũng thông căn quan cũng được giúp, không những thê đẹp mà phú dày, thân vượng quan nhược, thực, thương trung kiến, tài tinh không thông với quan, nhà tuy phú nhưng thê xấu. Thân vượng nguyên quan, thực, thương có khí, tài tinh không liền với kiếp, không ấn mà thê, tài đều đẹp, có ấn thì tài vượng mà thê tổn thương. Bốn điều đó cần nghiên cứu kỹ.
Bát tự của mệnh:
Năm Giáp Thân Tháng Bính Tý
Ngày Nhâm Dần Giờ Tân Hợi
Nhâm Thuỷ sinh vào tháng giữa đông, dương nhận đương quyền, xem bề ngoài, chi ngày Dần thực thần Giáp Mộc bị Thân Kim xung phá nhưng hay ở chỗ chi ngày chi giò Dần Hợi hợp cục, hai cái đó là đất của niên can trung hoà và nguyệt can Bính Mộc Hoả trường sinh, thêm vào Tý Thân hợp Thuỷ, Thân Kim không những không xung Dần Mộc và sau khi hợp Thuỷ Thực Thần Giáp Mộc ngược lại được sinh phú, cho nên nói tài khí thông với cửa ngõ, là mệnh của phú ông trăm vạn, phàm là mệnh của bậc cự phú, không phải là tài tinh nhiều ít, chỉ cần sinh hoá có tình, thì tài khí sẽ thông cửa ngõ. Nếu tài tinh lâm vượng địa chi nên kiến quan vì quan tinh có thể làm tiết bớt khí của tài tinh. Nếu như nhật chủ thất lệnh thì hẳn phải có tỷ kiếp tương trợ mới là đẹp và tốt.
Bát tự của mệnh:
Năm Nhâm Thân Tháng Bính Ngọ
Ngày Quý Hợi Giờ Mậu Ngọ
Quý Thuỷ sinh vào tháng giữa mùa hạ, lại gặp giờ Ngọ tháng theo trụ giờ thấu xuất Bính Hoả Mậu Thổ, khó tránh được tài quan quá vượng. Hay ở chỗ trụ ngày Quý Thuỷ đắc địa, càng hay hơn là can năm Nhâm chi tiết toạ trường sinh, thân vượng Nhậm được tài quan, thêm vào ngũ hành không có Mộc, Thuỷ không tiết mà Hoả không trợ, cho nên lấy can năm Nhâm Thuỷ làm dụng thần. Sau đó vận đi về Tây Bắc, Kim Thuỷ đắc địa tuy nói di sản của tổ tiên để lại không nhiều, tay trắng làm nên, trở thành người giàu có 4-5 chục vạn.
2. Làm thế nào biết được quý (sang) quan tinh có lý hội
Giải thích về quan tinh có lý hội, Lưu cơ cho rằng: “quan vượng thân vượng, ẩn thụ vệ quan kỵ kiếp nên quan có thê khử kiếp, hỉ kiếp mà quan có thể sinh ấn, tài thần vượng mà quan tinh thông đạt, quan tinh vượng mà tài thần có đốt, không quan mà ngầm thành quan cục, quan tinh tàng mà tài thần cũng tàng. Những cái đó đều làm quan tinh có lý hội, cho nên quý.
Nhậm Thiết Tiêu thì nói: Thân yếu quan nhược, tài có thể sinh quan. Quang vượng thân nhược, quan có thể sinh ấn. An vượng quan suy, tài có thể phá hỏng ấn. ấn suy quan vượng, tài tinh không hiện. Kiếp nặng Tài nhẹ, Quan có thể khử Kiếp. Tài tinh hoại ấn, quan có thể sinh ấn. Dùng quan quan tàng tài cũng tàng dùng ấn lộ, quan cũng lộ, các quan tinh có- lý hội cho nên quý hiển vậy. Trong mệnh cục do luận quan và luận con cách làm giống nhau, cho nên lại có cách nói! Quan tinh thanh mà thân vượng thì quý, quan tinh trọc (đục) mà thân vượng thì nhiều con về chỗ này, Nhậm Thiết Tiêu nói thêm: nếu thân Vượng, quan vượng ấn cũng vượng, cách cục rất nhanh mà thương, thực tứ trụ, chẳng lẫn chút nào, tài tinh lại không xuất hiện, tình của quan tinh dựa vào ấn, tình của ấn dựa vào nhật chủ, chỉ sinh được một người, cho nên có quan không có vậy. Dù thực thương có hơi tạp cũng bị ấn tinh khắc, can cũng gian nan. Nếu thân vượng, quan vượng, ấn vượng, thực thương ám tang, không thương tổn quan tinh, không bị ấn tinh khắc, tự nhiên quý mà đông con. Nếu thân vượng quan suy, thực thương có khí, có ấn mà tài có thể hoại ấn, không tìa mà ngầm thành tài cục, không quý mà đông con và giàu. Nếu thân vượng quan suy, thực thương vượng mà không tài, có con tất nghèo, nêu thân nhược quan vượng, thực thương vượng mà không có ấn, nghèo mà không có con, hoặc có ấn phùng tài cũng theo luận thuyết này.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Đinh Dậu Ất Tỵ
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Đông phương
Ngày Mậu Dần Quý Mão Mộc địa
Giáp Mộc trong Dần là sát dụng thần
Giờ Đinh Tỵ Nhâm Dần
Tân Sửu Bắc phương
Canh Tý Thuỷ địa
Mệnh này được tạo nên, nhật chủ Mậu Thổ, sinh vào tháng Ngọ giữa mùa hạ, Hoả khí viêm thịnh, lại gặp Hoả của Bính Đinh can chi năm, tháng, giờ sinh phù, Thổ của Mậu Kỷ trợ thân có thể nói thân cực vượng. Vượng lắm nên chế nên tiết cho nên lấy Dần trong chi ngày chế Giáp Mộc của ta thất sát, hoặc trong chi năm tiết Tân Kim trong Dậu của ta, lấy làm dụng thần. Lại xem hành vận, sớm trong năm Dần Mão Thìn Hợp Mộc, vạn hành phương đông được Mộc chế khắc, giữa và cuối năm chuyển sang Bắc phương Tý Sửu Thuỷ Vận, Thuỷ vượng sinh sát, cho nên là mệnh quý và quá phú.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm sát Quý Mão Nhâm Tuất Tây phương
Tháng sát Quý Hợi quan ấn Tân Dậu Kim địa
Ngày Đinh Mão ấn Canh Thân
Kỷ Mùi Nam phương
Giờ Tân Hợi Mậu Ngọ Hoả địa
Đinh Tỵ
Trong cục quan sát nắm quyền, tựa hồ thương uý, tốt ở địa chi Hợi Mão cung ấn, lưu thông Thuỷ khí, cho nên quan tinh có được lý hội. Đầu vận Tân Dậu. Canh Thân sinh sát hoại ấn, công danh đau tranh. Kỷ Mùi nhất vận, đại vận địa chi Mùi sẽ cảm ứng với mệnh cục Mão suy: Đại vận thiên can thấu xuất thực thần Kỷ Thổ, cho nên vận trình đi lên. Từ đó về sau Mậu Ngọ, Đinh Tỵ, thương sát thấu ra Tỷ kiếp trợ Thân, nên con đường thi cử huy hoàng, do đó có thể thấy, có mệnh ấy thì được vận ấy, nếu không chỉ mãi là hàn nho.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm quan Quý Dậu Bính Thìn Đông phương
Ât Mão Mộc địa
Tháng kiếp Đinh Tỵ Giáp Canh
Ngày Bính Ngọ Quý Sửu Bắc Phương
Giờ sát Nhâm Thìn Nhâm Tý Thuỷ địa
Tân Hợi
Bính Hoả sinh vào tháng đầu mùa hạ, toạ lộc lâm vượng, lại gặp can tháng Đinh kiếp trợ thân, cho nên bản thân thuộc cường, tốt ở địa chi Kỷ Dậu cung Kim, tài có thể sinh quan, quan lại chế kiếp. Càng hay hơn là Can giờ thấu xuất Nhâm Thuỷ, giúp khởi can năm quý quan, trỏ thành tượng ký tế của trụ tháng trụ ngày, kết hợp đại vận, một khi tiền vào Bắc Phương Thuỷ Địa, đăng khoa phát giáp, danh lợi đều sáng.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tài Giáp Ngọ sát ấn Đinh Mão
Tháng quan Bính Dần tài quan ấn Mậu Thìn
Ngày Tân Dậu tỉ Ky Tị
Giờ ấn ẩn tỉ thực Canh Ngọ
Tân Mùi Nhâm thân Quý Dậu
Mệnh này bản thân can ngày Tân Kim, can năm tài tinh, can tháng quan tinh, can giờ ấn tinh, đều thông căn lộc vượng. Canh Ngọ nhất vận, 5 năm trước canh vận đeo vào người, nên trong vận năm Quý Dậu đăng khoa phát Giáp, sau 5 năm Ngọ vận thì sát vượng bệnh phát, thân thuộc hình tang đi đến Tân vận, tỉ đến trợ thân ở năm Kỷ Mão phát giáp lên cao, sau đó vận đi đến Kim Thuỷ. Giúp Thân chế sát, tung cánh bay cao.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Tỵ Canh Thìn
Tháng Tân Tỵ Kỷ Mão
Ngày Canh Thìn Mậu Dần
Giò Giáp Thân Đinh Sửu
Canh Kim ở vào ngày 5 lập hạ, Thổ đương lệnh mà Bính Hoả lại chưa nắm quyền, sinh canh Kim toạ thực, thêm vào chi Thìn, giờ Thân, sinh phù đều vượng, can tháng Tân kiếp, chi năm trường sinh là giúp, có thể thấy đấy là mệnh chưa sát ít. Phân tích trong mệnh tuy chi năm thấu xuất tài tinh nhưng tài tinh này vô căn mà gặp kiếp, cho nên có thê bói khi giao vào Đinh vận, do quan tinh nguyền thần phát lộ. Cho nên trong 2 năm Mậu Dần, Kỷ Mão tài tinh đắc địa. Thời hỉ dụng đều đến, khoa Giáp cùng đạt, sách nói: lấy sát hoá quyền, hiện rõ vẻ quý nơi cửa.
3. Sao biết người ấy nghèo
Tài thần Phân Bất gọi là “tài thần Bất Trân”, Nhậm Thiết Tiều cho rằng đại thể có 9 loại tình hình: một là tài năng mà thực, thương nhiều, hai là tài nhẹ hỉ thực, thương, mà ấn lườm tổn tài, ba là tài nhẹ kiếp nặng mà kỵ thấy thực thương, bốn là tài nhiều kiếp nhẹ mà quan tinh chế kiếp, năm là hỉ ấn mà tài tinh hoại ấn, sáu là kỵ ấn mà tài tinh sinh quan, bảy là hỉ tài mà tài hợp giảm thần mà hoá, tám là kỵ tài mà tài hợp gián thần hoá tài, chín là quan sát vượng dung ấn mà tài tinh đắc cục, đều là: phàm mệnh bại nghiệp phá gia, mới xem tựa hồ tốt đẹp, không tài quan đều đẹp thì can chi đều thanh không sát ấn tương sinh, thì tài làm vượng địa, không biết tài quan tuy có thể dưỡng mệnh vinh thân, đầu tiên nhật chỉ phải vượng tướng, mới có thể đảm đương tài phú, nếu thái quá bất cập, đều là bất trân, có thể tán có thể hao; rốt cục không thể phú quý được.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Quý Mão Quý Sửu
Tháng Giáp Dần Nhâm Tý
Ngày Đinh Tỵ Tân Hợi
Giò Kỷ Dậu Canh Tuất
Mệnh này Dậu tài tàng mà Quý sát lộ và sát ấn nối liền Bắc Phương, nhưng do sát can năm vô căn và tinh hoa của sát bị ấn thụ lấy mất, cho nên không dùng Quý Thuỷ làm dụng thần. Lại xem tài của Dậu Kim ở chi giờ, bên trên có Kỷ Thổ che trùm đầu, xem ra là đẹp nhưng mà toàn bộ cách cục Mộc vượng Thổ hư, tướng Hoả phùng sing, cho nên Kỷ Dậu không hội Kim thành tài, khiến cho tài tinh bất chân. Kết hợp đại vận khi giao Nhâm Tý, tiết Kim sinh Mộc, làm suy bại hết tổ nghiệp. Sau đó đi đến Quý vận, ấn gặp trường sinh, sẽ bị chết đói.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Nảm Tân Sửu Ất Mui
Tháng Bính Thân Giáp Ngọ
Ngày Qúy Tỵ Quý Tỵ
Giò Canh Thân Nhâm Thìn
Trong mệnh Bính tài tọa lộc, trong Sửu nhất sát độc thanh, xem ra tựa tốt đẹp, đáng tiếc trong cục ấn tinh qúa nặng, Sửu sát sinh ấn che tài, thêm vào Bính Tân Kim hợp mà hoá Thuỷ, biến tài thành kiếp, canh thân ở Tỵ, tài càng bất chân. Đầu hành vận, người Ất Mùi, Giáp Ngọ, Mộc Hoả đều vượng, thực thần sinh tài. Tổ nghiệp phong lưu. về sau một khi giao với Quý Tỵ, Tỵ cùng Thân Kim trong mệnh, đều hợp thành Thuỷ, khắp nơi Tỷ kiếp, bại tan như vôi, cuối cùng lâm cảnh ăn mày.
