Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đại kỵ cần tránh khi treo tranh con hổ, rồng, ngựa trong nhà

Treo tranh con giáp đúng cách sẽ đem đến nhiều may mắn, tài lộc cho gia chủ; ngược lại nếu phạm phải những đại kỵ có thể nhận nhiều xui xẻo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, rồng, hổ, ngựa là những những biểu tượng lâu đời và có sức mạnh nhất trong 12 con giáp. Nếu treo đúng cách, tranh phong thủy sẽ đem đến nhiều may mắn, tài lộc cho gia chủ. Ngược lại, bạn và gia đình sẽ gặp nhiều điều không tốt trong cuộc sống nếu phạm phải những điều kiêng kị khi treo tranh.

Tranh con Hổ

Theo quan niệm Á Đông, hổ là biểu tượng của phẩm giá, vinh quang sức mạnh, lòng nhiệt huyết và quả cảm. Tranh con hổ được coi là biểu tượng nhằm xua đuổi những điều bất hạnh trong gia đình như ma quỷ, lửa hoặc trộm cướp. Khi treo tranh hổ, bạn cần chú ý những điều sau:

- Không treo tranh có đầu hổ hướng về phía trong nhà bởi điều đó ám chỉ hổ đang chuẩn bị săn mồi. Nên đặt đầu hổ hướng ra phía ngoài nhà hoặc cửa chính.

- Không treo ở khu vực có nguồn năng lượng thấp, ví dụ phòng tắm, nhà kho, ga ra. Thay vào đó, nên đặt tranh gần những nơi có không gian mở.


dai ky can tranh khi treo tranh con ho, rong, ngua trong nha - 1

- Không đặt tranh quá cao hoặc quá thấp so với tầm mắt. Đặt tranh quá cao sẽ tạo ra quá nhiều năng lượng so với mức cần thiết, đặt thấp thể hiện sự thiếu tôn trọng.

- Không có quá 5 bức tranh hổ trong nhà.

- Khi treo tranh, hãy dán một mảnh giấy đỏ kích cỡ khoảng 1 đồng đô la lần lượt vào đầu và đuôi con hổ. Thực hiện vào buổi trưa và đồng thời lẩm nhẩm trong đầu: “Thưa Đức Phật, xin Người hãy dẫn hổ quay lại chỗ mà nó tới. Từ giờ trở đi, bức tranh này chỉ là một tác phẩm nghệ thuật”.

- Tránh chụp ảnh với hổ, bất kể là hổ thật hay chỉ trong các tác phẩm nghệ thuật (tranh vẽ, tượng điêu khắc…) Nếu đã lỡ chụp, hãy cắt phần ảnh chứa con hổ và đốt đi. Nếu không, bạn có thể bị bệnh.

Tranh con Rồng

Theo truyền thuyết, rồng xanh, cùng với rùa đen, hổ trắng, phượng hoàng đỏ tạo nên thế giới và chia bầu trời thành bốn góc. Mỗi con vật cai quản một hướng, trong đó rồng chiếm giữ góc phần tư phía đông.

Rồng là loài vật quyết đoán, thông minh và mạnh mẽ. Tranh con rồng biểu trưng cho trí tuệ, vận may, sức mạnh, tài lãnh đạo, lòng nhân từ. Tuy nhiên, nếu tranh đặt không đúng, rồng sẽ trở nên giống rắn, hung bạo vào xấu xa. Bạn hãy chú ý những điểm sau:

- Không nên đặt đầu rồng hướng ra ngoài bởi điều đó có nghĩa người trong nhà luôn muốn ở bên ngoài thay vì ở nhà.

- Tranh con rồng đặt ở phía bên phải ngôi nhà có thể gây ra nhiều tranh cãi trong gia đình. Nên đặt tranh ở tường phía Đông.

- Không treo gần hoặc trong phòng tắm.


dai ky can tranh khi treo tranh con ho, rong, ngua trong nha - 2

- Không nên cuộn hoặc cất tranh vào một góc nào đó.

- Giống như tranh con hổ, bạn nên gắn một mảnh giấy màu đỏ kích cớ đồng 1 đô la lần lượt vào đầu và đuôi con rồng. Thời gian lý tưởng nhất để thực hiện là từ 7 giờ đến 9 giờ sáng ngày mùng 3, mùng 6 và mùng 9 âm lịch.

- Không nên treo quá 5 bức tranh rồng trong nhà. Rồng sẽ tiếp thêm năng lượng cho chủ nhân ngôi nhà, khiến họ luôn khao khát làm việc và tiến về phía trước. Tuy nhiên, quá nhiều năng lượng dễ khiến tâm lý con người bị kích động, bồn chồn, khó thư giãn. Thành công đạt được dễ phải đánh đổi bằng sức khỏe của cá nhân và gia đình.

Tranh con Ngựa

Từ lâu ngựa đã được coi là loài vật quý tộc trong văn hóa Á Đông. Ngựa tượng trưng cho tốc độ, sự bền bỉ, tự do, sức mạnh và lòng quả cảm. Tranh ngựa tượng trưng cho nhân tố thứ 5 trong phong thủy là lửa, do chứa nhiều năng lượng dương nên sẽ làm tăng vận may, mang tới danh tiếng, địa vị cho gia chủ.

- Không nên treo tranh chỉ có một con ngựa, đặc biệt với những gia đình kinh doanh.  Điều đó ngụ ý bạn bị mất phương hướng, “đơn thuơng độc mã” trong việc làm ăn, không được các nhân viên ủng hộ.


dai ky can tranh khi treo tranh con ho, rong, ngua trong nha - 3

- Ngựa phi nước đại được coi là sẽ mang nhiều dương khí tới gia đình bạn. Tuy nhiên nên tránh tranh vẽ nhiều con ngựa chạy phi nước đại về phía ngược nhau. Điều đó ám chỉ xung đột giữa các thành viên trong gia đình.

- Nên tránh treo tranh ngựa chiến hoặc những con có hình dáng bất thường, thể hiện cảm xúc giận dữ. Thay vì chọn các sắc lạ như đỏ, xanh lá, xanh nước biển, nên chọn ngựa có màu đen, nâu hoặc trắng.

- Không treo tranh tại các khu vực sau: gần/ đối diện cửa hướng ra ngoài đường, phòng tắm, bếp; sảnh chờ đối diện với kho hang tại công ty

- Luôn luôn treo tranh với đầu ngựa hướng về phía trong nhà. Nếu làm ngược lại, nó sẽ ảnh hưởng xấu tới vận may tài lộc của bạn, ví dụ như chi tiêu nhiều hơn thu nhập, nhiều khoản nợ chồng chất, buôn bán thua lỗ…

- Nên treo tranh ở phía Nam, Đông Nam của ngôi nhà, đối diện cửa ra vào hoặc cửa sổ.

- Không treo tranh trong phòng ngủ bởi nguồn năng lượng mạnh mẽ từ con vật này sẽ khiến không gian cho việc thư giãn, nghỉ ngơi bị xáo trộn. Thay vào đó, bạn nên treo tranh tại những khu vực chính trong nhà như phòng khách, sảnh chính…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại kỵ cần tránh khi treo tranh con hổ, rồng, ngựa trong nhà

Xấu đủ đường khi mơ thấy người làm thuê

Ở cuộc sống hiện tại, người làm thuê là người giúp chủ nhà giải quyết một số khó khăn trong công việc nhà. Tuy nhiên, người làm thuê trong giấc mơ lại tượng
Xấu đủ đường khi mơ thấy người làm thuê

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Ở cuộc sống hiện tại, người làm thuê là người giúp chủ nhà giải quyết một số khó khăn trong công việc nhà. Tuy nhiên, người làm thuê trong giấc mơ lại tượng trưng cho khó khăn mà chủ nhà sắp gặp phải trong cuộc sống.


Giải mã giấc mơ thấy người giúp việc cho nhà mình:

Xau du duong khi mo thay nguoi lam thue hinh anh
Ảnh minh họa

  Chiêm bao thấy người giúp việc xin nghỉ là điềm báo cuộc sống của bạn đang rất hạnh phúc, êm ấm.

 

Nam giới chiêm bao thấy mình cãi nhau với người giúp việc thì nên vui mừng vì đây là điềm báo uy tín của bạn ngày càng được nâng cao. Còn nếu bạn là nữ giới mà mơ thấy giấc mơ trên thì cũng cứ vui vẻ đi, giấc mơ này ngụ ý bạn là người đảm đang việc nhà.

 

Chủ nhà sẽ có chút danh tiếng nếu chiêm bao thấy mình và người làm thuê đang cùng nhau ngồi ăn cơm.

 

Ngoài những giấc mơ mang điềm lành kể trên thì giấc mơ về người giúp việc thực sự là điềm báo khó khăn cho chủ nhà.

 

Chiêm bao thấy mình phải đi thuê người làm là dự báo sắp tới tài chính của bạn sẽ bị đe dọa, có một chút hao hụt, hoặc cũng có thể bạn sắp gặp rắc rối trong công việc.

 

Chiêm bao thấy mình thân thiết với người làm thuê, dự báo giữa bạn và những người bạn thân sắp xảy ra hiểu lầm và mâu thuẫn.

 

Chiêm bao thấy mình đang tâm sự với người làm thuê thì tốt nhất là “tỉnh dậy” vì điều này cảnh báo bạn sắp gặp phải một số trở ngại.

 

Theo Giấc mơ và Vận mệnh con người trong cuộc sống


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xấu đủ đường khi mơ thấy người làm thuê

HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

Một cuốn sách sách hay được cụ Hà Uyên chia sẻ. Mời các bạn cùng đọc.
HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

QUYỂN 1

12 HỘI CHIA HỢP TỔNG SỐ

Đây nói, đồ vẽ 4 quẻ Ly Càn Khảm Khôn, ngôi ở 4 chính, cõi tóm trong 4 duy, là Tý Ngọ Mão Dậu, 4 quẻ này gồm 24 hào tương đương với 24 tiết khí chia ra để chựu cho đều mỗi hào 1 khí vậy. Mỗi 1 quẻ này chủ 3 Hội, Quẻ Phục quẻ Cấu khởi ở Đông chí - Hạ chí, đến quẻ Đồng nhân quẻ Sư mà tiết Kinh trập - Bạch lộ, thời Ly Khảm chia ra mà trị vậy. Quẻ Lâm quẻ Độn khởi ở Xuân phân - Thu phân đến quẻ Quải quẻ Bác, mà tiết Mang chủng - Đại tuyết, thời Càn Khôn chia ra mà trị vậy. Số chọn chia trị 3 Hội đều 90 ngày, quẻ thẳng chủ biến từng hào 1, từ hào Sơ đến hào Trên, cùng với 15 quẻ, mà giữ về tiết tự, gồm 24 quẻ, làm 4 quẻ biến hóa, noi theo hào, rồi vòng khắp 60 quẻ mỗi hào, 5 quẻ chủ 2 Khí, mỗi Khí biến tương đương 2 quẻ rưỡi, thực 1 hào tương đương với 15 hào, 1 Hội 5 quẻ 30 hào, thời hào biến dùng 2 quẻ đối ứng, 3 Hội 15 quẻ 90 hào, khởi hào biến chưng dụng 6 phân vậy. Nhật trực, mỗi 90 ngày làm 1 mùa, dùng 4 mùa mà 4 quẻ chia thẳng đấy, hào biến có thể 1, 1 này rõ ràng tường tận vậy.

Đây nói, trên bầy 4 quẻ, dưới bầy 4 quẻ hào biến đến thẳng 24 quẻ, lại thứ nữa, bầy 4 quẻ chia chủ 3 Hội, mỗi Hội có 5 quẻ, đều thẳng 15 quẻ cùng 60 quẻ. Dưới thời tường tả hữu đều 4 quẻ, cùng giao lẫn nhau, mà thành quẻ biến 12 cùng 30 nhân mà thành quái số. Khoảng giữa 1 đồ, dường mối sáng như bầy lông mày, kẻ đọc nên lưu tâm vậy. Có kẻ hỏi 4 quẻ chủ rường cột vậy, sao bảo là nhuận? Suốt một năm, ba trăm lẻ sáu tuần 60 quẻ hào đương đấy, còn 4 quẻ 24 hào chia ra cùng chựu, thừa 6 ngày mà để nhuận vậy, thời lấy chủ rường cột vén tan mối, mà đều dùng rất đều vậy, 4 mùa định năm bén thành vậy.

Đây nói: Nguyên kinh Hội, Hội kinh Vận, Vận kinh Thế, gồm Thế hào chia thẳng cho niên quái đồ thâu tóm mà lại (tri lai), đi (vãng) theo đồ, trước 4 quẻ, chia 24 khí chủ 60 quẻ chia từ Tý đến Hợi, tương đương với kinh quái của 12 Hội, mỗi Hội đều 5 quẻ nên bầy ở đồ tầng 1. Ở đồ tầng thứ 2, vì lấy ngay mục quái của Nguyên kinh Hội, đều tới mỗi 1 quẻ từng hào biến từ Sơ đến Thượng, noi theo thứ tự bằng bầy đầu đuôi, được 360 quẻ. Ở đồ tầng thứ 3, vì lấy ngay mục quái của Hội kinh Vận, lại tới 360 quẻ, lại mỗi quẻ biến từng hào một, 6 hào sinh 6 quẻ như trước theo thứ tự, bằng bầy đầu đuôi được 2160 quẻ. Ở tầng thứ 4 của đồ, vì lấy ngay mục quái của Vận kinh Thế, đều trải ngang dưới, thời 1 quẻ đều 6 biến được 6 quẻ, như mẫu thức vạch quẻ được từ dưới lên trên bầy 6 tầng, đều lấy niên quái đã được, liên hệ thẳng ở dưới Thế gồm 129600 quẻ, đương số niên quái lấy niên tóm 12 tháng, tích chứa lại thời 155520 số (129600x12), đủ trong 60 đồ, thay nhau làm đường ngang dọc, kẻ đọc khá tung hoành 1 liếc mắt mà xem. Ta làm lý lẽ manh mối này, mà chia ra đấy, cho nên rằng Tự ngôn.

Đây nói, đồ toàn số Trời Đất 4 quẻ giao ứng nhau, tả hữu bầy bằng, mà giao biến, ứng đó là lẻ chẵn đối phản, đó là ứng hợp vậy. Giao biến như Càn sơ biến Cấu, Cấu sơ biến Càn. Dưới đến Khôn sơ biến Phục, Phục sơ biến Khôn đều thế. Ứng hợp như quẻ Cấu hợp Phục, quẻ Bác hợp quẻ Quải đều thế. Toàn số là 12 cùng 60 dẫu nhân từ ít rồi nhiều, mà tích số 60 quẻ toàn vẹn, là quẻ Trời Đất vậy, 4 là Thần của Nguyên Hội Vận Thế nhân giao nhân, số ấy vốn tích chứa ở đó, lấy làm đồ vậy.

Lại nói, 1 Nguyên tóm 12 Hội, Hội đều 30, mỗi Hội gồm thẳng 5 quẻ, như Hội Tý có Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi ích, Thuần Chấn. Mỗi Vận tương ứng với 1 hào, như Hội Tý quẻ Phục 6 vận tương ứng với 6 hào biến được 6 quẻ: Khôn, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn. Kể 12 Hội làm 1 Nguyên gồm 129600 năm, 30 Vận làm 1 Hội gồm 10800 năm, 12 Thế làm 1 Vận gồm 360 năm, chia thẳng cho Vận cùng với quẻ hào, dùng quẻ 1 hào lại tương đương với 1 quẻ, 6 vị trí của hào tương đương với 6 quẻ, mỗi hào quản 12 năm, 6 hào sẽ quản 72 năm, như quẻ Phục có hào Sơ dương, bắt đầu thẳng Khôn, Khôn lại thẳng tới Sư có hào 2 dương, Khiêm có hào 3 dương, Dự có hào 4 dương, Tỷ có hào 5 dương, Bác có hào Thượng dương, mỗi hào đều quản 12 năm, đây là Nguyên tóm Hội, Hội tóm Vận cùng Thế, như Năm tóm Tháng, Tháng tóm Ngày cùng Giờ, cũng như Ngày tóm Giờ, Giờ tóm Phân cùng Sao. Cho nên vận số có lớn nhỏ, tóm đấy thời càng lớn, chia đấy thời càng nhỏ, nhỏ thời số nhiều, nhỏ lớn thời số xếp từng loài mà cùng về 1. Đồ ước 1 Nguyên 12 Hội, thâu tóm chia Vận mà xem, thì nhìn thấy được những cái lớn, rõ ràng, mà đầy đủ vậy.

HOÀNG CỰC KINH THẾ THƯ GIẢI

Hồng phạm Thiên thứ 5 nói: dựng dùng Hoàng cực, “hoàng” nói là lớn, “cực” nói là giữa, Hoàng cực nói là “đại trung”. Trù có 9 (trời đất có chia làm 9 loài), 50 trước, 4 sau, 4 mà dựng dùng rất cao. “Cực” cho nên gọi là khuôn phép, “Hoàng” cho nên gọi là to lớn. Thiệu ta sửa trị đời, xem vật mà làm ra Hoàng cực, tròn thời theo với phép cỏ thi, vuông thời theo với số của quái, diễn Đồ Thư, thực suy ở 9, Trù Sách vậy. Hỏi rằng “kinh thế” là sao? Trời đất mở mang dựng lên, tổ chức mây, mưa, sấm, chớp, nói chia đường ngang đường dọc quấn quýt lấy nhau là hợp vậy, vả đường Nam Bắc là dọc, đường Đông Tây là ngang, nói Kinh mà Vỹ là suốt vậy. Kinh rằng đạo thường, chủ dùng số thường, thông ở biến, biến không mất thường, Đời (Thế) cùng xưa nay, Đời (Thế) để ghi năm thì nửa ở 6 Giáp, Thế để chép Đời, thì xa mãi đến ngàn năm. Vận mà Hội, Hội mà Nguyên, đều do Thế tích chứa, mà cũng thay đổi theo thứ tự vậy.

Nói rằng “kinh thế”, mà Nguyên dùng kinh Hội, Hội dùng kinh Vận, là đều thâu tóm đấy. Nguyên là 1, số là 129600 mà thống nhất. Hội mà chia Nguyên, thì mỗi một Hội đều là 10800 (129600/12=10800) mà làm Tiểu nguyên chọn dùng 1 vậy. Vận mà chia Hội, thì mỗi Vận đều là 360 (10800/30=360) mà làm 12 Hội Tiểu nguyên chọn dùng 1 vậy. Thế mà chia Vận, thì mỗi Thế đều là 30 (360/12=30), 12 Thế dùng 30 thời làm 1 Vận, 360 số lần lượt tích chứa vậy. Làm Hội làm Nguyên không chọn dùng 1 mà đều suốt ở 1 vậy, cho nên nêu một mình “kinh thế” để thâu tóm đấy, nhỏ thâu tóm lớn, ít thâu tóm nhiều. Cái lớn cùng với nhiều dùng để thâu tóm nhỏ cùng ít, lại có thể lấy đó mà suy. Năm xem ở Nguyên, tháng xem ở Hội, ngày xem ở ở Vận, giờ xem ở Thế cùng với Phân-Sao chọn lấy tích chứa. Lại xem Năm Tháng cái gì trừ đi, Kinh chỉ định Thế thâu tóm, đoán Thế lấy giờ tích chứa, cũng lấy Vật xếp cùng loại với Vật. Số có vạn cùng Thế thừa trừ, thời 10 Thế có thể biết lấy Vật, 100 Thế khá biết, cũng biết lấy Vật, Vật được lý lẽ, noi theo Kinh mà trị, phản lại thường mà trái Kinh thì loạn, lấy gì xem chăng? Xem mọi Kinh quái hào, duy có Thời (giờ) của Vật, chẳng hoặc trái vậy. Vật lớn ấy chỉ có Trời Đất, mà vật ở Trời ấy chỉ có mặt Trời, mặt Trăng cùng các vì Sao. Vật ở Đất ấy là nước, lửa, đất, đá. Mặt trời Càn mà nước Khôn, mặt trăng Đoài mà lửa Cấn, Sao Ly mà đất Khảm, thần (các vì sao) Lôi mà đá Tốn. Trời 4 phương để ngang Trời, âm dương Thái Thiếu, dựng lên cột của trời. Đất 4 phương để ngang đất, cương, nhu, Thái, Thiếu dựng cột của đất, trời đất giao ngang, Thế (đời) không đổi vật, rời đi là số, lâu dài thường hằng là Đạo, số theo cùng tượng, đều lấy 4 lập (dựng), Đạo lấy Thế dùng làm Thần, chỉ lấy 1 vậy. Hoàng lấy Đạo để rộng khắp, Cực lấy Đạo để dựng, Kinh lấy Đạo để giữ, Thế (đời) lấy Đạo để trị, Vật lấy Đạo để cung cấp cho xem mà tìm Đạo thông. Vì số biến mà Đạo không biến, Đạo làm ngang, Đạo dựng mà trời đất đều dựng. Người làm cùng cực Đạo ở đâu? Trong khoảng 1 động 1 tĩnh, thời “đại trung” cùng với tâm du! Đại trung thế du! Hoàng cực ngang chọn dùng ở Thế (đời), Vật xem chọn dùng ở vật biến. Sở học của Thiệu ta hầu như biết sự hóa dục hóa nuôi của Vật, mà trời lồng lộng to lớn vậy!

Đồ Kinh Thế của Thiệu ta lấy Nguyên thâu tóm Hội, Hội thâu tóm Vận, Vận thâu tóm Thế; cũng như lấy Niên tóm Nguyệt, Nguyệt tóm Nhật, Nhật tóm Thời. 12 giờ làm 1 ngày, 30 ngày làm 1 tháng, 12 tháng làm 1 năm, 30 năm làm 1 Thế, 12 Thế kể là 360 năm làm 1 Vận, 30 Vận kể là 10800 năm làm 1 Hội, 12 Hội tích chứa 129600 năm làm 1 Nguyên, quẻ ấy lấy đồ tròn của Phục hy 64 quẻ, trừ 4 quẻ chính Ly Càn Khảm Khôn, mỗi quẻ 6 hào, cộng là 24 hào làm Nhuận quái, mỗi 2 hào biến làm 2 quẻ chia chủ 1 Hội, 24 hào chia chủ 12 Hội, thừa trừ ngoài ra.

Từ quẻ Phục khởi quanh bên tả, trải qua những quẻ: Địa Lôi, Sơn Lôi, Thủy Lôi, Phong Lôi, Thuần Lôi, Hỏa Lôi, Trạch Lôi, Thiên Lôi - Địa Hỏa, Sơn Hỏa, Thủy Hỏa, Phong Hỏa, Lôi Hỏa, Trạch Hỏa, Thiên Hỏa - Địa Trạch, Sơn Trạch, Thủy Trạch, Phong Trạch, Lôi Trạch, Hỏa Trạch, Thuần Đoài, Thiên Trạch - Địa Thiên, Sơn Thiên, Thủy Thiên, Phong Thiên, Lôi Thiên, Hỏa Thiên, Trạch Thiên.

Từ quẻ Cấu khởi quanh bên hữu trải qua những quẻ: Thiên Phong, Trạch Phong, Hỏa Phong, Lôi Phong, Thuần Tốn, Thủy Phong, Sơn Phong, Địa Phong – Thiên Thủy, Trạch Thủy, Hỏa Thủy, Lôi Thủy, Phong Thủy, Sơn Thủy, Địa Thủy – Thiên Sơn, Trạch Sơn, Hỏa Sơn, Lôi Sơn, Phong Sơn, Thủy Sơn, Thuần Cấn, Địa Sơn – Thiên Địa, Trạch Địa, Hỏa Địa, Lôi Địa, Phong Địa, Thủy Địa, Sơn Địa, cộng lại được 60 quẻ.

Lấy quẻ Địa Lôi Phục khởi ở Đông chí nửa giờ Tý, gồm 5 quẻ phối 2 khí:

- Quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Thuần Chấn phối với khí Đông chí - Tiểu hàn ;

- Quẻ Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí phối với khí Đại hàn - Lập xuân ;

- Quẻ Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Lôi Hỏa Phong, Trạch Hỏa Cách, Thiên Hỏa Đồng nhân phối với khí Vũ thủy – Kinh trập ;

- Quẻ Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Lôi Trạch Quy muội phối với khí Xuân phân – Thanh minh ;

- Quẻ Hỏa Trạch Khuê, Thuần Đoài, Thiên Trạch Lý, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại súc, phối với khí Cốc vũ - Lập hạ ;

- Quẻ Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, Lôi Thiên Đại tráng, Hỏa Thiên Đại hữu, Trạch Thiên Quải phối với khí Tiểu mãn – Mang chủng

- Quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Thuần Tốn phối với khí Hạ chí - Tiểu thử.

- Quẻ Thủy Phong Tỉnh, Sơn Phong Cổ, Địa Phong Thăng, Thiên Thủy Tụng, Trạch Thủy Khốn phối với khí Đại thử - Lập thu.

- Quẻ Hỏa Thủy Vị tế, Lôi Thủy Giải, Phong Thủy Hoán, Sơn Thủy Mông, Địa Thủy Sư phối với khí Sử thử - Bạch lộ

- Thiên Sơn Độn, Trạch Sơn Hàm, Hỏa Sơn Lữ, Lôi Sơn Tiểu quá, Phong Sơn Tiệm phối với khí Thu phân – Hàn lộ.

- Quẻ Thủy Sơn Kiển, Thuần Cấn, Địa Sơn Khiêm, Thiên Địa Bĩ, Trạch Địa Tụy phối với khí Sương giáng - Lập đông.

- Quẻ Hỏa Địa Tấn, Lôi Địa Dự, Phong Địa Quan, Thủy Địa Tỷ, Sơn Địa Bác phối với khí Tiểu tuyết - Đại tuyết.

Lấy 1 quẻ thẳng 72 Thế, 5 quẻ thẳng 360 Thế, 60 quẻ thẳng 4320 Thế mà làm 12 Hội, tích chứa 129600 năm, ở trong đó quẻ Truân 6-4, Vô vọng 1-4, Phong 4-3, Tiết 6-2, Lý 1-2, Đại tráng 4-1, Đỉnh 3-5, Thăng 8-5, Hoán 5-6, Lữ 3-7, Khiêm 8-7, Quan 5-8 là 12 quẻ ở 2 khí giao nhau. Trước 3 hào quẻ trên 1 khí dùng 36 Thế, sau 3 hào quẻ dưới 1 khí dùng 36 Thế, 1 quẻ 6 hào biến làm 6 quẻ, 5 quẻ biến làm 30 quẻ thẳng 360 Thế, thời 1 hào dùng biến quái thẳng 12 Thế. Mở Vật trong Dần khởi từ quẻ Lôi Hỏa Phong dùng hào 9-4 mà đi lên trên. Đóng Vật trong Tuất tới quẻ Địa Sơn Khiêm dùng hào 9-3 mà đi xuống dưới, bởi trên mà suy, lớn lại càng lớn, bởi dưới mà suy, nhỏ lại càng nhỏ. Cái lý ấy thuộc về Trời Đất, chẳng gì là chẳng vậy.

NGUYÊN NGANG HỘI DÙNG MỘT

THIÊN QUAN VẬT DÙNG MỘT

Nguyên là 1, Hội là 12, lấy đồ Nguyên ngang Hội, như số Hội 12 đồ, mỗi đồ quản tích đều 360, thống kê 4320 toán, đồ đều bầy 30 làm 1 hàng, trước 1 hàng là tiêu mục, thực 30 hàng, hàng đều bầy 5 tầng, từ tầng 1, 2, 3, 4 đến tầng trên. Nhật chủ Càn làm Nguyên, Nguyệt chủ Đoài làm Hội, Tinh chủ Ly làm Vận, Thần chủ Chấn làm Thế. Càn nhật Ly sao là 12, vòng hết lại bắt đầu, gồm 2 vòng. Nửa đồ Nhật-Nguyệt-Tinh, lấy ngang Dương dùng Thái Thiếu, theo dương can Giáp 1 đến Quý 10, vòng hết lại bắt đầu, gồm 3 vòng. Đoài Nguyệt Chấn Thần là Thái Thiếu của Âm, từ chi âm Tý 1 đến Hợi bầy hai hàng trống không, một thứ là Can, số ngang dùng đến cuối 12 đồ cộng 360 mục. Đồ Thần ngang cũng như thế, mà Tý 1 làm đầu, thuận thứ tự đi thẳng đến Hợi đều 12 mục 1 đồ, 30 hàng mục, kể 360 thông 12 đồ 360 hàng, thời có 4320 mục. Đồ ở Tý 1, hàng đầu đều ở Tý, lần lượt đến Giáp Bính Mậu Canh Nhâm làm vòng trong, đến ở Hợi, 12 hàng đầu đều ở Hợi chen liền Ất Đinh Kỷ Tân Quý làm vòng kế tiếp, đều bỏ trống mục, mà trên dưới đều lần lượt thêm toán, từ 1 đến 10, 10 đến 100, nghìn, toán chọn 1, 3, 5, 7, 9 Tý lấy lẻ chựu, còn 2, 4, 6, 8, 10 Hợi lấy chẵn thêm vào. Quẻ của đồ, mỗi đồ quẻ ngang 5, quẻ dọc đều 6, cộng 30 thông 12 đồ. Quẻ ngang 60, quẻ dọc 260. Quẻ dọc của dọc 2160, quẻ dọc ấy đổi nhau làm ngang. Lại có quẻ dọc của dọc, ngậm trống không 12 đồ trong mục, vì Niên ngậm Nguyệt, Nguyệt ngậm Nhật và ngậm cả số Phân Sao của Thời. Cũng như Nguyên tóm Hội, Hội tóm Vận, đều tóm số Niên Nguyệt của Thế vậy. Vậy thì lấy Nguyên kinh Hội mà kinh Vận kinh Thế hết thẩy ngụ ở trong 12 đồ. Đến 6 đồ trước dương lớn mà lên, 6 đồ sau âm tiêu mà xuống. Quẻ Phục-Cấu chia ở Tý-Ngọ, trong ngoài suy luận sẽ rõ. Kẻ đọc tâm hội ở đồ mục, tự mình mà được vậy.

Lại nói: Đông chí ngày Giáp Tý, nửa giờ Tý khởi đầu quẻ Phục biến làm Khôn, từ nửa giờ Tý đến nửa giờ Dần, Khôn hào đầu. Nửa giờ Dần đến nửa giờ Thìn, nửa Khôn hào 2 quẻ Sư. Nửa giờ Thìn đến nửa giờ Ngọ, nửa Khôn hào 3 quẻ Khiêm. Nửa giờ Ngọ đến nửa giờ Thân, nửa Khôn hào 4 quẻ Dự. Nửa giờ Thân đến nửa giờ Tuất, nửa Khôn hào 5 quẻ Tỷ. Nửa giờ Tuất đến nửa giờ Tý, nửa Khôn hào Thượng quẻ Bác là hết. Ất Sửu thời nửa giờ Tý, quẻ Phục hào 2 biến thành quẻ Lâm, Đinh Sửu nửa giờ Tý hào 3 quẻ Phục biến thành quẻ Thái, từ hào Sơ xong đến hào Thượng, mỗi hào thứ tự lấy trước sau 2 nửa, gồm 1 hào được 2 quẻ làm nêu, nêu 2 quẻ cùng khắp 1 hào, 12 vòng khắp 1 quẻ, khởi xong xem quẻ Khôn, do đó trải Địa Hỏa Minh di, Thuần Lôi, Thủy Lôi Truân, Sơn Lôi Di biến vòng lại, tiếp tục theo tiếp mà suy, gồm 72 thần (sao). Qua 6 ngày từ Giáp đến Kỷ, quẻ thẳng Phục mà đấy du! Là quẻ Di vậy, Dự phỏng đây. Việc làm này Nhật thấy Thời, cũng tức là Thời mà phép thắt bó Năm, Tháng, Ngày vậy. Nguyên, Hội, Vận, Thế đều có thể thông xem. Thấy mỗi Nguyên làm 2 mà khen tương đương với 1, ngày đêm có khác mà cùng nhau làm 1 ngày vậy.

THÁNG TÝ: là Hội thứ Nhất, từ Hợi đến Tý là 6 âm đã cùng cực, 1 dương mới động vậy. Ở Thì trong luật lữ là Hoàng Chung, Chi kiến Tý, Nguyệt phần 11, Nhật ở Tinh chép, thì tiết lệnh Đông chí - Tiểu hàn, quẻ thẳng gồm có: Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, đều có tượng u ám, kíp đến Thuần Lôi, Thiên thần chia dần. Quẻ Truân đang ở giữa hội Tý, hào 6 – 3 trở về trước cùng quẻ Phục, quẻ Di chủ khí Đông chí, hào 6 – 4 trở về sau cùng quẻ Ích, quẻ Thuần Lôi chủ khí Tiếu hàn, trước sau đều 15 hào, số năm đều 5400. Chọn dùng làm Nhuận quẻ Thuần Ly, hào Sơ biến thành quẻ Lữ, hào 2 biến thành quẻ Đại hữu, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 1 Thế Tý 1, sau khởi vận Kỷ 16 Thế Tý 181 xong Quý Hợi 360 cùng là Hội Tý vậy. Thanh trời xướng 9, âm (tiếng) đất chưng 11, xướng Thần (sao) họa Thạch (đá) báo, là Hằng Ích cảm thông khá vậy. Lấy Nguyên kinh Hội dùng 2. Thiên quan vật chọn dùng 2.

THÁNG SỬU: là Hội thứ Hai, từ Tý vào Sửu là lúc trời mở ở trên, đất đóng ở dưới, ở Thì luật lữ là Đại lữ, Chi kiến Sửu, Nguyệt phần 12, Nhật ở tiết lệnh nguyên trống rỗng, có tiết khí Đại hàn - Lập xuân. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, đều có tượng ra chỗ tối hướng về chỗ sáng. Quẻ Vô vọng đang ở giữa hội Sửu, hào 6 – 3 trở về trước cùng với Phệ hạp, Tùy chủ khí Đại hàn, hào 9 – 4 trở về sau cùng với quẻ Minh di, quẻ Bí chủ khí Lập xuân, hào biến đều 15, số năm đều 5400. Nhuận quẻ Thuần Ly hào 3 biến thành quẻ Hỏa Lôi Phệ hạp, hào 4 quẻ Thuần Ly biến thành quẻ Sơn Hỏa Bí, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 31 Thế Tý 361, sau khởi vận Kỷ 46 Thế Tý 541, song đến Quý Hợi lại 360 vòng quanh Hội Sửu vậy. Thanh trời dùng 10, âm đất dùng 12, các vì sao xướng đá đất họa, âm dương chia 2 nghi, trong khoảng giao tiếp đấy du!

THÁNG DẦN: là Hội thứ Ba, Sửu mà giao với Dần thì trời đất mở đóng, lúc nhân vật mới sinh vậy, ở Thì luật lữ là Thái Dốc, Chi kiến Dần, Nguyệt phần 1, Nhật ở xu-tí (tên chỗ sao đi đến, từ sao Quỷ 18 độ đi đến sao Chủy 4 độ), thì tiết lệnh Vũ thủy – Kinh trập. Quẻ thẳng Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Lôi Hỏa Phong, Trạch Hỏa Cách, Thiên Hỏa Đồng nhân, đều có tượng hình khí hóa sinh. Quẻ Phong đang ở giữa hội Dần. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Ký tế, Gia nhân chủ khí Vũ thủy, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Cách, Đồng nhân chủ khí Kinh trập, hào biến đều 15, số năm đều 5400 năm, Nhuận giao quẻ Ly hào 5 biến thành quẻ Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6 quẻ Ly biến thành quẻ Lôi Hỏa Phong, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 61 Thế Tý 721, sau khởi vận Kỷ 76 Thế Tý 912 xong đến Quý Hợi lại 360, hội Dần vòng quanh rồi vậy. Thanh trời dùng 1, âm đất dùng 1, Tinh xướng Thổ họa, là khoảng âm dương giao ngũ hành du!

THÁNG MÃO; là Hội thứ Tư, Dần mà vào Mão, lúc ba Tài bắt đầu gây mới, khí hải ra, thì đi vậy. Ở Thì trong luật lữ là Giáp Chung, Chi kiến Mão, Nguyệt phần 2, Nhật ở Giáng lâu, tiết lệnh là Xuân phân – Thanh minh. Quẻ thẳng gồm: Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Lôi Trạch Quy muội, đều có tượng tìm tòi soi sáng, quẻ Tiết đang ở giữa Hội Mão. Hào 6 – 3 trở về trước cùng với quẻ Lâm, quẻ Tổn chủ khí Xuân phân, hào 6 – 4 trở về sau cùng quẻ Trung phu và quẻ Quy muội chủ khí Thanh minh. Hào biến đều 15, niên số (số năm) đều 5400 năm. Quẻ nhuận Thuần Càn mới dùng vào việc, biến hào Sơ được quẻ Thiên Phong Cấu, biến hào 2 được quẻ Thiên Hỏa Đồng nhân, cũng chia ra mà làm chủ chung. Trước khởi vận Giáp 91 Thế Tý 1261, sau khởi vận Kỷ 180 lẻ, xong rồi đến Quý Hợi, lại 360, là hội Mão vòng quanh rồi vậy. Thanh trời dùng 2, âm đất dùng 2, Nguyệt xướng Hỏa họa, bảo rằng Hàm Tổn cảm thông là được vậy.

THÁNG THÌN: là Hội thứ Năm ; từ Mão đến Thìn dương tiến ở 5 (từ Tý đến Thìn có 5 cung), đều có tượng lúc vật gặp thịnh vậy, ở Thì trong luật lữ là Cô tẩy, Chi kiến Thìn, Nguyệt phần 3, Nhật ở Đại lương, thì tiết lệnh Cốc vũ - Lập hạ. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Trạch Khuê, Thuần Đoài, Thiên Trạch Lý, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại súc, đều có tượng cảnh vật tốt tươi, quẻ Lý đang ở giữa hội Thìn. Hào 6 - 3 trở về trước cùng quẻ Khuê, quẻ Thuần Đoài chủ khí Cốc vũ, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Thái, quẻ Đại súc chủ khí Lập hạ. Hào biến đều 15, số năm đều 5400. Hào nhuận là quẻ Thuần Càn hào 3 biến thành quẻ Thiên Trạch Lý, hào 4 biến thành quẻ Phong Thiên Tiểu súc, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 31 Thế Tý 7401, sau khởi vận Kỷ 136 Thế Tý 1621, rồi đến Quý Hợi 360 hội Thìn vòng quanh đủ rồi vậy. Thanh trời dùng 3 biến Bính chưng Đại vũ, đến như ở 4 là Đinh dùng thanh Giốc, âm đất dùng 3, ứng Thìn chọn dùng Giốc luật, đến 4 – 8 mà Thanh Giốc Bính Nguyệt xướng giao Nhật, Hỏa họa giao Thủy, là quẻ Sơn Hỏa Bí làm quẻ Địa Thiên Thái giao tế du!

THÁNG TỊ: là Hội thứ Sáu ; từ Thìn đến Tị, vận Thủy (nước) đã hết, lúc đức Hỏa đương vượng dậy, ở Thì trong luật lữ là Trọng lữ, Chi kiến Tị, Nguyệt phần 4, Nhật ở Thực trầm, tiết lệnh là Tiểu mãn – Mang chủng. Quẻ thẳng gồm: Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, Lôi Thiên Đại tráng, Hỏa Thiên Đại hữu, Trạch Thiên Quải, đều có tượng vật càng nhiều thịnh. Quẻ Đại tráng đang ở giữa Hội Tị. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Nhu, quẻ Tiểu súc chủ khí Tiểu mãn, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Đại hữu, quẻ Quải chủ khí Mang chủng, hào biến đều 15, niên số đều 5400, hào nhuận quẻ Thuần Càn hào 5 biến thành quẻ Hỏa Thiên Đại hữu, hào Trên biến thành quẻ Trạch Thiên Quải cũng chia ra mà làm chủ đấy, trước khởi vận Giáp 151 Thế Tý 1801, sau khởi vận Kỷ 166 Thế Tý 1981, xong đến Quý Hợi, lại 360 hội Tị vòng quanh đủ vậy. Thanh trời dùng 5 biến Mậu dùng Đại cung, âm đất dùng 6 ứng Kỷ dùng thanh Giốc, Nhật xướng Thủy họa, lúc rất thịnh khí nối du! Trên Tị vòng quanh trời dùng 6 dương.

THÁNG NGỌ: hội thứ Bẩy ; từ Tị đến Ngọ, dương lên đã cùng cực, là lúc âm nghĩ muốn tranh đoạt nương lên trước vậy, ở Thì trong luật lữ là Nhuy Thực, Chi kiến Ngọ, Nguyệt phần 5, Nhật ở Thuần thủ, ở thì tiết lệnh Hạ chí - Tiểu thử. Quẻ thẳng gồm: Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Thuần Tốn, đều có tượng vật nảy mầm mà âm loại bỏ đi. Quẻ Đỉnh đang ở giữa hội Ngọ. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Cấu, quẻ Đại quá chủ khí Hạ chí, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Hằng, quẻ Thuần Tốn chủ khí Tiểu thử, hào biến đều 15, niên số đều 5400. Quẻ Tập Khảm làm chủ bắt đầu vào việc, hào Sơ quẻ Tập Khảm biến thành Thủy Trạch Tiết, hào 2 biến thành Thủy Địa Tỷ, cũng chia ra để cùng làm chủ. Trước khởi vận Giáp 181 Thế Tý 2341, xong rồi đến Quý Hợi, lại 360 hội Ngọ là vòng quanh đủ vậy. Thanh trời dùng 6, âm đất dùng 7, xướng họa như Thần là Nam Bắc nóng rét đến cực.

Xét Bính Mậu cùng ở Tị (ngôi Lộc), Thanh trời chưng 3 – 5 gồm cả Đinh Tị giao Ngọ thời 4 với 6 là Thanh vậy. Xướng họa là cơ Nam không sinh vật. Lại xét trong hội Tị, bậc Hoàng xuống bậc Đế, vua Hoàng đế Nghiêu Thuấn làm Vua, thông biến trị dân tốt, ứng vào Càn nguyên tóm ở Trời. Bậc Thánh làm loài vật thấy, Đại hữu là phúc trời, quẻ Quải là tượng văn chương rực rỡ, cho nên đức Trọng ny xem trời, suy lịch mà đoán từ đời Đường Ngu là hội Ngọ giao, nhà Hạ chựu nhà Ngu truyền ngôi gồm 8 năm, Cấu biến Càn, vua Trọng Khang dựng ngôi. Biến quẻ Độn mà nhà Hạ mất ngôi, nhà Thương dấy lên. Biến quẻ Tụng, vua Tổ Đinh nhà Thương làm vua được 19 năm. Biến quẻ Thuần Tốn, nhà Chu Đế đánh nhà Thương, đến năm thứ 2 vua Khang Vương. Biến quẻ Đỉnh, vua Hoàn nhà Chu, quẻ Đại quá vua Hiển vua Noãn nhà Chu, nhà Tần truyền 2 đời vua, nhà Hán dấy lên, bèn thẳng Đại quá, hào Sơ biến quẻ Quải là năm thứ 4 vua Bình vương nhà Hán. Sau đến đời Tam quốc gồm nhà Tấn, biến quẻ Hàm thời nhà Tấn suy, hai năm rưỡi trải đời Ngũ đại, mà nhà Đường dấy lên. Biến quẻ Khốn là năm thứ 13 vua Đường Nguyên Tông, thì lấy thẳng quẻ Trạch Địa Tụy hào 3 biến quẻ Hàm. Biến quẻ Hàm, vua Thái tổ nhà Tống chựu mệnh trời làm Vua, thực ở Hội này vậy. Từ đó mà lần lượt suy làm Thủy Sơn Kiển, Lôi Sơn Tiểu quá, Thiên Sơn Độn mà là Đỉnh vậy.

THÁNG MÙI: hội thứ Tám ; là lúc âm nhu lớn dần, dương cương tiêu dần, ở Thì trong luật lữ là Lâm Chung, Chi kiến Mùi, Nguyệt phần 6, Nhật ở thuần Hỏa, thì ở tiết Đại thử - Lập thu. Quẻ thẳng gồm: Thủy Phong Tỉnh, Sơn Phong Cổ, Địa Phong Thăng, Thiên Thủy Tụng, Trạch Thủy Khốn, đều có tượng vật sợ thịnh quá, quẻ Thăng đang ở giữa hội Mùi. Hào 9 – 3 trở về trước cùng với quẻ Tỉnh, quẻ Cổ là chủ khí Đại thử, hào 6 -4 trở về sau cùng với quẻ Tụng quẻ Khốn làm chủ khí Lập thu, hào biến đều 15, niên số đều 5400. Hào quẻ Nhuận là quẻ Tập Khảm, hào 3 biến thành quẻ Tỉnh, hào 4 biến thành quẻ Khốn cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 211 Thế Tý 2321, sau khởi vận Kỷ 526 Thế Tý 2701, xong rồi quay sang Quý Hợi lại 360 hội Mùi là đủ vòng vậy. Thanh trời dùng 6 đã nửa Chủy biến Cung, âm địa dùng 12, đá họa tiếng tinh (sao), cho tới vận đi sinh vật mà làm nói vậy du!

THÁNG THÂN: hội thứ Chín ; từ Mùi đến Thân là lúc âm nhu bên trong che đậy, dương cương bên ngoài tiêu vậy, ở Thì trong luật lữ là Di Tắc, Chi kiến Thân, Nguyệt phần 7, Nhật ở Thuần vỹ, ở thì tiết Sử thử - Bạch lộ. Quẻ thẳng gồm: Hỏa Thủy Vị tế, Lôi Thủy Giải, Phong Thủy Hoán, Sơn Thủy Mông, Địa Thủy Sư đều có tượng vật khí thu góp lại. Quẻ Hoán đang ở giữa hội Thân. Hào 6 – 3 trở về trước cùng quẻ Vị tế và quẻ Giải làm chủ khí Xử thử, hào 6- 4 trở về sau cùng với quẻ Mông, quẻ Sư làm chủ khí Bạch lộ, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khảm hào 5 biến thành quẻ Sư, hào 6 biến thành quẻ Hoán, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 241 Thế Tý 2881, sau khởi vận Kỷ 256 Thế Tý 3061 cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Thân vòng đủ vậy. Thanh chỉ 7 Canh làm Thiếu thương, âm đất ứng Nhật, chỉ 9 ứng nhật nguyệt đến 12, Nhật vào Nguyệt ra ở phương Canh vậy.

THÁNG DẬU: hội thứ Mười ; từ Thân đến Dậu là lúc Âm nhu đạp lên trên, dương cương chựu thời xuống vậy, ở Thì trong luật lữ là Nam lữ, Chi kiến Dậu, Nguyệt phần 8, Nhật ở Thọ tinh, thì ở tiết Thu phân – Hàn lộ. Quẻ thẳng gồm: Thiên Sơn Độn, Trạch Sơn Hàm, Hỏa Sơn Lữ, Lôi Sơn Tiểu quá, Phong Sơn Tiệm, đều có tượng vật hậu mát trong, quẻ Lữ đang ở giữa hội Dậu. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Độn quẻ Hàm làm chủ khí Thu phân, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Tiểu quá và quẻ Tiệm làm chủ khí Hàn lộ, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khôn dùng việc, hào Sơ biến thành quẻ Phục, hào 2 biến thành quẻ Sư, cũng đều chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 271 Thế Tý 3241, sau khởi vận Kỷ 286 Thế Tý 3421, cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Dậu đủ vòng vậy. Thanh trời dùng hết làm Thiếu vũ, Nhật 8 số không đi, âm đất dùng 10 hóa Thổ hòa với Nguyệt tinh, âm còn có chữ, đến đêm lửa sáng, không cách ban ngày, đất về mùa Đông sinh sôi, không khác gì 3 mùa trước vậy.

THÁNG TUẤT: hội thứ Mười Một ; từ Dậu đến Tuất là lúc âm nhu lớn đi, dương cương thời hết vậy, ở Thì trong luật lữ là Vô Xạ, Chi kiến Tuất, Nguyệt phần 9, Nhật ở Đại hỏa, ở thì tiết Sương giáng - Lập đông. Quẻ thẳng gồm: Thủy Sơn Kiển, Thuần Cấn, Địa Sơn Khiêm, Thiên Địa Bĩ, Trạch Địa Tụy, đều có cảnh tượng vật vã điêu lạc, quẻ Khiêm là quẻ ở giữa hội Tuất. Hào 9 – 3 trở về trước cùng với quẻ Kiển và quẻ Thuần Cấn làm chủ khí Sương giáng, Hào 6 – 4 trở về sau cùng với quẻ Bĩ và quẻ Tụy làm chủ khí Lập đông, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khôn dùng vào việc, hào 3 biến thành quẻ Khiêm, hào 4 biến thành quẻ Dự, cũng chia ra mà làm chủ. Trước khởi vận Giáp 301 Thế Tý 3601, sau khởi vận Kỷ 316 Thế Tý 3781, cuối đến Quý Hợi, lại 360 hội Tuất vòng hết vậy. Thanh rỗng không âm hòa có chữ, hành Thủy chỉ 9, chỉ 12 biến, dùng Dậu Tuất ứng Nhật, thửa số quẻ Bĩ, Thuần Cấn trở lên vậy.

THÁNG HỢI: hội thứ Mười Hai ; từ Tuất đến Hợi là lúc thuần âm tích chứa ở trong, chỉ còn dương nhỏ tiêu hao ở ngoài, ở Thì trong luật lữ là Ứng Chung, Chi kiến Hợi, Nguyệt phần 10, Nhật ở Tích Mộc, ở thì tiết Tiểu tuyết - Đại tuyết. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Địa Tấn, Lôi Địa Dự, Phong Địa Quan, Thủy Địa Tỷ, Sơn Địa Bác, đều có cảnh tượng vật đang cất dấu. Quẻ Quan đang ở giữa hội Hợi. Hào 6 – 3 trở về trước cùng với các quẻ Tấn Dự làm chủ khí Tiểu Tuyết, hào 6 – 4 trở về sau cùng với quẻ Tỷ quẻ Bác làm chủ khí Đại tuyết, hào biến đều 15, số năm đều 5400, dẫu đi đất chẳng thấy, có thể lấy lệ mà nghĩ, đó là Quan Ích trở xuống làm không số nhuận hào 5 quẻ Khôn biến thành quẻ Tỷ, hào Thượng biến thành quẻ Bác, chia chủ cũng đồng. Trước khởi vận Giáp 331 Thế Tý 3961, sau khởi vận Kỷ 346 Thế Tý 4241, cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Hợi vòng hết vậy. Thanh trời dùng 10 Quý hợp với Thiếu Giốc, âm đất dùng 12 Hợi làm biến cung, nước để hòa Nhật, từ đó hết vòng quay lại, chỗ giao tế dưới Trinh khởi Nguyên du!

Bảo rằng, lấy 1 Nguyên làm kinh 12 Hội, như lấy Năm kinh Tháng, lấy 1 năm làm kinh 12 tháng, vì 1 năm 12 tháng thâu tóm 360 ngày, cộng 4320 giờ, chứa 129600 Phân. Một Nguyên chứa 12 Hội, thâu tóm 360 Vận, cộng 4320 Thế, chứa 129600 năm. Cho nên, Sao lấy tương đương với Phân, Thế lấy tương đương với Thời, Vận lấy tương đương với Nhật, Hội lấy tương đương với Nguyệt, Nguyên lấy tương đương với Tuế, diễn ra thời vô cùng, thắt lại thời không mấy, đều về mà dùng ở 1, 1 ấy là Nguyên vậy, Nhật Giáp 1, Nguyệt Tý 1, Sao Giáp 1, Thần Tý 1, theo lần lượt mà sinh, bèn có 12 Hội, đó bảo là lấy Nguyên kinh Hội, mà Hội Vận Thế, lần lượt thay nhau làm Kinh, hết thẩy đều gốc ở Nguyên. Duy ấy, trời đất sinh ra số muôn vật, chọn Nguyên làm Càn, Càn để chia đấy, chọn Đoài làm Hội, chọn Ly làm Vận, chọn Chấn làm Thế, càng chia thời càng nhỏ, số tích càng nhiều. Cho nên 1 phân chia 12, 12 phân chia 360, 360 phân chia 4320, lại chia mà 129600 vậy, bèn là số Thái cực sinh ra trời đất. Chọn Nguyên lại làm Chấn, Chấn lấy lớn đấy, Ly tương đương Hội, Đoài tương đương Vận, Càn tương đương làm Thế, càng lớn thời càng to, thì số dùng càng thắt buộc lại, cho nên 129600 thắt buộc lại mà làm 4320, lại thắt nữa mà làm 360, lại thắt nữa mà làm 12, rồi bao gồm về dùng 1, phàm làm cái số lớn lên mà to ra là thế. Chia thời nghịch lại, lớn thời thuận đi, đi lại thuận nghịch cũng lẫn lộn, 1 vị 8 quẻ trong đó mà thuận đi, nghịch lại ấy chỉ 4, quẻ trời giao trời, thể ở trong và thể ở ngoài, đều chẳng lìa dùng Càn Đoài Ly Chấn tự giao. Thuận đi có 4 quẻ trời giao đất, Thế ở trong dùng Chấn Ly Đoài Càn, Thế ở ngoài dùng Khôn Cấn Khảm Tốn đó vậy.

Cho nên, quẻ phương tả ấy nghịch lại 16 quẻ bao gồm: Thuần Càn, Trạch Thiên Quải, Hỏa Thiên Đại Hữu, Lôi Thiên Đại tráng, Thiên Trạch Lý, Thuần Đoài, Hỏa Trạch Khuê, Lôi Trạch Quy muội, Thiên Hỏa Đồng nhân, Trạch Hỏa Cách, Thuần Ly, Lôi Hỏa Phong, Thiên Lôi Vô vọng, Trạch Lôi Tùy, Hỏa Lôi Phệ hạp, Thuần Lôi. Trong đó, 16 quẻ này, đều lấy thứ tự để chia: Nguyên - Hội - Vận - Thế, từ trên xuống dưới, khởi từ quẻ Thuần Càn đến quẻ Thuần Lôi.

Đồng thời, quẻ phương tả thuận đến cũng 16 quẻ gồm: Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại Súc, Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, cũng đều lấy thứ tự để chia Nguyên - Hội - Vận - Thế từ dưới lên trên, bắt đầu khởi từ quẻ Phục đến quẻ Tiểu súc vậy.

Đến ở bên hữu tóm ở bên tả, là Đất theo Trời, quẻ Sơn Địa Bác theo (trông coi) quẻ Trạch Thiên Quải, quẻ Cấu theo (trông coi) quẻ Phục, mỗi một quẻ đều có quẻ làm đối vị, chia lấy đồng đều. Đồng thời quẻ chủ nhuận gồm 4 quẻ Ly Càn Khảm Khôn, tả hữu chia thẳng đều tóm 15 hào. Quẻ Ly khởi trong Tý, quẻ Phục hết trong Mão và quẻ Đồng nhân. Quẻ Thuần Càn khởi trong Mão, quẻ Lâm hết trong Ngọ và quẻ Quải. Quẻ Thuần Khảm khởi trong Ngọ, quẻ Cấu hết trong Dậu và quẻ Sư. Quẻ Thuần Khôn khởi trong Dậu, quẻ Độn hết trong Tý và trong quẻ Bác.

Quẻ Thuần Ly dùng trong chủ 3 Hội, Hội Tý khí Đông chí - Tiểu hàn, Hội Sửu khí Đại hàn - Lập xuân, Hội Dần khí Vũ thủy – Kinh trập. Quẻ Thuần Càn chủ 3 Hội, Hội Mão khí Xuân phân – Thanh minh, Hội Thìn khí Cốc vũ - Lập hạ, Hội Tị khí Tiểu mãn – Mang chủng. Ở đây, 2 quẻ Thuần Ly và Thuần Càn, Sao (Tinh) cùng Nhật dùng việc ở 6 dương mà thâu tóm dùng Thần Nguyên âm vậy.

Quẻ Tập Khảm làm chủ 3 Hội: Hội Ngọ khí Hạ chí - Tiểu thử, Hội Mùi khí Đại thử - Lập thu, Hội Thân khí Bạch lộ - Sử thử. Quẻ Thuần Khôn làm chủ 3 Hội: Hội Dậu khí Thu phân – Hàn lộ, Hội Tuất khí Sương giáng - Lập đông, Hội Hợi khí Tiểu tuyết - Đại tuyết. Hai quẻ Tập Khảm và Thuần Khôn, Thủy cùng Thổ thu khí ở 6 âm, dùng nhu mà thâu tóm Thạch Hỏa dùng dương cương vậy.

Cho nên, từ Hội Tý mà nói, trước làm Hợi Tuất 2 Hội, trời đất hỗn độn, rối beng chưa mở mang, là số không đến Hội Tý, như một ngày nửa đêm giờ Tý, âm cùng cực sinh dương, gốc trời nảy mầm dần dần ở dưới mà biến Phục. Quẻ Khôn Phục giao nhau, chính là khoảng giữa 1 động 1 tĩnh, Thái cực sinh ra quẻ đầu tiên của trời đất, thẳng làm Phục, Di, Truân, Ích mà đi nhanh đến Chấn, nguyên khí cắt chia, trong nhẹ lên trên, bèn có Thần Sao (Tinh), Nhật Nguyệt hợp làm 4 tượng của Trời, cho nên nói “ trời mở ở Tý”, tuy chưa rõ rệt lớn, đã thành thai nghén, như mẹ Khôn có chửa sinh trai Chấn, bấy giờ nước lửa gỗ đá cũng thuận, nên mà sum họp đầy đủ, rỗng không yên lặng, không có trong điều gì sắp xẩy ra vậy.

Do đó, 1 khí chuyển vận, nhẹ trong nổi lên trên, nặng đục rơi xuống dưới, thời ngưng tụ thành đất, cho nên nói “đất mở ở Sửu”, là đang hội Sửu chứa khối mới thành đất đá, cái khí ẩm, nhuận, ráo, nóng chia làm Nước - Lửa, 4 cái thành Tượng, đất ở giữa trời tiếp trời đi có mùa, yên lặng không động. Quẻ thẳng làm Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, trong đó quẻ Minh di là số giao sau cùng, còn quẻ Bí là số dùng trước vậy.

Trời Đất đã dựng, Người Vật bèn sinh, ra Sửu vào Dần, là Hội mở Vật, từ cái không tới cái có, tối ấy hướng về sáng. Tượng còn đêm mà là sáng sớm, mùa Đông mùa Xuân vậy. Ban đầu trời đất hun đúc hóa thuần nên chạy, bay, cỏ, cây, chẳng thai, trứng, chẳng hột, mà quẻ đều lấy “Khí” mà hóa ra, sau trai gái gây nên tinh mà hóa sinh. Loài chạy, bay, cỏ, cây, chẳng loài nào là không thai trứng, hột, quả, đều hóa lấy hình, loài khí hình hóa không cùng, khí làm hình, chuyên hình lấy loại diễn khí, hóa mà ít lấy hình nhỏ, hóa mà nhiều lấy hình lớn. Người sinh ở Dần, quý mà thâu tóm Vật, thì ra ở Chấn quay về sáng, chủ đồ dùng ngự trị, ba tài gây dựng, mà muôn vật sinh sôi ở Hội này du!

Đó là buổi ban sơ của Ngày, buổi đầu của Thời, bắt đầu đời Hoàng vậy. Vậy thì Trời, Người ở đời Tam Hoàng, tức là Tý-Sửu-Dần, là thời 8 dương vậy, là thời Mộc đức đương vượng, lửa cháy dùng võ, quẻ Ly thâu tóm Hội Người, trị mở sáng, xem ở lưới đánh cá bắt chim, cầy bừa, thức ăn, tiền của giao dịch, 8 quẻ làm chữ văn khế, cùng lịch luật, đều khởi tự Giáp Dần, Đạo ấy là rực rỡ. Đạo Hoàng dạy dỗ dân, Hàm Lâm ung dung gìn giữ, thắt lại quẻ Tổn chế, quẻ Tiết quẻ Trung phu dụng về điều nhân, quẻ thuần Ly hết mà quẻ thuần Càn khởi lên, Hội giao tế giữa Mão, cho nên quẻ thẳng là Lâm, Tổn, Tiết, Trung phu, Quy muội, cùng với Thời hiệp ứng.

Đó từ thời vua Hy Hoàng trở về sau, bản chép Tuần không (bản chép của đời Thượng cổ?) chuyện mà nhân đề ra việc giá thú, hợp mà làm đôi lứa vợ chồng, lấy da thú làm nghi lễ, nhạc điển, lấy giây tơ làm đàn sắt. Ôi! há không có nguyên nhân ư? Kịp đến hội Thìn, quẻ Khuê khác, mà đồng quẻ thuần Đoài, lấy quẻ Lý mà biện rõ chia định, quẻ Thái giao mà chí thông, Đại súc giầu có mà ngày mới, đạo hóa càng thịnh, đức giáo phổ biến. Đã lên tới quẻ Ích ở Tị, vận Đế cả sáng, nhân nâng đỡ sự biến, mà truyền ngôi Vua, quẻ thẳng trong chủ thuần Càn cương, thẳng ngoài quẻ Khảm mây, Tốn gió, Chấn sấm, Ly lửa, giao nhau mà động, thay đổi tiến lên, mà ơn bố ra, trên trời thì từ Nhu, Tiểu súc, mà lớn ấy mạnh, có lấy đại dùng dương quyết ở cô âm, ở tượng làm quẻ Quải. Bấy giờ vua Hiên, hiệu Chuyên Húc đến Nghiêu Thuấn 1 Càn nguyên thâu tóm trời, cưỡi 6 rồng, đều là mọi vật, tượng yên muôn nước vậy. Đó là thời trời không có tên, cao cao lồng lộng, đưa ông Vua rất mực vậy, vận đời Đế thịnh tốt du! Đức Trọng Ny suy lịch số, đoán từ đời Nghiêu Thuấn, sợ như mặt trời đương giữa trời, Tị rồi đến Ngọ, giao nhau đến rất thịnh, không gì hơn được nữa. Từ Phục đến Càn, do Tý mà Ngọ, 6 hội trước làm kẻ trưởng giả, đến đó là thôi, vận bậc Hoàng Đế, ngày mở ngày đóng, mà cùng cực đến nay vậy. Từ đây, Âm sinh giữa Ngọ, bậc Đế xuống bậc Vương, nhà Hạ gặp Cấu Sơ, nhà Ân Chu gặp Cách, mệnh gồm trải 6 vận, trải Cấu 6 hào, 72 Thế, 2160 năm. Trong khoảng ấy, Vương xuống Bá, Bá xuống Dịch (giống Rợ ở phương Bắc). Khổng Tử sinh cuối đời Chu, chép Thiên Tần thể Đế nối bậc Vương, ở thì quẻ Cấu dụng hào 9 – 5. Đến vua Chính nhà Tần thôn tính 6 nước và 2 nhà Cưu, mà bắt đầu xưng là bậc Hoàng, thời vận Cấu Giốc, Chu bị Tần làm mất, Tần bị Sở diệt, Sở bị Hán bắt, còn dư bậc Bá, Rợ Dịch thì lại gần việc Vương. Thế Vận từ Cấu mà biến, giao Càn ứng Phục, có như thế đó, Cấu về sau là Đại quá, là Đỉnh, là Hằng, lấy đến dụng Tốn, Hội Ngọ là Chu Hán đến nay. Còn ở hội Ngọ 12 vận, đương đây chựu mệnh Thánh nhân, vốn có Đại quá, tài đức hơn người ta, Đỉnh dựng Hằng lâu, mà Tốn ở đạo trời, không thể thôi vậy, từ đó mà Cổ, mà Tụng, mà Khốn, thẳng đến Hội Mùi mà Vị Tế, mà Giải, mà Hoán, mà Mông cùng Sư. Thẳng đến Hội Thân, bầy vị Tốn 8, bầy vị Khảm 7, mà Khảm làm nhuận quái chia chủ 3 hội như Càn Ly vậy. Như quẻ thẳng của Hội Dậu rằng Độn, Hàm, Lữ, Tiểu quá rồi Tiệm. Quẻ thẳng của Hội Tuất có Kiển, Cấn, Khiêm, Bĩ, Tụy. Quẻ thẳng của Hội Hợi có Tấn, Dự, Quan, Tỷ, Bác, lại đều dùng quẻ Thuần Khôn làm quẻ Nhuận, chia chủ 3 Hội, cùng với Ly, Càn, Khảm ứng 24 khí biến đổi, rời đổi vần chuyển cơ, trưởng đấy mà tiêu đấy. Từ Ngọ đến Hợi, Khảm Khôn 6 hội làm tiêu, chừng ấy thời thôi.

Suy vận số lớn nhỏ, trời biến 16, đến Cấu thời biến hào Sơ, để tóm hợp ở Càn thửa 7 tỷ 9 ngàn chở xuống, đến số 36 triệu, hết thẩy về Càn là thôi, tối đa không thể lại nhân nữa, cho nên bỏ đi. Cấu giao thì Càn ứng Phục, Đại quá giao thì Quải ứng Di, Đỉnh giao thì Đại hữu ứng Truân, Hằng giao thì Đại tráng ứng Ích. Tả hữu bầy bằng Nguyên ứng: Nguyên, Hội, Vận, Thế, đều đương 1 Sao, 12 đương Sao của Phân, 360 đương Sao của Thời, 4320 đương Sao của Nhật, 129600 đương Sao của Nguyệt, cho nên số Sao của Nguyệt tương đương Phân của Niên, Thời của Thế, Nhật của Vận, Nguyệt của Hội, Niên của Nguyên, số đều là 129600. Giả sử số Nguyệt mà làm Niên, làm Thế, làm Vận, làm Hội, làm Nguyên, thì số cử hết thảy vậy, Phân tách làm Sao, làm Phân, làm Thời, làm Nhật, chọn số để mà suy, khi ta cho 1 Nhật cũng như 1 Nguyên, thì suy ra: số của Thời được số của Hội, số của Phân được số của Vận, số của Sao được số của Thế. Khi coi 1 Sao cũng như 1 Nhật, thì số của Sao được số của Nhật, đồng ở Nguyên, khi chứa 12 Sao, thì được 12x129600= 1555200 làm số Sao của Phân, nếu chứa 360 Sao, thì được 360x129600=46656000 làm số Sao của Thời, nếu chứa 4320 Sao, thì được 4320x129600=559872000 làm số Sao của Nhật, khi chứa 129600 Sao, thì được 129600x129600=16796160000 làm số Sao của Nguyệt. Đó là số 1 Nguyệt tương đương 129600 số của Sao, Thế mà gặp 5 biến, thì làm 1 Vận thâu tóm ở Nguyên. Do đó, lấy Sao tương đương với Niên chẳng nhỏ làm nhóm, cũng không lý khác.

Cho nên, khi Tốn giao thì Tiểu súc ứng Chấn làm Thế của Thế, khi Tỉnh giao thì Nhu ứng Phệ hạp làm Thế của Vận, khi Cổ giao thì Đại súc ứng Tùy làm Thế của Hội, khi Thăng giao thì Thái ứng Vô vọng làm Thế của Nguyên. Nguyệt chứa 129600 Sao lớn mà làm Nguyên, chứa 1555200 Thời cũng làm Sao của Niên, lại chứa Nhật lớn làm Nguyên chứa 46656000 Thời cũng làm Sao của Thế, lại chứa Thời lớn mà làm Nguyên chứa 559872000 làm Sao của Vận. Trở lên, số của quẻ Tỉnh giao, quẻ Cổ giao, quẻ Thăng giao, sẽ lần lượt ứng tích chứa, là Sao của Thế vậy.

Lại chọn Phân lớn mà làm Nguyên, chọn 16796160000 làm số Sao của Hội, tương ứng với quẻ Tụng giao thì Lý ứng Minh di, để làm Hội của Nguyên, lại tóm Sao của Nguyên là 1679616000x12=201553920000, tương ứng với quẻ Khốn giao thì có thuần Đoài ứng Bí làm số Hội của Hội. Phàm Nguyên dùng: Nguyên, Hội, Vận, Thế, Niên, Nguyệt, Nhật, Thì, Phân, Sao đều là 129600, gặp 10 thời biến mà làm 1, gặp 5 gặp 10 biến mà làm 1 ấy, đều số vòng quanh đủ 4 quẻ, mà dùng về ở 1 Nguyên vậy.

Duy ấy, Nhật Nguyệt biến Nguyên Hội giao, từ quẻ Lý, thuần Đoài là bắt đầu Nguyên của Hội, có 12 Hội. Từ quẻ Tụng giao, số gấp 12 lần được 12 x 129600 = 1555200, hợp số quẻ Lý là 129600 x 129600 =16796160000, làm 1 Phân 12 Sao. Tiếp đến Hội của Hội là số 144. Từ quẻ Khốn giao, 144 dùng số 129600 x 144 = 18662400, số hợp của quẻ Thuần Đoài là 16796160000x12=201553920000, (2015 ức 5392 vạn) 12 Phân, 12 ấy là 1, 144 ấy là 12. 1 cùng với 12 nhân lên với nhau, mà phép Nhuận thành lập. Quẻ Quan quẻ Bĩ số giao, quẻ ứng Ký tế làm Hội của Vận, 12 thửa số thì được 201553920000x30=6046617600000 (6 vạn 466 ức 1760 vạn) làm 12 Nhật, chứa 6046617600000x30=181398528000000 (181 vạn 3985 ức 2800 vạn), thời là số 1 tháng 30 ngày. Đến quẻ Hoán giao thì quẻ Trung phu ứng với quẻ Phong. Quẻ thuần Khảm giao thì quẻ Tiết ứng với quẻ Lý. Quẻ Mông giao thì quẻ Tổn ứng với quẻ Cách. Quẻ Sư giao, thì quẻ Lâm ứng với quẻ Đồng nhân, gồm làm vận số của Thế, Vận, Hội, Nguyên.

Quẻ Hoán thời 12 tháng, là 181398528000000x12=2176782336000000 (2176 vạn 7823 ức 3600 vạn) làm 1 năm. Quẻ Khảm thời dùng 90 năm được (2 triệu 6121 vạn 3880 ức 3200 vạn) 2176782336000000 x 12= 26121388032000000 làm 1 Thế.

Tiếp đến Quẻ Mông thời 12, là 26121388032000000x30=783641640960000000 (78 triệu 3716 vạn 6409 ức 6000 vạn) làm 1 Vận. Tiếp đến quẻ Sư thời lại 12 số Vận, gồm 783641640960000000x12=9403699691520000000 (940 triệu 3699 vạn 6915 ức 2000 vạn) là nó vậy.

Bởi vì, 1 Nguyên có 12 Hội, lại lấy 1 Hội có 12 Vận, lại lấy 1 Vận có 12 Thế, thời lấy 1 Thế làm 12 năm, 1 năm làm 12 tháng, 1 tháng làm 12 ngày, 1 ngày làm 12 giờ, thời lấy 1 giờ làm 12 Phân, mặt trời chuyên sáng ở ban ngày, mỗi tháng 18 ngày có 216 giờ, ứng với số Thẻ của quẻ Càn. Mặt trăng thay sáng ban đêm, mỗi tháng 12 ngày có 144 giờ, ứng với số Thẻ của quẻ Khôn. Mà 1 Hội có 12 Vận, có 144 Thế, có 4320 năm, 5 vạn 1840 tháng (4320 x 12) đều từ 12 Phân 144 Sao chứa đấy.

Lấy 1 Hội có 30 Vận mà kể, thời có 30 x 12 = 360 thế, có số năm là: 360 x 5 quẻ = 1800 năm, có số tháng là: 1800 x (12 x 6) = 129600 tháng, có số ngày là: 129600 x 30 = 3888000 ngày, có số giờ là 3888000 x 12 = 46656000 giờ, có số Phân là 46656000 x 30 = 1399680000 Phân (13 vạn 99 ngàn 68 vạn), có số Sao là 1399680000x12=16796160000 Sao. Đến ngày tháng giao cảm thì 1 cùng với 12 cùng nhân lên.