4. Sao biết người đó hèn
Quan tinh vẫn không thấy, Nhậm Thiết Tiều cho rằng quan tinh không thấy là do 3 tình huống, mức trên, mức giữa và mức dưới. Quan nhẹ, ấn nặng, thân vượng hoặc quan nặng ấn nhẹ, thân nhược, hoặc quan ấn bằng nhau, nhật chủ hưu tù, đây là quan tinh không thấy ở mức trên. Quan nhẹ, kiếp nặng, vô tài hoặc quan sát nặng vô ân, hoặc tài nhẹ kiếp nặng, quan phục, đó là quan tinh không thấy ở mức giữa.
Quan vượng hỉ ấn, tài tinh hoại ấn hoặc quan sát nặng vô ấn, thực thương cường chế hoặc quan nhiều kỵ tài, tài tinh đắc cục hoặc hỉ quan tinh mà quan tinh hợp với thần khác mà hoá thương, hoặc kỵ quan tinh, thần khác hợp quan tinh mà lại hoá quan, đó là quan tinh không thấy ở mức dưới.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Đinh Hợi Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào giữa mùa Đông, Can tháng thấu xuất Nhâm Thuỷ, địa Chi Hợi Tý Sửu hội bắc phương Thuỷ cục, mà Thìn lại là đất ướt. Không thể không chế được Thuỷ mà còn làm mò Hoả, thêm vào nhật chủ hư nhược, Giáp Mộc khô héo, Mộc ướt không thể sinh ra ngọn lửa được. Cho nên quan tinh vượng cực bất chân, trở thành tượng trong và khô. Tốt ở trong cục không có Kim, khí thế thuần trong, là người học vấn thực sự, xử thế không câu nệ, lấy việc dạy học làm kế sinh sống hàng ngày, chịu phận thanh bần, đó gọi là “quan tinh không thấy ở mức cao”
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Bính Thìn Tân Mão
Tháng Canh Dần Nhâm Thìn
Ngày Bính Ngọ Quý Tỵ
Giờ Nhâm Thìn Giáp Ngọ
Ất Mùi
Mệnh này Canh tài lâm vào tuyệt địa, vô căn, khí quan tinh cũng không đủ, vận đi về đông nam đất của Mộc Hoả, cho nên lúc nhỏ chết cha, mẹ đi lấy người khác, mấy năm sau mẹ chết, chăn trâu sông qua ngày. Lúc mối lớn lên đi ở kiếm sống, về sau không may mù cả hai mắt, không làm thuê mà đi xin ăn để sống.
5. Sao biết người ấy cát
Hỉ thần là phù bật hỉ thần là dụng thần phù bật, thuộc về cát thần trong tứ trụ nếu như có hỉ thân dụng thần có thể cả đời cát nhiều hung ít. Ngược lại trong tứ trụ không có hỉ thần xuất hiện, tuy có dụng thần nêu tuế vận không gặp kỵ thần xung khắc thì thôi, nếu qủa gặp kỵ thần, phần lớn khó tránh hung tai.
Bát tự của mệnh:
Năm sát Giáp Tý Tháng ấn Bính Dần sát ấn tĩ
Ngày Mậu Dần Giờ Kỷ Mùi
Đầu xuân, đất lỏng cát vượng phùng tài, cho nên lấy chính ấn Bính Hoả là dụng thần. Chi năm tài tinh sỏ thích cách với quả ấn và tài sinh sát, sát sinh ấn, có sinh sinh không sạch, lại lấy giờ Mùi giúp bản thân làm hỉ thần, hơn nữa tứ chi thuần tuý, chủ tòng đắc nghi thần, cho nên sớm đăng khoa Giáp, cả đời chỉ cát không hung, làm tới chức quan sát. Cuối đòi về hưu, phu phụ song toàn, thọ đến 80, mấy đời con cháu đều thi cử đỗ đạt
Bát tự của mệnh:
Năm Bính Thân Tháng Kỷ Hợi
Ngày Canh Thìn Giờ Mậu Dần
Đây là hàn Kim hỉ Hoả, can năm Bính Hoả được chi giờ Dần Mộc tương sinh, thì Hoả có ngọn lửa, nhưng dụng tài sát đầu tiên phải thân ngày vượng, hiện tại can ngày Canh Kim hỉ phùng Kim trong chi năm là lộc và tam ấn can tháng Kỷ Thổ, can giờ Mậu Thổ, chi ngày Thìn Thổ đều sinh, thêm vào chi Hợi Thuỷ đương quyền, thân Kim tham sinh không xung Dần Mộc. Xem cả toàn cục, không Hoả thì Thổ đông Kim hàn, không Mộc thì Thuỷ vượng Hoả hư, cho nên cân nhắc lấy Hoả làm dụng thần, Mộc làm hỉ thần, cả hai Mộc Hoả không thể thiếu một. Trong đoàn viên trúng hỉ, dụng thần. Cho nên cả đòi không hung không hiểm, đăng khoa phát Giáp, quan chức lên cao, con cháu đều đẹp, thọ ngoài 80 tuổi.
6. Sao biết người ấy gặp hung
Kỵ thần theo Triển Thế Công nói: gọi là kỵ thần tức là thần làm tổn hại dụng thần. Kỵ thần trong bát tự là bệnh, hỷ bệnh không thuốc. Có bệnh có thuốc là cát, có bệnh không thuốc là hung, như người sinh tháng Dần, nếu không dùng Giáp Mộc mà dùng Mậu Thổ, thế thì Giáp Mộc khắc Thổ sẽ thành kỵ thần của đương lệnh. Lúc này trong mệnh cục của nhật chủ nêu có Hoả hoá Mộc, có Kim chế Mộc, Hoả Kim này sẽ thành hỉ thần, nếu từ đó về sau hành vận càng phù hỉ ức kỵ đều có thể chuyển hung thành cát. Ngược lại nếu trong mệnh trong vận không có Hoả hoá Mộc, không có Kim chế Mộc, trái lại có Thuỷ sinh Mộc, có Mộc nuôi Mộc thế thì tai hoạ nhiều bề, đến già cũng không cát, ngoài ra, tuế vận tuy chưa thể phù hỉ ức kỵ nhưng cũng không kết bè với kỵ thần thế thì suốt đời không hung không cát làng nhàng đến già. Vì thế Lưu Cơ nói: tài cung không có khí, dụng thần vô lực, chẳng qua không phát đạt được mà thôi, cũng không bị hình hung. Còn như kỵ thần quá nhiều, hoặc hình hoặc xung, tuế vận trợ giúp. Chuyển sang công kích thần trong cục không được chuẩn bị, lại không theo chủ, không tránh khỏi hình tang phá bại, phạm tội, đến già cũng không cát.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Hợi Đinh Sửu
Tháng Mậu Dần Bính Tý
Ngày Bính Tý Ất Hợi
Giờ Giáp Ngọ Giáp Tuất
Mệnh này Bính Hoả sinh vào ngày tháng Dần. Trong cục Dần Hợi hoá Mộc, năm đi vào Giáp Ất đều thấu, ấn tinh quá thịnh vượng mà chi ngày Tý Thuỷ lại bị chi giờ Ngọ Hoả xung phá, cho nên đành lấy can tháng khiếm Thổ làm dụng thần. Lại nhìn khí thế trong cục. Giáp Ất Mộc vượng, ngược lại được Hợi Tý Thuỷ sinh, đó là nói kỵ thần triển thế công vậy. Kết hợp vận trình, vận đầu Đinh Sửu, trợ khởi dụng thần, xuất thân cự phú, vui sướng đầy nhà. Khi giao với Bính Tý, Hoả không thông căn, Thuỷ trợ kỵ thần, nếu bố mẹ không chết, thì liên tiếp gặp Hoả tai. Vận đến Ất Hợi, Thuỷ Mộc đều vượng kỵ thần mỏ rộng, lại gặp Hỏa tai, khắc tam thê tự tử, nhảy xuống nước mà chết.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tân Tỵ Kỷ Sửu
Tháng Can Dần Mậu Tý
Ngày Bính Thìn Đinh Hợi
Giờ Kỷ Sửu Bính Tuất
Ất Dậu
Bính Hoả tuy sinh vào tháng Dần nhưng xem rộng toàn cục Thổ Kim đều vượng, cho nên lấy Bính Mộc làm dụng thần. Nhưng Dần là cây non đầu mùa xuân, kỵ thấy Canh Kim che đầu nên lấy Canh là kỵ thần trong cục. Hành vận lúc đầu giao với Kỷ Sửu, Mậu Tý, sinh Kim tiết Hỏa, cha mẹ đều mất, sống cô độc không chịu nổi Đinh Hợi, Bính Tuất, vì Hoả đến Dậu đất Phương Bắc, không thể khử hết kỵ thần, cho nên trải đủ phong sương, lập nên gia nghiệp vừa phải. Khi giao với Ất Dậu, Ất hợp với can tháng Canh Kim, Dậu hợp với chi ngày Thìn Thổ mà hoá Kim, kỵ thần đắc thế, hình thê khắc tử, gặp Thuỷ tai mà chết.
7. Sao biết người ấy thọ
Tính định nguyên thần dày gọi là “tính định” tức là 4 chi trong cục đắc địa, ngũ hành dừng đều, những gì hợp đều là gian thần, những gì hoá đều là dụng thần, những gì xung đều là kỵ thần, những gì lưu đều là hỉ thần. Khuyết nguyên không hãm, không thiên lệnh không bóp méo. Con người “tính định” không tham yêu đương, không làm việc cẩn thả, là người nhân hậu hoà bình, nhân đức đều đủ, cho nên nhiều phúc, nhiều thọ. Gọi là “nguyên thần dày” tức là 4 chi trong cung nhược, gặp tài, tài nhẹ, gặp thương, thân nhược có ấn thụ sinh thân, thân vượng có Thực, Thương, Thổ ra, những gì hỉ đều là thần của đề cương, những gì kỵ là vật thất lệnh, hơn nữa đề cương có tình với chi giờ, hành vận cũng hỷ dụng thần không dừng, cho nên phú và thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Tân Sửu Tháng Quý Tỵ
Ngày Giáp Tý Giờ Bính Dần
Mệnh này tứ trụ thông căn sinh vượng, đầu nguồn lưu thông, rất là đặc sắc. xem trước 4 chi, bản thân Giáp Mộc, quy lộc ở chi giờ, ấn thụ Quý Thuỷ lộc ở chi ngày, thực thần Bính Hoả, lộc ở chi tháng, quan tinh Tân Kim, chi toạ bại địa. Lại xem ngũ hành chi tháng Tỵ Hoả sinh chi năm Sửu Thổ. Chi năm Sửu Thổ sinh can năm Tân Kim, can năm Tân Kim sinh can tháng Quý Thuỷ, can tháng Quý Thuỷ sinh can ngày Giáp Mộc, can ngày Giáp Mộc sinh can giờ Bính Hoả, Bính Hoả lại toạ ở trường sinh địa, có thể nói là nguồn xa chảy ra. Vì vậy, người có mệnh chủ này nhân đức đều đủ, cương nhu giúp nhau, chức ở tam phẩm, giàu có trăm vạn, thọ đến trăm tuổi, chỉ chết vì già.
Bát tự của mệnh:
Năm Ất Mùi Tháng Mậu Dần
Ngày Ất Mão Giờ Canh Thìn
Đông phương này chĩa thẳng vào nhân thọ cách, do Hoả khí trong cách suy vi, tài thần suy nhược nguyên khí, Mộc thế quá vượng, quan tinh mỏng mảnh vô cấn, cho nên suốt đời lận đận, trọng nghĩa khinh tài sông nếp thanh bần, nhưng hay ở đông phương nhất khí, nhân thọ thành cách. Lưu Cơ nói rằng: “khí của Giáp Ất Dần Mão lớn, không gặp xung chiến tiết thương, thiên vượng phù phiếm, có được an nhàn nên thọ. Mộc thuộc nhân, nhân thì tho, ai cũng ứng nghiệm”. Vì vậy tuy cuộc sống thanh bần nhưng thọ đến 94 tuổi mới mất.