Lấy từ quẻ Lý làm 1 Hội có 12 Vận, nghịch trải qua 4 quẻ Đoài, Khuê, Quy muội rồi đến quẻ Trung phu thì có 12 x 12 = 144 Thế, có số năm là: 144 x 5 = 720 năm, có số tháng là: 720 x 12 = 8640 tháng, có số ngày là: 8640 x 30 = 259200 x 6 hào = 1555200 ngày (12 x 129600), như vậy đến quẻ Phong Trạch Trung phu, thì số 1555200 là số làm số của Ngày. Nghịch đến quẻ Thủy Trạch Tiết, thì số: 1555200 x 12 = 18662400 là số làm số của Giờ. Nghịch đến quẻ Sơn Trạch Tổn, thì số: 18662400 x 30 = 55987200 là số làm số của Phân. Nghịch đến quẻ Địa Trạch Lâm, thì số: 55987200 x 12 = 6718464000 là số làm số của Sao.

Mỗi Thế làm 1 năm, ở quẻ Lý thời Sao hội ở quẻ Tiết, 1 tháng 12 ngày ở quẻ Lý thời Sao thôi dừng lại ở quẻ Quy muội, khí sóc do đó để giao, ngày 1 đại vận mà tiết 6 ngày, tháng 1 đại vận mà lùi 6 ngày, đó là Tuế sai (năm coi không đúng). Cho nên ở 1 lấy 12, thì Trời từ quẻ Địa Trạch Lâm (8-2) trở lên, Đất từ quẻ Địa Thủy Sư (8-7)trở lên, vận số khí đấy, sóc hư (rỗng) chừng ấy bình định. Cho nên, ngày 1 cùng 12 nhân lên, mà phép Nhuận thành lập, đó là lúc Nhật Nguyệt giao cảm, gặp hội Thân Dậu du! Vì có phương Canh, Trăng mọc mặt Trời sắp lặn vậy. Thuận đi như Độn 1-7, Hàm 2-7, Lữ 3-7, Tiểu quá 4-7 mới biến, giao với Đồng nhân 1-3, Cách 2-3, Thuần Ly 3-3, Phong 4-3 ứng nghịch lại. Trong đó Lâm 8-2, Tổn 7-2, Tiết 6-2, Trung phu 5-2, thì lấy số của quẻ Lâm làm Vận của Nguyên, 360 biến mà 129600 hợp 12 giờ, số làm 1 ngày, Đại hữu tương đương Sao số của Giờ tự cùng nhân lên, là số của Tiểu súc. Lại biến 16796160000 hợp với 30 ngày, số làm 1 tháng Tiểu súc tương đương số Sao của tháng, tự cùng nhân lên, thời làm số quẻ Lý khởi Phân của Hội vậy. Lại biến 2 vạn 8211 triệu 990 vạn 7456 ức, hợp số 12 tháng làm 1 năm. Quẻ Lý đương số Sao của Hội, tự cùng nhân lên, thời Đồng nhân hợp số năm của 1 Nguyên vậy. Quẻ Trung phu số năm, nhân lên lấy 129600 cũng đồng nhau.

Xét trước sau hợp 6 kỳ hạn, trưởng tiêu tấn thoái 360 ngày, mà số của Năm bởi đó mà thành lập. Quẻ Hàm làm Vận của Hội, chứa 33 vạn 8533 triệu 1888 vạn 9472 ức, ấy là 12 năm số 4320 ngày. Quẻ Sư làm Vận của Vận, chứa 1015 vạn 5995 triệu 6668 vạn 4160 ức, đó là số 360 và 129600 ngày. Quẻ Tiểu quá là Vận của Thế, chứa 1 kinh 2187 vạn 1987 triệu 20 vạn 9920 ức, đó là 4320 năm 155 vạn 5200 ngày. Như 129600 năm 4665 vạn 6000 ngày, chứa làm 36 kinh 5616 vạn 8440 triệu 629 vạn 7600 ức, thời quẻ Tiệm giao mà Gia nhân ứng với Quy muội làm Hội của Thế, số cùng nhân lên như thế, trừ số Đồng nhân, lấy 20 Cách được 1 làm số tháng 2350 triệu 9249 vạn 2288 ức, trừ số quẻ Cách lấy 30 số,quẻ Lý được 1 làm số ngày 78 triệu 3641 vạn 6409 ức 6000 vạn, trừ số quẻ Ly lấy 12, thì số quẻ Phong được làm số giờ 6 triệu 5303 vạn 4700 ức 80 vạn, trừ số quẻ Phong lấy 30, quẻ Gia nhân được 1 làm số Phân 2176 vạn 7823 ức 3600 vạn. Quẻ Trung phu số năm đồng như thế, tất lấy 1 năm làm 1 Phân, 1 tháng làm 1 Sao, rồi Sao Phân tiến lui, khá được mà thừa (nhân lên) trừ đi.

Hội Dậu, mặt trời lặn mặt trăng mọc, Sao theo Trăng mà hiện ra, cho nên Sao 30, số Thần 12, thay đổi nhau cùng làm nhân lên, lại theo mà trừ đi, thời số Phân tức là số Năm vậy. Xét 1 vận 12 Thế 360 năm 4320 tháng 129600 ngày 1555200 giờ 46656000 phân (1555200 x 30) 55987200 sao (4665600 x 12). Nếu lấy 1 làm Ngày, thì quẻ Độn giao với quẻ Đồng nhân làm Phân, quẻ Hàm giao với quẻ Cách làm Giờ, lấy ngày tháng kịp đến năm, đều ngược lại, khá lấy loại mà suy vậy (suy: quẻ Lý giao với quẻ Lữ làm Ngày, quẻ Tiểu quá giao với quẻ Phong làm Tháng, quẻ Gia nhân giao với quẻ Tiệm làm Năm).

Đây nói, quẻ Kiển 6-7 giao, thì quẻ Ký tế 6-3 ứng với quẻ Khuê 3-2 làm Hội của Vận. Quẻ Thuần Cấn 7-7 giao, thì quẻ Bí 7-3 ứng với quẻ thuần Đoài làm Hội của Hội. Quẻ Khiêm 8-7 giao, thì quẻ Minh di 8-3 ứng với quẻ Lý 1-2 làm Hội của Nguyên. Quẻ Kiển thời tương đương 1555200 tháng, chứa 438 kinh 7390 vạn 1280 triệu 7557 vạn 1200 ức. Tiếp đến quẻ Thuần Cấn, thì tương đương 46656000 ngày gộp chứa 1 vạn 3167 kinh 1703 vạn 8422 triệu 6713 vạn 6000 ức. Tiếp đến quẻ Khiêm, thì tương đương 559872000 giờ, gồm chứa 15 vạn 7946 kinh 446 vạn 1072 triệu 863 vạn 2000 ức. Vượt đến quẻ Bĩ 1-8 giao, thì quẻ Vô vọng 1-4 sẽ ứng với quẻ Thái 8-1 làm Thế của Nguyên, thời đương 167 ức 9616 vạn Phân, gồm chứa 473 vạn 8381 kinh 3383 vạn 3161 triệu 6818 vạn ức. Tiếp đến quẻ Tụy 2-8 giao, thì quẻ Tùy 2-4 ứng với quẻ Đại súc 7-1 làm Thế của Hội, thời đương 3015 ức 4692 vạn Sao, gồm chứa 5686 vạn 576 kinh 598 vạn 5940 triệu 2752 vạn ức, đó cũng là số cùng nhau nhân lên, thời trừ đi số của quẻ Ký tế lấy 30, Bí được 1 làm ngày của 1 năm, gồm 6 vạn 466 ức 1760 vạn số, quẻ Khuê làm số 1 ngày cùng với đấy đồng, trừ số quẻ Bí lấy 12, Minh di được 1 làm giờ của 1 năm, gồm 5038 ức 8480 vạn, kịp đến thửa Phân vậy, trừ số Minh di lấy 30, Vô vọng được 1 làm Phân của Nguyên 167 ức 9616 vạn, tức là số quẻ Lý 1 Phân trừ đi số quẻ Vô vọng lấy 12. Tiếp đến quẻ Tùy được 1 làm Phân của Hội 13 vạn 9968 vạn, đó là số Vận Thế chưng giao, Tinh Thần tiến lui tất ở Tuất, Vật đóng lại mà còn có số tượng dọc đi đêm, đất chưa từng nghỉ vậy, cho nên 2 quẻ Bí và quẻ Cấn trở lên đều dùng số vậy. (Từ Khôn: trải nghịch qua 7 quẻ tới Cấn, trải thuận qua quẻ 7 quẻ tới Bí).

Quẻ Tấn 3-8 giao, thì quẻ Phệ hạp ứng với quẻ Nhu làm Thế của Vận, tương đương với 6 vạn 466 ức 1760 vạn làm 1 ngày 4320 Sao của số quẻ Khuê, gồm chứa 17 cai 881 vạn 7281 kinh 7957 vạn 8208 triệu 860 ức. Tiếp đến quẻ Dự giao, thì quẻ Chấn ứng với quẻ Tiểu súc làm Thế của Thế, tương đương 72 vạn 8894 ức 1120 vạn, làm 12 ngày Sao của quẻ Quy Muội, gồm chứa 204 cai 6980 vạn 7381 kinh 6593 vạn 8499 triệu 720 vạn ức. Vượt đến quẻ Quan giao, thì quẻ Ích ứng với quẻ Đại tráng, quẻ Bĩ giao thì quẻ Truân ứng với quẻ Đại hữu, quẻ Bác giao thì quẻ Di ứng với quẻ Quải, quẻ Khôn giao thì quẻ Phục ứng với quẻ Càn, lấy thứ tự làm Nguyên của Thế Vận Hội Nguyên. Quẻ Quan giao, thì tương đương 2176 vạn 7823 ức 3600 vạn làm 1 năm, 1555200 Sao của quẻ Trung phu, chứa 6140 cai 9422 vạn 446 kinh 4815 vạn 4972 triệu 1600 vạn ức, đấy thì tương đương 2 triệu 6121 vạn 3880 ức 3200 vạn làm 12 năm, 18866 vạn 2400 Sao của số quẻ Tiết, chứa 7 vạn 3691 cai 365 vạn 8357 kinh 7785 vạn 9665 triệu 9200 vạn ức. Quẻ Bác thì tương đương 78 triệu 3641 vạn 6409 ức 6000 vạn làm 1 Vận, 5967 vạn 2000 là sao của số quẻ Tổn, chứa 221 vạn 739 cai 1972 vạn 733 kinh 3578 vạn 9977 triệu 6000 vạn ức. Khôn thì tương đương 940 triệu 3699 vạn 6915 ức 2000 vạn làm 12 vận, 67 vạn 1846 vạn 4000 là Sao của số quẻ Lâm, chứa 2682 vạn 8870 cai 3644 vạn 8800 kinh 3947 vạn 9731 triệu 2000 vạn ức, đấy cũng là số cùng nhau nhân lên, thời vậy trừ số quẻ Tùy lấy 30, quẻ Phệ hạp được 1 làm Phân của Vận 4665 vạn, trừ số Phệ hạp lấy 12, Chấn được 1 làm Phân của Thế 388 vạn 8000, trừ số Chấn lấy 30, Ích được 1 làm số Phân của Niên 129600, trừ số Ích lấy 12, Truân được 1 làm Phân của Nguyệt 1800, trừ số Truân lấy 30, Di được 1 làm Phân của Nhật 360, trừ số Di lấy 12, Phục được 1 làm Phân của Thời 30, từ Sao mà suy đấy 30 Phân 360 hợp Nguyên của Vận, từ dưới lên trên, hết 16 quẻ gieo rồi sau thôi, trở lại quẻ Phục nhân lên trừ đi, tự nhiên giống hệt như nhau, cái Phân ấy to mà làm nhỏ, lấy mỗi Niên Nguyệt làm Phân Sao, cho nên 12 làm Sao, hoặc lấy 129600 tương đương đấy, hoặc lấy 13 ức 9968 vạn tương đương đấy, hoặc lấy 181 vạn 3985 ức 2800 vạn tương đương đấy, thêm chu thiên (vòng trời) 365 độ 29 phân 75 sao, trừ chu tuế làm 365 ngày 24 phân 45 sao, mạnh yếu cùng giảm bớt, thừa 1 phân, 50 Sao trải 66 năm có lẻ, mà ngày lui trời 1 độ làm năm sai, ngày tháng 5 đường dọc treo rỗng không, bên hữu quanh lại, tinh thần thứ tự ở phụ trên trời, chuyển sang bên tả mở rộng ra 129600 đều có 129600 Sao, thì trời vận chuyển độ sai đi gồm 66 năm có lẻ, ngày có ngày về và đêm, tháng có Khiêu (ngày 30 có Trăng mọc ở phương Tây) Mục (cách ngày mùng 1 có Trăng mọc ở phương Đông) thì mặt Trăng đi mau mà lại ở trước mặt Trời, ngày Hối (ngày 30) thấy ở phương Tây, ngày 1 thấy ở phương Đông, thời đi chậm mà lại ở sau mặt trời, ngày Sóc (ngày 1) hiện ở phương Đông, vì Sao (Tinh) có nấp có hiện, đầy lên co lại, biến thành Mộc, 12 năm 1 vòng trời 144 năm mà vượt lên lần độ theo 11 vạn 8512 phân sao Hỏa, 2 năm 1 vòng trời, mà độ co lại theo 1 vạn 8807 phân rưỡi sao Thổ, 29 năm 1 vòng trời, mà độ thừa theo 29 vạn 4255 Phân, 3 Sao (tinh) nấp hiện, đều lấy 30 cùng 12 mà suy, Kim Thủy 2 sao đều 1 năm 1 vòng trời độ theo đều 1 vạn, nấp hiện theo Thái dương, lấy 12 cùng với 1 mà suy gồm đầy, co, nấp, hiện ấy đều có không bằng nhau, mà Nhật Nguyệt tinh ra vào đường Hoàng đạo, đều bao bọc cả ở bên trong. Cho nên, trời từ Đồng nhân trở xuống, đất từ Độn trở xuống làm số Năm, số khởi từ 1, 10, 100, 1000 đến vạn, ức, triệu, kinh, cai, tỷ về. Tự chẳng quá 1 Đời 30 năm (Đời = Thế), mỗi năm có 12 tháng, tháng có 30 ngày, ngày có 12 giờ, giờ có 30 Phân, Phân có 12 Sao mà thôi.

Xét 30 năm, tức là xét 1 Thế hay xét 1 Đời, có 360 tháng, có 10800 ngày, có 129600 giờ, có 3888000 Phân, có 46656000 Sao. Đó là 1 Thế 12 tháng 360 ngày 4320 giờ 129600 phân 155520 sao, 30 ngày 360 giờ 1800 phân 129600 sao, 12 giờ 360 phân 4320 sao, 30 phân 360 sao. Số ở trên lấy đó chứa quẻ Càn làm Nguyên, quẻ Quải làm Hội, quẻ Đại hữu làm Vận, quẻ Đại tráng làm Thế, quẻ Tiểu súc làm Niên, quẻ Nhu làm Nguyệt, quẻ Đại súc làm Nhật, quẻ Thái làm Thời, quẻ Lý làm Phân, quẻ Đoài làm Sao, 10 quẻ đi nghịch từ Càn đến Đoài, 5 lần biến làm 1, to cũng như vậy, là ứng của Hà đồ toàn số vậy.

Quẻ Đoài làm Nguyên Sao, quẻ Lý làm Hội Sao, quẻ Đại tráng làm Nhật Sao, quẻ Đại hữu thì làm Sao, quẻ Quải làm 1 Phân 12 Sao, quẻ Càn làm 1 Sao, thanh âm xướng họa đều khởi ở 1 Sao. Vì lớn thời là 1 Nguyên, nhỏ thời là 1 Sao, mà phân Hội Vận Thế, thực gốc ở Hà đồ sinh ra số, mà 1 đến 10, 100, 1000, rồi đến Thế của Hội có vạn, Thế của Vận có ức, Thế của Thế có triệu, hết thảy Vật, dần đều dư số ấy, chia lớn làm bé, dài nhỏ làm to, đều lấy Sao mà tính, rồi sau số Kinh, số Cai, kịp đến số Tỷ, hết thảy cốt yếu đều về Sao (tú), dản dị chẳng qua 1 ngày lịch. Thông khảo nói vậy. Trời từ quẻ Phục đến quẻ Càn, nhật mở mà nhật có Càn, thời là số Hữu cực vậy. Từ Cấu đến Khôn, nhật đóng mà nhật không có Khôn, thời là số Vô cực vậy. Cho nên, từ quẻ Quan, quẻ Ích trở xuống, đều là không có Số mà có Tượng, lấy đó mà suy, Thái cực vốn không cực, xét thấy vậy.

HẾT QUYỂN 1

QUYỂN 2

CHƯ NHO THUYẾT

Chúc Thị nói: quẻ Càn Khôn là Đại phụ mẫu, quẻ đều đi bên hữu theo Thái dương. Quẻ Phục Cấu là Tiểu phụ mẫu, quẻ đều đi bên tả, bắt chước 4 mùa. Quẻ đi bên hữu đều 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8, 8 sinh 16, 16 sinh 32, 32 sinh 64, đến chỗ trở lại sinh 17 quẻ mà lại hội số vô cực, tức là cái lý nguyên hết mà lại có nguyên vậy. Quẻ đi bên tả, từ 1 rồi 2, thứ tự nhân nhau vòng quanh không manh mối, tức là lý hết năm đổi năm mới vậy. Hai đường nghịch thuận đi khác nhau, số sai đến vạn vạn mà cùng cực, dương duỗi âm co vậy. Lại nói: Nguyên-Hội-Vận-Thế lấy Đại vận mà suy, cùng Giáp Kỷ trong (giữa) khởi ở Tý-Ngọ-Mão-Dậu, năm tháng ngày giờ lấy Tiểu vận mà suy, dương Giáp Kỷ mạnh (đầu) khởi ở Dân-Thân-Tị-Hợi. Lấy Hội kinh Vận đấy là dùng Hội làm Niên, dùng Vận làm Nguyệt, dùng Thế làm Nhật, dùng Niên làm Thời. Vua Nghiêu lên ngôi năm Giáp Thìn, thì lấy Hội Kỷ Tị làm nguyệt, Vận Quý Hợi làm Nhật, Thế Canh Thân làm Thời. Ở quẻ Bí hào 6-5 biến làm quẻ Ký tế. Vua Tống nghệ tổ mở ngôi năm Canh Thân, thì lấy Hội Canh Ngọ làm Nguyệt, Vận Nhâm Thân làm Nhật. Thế Kỷ Dậu làm Thời, đương hào Thượng quẻ Khốn, biến làm quẻ Sư tốn 4 năm, dân bèn khởi Khốn mà may cho thiên hạ vậy.

Chúc thị lấy Năm-tháng-ngày-giờ bàn Mệnh, nguyên khí vận người lấy 120 năm làm chủ 8 chữ, khi mới sinh 15 ngày, trước Giáp-Kỷ mạnh là hào Thượng, Giáp-Kỷ quý (cuối) hào 4, Giáp-Kỷ trọng (giữa) hào 5. Khí giữa sinh 15 ngày sau Giáp-Kỷ mạnh 3 hào, Giáp-Kỷ quý 2 hào, Giáp-Kỷ trọng hào Sơ, lấy sở trị (gặp) năm-tháng-ngày-giờ làm quẻ trước (Thái quái)

Liêu Ứng Hoài nói: người, vật tiêu trưởng suy ở chỗ động mà xem, cát, hung, hối, lẫn là lời của quẻ Dịch chủ ở nguyên sơ sinh khắc cùng cơ biến quái hòa, nhân thì địa, biện âm tạnh, chia ngày đêm, hợp Can Chi để định cát hung. Nay bản số và xuất số của Dịch nhân, Dịch sinh gốc lẻ chẵn mà vạch Dịch, đó là bản số Dịch mà ra, nhân quái vị là đệ số, số ấy nhân Dịch mà sinh. Trong Dịch có số Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8, trong số Dịch 1 là 6 Khảm 2 là 7 Ly 3 là Chấn 8 Tốn 4 Đoài 9 Càn 5 Cấn 10 Khôn, số sinh ra Khí quẻ là Thời hào là biến. Khí có thịnh suy thì có Bĩ Thái, hào có hiểm dễ, đều lấy sinh khắc chế hóa mà suy, ở trong có số cát mà đổi khốn, có số hung mà đổi cát, tất lấy địa bàn âm dương hợp lại là vinh, cương nhu trái nhau là nhục, cho nên lẽ tất nhờ ở chẵn, chẵn tất hợp với lẻ, Càn hết ở trong Ngọ, Khôn hết ở trong Tý, gốc nguồn quẻ Cấu Phục, Ly hết ở trong Mão, Khảm hết ở trong Dậu, dùng về nước lửa lại dương tiến vậy. Đến như 6 dương thịnh, thời đại quân tử hành quẻ Cấu là âm tiến vậy, đến như 6 âm thịnh tường vậy.Lại nói: lấy Hội kinh trên dùng treo 1 quẻ như lấy Nguyên kinh Hội, thứ tự chia 30 Vận, tiết Tiểu hàn khởi lên ở Thái Sơ cửu, đến 6-4 là Nhuận hào, vận thứ nhất là Dần 76, Mão 160, Thìn 136, Tị 166, Ngọ 196, Mùi 226, Thân 256, Dậu 286, dùng các quẻ Thái Tổn 12 quẻ. Tiết Đông chí lấy ví làm Nhuận, đại vận thứ 30 trọn thành 315 Thế quẻ Minh Di.

Trình Trực Phương bảo gốc số không ra khỏi ở Dịch, Hệ từ trời 1 đến Đất 10, sinh ra 2 là tự sinh 8 vậy, Trực phương do chia thêm 1 cùng với phép bội mà là 2, bèn chép 256 vị đồ bốn số dọc ngang 16 đại vị, tóm làm 1 đồ số khởi ở Đông-Nam. Thế bắt đầu ở số 1, thêm 1 là 2, lại thêm 1 là 3, lại thêm 1 là 4 từ tả sang hữu là Thế đến đấy, Thế đấy cực vận, cùng với từ trên xuống dưới, vận của Thế đều lấy 2 làm 1, thêm 1 thì 2 là 4, lại thêm 1 thì 2 là 6, lại thêm 1 thì 2 là 8. Rồi thứ đến bên hữu, Hội dùng Thế, Hội của Thế, lấy 3 làm 1, thêm 1 thì 3 làm 6, lại thêm 1 thì 3 làm 9, lại thêm 1 thì 3 làm 12, lại thêm 1 thì 3 làm15, rồi dọc ngàng mà đếm thời 1 thêm gấp đôi là 2, lại thêm gấp đôi là 4, 4 thêm gấp đôi là 8, 8 thêm gấp đôi là 16, từ ngang 1 tầng đến 16 tầng, dọc 1 hàng đến 16 hàng, trọn cùng ở Tây-Bắc, nguyên đấy, nguyên 256, chẳng gì đều như vậy cả. Minh đạo nói phép thêm gấp mặc nhiên hợp với Thiệu Ung, vì Hoàng Cực nhập môn, nghĩa thứ nhất vậy, đó nên thông số trừ đi, lấy cái ấy để phân biệt động vật (trồng trọt) thanh của Ký tế cũng lấy từ đây. Lại nói, Đại Tiểu vận của Thiệu Ung thấu truyền quẻ thanh âm luật lữ đều lấy treo 1 làm tựa, 256 quẻ khởi ở Thái hết ở Minh di, mỗi quẻ 6 hào cộng 1536 hào. Hào lại 4 làm dụng, gồm 1 Vần, 1 Thế, 1 năm, 1 tháng, 1 ngày, 1 giờ, đều được 4 hào, thời 360 năm thì được 1414 hào chia làm 24 khí, mỗi khí Nhuận tàng 4 hào, mà 1536 hào 256 quẻ làm 1 dụng vậy. Khởi lệ quẻ của Vận, Thế, Năm khởi ở Thái, còn Tháng và Ngày thì khởi ở Thăng, đó là trời đất người đều nghe mệnh ở động thực vậy.

Mỗi vị 1 số khởi lên ấy là 100, 2 số khởi lên ấy là 216 vị, cộng làm 1 đồ. Chu Thị suy phép “giết 1” nói rằng: 284 là Thể số, 360 là Dụng số, Thể là Dụng của số. 270 mà Dụng của Dụng số mà chỉ đến 256 vậy.

QUYỂN 2

HỘI KINH VẬN DỤNG NHẤT

THIÊN QUAN VẬT

Lấy Hội kinh Vận (ngang), tức là lấy số Phân của Nguyên kinh trong Hội vậy. Một Nguyên tóm 12 Hội, như năm tóm tháng, 1 Hội tóm 30 vận, như tháng tóm ngày. Nguyên tóm Hội, thời Nguyên làm kinh của Hội, Hội tóm Vận, thời Hội làm kinh của Vận. Bởi vì, 1 Hội tự làm 1 Nguyên 12 Hội, gồm 12 Nguyên, mỗi số 1 Nguyên là 1800, hợp 5 quẻ có 36 hào, mỗi 1 hào thẳng vận 360 tích số vậy. Duy ấy, mở Vật trong Dần khởi từ quẻ Phong hào 9-4, đóng Vật trong Tuất đến quẻ Khiêm hào 9-3, thực có 7 Hội (từ Mão đến Dậu) mà gồm Dần Tuất đều nửa, nên cộng làm 8 Hội tóm 240 Vận, làm số mở vật ấy: 8 vạn 6400 trừ 120 vận, làm số đóng Vật ấy: 4 vạn 3200. Mở thời dùng số, đóng thời không dùng.

Thiên ngoại, số giao bảo rằng, trời từ quẻ Bí trở lên, đất từ quẻ Cấn trở lên làm số dùng. Trời từ quẻ Minh di trở xuống, Đất từ quẻ Bĩ trở xuống, làm số giao ấy vậy. Cho nên, quẻ mở vật có 40 quẻ, quẻ đóng vật có 20 quẻ, đó là 12 Hội chỉ dùng có 8 bỏ 4, số dùng 3 chưng dụng 2, số bỏ 3 chưng dụng 1 vậy. Để nói về tiêu trưởng, đều 6 Hội trải chọn dùng Vận. Trưởng từ trong Tý khởi từ quẻ Phục đến quẻ Quải. Tiêu từ trong Ngọ khởi từ quẻ Cấu đến quẻ Bác. Tính từ Đông chí Giáp 1 là hào Sơ của quẻ Phục, tuy đang lớn lên mà Hội chưa liệt số mở, đến trong Dần tiết Kinh trập, đã 72 quẻ thẳng quẻ Phong hào 9-4 thì Vật bắt đầu mở. Tính từ Hạ chí Giáp là 181. Hào Sơ Lục của quẻ Cấu, tuy đang ở Hội tiêu, mà hãy còn xa số đóng Vật. Kịp đến hội Tuất, tính từ Lập đông Mậu 315 thẳng tới quẻ Khiêm hào 9-3 thì Vật đóng hẳn lại. Do vậy Tý-Ngọ là giới hạn của Tiêu-Trưởng, còn Dần-Tuất là giới hạn của Mở-Đóng vậy.

Đến Hội ngang của Nguyên, thì Vận lấy dọc đấy, ngang Vận của Hội, Thế lấy cướp đấy. 12 Thế mà thành 1 Vận 360 đều có 24 hào Nhuận, mở Vật được 240 vận thời làm 16 hào nhuận, thông số nhuận ở số mở vật gồm 156 vận, dùng lấy 8 vận để hợp số đóng Vật, trong số 128 thời mở-đóng với cả Nhuận nữa gồm 384 hào, thẳng số của vận đủ vậy. Trừ nhuận mà làm mở làm đóng 60 quẻ hào thẳng vận thường, trời đất không trái vậy.

Trời bắt đầu từ Giáp Tý hết cùng Quý Hợi, Đất bắt đầu từ Kỷ Mão hết cùng Mậu Dần. Tới giao dựng số, bỏ số giao mà số còn lại làm số dùng, tới Thể số của Vận, thường 3 phần bỏ 1 dùng 2 phần, đó là bỏ 120 mà chỉ dùng 240. Bỏ 1 dùng 3, là bỏ 90 mà chỉ dùng 270. Bỏ 3 dùng 7 đó là bỏ 108 mà chỉ dùng 252. Những số đã bỏ đó đều là số giao, chỉ còn số được dùng vậy. Số giao không được dùng theo đóng Vật, thì số được dùng theo mở Vật, như trước đã trốn 3 dùng 1 là số đã chia 2 đấy. Mở-đóng vốn không trái, cốt yếu là dùng hay bỏ, tế nhị chia hợp, nhuận trừ nhuận, đại xuất Thể 4 dùng 3, đều theo đấy, có mà không sai lắm, cho nên bỏ 1 dùng 3, số được 270, trong đó chia ra, Dương dùng 152, Âm dùng 112, gồm 264 mà bỏ rỗng âm dương trước sau 3 số. Tính cả số không dùng trong số 90, như 1 năm 4 mùa, 1 mùa 3 tháng, 1 tháng 30 ngày. Bỏ 1, mà 3 dùng 3, do đó 3 này là 3 mùa Xuân-Hạ-Thu gồm 9 tháng chứa 3 ; 9 là số 270, trong rỗng 6 ngày, thời 264 ngày ấy làm số dùng, còn số không dùng đó là số chỉ 1 mùa Đông. Ba tháng Hợi-Tý-Sửu trời đất bế tắc, muôn vật không sinh, gồm 90 ngày, nếu tính cả 6 ngày bỏ rỗng, cộng là 96 ngày, đó là số giao. Cho nên, tóm giao mà 360 số Thể toàn vẹn, bỏ số giao 96, thì số được dùng còn lại là 264 vậy. Tức là, 1 năm để xem Vận của 12 Hội (264/12=22), khá thấy vậy. Ở Luật lữ Thanh, Âm, Xướng, Họa, thực tiêu chuẩn ở đây, mà lịch số khởi vận cũng không thể trái, dẫu bỏ 3 dùng 7 mà âm lẫn dương, dương lẫn âm, coi như đêm lẫn ngày, ngày lẫn đêm, không chút đầy tràn (quá độ). Xét sự lẫn đó, chung quy là âm về phần đêm, cho nên chủ vận quẻ Khôn quẻ Ly, thẳng phần của Nhuận là Tý đến Mão, hay Dậu đến Tý, đều bỏ đi nửa, mà lấy cái nửa được dùng thẳng kịp đến với quẻ Càn quẻ Khảm toàn vẹn, tính cả làm số dùng. Cho nên Sao (tinh) đi cùng quẻ Bĩ gồm 16 quẻ, phần bỏ đi ấy tính về đêm. Từ quẻ Bí cùng quẻ Cấn trở lên, 44 quẻ mà dùng ấy hết thẩy về ngày. Ở ngày hầu hướng về tối, ở đêm hầu hướng về sớm mà giao nhau. Chia số đầy, vơi, âm, dương giao lẫn nhau, thời cũng tùy ngày dài ngày ngắn, để định tiết hậu, mà xét ở chỗ hoặc bỏ hoặc dùng, số bỏ 3 dùng 7 chưa từng có trái đường ngang của vận hành vậy. Tường tận ở Ngoại thiên, tế nhị suy mà lấy cái thuyết Hội kinh Vận, là thấy rõ vậy.

Lại nói: Nguyên kinh Hội lấy Vận quái, Hội kinh Vận lấy Thế quái. 1 Hội 30 Vận, gồm thẳng 5 quẻ 1 hào, 1 vận trải 6 Giáp Tý đến Quý Hợi 360 năm làm Thế ấy là 12 Thế đều 30 năm, cho nên 1 hào tương đương với 1 Vận xem 12 Thế, 1 quẻ 6 Vận xem 72 Thế, đều 5 quẻ 30 Vận xem 360 Thế, chọn vận đầu 12 Thế, thời ứng thẳng vận quái hào mới biến, như quẻ Minh di hào sơ thẳng Tinh Kỷ 76 biến làm quẻ Khiêm, từ 6 hào quẻ Khiêm, chia làm 12 năm 1 hào, thì 6 hào quản 72 năm. Hào Sơ khởi Giáp Tý vòng đến Ất Hợi là 12 năm. Hào 2 quẻ Minh di biến quẻ Thái vòng khởi Bính Tý đến Đinh Hợi cũng 12 năm. Hào 3 quẻ Minh di biến thành quẻ Phục, hào 4 biến thành quẻ Phong, hào 5 biến thành quẻ Ký tế, hào 6 biến thành quẻ Bí, vòng khởi Mậu-Canh-Nhâm Tý, đến Kỷ-Tân-Quý Hợi. 6 vòng vẫn khởi từ Giáp Tý đến Quý Hợi, lấy thứ tự thẳng 5 Tý đều như trước, chứa 1 hào 6 biến, đều 72 năm, thống kê 432 năm. 1 quẻ 36 biến, đều 72 năm, thống kê 72 x 36 = 2592 năm, thế thời số năm của 360 Thế, thực tức là tích số của trực Vận 1 quẻ 6 hào. Tóm 1 Hội trực Vận đều 30 hào của 5 quẻ, thời số 129600 (2595x50) mà số năm của 360 Thế thâu tóm ở trong 30 Vận vậy. Thế cho nên, Vận lấy Hội làm kinh, lấy Thế làm Vỹ.

Đây nói về Hội kinh Vận. Từ hội Dần Kỷ Mão thẳng quẻ Lôi Hỏa Phong hào 9-4, có quẻ Minh di dùng ứng với quẻ Khiêm ; cho đến hội Tị Quý Tị, thẳng quẻ Trạch Thiên Quải hào Thượng, có quẻ Càn dùng ứng quẻ Đại hữu, thì:

- Gồm 105 Vận, (quẻ Phong ở giữa Hội Dần, từ Hội Mão-Thìn-Tị có 5 x 3 =15 quẻ, cộng với 3 quẻ Phong-Cách-Đồng nhân là 18 quẻ, 6 hào x 18=108 hào, quẻ Phong tính từ hào 9-4, nên phải trừ đi 3 hào trở về trước của quẻ Phong 108-3=105 hào tương đương với 105 Vận)

- Thâu tóm 105 x 12 = 1 260 Thế,

- Trải qua 1260 x 30 = 37 800 năm,

- Gồm 37800x12=453 600 tháng,

- Gồm 453600 x 30 = 13 608 000 ngày,

- Gồm 13608000 x 12 = 163 296 000 giờ,

- Gồm 163296000 x 30 = 4 898 880 000 Phân,

- Gồm 4898880000 x 12 = 58 786 560 000 Sao,

Số đều 12 và 30 nhân lên, số cùng nhân lên tích chứa. Từ mở Vật trở về trước, 2 hội Tý-Sửu đến giữa hội Dần, có 75 Vận 900 Thế, nghĩa là:

- Hội Tý-Sửu là 10 quẻ, gồm 60 hào. Quẻ Ký tế, Gia nhân đến giữa quẻ Phong là quẻ giữa Hội Dần có 15 hào, nên nói 15 + 60 = 75 hào hay 75 Vận,

- Thâu tóm 75 x 12 = 900 Thế,

- Trải qua 900 x 30 = 27 000 Năm,

- Có 27000 x 12 = 324 000 Tháng,

- Có 324000 x 30 = 9 720 000 Ngày,

- Có 9720000 x 12 = 116 640 000 Giờ, (gộp số tích Phân-Sao)

- Có 116640000 x 30 = 3 499 200 000 Phân,

- Có 3499200000 x 12 = 41 990 400 000 Sao,

(75 vận 900 thế, trải qua 2 vạn 7000 năm, 32 vạn 4000 tháng, 972 vạn ngày, 1 ức 1664 vạn giờ, tính gồm cả số tích Phân Sao), bấy giờ còn là thời hồng hoang, không thể khảo cứu, ghi chép lược qua. Từ Hội Dần thẳng quẻ Phong hào 9-4, bắt đầu Ly sáng Chấn động, vật tượng để mở mang, người thời Sỹ, Nông, Công, Thương, vật thời loài chạy, loài bay, cỏ, cây, hướng về sáng mà trị yên, chủ tể thần mà là Vua, từ đó đủ vậy. Trời đất tốt lành, Dịch nói: “Phong ấy là to vậy”. Sáng để động, cho nên quẻ Phong hào 9-4 gặp quẻ Di chủ cắt mở đời mờ ám đương ở vận ấy du? Sao kinh khởi từ Dần đến Tị, từ quẻ Phong đến quẻ Quải, hào biến chia sẻ, Thế quái khá suy, hợp với số trước là Dương lên 6 Hội, kể 180 Vận, 2160 Thế, 6 vạn 4800 năm. Lấy 12 Tháng là số 1 Năm, 30 ngày là số 1 Tháng, 12 giờ là số 1 Ngày, tính cả 30 Phân là 1 Giờ, 12 Sao là số 1 Phân, hết thẩy tóm ở trong Vận. Âm xuống 6 vận từ giữa Ngọ, quẻ Cấu dùng ứng quẻ Càn, đến giữa Hợi, quẻ Bác dùng ứng quẻ Khôn, số bên hữu soi số bên tả mà mở Vật trở lên, đóng Vật trở xuống, giữa Tuất mà số Phân đều khá cất lên vậy.