8. Sao biết người ấy yếu, khí đục thần khô
Gọi là “khí đục”, Nhậm Thiết Tiêu cho rằng: đục tức là nhược. Người khí đục, nhật chủ thất lệnh. Dụng thần nông mỏng, kỵ thần sâu nặng, đề cương cùng chi giờ không chiếu nhau, chi năm và chi ngày không hoà, hỉ xung mà không xung, kỵ hợp mà không hợp, hành vận vô tình với hỉ dụng thần, ngược lại kỵ thần kết bè đãng, tuy không thọ nhưng có con. Gọi là “thần khô”, Nhậm Thiết Tiêu nói tiếp: thần cây bách, thân nhược mà ẩn thụ quá nặng, thân vượng mà đều không khắc tiết. Nhưng trọng dụng ấn mà tài tinh hoại ấn, thân nhược vô ấn mà trùng điệp thực, thương hoặc Kim hàn Thuỷ lãnh mà Thổ ướt hoặc Hoả bốc Thổ táo mà Mộc Khô, đều chết yểu mà không con. Lưu Cơ đã khái quát chung rằng i mệnh khí nhờn thần khô rất dễ xem., An thụ quá vượng, nhật chủ không có cái gì đến, tài sát quá vượng, nhật chủ không chỗ dựa, kỵ thần và hỉ thần tạp mà đánh nhau, tứ trụ nghịch với dụng thần mà tuyệt. Xung mà không Hoà, vượng mà không bị kiềm chế, ướt mà trệ, táo trên mặt, tinh lưu khí tiết, tháng bỏ giò thoát, đó đều là người không thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Nhâm Dần Bắc Phương
kỷ Thổ thương quan
Tháng Ọuý Mão Canh Tý Thuỷ Địa
Ẩt Mộc ân thụ dụng thần
Giờ thực thần
Mậu Tuất Ất Hợi
Mậu Thổ
thực thần Mậu Tuất Tây Phương
Đinh Dậu Kim Địa
Mệnh này Nhật chủ Bính Hoả, sinh tháng Mão giữa mùa xuân, Ất Mộc sinh Hoả, vốn thuộc việc tốt, đáng tiếc Kỷ Thổ trong chi năm Sửu. Mậu Thổ trong chi ngày Tuất, can chi trụ ngày lưỡng trùng Mậu Thổ, thực thương trùng trùng, khiến cho tự mình tiết khí quá nhiều, nhìn xem toàn cục khi lấy Ất Mộc ấn thụ làm dụng thần, đã có thể sinh ra mà còn chế phục được Thổ thái quá. Lại xem đại vận, từ Nhâm Dần về sau, cả một dày Hợi, Tý, Sửu là Thuỷ địa. Thuỷ tuy có thể chế Hoả nhưng Thuỷ lại có thể sinh Mộc, vận ở bước này không thể tốt hơn vận Mộc từ đông phương trực tiếp đến, nhưng lại không miễn cưỡng nói rằng đi qua. Nhưng một hành vận đi vào Tuất Dậu Kim địa, tuy nói Kim là tài vận nhưng Kim có thể khắc Mộc, tài tinh phá ấn, dụng thần bị chế, thế thì khó lòng giữ mệnh.
Bát tự của mệnh: Đại Vận
Năm Ấn thụ Ất Sửu Tân Kim Giáp Thấn
Tháng Ân thụ Ât Dậu Tân Kim, tử Quý Mùi
Ngày Bính Thìn Nhâm Ngọ
Giờ Chính tài Tân Mão Tân Tỵ
Mệnh này Bính Hoả sinh ở tháng Dậu tử địa, không có căn khí, thêm vào can giờ thấu xuất chính tài Tân Kim, chi năm chi tháng, Sửu Dậu cũng ngầm chứa chính tài Tân Kim, có thể nói là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thân, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần, vì rằng ấn, có thể sinh Thân, cho nên dụng thần ở đây sẽ áp tại Ất Mộc sinh ta vậy. Nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày cạn giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ tọa chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thần, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần. Vì rằng ấn có thể sinh ta vậy, nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày can giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ toạ chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài tinh phá ấn, trên dưới vô tình, ở trường hợp này, bề ngoài xem ra dụng thần tuy nhiên, nhưng lại không phải trân dụng, hơn nữa không có Tỷ, kiếp, lộc, nhậm sở hỉ trong mệnh bắt nhau, không khỏi gặp cảnh gian nan. Tốt ở đại vận Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Hoả đến trợ Thân, can ngày đắc địa nên có thể lấy vợ sinh con, nhưng khi giao vào vận Tân Tỵ can ngày Tân trong vận tước bỏ dụng thần Ất Mộc, tài có thể hoại ấn, địa chi trong vận cùng chi năm, chi tháng Sửu, Dậu trong mệnh cấu thành Kim cục, lại ra sức khắc chế thương tinh, ấn tinh chứa trong chi ngày chi giờ trong mệnh, chết yểu khó tránh ở kiếp tinh.
Về vấn đề sinh, tử, thọ, yểu trong Uyên Hải Tử Bình ở phần Cách cục sinh tử dẫn dụng có 7 điều, nêu lên để tham khảo
1. Phàm là cách cục, tự có định luận, giờ nói tóm tắt. Ấn thị kiến Tài hành tài vận lại kiêm tử tuyệt, tất xuống suối vàng, nếu có Tỷ kiên, có thể giải.
2. Chính quan gặp sát và thương quan hình xung phá hại, tuế vận song hành, tất tử,
3. Chính tài thiên tài gặp tỷ kiên chia nhau đoạt, kiếp tài dương nhận, lại gặp Tuế vận xung hợp, tất tử
4. Cách của thương quan, tài vượng thân nhược, quan sát gặp lại, hỗn tạp dương nhận. Lại gặp tuế vận, tất tử, nếu sống bị thương tật.
5. Giữ lộc, giữ quý, sang bằng lại gặp quan xung, nhận gặp tuế vận.
6. Lộc ngày quy giờ, hình xung phá hại, gặp thất sát, quan tinh, không vong, quan sát đại kỵ, tuế vận cùng vận tất tử.
7. Các cách khác đều kỵ sát và san bằng tuế vận cùng đến, tất tử, Gặp các hung thần ác sát, ấn thụ không vong, điếu khách, mộ, bệnh, tử cung chư sát, thập tử nhất sinh. Quan tinh thái tuế, tài nhiều thân nhược, nguyên phạm thất sát, thân được cứu thì cát, không được cứu thì hung, Kim nhiều yểu chết, Mộc thịnh bay trôi, Mộc vượng thì yểu, Thổ nhiều si ngây, Hoả nhiều ngu dốt. Thái quá bất cập, không để câu nệ mà phải quả đoán, cần phải lý hội để tìm ra sinh tử.
Ngoài ra Tam mệnh thông hội ở quyển 8 nói: “Ngày Đinh Hợi, giờ Ất Tỵ, ngày giờ đều xung, tổn thương vợ con, Tỵ, Dậu, Sửu, Than Ty, Thìn 2 cục Kim thuỷ, tài cung đắc dụng nên phú quý vậy. Tiếp theo còn nêu hai ví dụ về Bát tự của mệnh, một là Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Hợi, Ất Tỵ, nói đó là mệnh nghèo chờ chồng, một là Đinh Hợi, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Tỵ, đó là mệnh ăn mày. Trên thực tế, do tồn tại khách quan nhiều loại không chuẩn xác, cho nên Trần Tố Am trong khán phú quý cát thọ bần tiện hung yếu pháp đã ra sức cổ vũ khuyến khích tư tưởng làm điều thiện, báo ứng nhân quả của Phật giáo. Lập luận của ông có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng mệnh học của các thế hệ đời sau, cho nên chúng tôi đã trích dẫn sau đây:
Cách cục phú quý cát, nghèo hèn hung, lấy lẽ đã định tương đối chuẩn, nhưng dùng đoán mệnh cho người không ứng nghiệm hoàn toàn là do bản thân có thiện ác và gia tộc có thiện ác. Phúc thiện dâm là lẽ tất nhiên. Như người làm điều ác, mệnh quý đến nhất phẩm thì giảm xuống chỉ còn tứ, ngũ phẩm, mệnh đáng giàu trăm vạn thì giảm xuống còn 6 - 7 chục vạn, mệnh đáng thọ trăm tuổi thì giảm xuống còn 6 - 7 chục tuổi; mệnh đáng hưởng đủ ngũ phúc thì giảm xuống còn 1 - 2. Như người làm điều thiện, mệnh lẽ cực hèn mà được vinh hiển một phần, mệnh đáng cực nghèo, có được tài sản của kẻ trung lưu, mệnh đáng chết sớm mà thọ được mấy chục tuổi, mệnh đáng gặp nhiều hung mà tránh được vài ba. Lẽ đời kẻ làm điều ác sao được hưởng phúc? Người làm điều thiện sao lại gặp hoạ, há không biết phúc đã bị tổn, hoạ đã bị diệt sao? Người biết hoạ phúc sao không biết mệnh, biết thiện ác là âm của hoạ phúc thì là biết mệnh. Tuy vậy, biết thì có ích gì? Có thay đổi được không, xưa Viên Liễu Phàm tiên sinh gặp thầy pháp thuật đoán mệnh, nói đi thì chỉ dừng ở cống sĩ mà không có con. Do trình bày cặn kẽ lý lịch, lúc đầu cái gì cũng đúng, sau gặp vị cao tăng, hướng dẫn học tạo mệnh, tích được phép làm điều thiện và cầu khoa bảng, tích được phép làm điều thiện cầu con cái. Thiên số đã định, thi hai kỳ đỗ cao, điều pháp sư đoán không có gì không nghiệm, cho nên phàm muôn cầu phú quý cát thọ mà tránh nghèo hèn hung yêu thì phải biết tích thiện là cần, hàng ngày tự nhớ việc làm, phải luôn tâm niệm nhân đức, việc việc đều thiện, lâu sẽ được như ý muốn. Nếu cậy mệnh thiện mà dám làm điều ác, mong mệnh giúp đỡ mà không biết suy nghĩ lại, đó là loại người ngu nhất trong thiên hạ, là kẻ sĩ chẳng có ý chí gì.
Đoán mệnh, ngoài đoán giàu nghèo thọ yểu là chính ra, có sách đoán mệnh còn không quên đoán bệnh tật cho người. Muốn đoán bệnh tật trước tiên phải liên hệ ngũ hành với lục phủ, sau đó căn cứ nguyên lý sinh ngũ hành để phân tích. Theo lý luận của Ô y, sự tương phối của ngũ hành với ngũ tạng, lục phủ như sau:
Giáp mật (đỏm) Ất gan (can)
Bính tiểu tràng Đinh tâm
Mậu dạ dày (vị) Kỷ tì
Canh đại tràng Tân phổi (phế)
Nhâm bàng quang Quý thận, tâm bào lạc tam tiêu
Trong đó mật, dạ dày, đại tràng, tam tiêu, bàng quan thuộc lục phủ, tính chất thuộc dương, cho nên đều phối với dương can, gan, tâm, tỳ thận thuộc ngũ tạng, tâm bào lạc thì thuộc vào tâm, tính chất thuộc âm, cho nên đều phối với âm can, ca rằng:
Giáp đơm Ất can Bính tiêu tràng
Đinh tâm Mậu vị Kỷ tỳ hương
Canh thị đại tràng Tân thuộc phế
Nhâm hệ bàng thoát Quý thận tàng
Tam tiêu diệc hướng Nhâm trung ký
Bào lạc đồng quy nhập Quý phương
Lại nói rằng:
Giáp đầu Ất hạng Bính kiên cầu
Đinh tâm Mậu hiếp Kỷ thuộc phúc
Canh thị tề luân Tân vi cổ
Nhâm cảnh Quý túc nhất Thân phúc
Chú thích: hạng (gáy) kiến (vai) hiếp (sườn) phúc (bụng) tề (rốn) cổ (đùi) túc (chân) Nam Định.
Đồng thòi, người xưa còn liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể nhưng nó không quan trọng bằng liên hệ với ngũ tạng, cho nên thường không được coi trọng.
Bây giờ đem việc liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể, ghép thành bài ca như sau:
Tý thuộc bàng quang thuỷ đạo nhĩ
Sửu vi bào đồ cập tỳ dương
Dần dởm phát mạch tịnh lưỡng thủ
Mão bản thập chỉ nội can phương
Thìn Thổ vì tỳ thận hung loại
Tỵ nhi xĩ yết hạ cửu cang
Ngọ Hoả tinh thần tự nhãn mục
Mùi Thổ vị quản cách tích lương
Thân Kim đại tràng kinh lạc phế
Dậu trung tỉnh huyết tiểu trường tàng
Tuất Thổ mệnh môn thoái Hoả túc
Hợi thuỷ vi đầu cập thận nang
Chú thích: bào (tâm bào) đỗ (bụng) đởm (mật) lưỡng thủ (hai tay) thập chỉ (10 ngón) can (gan) hung (ngực) xĩ yết (răng yết hầu) cửu cang (hậu môn) nhãn mục (mắt) vị quản (dạ dày) cách (hoành cách mô) tích lương (cột sống) phế (phổi) thoái (đùi) Hoả (mắt cá) túc (chân)...
Khi xem cụ thể, lấy can chi ngày làm chính, kết hợp ngũ hành sinh khắc thái quá bất cập mà định. Ví dụ can ngày là Giáp, Ất Mộc. Trong bát tự tứ trụ xuất hiện Kim trong Canh, Tân, Thân, Dậu, Mộc sẽ bị khắc, có thể sẽ bị gan mật, kinh sợ, lao lực, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức, đầu váng mắt hoa, hoặc mồm méo mắt xếch, phải trái bị liệt hoặc quỵ ngã thành thương tật. Ví dụ can ngày sinh vẫn là Giáp, Ất Mộc, trong Bát tự tứ trụ xuất hiện Hoả nhiều trong Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ mà không có thuỷ đến trợ giúp, lúc này Mộc khí bị tiết quá nhiều, có thể bị nội nhiệt miệng khô, đòm suyễn khạc ra máu, trúng phong không nói được, phụ nữ kinh nguyệt không đều: mang thai bị sẩy, trẻ con kinh phong cấp mạn tính, ho thở khóc đêm, da xanh xám. Tại sao Mộc bị Kim chế hoặc Hoả tiết quá nhiều mà sinh ra những chứng bệnh này, trong y học cổ truyền đã nói và phân tích nhiều, ở đây không đi sâu bàn luận.
Về cách xem bệnh tật nói ở trên, Trần Tố Am có cách kiên giải độc đáo của ông: xưa phân ngũ hành, luận về bệnh tật của người, không gì không hợp lý nhưng Ngũ hành tạng phủ kinh lạc của con người đều đủ, nhưng trong trụ mệnh trong vận của con người, ngũ hành vị tất đã đủ đầy, phải lấy một hành nào đó để đoán bệnh thì chia đủ linh nghiệm. Phải xem ngày và cách cục của nó, nêu mạnh khoẻ, trung hoà hoặc Hoả thuận đều là mệnh không có bệnh, nếu yếu đuối, xô tạp hoặc rũ xuống đều là mệnh có bệnh. Lại xem khí thế của thần, hoặc thái quá, hoặc bất cập, rồi kết hợp xem ngũ hành trong trụ trong mệnh mà tính, tức là không có Mộc mà sinh Mộc, khắc Mộc, xem thần Mộc sinh Mộc khắc mà có thể đoán Mộc có bị bệnh hay không. Còn như can chi phôi với đầu, mắt, tay chân là ý muốn nói tìm biết tín hiệu. Nếu các bệnh đều thuộc về tâm thì theo luận thuyết của danh y, đâu phải ngũ hành? Phải trích mấy trăm loại sách thuốc để đưa vào mệnh vậy.
Để giản tiện dễ nhớ, lấy một phần bài phú cổ trích ra sau đây:
Gân cốt sưng đau, do Mộc bị Kim làm tổn thương, mắt mờ tối hẳn do Hoả bị thuỷ khắc; Thổ hư gặp Mộc vượng, tỳ bị tổn thương; Kim nhược gặp Hoả viêm là bị bệnh huyết lại nói:
Mộc gặp Kim khắc, bị tai nạn ở lưng sườn, Hoả bị Thuỷ làm tổn thương, tất bị tật mắt; tâm yếu thỏ dội thuộc về Kim Hoả tương hình; tỳ vị tổn thương do Thổ Thuỷ khắc nhau, chi Thuỷ can đều có Hoả bốc nên bụng đau tim bị che; chi Hoả can đầu có Thuỷ tích nên nội chướng mắt mờ; viêm trên (Hoả) đốt Thổ ướt nên đầu váng mắt hoa, nhuận dưới (Thuỷ) thuần ướt không Thổ chế, thận hư tai rè; đom đóm nháy (Hoả tinh) thừa vượng lâm li (Hoả phong); trong gió (trung phong) mất tiếng, thái bạch (Kim tinh) cứng sắc hợp Đoài Khôn (Kim Thổ) mất hồn mất vía.
Kết hợp với học thuật của các học giả Đài Loan thời nay, Từ Bình Bát tự đại đột phá cho rằng: phàm mệnh người, cường Kim phạt Mộc, Thổ nặng Mộc gãy, thuỷ nhiều Mộc trỗi. Hoả viêm Mộc bị đốt, Mộc nặng không tiết đều là gan mật có bệnh”, “phàm mệnh người, thuỷ nhiều Hoả tắt, Thổ nhiều Hoả mờ, Kim nhiều Hoả biến, Mộc nhiều Hoả tắc, Hoả nhiều không tiết, đều là bệnh tiểu tràng, bệnh tim”. “Phàm mệnh người, Mộc nặng Thổ lún, thuỷ nhiều Thổ hoang, Kim nhiều Thổ hư, Hoả nhiều Thổ cháy, Thổ vượng không tiết, đều là bệnh ở tỳ vị”, “phàm mệnh người , cường Hoả làm chảy Kim, Mộc rắn Kim bị thương, Thổ nhiều Kim bị vùi, thuỷ nhiều Kim bị chìm, Kim vượng không tiết, đều là đại tràng và phổi có bệnh” “Phàm mệnh người, Thổ nhiều thuỷ tắc, Kim nhiều thuỷ đục, Hoả nhiều thuỷ bốc hơi, Mộc nhiều thuỷ co lại, thuỷ vượng không tiết, đều là bàng quang và thận có bệnh.
Cách xem tật bệnh ở mệnh cục, học giả Đài Loan Lương Tâm Minh trong cuốn Hiện đại mệnh học còn tích cực để mắt tới việc nuôi dưỡng hậu thiên, đã nêu lên cách nói “tiên thiên hậu thiên điều hoà phù nhau bổ sung cho nhau. Trong sách Luận kiên khang cư gia chính quyết ông nói: thần điều hậu là thần dược, rất quan trọng trong mệnh cục. Mệnh chính cách sinh vào hạ lệnh viêm nhiệt, cần có thuỷ điều hậu tư nhuận, nếu không trong cục Hoả nhiệt quá táo sẽ không tốt. về mặt ăn uống, ăn chất mát thì tốt cho thân thể, những thức ăn táo nóng thì nên ăn ít. Mệnh chính cách sinh vào mùa đông lạnh, cần điều hoà cho ôn ấm, để lạnh quá sẽ không tốt, cho nên ăn chất nóng có lợi cho thân thể”.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Vì một năm không thể tính số giờ lẻ dôi ra, phải lấy số chẵn là một năm 365 ngày. Mỗi năm phải dôi ra 5 giờ 48 phút 46 giây. Dồn lại 4 năm số dư đủ một ngày đêm, cho nên qua 3 năm thường phải có một năm nhuận, năm nhuận đó là 366 ngày. Nhưng số dư 4 năm mới chỉ có 23 giờ 15 phút, 4 giây. Còn hụt mất 44 phút 56 giây. Dồn 25 lần nhuận hụt khoảng 3/4 ngày cho nên tròn 100 năm phải bớt đi một lần nhuận, cho nên năm tròn trăm (có 2 số 00 ở sau) không nhuận. Cứ 400 năm bớt đi 3 lần nhuận.Tính bình quân mỗi năm có 365 ngày 5 giờ 49 phút 12 giây, thì sau 3.000 năm có sai 1 ngày. Để tiện cho việc xếp lịch, thì năm dương lịch nào mà 2 số cuối chia hết cho 4 tức là năm nhuận, riêng năm tròn thế kỷ không nhuận. Khi đếm số thế kỷ (nghĩa là 2 số trên số 00 cũng chia hết cho 4 thì năm đó cũng là năm nhuận. Thí dụ năm 1700, 1800, 1900 không nhuận đến năm 2000 có nhuận.
Cách tính âm lịch chia năm vẫn giống nhau với dương lịch, nhưng cách tính tháng có khác. Năm tháng dương lịch không liên quan đến hối, sóc, huyền, vọng, cho nên định hẳn được số ngày từng tháng (Hồi: ngày cuối tháng âm, Sóc: ngày đầu tháng tức mồng 1 âm, Vọng: ngày rằm, Huyền có Thượng Huyền và Hạ Huyền, Huyền (nghĩa là treo): Mặt trăng khuyết phía dưới gọi là Thượng Huyền, khuyết phía trên gọi là Hạ Huyền).
Tháng âm lịch phải lấy ngày nhật nguyệt hợp sóc làm đầu (tức là ngày mặt trời, mặt trăng và trái đất trên trục đường thẳng) hai lần hợp sóc cách nhau 29 ngày rưỡi, cho nên tháng âm lịch đủ là 30 ngày thiếu là 29 ngày. Vì cách tính tháng khác nhau thì tính năm sẽ khác đi. Năm âm lịch bắt đầu vào ngày Sóc kề với tiết Lập xuân. Trong 1 năm không thể tính số lẻ của tháng. Nhưng gộp 12 số lẻ chỉ được 354 ngày coi là 1 năm. Sai với số "Tuế thực" là khoảng 11 ngày, dồn 3 năm thì dôi ra 33 ngày, cho nên qua 3 năm phải nhuận 1 tháng, dồn 2 năm nữa dôi ra 25 ngày phải nhuận một tháng nữa. Tính bình quân 19 năm có 7 tháng nhuận. Trong mỗi tháng bình thường có 1 ngày tiết và 1 ngày khí. Số ngày của mỗi tiết khí bình quân là 30 ngày i 4/10 ngày = 30,4 ngày. Số ngày của tháng âm lịch có 29 ngày rưỡi, cho nên sau 2, 3 năm sẽ có 1 tháng chỉ có ngày tiết không có ngày khí, thì dùng tháng đó làm tháng nhuận.
Riêng nông lịch hay còn gọi là Hạ lịch (lịch ban ra từ thời nhà Hạ) tức là lịch tính theo 24 tiết, lại rất khớp với dưong lịch. Cứ sau tiết Đông chí 10 ngày là mồng 1/1 dương lịch, sở dĩ chênh lệch với dương lịch 1 ngày vì 24 tiết không có nhuận ngày mà dương lịch cứ 4 năm có 1 ngày nhuận.
Nguồn Internet
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
► Tra cứu Lịch âm dương, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Hội Chùa Thánh Chúa
Thời gian: tổ chức vào ngày 25 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: phường Mai Dịch và Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn vinh Phật và Nguyên Phi Ỷ Lan.
Nội dung: Chùa Thánh Chúa hiện là chùa chung của hai phương Dịch Vọng và Mai Dịch. Hội chính thức được mở vào ngày 25 tháng 1 âm lịch. Vào hội được mở suốt tử cổng vào tới tam quan, cờ và Phướng nhà Phật bay rợp đất. Người khắp nơi đến dự rất đông. Trong hội chùa có các hoạt động tụng kinh, niệm Phật, hát chèo đò đưa thuyền về Tây Trúc của các vãi và múa sen tượng trưng cho sự tinh khiết, múa chim phượng tượng trưng cho sự ấm no và hạnh phúc và hát chèo tích Phật, giúp con người luôn hướng thiện.
2. Lễ Cầu Ngư Ở Mân Thái
Thời gian: tổ chức từ ngày 25 tới ngày 26 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: làng Thọ Quang, phường Mân Thái, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Cá Ông.
Nội dung: Trong lễ Cầu Ngư, nghi thức lể chỉ diễn ra 3 năm 1 lần, sau đó tùy theo kinh phí, những năm tiếp theo, nhân dân chỉ tổ chức tiểu lễ hoặc trung lễ, trong đó tiểu lễ cúng đức Ngư Ông thần biển, không có nghi thức múa hát hoặc sướng văn. Trung lễ khác tiểu lễ là có thêm văn tế, có nghi thức cúng như đại lễ nhưng không có hát trả trạo.
Trưa ngày 25 tháng giêng, lễ cầu ngư chính thức bắt đầu: Đua ghe, bơi lội, lắc thúng, kéo co, hát tuồng..
"Kinh thư" có viết: "Phượng hoàng minh hỉ, vu bỉ cao cương. Ngô đồng sinh bỉ, vũ bỉ triều dương" (Chim phượng chim hoàng cùng hót ở trên đồi cao kia. Cây ngô đồng đón ánh mặt trời mọc tốt tươi nơi sườn đồi). Do đó, người xưa đã sáng tác nên bức tranh "Đan phượng triều dương" (chim phượng đỏ hướng về mặt trời), mặt trời và chim phượng cùng vẽ trên một bức tranh để biểu thị con người hướng về phía tương lai tươi đẹp, cùng vươn tới cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Treo tranh hợp phong thủy sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích trong cuộc sống. Tranh phượng
hoàng có thể treo trong phòng ngủ giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
Hợp và kỵ:
• Tranh chim phượng hoàng treo ở vị trí cát lợi trong phòng ngủ của vợ chồng thì có thể làm không gian đẹp hơn, cũng như có thể khiến cuộc sống hôn nhân tràn đầy hạnh phúc.
• Phượng hoàng có đặc tính của loài gà, người cầm tinh con rồng, rắn và trâu rất hợp với gà, do đó hợp nhất là treo tranh chim phượng hoàng; Còn người cầm tinh con mèo, chó và gà không hợp với gà cho nên không nên treo loại tranh này.
• Do chim phượng hoàng có đặc tính giống với gà, do đó không nên treo tranh chim phượng hoàng ở vị trí chính Đông của ngôi nhà, bởi vì đây là vị trí tương xung của gà. Nên treo ở vị trí tương hợp là hướng Đông nam, hướng Đông bắc hoặc treo ở vị trí Dậu là hướng chính Tây.
(Theo Bố trí đồ vật theo phong thủy)
Kim bạc Kim Nhâm Dần là con hổ từng trải qua khó khăn, là người dũng cảm, tướng mạo uy nghi, can đảm mạnh mẽ, học rộng biết nhiều, có chí khí. Phàm những người thành tựu lừng lẫy đại đa số là người sinh năm Nhâm Dần. Kim bạc kim là mạ vàng mâm chén, tăng độ sáng cho cung thất, làm bóng Kim khác. Kim này rất nhỏ, nếu không có Mộc tất không có chỗ nương tựa. Mộc lấy Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc làm thượng cát, có chúng không nên gặp Hỏa, gặp Hỏa cỉm về yểu thọ.
Với tuổi Giáp Tuất, Ất Hợi Sơn đầu Hỏa; Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa có Thủy trợ giúp cũng cát lợi. Duy kỵ Bính Dần, Đinh Mão Lư trung Hỏa, chủ về mệnh yểu vong.