Lấy Nguyên kinh Hội, thấy đủ ở đồ trước. Lấy Hội kinh Vận, đó là đồ trước mỗi Hội có 30 hàng, lại 1 Hội 30 có Vận, 1 hàng có 12 mục, tức là 1 Vận có 12 Thế. Vậy thời 1 mục vốn là 1 Thế. Kể 30 năm, từ khi mở vật ở quẻ Lôi Hỏa Phong hào 9-4, làm bắt đầu sinh Người sinh Vật, mà 5 đời hoang mang, số thế khó có kẻ cứu. Cho nên, lấy Hội kinh Vận thứ 1, chỉ suy quẻ thẳng đến Thế. Đến đời vua Đường Nghiêu năm Giáp Thìn trở về sau, mới có thể đại khái xét, bấy giờ hệ ở hội Tị Vận thứ 30, đó là lấy Hội kinh Vận thứ 2. Đã theo hội Tị vận thứ 30, kinh Sao dùng Quý suy khởi vận quẻ, thuộc quẻ Quải dùng Càn 12 Thế đều do quẻ Càn thâu tóm cả. Quẻ Càn hào Sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiểu súc, hào 5 biến Đại hữu, hào 6 biến Quải, 1 quẻ thẳng 1 Giáp Tý, kể là 12 Thế, mỗi quẻ lại 6 biến, mỗi lần biến là 10 năm, như vậy 6 lần biến là 360 năm, mà 1 Vận hết vậy. Đến bảo rằng: kinh Nhật dùng Giáp 1, kinh Nguyệt dùng Kỷ 6, kinh Sao dùng 180, kinh Thần chưng 2100 ấy, vì Nhật chưng Giáp 1, tức là đồ trước đầu trống 1 mục, tóm 12 hội 360 vận, đều lấy Giáp Tý làm cương lĩnh. Cho nên, 360 Thế đều kinh Nhật chưng Giáp 1 vậy, Nguyệt chưng Tị 6, tức là đồ trước mục thứ 2 bỏ trống, đó là hệ Hội Tị, từ Tý đến Tị kể là 6 số, cho nên làm Nguyệt chưng Tị 6 vậy, Sao kinh hệ ở Quý số 180, Thần thời mục thứ 1, 2149 theo 1 lần lượt thêm 1 số, đến mục thứ 12, thì là 2160 vậy. Đồ lấy 2100 làm tổng số, bày ở hàng Giáp 1, số lẻ thời bầy ngang trên 12 Thế, bắt đẩu Thế Tý 49, đến Thế Hợi 60, là 2160 vậy. Thế thứ 1 từ Giáp Tý đến Quý Tị 30 năm, quẻ ấy thời Càn, Độn, Tụng, Thế thứ 2 từ Giáp ngọ đến Quý Hợi gồm 30 năm, quẻ ấy thời Tốn, Đỉnh, Đại quá, đó là hội Kỷ đến Quý vận 360 năm, kể là 12 Thế. Đầu của đồ vốn 1 Vận, đồ toàn quẻ nhân vì 7 Thế trước, không thể xét chứng đến thứ 30, là ở cuối kinh Thế. Năm Giáp Thìn, vua Đường Nghiêu dựng ngôi vua, mới có thể đại khái xét, cho nên 3 Giáp Tý trước không chép lại. Duy từ kinh Thế 2156 Kỷ (1 Kỷ là 12 năm), khởi Kỷ sau 3 Giáp Tý khởi đồ, trở về sau đều bầy 6 Giáp Tý. Kẻ đọc được đó mà lấy loại suy, tự thấy lòng mắt rộng rãi vậy.

Đây bàn về Hội Tị, vận thứ 30. Quẻ của Vận là đương từ quẻ Quải đến quẻ Càn (quẻ Quải vận từ 25 đến vận thứ 30, dùng hào 6). Quẻ của Thế chia hào của quẻ Càn, lấy 6 hào mà biến thành 6 quẻ để làm Kinh, như hào Sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiểu súc, hào 5 biến Đại hữu, hào 6 biến Quải, tức là lấy 6 hào ở quẻ Càn biến ra, đều được 6 quẻ biến, 6 quẻ này lại biến từng quẻ 6 hào, được theo thẳng 36 quẻ làm Vỹ. Như quẻ Cấu hào Sơ biến Càn, hào Thượng biến Đại quá. Đến quẻ Quải, hào Sơ biến Đại quá, hào Thượng biến Càn, là loại ấy vậy. Cho nên biến quẻ Thế từ hào 1 đến hào 6 làm Kinh, lấy thẳng 6 quẻ này làm 6 Vận, mỗi Vận lại biến 6 hào được 36 quẻ làm Vỹ, rồi chia lấy làm Thế, mà làm quẻ của Năm, do đó mà biết vậy, sau đều chuẩn ở đó. Duy quẻ của Kinh thẳng 1 hào gồm 12 năm, 12 theo 30 gồm 360 năm mà thành 1 Vận. Quẻ của Vỹ chia 1 hào thẳng 10 năm, 10 năm theo 6 biến, năm theo trong ngoài, đều 30 cộng được 60, theo 60 làm 360, y vậy 12 Thế, mà thành số 1 Vận. Xét Nhật đương Nguyên, Nguyệt đương Hội, Tinh đương Vận, Thần đương Thế, trải Nhật- Nguyệt-Tinh mà đến Thần, tức là trải Nguyên-Hội-Vận mà đến Thế, cũng như cử lên Năm-Tháng-Ngày mà đến Giờ vậy. Đó rõ trải Thần đến trải Tinh, dùng Quý thì như theo Năm thì biết Phân của Giờ tóm quẻ của Năm, cất lên Nguyên-Hội-Vận lớn nhỏ, chừng ấy mà ngang ngang dọc dọc, chẳng gì là chẳng một xuất, một thông vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 1 (dùng hào 1). Quẻ Đại vận thẳng quẻ Thiên Phong Cấu, quẻ của Tiểu vận thì quẻ Cấu chọn dùng quẻ Càn. Chia hào của quẻ Càn làm Thế quái trong quẻ: hào Sơ là quẻ Cấu, hào 2 là Đồng nhân, hào 3 là Lý, hào 4 là Tiểu súc, hào 5 là Đại hữu, hào Thượng là quẻ Quải. Đây tức là trong ngoài chia thẳng quẻ quản Thế, quẻ nội 3 hào quản bên trong, quẻ ngoại 3 hào 4, 5, 6 quản bên ngoài, đều chia 6 hào, đều thẳng 6 quẻ làm Kinh. 6 quẻ mỗi quẻ lại biến 6 hào, mỗi hào thẳng 10 năm, như vậy 6x6 = 36 quẻ thẳng 360 năm, bèn vòng 12 Thế, mà thành số của 1 Vận. Nay Hội Ngọ vận thứ 1, thời Cấu là Càn chia vận mới, mà làm Phân của Càn đó vậy, qua đó biết vận quẻ Cấu hào Sơ thẳng biến luôn mà lìa Càn. Quẻ Càn chủ ở Đạo trời, cũng chủ đức ông Vua, dẫu đương Cấu âm, thực ứng Càn dương, nhưng vì trời đất cùng gặp đúng lúc tiêu trưởng giao nhau, lịch số ở trong bậc Đế Vương, thẳng Hội lên xuống. Tượng quẻ Cấu nói: “Vua lấy thi hành mệnh lệnh thông báo 4 phương”, lệnh ra ở Chấn mà nói Mệnh của Vua, thi hành ở Tốn mà nói Vua, ở Cấn cũng nói Vua, bởi vì phỏng cũng theo Vận mà gọi vậy. Duy bấy giờ vua nhà Hạ tiếp Càn cố hết lên mệnh bậc Vua đậu, giữa trời trị đời. Có lời mách bảo: “tin cầm đạo trung”, Ngọ làm văn mệnh mùa Hạ 4 số, đức sáng sánh với trời, dẫu năm diễn với đời. Từ Giáp Tý, Cấu vào Càn, vua Vũ nhiếp chính 8 năm, đến năm Ất hợp lên ngôi Vua, mà sau trải 15 đời truyền, cộng được hơn 430 năm. Giáp Tý thẳng Cấu đến Độn, lúc đương mới vận, phân Càn khởi Cấu đến Quải 36 quẻ, đại khái có thể thấy. Thiệu ta trước xem việc đã qua, đều chứng tỏ được sự to nhỏ, phân thẳng quẻ ứng, bèn viết quyển kinh Thế, chép việc dưới niên quái. Ôi! có phải là không vậy thay.

Đây bàn về hội Ngọ, vận thứ 2 (dùng hào 2). Quẻ của vận đương từ quẻ Thiên Phong Cấu đến quẻ Thiên Sơn Độn, quẻ của Thế chia hào của quẻ Độn như sau: hào Sơ thành Đồng nhân, hào 2 thành Cấu, hào 3 thành Bĩ, hào 4 thành Tiệm, hào 5 thành Lữ, hào 6 thành Hàm. Từ quẻ Độn thẳng tới quẻ Đồng nhân, vua Khổng Giáp nhà Hạ 23 năm Giáp Tý, vượt qua vua Cao Phát nhà Hạ đến Đồng nhân, đến Càn, đến Vô vọng rồi Gia nhân. Kịp tới vua Quý nhà Hạ, năm thứ 2 Giáp Thìn đến Quý Hợi thời đến Ly, đến Cách thời 6 Giáp vòng hết mà 1 biến cùng cực vậy, bèn vào quẻ Cấu hào Sơ, 2, 3, rồi làm Càn, làm Độn, làm Tụng, đương lúc bấy giờ là nàng Muội Hỷ (vợ vua Kiệt nhà Hạ), là cái họa gái mạnh ứng nặng ở Cấu du! Từ vua Thăng thời Phù Triết lo sợ, lại gồm ứng Độn bắt trói, cùng với Tụng phải dùng trốn tránh du! Mặt Trời kia sao chưa mất là mệnh nhà Hạ hết ; đến năm Ất Mùi vua bị đuổi ra đất Nam Sào, thì đất Hữu Bạc lại dấy lên, Tốn lấy bầy tỏ mệnh Trời, Đỉnh lấy hưởng ngôi vua, chính mà ngừng lại, ấy bậc thánh Thiên tử ngày càng bước tiến lên, nghiêng để đổ úp đó Khắc Chính cháu vua Thang, ở thời bấy giờ, vua tôi đủ tài đức cả Đại quá (cả hơn người), đánh nhà Hạ cứu dân, đuổi Vua ra cung Đông, coi dấu vết của Tổ, chẳng phải đương mà chẳng sợ, há phải là ngẫu nhiên vậy thay. Tỷ bèn vào Bĩ, Bĩ đến Vô vọng, trải Tụng, Độn, Quan, Tấn đến Tụy gồm 6 biến. Xem thế của vua Ốc Đinh, Thái Canh trước sau 60 năm, thôi Bĩ ứng cả trong Kinh dịch: “buộc vào gốc cây dâu”, trời đi không ngay thẳng, đức Vua dùng tốt tươi, như quẻ Độn hào 4 biến thành quẻ Tiệm, đến Gia nhân 10 năm, mà Tốn lại 10 năm mà Quan, đều 10 năm mà Độn, mà Cấn, mà Kiển, vượt qua Tiểu Giáp ứng Kỷ, đến vua Thái Mậu, đạo nhà Thương càng sáng. Về sau Lữ, Lữ biến 6 hào khởi Ly đến Tiểu quá, Trung phu, Đỉnh, Tấn, Cấn, Độn về sau Hàm. Quẻ Hàm biến 6 hào khởi từ quẻ Cách đến Độn giữa Đại Tiểu quá mà bọc Tụy Kiển, thời từ Thái Mậu trở xuống truyền Trọng đinh Ngoài nhân, Hà Đản Giáp mà đến Tố Ất Tố Tân khoảng 120 năm, sự hưng suy bất tất quẻ Càn biến mà cầu người có Tâm. Trải xem ngôi nhà Thương hội trùng điệp, nghiệm ở Trời và Người cũng nghĩ quá nửa vậy. Từ đó thời thẳng đến Cấu, đến Tụng mà đến vận bàn 3 vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 3 (dùng hào 3). Quẻ của Vận từ quẻ Thiên Phong Cấu đến quẻ Thiên Thủy Tụng, quẻ của Thế chia quẻ Tụng đến: hào Sơ quẻ Tụng biến Lý, hào 2 quẻ Tụng biến Bĩ, hào 3 Tụng biến Cấu, hào 4 Tụng biến Hoán, hào 5 biến Vị tế, hào 6 biến Khốn. Vua Tổ Tôn xếp đặt trên dưới để rõ chí dân, để định luật trước sau vậy. Rồi biến làm Tụng, làm Vô vọng, cùng Càn làm Trung phu, Khuê, Đoài, vượt qua Ốc Giáp năm Tân Mùi, đến vua Tổ Đinh 28 năm, năm Qúy Hợi ở Lý hoặc xấu hoặc tốt lành, xét mà chia Tụng đến Bĩ, biến đầu tiên là Vô vọng,, Tụng là thứ, Độn lại thứ nữa, đến Bĩ, như Quan, như Tấn, như Tụy, lại lần lượt mà thứ nữa, đều thẳng 10 năm. Vượt qua vua Nam Canh, vua Dương Giáp đến vua Bân Canh, kẻ bàn nói là đều động lời phù phiếm, đem kêu gọi mọi sự lo lắng, ứng vào Tụng ngôn đấy. Đặt ở yên Tân Ấp, dân dùng giữ gìn tụ họp, Tụy là tụ hợp vậy. Chứng các sự đó, thời nhà Thương có nhiều hoạn nạn về sông nước, trời đi trái, vua Bàn Canh kêu gọi thiên hạ đi đò, làm việc mưu toan lúc đầu, tuy nhỏ có nói, mà làm Nguyên cái ấy du! Đến vua Tiểu Tân Tiểu Ất, từ quẻ Tụng mà đến quẻ Cấu hào Sơ, hào 2 biến mà làm Càn Độn, hào 3, hào 4 biến mà làm quẻ Tụng, quẻ thuần Tốn, hào 5, hào Thượng biến mà làm quẻ Đỉnh, quẻ Đại quá, đương Đại quá đến năm Quý Hợi, vua Vũ Đinh phấn chấn lên, sáu bảy Vua hiển thánh nối đời trong khoảng hơn 450 năm, phản lại thời suy loạn mà nên thịnh vượng tốt lành, khả năng bảo là hơn người du! Từ quẻ Tụng mà đến quẻ Hoán, hào Sơ quẻ Hoán biến Trung phu, hào 2 biến Quan, hào 3 biến thuần Tốn, hào 4 biến Tụng, hào 5 biến Mông, hào 6 biến tập Khảm. Thời này, đương ở lúc kinh yên nghĩ Đạo, Phu (tin) bèn dậy cả nước, tiếp gỗ có công, ô Duyệt làm bánh lái thuyền, bèn chót Hoán gọi chỗ ở của Vua, đánh Mông, Tập Khảm, tiếng hách dịch thiêng linh. Từ quẻ Tụng mà đến quẻ Vị tế, hào Sơ quẻ Vị tế biến Khuê lấy oai, hào 2 biến Tấn lấy tích, hào 3 biến Đỉnh lấy ngưng mệnh, bèn ở đời vua Tố Oanh Tố Giáp, có công thừa Chân đánh dẹp du! Kịp đến vua Tân Canh, Đinh đến Vũ Ất, thì hào 4 quẻ Vị tế biến Mông, hào 5 biến Tụng, hào 6 biến Giải, thời đương hào 6 quẻ Giải, là vua Vũ Ất vậy, không tìm đã giải trái lẽ, trái lại lẽ trái mà tìm trời. Khảm quẻ huyết (máu) mà Chấn theo đấy, Đạo trời mới không xa vậy. Nối sau là vua Thái Đinh, Đế Ất, ứng với thời hào 6 quẻ Tụng biến thành quẻ Trạch Thủy Khốn, hào Sơ quẻ Khốn thành thuần Đoài, hào 2 thành Tụy, hào 3 thành Đại quá, hào 4 thành tập Khảm, hào 5 thành Giải, hào 6 thành Tụng. Hào 5 quẻ Giải, vua Đế Ất trị đời, khởi Đoài đến Canh Ngọ, đến Giải Bính Ngọ. Dịch 2 lời vua Đế Ất Quy muội, là lấy tượng Đoài du! Quẻ Tụy cùng quẻ Đại quá đều tượng Đoài, theo Khốn, tập Khảm rồi Giải, thời Thượng ở Chấn. Lệnh vua ra phương Chấn, con trưởng là chủ việc tế, năm Đinh Mùi vua Thụ Tân là con đích tiếp nối, tuy Thái tử tranh chấp, đó chẳng phải vận trời vậy sao?. Duy đó là từ quẻ Tụng hào 6 đến Khốn, cũng như từ Khốn đến Tụng, nghe dùng lời nói đàn bà, dèm phu, nịnh nọt giao dấy lên, chựu phục là Sùng Hầu, đi trốn là Tây Bá, đến như Khốn cơm riệu, thời thịt như rừng, riệu như ao, Khốn tật là thời mổ kẻ có thai, đốt cháy người. Khốn xe vàng thời ở Lộc đài, Cự kiều, Khốn dấy theo đỏ đao ấn, thời moi tim bỏ tù làm nô lệ bậc Quân tử đến mệnh thỏa chí, thật khá thương vậy. Đến họ Ngu Nhuế kiện nhau mà nguyên cát, cũng tên cho mệnh, Khốn mà lại hanh. Từ năm Quý Hợi về sau, mây đen ở Tây giao đã mưa, cá chép mè đỏ đuôi dùng sống lại, văn đức để khen vua Vũ vương sau cưới chựu mệnh trời vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 4 (dùng hào 4). Quẻ của Vận đương là quẻ Thiên Phong Cấu hào 4 đến quẻ Thuần Tốn. Quẻ của Thế chia 6 hào quẻ Thuần Tốn được 6 quẻ như sau: hào Sơ quẻ Tiểu súc, hào 2 quẻ Tiệm, hào 3 quẻ Hoán, hào 4 quẻ Cấu, hào 5 quẻ Cổ, hào 6 quẻ Tỉnh. Hào Sơ quẻ Tốn biến thành quẻ Tiểu súc, (quẻ Tiểu súc lại chia 6 hào mỗi hào 10 năm) tượng khen văn đức ấy là vua Văn vương du! Duy thời bấy giờ, mây kín không mưa, tự ta ở Tây giao, lớn có lửa trời. Khuê tượng thường thấy, việc nhà Vua như lửa cháy, bảo rằng rất gần sao đây. Vua Võ vương nhân đó mà Tốn lấy hành quyền. Thượng Phụ quyết xem bói nên đi, Gia nhân định kế sách biến nhà vua tôi đều giả, trời người đều tin, cảm cách ứng điềm cá nhảy vào thuyền dâng phúc lành, kịp đến phát giáo, tập bắn, văn đức nhà Chu càng tốt vậy, duy ấy Lý hòa ở âm, con trai Càn thừa tiếp Chấn, vua nhỏ tuổi lên ngôi vua, ông tướng trong nhà nhiếp chính ; quẻ Tiểu súc dùng hào 6-4 mà biến Càn, tôi tỏ mệnh vua, lấy yên lặng bàn kế hoạch ở bờ ruộng ; hào 9-5 quẻ Tiểu súc biến thành quẻ Đại súc, tôi nuôi đức vua mà lại chuộng người hiền ; Hào 6 quẻ Tiểu súc biến thành quẻ Nhu, ăn uống yên vui, đều là lo về ràng rịt cửa to, phòng mưa dầm du! Ông Chu Công nhún chí mạnh đi, còn gì hơn vậy. Xét Tốn có tượng chim, con Phượng gáy ở Tây kỳ, mở điềm lành bậc Vương, khá nghiệm ở đấy. Qua đời vua Khang, lại chia từ quẻ Tốn hào 2 mà thành đến quẻ Tiệm, từ quẻ Tiệm biến hào Sơ, hào 2, hào 3 mà được quẻ Gia nhân, quẻ Tốn, quẻ Quan là chính nhà, xem nước mà hơn, thành được thiên hạ, đã chẳng phải 1 ngày. Vua Chiêu Vương đã thẳng từ quẻ Tiệm hào 4 đến quẻ Độn, quẻ Cấn, rồi đến quẻ Kiển, là lại đương quẻ Hoán hào 9-2, hào Sơ hào 6 biến Hoán tượng tiếp Mộc, biến Trung Phu thời thuyền trống rỗng, xem dân tình, xét các phương đáng phương Nam không trở lại, mà thuyền kéo giải tán, thẳng hoặc ứng tượng Hoán du! Vua Mục Vương hưởng nước 34 năm, khởi Hoán đến Quan, đến Cấu dùng giữa Càn, trải qua Tốn, Tụng, Mông, Khảm, 4 biến để sang Càn 9-4, Tốn dùng chính ngôi ở tượng làm trưởng, Càn già mà khỏe, là triệu chứng ở ngôi vua lâu dài mà thọ khỏe. Truyền khen vết bánh xe, dấu chân ngựa muốn đi khắp thiên hạ, Mông dùng già 90 tuổi bị khinh nhờn, Khảm dùng bánh xe chân ngựa, cũng có thể thấy sơ lược, cộng khoảng vua Y Hiếu, đi làm Độn, làm Tụng, làm Tốn, Đỉnh, Đại quá. Đại quá thời chẳng diệt mộc cây, bấy giờ có băng tuyết lớn, sông Hán, sông Gianh nước đều đóng. Càn làm ngựa, cũng làm rét, làm nước, ngựa đang sinh nở nhiều mà băng, mưa, đá ứng, đó là vì đạo trời quá dư. Cố đến Đại súc, Man cùng Vệ lại cùng ứng, bảo rằng vua Hiếu Vương mà đi, thời phải xuống nhà dưới mà yết kiến các nước chư hầu, lại càng hỏng việc, không phấn chấn khích lệ lên được. Biển mà nói sông, lại rất thôi thúc gièm pha việc phòng sông, sau trôi đến con lợn sề, Khảm sông vậy mà dân đề phòng, mà bền vỹ du! Tuy bấy giờ số đến Đỉnh Tốn, mà ngu tối tiêu ở Tỉnh, cộng hòa nhiếp vị 14 năm, đang ở Tỉnh đến Nhu, vua Tuyên Vương dấy lên, Kiển bàn lễ Khảm, bèn hanh vậy, dấu vết thử hỏi đến xem ngôi sao, kêu trời lo hạn, chẳng phải xét lại hình của Đức, ủy lạc dân khuyên tượng dùng đi săn bắn, mặc áo bằng cỏ nhuộm đỏ để giảng võ và kinh doanh đến 4 phương bế, đắp thành đến tận phương Bắc, thành cũ của giếng không có chim, mất hai bên bánh xe, đẩy ùn và trâu kéo, gốc ngọn yếu mà lại khỏe mạnh, đi lại không mất, người bầy tôi khó nhọc của vua Cát Phủ Phương, Trọng Thúc, Thiệu hổ, Thần bá, Trọng sơn, các ông này, bè bạn đến giúp lúc khó nhọc như Đại hiến đoản thân, há chẳng phải là những bậc tôi hiền giúp nghiệp trung hưng vậy thay, sau lấy buộc tội dân ở Thái nguyên vào tội bỏ Hoàng tử hủi, Tốn mất giúp đỡ sự an dùng, oai mệnh sau suy, vua U Vương mê quá, mà nhà Chu thấm ra cái tai họa nữ tráng, lại ứng vào bói quẻ Cấu vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 5 (dùng hào 5), quẻ của Vận từ quẻ Thiên Phong Cấu hào 5 đến quẻ Hỏa Phong Đỉnh. Quẻ của Thế chia hào của quẻ Đỉnh: hào Sơ thành Đại hữu, hào 2 thành Lữ, hào 3 thành Vị tế, hào 4 thành Cổ, hào 5 thành Cấu, hào Thượng thành Hằng. Hào Sơ biến Đại hữu đến Đỉnh, hay Đỉnh biến Đại hữu, hào từ được vị thiếp lấy thửa con mà ra Bĩ theo cả, yêu bà Tự, bỏ bà Hậu, lập Bá phục truất bỏ Nghi Cửu đó là ứng du! Vua U Vương lấy Tốn dùng Canh trước, lập Đỉnh dùng Canh sau, mất vừa 14 năm, họa ở núi Ly sơn hiện ra, vạc nhà Chu nghiêng chân vậy. Ôi, há chẳng phải trái lẽ vua Bình Vương đã lập làm Vua. Đại hữu biến hào 2 làm Ly, hào 3 thành Khuê, hào 4 làm Đại súc, hào 5 làm Càn, hào thượng làm Đại tráng, ở ngôi 51 năm, Tây kinh bỏ mà rời sang đất Lạc, quân nhà Vua ra đi mà năm Mậu Thân có lời than: “thử Ly (lúa mọc rời rã) khô hạn (cắt bỏ phơi khô)”, và lời than “thỏ viên nữ la” (vợ chồng chia lìa). Trên dưới oán hận, tuy do việc người, hoặc cũng trời làm, ở trong khoảng đó, khiến Chu Công chờ tước hầu, hưởng ở Thiên tử. Phương Bá dùng mạnh, bậc Vương suy dần dần thay Càn, dấu tích tắt Kinh Thi mất, Kinh Xuân Thu bắt đầu làm, khen chê để chính nước, ngăn đường để thuận mệnh, sự thấy ở sau, vận đã ra điềm ở trước vậy. Từ đó, bậc Vương xuống làm Bá, ông Hoàn ở Trang thẳng từ Lữ đến Ly, mà Đỉnh, mà Tấn, ông Lý Huệ thẳng Lữ đến Cấn, mà Độn, mà Tiểu quá, rời lửa trên trời vào núi mà chiếu sáng, rộng hẹp mà khá thấy vậy. Mệnh lệnh đã không thi hành, biến nhiều không xét xử, vua Tương Vương thẳng Vị tế đến Khuê, qua Tấn Đỉnh ma đến Mông, việc nhà không gây nên, cái loạn Trúc đới cùng với Tử đồi, loạn đã bình rồi, Tấn Văn định yên. Sau đến nước Trịnh, nước Quắc, lửa chằm làm nữ nhung (con gái mặc đồ đánh trận), họa sinh ra ở nước Dịch, ngày dùng nhiều ban thưởng công lao, là nhờ ở nước Tấn, đó là có chứng cớ du! Bèn Tụng, bèn Giải, vụt chốc cứu cho trong 6 năm, Đinh Vương lấy lập nên, lại có Cổ đến Đại súc, trời to mà nuôi ở trong núi, núi hùng vỹ mà ngồi soạc chân ra ở trên trời, xem binh hỏi Đỉnh (Tể tướng) cũng không coi Thiên vương là thấp, mà liếc nhìn Thần khí (ngôi vua). Vua Giản Linh nối cũng chẳng có tài cán gì mà lại thừa thãi vậy, Cổ càng thịnh biến mà Cấn, Mông biến mà Đỉnh Tốn, quyền lớn rồi lại xuống dưới, mệnh lệnh của nước cũng theo xuống luôn. Bấy giờ đức Khổng tử sinh ra, ngôi không ở mà Đạo ở, bậc Tổ vương (bậc không có ngôi) đương vận Cấu 5, nhà Đông Chu chọn làm nước Lỗ du! Vua Cảnh Vương trải Thăng (lên) mà làm Cấu đến Càn, Độn, vua Kinh Vương trải Tụng mà là Cấu đến Tốn, Đỉnh, hào thượng Đại quá: “đi nữa ở phía Tây bắt được con Lân, Đạo ta cùng vậy” (lời than của đức Khổng), bậc Bá lại xuống đến rợ Dịch. Quẻ Hằng thường đến, hào sơ biến Đại tráng, hào 2 biến Tiểu quá, hào 3 biến Giải, hào 4 biến Thăng, hào 5 biến Đại quá, hào 6 biến Đỉnh, vua Nguyên Vương thẳng đấy, Trinh Đinh Vương thẳng đấy, Ai Vương, Tư Vương, Khảo Vương đều thẳng đấy. Đời vua Uy Liệt cũng đường Chấn chính Hằng, đó là trước sau du! Cấu Đỉnh tức là bảo rằng 240 bút tước sửa lại văn tự, xuất 360 vận tuần hoàn, đời có thăng giáng, Đạo không thịnh suy, chính ngôi ngừng mệnh ấy xa vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 6, quẻ của vận đang Thiên Phong Cấu hào 6 đến thẳng Trạch Phong Đại quá, quẻ của Thế chia hào quẻ Đại quá: sơ biến Quải, hào 2 biến Hàm, hào 3 Khốn, hào 4 biến Tỉnh, hào 5 biến Hằng, hào 6 biến Cấu. Dùng quẻ Quải biến hào: sơ thành Đại quá, hào 2 thành Cách, hào 3 thành Đoài, hào 4 thành Nhu, hào 5 Đại tráng, hào 6 thành Càn, vua Chu Uy Liệt Vương thẳng Đỉnh (ngôi vua) đến Bính Thìn, đến Cách năm Kỷ Mão, gồm 24 năm, 9 Đỉnh lấy Chấn thửa Đỉnh hay là Cách du! Ban đầu sai quan đại phu nước Tấn làm chư hầu, nên là Chấn vậy. An Vương thăng 9 đời Cách Đoài Nhu Tráng, họ Điền thôn tính nước Tề, Tào, Triệu, Ngụy chia nhau nước Tấn, như ở thuyết ấy thuận nghe, Tráng ở Chỉ (chân) ấy tin, vận cùng làm sao cứu được, Liệt Vương thối ngôi, Uy băng trao Đỉnh Tống còn biết có vua vậy, xem khen ở sân vua, khá chẳng rằng phi lẽ chớ lý (đi vào) du! Song cũng chỉ có thế thôi vậy. Hiển Vương thẳng Đại tráng đến năm Quý Sửu, sang năm sau, thẳng Càn vượt qua Hàm đến Cách, Đại quá, Tụy, bấy giờ có sao Chổi xuất hiện ở phương Tây, Công tôn Ưởng vào nước Tần làn ký quan, rời đô đến Hàm Dương, gồm các làng nhỏ, tụ họp làm 1 huyện, hợp làm 31 huyện, bỏ phép tỉnh điền, mở đường thiên, đường mạch lại đánh thuế. Phép thuế đổi Cách phép nhà Chu quấy nhiễu quá không sợ. Bấy giờ, thời ông Mạnh Tử mới đến nước Lương bầy điều Nhân Nghĩa, truất bỏ điều lợi, cả đời bấy giờ ngày nói toàn điều lợi, há chẳng hơn Đoài mà Đại quá (hơn nhiều người) vậy thay! Từ đó, Hàm đến Kiển (vận từ Đại qúa tới Hàm, 6 hào quẻ Hàm: Cách, Đại quá,Tụy, Kiển, Tiểu quá Độn), đến Tiểu quá, mà Độn gồm 59 năm, vua Noãn Vương hết ấy đời Tây Chu. Ở quẻ Thái đến Càn Sơ, nhà Chu chia ra Đông Tây, đến đây Khốn đến Giải, đều mất ở thời nhà Tần, nhà Tần dời đất Tây Chu và Đông Chu ứng vào quẻ Khốn, quẻ của Vận là Cấu, quẻ của Thế là quẻ tội giệt đỉnh đầu, mà chia hào thẳng quẻ Khốn đến cùng Hội vậy. Xét nhà Chu làm 3 đời Vương là thịnh, Bình Vương trở về sau là 5 bậc Bá, kẻ có công hay tội, đỉnh ở kinh Xuân Thu, rồi đến 7 bậc hùng nghĩa hay lợi, đều phán định ở ông Mạnh Tử. Bấy giờ gốc ngọn nhà Chu đều yếu, nóc nhà bị quấy nhiễu mất sự giúp đỡ bởi mệnh ở Đông và Tây, như hoa cây dương khô vậy, nhà Tần thời đó đổi sức mạnh mà lấy, bèn trước 6 nước mà ngầm rời về họ Lã Doanh. Tần Thủy Hoàng đương Tốn đến Tụng, vào Tỉnh đến Nhu,… (mất chữ) Đến đây, hội Ngọ đến Cấu xong rồi, xét lên tự 6 vận, đều cử lên việc ứng quẻ, dường như cũng phụ hội ức thuyết (nói phỏng chừng) chưa khá gắn keo vào cột. Kẻ đọc coi ngay tượng được ý, là khá vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 7, quẻ của vận là Trạch Phong Đại quá (hào 1) thẳng Trạch Thiên Quải, quẻ của Thế chia hào quẻ Quải: sơ biến Đại quá, hào 2 biến Cách, hào 3 biến Đoài, hào 4 biến Nhu, hào 5 biến Đại tráng, hào 6 biến Càn.

Dùng trong chia 3 hào quẻ nội như sau:

- Hào Sơ quẻ Quải biến Đại quá, chia quẻ Đại quá biến quái: hào sơ Đại quá hào 2 Hàm, hào 3 Khốn, hào 4 Tỉnh, hào 5 Hằng, hào 6 thành Cấu.

- Hào 2 quẻ Quải biến Cách, chia quẻ Cách biến quái: hào sơ thành Hàm, hào 2 thành Quải, hào 3 thành Tùy, hào 4 thành Ký tế, hào 5 thành Phong, hào 6 thành Đồng nhân.

- Hào 3 quẻ Quải biến Đoài, chia quẻ Đoài thành biến quái: hào sơ Khốn, hào 2 Tùy, hào 3 Quải, hào 4 Tiết, hào 5 Quy muội, hào 6 Lý.

Dùng ngoài chia 3 hào quẻ ngoại như sau:

- Hào 4 quẻ Quải biến thành quẻ Nhu, chia quẻ Nhu biến quái: hào sơ Tỉnh, hào 2 Ký tế, hào 3 Tiết, hào 4 Quải, hào 5 Thái, hào 6 Tiểu súc.

- Hào 5 quẻ Quải biến Đại tráng, chia hào quẻ Đại tráng: hào sơ Hằng, hào 2 Phong, hào 3 Quy muội, hào 4 Thái, hào 5 Quải, hào 6 Đại hữu.

- Hào 6 quẻ Quải biến Cấu, chia hào quẻ Cấu: sơ Càn, hào 2 Độn, hào 3 Tụng, hào 4 Tốn, hào 5 Đỉnh, hào 6 Đại quá.