Nhật trụ, thời trụ gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy; Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, mệnh nữ chủ về xinh đẹp, mệnh nam chủ về anh tuấn, hơn nữa sự nghiệp có thành tựu. Nhưng nguyệt trụ có Mộc mớí luận. Các trụ khác gặp Giáp Dần, Ât Mão Đại khê Thủy, chủ về phiêu dạt. Gặp Nhâm Thìn, Quý Hợi Đại hải Thủy mà không có Mộc làm nền tảng chủ hung tai.
Kim gặp Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim; Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim có thể trang sức, trợ giúp tạo ra sự thay đổi.
Các Kim khác có Hỏa bổ cứu cũng cát lợi, không có Hỏa chủ về điềm hung.
Các trụ khác có Mậu Dần, Kỷ Mão Thành dầu Thổ, chủ về ăn nhờ ở đậu; gặp Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ còn có thể an thân.
Nếu như các trụ khác có Mộc, có thể phú quý; lại có Phúc đăng Hỏa càng thêm hiển hách, gọi là Côn sơn phiến ngọc cách.
Nhâm lộc tại Hợi, các Địa chi của trụ khác ưa Hợi.
Nhâm quý tại Mão, các Địa chi của trụ khác ưa Mão.
Các Địa chi của trụ khác có Thân, phạm hình phạm xung, cả đời vất vả, bỏ mạng nơi đất khách.
Các Địa chi của trụ khác có Tỵ, đề phòng trúng gió, bệnh tiểu đưòng.
Mệnh này trời sinh nên học triết học, mệnh lý, thuật sô", giáo viên, nghệ thuật, có tài ăn nói, thông minh, tướng mạo thanh tú.
Tốt nhất không nên làm công việc liên quan đến tài chính như kế toán, nhân viên tài vụ...
Nên sớm xa quê hương, đi nơi khác sẽ càng có cơ hội phát triển, tương lai sẽ có 1 ngày áo gấm vinh quy.
Nguyệt can có Giáp, hoặc các can khác có Giáp, chủ về giàu có.
Nguyệt can có Quý, chức quan nhỏ, tiền ít, mệnh nữ lấy chồng nghèo khó. Nguyệt chi hoặc nhật chi tàng Kiếp tài, luận tương tự.
Gặp năm Dần, năm Thân, trong nhà không yên ổn. Nếu bản thân không bị thương hại thì ngưòi nhà cũng khó tránh điềm hung.
Nhâm Dần bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.
Nhâm Dần Không vong ỏ Thìn, Tỵ, các Địa chi của trụ khác không ưa gặp Thìn, Tỵ.
Người sinh năm Dần, Hợi là Kiếp sát. Nếu như tọa nhật chi, khắc bạn đời. Nếu tọa thời chi, con cháu nghèo khổ, không thể đứng tên để mua bất động sản.
Các Địa chi của trụ khác có Tuất, nếu như tọa nhật chi, khắc bạn đời. Nếu tọa thời chi, nên hiến thân cho tôn giáo.
có quyền thế cao, mới có thể có linh động hổ ứng tương đương.
Từ góc độ phong thủy mà nói, hổ được qúy là con thú hung, chính vì vậy thông thường đều không đặt trong nhà những người binh dân, nếu lấy hổ để bày đặt trong nhà, dễ dẫn đến gia đình xảy ra những việc ngoài ý muốn hoặc cãi cọ không yên. Giống như các nhà kinh doanh cũng tốt nhất không nên treo những bức tranh hoặc đồ vật có liên quan đến hổ, bởi vì đối với khách hàng mà nói, khi đã bắt được hổ có con mắt dữ , hung tợn sẻ khiến cho người ta sợ hãi mà không dám đi vào, ứng với đó là ảnh hưởng không tốt đến việc làm ăn. Nếu trong phòng làm việc có bày đặt tượng hổ, sẽ sinh ra khoảng cách với mọi người, đem lại cảm giác áp lực một cách vô hình với người xung quanh, đồng nghiệp sợ bị hạn dẫm vào chân, cấp trên sợ bị phạm sai lầm, cho nên nếu thật sự muốn bày đặt, không nên đặt ở những nơi dễ đập vào mắt mọi người.
Nếu trong nhà thực sự cần bày đặt hổ, đặt buồng ngủ đối thẳng với cửa chính của phòng lớn là điều cấm kỵ nhất (đặc biệt là phòng ngủ của vợ chổng). Nếu đặt trong phòng ngủ sẽ khiến cho vợ chồng bất cứ lúc nào bất cứ nơi đâu cũng trong cảnh bất an, hơn nữa tình cảm sẽ ngày càng giảm sút. Nếu đối thẳng với cửa phòng lớn, thì sẽ ảnh hưởng đến hàng xóm và khách khứa tới thăm, khiến lòng người bất an.
Mặc dù theo quan điểm ohong thủy, Hổ là con thú hung, có điều hổ cũng lã một hộ vệ đắc lực. Đối với một số người có tài thế lớn và quyền khí mạnh mẽ mà nói, rất thích bày đặt hổ phong thủy. Những người này phần lớn lợi ích là ưu tiên hàng đầu, không quan tâm đến tình nghĩa. Chính vì vậy trừ phi bàn thân khí thế của bạn của mạnh mẽ, nếu không thì khó chiếm được lợi mà chỉ có hại nhiều.
Một khác loại vốn là thể dục vận động thành viên, sao ca nhạc, ảnh tinh, bọn họ mặc dù cũng là tiêu hao thể lực, nhưng thu vào pha phong, có chút danh tinh tuổi thu vào thậm chí có thể thượng triệu nguyên. Nói chung, thể lực lấy tài tố công chi thần xác nhận tỉ kiên, kiếp tài cùng lộc thần, đương nhiên bất đồng đích nghề nghiệp bát tự không có cùng đích tổ hợp, hiệu suất cùng tố công phương thức đều có viện bất đồng.
Càn: Ất ất mậu ất
Sửu dậu dần mão
Cái này bát tự quan tinh không có chế hóa mà khắc thân, liền tri vốn là không có quan mệnh. Quan vô dụng, ngồi sát hữu dụng, vốn là tỏ vẻ chính mình đích công việc. Dần sửu ám hợp tố công, nhưng tố công hiệu suất rất thấp. Dụng kiếp tài sửu thổ hợp quan tinh tỏ vẻ rồi người này đích công việc tính chất vốn là vi thể lực lao động người; sửu vi ẩm thấp không ánh sáng chỗ, thêm vi vàng đá chi khố, loại tượng vi môi chỗ trú, cố hắn là một môi thợ mỏ người. Quý vận mậu hợp tài, quý đến từ sửu, này vận thải môi kiếm tiền. Mùi vận xung sửu, liền không hề hạ chỗ trú rồi.
Càn: Nhâm quý kỷ bính
Tử sửu dậu dần
Này tạo vốn là một khai sơn công nhân. Nhật chủ vô công xem nhật chi, nhật ngồi thực thần, dậu sửu bán hợp, hợp thành thực thần cục, nhưng chúng ta xem thực thần tại cục trung vô công, bát tự hàn ẩm ướt quá mức, viện muốn chính là thời thượng bính hỏa cùng dần mộc địch hàn, mà không phải thực thần. Dần sửu ám hợp, kiếp tài tố công vốn là vi thể lực lao động người, hiệu suất quá nhỏ, kiếm tiền không nhiều lắm, phi thường khổ cực. Chủ vị dần mộc ám hợp sửu thổ có thể coi là khai sơn.
Càn: Nhâm nhâm bính giáp
Tử tử thân ngọ
quý giáp ất bính đinh mậu
sửu dần mão thìn tị ngọ
Này tạo kim thủy thành xu thế, nhưng mộc hỏa tại chủ vị, mà có giáp mộc hóa thủy, không thể đi mộc hỏa mà chỉ có dụng mộc hỏa. Chỉ có thể dựa vào giáp mộc hóa sát vi công, bát tự hiệu suất phi thường thấp. Dụng kiếp tài thiên ấn, vốn là thân thể lực lao động đích. Thực tế vốn là một thợ mộc.
Nhàn chú: Hồng chữ bính giáp ngọ ngay cả thể, nhất định phải dụng, không thể bị phá hư! Giáp vi tử mộc, hóa thiên can chi nhâm thủy sát, tỉ kiếp ngọ xung tử thủy quan tinh, vi tố nhà đều đích, mộc công! Nơi này quan nhiều tài ít, tài thống quan, quan sát chế vô cùng cũng làm tài xem! Ta giác này bát tự hành vận không sai, đoạn đường phía nam vận!
Càn: Ất ất quý quý
Dậu dậu mùi hợi
Này tạo có kim thủy xu thế, ấn tinh vô công, duy nhất tố công chi thần vi hợi thủy, củng hợp mùi thổ khắc ngoài hỏa thổ. Chúng ta ở trên một chương trung nói qua, hợi mùi hợp chế thổ hiệu suất giác thấp, cho nên thuộc về tỉ kiếp tố công mà hiệu suất thấp đích bát tự, vốn là thể lực lao động người. Thực tế vốn là một chiều nào mà làm việc đích nông dân. Nhàn chú: Hợi vi trong nước ngậm mộc, mùi trung có gốc, vi trồng trọt chi tượng. Cũng có thể tố kiến trúc giúp công( Mùi)
Càn: Tân bính tân bính
Mão thân tị thân
Này tạo niên thượng tài tinh sinh chủ vị đích quan, tỏ vẻ có công việc, buôn bán tiền lương mà sống. Quan hợp kiếp tài vi chế kiếp tài, nhưng tương đối vu kiếp tài đến nói, quan tinh không đủ vượng, không có khí thế, chế kiếp chi hiệu suất rất thấp, tố công không lớn. Kiếp tài tham dự tố công, cho nên vốn là thể lực lao động người, thêm có công việc, cố vốn là một công nhân.
Khôn: Nhâm tân đinh ất
Tử hợi sửu tị
canh kỷ mậu đinh bính ất giáp
thú dậu thân mùi ngọ tị thìn
Này tạo cùng thượng tạo có tương tự chỗ, tài nhiều thân nhược, thêm thiên ấn cùng kiếp tài tinh tại chủ vị, không thể không dụng chi. Phú ốc bần người, thân thể lực sống duy sinh, thực tế vốn là một khách sạn người bán hàng. Nhàn chú: Đinh ất tị ngay cả thể nhất định phải dụng! Trung lúc tuổi già vận cũng không tệ lắm!
Thể dục vận động thành viên, sao ca nhạc, ảnh tinh, nghệ nhân, bọn họ mặc dù thuộc về thể lực lấy tài người, nhưng bọn hắn phần lớn có dưới đặc điểm:
1, những người này tỉ kiếp tố công hiệu suất cũng dường như cao.
2, một bực như nhau đều có thương thực tinh cũng phối hợp tố công, nguyên nhân thương thực tinh đại biểu kỹ thuật hoặc nghệ thuật.
3, rất nhiều nghệ nhân có thể nổi danh, còn có bính đinh hỏa tố công, hoặc thất sát hư thấu vu can tố công, này đó cũng tỏ vẻ danh khí.
Khôn: Giáp tân ất quý
Dần mùi hợi mùi
Này tạo tỉ kiếp đông đảo, lưỡng mùi thổ tài tinh củng đến chủ vị, nhưng củng thành lộc cục, lưỡng tài tướng củng, hiệu suất giác cao. Bát tự không gặp thương thực, chỉ có tỉ kiếp tố công, tỉ kiếp chủ cạnh tranh, cho nên vốn là một vận động thành viên, sau khi tố tennis huấn luyện viên.
Càn: Bính ất tân đinh
Thìn mùi mùi dậu
Này tạo tân kim nhật chủ, bính đinh hư thấu, quan sát hư dễ dàng thành danh người. Thìn thổ mộ mùi, mùi vốn là tài chi khố, nói rõ hắn thu vào rất cao. Thìn hợp lộc, lộc vi thân thể, hợp đến niên thượng có thể tỏ vẻ đủ, cho nên hắn là một bóng đá danh tinh, vì nước nhà đội dốc sức.
Càn: Nhâm bính ất mậu
Tử ngọ dậu dần
Này tạo vốn là Pháp quốc nổi tiếng bóng tinh tề đạt nội(zinedinezidane), chúng ta nhìn hắn vốn là như thế nào tố công đích. Mộc hỏa có xu thế, ý tại chế kim thủy, thời thượng kiếp tài khứ trường sinh thương quan, kiếp tài tỏ vẻ vốn là thể năng cạnh tranh, thương quan tỏ vẻ nghệ thuật, cho nên bóng đá vốn là rất cao đích thể năng cạnh tranh nghệ thuật, tại hắn mệnh trung biểu đạt đích hết sức rõ ràng. Nhàn chú: Ta xem mộc hỏa vượng rồi giữ thủy ấn tinh cấp chế rồi là thật, dậu kim có chế ý, nhưng chế bất hảo, làm tài xem! Niên thượng ấn vi thân thể cũng chủ cước, tỉ kiếp chế rồi năm ấn càng biểu cước rồi, cước có công, vốn là đá bóng đá đích rồi!