Bàn việc đời vua Tuyên Đế thẳng Quải mà sáng suốt quyết đoán, tin việc thưởng, hẳn việc phạt, quan lại trị, dân yên, giao các nhà Nho giảng bàn 6 kinh, khác hay đồng, Thái Hậu lâm triều (sưng chế), quẻ Lâm (tới) quyết đoán, ứng cái tượng thư khế văn trị. Hai vị vua Nguyên vua Thành thẳng tới quẻ Hàm, Khốn, đến cả Tỉnh, hàm cảm ở trai gái họ ngoại, quan hoạn dùng việc, cái họa nước làm tắt lửa, Khốn ở giây theo đó theo ấn nhiều vậy. Có nói chẳng nghe, cũng như Tỉnh, giếng nước dơ bẩn không ăn, thi hành đạo đều bị lòng xót xa, như vua tối tăm không đáng thời sao? Kịp đến vua Ai, Bình thẳng Hằng Cấu, đức mất, dẫu có Hằng mà có so sánh với sự xấu xa về việc chìm đắm đứa trẻ ngu, đạo buộc dắt ở mềm mà đã thành ngầm cái thế nữ tráng (em gái mạnh) yên nhà Hán mà thực nguy nhà Hán, có tự đến vậy. Vương Mãng thẳng Cách Đại nguyên soái nối, đổi thay dựng nước là Tân vào năm Kỷ Tị, chọn ngày Tị bèn Cách du! Hàm chí ở ngoài mà chẳng phải trinh. Quải có việc binh mà chớ thương, hiệu nguyên sau hung, sao khá dài vậy. Quân nhà Hán dần dấy lên, quan Đài giết Kiển vô chừng ấy ứng vào sự lành Phu Gia Đường ngôi trung chính gồm 33 năm, lấy đạo mềm dẻo trị thiên hạ, động mà vui lòng theo, Bá chưng phải từ cứng rắn mà xuống mềm dẻo. Giờ là Ký tế, chẳng gì là chẳng Phong, vua Ninh Đế nối tiếp sáng, tượng như Thiên Hỏa Đồng nhân, chia từng loại họ, tỏ rõ các vật, xét qua không rối,, đến Lâm dựng nhà ung dung sự học, không kể nhà có công tứ tính (các dòng họ ), tiểu hầu, dẫu ẹơ Hung nô cũng cho con đến học, xa gần lệ nhờ ơn, mọi người đều được văn minh thịnh đạt, chẳng phải Cách sáng sủa mà ơn huệ Đoài sao! Khốn ở một nỗi tin Phật, cầu ở Thiên trúc, lỗi ấy lớn vậy, vua Chương Đế ra sức thi hành rộng lớn, động Tùy là có được, là vua hiền đời Đông Hán, lỗi ở yêu bà Đậu Hậu, thành ra Đậu Hiến là họ ngoại làm loạn ở trên thềm, vua Hào Đế bí mật dùng quân Trịnh giết Hiến, Phu (tinh) hiệu lệnh đương rõ ở triều đình Quải quyết vậy, rồi thưởng công ban lộc cho kẻ dưới, đến nỗi mở ra cái họa hoạn quan, vua Hòa Đế Đoài là tốt, trái lại lấy hung tới, đến nay rõ tượng vậy. Trên là tự chia dùng trong, 3 hào nội của quẻ Quải biến vậy. Dùng ngoài, 3 hào 4, 5, 6 quẻ Quải biến, Quải hào 4 chia Nhu biến làm quẻ Tỉnh, Ký tế, Tiết, Quải, Thái, Tiểu súc. Như đời Hòa Đế thì Quy muội kịp đến Lý, thì Thượng đế không có con nối dõi, mà An Đế dựng lên ngôi vua. Vua An khi nhỏ thông tuệ, lớn lên không có đức lập bà Diên hậu, tính ghen tuông đến mức loạn triều đình, chẳng phải Quy muội đánh hung dữ (đàn bà hung dữ), tiếp cái sọt vuông không có thực (quả) là nghiệm đó sao? Đó là bỏ thái tử Bảo làm Tề âm vương. Đổ mất, bọn hoạn quan định mưu lập Bắc Hương hầu, ông này chết, Trung thường thị rước Tế âm vương lên làm vua giết Diêm Hiển, rời bà Thái hậu đi, phong cho 19 tước hầu, ấy là thời vua Thuận Đế, vỹ Thăng Nhu đến Tỉnh cùng Ký tế vậy, Nhu là chờ đợi vậy, hiểm ở phía trước mà không hãm, ngôi vua là ngôi trời, đã bỏ đi mà Phục (lại) lập lên mà chưa mất lẽ thường vậy, Tỉnh thời không đổi, Ký tế là định vậy, cho nên sau lên ngôi vua, bấy giờ hoạn quan họ Diêm lộng quyền, Lương thị dùng việc ban đầu tôt, sau loạn, không thể trấn hưng được, vua Sung Đế được 1 năm mà mất, vua Chất Đế cũng 1 năm bị tướng quân bạt hỗ (hung tợn, cứng đầu cứng cổ, không chựu ai kiềm chế) giết, đức Khổng nói: “loạn sinh ra vậy”, ý nói là lời nói làm cái thần không một thời thành hại, sao chẳng cẩn thận vậy thay. Vua Hoàn Đế đương Nhu biến hào 3 đến Tiết, Quải mà Thái, Nhu giữa mà Càn dương, biến mà Đoài âm, dương cương bị âm nhu hủy bỏ, mà có cái lo trong cung nữ được Vua yêu, trung tiết lấy khổ sở, tuy Nhu tiếp theo 5 cương, Quải có thể giết, mong mỏi mà ngũ hầu, quyền khuynh trong ngoài, chẳng khỏi sau hung, đạo dùng chưa sáng. Thời bấy giờ, nhu huyết thuận theo, các kẻ quân tử vướng vào cái nạn đảng cỏ, cuối Khốn hãm không ra, Quách Thái do đó khóc thương người, biết nhà Hán mất vậy. Vua Linh Đế thẳng Thái mà Tiểu súc đến Đại tráng đến Hằng trị quản đảng công gấp, có kẻ bảo Thái Đạo quân tử trưởng lên, sao lại tiêu vong đến như thế? Này Nhu hào 9-5 vốn là quẻ Càn, rồng bay dùng ngôi Trời biến mà âm, sáu con rồng đem con rắn núp âm nhỏ dùng việc, dương càng tiêu vậy. Bấy giờ có con rồng xanh hiện ra trước chỗ vua ngồi, đó là điềm sao? Tiểu súc, Tốn trên về đầu Càn, cầu vồng rơi xuống đất hóa con gà, đàn bà can thiệp vào chuyện chính sự, mà đàn bà mất trinh, bầy tôi làm giả mệnh vua là trái đạo tôi. Vua Tuận Đế bàn xem (quan) lấy lợi, bỏ bà Hoàng hậu phản mục (không hòa), giết loạn quan phản nghịch, thời cổ nhân lợi trinh tiết, mời binh ở ngoài vào thì mất cái lợi dùng việc quân. Hà Tiến thất sách để lo đến xe vua, Trương Khương chựu tội vạ lây đến chỗ ở của vua. Từ đó mà Cảnh Chân tin đến cùng. Đổng Trác tuy bị giết, Tào Tháo lại tệ hơn, vua Hiến Đế nhà Hán ở ngôi 12 năm, từ Hằng đến năm Canh Ngọ, mà Phong, mà Quy Muội, đến Thái rồi Canh Tý, thời gian này rường của Càn cởi giây thao đeo ấn, Tốn mệnh chuyên về dưới, cắp lệnh của Thiên tử sai khiến các nước chư hầu, các địa phương chấn động về việc giết mẹ vua (mẫu hậu), tiến đoạt nhiều lễ, lấn chẹt vua cha, hung bạo trái lẽ ở chỗ giữa đường, đạo trở lại Hằng sức dùng theo Tráng, Tào Tháo (tào man) đắc chí Lưu nhà Hán (Vận Viên) không sáng, đến nỗi sấm chớp giao nhau, uy sáng ở rồng phượng đều giúp đỡ chính thông, cho nên Phục long Khổng Minh ở Nam dương ra mà chân Đỉnh ở Tây Thục đứng vững, cốt yếu ở 3 Ly 4 Chấn,cắt đất binh lo sợ, gồm đến nước Ngô Quy muội ở Kinh Mục (Tôn Quyền cho người đến Kinh Châu dụ em gái là Tôn Phu nhân đã gả cho Lưu Bị) lại trở về. Tào Tháo lập con gái ở cung vua Hiến Đế, đều là tượng ứng vậy. Hào 9-4 quẻ Thái, Tào không cướp ngôi vua. Lưu Bị bèn chính vị Đại thống (Chiêu Liệt) ở Hán Trung. Đất trời giao nhau hà tất không ở lúc vương nghiệp yên một bên. Từ đó mà Quải, mà Đại Hữu, mà Càn đến Cấu, đến Đồng nhân. Thục Hán mất, qua 2 năm, Tư Mã Viêm phế bỏ vua Ngụy làm Hoàng Đế, quẻ Tấn mà ứng vào bùa Càn vậy, Càn là Ngựa, Thiên Hỏa là Viêm thượng, ở năm mà nhà Hán mất, niên hiệu là Viêm Hưng, năm mà Ngô mất niên hiệu là Hàm Hy, chữ Hy và chữ Viêm đều theo chữ Hỏa, nên Tư Mã Chiêu làm Tấn Vương, lấy tên nước là Tấn. Chữ Chiêu và chữ Tấn đều theo chữ “nhật”, Nhật với Hỏa theo thế Càn. Vua Vũ Đế nhà Tấn chựu mệnh Trời đương Càn đến Lý, xem hào 3: vũ nhân làm đại quân (vua to), năm mới lên ngôi gọi là Thái Thủy, là lấy tượng của Càn-Cấu, gọi niên hiệu là Hàm Ninh vốn là tượng từ của Càn, hiệu Thái Khang cũng là cái nghĩa của Càn kiện Lý, Thái, lấy đó mà suy, chựu mệnh Trời có phải ngẫu nhiên đâu. Càn đến Tiểu súc, Đại hữu, lấy đến theo Quải, lời hát vè Nam phong liệt liệt (lo sốt ruột) ứng Tiểu súc, đó là lời của thiên hạ giống Đại hữu, minh chứng điển hình ở đất Kim dung ứng quẻ Quải, Lâm theo tiếp hào 5, bà Hậu phản nghịch, bầy tôi phản bội, ở ngoài thì Rợ Hồ bức bách vào trong, vế trên đầu dưới, thời gian vua Huệ Đế đến Hoài Đế, Văn Đế, quân tử bảo rằng Càn Khôn thời buổi của bậc nào đây. Từ đó mà Đại qúa đến Cách, giữ mệnh của Ngọ là Cách vậy, nhà Tây Tấn bèn là Đông Tấn.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 8 (dùng hào 2), quẻ của Vận là Đại quá đến Hàm. Quẻ của Thế chia hào của quẻ Hàm. Hào Sơ quẻ Hàm chia làm quẻ Cách, nói rằng bền nên dùng da bò vàng, ngựa mất mà trâu thay, vua Nguyên Đế nối tiếp vua Mẫn Đế không con nối dõi. Quẻ Cách biến làm Hàm, Quải, Tùy, Ký tế, Phong, Đông nhân. Quẻ Hàm nói: nhanh chóng vậy. Vua Mẫn uống riệu, làm lệnh riệu, cầm cái dù che, có cái nhục Hàm về cầm theo (Hàm cố chấp Tùy) mà chóng mất vậy. Quẻ biến từ Hàm đến Quải, nhà Đông Tấn gặp đấy, 5 con ngựa qua sông, 1 con hóa rồng, vì Quải có 5 hào dương, 1 đang lượng rồng bay rồi nên giặc phải nghịch phạm thuận, vua Minh Đế giết Vương Đôn ở trước, vua Thành Đế đánh Tô Tuấn ở sau, là tượng quẻ Cách hào 2 và 3. Quải là quyết, Tùy là có được, là công vua Minh vậy, Ký tê định vậy là vì cớ Hanh, Phong nhiều vậy mà chuộng vua Khang Đế hưởng nước chẳng thủy (nước), vua Mục Đế lên ngôi khi cong nhỏ, ở trong cái đựu trong êm ngoài ấm, Đồng nhân như phải chựu lép vế đi theo trở thành thấp vậy. Từ đời Kiến Vũ trở lại Hán Thục, Tần, Triệu, trong khoảng những năm ấy, việc binh cách đều là tương Cách vậy, lấy 2 phần làm Đại quá, theo biến Sơ Quải, 2 Hàm, 3 Khốn, 4 Tỉnh, 5 Hằng, 6 Cấu, thời gian này gồm các vua Ai Đế, Hải Tây Công, Giản Văn Đế, vì gặp Quải, Hoàn Ôn đánh nữa Yên, xấu hổ xâu xa mà mất quân thua, Quải không lợi, tức là việc binh nhung mạnh ở trước, chân đi không thẳng là lỗi, nói rằng vậy sao? Thái trái phúc đức mà giệt nước Yên được chẳng phải mạnh ương có hung Sao? Ôn chuyên quyền bỏ vua này lập vua kia, hung quấy rối quá lớn. Độc lập mà không sợ, Tạ Ân đương lấy Trạch diệt mộc, Hoàn là Cây vậy, nước đóng băng đông lại, Mộc trạch khó mà Ôn bèn mất, Ôn mất Sung thay, Tạ vương cùng với Trung cũng thờ vua Hiếu vũ, Hàm (đều) vì hết sức, trên dưới ứng nhau, đó là nghĩa Hữu Hàm, Hàm dùng trong Cấu làm An, thôi làm Thạch là Thiếu nam (trai út), có yên lặng, tượng như chắn núi, ngoại quái Hàm là Trạch, nghĩa hợp ở sông Phì, làm …(ằng) khẩu lúc quai miệng ra nói, thời Phù Kiên muốn lấy gió thổi mạnh quét là mùa Thu, An Thạch sai bọn thiếu niên cả phá đấy. Ở quẻ trai dưới gái, lợi lấy gái rồi thì khách chủ ứng, khách lợi, lấy khách vậy. Từ đó Mộ Dung nghĩ tới nhân đấy khôi phục nước lên. Tấn cũng nhân đó mà mở mang đất Trung nguyên, hầu như Khốn mà mạnh sao? Đó là Khốn ở riệu, chuộng miệng tới cùng, vợ già cùng với sỹ phu vui đẹp sao lâu được, đương khuyên tài trường Tinh (sao dài) đã theo triệu chiếc bánh trong nóng vào trong cung muốn thấy vợ được sao? Tỉnh (giấy) rét giá buốt lạnh, không thể làm trong cái độc nóng ấy, bèn lập vua An Đế để làm cái dây kéo nước giếng đầy bình. Chính sự của triều đình chỉ kịp đến Ngô Tôn Ân mà lại cướp lấy 6 huyện, Hoàn Nguyên cướp ngôi trước, Lưu Dụ lại nhường ngôi sau, tuy ở ngôi 20 năm…mất chữ…

Hàm trong Cấu tượng thân mình, ngoại quái Trạch thích đồng bóng tin Phật bỏ thân mình, cùng Thái có bầy son thơm vào mình mà lòng không được tượng của thân mình, nhà trống nước bỏ tế lễ mộng sinh, hào 3 biến về Tụy dùng Đại sinh, Khiêm lợi sâm lấn sau, hàng xóm giầu thì Bĩ. Bấy giờ lấy Thọ Xương nước Ngụy giáng xuống Quảng Lăng, Tiệm (dần dần) sao Huỳnh hoặc (sao hỏa tinh) vào Nam Đẩu, tượng Trời không những chỉ ứng một mình vào giặc, kịp đến nhà cao che không cho sáng vào, họa ở Đài thành ứng vậy. Giản Văn Đế bị bỏ do tay bầy tôi làm giặc, đạo văn võ của Hiếu Nguyên đều ở ngựa bạch áo trắng, vua Cung Đế lên ngôi, trinh dương về sau bỏ để không định. Chẳng Hằng (thường) theo đức, mà nhường ngôi cho Trần, nhà Lương bèn mất. Bắc triều nguyên Ngụy, trải 13 vua gồm 194 năm, cũng cùng mất với nhà Lương, rồi chia thành Đông Ngụy và Tây Ngụy, là thời của Tiểu quá đến Hằng, hào nhiều hối hận mà hung, hay là do giữ ngôi vị quá lâu mà hung vậy. Trải qua Dự, Khiêm, Hàm, Lữ, thành dài mà gồm tới biến gồm 5 vua, Trần Võ đến Văn Đế, Tuyên Đế hợp 32 năm, rồi mất về tay nhà Tùy. Tùy Văn Đế thôn tính thống nhất cả Chu, Tề, Trần, Lương. Từ niệu hiệu Khai Hoàng đến Nhân Thọ 23 năm, trong cảm không phải hòa bình là linh cảm có chí, bình chẳng phải sáng suốt cẩn thận mà hình ngục không để lại, hào thẳng Tiểu quá, có sự hung chim bay mắc vào lưới, cùng với ữ thượng qua chóng tổ, vua Tùy Dạng Đế giết cha làm vua, đắp vườn làm núi, xây vườn thượng uyển, chế xe đi, làm đai đồ y phục, tai đến cả loài chim. Độn đến Đông nhân, bèn đến Cấu đi tuần phương Bắc, ra ngoài cửa ải, đương ủy quân hô hào nước Hàn giết người già tiếp nối gót mà đến cúi dập trán, làm 3 quyển Tây vực đô ký, hợp 44 nước vào triều kiến, có tượng Đồng nhân đồng nội. Lại tự đem quân đánh nước Cao Ly, trời với lửa cùng nhau là ứng Cao Ly, quẻ Độn hư mà không công, không thể việc lớn trái trời, làm việc cướp trộm núp cỏ trên lăng, thành ra câu vè Dương mất Lý, hò hát mà sau cười, Đại Sư hay gặp, thiên hạ khổ về nhà Tùy mà vui về nhà Đường. Quân lại dấy lên ở Tấn Dương, gió thổi chiếu cuốn, rồi tới Hưu Bĩ đương ngôi, sao Thái Bạch điềm biến, để nói rằng bọc lấy sự xấu hổ, cũng nói rằng lìa phúc, đó là đời thình trị của vua Đường Thái Tông niên hiệu Trịnh Quán, càng sáng sủa hơn vua Cao Tổ Võ Đức vậy. Càn trên Khôn dưới, trời đất ngay tnẳng, xem quẻ rằng Bĩ hanh, đạo vua tôi ở Thái tử mất đạo, dần dần đến cớ nói, bỏ mà lập, trị hay thuận lấy Tốn, tên tiểu tự là Trĩ nê, tượng Lữ đến Ly, chiếu sáng tốt đẹp ở Cấn cửa khuyết biến. Từ nhà Tấn Tống yên vui mệnh Trời, do bởi lấy trên kịp xuống. Vả lại 10 Tiệm rất cẩn thận, giải quyết từ 3 lần 5 lượt, trừ tử hình hơn 30 điều gồm cả đổi chặt chân, đánh roi vào lưng, tha tù 390 đều được Lữ minh ý dùng việc hình cẩn thận. Đến khi Hồ Việt 1 nhà đem đất đai vui phục, theo Hàm cảm được lòng người, mà thiên hạ bình vậy. Tuy phân quẻ chủ Hàm, điềm xem qua chữ Chỉ là Vũ Thiếu vào cung, kịp đến sao Thái Bạch hiện rõ ban ngày, xem ra vị nữ vương giết nhiều người không tội, trái mệnh trời, thuần phong có nói hoặc cùng suy tượng Hàm vậy. Vua Cao Tông nối ngôi, Vũ thị lấy tài nhân vào làm Chiêu nghi, ứng chính thẳng Hàm ngoại quái Đoài làm Thủy Trạch, Cấn làm cửa khuyết, núi nước đem xông vào cung điện Vạn niên làm đắm đuối hơn 3 vạn người, bảo rằng không phải âm thịnh cướp dương là chẳng nên. Tử lập bà Vũ làm Hậu, chặt đứt tay 2 người vợ bé của vủa Vương Tiêu, thuốc độc cho vào bình riệu, bỏ Thái tử Trung mà lập em mình là Hoằng, quá lắm vậy. Ủy việc chính sự, quyền ngang với chủ nhân, đó là Hàm trung Càn Tốn, chứng triệu có vợ cả vua để thi hành mệnh lệnh đó sao. Tiếp đến quẻ của Vận Đại quá trong Tốn ngoài Đoài trung 4 thay đổi nhau Càn, Tốn, Đoài gái trưởng và gái út, Càn là vua chồng già là Tốn mộc vậy, làm cỏ tranh trắng, làm cây dương, Tốn lấy bằng đấy, cũng làm rường nóc nhà cao dài. Càn làm Kim (vàng), làm cương (rắn) bền, Đoài làm Dê theo nước làm bể đẹp lòng thời vui vẻ, loại ấy không thể nói lên hết được. Đương đời Ngũ đại quẻ chia Đại quá, hào 9-2 theo thuộc về Tốn, chựu mệnh dùng tính thị, và niên hiệu (quốc hiệu) loại này đến ứng Tốn mộc, như Tống, Tề, Lương, Trần cùng Tùy, tính là dương đều là tiêu (cỏ hoa), mao (cỏ tranh) thuộc tượng nhà Trần, nóc nhà là Tề, quá là Tốn lấy cái nghĩa về bằng nhau đấy. Tính lại của nhà Tống là Lưu, tên của Dương là Kiên, đều không Ly (hình Càn Tốn, nhà Đường lấy họ Lý thay tên Lương, ứng Càn rồng nhẩy, cũng ứng Đoài Trạch, Trạch tức là Uyên vậy, hơn đời được lòng dân, vua Thái Tông lấy tài Đại quá nhân (hơn người nhiều quá) chẳng đắp đổi Cấu ở ngôi trong, bảo có cớ tóm ức triệu dân chúng dấy lên làm chủ Càn. Quẻ của Thế chia Hàm thứ tự đương Cấu 2 tên cũng ứng. Đến như Cấu hung nữ tráng, Tốn lại Vũ nhân mà theo ở sau gặp làm cảm, âm tiến cướp quyền dương, thời Thiên dựng niên hiệu lỗi cũng lớn vậy. Phàm Vận thứ 8 này, quẻ trải qua tinh tế mà suy, tất có điều sẽ nghiệm ứng, kẻ đọc nên biết được đại ý, còn cái kiến thức phục hồi giọng hợp, giữ lại mà không bàn đến, là nên vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 9 (dùng hào 3), quẻ của Vận đang là quẻ Đại quá đến quẻ Khốn. Quẻ của Thế chia quẻ Khốn hào sơ Đoài, 2 Tụy, 3 Đại quá, 4 Khảm, 5 Giải, 6 Tụng. Quẻ Đoài hào Sơ đến Khốn, âm che lấp dương, mà đương lúc suy loạn trước sau đều yếu, thời chẳng khỏi hung. Đoài hào 2 chia thành Tùy là đạo vợ cương đến hạ chủ nhu, mà đẹp lòng theo đấy, tiến thoái lưỡng nan do ở cảm tình, thành tượng nữ chủ vẫn được yên lành ăn uống. Bỉ theo Quải thời 1 âm giữ trên 5 dương mà xưng Danh, sao Chổi hiện ra, cái nghiệm 5 xe ở đây sao? Bấy giờ bỏ Đế làm Vương, đổi Đường làm Chu, Trời hầu phản, Tốn mệnh mà bốc lên ở sân hay là ở ngay sở tại để mà tin theo gọi vài lời khuyên bảo. Âm dẫu ngồi chỗ tôn, Càn cương chưa đổi, thiên hạ đều nghĩ bẻ gẫy cánh chim vẹt để vun bồi cành lá mà chưa từng quên Quải dùng cương quyết nhu. Nay đọc tờ lịch của Tân Vương mà trước làm chẳng xiết cái khí Chấn dương trong sân vua ấy là tráng (mạnh). Kịp ở phòng lăng lại khôi phục việc chính sự mong hợp trời người, trao tiết của sân vua ngôi nhà Đường phản lại chính, tin khá đẹp lòng, mà bà Vy hậu lại đương quẻ Quy muội, có cả cành dâu, tiếp cái sọt không có quả, đếm thẻ chưa hết mà bánh cuộn lại tiến. Long cơ đánh đấy giúp Vương lên ngôi, giết đến cả tông tổ Bàn Tuấn lập làm vua 2 năm. Huyên lên ngôi Đế, rõ trên dưới để định chí dân, thời Lý đấy chẳng bệnh lâu, ngôi chính giữa mà tin càng tốt lành, thời Tùy (theo) cũng không lỗi, niên hiệu Khai Nguyên thịnh trị, trên ví với nan Tring quán (Dương Khái Công) đến dùng khốn dương cương che lấp, chuộng lời nói tin sự dèm pha, Hàm (đều) với tính con gái, đẹp tình mà khinh nhờn, bà Dương phu ứng Đoài, Lộc Sơn ứng Cấn, con gái ở con trai giảo quyệt, loạn đời hiệu Thiên Bảo khởi ở bọn trai gái, trót cùng ở Độn (trốn), biến trốn Mã ngôi, Linh Vũ lưu lại, các bầy tôi thuận theo, lòng người đều giúp Đường, Lý bởi còn Bác quẻ ở các kẻ bầy tôi là Quách Lý làm lại tiến vào với quân của Vua dùng khu trục con chim phản nghịch, Chu đã mất, do đó khôi phục được Tây kinh, Phượng hoàng về, Dương Tỷ được vua yêu giúp nước; chuyên quyền quân sỹ bỏ lập, yêu không phải đạo là nuôi loạn, vì dùng không trọn, đại khái thấy vậy. Đời thẳng quẻ Dự, cho cái tên là Dự: Lợi kiến hầu hành quân, việc hình phạt trong sáng, dân phục, vì cớ lấy thuận và đông vậy. Thời không nói hết. Vậy thì quẻ của Thế chia Khốn đến Tụy mà thẳng theo hào 9-5 mà biến làm Nhu, ứng tượng trinh Hằng chẳng chết, hào 9-4 một khi nắm giữ đương Chấn, chuyên giữ thế mạnh, hào 6-5 ngôi vua quẻ Dự chẳng chế được phương Khôn, đất đai cũng bị dẫn chứng không rõ rệt. Tỉ (ví) 5 mà nghe 4 làm thì động chính ứng đấy, vả lại Cấu đắp đổi Tốn từ lúc đầu Tỉ giúp nước, tiếp sau đến Nguyên Chấn đều cùng tương hợp. Vua Đức tông đương ở yên Cách Cấu thì vô sự, theo rằng Dự kịp đến sao? không thời thành vậy. Vua Đức tông thành Bĩ cùng Đại quá đến Quải Hàm, ban đầu làm 2 thứ thuế, vơ vét bóc lột nhà buôn giầu, đánh thuế cả giá hàng, dẫn oán thành ơn, hà tiện sự khen thưởng, chẳng thương quân sỹ, so đo ơn huệ, trước sau đều nói sinh ra phản loạn, phải chạy ra ngoài để lánh nạn, ứng tượng Bĩ vậy. Tang đạo Hậu sao cố tạo ở Ly cùng Khốn, cùng thành Phụng thiên cao lớn, để phòng bị việc xin phí thưởng thắng hoặc có mất, cái mất này có liên hệ đến ứng bào tang. Thời bấy giờ xét mật như Phụng thiên, lại như Lương Châu, ngôi vua nhà Đường muốn đổ, bèn được trước Bĩ sau mừng, thu phục kinh thành đương Quải mạnh, có quân lính chớ thương xót. Phu hiệu ấu nguy bèn sáng vậy, các tướng Lý Thanh, Hổn Hàm, Xã Toại bảo rằng chẳng phải quyết chí bỏ giặc, mà Quải quái vô cựu, cùng Hàm làm cung, chợ, cả trẻ con trong 5 phương đã trình bầy mong ngóng đến gần vậy, thì Tốn gần lợi, chợ gấp 1, 2 lần, Cấn là bọn trẻ con nhỏ ở chùa liền Tốn 5 phương vậy, đều lấy hư không chựu người mà quân tử lấy nghĩa, tiểu nhân lấy của cải vậy, kẻ dèm pha dương miệng nói trên đầu gối, kẻ trung hiền bị chê ra, quân tử đi trốn. Lòng vua ưa kẻ tà, cảm sự hại chưa sáng tỏ, giết cây gỗ dần dần theo cách này. Vua Thuận Đế mắc bệnh, mất tiếng Khốn vậy, mà trước bãi cùng chợ các chính sự tệ hại cũng tức làm hanh thông, song cũng không thể quyết việc chỗ cung môn chỗ chùa đàn bà càng lấy trộm quyền, đáng dân nhân lấy liên kết nhau, cương cũng càng che lấp vậy, Lập tức truyền ngôi cho Thái tử là Hiến tông, hãy chấn hưng đường lớn dùng mưa sau, bình định kẻ tiếm loạn, Khốn mà được theo hanh thông, gốc ngọn không bệnh vì yếu đuối, mà đời suy loạn ấy đều thịnh vậy, là do dùng người đều đáng cả, đặt để không lỗi lầm, Hà Tây, Hà Sóc đánh dẹp đều có công, úy lạc dân, khuyến kích tướng, bờ cõi trị yên. Tốn vào Khảm hiểm, Tốn bằng Khảm nhọc, Kinh Thi rằng: đi vào chỗ hiểm trở, có ngăn, chắn, theo Sơ, cùng các thành lên vua. Là vận ấy tượng ấy, vua Hiến đương đấy, vì sao nịnh Phật thích Tiên, uống thuốc ở sông Liêu Bí để cầu sống lâu trái lại bị giết, là chằm giết cây sao? Kịp đến Dự: vua Kính, Văn, Vũ, Tuyên, Ý, các vua này thẳng Tỉnh, Hằng, Cấu mà trải Khảm đến Tiết, Bĩ rồi Tỉnh. Vua Mục Tông, Kính Tông hưởng ngôi không dài, lại mất hà sóc một khi vui chơi quá độ, mà lượng đầy bình, 1 đứa trẻ tối tăm bị giết mà chẳng phải ngôi vua thì khó mà lâu dài. Văn Tông lo mềm ít quyết đoán, tượng Hằng đến nội Tón mà bị chế ở gia nô, biến ở Cam Lộ mà Thiên tử chấn động sợ hãi, con lợn ít lông, dắt đi mềm mại, chót đến cùng, tốt đẹp khác, thuận ra làm gì. Vũ Tông nhanh nhẹn mà được thượng đẳng Thái nguyên, Tuyên Tông xét sự sáng suốt nghe lời nói không can không dự, chế vừa phải độ, gần người hiền xa sự vui, cũng bảo là được vậy, bèn lại yêu về thực, mê hoặc nguyên bá chẳng vào Khảm cung mà mất Đạo, hung vậy. Ý Tông đắm đuối yêu sắc vô độ đam mê, ngầm tiêu triều đình mất chính sự, kẻ canh cửa lộng quyền, tin kẻ dèm nịnh ruồng bỏ kẻ trung, dân nhân mà mở trộm cướp dấy lên, Khôn chủ dân chúng, Khẳm làm giặc cướp, bỉ trong Khôn ngoài, mà Tỉnh đến Khảm Tốn cũng bảo là trộm cướp, Phong (gió là quẻ của Thế chia Khảm, Tỉnh thẳng tới Khảm, Khảm bọn giặc cướp làm công nhân, đó là 1 biến vậy) đấy ít tuổi mà Khốn hỏng, dân Khốn về lụt nạn đói, quốc gia Khốn về nạn trộm giặc đánh cướp, vua Khốn về bức bách rời xa, như tật lê ở trong gỗ đá quấn quýt cây sắn, thay đổi lần lượt làm chỗ vua ngự. Năm Giáp Thìn quẻ ứng Sư tinh mới bình được giặc lớn, mà Bắc ty giặc ở trong còn ngang nhiên cướp xe vua. Xét đến Bỉ Tỉnh, thì Khảm trộm giặc ở ngoài, nhân tiếp Khôn Sư thì giặc cướp ở trong chiếm giứ Bắc Ty, ứng trùng Khảm. Trong thời Cấn Tốn thay đổi nhau, có kẻ hôn tự (chức canh cửa) con trưởng, làm tượng trong ngoài giặc cướp liền liền. Lúc này nhà Đường ngôi vua con ngất vậy, vua Hy Tông có chí khôi phục lại công nghiệp đời trước, uy lệnh chẳng chấn hưng, quan quân một khi tan vỡ ở Khái dụng, lại chạy đến Mậu trinh,, lại nhà khắc dụng mà Tam trấn đánh bình phục lại, lại lấy Mậu trinh mà kinh sự không giữ, trên như Hoa châu, ai bảo rằng Hoán sơ cứu ngựu mạnh là cát. Chu Lý tránh đón rước, tan chạy muốn gì, cùng cực đến nỗi lấy bạc vạch đất, mẩu sắt giữ vững cửa. Chiêu Tông mới chằm tên hung đầu sỏ, Toàn Trung lại thả binh cướp, rất thành ra giết, hào 9-6 bảo rằng: tan máu hại xa, 9-6 khó nói vậy. Vua đi chỉ để giữ hư vị 3 năm mà sắc phong, bảo phong Lương, quẻ cũng ở Giải đến Quy muội, tội không thể tha thứ. Chu Tam bội nghịch làm con chim cắt nhỏ ở quận Cao dung ứng là con cáo lẻn chỗ ngồi dân ô bị giết mà hung, quái gở sao xiết vậy. Hữu Trinh giết Hữu Khuê mà lập làm Mạt Đế (vua đến cuối cùng) không hay tự mạnh lên, sau bị Điền Trang bắn 3 mũi tên giết như lợn chó không phải dịch mà Dự thấy đấy vậy. Dự lợi hành sư, ứng về nhà hậu Đường sao? Giải hào 9-2 săn được 3 con cáo, được tên nỏ sắc vàng biến mà Dự, bèn gói cái đầu tên ngụy Lương vào miếu, hoàn lại cái tên nỏ để tế vua sánh với tổ mà làm bản nhạc Sùng Đức, sau vua Đường Trang Tông chẳng là đẹp sao? Đoài không thường giữ đức hạnh, hoang tàn về tiền của, nữ sắc, chơi bời săn bắn, chỉ kiêu ngạo, chính trễ nải, quân dân lìa lòng, những bầy tồi cũ có công bỏ đi hết, sau bị tên hát chèo giết, bậc quân tử xấu hổ. Minh Tông già mà lên ngôi vua, con nối dõi không đổi hiệu nhà Đường, làm nhiều điều thiện, điều thô đến nỗi Tiểu Khang chẳng phải Hằng, lấy 1 đức tốt lập nên chẳng dễ ấy du! Theo đến Trời chưa sinh bậc Thánh, ứng vận mà ra, mở không đủ nói, bỏ lại khen gì, ở nhà Tấn làm chúa Khiết Đan sách lập nên, tôi con như chó dê, Tề Vương trọng người quý, Hoành Khiêu Ông dặn: 10 vận họ Hoành mài gươm, quẻ là Sư: trinh, trương nhân cát. Phụ nhân dịp đến cướp phá, theo như dùng sao? Nhà hậu Hán xưng Đế, lấy cớ thiên hạ không chủ, mà trước chính ngôi vua, tại vì bấy giờ quá Khốn mà cầu sống lại, chưa phải quân tử có Giải phụ ở chân chủ tiểu nhân, cha con được 5 năm, đi ẩn mất nước. Thiên tử thời Quách Vu trung tự làm đấy vậy, bỏ người hiền mà việc nước thường có nên việc đâu. Xét Thái tổ Quách thế Tông Sài Vinh cũng xưng là Ngũ Đại. 12 vua đến lệnh chủ mà suy tôn làm trị chủ lấy đạo cứu, thiên hạ từ đó thái bình, thời Ngũ đại: Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu cũng tới trộm cướp nước tiến vua, không một mà đủ đều là ngón tay cái đó vậy, mà ngôi vua sao đóng vậy. Nhà Đại Tống dấy lên, vua Thánh nhân ra đời, chựu Cung Đế Quách Tông Huấn nhường ngôi, tước bỏ đi hơn 10 nước tiếm đoạt mà đêm lại hợp nhất. Đương lúc giúp nhà Chu bắt Hung Nô quy phục được Định Châu, lại phấn khởi đánh lấy Hà Bắc, ứng quẻ Vị tế dấy đánh, bấy giờ hạn có khen Thiên thủy Bích vậy (nước trên trời biếc). Thiên thủy là quẻ làm Tụng ở quân làm Đế phong Bích, Hỏa là đỏ vậy, Càn Khảm chủ đấy, tự Vi tế vào Tụng, đến Lý khiểm điểm Thiên tử chống phái võ nhân làm Đại quân (vua lớn) sao? Lý Đế chẳng bệnh lâu, theo đó để mà biết vậy. Lấy đức của vua chẳng như Càn, từ ĐƯờng, Lý đến Ngũ đại trải qua Khảm Giải đều 60 năm, ít gặp Cần đấy, đến đây thượng quái của Tụng là Càn đó, Hoán và Vị tế mà Khốn cũng chẳng lìa Tụng là Càn ở thượng quái, đời Thái tổ, Thái tông cùng Chân tông thẳng đấy, theo ở Nhân tông đến Anh tông, vận ở 10 quẻ thẳng làm Nhu, trong Nhu là Càn vậy, quẻ ấy gồm cả Vị tế Tiết thứ đều nội Càn biến, ngào làm Quải, Thái, Tiểu súc, hết thẩy Càn làm đó, cho nên đi vào rường cột của Càn một mình chính được đức của Vua tốt đẹp. Nhà Đại Tống từ đời Kiến long chựu mệnh Trời, đổi niên hiệu là Càn đức vốn đã là bậc Thánh làm vật thấy đấy hợp vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 10, quẻ của Vận là Đại quá đến Tỉnh (hào 4), quẻ của Thế chia quẻ Tỉnh ra: hào sơ Nhu, 2 Kiển, 3 Tập Khảm, 4 Đại quá, 5 Thăng, 6 Thuần Tốn. Vua Nhân Tông Triệu Trinh năm 1023, thẳng Nhu đến Tỉnh, trải qua Ký tế, Tiết, Quải. Vua Anh Tông Triệu Thử lên ngôi năm 1064, ở ngôi 4 năm ở quẻ Thái. Vua Thần Tông Triệu Tử lên ngôi năm 1068, ở ngôi 10 năm ứng quẻ Thái đến Tiểu súc, vào Tiểu đến Ký tế. Thiệu Ung ta suy Vận-Thế đến vua Hy Ninh, ứng quẻ Nhu đến Thái rồi thôi suy chưa kịp vậy!. Vua Triết Tông Triệu Tu bèn thẳng Kiển, tự Ký tế đến Tỉnh, vua Huy Tông Triệu Cát lên ngôi năm 1101 ứng quẻ từ Tỉnh mà Bĩ, mà Hàm, mà Khiêm, vua Khâm Tông thẳng Khiêm đến năm Bính Ngọ, Đinh Mùi, cả họ đi lên phương Bắc. Vua Khang Vương gây đi Kiển lại trở về, ứng Đại quá 9-4: gây tượng đống long là tốt lên ngôi vua (nhà tốt không quấy nhiễu ở dưới) vậy, nhà Tống bèn rời về phương Nam. Khiển, lợi Tây-Nam bất lợi Đông-Bắc. Đó là chứng cớ sao? Bấy giờ đương Khiêm, lợi dùng lấn đánh, lợi việc hành quân, sau đến hoa nghị, Đại quá trong Tốn mộc, vua Tống hòa với Đoài nhà Kim mưu diệt hỏa, đến Kiển, đến Tiệm, hai vua đánh phương Bắc không trở về, bỏ biên Đô đi xuống hay như dần dần như cái cột mà thôi, bây giờ kẻ trung tiết bị đuổi giết, ngoại Bĩ khen là hiền, mượn áo quan của vua ở cung Tràng Lạc để làm lời vâng biểu làm tôi phương Bắc, chính thẳng Khảm là quẻ phương Bắc, cho nên Thủy (nước) đấu trí khác, há chẳng lấy Tập Khảm đến lần nữa mà hãm mất ấy lớn du! Truyền ngôi vua Hiếu Tông quẻ lại ở Tỉnh, cháu 6 đời vua Thái Tổ mà nối ngôi theo đương Vận chủ quái. Trải Khốn mà Sư gồm 27 năm. Quang Tông bị kiềm chế bởi bà Hậu hung tợn mà trái vua Thọ Hoàng, Khốn hào 4 đến Khảm, trong hiểm ác mà mất thuận đức. Thà Hoán mà ruồng bỏ kẻ chính dùng người tà, thời có sự lo lìa chi giải thể, giặc lớn ấy lo, thiện nhỏ lại dùng gì, Quải cùng Hàm lấy cảm vậy. Vua Lý Tông 40 năm chủ Khốn, Tỉnh, Hằng, Cấu, bấy giờ dân đang khốn vì bọn phản loạn. lại khốn về hợp Nguyên đánh Kim, Kim mất thời ứng vào quẻ “kim xa”, đổi ấp mà không đổi Tỉnh, Lâm an hỏa 83 vạn dân bỏ ấp là nước đổi vậy, mà Tỉnh cong đấy, vả Tỉnh gồm Đỉnh, Cách đều tượng Hỏa hoặc theo ứng vậy. Hằng chẳng đổi phương như Tốn dùng chính hỏa. Can Ân tự xuống lấy kẻ tiểu nhân dùng vào việc, thời bấy giờ tượng ứng Càn Nguyên, phong tục đi như gió khắp thiên hạ, hoặc lấy khí trắng như tấm vải phô bầy khắp Trời cũng là Cấu tượng vậy. Tốn là trắng, phô bầy ở Càn trời khí âm phạm lên trên, Hốt Tất Liệt phô bầy vậy. Vua Độ Tông Triệu Kỳ thẳng Tỉnh đến Thái, Thăng, trong Tốn mộc ứng nhà Tống biến mà Càn nguyên Mông Cổ dựng quốc hiệu là Nguyên kỷ nguyên là Chí nguyên, là có lấy vậy. Bấy giờ, đạo Thái ứng Nguyên mà vận Tống bèn mất, vua Cung Đế Triệu Hiển đương thẳng đến Khiêm, trong Tốn biến Cấu, trẻ con không ngôi, chẳng phải chẳng có Kiển như kẻ bầy tôi không đoái hoài đến lợi hại 1 thân, ứng với Khảm hào 3 vào hố sâu, cũng chết theo vua chết đuối ở biển, há chẳng phải trời vậy thay! Thời này, nhà Nguyên trải 9 vua, thẳng Thăng đến Sư, Hằng, Tỉnh, Cổ gồm cả trước Thái, Khiêm làm 6 biến, lại Tốn đến Tiểu súc dẫn Hoán, Cấu, Cổ gồm biến vận Nguyên đến lúc hết. Bấy giờ, đất động, núi lở, sao Chổi, mưa đá các sự biến lạ luôn thấy. Vì lấy vận đang Đại quá, quẻ Thế chia Tỉnh, thẳng Tỉnh đến Thăng, như Khôn địa tiếp Chấn, thẳng Tỉnh đến Tốn hỏa trạch thay đổi nhau Cách, trong khoảng ấy như sấm gió núi chằm, trời trăng cùng nước lửa, suốt tiết mất Hằng, Độn thấy đổ nát, hết thẩy cùng với Hội ứng. Cách chủ cách mạnh, Tốn sơ biến đến Tiểu súc, lại thẳng Càn đạo đến Cách trung đắp đổi thành Ly, họ Chu nhà Minh đương ngôi, lại theo Đại minh sao? Đương chấn hưng Cổ sấm động bão nổi đổi nhau bèn ứng Hằng, trời trăng soi lâu, mở nhà Đại minh 18 vua gồm 277 năm ngôi nước, ban đầu thời vua Hồng Vũ Tốn lợi võ trinh, sáng trí trị vậy, biến mà Tỉnh nuôi không cùng, dân dùng khuyến khích cái tưởng mà Vận thứ 10 Đại quá đến Tỉnh, quẻ biến đã khắp vòng, này ở đời Hồng võ thứ 16 năm Quý Hợi, từ đó đến Giáp Tý lại đang Đại quá đến Hằng vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 11, quẻ của Vận là quẻ Đại quá đến Hàng (hào 5). Quẻ của Thế chia Hàng hào Sơ Đại tráng, 2 Tiểu quá, 3 Giải, 4 Thăng, 5 Đại quá, Thượng Đỉnh. Năm Hồng Võ thứ 7, thẳng Hằng Đại tráng hào Sơ, lại làm quẻ Hằng, Hằng lâu làm Nhật Nguyệt được tượng trời trinh minh. Phong trời Nhật giữa Nguyệt đầy, hoặc vui ăn cơm số trưa. Năm Kiến Văn thứ 4 chẳng chọn Vĩnh Lạc thẳng Quy muội đến Thái, vua đời Hồng Dy, Tuyên Đức Quải mà Đại hữu, chính thống thẳng Đại hữu đến Bính Thìn, đến Hằng, Tiểu quá đến Phong mà có biến thể mộc, Cảnh Thái bèn thay Hằng đến Đinh Sửu mà lại lên ngôi vua vậy, đổi niên hiệu là Thiên Thuận, thể quẻ là Chấn Tốn đổi Càn, Càn thiên Tốn thuận Chấn lại làm chủ tể mà Hằng không đổi phương, vốn là tượng vậy, đời Thành Hóa Dự Khiêm mà Hàm đời Hoằng Trì, Hàm Lữ mà Giải đến Quy muội. Đời Chính Đức từ Quy muội đến Bính Dần, rồi Dự đến Tân Tị gia Tỉnh thời Dự mà trải Hằng, Sư, Khốn, Vị tế lại vào Đỉnh đến Thái vậy, đời Long Khánh đi Thái 6 năm, vua Thần Tông lại đi Khiêm, Sư, Hằng, Tỉnh, đến dùng Cổ gồm 48 năm, đời Thái Xương, đời Thích Khởi Cổ, Tỉnh, Đại quá đến Quải cộng 8 năm, Quải mà sau Hàm, đời Sùng Trinh là hết vương triều Minh từ 1364 – 1644, thời Đại minh chiếu lâu, nhật nguyệt phản ảnh trong khoảng giữa Đoài Càn đều dùng cương che lấp, tĩnh dưỡng chẳng cùng, Hằng lâu mà chẳng thôi, cảnh vận lâu so sánh 1 với Trời, ức vạn năm dài phúc lộc vậy.

Lấy Vận kinh Thế chia quẻ thẳng Năm, lời bàn sau đồ đã rõ ràng. Nhưng quẻ về kinh Thế có chỗ không đồng nhau, người nghiên cứu cần biết “ngung phản” (ngung là 1 cạnh của hình vuông, biết 1 cạnh thì xét được 3 cạnh còn lại). Như đồ nay chép đời Nghiêu năm Giáp Thìn, vốn ở Kỷ 6 Hội Quý 180 Vận, là đời thứ 8 năm Giáp Thìn, những Giáp Tý trở về trước thì lược đi mà không chép, tức là đây lấy Giáp Tý Thế thứ 7 cũng chẳng bầy rõ, chia hợp 2 Thế làm 1 Giáp Tý, chia gặp vận quái 1 hào, như Thế là vận quái thuộc Càn, Thế quái Sơ Cấu, 2 Đồng nhân, 3 Lý, 4 Tiểu súc, 5 Đại hữu, 6 Quải, đấy là Thế thứ 8 khởi Giáp ngọ, tức là từ Giáp Tý Thế thứ 7 khởi, hợp thành Tiểu súc 1 quẻ, thời từ Tiểu súc khởi Giáp Tý thuận tính đồ tròn Phục Hy, vẫn nên trừ ra Càn Khôn Ly Khảm quẻ tứ chính, cộng được 60 quẻ Giáp Thìn chính đương quẻ Tùy, cho nên lấy quẻ Tùy làm trực niên quái vậy. Như Thế thứ 90 quẻ của Thế là Đại hữu, lại từ Đại hữu khởi Giáp Tý 11, 12 Thế quái, lại ở quẻ quái đó khởi Giáp Tý. Niên quái đã được, thì Nguyệt quái, Nhật quái cũng đều theo đó mà suy vậy.

HẾT QUYỂN 2

QUYỂN 3

LỜI TỰA

Xưa nay, sách làm sáng tỏ Đạo có Kinh dịch và Thiên Hồng phạm, vì 1 gốc ở Hà đồ 1 gốc ở Lạc thư. Hà đồ Lạc thư vốn liên hệ tượng dĩ nhiên của Trời Đất, hai đồ vuông tượng đất, đồ tròn tượng trời, mà trời có thể bọc được đất, đất không thể tóm được trời. Cho nên Thiệu Khang Tiết truyền cái học Tiên thiên, suy diễn nghĩa đồ tròn mầu nhiệm, viết thành sách Hoàng Cực Kinh Thế, lấy ngày Đông chí, nửa giờ Tý làm giờ Thiên khai, tự đó lấy đến Khôn, trừ 4 quẻ chính Càn Khôn Khảm Ly, lấy 60 quẻ làm 1 Nguyên, trải 12 Hội. Lại lấy 1 quẻ biến 6 quẻ, 60 quẻ biến 360 quẻ trải 360 Vận. Lại lấy 360 x 6 hào biến thành 2160 quẻ, mỗi quẻ thẳng tới hai đời trải 4320 đời. Lại lấy 2160 x 6 hào biến thành 12960 quẻ, mỗi quẻ thẳng tới 10 năm trải 129600 năm. Lại khởi Vận quái, lần lượt suy thuận làm quẻ trực niên, mở Vật ở Dần đóng Vật ở Tuất, mà trên suy đời đã qua, dưới ngược đời tương lai, chẳng gì là chẳng rõ ràng như trên bàn tay, trăm đời đức Thánh có thể biết được nghĩa ấy. Lại lấy 4 quẻ Càn-Đoài-Ly-Chấn làm mặt Trời, mặt Trăng, các vì Sao làm âm dương thái thiếu của thời (tức là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương). 4 quẻ Khôn-Cấn-Khảm-Tốn trước làm thủy-hỏa-thổ-thạch, sau làm cương-nhu-thái-thiếu của đất. Thanh sướng lên ở trên Trời, âm họa lại ở dưới Đất, được gọi là xem Vật, mà âm dương tiêu trưởng của trời đất, biến hóa sinh thành của Người và Vật, bên trong là then máy của thân-tâm-tính-mệnh, bên ngoài là kinh tế về tu-tế-trị-bình, lớn rất mực là việc trị loạn hưng suy của các bậc Hoàng-Đế-Vương-Bá, nhỏ thì đến cỏ, cây, cá, sâu bọ sinh ra, khô đi tươi tốt rụng đi đều không thể vượt qua phép này. Trình Tử suy tôn Thiệu Tử có cái học trong Thánh ngoài Vương. Lưu Đẩn thuật được Hoàng Việt Châu chú thích, diễn làm Tự ngôn, trong thiên dẫn lời của Chúc thị Bật và Chu Ẩn Lão, lời nào cũng tinh diệu rất mực phát minh cho nhau, trọng về lý mà tin dùng về số. Trong thiên suy ngôi vua nhà Hán dài ngắn với đồ thanh âm sướng họa, sau cử lên một chữ “thiếu” để phát mimh cái phàm tục như thế là lý vậy mà nói việc đều ngụ ý ở trong, tiếc chưa tuyên bố rõ ý niệm về sự bí mật của Trời Đất cố nhiên không muốn tiết lậu ra khiến cho kẻ hậu tiến được nhìn cửa mà lao bước tới. Khi tôi còn búi tóc đi học, đã được nghe danh tiếng sách Hoàng Cực, khổ nỗi không tiền mua mà đọc, đến năm Mậu Ngọ mới được thấy bản sao, phủ phục mà đọc, tìm tòi ý nghĩa sâu xa, vì rộng mênh mang không thể được trong muôn một vậy, rồi thì đưa gấp vào bản khắc in, bấy giờ là mùa Thu năm Kỷ Mùi, mà tôi tuổi đã tới 60 rồi. Xưa còn nhỏ mà tập, cố sức học vài chục năm, hoặc vị tất chẳng được gì, tiếc lắm thay. Nay thuật lại nghĩa ấy, lấy Càn Khôn làm Đại phụ mẫu từ hữu sang tả, trở lại lấy quẻ Phục Cấu làm Tiểu phụ mẫu từ tả sang hữu chuyển đi cũng chỉ nắm lấy cái cốt yếu lớn mà đến chỗ sở tại tinh vi, chẳng dám phỏng đoán là lời nói vậy.

QUYỂN 3

Lấy Vận kinh Thế đã đủ, lấy Hội kinh Vận ở trước đã bầy rõ ràng. Lại chia Niên quái ở 6 Giáp, thay đổi vòng khắp ở dưới, cất lệ để thấy, chia thẳng để dùng tế nhị vậy. Bầy 1 Hội thâu tóm 5 quẻ, mỗi quẻ đều 6 hào chia làm 6 Vận lấy làm Kinh, thông 5 quẻ có 30 Vận. Tiếp tục, 1 Vận nhỏ chia theo 6 quẻ, đều theo hào ở 6 quẻ biến, làm 1 hào quản 10 năm, 30 năm làm 1 Thế, 3 mà 2 đấy, thì 60 năm làm Thế ấy, 2 lần khắp 1 Kỷ 6 Giáp, 3 Giáp trước gồm Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, 3 tuần Giáp này chia trước, 3 tuần Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần, làm 3 Giáp chia sau, 3 Giáp trước và sau, mỗi 1 Giáp tương đương với 1 hào thẳng quẻ đến 10 năm.

Lấy Giáp Tý-Giáp Ngọ làm đầu của 1 Thế, Quý Tị-Quý Hợi làm cuối hết của Thế, 1 Vận 6 quẻ thâu tóm 12 Thế, ứng với 6 hào là 60 năm, vòng Trời đi 360 làm 1 Vận số, cho nên Vận lấy Thế làm Vỹ (dọc), Thế lấy Vận làm Kinh (ngang). Lấy Vận Kinh Thế, quẻ của Thế thâu tóm quẻ của Vận mà năm làm Thế dọc (vỹ), quẻ của năm lại thông suốt trong quẻ của Thế vậy. Theo quẻ của Thế nhất nhất suy đấy, thì quẻ của Năm theo có thể biết hết vậy. Lấy đó mà cân Nguyệt Nhật thì chia thẳng dùng quẻ, cũng không có gì khác vậy. Điều cốt yếu lớn, 1-6 làm Kinh (ngang), 6-6 làm vỹ (dọc), 6 gồm 3 tài mà lại 2 đấy, 6-6 thì gồm sách số của Càn-Khôn mà bằng đấy, theo xét vậy, 1 Vỹ về Kinh, Kinh về Đạo.

Lấy Vận kinh Thế dùng 1, Thiên quan Vận thứ 27

Kinh Nguyên dùng Giáp 1, Kinh Hội dùng Tị 6

Kinh Vận dùng Quý 180

Kinh Thế dùng Tý 2147

Kinh Thế dùng Ngọ 2155

Kinh Thế dùng Mùi 2156

Kinh Thế dùng Thân 2157

Kinh Thế dùng Dậu 2158

Kinh Thế dùng Tuất 2159

Kinh Thế dùng Hợi 2160

Đây bàn về Hội Tị, Vận thứ 30, thẳng quẻ Quải đến quẻ Càn, gồm có 12 Thế, theo quẻ của Thế chia ra quẻ Càn hào sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiếu súc, thì từ đây khởi Tiểu súc đến Giáp Ngọ, thời vừa ở Càn trước 3 hào quẻ theo thẳng kể 180 năm gồm cả gốc quẻ Tiểu súc trước 3 quẻ theo thẳng kể 30 năm, đều lược đó không rõ làm hàng, đời Đường Ngu trở về trước hoang xa không chép, kinh Thế quan Vật xem 1 Trời Đất mà về xem ở Người, Người tất theo Thế (đời) giữ Vật sáng đủ trị loạn hưng suy, có dấu vết mà có thể thấy để chia mà xem. Cho nên bắt đầu ở Tiểu súc Giáp ngọ, vì đương đạo của Càn bèn Cách mà văn đức tất rõ ràng chiếu sáng ở ngay trong Kinh Thư trị xét vậy, đầu Dịch là Càn, đầu Kinh Thư là Nghiêu, Thiệu ta theo Càn, chí ấy nên suy từ hào 4 quẻ Càn biến ra Tiểu súc, chia biến làm Vận nhỏ dùng Tiểu súc hào sơ biến Tốn, hào 2 biến Gia nhân, hào 3 biến Trung phu, mỗi quẻ đều quản 10 năm, thì Giáp Ngọ 30 năm thẳng quẻ Càn, Giáp Thìn 30 năm thẳng quẻ Đại súc, đó là chia Thế quái trong dùng 1 lại chia Càn dùng Tiểu súc, lại Tiểu súc dùng Càn mỗi 10 năm thẳng 1 hào, 6 lần 6 hào vị thứ lần khắp, 6 Giáp đó vậy. Đồ của năm Giáp Thìn đời Nghiêu chia thẳng quẻ Tùy, đó là theo quẻ Tiểu súc chia quẻ Càn hào 4, lần lượt 60 quẻ, thứ đang đến (tri lai) cầu đấy, tức là được theo thẳng Năm làm quẻ gì, như Giáp Tý quẻ Tiểu súc, Ất Sửu quẻ Đại tráng, thuận thứ tự tính, đến Giáp Tuất quẻ Cổ, Giáp Thân quẻ Hàm, Giáp Ngọ quẻ Dự, Giáp Thìn quẻ Tùy vậy. Giáp Dần đến Quý Hợi tích Tốn đến Nhu, bèn cuối cùng Tiểu súc 60 năm, quẻ theo trực chia xem theo ứng, nên có “tiết tuyên” trong khoảng Trời-Người ấy. Do đó, chia Càn dùng 5 Giáp Tý khởi Đại hữu, chí Càn dùng thượng Giáp Tý khởi Quải, hàng năm theo thứ tự đi 6 Giáp, ứng với từ Nghiêu đến Thuấn, Vũ chựu mệnh ăn theo quẻ trực niên nhất nhất khá tìm. Khi xem ở dĩ vãng, khá lệ việc tới nay, cất 1 góc lên, khá biết trăm biến, Thiệu ta ước lược thấy ở đồ, theo bảo ở sau cho kẻ đọc điều cốt yếu vậy. Tuy vậy ông Trương tử hỏi 10 Thế có thể biết được không? Đức Phu tử bảo lần lượt lấy Hạ, Ân, Chu cái lẽ cùng nhân chẳng biến, cùng Tổn-Ích thông biến, việc dùng nên cho dân chúng, vì chứng cứ theo lý mà chẳng phải suy ở số vậy. Tuy số ở đó khá có kẻ cứu cũng còn nói đại khái vậy. Lại xét vua Nghiêu được “số trung”, giữ đạo “trung” làm phép muôn đời, khi trao cho cử 4 tháng Trọng, 2 ngày Chí, 2 ngày Phân, đều căn cứ lấy theo “trung” để định niên quái, gây dựng ngôi ở Bình dương từ quẻ Tùy đến Cách, trị trải thì sáng sủa, thử như kính trao việc sửa sang công nghệ dấy lên mọi việc thành vậy, như thế thì nói Hoàng cực đại trung. Ở dùng lý lẽ lịch luật, phép lại càng rõ ràng chủ mật vậy. Chu thị Ẩn nói rằng: Thần ấy là Trời Trăng theo hợp chia độ vòng trời 12 thứ vậy, 28 vị tú thứ tự mà ở. Thần chia làm 4 thì mỗi đoạn là 3, Mộc Hỏa Kim Thủy đều có 2, mà mình Thổ có 4 tự theo làm nói đấy vậy. Tự chia làm 4, thì mỗi đoạn có 7 sao, năm hành đều có 2 cùng mặt Trời mặt Trăng một mình đều theo 1 tự theo ở nói đấy vậy. Lấy Sao (tinh) để nói, Kim Thủy thời có trước mặt Trời mà mọc, sau mặt Trời mà lặn đó vậy, song sao Kim Thủy thường gần mặt Trời mà đi. Sao Mộc Hỏa thế thời có 12 năm một vòng, 2 năm một vòng, 28 mà bắt đầu một vòng. Gần mặt Trời thường nhanh, xa mặt Trời thường chậm, cách mặt Trời càng xa thì lại có cái thế hết thường lưu lại. Tùy theo đến, đều lấy theo biến để cầu, có thể nhanh hoặc chậm cùng giữa nhanh chậm đều khá được mà khảo cứu, lấy mặt Trăng mà nói thì xanh, đỏ, trắng, đen theo Đạo đều 2, cùng với Hoàng đạo mà 9, 9 mà 8 đấy làm 72 đạo, tùy theo chỗ đến, lấy theo mỗi biến cầu đấy, thời hoặc nghiêng hoặc ngay thẳng, cùng giữa sự tà chính, đều theo đó để khảo cứu. Lấy mặt Trời mà nói thì Đông-Tây-Nam-Bắc, theo đạo đều khác, cùng với xích đạo cùng giao, giao mà biến làm 2, đến 2 phần, tùy nơi chỗ đến, mỗi nơi chỗ đến lấy theo biến để cầu, hoặc dài lâu hay ngắn, cùng giữa dài ngắn, đều theo đó mà khảo cứu. Theo nơi chỗ Tứ trải phương theo đi, dẫn mối ở ban đầu, cất chính ở giữa, về lại ở sau, mà 4 mùa thành vậy, đó là việc theo lấy dấy lên. Lịch pháp thời Nghiêu, không hẳn còn đến nay, mà cái lý chưa thường chẳng còn. Ngoại thiên, Thiệu ta đã nói rõ, cho nên ở đây chỉ nói qua mà thôi. Ta xem Tam Hoàng mà ngâm rằng: Càn Khôn to lớn từ ta tuyên ta; Ngoài Càn Khôn còn nói gì nữa; Ban đầu chia đạo lớn chẳng phải đạo thường; Đầu có Tiên thiên cuối có Hậu thiên; Làm phép vi diệu Khí xem thấy dấu vết; Thu cộng rất lâu dài chẳng biết năm nào; Nếu khiến người trên đời bàn cộng nghiệp; Liệu được lại không có người ở trước. Ta xem Ngũ Đế mà ngâm rằng: Tiến lui chựu xem thiên hạ nhường cho nhau; Tỏ nói năng gì dường như vẻ ung dung; Nơi áo xiêm rủ xuống thời uy nghi thịnh; Theo sửa ngọc lụa ý tứ cung kính; Mọi vật hết thẩy noi theo chí lý; Người người tự xin lập công lạ; Bấy giờ tỏ sao được như thế; Chỉ bởi tiếng tăm giống như giữa mặt Trời.

Trang thị Hành Thành bảo: Niên quái từ đời Nghiêu năm Giáp Thìn khởi quẻ Thăng, Mông, Cổ, Tỉnh, nhưng Chúc Thị thì so bì hết sức cho là không phải, bảo là Thế quái làm Thủy Hỏa Ký tế hào 5-6, hợp với Sơn Hỏa Bí hào Sơ hào 2 làm Thiên Hỏa Đồng nhân, Lôi Hỏa Phong, Sơn Trạch Tổn, Sơn Địa Bác, 4 quẻ biến niên quái được Hỏa Thiên Đại Hữu, lấy Ký tế hợp Đại hữu, ở đồ Ký tế làm Vị tế, Tấn hợp quẻ làm … quái, hay lấy chứng nhân chính, có thể lấy vương vậy, theo vạn vật như thế lại nói: thế quái thì vua Nghiêu, ban đầu biến Đồng nhân, theo bảo rằng cùng với người mà không có ta, cho nên lấy Đồng nhân tương đương với quẻ Thái vậy. Xét Trương thị Hành Thành trở xuống theo bàn đến thấy ở đồ hậu thuyết trung phụ lục lại sẽ đính.

Lấy Vận kinh Thế dùng 2, Thiên quan vận thứ 28

Kinh Thế dùng Giáp 1, kinh dùng Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Giáp 181,

Kinh Thế dùng Tý 2161, kinh Thế dùng Sửu 2162

Kinh Thế dùng Dần 2163, kinh Thế dùng Mão 2164

Kinh Thế dùng Thìn 2165, kinh Thế dùng Tị 2166

Kinh Thế dùng Ngọ 2167, kinh Thế dùng Mùi 2168

Kinh Thế dùng Thân 2169, kinh Thế dùng Dậu 2170

Kinh Thế dùng Tuất 2171, kinh Thế dùng Hợi 2172

Đây là Hội ngọ Vận thứ 1, thẳng Cấu đến Càn là 12 Thế, khởi từ vua Hạ Vũ năm thứ 8 Giáp Tý quẻ Cấu, đến vua Hạ Khổng Giáp năm thứ 12 Quý Hợi quẻ Đại hữu, gồm 360 năm. Niên quái từ quẻ Cấu, lần lượt thứ tự tính thuận số thẳng 6 vòng 6 Giáp, như theo thứ tự rằng: việc ứng thì theo Vận, chia Thế theo Thế, chia năm Đại quái Tiểu quái đều có theo, chủ ở thâu tóm mà xem, chuyển quẩn lạc đấy, kẻ đọc không nên câu nệ. Thiệu ta xem Tam Vương ngâm rằng: Một mẳnh Trung nguyên hơn vạn dặm; Không phải người đủ đức theo ở nhà Hạ; Nhà Thương chỉnh sóc hay còn rộng ra; Vua Thang, Vũ giáo mác chưa tiện dong duổi; Trạch Hỏa có tiếng mới chựu Cách; Thủy Thiên không ứng chẳng thành Nhu; Biết rõ nhân-nghĩa làm lòng ấy; Không chựu là thiếu Trượng phu ở nhân gian.

Lấy Vận kinh Thế dùng 3, Thiên quan vật thứ 29

Kinh Nguyên chọn dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Ất 182.

Kinh Thế Tý 2173, Thế Sửu 2174, Thế Dần 2175, Thế Mão 2176, Thế Thìn 2167, Thế Tị 2178, Thế Ngọ 2179, Thế Mùi 2180, Thế Thân 2181, Thế Dậu 2182, Thế Tuất 2183, kinh Thế Hợi 2184.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 2, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Độn gồm có 12 Thế, khởi từ vua Hạ Khổng Giáp năm thứ 12, năm Giáp Tý quẻ Độn đến Đồng nhân, đến mãi đời vua Tổ Tân năm thứ 9, năm Quý Hợi, trải Giáp Tý 6 Kỷ 360, trong thời gian này thì trị, loạn, hưng, vong đều dùng theo Thế quái để chia niên quái dùng thẳng, đại khái đều theo phép trước để mà tìm.

Lấy Vận kinh Thế dùng 4, Thiên quan vật thứ 30.

Kinh Nguyên dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Bính 183.

Kinh Thế dùng Tý 2185, dùng Sửu 2186, dùng Dần 2187, dùng Mão 2188 dùng Thìn 2189, dùng Tị 2190, dùng Ngọ 2191, dùng Mùi 2192, dùng Thân 2193, dùng Dậu 2194, dùng Tuất 2195, kinh Thế dùng Hợi 2196.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 3, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Tụng gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ vua Tổ Tân nhà Thương năm thứ 10, từ quẻ Tụng đến Lý, đến mãi Văn Vương nhà Chu chựu mệnh làm Tây bá, quẻ năm Quý Hợi vẫn thẳng quẻ Tụng, gồm 360 năm, trong thời gian này khảo xét mà xem có rất nhiều nghiệm ứng, như Văn Vương niên quái thẳng Cổ, bị tù ở Dữu lý, đến quẻ Tụng thời cho dùng cung tên chuyên việc đánh dẹp, vị tất chẳng phải Đai lớn chựu mặc ở Tây bá, mà suốt buổi 3 lần cởi áo, ứng vào việc đánh nước Sùng vậy. Quẻ Minh di, Tụng theo lời Thoán mà rằng Văn Vương làm đấy. Có kẻ vảo rằng: Dịch như mặt Trời, mặt Trăng ở trên Trời, sáng ứng ở dưới Đất, xem theo đối sáng, không có gì mà chẳng hợp vậy.

Lấy Vận kinh Thế dùng 5, Thiên quan vật thứ 31

Lấy Nguyên dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Đinh 184.

Kinh Thế dùng Tý 2197, dùng Sửu 2198, dùng Dần 2199, dùng Mão 2200, dùng Thìn 2201, dùng Tị 2202, dùng Ngọ 2203, dùng Mùi 2204, dùng Thân 2205, dùng Dậu 2206, dùng Tuất 2207, kinh Thế dùng Hợi 2208.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 4, thẳng quẻ Cấu đến quẻ thuần Tốn gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ Chu Văn Vương Giáp Tý quẻ Tiểu súc đến đời U Vương năm thứ 4 Quý Hợi quẻ Tốn là 360 năm, việc trong thời gian này có thể kê cứu theo càng dễ chứng thực, đó là Tiểu súc, mây dầy đặc mà không mưa từ Tây giao ta, cùng với quẻ Đại quá, ông già, kẻ sỹ, vợ qua lấy lời cùng giống nhau, như Văn Vương thờ vua Trụ nhà Ân, vua U Vương yêu nàng Bao Tự vậy, những việc khác có thể đại khái vậy.

Lấy Vận kinh hế dùng 6, Thiên quan vật thứ 32

Lấy Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Mậu 185

Kinh Thế dùng Tý 2209, dùng Sửu 2210, dùng Dần 2211, dùng Mão 2212, dùng Thìn 2213, dùng Tị 2214, dùng Ngọ 2215, dùg Mùi 2216, dùng Thân 2217, dùng Dậu 2218, dùng Tuất 2219, kinh Thế dùng Hợi 2220.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 5, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Đỉnh gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ Chu U Vương năm thứ 5 Giáp Tý đến Chu Uy Liệt Vương năm thứ 8 Quý Hợi quẻ Đỉnh gồm 360 năm. Trong thời gian này, bậc Vương giáng xuống bậc Bá. Xét Cấu hào 5 biến Đỉnh là Trời đất cùng gặp, cương gặp hào trung chính, vậy còn Càn hào 5 làm thành Vật thấy cùng Tượng mà Đỉnh Nguyên cát, hanh, hưởng đức Thượng đế nuôi Thánh hiền để lấy ngôi ngưng mệnh là khá vậy. Từ Đỉnh mà đến Cổ, cương trên nhu dưới, khắp vòng Trời đi trước Giáp sau Giáp, quẻ trọn thì có ban đầu, nên có việc làm chấn hưng lòng dân, nuôi đức ở Thời ấy. Sao bậc vương giả không thấy dấy lên, chỉ thấy Ngũ bá ganh đua dài mà đương đấy. Lúc bấy giờ đức Khổng tử là Tổ Vương sinh năm Canh Tuất đời Chu Linh Vương, ứng quẻ Ích thẳng đến Cấn, đến Đỉnh, đến Cổ, niên quái năm sinh lại thẳng Lý 1 thân mình, đủ đạo Hoàng, đức Đế, công Vương, mà lại Tỉnh nên sức lực Bá, mà tiến lui công hay tội đây. Cho nên đời Xuân Thu dẫu có chép nhiều việc Bá, thẳng đấy Cổ mà phản dùng trị, mà làm Tam tài Đỉnh cao trót muôn Vật, nhà đều văn võ. Thiệu ta xem Ngũ bá ngâm rằng: Ý riêng biết tôn danh, danh càng thiếu; Người người đều chạy mệnh chẳng xiết nhọc; Dàn gươm giáo sinh hoạt trong rừng; Đạo công của cải lại vào trong bụng; Dẫu thời còn hưởng sống hay yêu lễ; Nài sao Phượng hót chưa về chầu; Nhà Đông Chu trong hơn 500 năm; Than tiếc thời ấy một ông Trọng Ny! Thiệu ta lại ngâm Trọng Ny rằng: Trọng Ny sinh ở Lỗ trước ta; Cách đời Thánh hơn 1 ngàn 500 năm; Nay nay ai hay biết còn đạo ấy; Bấy giờ người ta tự ví với Trời; Hoàng, Vương, Đế, Bá làm chủ Trung nguyên; Cha con, vua tôi quyền muôn đời; Sông Hà không ra đồ ta thôi vậy; Ý tứ sửa kinh há thôi sao?