Khôn: Tân đinh canh nhâm
Dậu dậu tử ngọ
Này tạo vốn là một vị nữ tử võ thuật cả nước quán quân, chúng ta xem nàng có kim thủy đích xu thế, chế ngọ hỏa quan tinh, dương nhận thương quan tố công. Dương nhận chủ đao thương, thương quan chủ kỹ năng, quan chủ vinh dự, cục trung lưỡng dương nhận, cố võ thuật thiện khiến song kiếm,2000 năm tại võ thuật trận đấu trung đoạt quan, nhất cử thành danh. Nhàn chú: Kim thủy thành xu thế khứ quan, nguyệt lệnh quan tinh hư thấu, chủ danh khí, quốc nội danh khí. Dương nhận vi đao thương, sinh tử thủy chế ngọ!
Càn: Ất đinh bính mậu
Hợi hợi thìn tuất
Này tạo quan sát đông đảo, nhập vu chủ vị thìn mộ, vốn có thể làm quan; đã thấy bát tự nhật chủ hỏa cùng táo thổ thành đảng, thìn tuất xung, cùng sát khố không cùng, nói rõ chính mình không thể làm quan. Chế quan sát bất lực, quan sát làm tài phú xem, dụng thực thần cùng kiếp tài tố công. Thực thần người dựa vào khẩu tài cùng đầu óc, kiếp tài thêm tỏ vẻ thể lực, hợp cùng một chỗ, quyết định ngoài nghề nghiệp. Hắn là [một người/cái] nổi tiếng bình thư diễn viên, sở dĩ nổi danh, nguyên nhân bính đinh hỏa thấu can chi cố.
Khôn: Canh kỷ tân quý
Tử mão dậu tị
Này tạo nhật chủ ngồi lộc, kim thủy lược có khí thế, chế mộc hỏa có công, hiệu suất rất cao. Lộc thần cùng thực thần tố công, xác nhận một nghệ nhân. Thực tế vốn là một diễn viên, diễn qua rất nhiều ảnh thị kịch, thâm chịu người xem yêu thích.
Khôn: Bính quý tân quý
Dần tị dậu tị
nhâm tân canh kỷ mậu
thìn mão dần sửu tử
Nước Mỹ nổi tiếng diễn viên, tình cảm danh tinh mã lệ liên• mộng lộ, chúng ta xem cùng tiền tạo có tương tự chỗ: Tân kim nhật chủ ngồi chi lộc thần, thiên can thấu thực thần quý thủy chế quan, tố công chi thần cũng là lộc cùng thực thần, chỉ là nguyên nhân bát tự mộc hỏa xu thế đại cùng kim thủy xu thế, thế cho nên kim bị hỏa khắc, hành canh dần vận, kim lâm tuyệt mà hỏa chịu sinh trợ giúp, chết vào bỏ mạng. Nhàn chú: Ngay cả thể đồ vật không thể bị chế
Khôn: Bính bính giáp bính
Ngọ thân thìn dần
Này tạo mộc hỏa có xu thế, lộc cùng thực thần tố công, thực thần chế sát, còn có nhất định chức vụ. Bính hỏa tố công, danh khí rất lớn. Vốn là một nổi tiếng ca thủ, mà tại trong quân có giác cao đích quân hàm. Vì sao vốn là ca thủ, nguyên nhân kim chủ thanh âm, hỏa khắc kim, thanh âm hảo.
Càn: Giáp giáp đinh nhâm
Ngọ tuất dậu dần
Nổi tiếng kinh kịch biểu diễn nghệ thuật gia Mai lan phương tạo. Mộc hỏa có xu thế, đinh hỏa vì danh khí, cho nên vốn là danh nhân. Lộc thần hội vượng chế kim, công rất lớn. Hỏa khắc kim, táo tử hảo, lại nhìn nhật thời tướng hợp, nhâm thủy vi màu, tại môn hộ thượng, môn hộ chủ mặt, đinh nhâm hợp, trên mặt đồ màu, cho nên vốn là xướng làm trò đích.
Càn: Đinh tân tân tân
Hợi hợi sửu mão
Này tạo vi nhật vốn nổi tiếng sao ca nhạc sâm tiến một. Tỉ kiên đông đảo, sinh trợ giúp thương quan, đinh hợi tự hợp, thương quan hợp sát tố công. Sát tinh hư thấu chủ danh khí, thương quan chủ nghệ thuật, cho nên vốn là một danh nhân. Hành đinh mùi, bính ngọ vận, quan sát đến vị, hỏa thêm khắc kim, cho nên lấy diễn xướng nổi danh.
Chúng ta đích xã hội trung, công lương lấy tài đích người chiếm đại đa số, bọn họ có cố định đích công việc, thu vào ổn định, thu vào biến hóa nhỏ lại, cho nên dự trắc bọn họ đích tài vận, chỉ cần phân tích tài vận đích xu thế có thể rồi. Còn có chính là phân tích có thể hay không thất nghiệp, có không có tiền lương ngoại thu vào. Công lương lấy tài đích mệnh cục tố công loại hình đa số lấy thực thương tinh, ấn tinh, quan sát tinh, tài tinh tố công, nhưng ngoài hiệu suất phổ biến không tính cao. Nơi này thực thương tinh tỏ vẻ kỹ năng, ấn tinh tỏ vẻ đơn vị, quan sát tinh tỏ vẻ bị quản lý, tài tinh tỏ vẻ thu vào.
Khôn: Bính quý đinh mậu
Ngọ tị hợi thân
nhâm tân canh kỷ mậu đinh
thìn mão dần sửu tử hợi
Này tạo không một phương xu thế, kim thủy cùng hỏa thế tương đương. Lại nhìn có không có khác đích công: Nguyệt lệnh quý thủy sát tinh hư thấu, bị mậu thổ thương quan hợp chế, nơi này thương quan vi kỹ năng, sát tinh vi công việc hoặc chức vụ, tỏ vẻ nàng có kỹ thuật mà có công việc, vốn là một công lươngtộc. Mậu thổ lộc tại tị, tị vi kiếp tài tinh, tỏ vẻ nàng tại tố một loại có kỹ thuật đích thể lực lao động, thực tế người này vốn là y tá trường. Thân kim tài tinh vi tiền lương. Dần vận dần tị thân tam hình phá hư thân, nguyên đơn vị tiền lương rất thấp, từ chức. Kỷ sửu vận đổi lại [một người/cái] tân đơn vị, thu vào trung bình.
Nhàn chú: Kim thủy cùng hỏa thế tương đương, tị thân quý tị tự hợp, ngọ hợi ám hợp; mậu vi thương quan vi kỹ thuật, tại môn hộ vi vi cánh cửa mặt cầu tài! Mậu thân mang tượng, đều là tài. Tị= mậu cũng vi kiếp, tố nửa kỹ thuật nửa thể lực đích sống, vốn là y tá trường, hợp sát có điểm quyền! Tẩu dần vận, dần mặc tị, mà dần tị thân hình( Tam toàn bộ tài luận hình), hình phá hủy tị hỏa, mà quý tị tự hợp rồi, đổi lại tượng, quý vi công việc, đâu công tác! Dần vi ấn vi đơn vị, đơn vị phá sản rồi! Kỷ sửu vận chi kỷ vận, đã tới đinh đến đổi lại công việc đơn vị rồi! Nguyên cục thân hợi hại, hôn khẳng định bất hảo! Nhị hôn chi mệnh! Hợi vi đệ nhất phu, dần vận dần hợi hợp, ấn hợp rồi, làm kết hôn chứng, làm không được ly hôn chứng! Giáp thân năm bắt đầu cách,( Lão công hữu tình người, tị xung hợi) tị thân hợp dẫn động rồi tị hỏa, thân mặc hợi, tỉ kiếp xung phu cung! Bính thú năm làm ly hôn chứng( Lưu niên không có tài sinh hợi) đóng tài cánh cửa! Giáp thân năm nháo, bính thú năm cách, bởi vì thân dậu có tài sinh quan cách không được!
Càn: Nhâm đinh quý ất
Tử mùi hợi mão
mậu kỷ canh tân nhâm quý
thân dậu thú hợi tử sửu
Này tạo hợi mão mùi hợp thành thực thần cục, thủy mộc thành xu thế, chế cục trung mùi thổ vi công, nhưng loại này chế pháp hiệu suất giác thấp, chế quan chích tỏ vẻ có công việc, không nhắc tới kì làm quan. Thực thần tinh vi ngoài tiền lương thu vào, mà đinh hỏa tài tinh có thể tỏ vẻ tiền lương ngoại thu vào. Nhâm ngọ năm, đinh nhâm hợp, này năm được tiền lương ngoại thu vào hai vạn nguyên.
Khôn: Mậu quý quý nhâm
Thân hợi mùi tý
nhâm tân canh kỷ mậu đinh
tuất dậu thân mùi ngọ tị
Này tạo có kim thủy xu thế chế sát tinh mùi thổ, hợi mùi củng thực thần, vốn là thực thần cùng sát tinh tố công, nhưng tố công chi hiệu suất không cao, cho nên vốn là một công lươngtộc. Thân vận hại hợi, bất lợi hợi mùi chi củng, cho nên công việc không thuận trái tim, thu vào cũng không cao. Đến kỷ mùi vận, hợi mùi củng đến vị, có tiểu chức, thu vào chuyển biến tốt đẹp.
Khôn: Bính tân bính canh
Ngọ mão tuất tử
Đây là sơ cấp lớp học nói đích tử phụ lệ, này tạo ngồi chi thực thần( Kỹ năng) hợp ấn( Đơn vị), biểu có đơn vị, ấn tinh thượng thấu tài tinh, bính tân hợp, biểu tiền lương( Nguyên nhân vốn là in lại chi tài).( Chú: Quan thống tài rồi) thực thần vi kỹ năng hoặc ý nghĩ, ấn vi đơn vị, tài đó là tiền lương, cho nên vốn là [một người/cái] công lươngtộc. Bản thân đích thu vào lấy tân kim xem, thu vào bình thường. Bát tự có hỏa thổ xu thế, chế thời thượng tử thủy có công, hành đinh hợi vận, đinh hợi tự hợp, hợi làm tài xem, đinh đến từ ngọ, tuất vốn là chính mình ngồi xuống, lão công phát tài, trăm vạn phú ông. Hợi thủy xuất hiện bị chế hóa, này hợi thủy sát tinh làm tài xem, này vận giàu to rồi đại tài. Đinh vốn là tòng phu cung đi ra đích, cho nên vốn là phu giàu to rồi đại tài. Đinh hợi vận chế rồi cố phát tài, này vận chủ yếu là tượng hảo, ngọ hợi ám hợp, hợi sinh mão. Nguyên cục canh tử mang tượng, tử làm tài xem, tài rất lớn, thủy cũng làm tài nhìn, cho nên hợi cũng là tài, mậu tử vận, tử ngọ xung, quan xung lộc không được tài, phải nghĩ biện pháp hợp trụ, như thế tài xung lộc, thì có thể được tài, nguyên nhân tài là tới lui tới mê hoặc, ra vào đích.
Khôn: Canh kỷ ất canh
Thân mão dậu thìn
Này tạo chủ vị chiếm tài quan, ất canh hợp, hợp quan mang tài, quan vi công việc, tài vi tiền lương, cố vốn là một công lươngtộc. Hoặc hỏi, bát tự có thổ kim xu thế chế mão mộc, vì sao không phải đại phú quý chi mệnh? Nguyên nhân mão mộc lộc thần ở chỗ này vốn là phụ nữ đích thân thể, dụng này tố công đương nhiên không thể đại phú, nhưng này tạo tiền lương ngoại còn có khác thu vào, giáp thân năm, mão thân hợp đến vị, [một người/cái] nam đích thích nàng, cho hắn hai mươi vạn nguyên mua phòng.
( Hôn nhân bất hảo, mão lộc thêm xung thêm hợp. Nhật chủ hợp quan, bị quản lý, có đang lúc nghề nghiệp, quan hạ ngồi tài, tránh tiền lương. Mão lộc ngồi tài, có phạm nam nhân lấy tài chi nghĩa, giáp thân năm một nam tử thích nàng, cấp nàng20 vạn nguyên mua một bộ phòng ở, cái này nam tử cùng nàng hảo sau lúc, đáng nam tử đích lão bà sẽ chết rồi, mão thân hợp, thân làm nam nhân, mão làm nam nhân đích lão bà, nguyên nhân mão dậu vọt, cố nam tử đích thê tử đã chết. Nàng bản thân vốn là trường học đồ thư quản lý thành viên.) nhàn chú: Lộc không ngay cả không sợ chế! Lộc hợp tài quan thực thương đều là đào hoa! Giáp thân năm cùng nguyệt kỷ mão thiên địa hợp, mão vi chính mình thân thể cũng vi đào hoa tiền thê, vốn là năm đem nọ vậy lão bà cũng khắc đã chết, thân thể cũng cấp chơi! Hợp thời thượng quan ngồi ấn khố vi trường học thư viện!
Khôn: Mậu nhâm mậu nhâm
Thân tuất ngọ tuất
Này tạo có hỏa cùng táo thổ xu thế, chế cục trung thân kim thực thần, đáng tiếc chỉ là khắc chế mà thôi, khắc chế hiệu suất không cao. Thực thần chủ kỹ năng, ấn chủ đơn vị, ý tứ vốn là chính mình đích kỹ năng chăn đơn vị viện trọng dụng, cho nên vốn là một công lươngtộc. Bây giờ hành mậu ngọ vận, công việc thu vào ổn định. Thiên can hư thấu tài tinh vô công, không có tiền lương ngoại thu vào.