Lấy Vận kinh Thế dùng 7, Thiên quan vật thứ 33

Kinh Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Kỷ 186

Kinh Thế Tý 2221, Thế Sửu 2222, Thế Dần 2223, Thế Mão 2224, Thế Thìn 2225, Thế Tị 2226, Thế Ngọ 2227, Thế Mùi 2228, Thế Thân 2229, Thế Dậu 2230, Thế Tuất 2231, Thế Hợi 2232.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 6, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Đại quá, gồm có 12 Thế. Khởi từ Chu Uy Liệt Vương năm thứ 9 Giáp Tý quẻ Quải đến Hán Tuyên Đế năm thứ 6 Quý Hợi quẻ Quải gồm 360 năm. Chu bị Tần giết, Tần bị Sở diệt, Sở bị Hán giết, ứng cung Gióc mà không khỏi trước sau bị suy yểu, cái hung lên quá cao, thường luôn thấy như vậy. Tần bạo mà giệt Chu nhân, Hán nhân mà giệt Sở bạo, đương chia sự kéo dài và rút ngắn, theo đó mà biết. Nói rằng: Tần giết Bá vào Dịch, Hán bá gần được là Vương. Phu Chúc thị Bí nói: Dương Hùng lấy 3 thống lịch, nghĩ Mạnh Hỷ làm ra Thái nguyên đều biết ngôi vua của nước ở pháp ngôn cuối rằng: Hán dấy 210 năm, mà Tiên thiên thời ấy biết nhà Tần không thể làm mất Hán, còn có số Hậu thiên Quang Vũ dựng lại hơn 200. Lấy số mà xét, Hán Cao Tổ lấy từ Thìn 2225 đến Ngọ 2227, mà vào cửa quan qua Giáp Ngọ vào Thìn đến Mùi 2228 mà làm Vương ở Quan trung, Thế quái được Vận dùng Thế, dùng Nguyên, dùng Thế Ký tế hào 9-5 lấy quẻ Ký tế xét đấy số 12597 ức 1200 vạn không có số nhân, lấy Hội chia ra 13 ức 9978 vạn trừ đi được 900, ôi âm dương hợp nhau mà thành vật, chiết 900 mà nửa đấy được 450, đó là Hán được hưng ngôi Vua. Ở trong trừ Nhuận mỗi 19 mà trừ 1, giảm đi 34 năm, tức là số năm của hai nhà Hán là 426 năm vậy. Thiệu ta xem 7 nước ngâm rằng: Đương lúc đường cùng, chuộng dọc ngang; Vốn không nghe lời nói nhân nghĩa; Khương bảo phá Tề còn tức Mặc; Hay thắng Hàn Triệu hết Tràng bình; Buổi sớm còn thấy chưa làm quái; Ngày Trăng giết người sao đủ sợ; Tô Tần Trương Nghi múa 3 tấc lưỡi; Chẹn họng cái thế không cầu sống. Xem nhà Doanh Chính ngâm rằng: Oanh oanh 7 nước chính chen 1 mưu; Lợi hại cùng mài chưa bèn thôi; Số đến một lòng mạnh địch; Như bốn biển máu trôi ngang; Ba ngàn khách đương thành giấc mơ; Trăm hai núi công lại biến đổi; Chớ nói bãi hầu hay để giữ; Triệu Cao vốn không phải để phong hầu.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 7, thấy Đại qúa đến Quải gồm 12 Thế vậy. Khởi từ Hán Tuyên Đế năm thứ 17 Giáp Tý quẻ Quải đến quẻ Đại quá năm Tấn Huệ Đế năm thứ 14 Quý Hợi gồm 360 năm. Trong thời gian này, Tây Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, Tào Man cướp ngôi nhà Đông Hán, Tư Mã Chiêu lại cướp ngôi nhà Ngụy, giặc làm loạn (loạn tặc) nối tiếp gét nhau đều ứng vào quẻ bói “có quân không hiệu lệnh, duy gốc ngọn đã yếu, nóc nhà suy yếu, mất việc giúp đỡ, quên kính sợ đến thương xót, bèn kịp đến hung”. Xét đấy, thời Mãng, Thác, Chiêu, Viêm, cũng đều như cành khô nở hoa, sao có thể lâu dài được. Ở ngôi vua nhà Hán trước sau hai lần dấy lên, còn kéo dài yên một mình ở Tây Thục, sau chót làm chính thống, thời Tiêu Vương lại dựng lên ở Đời giữa, mà nhờ dùng cỏ tranh trắng, lại có tài vương tá từ nơi nhà tranh ra vậy, thứ đến quá niên nhất nhá khá tường. Thiệu ta xem 2 nhà Hán ngâm rằng: Nhà Tần phá non sông chiến trường cũ; Có hẹn đâu dân lại thấy làm ruộng trồng dâu; Chín ngàn lại đâm mở mang bờ cõi; Hơn bốn trăm năm sưng hiệu Đế vương; Bóc mắt đã gặp Mãng và Đổng Trác; Sửa sang chín không nghĩ đến vua Cao Quang; Bấy giờ vạn vật thịnh như thế; Thành lại bởi đâu từ ao cạn; Thiệu ta xem Tam quốc ngâm rằng: Ầm ầm chân vạc dậy tiếng sấm; Xướng to chỗ tìm được tung tích; Nhạc một phương tình chưa nổi tiếng; Đao cung muôn dặm sức khó dùng; Bàn việc bình ở Long Thạch thà không ý; Ngựa uống nước sông Hà có lòng sông vậy; Tuy rằng thời Trời cũng việc người; Ai biết ngoài việc lo mất vàng. Thiệu ta xem Tây Tốn ngâm rằng: Tiếp được bình trị hãy còn lo; Yên mà quên lo chẳng phải hay; Tài ngoài nhà nói mát nhã nhặn; Chim muông ấy việc cách phong lưu; Có dao khó mổ bụng Công Sứ; Không cấy sao được đầu nguyên Hải; Một câu vạ ở đình Tịch dương; Lộn cửa Đông kêu sóng và vũ; Theo bảo Công sứ là Giả sung; Tên tự Nguyên Hải là Lưu Uyên đó.

Lấy Vận kinh Thế dùng 8, Thiên quan vật 34,

Kinh Nguyên Giáp 1, dùng Hội Ngọ 7,

Kinh Vận dùng Canh 187

Kinh Thế Tý 2233, Thế Sửu 2234, Thế Dần 2235, Thế Mão 2236, Thế Thìn 2237, Thế Tị 2238, Thế Ngọ 2239, Thế Mùi 2240, Thế Thân 2241, Thế Dậu 2242, Thế Tuất 2243, Thế Hợi 2244.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 8, thẳng quẻ Đại quá đến quẻ Hàm gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ vua Tấn Huệ năm thứ 15 Giáp Tý quẻ Hàm đến Cách vua Đường Cao Tông năm thứ 14 Quý Hợi quẻ Độn trung trải 360 năm, Tấn, Tề, Lương, Trần mà thống nhất ở Tùy lấy nhường ngôi nhà Đường, phương Bắc 6 rợ Hồ, Đông Tây hai nhà Ngụy, không để các nước tiến hiệu vua, cùng cái thang ở cành khô, cùng với hoa toàn nở toàn tàn rụng ở cơn gió Thu. Trong khoảng Đoài Tốn, gốc ngọn đều yếu, đường Càn không kéo dài, theo Thế (đời) chia Hàm Cách, bụng chân không nơi ở, cướp giết cùng úp nhau, đổi biến không thường, họ hiểu sợ đổi nhà cùng coi bỏ mà con giết cha, nhà hưởng bầy rồng mà em giết anh. Hàm phản lại Lý không? Cách nghiêm mệnh Đỉnh, hối hận không hay quên, lỗi này lớn vậy. Kẻ thức giả bấy giờ thông xem thường biến ở Trời-Người, xiết bao cảm khái vậy. Thứ đến niên quái từ Tấn đến Đường, Thiệu ta xem 16 nước ngâm rằng: Khắp dưới Trời gọi: hoàn khu ; Đại Vũ đã từng trị nước lụt ; Áo đến lúc rách, rận lớn nhỏ ; Quả dưa khô nứt nhiều bọ sâu ; Tờ sắc rằng không nhờ giặc bỏ ; Cửa đón vội rợ Hồ loạn dân ; Hy Phụ có nói chỗ để ý ; Bấy giờ chỉ thiếu Quản di Ngô. Thiệu ta xem Nam Bắc triều ngâm rằng: Đương khi thiên hạ chia Nam Bắc ; Cứ đi sinh sao thường dứt đi về ; Chỉ bậc Bá giữ điển phép tắc ; Tiêu Khang vẫn đeo hôi tanh cũ ; Tiếng tốt Lạc dương khen Thôi Hạc ; Tài lạ Giang Biểu phục Tạ An ; Hai trăm bốn năm cùng cương ngựa ; Đừng đem gì Lễ thưởng việc làm. Lại xem triều Tùy ngâm rằng: Trước tính ngày giờ đã không hay; Tiếp nối với nhau giết hại sau ; Sâu bọ nhân dân tham đất cát ; Bùn cát vàng lụa đẹp Cơ Khương ; Sánh đất ý tứ phục nơi hoang ; Đi thuyền biện Hoài Châu cùng Vị lương ; Ba mươi năm thẳng quét đất ; Không thế thiên hạ đến nhà Đường. Chu thị Ẩn lão nói: Hoàn Ôn lấy năm Bính Thìn khôi phục Lạc Dương, thời nên tự giữ, 1 năm trốn yên, 3 năm trí hướng mọi người hòa hợp nhau, rồi sau phấn khởi sức thừa thời phương Tây có thể bẻ gãy nhà Tần, phương Bắc có thể giật nước Yên, họ há có tài hơn người vậy sao? Tần chẳng qua có tướng mạnh, Yên chẳng qua có Kệ Dung, trong đều có tài, sống theo sở giúp không chính, không đủ để chính can thiệp ta. Từ Bính Thìn đến Mậu Ngọ đã 3 năm. Giáp Tý thời theo 3 năm lâu mà đến nỗi cướp vậy, ấy thời chưa từng nuôi dân, lòng dân chẳng bền vậy, chưa từng với kẻ sỹ, khí kẻ sỹ chẳng phấn chấn vậy, ai thực chủ đây. Lỗi ông Ôn vậy, năm Ất Sửu Lạc Dương bị hãm về nước Yên, lính của Trần Hựu có 3 ngàn, Trần Kính 1 ngàn, đến lúc người Yên đến bức bách thì Hựu ra 5 phần 6 mà trái đấy, còn 1 phần cùng với Kính vừa được 800 người, ấy không đủ để giữ Lạc dương, chỉ đủ để giết Kính, Kính chết thời kẻ trung dũng ở đất Lạc chết hết, thời núi Gò nguy, đó là lỗi của Ôn vậy. Năm Kỷ Tị đánh Yên không lợi, đổ tội cho Viên Chân, Chân lấy Thọ Xương vào ở Yên. Năm Tân Mùi bình được Thọ Xương, về làm sự phế lập, để hả cơn giận, có phải do người sao? Phủ Kiên giệt Yên đánh Tấn, Tạ Ân thua lấy lại Lạc dương 15 năm, lại bị Diêu Hưng lấy mất. Tân Cung Tinh Hiến đắp thành cổ, giữ trải hơn trăm ngày, sức khuất thế cùng, về sau thấy được trước không lạy Hưng, sau không trái Tần, thoát tù mà trốn sau về nước, thời theo giữ ấy chưa phải người ấy vậy, vì Tần không có viện binh. Năm ấy Kệ Dung đức lấy Thanh Châu, đóng đô ở Quảng Cô Trúc lặng lấy Chu Dịch bói nói rằng Yên suy. Canh Tuất niên thời 1 Kỷ, thế thời kịp Tý mà Nam Yên truyền Siêu giết ở năm Kỷ Dậu cũng ngõ hầu biết trước. Song Lạc dương năm Bính Thìn lại bị hãm về Tấn, thời chưa có biết trước đó vậy. Sao vậy? Cuối cùng Lưu Dụ bình Tràng an, về gấp để cướp ngôi, sai đứa trẻ con giữ, gồm cả Lạc dương đều mất về Rợ Dịch, tướng mạnh lính đinh đều bị mưu toan hết, bao năm mà bị bỏ đi 1 sớm, há chẳng thương vậy thay, nếu Dụ có lòng với Tấn, nhịn chút chẳng về trấn yên hết thẩy theo đạo chí hướng mọi người cùng hòa hợp nhau, thì người Tây Bắc sao hay kíp lấy được, vậy do 2 bề tôi bất trung nên Trung nguyên không khôi phục lại được. Do đó nói là do người vậy, không phải do Trời vậy, là lý vậy, không phải do số vậy.

Lấy Vận kinh Thế dùng 9, Thiên quan vật thứ 35

Kinh Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Tân 188

Kinh Thế Tý 2245, Thế Sửu 2246, Thế Dần 2247, Thế Mão 2248, Thế Thìn 2249, Thế Tị 2250, Thế Ngọ 2251, Thế Mùi 2252, Thế Thân 2253, Thế Dậu 2254, Thế Tuất 2255, Thế Hợi 2256.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 9, thẳng Đại quá đến Khốn, gồm có 12 Thế, khởi từ Đường Cao Tông Lân đức năm đầu Giáp Tý quẻ Khốn đến quẻ Đoài, đến Tống Nhân Tông Thiên thánh năm đầu Quý Hợi quẻ Tỉnh gồm 360 năm, nay đến Tống Thái Tổ Càn đức năm đầu Vị tế chỉ kịp 10 đời. Bậc Nho giả trước đã qua không dám bàn đời này vậy! Xét Đường đấy 40 năm thẳng quẻ Đoài, Đoài thiếu nữ làm thiếp, thứ tự giữ vàng mùa Thu. Đường Lý Mộc thu về mùa Thu, nhận vàng theo Cách con gái, vợ được mà lỗi cùng vợ già đẹp mà khó lâu dài, tin vậy, bèn lại nóc nhà theo Vy Nạo Trạch ủy cho vây cánh khi 1 khí Chấn khởi cơ đồ thịnh, lại về Linh Vũ Hà Bồ tát Kim cương, lính con gái gối nhờ trong thời gian quan hoạn lộng quyền, ngoài phiên cướp xe vua, cái hạn về con gái và tiểu nhân trọn đời Đường vậy, tức là trước sau lan khắp qua, hai lần mất, hai lần dấy lên, đấy bởi người trung hiếu, mất bởi hoạn quan và tỳ thiếp, dương không thắng âm, đại khái thấy vậy. Đến như Lương, Đường, Tần, Hán, Chu thay đổi nhau lấn ngôi vua. Kịp đến nhà Tống dấy lên, trời sinh bậc thánh nhân, từ đấy thiên hạ thái bình. Dịch sau cùng quẻ Vị tế, Thiên tử biên niên quái mà thôi ở đây, há không có ý sao? Trộm vì xem thêm ở sau, thì vua Tống Tổ mở nước, chính thẳng Tụng làm Sư mau tốt lúc ban đầu. Lý (lên) ngôi không phải dùng đến việc binh nhung, phàm vì: đếm gốc cây dâu bền chặt (tiên hệ đến bào tang), bản tấu thay đổi, Hoán Hán đến hào, đồ Vị tế Tổ dùng sau. Đến đời Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông, 3 vua 1 đức là bởi vận đương Khốn mà càng hưởng vậy. Như Vận thứ 10, Thế thứ 12, thẳng Đại quá đến Tỉnh, khởi từ Tống Nhân Tông niên hiệu Thiên thánh thứ 2 năm Giáp Tý quẻ Tỉnh đến Nhu, sau đến Minh Thái Tổ niên hiệu Hồng Võ năm thứ 16 Quý Hợi quẻ Đại súc, trong khoảng giữa Tống nguyên gồm cả kim niên quái, việc ứng bậc tiên hiền, chia rõ ràng chẳng phải kẻ hậu học theo hay lấy ý riêng mà tường tận, còn thì đại khái lấy phụ vào kinh Thế quan vật cho trọn vẹn, Thiệu tử ta xem Hữu Đường ngâm rằng: Trời sinh thần võ đặt trung ương, chẳng dễ hung thần đánh đuổi được; Đời Trinh nếu không gió giữ dội; Đời Khải sao khí ngùn ngụt lên; Ngồi cao mới thấy non sông mạnh; Vào hè mới biết ngày tháng dài, trong hai trăm năm hay thống nhất; Sự tuy thành đạo vầng sáng không. Xem Ngũ Đại ngâm rằng: Khi cuối đời Đường rường vua đổ; Sinh linh thiên hạ bị nhiễu nhương; Xã tắc yên nguy lệ quân lính; Triều đình khoanh tay phương phên dậu; Mùa đông sầu lạnh vốn không thoát; Tị Mùi niên sao nhỏ còn sáng; Năm hai năm dòng, họ đổi năm; Mới biết quét trừ đợi Chân Vương. Sinh thế Thiệu ngâm rằng: Hy Nghiêu Thuấn Vũ Thang Hoàn văn; Hoàng Đế Vương Bá vua tôi cha con; Đạo lý bốn bậc Tần gây hạn; Hán Đế hai nhà, lại chia ba; Đông Tây rối Nam Bắc bởi Ngũ hổ; Nhập tính cương kỷ Trời hầu cháy; Không có Đường Tống nước không còn; Ngàn đời luôn bởi người Trung nguyên. Thiệu làm Kinh Thế nhất nguyên ngâm rằng: Trời đất lồng chở mà cao quá; Trời Trăng đi lại không nghỉ ngơi; Tuế niên trên dưới khó lường số; Một nguyên nói lý còn dễ biết; Số đến quá vạn thật mơ hồ; Sách chép dấu vết một suốt đấy; Minh trải người làm để đời sau.

Nguyên 12 có Hội, dùng quẻ Vận chia vậy, xem quẻ Thế, quẻ Thế chia vậy, xem niên quái, bèn niên quái 1 thẳng, trị loạn ứng khác nhau cớ sao vậy? Chúc Thị bảo là: thẳng niên quái cùng là quẻ ứng khác nhau, là ở quẻ trực Vận, trực Thế thay đổi nhau 5 mà thành chương, không khá làm điển yếu vậy. Hơn nữa, niên Vận ứng Trời, quanh quẩn ở Người, như Tùy mở Thái là tốt vậy. Âm theo Dương thì tốt, Dương theo Âm thì hung, dưới ra lệnh trên thường theo không thể Thái, cố đến ở trên thì hung vậy. Âm cô Dương là hung, Dương cô Âm là cát. Con sửa lỗi cha, lỗi chẳng đến: Bĩ vậy. Bĩ mà đến dùng Tùy Thái, mà đến dùng Cổ, trên xem vận trời, đạo ở quanh Càn, Bắc mà đến Nam, Nam mà đến Bắc, dưới nghiệm khí đất, đạo ở chuyển Khôn. Đó là sự kỳ lạ về nghiệm ứng, cũng tự khó lường. Vua Hán Võ đánh hung Nô quẻ Phệ được cành khô nảy hoa, thua binh ứng niên quái ở quẻ Đại quá. Đặng Ngãi vào Thục mơ thấy ngồi trên núi có nước, ứng xe tù niên quái quẻ Kiển cùng Hàm chóng Hằng lâu. Nam Bắc triều Tùy thẳng quẻ Hàm, Hán Văn Đế, Minh Thái Tổ thẳng quẻ Hằng, văn Đế tên là Hằng, hóa nên đạo lâu dài, Thái Tổ dựng niên hiệu Đạo Minh, ứng vào quẻ Dịch: mặt Trời mặt Trăng được Trời mà hay chiếu lâu dài, các loại đó có phải ngẫu nhiên sao?

Nguyên kinh Hội cất Năm thấy Tháng. Hội kinh Vận cất Tháng thấy Ngày. Vận kinh Thế cất Ngày thấy Giờ. Năm 1, tháng 12, ngày 30, giờ cũng 12. Quy giờ đầu có 8 khắc, bèn dùng đắp đổi Thế tóm tắt tượng mà xem vậy. Đắp đổi Thế, tóm tắt tượng đều 4 quẻ chia 8 khắc, Kiêu thị Ứng Hoài nói rằng: 1 giờ định đúng 1 ngày, 30 giờ là 2 ngày rưỡi định 1 tháng, mỗi tháng ngày mồng 1 giờ Tý đến ngày mồng 3 giờ Tị là tháng Giêng, từ ngày mồng 3 giờ Ngọ đến mồng 5 giờ Hợi là tháng 2. Mỗi tháng lại định một năm, mà tháng đủ định 30 giờ đúng 1 tháng. Tháng thiếu có 29 giờ cũng đúng 1 tháng. Tháng đủ thì có 360 giờ, 12 theo 30. Tháng thiếu thì 1 tháng có 348 giờ, 12 theo 29. Dẫn mà cho là phải đấy, trong 1 Nguyên lớn (đủ) nhỏ (thiếu) đều không sai vậy. Đem những điều kiện đó để tìm Nguyên-Hội-Vận-Thế, 12 cùng 30 lần lượt nhân lên, số đều cất lên. Rất nhỏ chẳng gì bằng sao, thì 30 Phân làm 360 Sao, 1 Sao thừa ra, thông qua Luật, Lữ, Thanh, Âm tính không kể Nhuận, thì từ đây trở lên đến ngày-tháng-năm đều 24 Nhuận, 24 Nhuận ấy là 360 số thừa Phân tích, sử dụng điều này bèn được phép Hỗ thể ước tượng, hay số Vận là số Ngày, số của Thế là số Thời (giờ). Cất giờ-ngày-tháng, tức là thông qua Giờ thì biết Thế, học giả tóm tắt tượng ấy mà nên vậy.

Sách Chu Lễ chép 3 Kinh Dịch: nhà Hạ gọi là Liên Sơn, nhà Thương gọi là Quy Tàng, nhà Chu gộp mà dùng gọi là Chu Dịch. Trần Hy Di bảo rằng: vua Hy Hoàng mới vạch 3 hào thành quái, chồng lên làm 64 quẻ mỗi quẻ 6 hào, không lập ra văn tự, khiến người trong thiên hạ xem tượng mà đã có thể như tượng thì cát, hung ứng khi trái tượng Trời nên cái hung phản lại. Đời sau ứng quẻ, vạch không tỏ tường, đạo Dịch không truyền dùng, Thánh nhân bất đắc dĩ mà có lời nói “Từ”. Học giả bảo Dịch chỉ dùng thế, lại không biết có vạch vậy. Xét Liên Sơn có 8 vạn chữ, Quy Tàng có 4300 chữ, Liên sơn dùng 36 chước, Quy tàng dùng 45 chước, mà tên quẻ như Khôn là Thích, Khảm là Bạc, Chấn làm Ly, Nhu gọi là Nhục,, Vô vọng gọi là Vô, Tùy gọi là Cù, Bác gọi là Bộc, Hàm gọi là Khâm,…, hào từ như Đại hữu dùng Phệ hạp gặp Đại hữu dùng Càn nói rằng: cùng trở lại ở cha, kính như vua, sở truyền chú thích, sở dẫn như cù, hữu từ, hữu hồ. Kịp đến quân tử răn đi xe, tiểu nhân răn đi không; đều là 2 Dịch. Nay từng tên quẻ Chu Dịch, âm nghĩa phần nhiều gồm như nhau, song bàn về Chu Dịch thì Càn Khôn định trước, 6 con thứ tự sinh ra giao lẫn nhau mà thành 64 quẻ, trong đó đủ 384 hào, xem cát hung cốt ở “trung - chính”, hào 2-5 dưới trên giữa 2 thể, hào 3 -4 một quẻ giữa toàn thể. “Chính” thì vị dương hào dương, vị âm hào âm, trái thế không phải là “chính”, đó là điều cốt yếu lớn vậy. Thông quá nghiệm rằng: Bỉ Hy làm Dịch, Trọng-Mạnh đưa duy Kỷ hành, Chu Văn thêm thông tiết 8, ấy 8 chuyển thứ tự 384 hào để ràng buộc cài mối Vương mệnh, cho nên “chính” là theo gốc mà muôn vật tri lý, mất chỉ hào lý mà sai tới ngàn dặm. Trọng nói ở đây là 4 giữa (mạnh-trọng-quý) mệnh đức thời Chấn-Đoài-Khảm-Ly, “duy” ấy là 4 duy, kỷ hành thời Cấn-Tốn-Khôn-Càn. Tượng-từ-biến-chiêm, Chu Công nhân tựa của Văn Vương mà cả đủ, xét đồng ý chí, không ngoài “trung-chính” làm cốt yếu. Kinh lấy “trung-chính” mà làm biến, làm giao, tả hữu quanh hợp nhau. Chúc thị nói: Càn Khôn là Đại phụ mẫu, quẻ đều đi phía hữu theo Thái dương vậy. Phục-Cấu là Tiểu phụ mẫu quẻ đều đi phía tả, bắt chước theo 4 mùa vậy. Quẻ đi bên phía hữu, 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8, 8 sinh 16, 16 sinh 32, 32 sinh 64, đến chỗ trở lại sinh 17 quẻ mà lại hội số vô cực, tức là Nguyên hết lại có lý Nguyên vậy. Quẻ đi cùng cực đấy tức là Nguyên hết. Quẻ đi phía tả, từ 1 đến 2, thứ tự cùng nhân nhau, tiếp nhau, vòng quanh không manh mối, là lý năm hết lại đổi năm khác vậy. Hai phía đó nghịch thuận đi khác nhau, số dùng sai đến vạn vạn mà cùng cực, Dương duỗi ra, Âm co lại. Thiệu ta bảo Nguyên có 2, theo thuyết mà tả hữu suy đấy, tả dương hữu âm, như Cấu hào 1 biến sinh thì Phục lại được 1 dương, biến hết thời đến quẻ Quy muội, trước sau gồm 22 dương, rồi đều được Ký tế mà trai có vợ. Bỏ 4 tượng 80 âm hợp thượng thể 48 dương làm thành 112, Đông chí trở về sau lẻ thuận, dương trước âm sau, thì âm lại theo dương vậy. Khôn 1 biến sinh Cấn, được 1 âm hết 6 biến thành Tiệm, trước sau 32 âm đều được Vị tế mà gái có chồng, gồm Cấn Khảm 4 con dương, hợp với thượng thể 48 âm làm Âm (tiếng) 152. Từ Hạ chí trở về sau là nghịch, âm trước dương sau, nên dương phải theo âm. Còn 1 mà 2 làm Quải, mà 4 làm Đại tráng (đồ tròn nghịch Càn 1, Quải 2, Đại hữu 3, Đại tráng 4, Tiểu súc 5,…) đến 64 là Cấu, đều trở lại theo cung. Mặt Trời cùng Trời hợp ở Quy muội-Tiệm rất thay nhau Ký tế-Vị tế, hay Thái-Bĩ rồi lại thay nhau Quy muội-Tiệm. Quẻ Dự giao Tiểu súc làm Thái, làm Ích, Lý, giao Dự làm Bĩ, làm Tốn, mọi…mất chữ…Tụng, Tấn, Minh di biến thành Thái, Bĩ, Ký tế, Vị tế; cùng Di, Trung phu, Đại quá, Tiểu quá biến làm Tổn, Ích, Hàm, Hằng; thế nay tượng quẻ mà giao biến quanh hợp kỳ diệu khá tả hữu gặp gốc (biết suốt ý sâu kín) vậy.

Chia Thượng kinh làm 18 cung, Hạ kinh làm 18 cung, hợp làm 36 cung. Kinh Dịch thì Thượng kinh có 30 quẻ, gồm 30 x 6 = 180 hào, số quẻ trùng Thượng kinh là 4, thêm số hào trùng 180 + 24 = 206 hào. Hạ kinh có 34 quẻ, gồm 34 x 6 = 204 hào. Số quẻ trùng Hạ kinh là 2, thêm cả 12 hào trùng là 204 + 12 = 216. Đây là đồ số 36 cung. Mỗi 1 quẻ gồm 2, cùng trở đi trở lại đối nhau, khu dùng lại làm 1 cung. Đường ngày của kỳ 1 năm gồm 12 tháng, mỗi tháng chia thành 6 hậu, mỗi hậu đều có 5 ngày, như vậy 1 năm có 72 hậu = 360 / 5, số 72 này tính đôi thẻ Càn dùng trùng là 36 x 2, tương đương với tính 3 lần quẻ Khôn dùng trùng 24 x 3 = 72 vậy. Số 36 cung này, 6 theo 6, 4 theo 9, 3 theo 12, 2 theo 18 đều về 36 cung. Theo Hán Dịch, ở kinh trên bầy 18 cung tương đương với 30 quẻ, trong đó phản dịch có 6, ở kinh dưới bầy 18 cung tương đương với 34 quẻ mà phản dịch là 16, bớt dịch ấy 2, gồm 12 dùng 16 làm 28 cung, gồm 2 dùng 6 làm 8 cung, gồm 8 cung dùng 28 cung làm 36 cung, diệu với kinh trên 30 phối kinh dưới 34, quẻ không bầy bằng, hào không đều bằng, mà trên dưới đều bằng đều 18 cung, thời lấy kinh dưới Trung phu, Tiểu quá bất dịch, dùng 2 quẻ dương kinh trên Di, Đại quá bất dịch, dùng 2 quẻ bất dịch phối kinh trên với Càn-Khôn-Khảm-Ly, dùng 4 quẻ bất dịch phối kinh dưới với Chấn-Cấn-Tốn-Đoài, hỗ dịch dùng 4 quẻ. Cho nên quẻ không bầy bằng, hào không đều nhau mà gần đều vậy, theo nhiều ít làm đối nhau, hết thẩy đều hợp tự nhiên vậy. Vị tế 64 là số trùng quái, tính gồm cả 8 kinh quái tự nó ở khoảng quay về vần chuyển mà 72 số toàn vẹn vậy. Kinh chỉ 64 quẻ gồm 2 quẻ làm 1 cung, ứng chỉ 32 cung, lại thêm 4 vậy mà gồm 8 quẻ cùng bèn 36 cung. Xét trên dưới 2 kinh đều 3 khu, mỗi khu 12 quẻ có 72 hào. Càn khôn đầu khu thứ nhất, là Thái Bĩ đầu khu thứ 2, là Bác Phục đầu khu thứ 3, ba (3) theo 12 thì ở kinh trên 30 quẻ thực bao 6 quẻ ở trong phản đối trùng kiến, Hàm Hằng đầu khu thứ 4, Quải Cấu đầu khu thứ 5, Phong Lữ đầu khu thứ 6. Lại 3 theo 12 thì ở kinh dưới 34 quẻ thực bao 2 quẻ ở giữa phản đối trùng kiến, kinh trên ít hơn 4 quẻ mà quẻ sở bao lại nhiều hơn 4, kinh dưới nhiều hơn 4 quẻ mà quẻ sở bao ít hơn 4, cho nên đều 18 cung, đều 36 quẻ mà đến quân bình, thông mà nói theo phản Dịch 28 quẻ, 2 quẻ hợp 1 cung, bất dịch 8 quẻ, mỗi 1 quẻ chuyên 1 cung, chia nói chuyên danh của quẻ, 64 quẻ, 1 quẻ chỉ về 1 lần xem, hợp nói cung gồm lệ 36 cung thì 1 quẻ đều làm 2 lần xem, tuy không đổi chuyển cung, cũng đều làm 2 lần xem. Kinh trên 6 quẻ gồm 6 mà 30 thêm 6, kinh dưới 2 quẻ gồm 2 mà 34 thêm 2, cho nên số vừa tương đương vậy. Kịp đến kinh trên dương 52 âm 56, kinh dưới dương 52 âm 56, đều 108, hợp lại là 216 ứng số Càn sách, gồm 2 quẻ trùng toàn thời 432 hào, 432 này là số hào của 72 quẻ, thâu tóm làm 36 cung biến hóa. Quẻ 64 được 384 hào, lấy 24 hào của 4 quẻ, đúng hợp sách 360 của Càn Khôn, chỉ lấy hào số của 60 quẻ đương đấy, còn thừa 4 quẻ 24 hào. Hoàng cực đã tạo cho Thiệu ta lấy ý ở Hy đồ 4 chính Ly-Càn-Khảm-Khôn, 4 quẻ chính của Kinh Phòng quái khí lấy ý ở Văn đồ là Khảm-Chấn-Ly-Đoài, 4 quẻ chính này chia thẳng 24 khí, thâu tóm 72 hậu, đều chuẩn cho Đại diễn (số 50), treo 1 lần đếm 4 về kỳ (lạ) tượng, phép Nhuận cũng đi khắp Trời 360 độ 4 phân, số phân đủ của 1 độ, mà đó lại bao 8 quẻ 48 hào ở cung phản đối trùng kiến thì dựa vào 4 theo 12, kinh trên được Càn sách qua số sắp xếp làm 12 ấy 3, kinh dưới được Càn sách số cơ chứa làm 12 ấy 1 để hợp ở đương kỳ sách số chung lẻ, gồm 24 dùng 48 được 72 sách, so sánh giờ của ngày gồm thừa 6 ngày. Chính Ngu thư 400 có 6 tuần có 6 ngày lấy tháng Nhuận định 4 mùa, tháng rằng năm.. Thiệu ta tán Thái nguyên, biết phép lịch, lại biết lịch lý, trộm bảo rằng tức là tự tán (khen), xem lời nói về xem 36 cung, khá lấy biết vậy. Song trong thơ nói: Thiên căn bảo rằng Phục, Nguyệt quật bảo rằng Cấu, từ Phục đến Cấu, từ Cấu đến Phục, giữa Tý-Ngọ chia đều 32 quẻ mà đều có quẻ bất dịch, ở phía tả thì Di, Lý, Trung phu và Càn Ly, ở phía hữu thì Đại quá, Tiểu quá gồm cả Khảm Khôn, qua lại tráo trở mà suy, như Dịch số cung ở kinh trên dưới: cung ở Phục về phương tả mà phản đối quẻ hữu phương cùng cung, ở Cấu về phương hữu mà phản đối quẻ phương tả, đều 14, lại hư hợp trùng kiến dùng 4, thâu tóm cả tả hữu đều 18 cung, thời cung lấy đồ tham thác làm chỉnh tề, theo số là quân bình thì 1, thực là khí bình phân của 4 mùa, suốt 72 hậu. Mùa Xuân là cao nguyên đầu 4 mùa, lưu đi trong sự trăng sinh thu tàng, cho nên rằng 36 cung đều là Xuân vậy, đến dùng Nguyệt quật là biết vậy. Thiên căn là biết người, Hoàng cực bầy Nhân và Vật làm 32 vị, đều chia 16 bậc, là Vật thì lấy bay-chạy-cây-cỏ, dùng chạy-bay-cây-cỏ sánh với Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, người thì là khu lấy sỹ-nông-công-thương sánh với Càn-Đoài-Ly-Chấn, đại khái khi Càn giao với Tốn làm 1, thì 1 lần biến theo lúc đầu mà làm Cấu, tán khác chia lớn làm nhỏ, lấy khoảng đến Khôn làm ngàn, ngàn thời trên mà khởi ở bay, bay dùng lớn, dưới mà cùng cực đến cỏ, cỏ dùng nhỏ, mà loài Vật khá biết. Theo Cấu đến Nguyệt quật là xem (quan) vậy, Khôn dùng giao Chấn, Khôn làm ngàn, ngàn lần biến theo lúc đầu làm Phục, thâu tóm thể dài nhỏ làm to. Lấy Khảm đến Càn làm 1, 1 thời dưới mà khởi ở thượng, thượng dùng nhỏ, trên mà cùng cực thì đến sỹ, sỹ dùng lớn mà nhân phẩm khá biết. Theo Phục đến Thiên căn là Quan (xem) vậy. Cho nên Thi rằng: “vậy tường ở trong. Thiên thứ 11”. Vì Thiệu ta xem Người và Vật, không lìa số cung dùng qua lại, ấy thể vậy. Có kẻ nói: lời nói 36 cung không nhất trí. Có thuyết lấy 12 vạch đơn 12 vạch kép đương đấy ấy. Có thuyết lấy Càn 1 đến Khôn 8 đương đấy ấy. Hợp trở đi trở lại để tìm giải này, vốn hợp để xem kỷ ý thơ đường có mỗi quẻ đều được ý thứ 36 cung, đến Cấu Phục mà bàn qua đi thì từ dưới xem lên trên, theo hào Sơ biến đến hào Trên, lộn lại thì từ trên xem xuống dưới, theo hào Trên biến xuống đến hào Sơ. Phàm 1 hào biến 1 quẻ, 1 quẻ lại được 6 hào, làm 6 lần 6 là 36, tức là hào ấy biến theo thâu tóm mà gọi đấy làm cung, như quẻ Phục thâu tóm: Khôn, Lâm, Minh di, Chấn, Truân, Di, đều 6 hào, quẻ theo thẳng là quẻ Cấu thâu tóm: Càn, Độn, Tụng, Tốn, Tỉnh, Đại quá, đều 6 hào dùng loại quẻ sở trực. Trong lúc nhàn dỗi qua lại xem ngắm quẻ Tùy mà được 36 cung, càng diễn càng nhiều, tức là khá được sinh, sinh là cái cơ không nghỉ ở Nguyên, Nguyên dùng trong cùng nối tiếp nhau mà 1, 1 xuống đến ngàn ngàn, ngàn ngàn lên đến 1, 1 đem lên Người và Vật to nhỏ đều thâu tóm ở khoảng trong, xem thuyết này mà Thiệu ta vịnh Hoàng cực quan vật ở Nguyên-Hội-Vận-Thế mà thấy lòng thiền định, không phải đem Dịch nói phiếm mà nói vậy, nghĩa tức là căn cứ ở Dịch mà suy, cũng chẳng gì mà chẳng cùng với lời nói, cùng hiệp hợp vậy, giữa lại để đợi đính sau, gồm nghĩ miệng đạo ngay. 36 cung chia trùng 6 cung, Càn-Khôn-Ly qua Khảm-Ly thông ở trên, lại chia 6, 4 lại trùng 2, Tiểu quá, Trung phu 18 cùng (ở dưới), kinh trên kinh dưới toàn 36 qua lại hào hợp 8 sơ cuối cùng, chở theo tráo trở song song bầy ra, đều là Xuân tìm 1, 1 dương ở trong quẻ. Thiệu ta điền đồ phát minh công Phục Hy, bỗng nhón lấy thẻ thần suy ý thơ, Nguyệt quật Thiên căn hỏi ông này.