( Thực chủ kỹ năng, ấn chủ đơn vị, hiệu suất rất thấp, chỉ có thể có đơn vị tránh tiền lương, mậu ngọ vận thu vào một bực như nhau, tuy có xu thế nhưng công quá nhỏ, lưỡng nhâm hư thấu vô dụng, chích biểu có thể nói hội nói.) ngồi phòng làm việc, xí nghiệp làm việc!
Khôn: Đinh nhâm canh nhâm
Mùi dần tử ngọ
quý giáp ất bính đinh mậu kỷ
mão thìn tị ngọ mùi thân dậu
Mới nhìn này tạo, vốn là hỏa không có xu thế chế cục trung thương thực, quan khứ thực thương. Vốn loại này chế đích năng lượng cùng hiệu suất cũng dường như cao, nhưng chúng ta phát hiện cái này tử thủy không phải bị hỏa thổ chế khứ đích, mà là bị dần mộc tiết rồi( Nhâm dần trụ tài mang thực thần tượng, cũng là tỏ vẻ thực thần sinh tài đích ý tứ), thành sinh dụng tố công, cho nên hiệu suất sẽ không tính cao rồi. Thực thương sinh tài, tài tinh nhập ấn mộ tại tân vị, vốn là thay người khác tố trí lực phục vụ đích, cho nên cũng là một công lươngtộc, chỉ là thu vào giác cao. Hành tị vận, hại ngã dần mộc, thu vào không cao, nguyên lai công việc đích đơn vị phá sản; hành bính ngọ vận, bị sính đến tư doanh xí nghiệp, thu vào rất cao.
( Kim thủy thương quan hỉ gặp quan. Quan chế rồi thương, hảo. Quan chủ đơn vị, thương chủ kỹ năng, đơn vị nhìn trúng ngươi đích kỹ năng, nhưng này tạo đích hiệu suất dường như cao, thu vào là tốt rồi. Ất tị vận, hại dần tài, đơn vị phá sản rồi, hại phản rồi. Bính ngọ vận bị sính đến tư xí tố đăng ký hội kế sư, tiền lương rất cao,4,5 ngàn nguyên. Thực sinh tài, tài nhập mộ, tố trướng đích.)
Càn: Nhâm canh nhâm đinh
Dần tuất ngọ mùi
tân nhâm quý giáp ất
hợi tử sửu dần mão
Này tạo hỏa thổ có xu thế, nhưng lại chỉ có xu thế mà không có công lớn, cho nên vốn là [một người/cái] bình thường bát tự. Cục trung mùi tuất hình, chế tuất trung tân kim ấn tinh có tiểu công. Tài tinh chế ấn, khắc ở nguyệt lệnh tỏ vẻ công việc đơn vị, canh ấn thấu can không có chế, nói rõ hắn đích công việc đơn vị không được tốt lắm. Hành quý sửu vận chi sửu vận, sửu mùi tuất tam hình phá hủy mùi tuất hình, ấn tinh không cách nào chế không thể làm công, cho nên đơn vị phá sản, chính mình hạ tốp. Đến giáp dần đại vận, hội khởi hỏa cục, chế ấn thành công, thêm bên ngoài vừa tìm được công việc, công lươngđộ nhật.
Khôn: Ất giáp đinh tân
Mão thân hợi hợi
đại vận: Ất bính đinh mậu kỷ
dậu tuất hợi tử sửu
Này tạo không có xu thế, ngồi chi quan tinh sinh ấn, ấn sinh thân, quan ấn có công, tỏ vẻ bản thân có công việc, quan đầu mang tài, vốn là công lươngtộc. Niên thượng chi ấn hợp quan, vốn là lúc ban đầu tại quốc có xí nghiệp công việc; nguyệt thượng chi ấn ngồi thân mặc quan tinh, tỏ vẻ cái này quốc có xí nghiệp đích công việc không thể lâu dài, nên đổi lại khác công việc, nhưng giáp ấn hư, thân thêm mặc chủ vị, nói rõ viện đổi lại đích công việc không yên định, không thể lâu dài. Trung niên vận hạn lại thấy quan tinh hợi thủy, nói rõ còn có thể tại [một người/cái] thu vào ổn định đích quốc có xí nghiệp công việc. Thực tế bính vận giáp tuất năm đến một nhà quốc có xí nghiệp, tuất vận, nguyên nhân tuất thổ hợp bán ấn, khắc phá hư quan tinh, quốc có xí nghiệp tiền lương quá ít, cho nên cách chức bên ngoài làm công, hàng năm đổi lại một lần công việc. Đến đinh hợi vận công việc ổn định, thu vào biến cao.
Khôn: Ất kỷ đinh canh
Mão sửu sửu tuất
Canh tân nhâm quý giáp ất
Dần mão thìn tị ngọ mùi
Này tạo niên can chi ấn tinh, tỏ vẻ công việc đơn vị, ất canh hợp, canh tài tỏ vẻ tiền lương. Canh kim hư thấu, tỏ vẻ đơn vị tiền lương không cao; ngồi chi thực thần sửu thổ vượng tướng, lâm phu cung mà vốn là tài khố, sửu lại bị hình khai, nói rõ trượng phu thu vào giác nhiều. Hành thìn vận hại ngã ấn tinh, nguyên nhân đơn vị tiền lương không cao mà từ chức, do lão công nuôi sống. Nàng bản thân xem ất mão, ấn chủ đơn vị, ấn xa, tài hư, hiệu suất thấp, kết hôn sau khi mão thìn một hại, không làm rồi, nguyên nhân tiền lương rất thấp mà từ chức.
Theo văn hóa truyền thống, phong thủy tốt mang lại may mắn, trong khi phong thủy xấu mang lại tai ương. Bạn có muốn biết làm thế nào mang lại may mắn cho chính mình theo con giáp đại diện. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn hé lộ phần nào.
Tuổi Chuột - thêm thủy ở hướng Bắc
Yếu tố nước giúp những người sinh ra trong năm Chuột phát tài. Họ nên đặt một bể cá vàng ở phía Bắc của văn phòng, và sau đó may mắn sẽ tìm đến họ.
Tuổi Trâu - thêm hỏa
Theo ngũ hành, người tuổi Trâu có thể tìm cách gia tăng tài sản với sự trợ giúp của yếu tố lửa mạnh mẽ. Vì vậy, họ nên đặt một số bình gốm trong văn phòng hoặc phòng ngủ của mình để mang lại may mắn, vì đồ gốm được nung nóng bởi lửa.
Tuổi Hổ - thêm thổ
Nguyên tố đất (thổ) bổ trợ cho người tuổi Hổ. Trong nhà gia chủ tuổi hổ cần có những vật phẩm đại diện cho đất, ví dụ như chậu cây, để cuộc sống viên mãn hơn. Chậu cây càng tươi tốt thì gia chủ càng thu nhập dồi dào.
Tuổi Mèo - thêm thổ ở hướng Đông Bắc
Khác một chút với người tuổi Hổ, người sinh năm mèo chỉ khi bày bảo bối phong thủy tại hướng Đông Bắc mới mang lại may mắn về tiền tài. Họ nên bày một miếng ngọc bích tại góc này của phòng ngủ. Theo các chuyên gia, ngọc bích bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, là tinh hoa của trời đất, do đó sẽ mang lại may mắn cho người tuổi mèo.
Tuổi Rồng - thêm thủy ở Tây Bắc
Hướng Tây Bắc lý tưởng cho những người sinh ra trong năm con Rồng. Họ nên đặt một chậu nước ở góc này trong phòng ngủ. Nếu thích trang trí thêm thì có thể thêm một vài bông sen giả cho sáng góc nhà.
Tuổi Rắn - thêm kim ở hướng Tây
Trong ngũ hành, người tuổi Rắn hợp nguyên tố Kim và hướng Tây. Đeo trang sức kim loại, đặc biệt là vàng hoặc bạc, sẽ mang lại may mắn. Người ta tin rằng đeo đồ trang sức vàng và bạc sẽ đảm bảo những người tuổi Rắn sẽ không cần phải lo lắng về thực phẩm và quần áo, thậm chí họ có khả năng sở hữu khối tài sản khổng lồ.
Tuổi Ngựa -thêm kim ở hướng Tây Bắc
Người tuổi Ngựa nên đặt một con cóc bằng đồng (hay một đồ vật tượng trưng cho nguyên tố kim loại) ở phía Tây Bắc của phòng ngủ. Nó sẽ mang lại cho họ may mắn cả trong sự nghiệp và tài sản.
Tuổi Dê - thêm mộc ở hướng Bắc
Người tuổi Dê nên quan tâm đến hướng Bắc nếu muốn mở rộng sự nghiệp, tiền bạc. Đặt một hộp gỗ gụ tại góc phía Bắc của văn phòng của họ, và sau đó đặt một vật phẩm liên quan đến công việc của họ trong hộp. Ví dụ, một đầu bếp có thể đặt một con dao trong hộp.
Tuổi Khỉ - thêm mộc ở hướng Tây
Những người sinh ra vào năm khỉ hợp hướng Tây. Họ nên đặt một chậu cây (tốt hơn nếu cây cao hơn người) ở phía Tây ngôi nhà.
Tuổi Gà - thêm mộc
Nếu muốn hút nhiều tài lộc, gia chủ tuổi gà nên trồng cỏ trong chậu gốm (tuyệt đối không phải chậu bằng kim loại). Cỏ sẽ sinh sôi nảy nở vô vạn trong chậu, tương ứng với vận may tiền tài của người tuổi gà.
Tuổi Chó - thêm mộc
Những người sinh ra trong năm Tuất nên tránh các yếu tố nước và đất trong cuộc sống. Họ nên đặt một số nhánh cây khô trong văn phòng, tuy nhiên không nên cắm chúng vào nước hoặc đất.
Tuổi Lợn - thêm Hỏa
Những người sinh ra trong một năm Lợn cần thêm nguyên tố hỏa trong cuộc sống để mang lại may mắn. Họ nên bày một loạt các bình gốm sứ trong phòng khách của mình.
– Nhiều người tin rằng, trong tháng cô hồn, các cô gái phải cho đàn ông sờ ngực để không bị linh hồn bắt đi làm vật tế hay kị nhặt tiền rơi vì sợ đó là bẫy của âm hồn... thực hư chuyện này thế nào, hãy cũng ## tìm hiểu.
► Bạn đã biết: Những điều kiêng kị trong tháng cô hồn? |
![]() |
![]() |
![]() |
Vào những năm 60 của thế kỷ trước, chùa Kim Liên bị đốt trơ trụi |
![]() |
Nhà mẫu thuộc chùa Kim Liên khánh thành từ tháng 2 (âm lịch). |
![]() |
Đây là một ngôi chùa rất linh thiêng |
![]() |
Cụ Khuê (84 tuổi, người thôn Kim Ngưu) kể về những lần gặp ông mãng xà. |
Nhà cấp 4 hiện nay không còn được xây dựng nhiều, chủ yếu chỉ còn tồn tại ở một số vùng quê hoặc đồi núi để thuận theo địa hình hoặc dễ trồng trọt, chăn nuôi. Xây nhà cấp 4 tưởng chừng khá đơn giản và không yêu cầu nhiều về kĩ thuật hiện đại, nhưng lại khá khắt khe về phong thủy.
Sau đây là 18 cấm kỵ phong thủy khi xây dựng nhà cấp 4 không được phạm phải.
1. Nhà ở cấp 4 không được xây dựng trên lưng núi hay cửa ra vào của khe núi. Nếu không không những không thể có được điều kiện thuận lợi về mặt địa lí mà gia chủ còn dễ bị mắc bệnh tật và không tốt cho người trong nhà.
2. Nhà ở cấp 4 không được xây ở tận cùng ngõ cụt vì xây dựng ở những nơi như vậy sẽ dễ mang đến thiên tai và các hiểm họa tổn tài hay tàn tật cho gia chủ.
Nhà cấp 4 không được xây ở tận cùng ngõ cụt vì xây dựng ở những nơi như vậy sẽ dễ mang đến thiên tai và các hiểm họa tổn tài hay tàn tật cho gia chủ.
3. Không được trồng cây đại thụ đối diện với cửa chính của căn nhà, bởi vì trồng cây to lớn trước cửa nhà không những cản trở dương khí vào trong mà còn rước thêm âm khí vào nhà. Nói thực tế một chút thì trồng cây như thế cũng khiến cho mọi người ra vào bất tiện hơn, rồi những lúc mưa to gió lớn cũng sẽ dễ hút sấm sét mang lại nguy hiểm cho mọi người hơn. Hay mùa thu lá rụng dễ bay vào các phòng khiến cho căn phòng không còn được sạch sẽ nữa.
4. Trước cửa tuyệt đối không được trồng cây khô. Cho dù không phải là cây đại thụ và cũng không cần biết là đứng thẳng hay bị đổ xuống đất thì trong phong thủy cũng sẽ dễ ảnh hưởng đến người già và dẫn dụ sự nghèo khó đến cho gia đình. Vì vậy tốt nhất nên chặt bỏ hết những cây như thế.
Trước cửa tuyệt đối không nên để cây chết khô vì sẽ khiến gia đình nghèo khó.
5. Hướng tây bắc của nhà ở có cây cổ thụ to lớn là điều rất may mắn. Có cây lớn ở hướng này sẽ giúp bảo vệ và mang lại hạnh phúc cho những người trong nhà. Nếu gia chủ không biết điều này và chặt cây đi thì có thể sẽ bị họa tuyệt tự tuyệt tôn. Vậy nên mong rằng các bạn sẽ chú ý hơn đến điều này.
6. Tốt nhất nhà cấp 4 không nên thiết kế quá cao so với những nhà xung quanh, nếu không sẽ bị hao tài tốn của. Nói thực tế thì nhà ở như thế này cũng sẽ gặp nhiều nguy hiểm, ví dụ như sẽ là thành phần đứng mũi chịu sào, dễ gặp phải hỏa hoạn, tai nạn bão gió hay bị không kích và cũng không thể che được ánh nắng mặt trời. Dương thịnh âm suy, âm dương không hòa hợp cũng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người trong gia đình.
7. Trừ con trưởng ra thì nhà ở của con cái không được xây dựng ở sân trong nhà ở của bố mẹ. Nếu như con cái xây dựng nhà ở trong sân nhà bố mẹ thì cả hai nhà sẽ cùng bị suy yếu.
8. Khi trong nhà có người mang bầu thì tuyệt đối không được xây dựng hay sửa sang nhà cửa, cho dù là chỉ sửa sang một tí chút cũng không nên, cho dù thay gạch men cũng không được, đây là điều đại kị vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sinh non của phụ nữ mang thai.
9. Nền móng của ngôi nhà thấp đằng trước, cao hơn ở phía sau sẽ mang lại may mắn cho gia đình, ngược lại đằng trước cao, phía sau thấp là điều không tốt lành.
10. Móng nhà hướng Tây Bắc bị thiếu hụt, tuy rằng không làm tổn hại đến vận khí của gia đình nhưng sẽ có khả năng thiếu thốn về đường con cái, và ảnh hưởng đến sức khỏa của bố mẹ, dễ mắc bệnh về đường hô hấp.
11. Móng nhà hướng Tây Nam bị sứt mẻ hay thiếu hụt cũng sẽ ảnh hưởng đến đường tiêu hóa của bố mẹ, nhưng ngược lại sẽ có lợi cho quan chức, lương bổng, địa vị của người nhà trong xã hội.
12. Móng nhà hướng Đông Nam bị sứt mẻ sẽ không có lợi cho việc sinh con đẻ cái, nhưng không ảnh hưởng đến vận khí của gia đình.
13. Móng nhà hướng Đông bắc bị thiếu hụt tuy rằng không gây hại lớn cho gia đình nhưng cũng có thể sẽ ảnh hưởng đến đường tiêu hóa của mọi người. Vị trí này không nên xây cửa lớn, nếu như có ý định xây thì cũng nên mời thầy phong thủy đến để xem xét giúp đỡ.
14. Nhà hoặc căn nhà hẹp bên trái, rộng bên phải hay hẹp phải rộng trái đều không tốt lành, con trai sinh ra nếu không bị đơn độc thì cũng sẽ nghèo hèn.
15. Móng nhà hoặc căn nhà có hình dạng rộng trước, hẹp sau hình cái thang ngược thì gia chủ sinh sống ở đây sẽ khó giữ được của cải, nhân khẩu khan hiếm.
16. Móng nhà hoặc căn nhà có hình dạng hẹp trước rộng sau hình cái thang thì gia chủ sinh sống ở đây không chỉ có phúc mà còn cao sang và còn được thanh thế lẫy lừng trong xã hội.
17. Móng nhà hoặc căn nhà có hình tam giác, nếu nhọn trước rộng sau thì được gọi là Điền Bút, người nhà sẽ hao tài tốn của, đặc biệt là có thể dễ dẫn đến việc đàn bà mang đến tai họa cho gia đình hoặc bản thân người phụ nữ không được may mắn. Còn nhọn sau rộng trước gọi là sao hỏa vẫy đuôi. Nhà ở như vậy rất không tốt, khi ở người nhà sẽ có người tự sát hoặc bị bệnh nan y hay chết do tai nạn.
18. Móng nhà hoặc căn nhà có hình dạng bên trái dài, bên phải ngắn thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến vợ và các con của gia chủ.
Kim Ngưu thích hợp làm giáo viên, kế toán, hay đầu bếp. Song Ngư thích hợp làm nghệ sĩ, bác sĩ… Những chòm sao khác thì sao? bạn đang tò mò điều đó. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao ngay trong bài viết dưới đây.
Nội dung
Bạch Dương là cung dẫn đầu nhóm Lửa với tính cách tự tin, năng động. Họ là người luôn vươn lên để giành lấy chiến thắng trong mọi hoàn cảnh, không thích bị người khác kiểm soát, kiềm hãm. Chính vì những tính cách này, Bạch Dương thường làm lãnh đạo- một người sếp tự tin là đây.
Công việc phù hợp: doanh nhân, nha sĩ, bác sĩ, vận động viên, lính cứu hỏa và các công việc liên quan đến máy móc, cơ khí.
Kim Ngưu là người thực tế và có khả năng làm việc nhóm tốt, họ là những người có ý chí mạnh mẽ, dẫn dắt, tạo cảm hứng cho người khác. Hơn nữa, Kim Ngưu còn là những người hiểu biết sâu rộng, có thể giỏi ở mọi lĩnh vực, từ nghệ thuật cho đến kinh doanh. Dù luôn là người vui vẻ, dễ chịu, họ vẫn khá cứng đầu, khó thuyết phục.
Công việc phù hợp: kế toán, nhân viên ngân hàng, nghệ sĩ, nhạc sĩ và thậm chí là cả người làm vườn.
Song Tử là người hoạt ngôn và có nhiều ý tưởng trong công việc. Họ không những nhanh chóng có được mối quan hệ mà còn giữ mối quan hệ rất tốt. Hơn hết, Song Tử lại là người thích được chia sẻ với người khác, biết tạo niềm vui cho công việc của mình.
Công việc phù hợp: nhà thám hiểm, quan hệ công chúng, nhà văn, thương gia hay dịch giả.
Cự Giải được xem là một tay làm việc cừ khôi, mọi vấn đề sẽ nhanh chóng được họ giải quyết nhanh gọn. Cự Giải nắm bắt thị trường kinh doanh khá tốt, họ luôn biết cách để sắp xếp ổn thỏa cho đối tác đôi bên. Tuy vậy, Cự Giải cũng là một tay hài hước, nhạy cảm và biết quan tâm chia sẻ.
Công việc phù hợp: Bác sĩ, dược sĩ, giáo viên, nhà nghiên cứu dinh dưỡng, đầu bếp hoặc nhà môi giới là những công việc thích hợp với họ.
Sư Tử được xem là trung tâm của vũ trụ (hay ít ra là Sư Tử nghĩ vậy), Sư Tử luôn đề cao giá trị bản thân và luôn phấn đấu làm việc để công việc luôn hiệu quả, xứng đáng với “thương hiệu” của họ. Sư Tử có thể là người chấp nhận mạo hiểm để có thể hoàn thành công việc tốt nhất. Vì vậy có thể nói, không có công việc nào mà Sư Tử không giải quyết được. Hơn nữa, họ luôn tích cực và lạc quan, vui vẻ với mọi người.
Công việc phù hợp: nhà quản lý, giáo viên, kiến trúc sư, nhà phát minh, vận động viên và các lãnh đạo.
Xử Nữ là người kỹ tính, ngăn nắp, có trách nhiệm với những nhiệm vụ mình được giao. Họ độc lập và luôn thích hành động riêng lẻ. Như người bạn Kim Ngưu cùng nhóm, Xử Nữ là người thực tế và sống có mục tiêu chi tiết, rõ ràng. Họ biết cách giải quyết vấn đề, sáng suốt và tinh tường để luôn thành công.
Công việc phù hợp: chuyên gia dinh dưỡng, bác sĩ, nhà hóa học, nhà quản lý, doanh nhân, điều tra viên hoặc là cả nhà nghiên cứu sinh dưỡng.
Thiên Bình là một con người công bằng, họ luôn biết cách hoàn thành nhiệm vụ thật đúng đắn. Họ thích sự bình đẳng trong một tập thể, vì thế khi làm lãnh đạo, Thiên Bình sẽ luôn cư xử chan hòa với mọi người để thành phẩm có thể xứng đáng nhất.
Thiên Bình hòa đồng và giàu ý tưởng, họ giỏi giao tiếp và thân thiện với mọi người. Vì thế, mọi người đều cảm thấy thoải mái khi Thiên Bình ở cạnh.
Công việc phù hợp: nhà ngoại giao, nhà quan hệ công chúng, thẩm phán, chuyên gia tư vấn, nhà tâm lý học và nghệ sĩ.
Thiên Yết rất sẵn lòng giúp cho những người cần sự giúp đỡ, họ luôn mang đến nguồn hy vọng cho mọi người. Họ có trách nhiệm và luôn tập trung ý chí, năng lực để hoàn thành công việc được giao. Hơn nữa, họ lại có sức chịu đựng và quyết tâm lớn. Thiên Yết cũng là người khéo léo, nghĩ nhiều, nói khi cần thiết. Tuy nhiên, họ lại là người có khá ít kiên nhẫn.
Công việc phù hợp: Bác sĩ, nhà điều tra, nhà quản lý, kỹ sư, nhà khám phá hàng hải và thám tử tư.
Nhân Mã là người tận tâm với công việc, hòa đồng, vui tính. Nỗ lực hết mình là mục tiêu mà họ luôn đề ra trong công việc. Cũng như Kim Ngưu, Nhân Mã làm việc nhóm khá tốt. Nhân Mã cũng là người lạc quan, tin vào tương lai tươi đẹp. Họ là người có chính kiến và ít khi bị người khác ảnh hưởng.
Công việc phù hợp: thương nhân, du lịch, nhiếp ảnh gia, nhà thám hiểm, giáo sư hay thậm chí là các đại sứ.
Ma Kết là người thiết thực nhưng hơi bảo thủ, họ chăm chỉ và kiên nhẫn vô cùng. Những người thuộc cung này luôn hiểu nhiệm vụ mình cần làm là gì và có trách nhiệm với nó. Họ làm việc độc lập và biết hi sinh vì đồng đội. Ma Kết là người sống có nguyên tắc, trật tự và yêu cầu sự tôn trọng lẫn nhau.
Công việc phù hợp: Chuyên gia máy tính, nhà quản lý, điều hành, quản trị viên và kỹ sư.
Bảo Bình là người tốt bụng và hòa đồng, có nhiều bạn bè bên cạnh. Họ khá duy tâm và tin vào trực giác. Họ thích làm từ thiện và giúp đỡ mọi người. Tuy nhiên, Bảo Bình không hề yếu đuối mà luôn thích giải quyết những khó khăn thử thách. Họ luôn trau dồi phẩm chất và kỹ năng để hoàn thiện mình. Bảo Bình là người có khả năng xóa bỏ lằn ranh giữa công việc và vui chơi, vì thế họ luôn thoải mái và giàu sáng tạo, chẳng biết chán là gì.
Công việc phù hợp: nhà văn, nhà khoa học, chính trị gia, phi hành gia, nghệ sĩ và nhà chiêm tinh học.
Song Ngư là người có nhiều mơ ước, hoài bão. Họ thường làm những gì họ thấy tốt cho mình. Họ thường suy nghĩ là lý tưởng hóa mọi việc. Trực giác của họ cũng khá tốt, họ thích yêu thương và luôn tự kiểm soát cuộc sống theo ý mình. Họ hay cảm thông và thích giúp đỡ người khác.
Công việc phù hợp: nghệ sĩ, bác sĩ, nhà sinh vật học, nhạc sĩ, nhà tâm lý học.
Chọn người xông đất ngoài chuyện hợp tuổi cũng nên chọn người “tốt vía” tức là những người hiền lành, đức độ, làm ăn khấm khá…
Theo phong tục Tết cổ truyền của người Việt, chọn người xông nhà trong năm mới là một việc rất được coi trọng theo quan niệm đầu có xuôi thì đuôi mới lọt. Người xông đất tốt sẽ mang lại may mắn, tài lộc cả năm cho gia chủ. Dựa trên học thuyết âm dương Ngũ hành, học thuyết Can Chi… Sau đây là tính sẵn những tuổi tốt để xông đất trong năm 2014 Giáp Ngọ để quý bạn đọc tiện tra cứu.
1929 – Kỷ Tỵ
1937 – Đinh Sửu
1946 – Bính Tuất – Rất tốt
1947 – Đinh Hợi
1949 – Kỷ Sửu
1950 – Canh Dần
1956 – Bính Thân
1959 – Kỷ Hợi
1962 – Nhâm Dần
1970 – Canh Tuất
1974 – Gíap Dần
1976 – Bính Thìn
1977 – Đinh Tỵ
1979 – Kỷ Mùi
1982 – Nhâm Tuất
1986 – Bính Dần – Rất tốt
1989 – Kỷ Tỵ
Chọn người xông đất ngoài chuyện hợp tuổi cũng nên chọn người “tốt vía” tức là những người hiền lành, đức độ, làm ăn khấm khá…Ngoài ra, những người trực xung với tuổi chủ nhà, hoặc gia đình có chuyện buồn phiền, tang chế thì cũng không nên lựa chọn để xông