Đồ tâm chứa tổng Hội. Đồ lấy số 4 quẻ làm ngang, mà trên dưới giao nhau làm dọc. 1, 2, 3, 4 là số Càn-Đoài-Ly-Chấn. 5, 6, 7, 8 là số Tốn-Khảm-Cấn-Khôn. Trong ngoài ngang đấy mà đều liên hệ lấy 2. Liên hệ ở ngoài vẫn là tròn, đồ đổi hợp dùng thứ tự quẻ. Liên hệ ở trong vốn là vuông, tròn là thẳng liền dùng thứ tự quẻ, trở đi trở lại để bầy, đều bảo rằng 1 ngang 8 dọc, là khá vậy. Ngang cùng với ngang đối, bỏ 9 ấy 4. Dọc cùng với dọc hợp, đều trùng ở 9 ấy cũng 4. Bỏ 9 ấy 4, 1 đến dùng 2 đến dùng 7 ; 6 đến dùng 6 ; 4 đến dùng 5 gồm 4 lần 9 là 36 mà mang toàn vẹn vậy, đều trùng ở 9 ấy 4, như Quải đến Bác, Lý đến Khiêm, Phục đến Cấu, Tiểu súc đến Dự, 1 thời Càn Khôn đến 9 (đồ tròn từ Càn đếm thuận hay nghịch đến 9 thì đều biến), tráo trở Đoài Cấn dùng 9, 1 thời Càn Khôn đến 9, tráo trở giao Chấn Tốn dùng 9, lệ mà tìm đấy đều được 2 lần 18 là 4 lần 9 thành 36 số, mà dọc hết thẩy lấy đủ vậy. Cho nên 8 quẻ giao lẫn, chẳng gì là không 0-9 số. Đồ hợp cả lại, trên dưới cắt mà làm đôi, thời âm dương cương nhu thái thiếu chia vậy, cũng trên dưới suốt mà 4 đấy, sen hàng ngũ lẫn lộn biến hóa là hợp vậy. Lấy lòng giải đồ này, dọc ngang như một, số thâu tóm ở Hà Lạc, lý hội ở Hy Văn, hoặc dùng đấy tùy việc mà xem, tức số mà được quẻ, nhân số quẻ mà giờ ngày định hào, lại có thần minh ở trong đó vậy.

HẾT QUYỂN 3

LỜI BẠT

Một quyển Hoàng Cực Kinh Thế, luận suy số năm xưa nay, bắt đầu từ năm Giáp Thìn đời vua Nghiêu, đều chép đạo trị loạn. Soi gương đời xưa làm khuôn phép cho đời nay, biết được lại do ở số. Trước kia, Khổng Tử san định Kinh Thư, sau cùng là Thiệu Khang Tiết làm Hoàng Cực tóm ở 1 Nguyên, trước đã biết triều nối đời mà bảo kín cái ý chưa có thể biết vậy. Lưu Đẩn chép lại Tự ngôn, rộng ý nghĩa sâu xa có công cho thế đạo, sách này mới đến chỗ nghĩa khó để làm cho sáng rõ ra, chú thích thêm, hay làm bản đồ để rõ ràng thêm, tuy chưa có thể mở rộng được ý nghĩa sâu kín, dẫu không khỏi chê là làm rối, cũng không lấy ra ngoài các thuyết. Song lấy việc xưa nay đều bàn về Dịch lý thấy Dịch là rộng lớn, chỉ ở người ta tự giác ngộ. Biết đâu người sau đọc Hoàng Cực lại sinh thêm cái ý nghĩa thần diệu mà rõ cùng Trời Đất vậy.

QUAN VẬT NGOẠI THIÊN

HÀ ĐỒ THIÊN ĐỊA TOàN SỐ

Số trời 5, số đất 5, hợp mà làm 10, số trọn vẹn vậy. Trời lấy 1 mà biến 4, đất lấy 1 mà biến 4. Số 4 này có Thể vậy, mà số 1 không có Thể vậy, ấy rằng Có Không đến cùng cực vậy. Thể trời số gồm 4 mà dụng lấy 3, không dụng ấy 1 vậy. Thể đất số gồm 4, mà dụng lấy 3, không dụng ấy 1 vậy. Cho nên, không thể chưng dụng 1 lấy cảnh huống tự nhiên vậy, chẳng chưng dụng 1, lấy cảnh huống Đạo vậy, dùng lấy 3, đó là cảnh huống trời-đất-người vậy.

Số Hoàng cực gốc ở Hà đồ, đầu tiên sáng tỏ toàn số trời đất, cử cương lĩnh (rường lưới và cổ áo) vậy. Số của Đồ toàn ở 1 – 3 – 5 – 7 – 9 là số trời gồm 5 số, 2- 4 – 6 – 8 – 10 là số đất gồm 5 số vậy. 2 và 5 hợp mà 10 số toàn vậy. Số trời đất đều 5, đều lấy 1 biến 4. Càn là trời dùng 1 mà âm dương thái thiếu chia, Khôn là đất mà cương nhu thái thiếu chia vậy. Phàm biến mà 4 tượng, tượng du! Trời đất dùng 4 Thể, rõ ở có số thoái đều 5 dùng 1 ; Thể âm ở không có, Thể thời 1 động 1 tĩnh, đều là Thể ở cùng cực ; sinh số cực ở 4, thành số cực ở 9, cũng làm 4 ấy làm có dùng cực ; đại diễn (số đại diễn có 8 cái) chưng dụng số lấy đấy, không thể thời trông 1 động 1 tĩnh, đều chẳng xét đến số cùng cực. Sinh số trống không 5, thành số trống không 10, cũng làm 5, đó là không dùng cùng cực. Đại diễn dùng khai số lấy đấy thẳng hoặc cũng ý, vô cực mà thái cực du! Bảo rằng số 5 không dùng cùng cực, thành số 10 là có dùng cùng cực, tựa như chẳng phải dẫu ý, duy đó toàn số 5 mà thể 4, Thể số 4 mà dụng 3. Càn 3 hào biến Đoài Ly Tốn, bỏ Tốn về Khôn, thời Tốn là 1 chẳng dùng. Khôn 3 hào biến Cấn Khảm Chấn, bỏ Chấn về Càn, thời Chấn là 1 chẳng dùng, dẫu như không thể dùng 1 bọc ở trong Thể, mà 4 biến hóa vẫn tự nhiên, bởi đấy mà ra chẳng dùng 1, còn ở cái chọn dùng 3, đầy rỗng đến đạo rất mực, bởi đây lấy suy, đều có 4 mà chỉ dùng 3, là sao vậy? Bốn mùa sinh vật, dùng Xuân Hạ Thu Đông, thời cùng cực vậy, bốn phương sinh sản vật, dùng Đông Nam Tây Bắc, thời hoang mong vậy, 4 thì 1 xem vật thấy trước, sau tả hữu, sau nữa thời là lưng vậy. Trời đất người chăng, chẳng phải 4, đủ dùng chỉ 3, khá biết vậy. Phương chỉ rằng đấy, nói chẳng hết ý, dẫu cảnh tượng như thế, cho nên ước lượng để nói, huống chi là vậy.

Xét số Hà đồ 5 số sinh, 5 số thành, là số Hoàng cực gần gốc đấy, sinh số là số lẻ. Lấy 1, 2, 3, 4 ghi theo thứ tự, 5 là số ở giữa, không dùng thành số, đó là số sách (thẻ gấp, việc to biến vào, cái thẻ từng mảng to gấp lại được gọi là sách). Lấy 9, 8, 7, 6 ghi theo thứ tự, sự thực số là 10, là số danh (đầy) chẳng dùng. Số sinh-thành đều dùng chỉ gồm có 4 số. 4 gập 9, được số của Lão dương, có sách số là 36. 4 gập 8 được số của Thiếu âm, có sách số là 32. 4 gập 7 được số của Thiếu dương, có sách số là 28. 4 gập 6 được sách số của Thái âm, có sách số là 24. Mà lại 6 nhân 9, 8, 7, 6 được 54, 48, 42, 36. Theo bản sách số trước, thì đều là nửa sách số thêm vào, để hợp toàn sách 18, 16, 14, 12 đó vậy. Bèn tính gần 54 ở 36 làm 10 ấy 9. gồm 48 ở 32 làm 10 ấy 8, gồm 42 ở 28 làm 10 ấy 7, gồm 36 ở 24 làm 10 ấy 6, còn như vậy 9, 8, 7, 6 đều hợp 5 với 10, để trôi đè bên trong, há chẳng phải tự nhiên sao?

Lại xét số trời đất bắt đầu 1 với 2, hợp 2 số này mới được một số “thực”, số ỷ là số dựa vào, 1 dựa 2 mà được 3, cũng như 2 dựa 1 vậy, số giữa trời đất là 5 cùng 6 hợp 2 giữa được số, Càn số chỉ 2, 50, 2, 60 vậy. Dẫu rằng số 5 và 6 là số giữa trời giữa đất hợp đó vậy, sau cùng số 9 với 10 hợp 2, sau được dụng số và thể số là 10 còn 1 mà 9 bỏ 1, cho nên 10 thì ở mà 9 thì đi vậy. 10 bỏ 1 mà 9 tức là bỏ 15, bỏ 1 mà 4 dùng tức bỏ 5, 50 cũng chẳng phải bỏ cái bao trống, dẫu như giữa 1, 4, 2, 3 thì chẳng dùng chẳng phải 5, hơn nữa 1, 9, 2, 8 chẳng dùng chẳng phải 10, chẳng dùng mà diệu dụng vậy, bèn 4 mà lại bỏ 1 vậy. Trời đất người lấy chẳng chưng dụng 1, thừa thãi dẫu rằng chưng dụng 3, là Đạo rõ rệt điều nhân, dẫu sự dùng nầy há ngoài tự nhiên đó sao? Này, 1 mà giao 4, thì 1 thực mà 1 hư, rất hư mà ngậm rất thực. 4 mà dùng 3, thì 3 động mà 1 tĩnh, rất tĩnh mà đủ rất động vậy.

Kinh Dịch có (số đầu) thực số là 13 thôi. Tham (sen vào) trời ấy 3, 3 mà lại 9. Lưỡng (hai) đất ấy gấp 3 mà 6. Tham trời lưỡng đất, mà số dựa vào chẳng phải số chính của trời đất vậy. Ỷ (dựa) là phỏng theo, là nghĩ định vậy phỏng theo số chính trời đất mà sinh vậy.

Lấy số bắt đầu của trời đất mà nói: trời 1 đất 2 mới hợp mà làm 3, đó là số gốc của Thái cực. Ta, âm dương chia 2 nghi, bên tả lẻ, bên hữu chẵn, là số gốc du! Chân (thực) là Nguyên (đầu) ấy vậy. Cho nên Dịch có số chỉ đều 3 mà thôi. 3 hợp 3 mà 9 đó là tham thiên, Càn 3 vạch, mỗi vạch bao hết đó vậy. Gấp 3 mà 6, đó là lưỡng địa, Khôn 3 vạch, mỗi vạch chia 2 đó vậy. Cho nên Càn vạch rằng 9, Khôn vạch rằng 6. 6 đoạn bớt 9 dùng 3. 3 liền thêm 6 dùng 3, số dùng đó thấy Càn Khôn số toàn thiếu vậy. Duy ấy Càn số tự 3 mà 9, mà 4 gặp 9 được 36 thẻ. Khôn số tự 3 mà 6, mà 4 gặp 6 được 24 thẻ. Lấy Nguyên kinh Hội 360 vận, gấp 10 thẻ chia 4 đấy, đều 90, nhân Càn 9 vậy. Lấy Hội kinh Vận 240 vận, cũng gấp 10 thẻ, chia 4 đấy, đều là 60 nhân Khôn 6 vậy. Phàm Tuế sai Phân Sao Ngày Tháng đầy rỗng, bởi đó mà suy, dẫu có vô cùng không có thể ngoài vậy. Cho rằng ỷ số đó là thế nào? Là đếm thẻ, số thẻ ỷ dựa vào số đó mà khởi, tức là vuông tròn vây tắt, thừa trừ thêm bớt, chẳng phải câu nệ chính số trời đất, cốt yếu đều nương nhờ nghĩ định chính số để sinh ra, do vậy “ỷ” là nghĩ định vậy, nhờ thẻ cỏ thi để nghĩ định trời đất, mà hào lý chẳng mất, Thánh nhân sở dĩ giúp ngầm thần minh đó vậy, hạ duy đếm cỏ thi, người nay tỏ rõ phép toán, mà nghĩa ỷ số khá thấy vậy.

Đại diễn Kinh Dịch là số gì vậy? Là ỷ số của Thánh nhân vậy. Số trời 25 hợp lại làm 50, số đất 30 hợp lại làm 60. Do đó 5 ngôi cùng được mà có số hợp. Thi là Tiểu diễn cho nên 50 làm Đại diễn. Bát quái (8) là qủe dùng Tiểu thành, thì 64 quẻ làm Đại thành. Đức Thi tròn, lấy số hướng trời, cho nên lần thứ 7 là 49. 50 ấy còn 1 mà nối đấy. Đức quẻ vuông, lấy số hướng đất, cho nên 8 lần 8 là 64 ; 60 là bỏ 4 mà nói đấy. Thế là số dụng, quẻ là số Thể. Dụng lấy Thể làm nền, do vậy còn 1 Thể lấy Dụng làm gốc, cho nên bỏ 4 vậy. Tròn ấy vốn 1, vuông ấy vốn 4, cho Thi còn 1 mà quẻ bỏ 4. Thi chưng dụng số 7, để làm phân trừ, cũng nghĩa còn 1, là nghĩa treo “dùng 1 bỏ 1”. Dụng số của Thi, tức 1 lấy tượng 8, thì 48 thời là thẻ của 1 quẻ. 4 gặp 12 làm 48 vậy. 12 bỏ 3 mà dùng 9, ấy 4 lần 3 là 12 là thẻ bỏ. 4 lần 9 làm 36 là số thẻ dùng. Lấy đương Càn 36 là hào Dương ; 12 bỏ 5 mà dùng 7, 4 lần 5 làm 20 là thẻ bỏ ; 4 lần 7 làm 28 là số thẻ dùng, lấy đương Đoài Ly 28 là hào dương ; 12 bỏ 6 mà dùng 6 ; 4 lần 6 làm 24 là số thẻ dùng ; lấy đương Khôn là số 24 làm hào âm ; 12 bỏ 4 mà dùng 8 ; 4 lần 4 là 16 là thẻ bỏ ; 4 lần 8 làm 32 là thẻ dùng. Lấy đương Khảm Cấn 24 hào lên quẻ trên 8 âm làm 32 hào. Cho nên 7-9 làm dương, 6-8 làm âm. 9 là số cùng cực của dương, số cùng cực thời phản lại, cho nên làm biến, Chấn Tốn không thẻ ấy, lấy đương số chẳng dùng. Trời lấy cương làm Đức, cho nên nhu ấy chẳng thấy. Đất lấy nhu làm thể, cho nên cương ấy chẳng sinh, ấy lấy Chấn Tốn chẳng dùng được vậy.

Lấy số giữa trời đất nói, xem số thì số quẻ đều có thể biết. Đại diễn đếm Thi mà thành quẻ. Thánh nhân ỷ vào số tham thiên lưỡng địa mà sinh ấy vậy. Nguyên Hà đồ hợp 25 thiên số làm 25 Thi số, hợp 30 số đất làm 60 là số quẻ. Ở 5 ngôi cùng được mà đều có hợp, thời 5-6 làm giữa trời đất hợp 10 đấy, còn đó vậy, trăm ngàn khá biết vậy. Số Thi và số Quẻ đều nhân đấy, 5 làm Tiểu diễn Thi, 1 diễn mà 4, 1 và 4 hợp làm 5, 2 và 3 cũng làm 5, nên 5 mà 10 dùng là diễn lớn Thi, diễn thành kinh bầy quẻ 64 mà được 1 vậy, trải 18 biến, được quẻ nhân đôi, ấy rằng đợi số thành, dẫu kinh quái thời 8, 8 lần biến mà lẻ chẵn chia, thái thiếu lập nên, mới thành “thể” của hào, đủ quẻ tượng 9 đến 10, 8 lần biến, hợp những cái nhỏ thành cái to, tức là nhân đôi đó vậy. Cho nên 8 làm Tiểu thành của quẻ, 8 gập 8 thành bèn to. Thi số dùng 49, đức thi tròn, lấy 7 lần 7 hướng số trời, rỗng 1 chẳng dùng, rằng 50 còn 1 mà nói đấy, vì Thi lấy 7 đủ số cùng vậy. Càn 1 thời dùng lấy “thể” làm nền, không “thể” mà dùng không kèm. Quẻ 64 dùng 60, đức quẻ vuông, lấy 8 lần 8 hướng số đất đủ 4 bèn toàn, rằng 60 bỏ không mà nói đấy. Vì quẻ lấy 8 vòng khắp “thể” của số, bỏ 1 thời “thể” lấy dụng làm gốc, gốc tròn thì 1 mà gốc vuông thì 4. Thi dùng 7, 7 thẻ 49, mà thẻ Càn thực dùng 36, số thừa 13, dẫu 1 thời 4 dùng 3 là 12 vậy. Cái nghĩa còn 1 mà chẳng phải trước còn dùng 1, lấy mà treo đấy cũng bỏ 1 ở trong, 7 lần 7 chẳng chọn cũng dùng, là khá thấy vậy. Nhật dẫu toàn thể làm 12 ấy, 4 trừ treo 1 số, chỉ kẻ lấy 8 quẻ 6 hào đương đấy, lấy mỗi vị 8 quẻ cách đồng đều 48, thời Thi chưng dùng vừa cũng quẻ hợp, tóm làm 12 mà 4 nhân đó vậy. Trong 12 bỏ 3 dùng 9, đương thẻ Càn bỏ 5 dùng 7, đương Đoài Ly bỏ 6, đương thẻ Khôn bỏ 4 dùng 8, đương Khảm Cấn 4 mà nhân đấy, thời trong 48 bỏ 4, ấy 3 dùng 4, ấy 9 đương Càn chưng 36 là hào dương bỏ 4, ấy 5 dùng 4, còn 7 đương Đoài Ly chưng 28 là hào dương bỏ 4, ấy 6 dùng 4, mà 6 đương Khôn chưng 24 hào âm bỏ 4, ấy 4 dùng 4, mà 8 đương Khảm Cấn chưng 24 hào, gồm quẻ trên chưng 8 âm làm 22. Phàm thẻ bỏ, dùng gấp lên mà 4 vậy, chỉ ở Khảm Cấn gồm quẻ trên là ở đâu? Thửa quẻ dưới đều 24, quẻ trừ hào 12, bỏ 4 dùng 8, hợp 8 ở 24 thời 32 vậy. Lại xét Đại diễn 7 làm Thiếu dương, 4-7 thuộc trai thứ 3, mà đấy lấy Đoài Ly đương đấy, 8 làm Thiếu âm, 4-8 thuộc gái thứ 3, mà đấy lấy Khảm Cấn đương đấy. Ở đây dường như nhặt thẻ chẳng hợp, hoặc xét do vua Hy nói tả dương hữu âm, có thuyết riêng biệt còn vậy, đến dùng 7-9 làm dương, dùng đương hào dương, 6-8 làm âm dùng đương hào âm ; nhặt Thi dùng 9-6, mà không dùng 7-8, ấy 7 dương dùng tiến mà chưa đến cùng cực, mà 9 thời là số cùng cực của dương ; ấy 8 âm dùng tiến, cũng chưa đến cùng cực, mà 6 thời là số cùng cực của âm. Cực thời phản lại, phản lại thời biến, 9 lần biến làm 8 mà không dùng 1 vậy ; 6 lần biến làm 7, mà không dùng 1 vậy. Cho nên 6 tới cực thì Khôn biến Chấn, 9 tới cực thì Càn biến Tốn, quẻ Cấu quẻ Phục đương giao, cực trở lại thì hầu mà biến đó vậy. Nếu nói rằng Chấn-Tốn không có thẻ, mà không phải không có “thể”, Chấn theo Càn mà nhu nhiều, trở lại phụ ở Khôn mà dùng Khảm-Cấn, đức của trời chủ cương nên nhu ấy chẳng thấy, thần là nơi chọn của Nhật Nguyệt Tinh vậy. Tốn theo Khôn mà cương nhiều, trở lại phục ở Càn mà dùng Đoài-Ly, đức của đất rất nhu, nên cương ấy chẳng sinh, đã làm hết Thủy-Hỏa-Thổ vậy. Thể của trời đất đều 4 mà chỉ dùng 3, không dùng ấy 1, Chấn-Tốn lấy đương số không dùng, dẫu có thể cũng như không vậy.

Dương số 1, âm số 2, âm dương tương hợp, 1 thêm 2 bằng 3, tích của 3 phân theo 4 hướng. Phía Đông cung Chấn là 3, 3 nhân 3 là 9 là số của cung Ly, 3 nhân 9 vằng 27 thì 7 là số của cung Đoài, 3 nhân 7 bằng 21 thì 1 là số của cung Khảm, 3 nhan 1 bằng 3 thì lại quay về cung Chấn phía Đông là 3.

Số âm bắt đầu từ 2 hướng Tây Nam cung Khôn, 2 nhân 2 được 4 là số cung Tốn, 2 nhân 4 được 8 là số cung Cấn, 2 nhân 8 được 16 thì 6 là số cung Càn, 2 nhân 6 được 12 thì lại quay về cung Khôn số 2.

Bàn về thẻ Thi dùng biến dụng 2 lão 9-6, đều 4 nhân đấy, số thẻ Càn được 216, Khôn được 144 (4 x 9 x 6=216=12 x 18, 4 x 6 x 6=144=12 x 12), hợp làm 360, âm dương dùng thuần đó vậy, để dùng năm (đương cơ) dùng ngày 6 Tý, Thiếu dương 7 Thiếu âm 8 như trước nhân 4, Thiếu dương được 168, Thiếu âm được 292, cũng hợp làm 360 âm dương lẫn đó vậy. Theo thẻ của Càn Khôn, chỉ dùng Càn 9 Khôn 6, lấy Nguyên kinh Hội, dùng thẻ Càn dụng 4x9, gồm Đoài Ly dụng 4x7 lấy vòng khắp độ trời, lấy Hội kinh Vận, dùng thẻ Khôn dụng 4x6 gồm Khảm Cấn dụng 4x8 để chia quẻ đất. ôi, Tốn thời Càn dùng biến mà vào Khôn, cho nên Càn “thể” 4 mà chẳng liệt vào Tốn dùng Đoài-Ly, đó là dùng số dương gộp vào mà dụng đấy, ấy Càn chẳng dùng Tốn, bèn dụng Chấn thời còn thế vậy, lấy đang dùng được mà hãy còn non, còn suy yếu để phụ vào Khôn loại vậy. ôi, Chấn thời Khôn dùng làm biến để vào Càn, ấy Khôn chẳng dùng Chấn, bèn dùng Tốn khởi còn như vậy, lấy âm chứng còn khỏe mạnh mà phụ vào Càn loại vậy. Cho nên, dẫu thẻ đều có thể chẳng dùng, đó chỉ là trộm lấy ý mà thôi, Khôn mà dùng Chấn, Càn mà dùng Tốn, dùng hay chẳng dùng, hứa lấy nghĩa vậy.

Dịch thời Càn dùng 9, vì vậy thẻ dùng cũng 9, để lấy ứng với 4 mùa thì 4 hợp 9, 1 mùa gồm 90 ngày, 4 lần 9 thời vòng khắp 36 vòng mà 4 mùa thành vậy. Khôn dùng 6, thẻ dùng cũng 6, ấy 4 lần 6 lấy sách 4 mùa, một mùa đều sai số 6 ngày, 4x6 thời 24 khí mà 4 mùa trải qua vậy, quân bình về điều này, Khôn thuận tiếp Càn, Càn 9 mà dương đầy, đều lấy Khôn 6 mà âm hư, dẫu có đều tiết khí như vậy, thì cũng là điều khó tưởng tưởng nổi. Thiệu ta nói rõ trái luật các sách, Hoàng cực xem trời lấy Nguyên kinh Hội, xem đất lấy Hội kinh Vận, số chẳng lìa 9-6 mà dùng để thừa-trừ đấy vậy.

Thi số chẳng lấy 6 mà lấy 7, là sao vậy? Là dùng để phân thừa (nhân) vậy, bỏ phân thừa thời 6, thì số thẻ 36 vậy, lấy số 64 quẻ là thẻ để dùng cho năm Nhuận, còn khi dùng số Thi 7x7= 49, thì 60 quẻ là số thẻ của năm không Nhuận vậy, là đạo của Thi số 36 + 24 = 60 vậy, bởi lẽ khi treo 1 như tính cho 1 năm Nhuận vậy. Quẻ thẳng bỏ 4 dùng 60 là sao vậy? Là do trời biến mà đất bắt chước theo đấy, tức là bỏ 1 thì quẻ bỏ 4 đó vậy. Là sao vậy? Là nói về “thể” của 1 quái vậy, ví như nói về quẻ Càn gồm 3 hào dương, là “thể” gốc 1 vậy, khi biến hào 1 thành quái Tốn, là “thể” thứ 2 vậy, khi biến hào 2 thành quái Ly, được “thể” thứ 3 vậy, khi biến hào 3 được quái Đoài, thì được “thể” thứ 4 vậy, như vậy có 1 “thể” gốc và 3 “thể” biến, gộp lại là 4 vậy.

Thi lấy 7, đủ 7 lần 7 là 49 thẻ, sao không lấy 6 lần 6 là 36 là cớ sao vậy? Bởi vì 36 thời 4 lần 9 dùng số thẻ của Càn, phân lưỡng được 13, dụng đủ 12 bỏ 3 thời còn 1, khi số danh 10 bỏ 1 dùng 9 thẻ, hay 12 bỏ 3 dùng 9 thẻ, thì đều có 1 để phân thừa còn lại vậy. Khi dụng số thẻ của Càn, thì Lão âm, Thiếu dương, Thiếu âm đều là số thẻ dựa vào số thẻ của Càn vậy. Lấy 360 thẻ vòng khắp năm, thì thừa 24 thẻ, là đương thẻ tháng Nhuận vậy, thẻ năm Nhuận bảo rằng 13 tháng, Nhuận 1 năm bảo rằng dùng năm thừa chứa 12 ngày đó vậy, nên nói Thi dùng bỏ đi trống rỗng ấy 1, hợp khí đầy sóc (mồng 1) trống rỗng mà được đó vậy. Cho nên, thẻ Thi toàn số 50 chỉ dùng 49, Thi 4 mà tương đương 1, là 50 rỗng còn 1, tức là nói 4 vậy. Thi tròn mà Thần là Thiên (Trời) dùng để biến quẻ, vuông mà trí (Khôn) đất bắt chước, đất Bắc dưới trời biến, 4 lấy tương đương 1, vuông theo tròn làm nên, thời dùng 1 mà bỏ 4, bỏ 4 là Càn-Khôn-Khảm-Ly vậy.

Số Cơ (lẻ) gồm 4 số là 1, 2, 3, 4. Số sách (thẻ) gồm 4 số là 6, 7, 8, 9 hợp nhau mà làm 8 số, lấy ứng với phương thì số dùng 8 biến. Số về lẻ hợp treo có 6, rằng: 5 với 4 thì 4 vậy, 9 với 8 thì 8 vậy, 5 với 4 thì 8 vậy, 9 với 4 thì 8 vậy, 5 với 8 thì 8 vậy. Để ứng số trên, dùng ở 9 mà 10 chẳng dùng, 5 thời 1 vậy, 10 thời 2 vậy, cho nên bỏ 50 mà dùng 49 vậy, Cơ (lẻ) chẳng dùng 5, thẻ chẳng dùng 10, có hay không chỉ dùng số cùng cực vậy, đây lấy số huống chi là tự nhiên vậy.

Đây phát minh không thể dụng 1, huống chi là tự nhiên, vốn là ý trong trống không của Hà đồ, số cơ lẻ mà số thẻ chứa đựng vậy. Nói về số Cơ (lẻ) lấy 4 làm cùng cực, bỏ 5 chẳng dùng. Nói về số Sách, lấy 9 làm cùng cực, bỏ 10 chẳng dùng. Đó gọi là số vô “thể” vậy. Mà 5 thì Trời dùng 1, với 10 thì Đất dùng 2, khi trời đất hợp lại thời dùng 3 vậy, lấy “Không” bao “Có” thực đủ 7 phân, 7 lần 7 là 49 là lấy “Có” mà “thể” lại “Không”, chẳng gì chẳng phải, huống chi sự của trời đất, chẳng phải có ý riêng an bầy bố trí ở khoảng giữa ấy vậy.

Số về cơ hợp trao, được 5 với 4, 4 thời số sách 4-9 vậy, gần 9 với 8, 8 thời số sách 4-6 vậy, được 5 với 8, 8 được 9 với 4, 8 thời số sách 4-7 vậy, được 9 với 4, 4 được 5 với 4, 8 thời số sách 4-8 vậy. Làm 9 ấy 1 biến lấy ứng Càn vậy, làm 6 ấy 1 biến lấy ứng Khôn vậy, làm 7 ấy 2 biến để ứng Đoài với Ly vậy, làm 8 ấy 2 biến để ứng Cấn với Khảm vậy. 5 với 4, thì 4 bỏ số treo 1, thời 4 lần 3 là 12 vậy, 9 với 8, 8 bỏ số treo 1 thời 4x6 là 24 vậy. 5 với 8-8. 9 với 4, 8 bỏ số treo 1, thời 4x5 là 20 vậy. 9 với 4-4. 5 với 4, 8 bỏ số treo 1, thời 4x4 là 16 vậy. Cho nên bỏ số 3, 4, 5, 6, để thành sách 7, 8, 9, 6 vậy. 9 tiến làm 36 đều số dương vậy, đó là dương trong dương. 7 tiến làm 28, trước dương sau âm, đó là âm trong dương. 6 tiến làm 24, đều số âm vậy, đó là âm trong âm. 8 tiến làm 32, trước âm sau dương đó là dương trong âm vậy.

Số về cơ hợp treo đều là chọn 9, 6, 7, 8 để Càn-Khôn-Đoài-Ly-Cấn-Khảm sẽ thấy chứa ở trên mà chẳng kịp Chấn-Tốn không thẻ đó vậy. Ở 9-6 thì Càn Khôn dùng biến đều 1. Ở 7-8 thì Đoài-Ly, Cấn-Khảm dùng biến đều 2, mà dẫu ban đầu đều là 5, nên 9 hợp số quẻ vậy. Số bỏ đầu tiên treo 1, tóm đấy làm 4x3, 4x4, 4x5, 4x6 mà làm 12, 16, 20, 24, thông quẻ chọn 3 lần biến, số bỏ đi là 3, 4, 5, 6 để thành 7, 8, 9, 6 mà thẻ số được định vậy. Xét Càn dùng 9 thì Chấn trước, Khảm Cấn sau, tức là biến hào từ hào Sơ, hào 2, rồi tới hào 3 vậy, ở đây số đều theo 7. Xét Khôn dùng 6, thì Tốn trước, Ly Đoài sau, số đều theo 8. Khi lấy Ly Đoài dùng biến thuộc 28, lấy Khảm Cấn dùng biến thuộc 32. Hoàng cực có phép thông lệ riêng, mà ở ngoài khác phép thường, để làm rõ sự biến hóa vậy, đợi đính chính vậy.

Dương được âm mà sinh, âm được Dương mà thành, do vậy số Thi 4 mà 9, số quẻ 6 mà 10 vậy. Ví như thân và cành của cây cũng lẫn lộn vậy, Can làm thân cây lấy 6 chọn để hết, mà Chi làm cành cây lại lấy 5 chọn để hết, số Thi toàn thẻ dương 36 hợp 28 làm 64 vậy. Số quẻ bỏ 4, nên thẻ âm 24 cùng hợp 32 làm 56 vậy. 4 mùa chỉ ở 3 tháng, 1 tháng chỉ ở 30 ngày, mà đều bỏ số Thần (vì sao), bởi vì 8 lần 8 dùng quẻ 64 mà không biến đó là 8, còn khi dùng biến đó là 7 lần 8 làm 56, dẫu có chọn nghĩa cũng ở đây mà thôi.

Thi chọn dùng 49, dương 9 âm 4, dương được âm bèn sinh, rằng 9 được 4 bèn sinh Thi vậy, 4 đây là lưỡng (hai) đất dùng để gấp bội, 9 đây là tham (sen vào) trời dùng để nhân vậy. Quẻ chỉ dùng 60, ấy 6 với 10 ngờ ở không dương, mà 6 gấp bội trời 3 với dương cùng số. Cái lý 6 sẽ dùng dương, thành 10 sẽ dùng âm, nên nói âm được dương bèn thành là đúng vậy. Cho nên 4 mà 9 ấy là dụng số của Thi, 6 mà 10 ấy là dụng số của quẻ vậy. Còn như thân cây (Can) làm dương, cành cây (Chi) làm âm, cùng lẫn lộn giao nhau, số thân cây (Can) đều 5 mà ghi vòng khắp ở Tý-Dần-Thìn-Ngọ-Thân-Tuất, thời làm 6 Giáp, mà lấy 6 trọn để hết. Số cành cây (Chi) đều 6 mà nguyên thứ tự ở Giáp-Bính-Mậu-Canh-Nhâm dùng làm 5 Tý, thì lấy 5 trọn để hết. Nếu lấy Chi dùng 6 trọn để hết, Can dùng 5 trọn để hết, để nói dương được âm hoặc âm được dương sao? Đó là nhân lấy thuyết cũ mà bàn vậy, là ý 6 can lai lịch, 5 chi chia lìa như vậy.

Trộm lấy 5 sinh 5 thành, sinh làm số Cơ, thành làm số Sách. 4 bầy số sinh ở trong số Cơ, tựa như âm tiến đến dương vậy, huống chi Thi lấy 4 làm Cơ dương, làm Sách dương, 9 bầy số thành ở trong số Sách, thì dường như dương mà phụ về âm vậy. Phép của Thi lấy 9 làm chẵn, nên làm thẻ âm, lấy đó mà nói bảo rằng: 4 dương được 9 âm bèn sinh, 9 âm được 4 dương bèn thành. Còn lẻ được chẵn mà sinh, chẵn được lẻ mà thành, nên bảo rằng 4 mà 9, là nói về Thi đó vậy. Đức Thi tròn mà Thần vậy, như số quẻ 8 x 8=64, dùng chỉ 60, so sánh với Can-Chi cũng lẫn lộn, ấy 6 là nửa số Chi, ấy 10 là toàn số Can, ở phép quẻ 6 làm hào âm, 6 mà 10 đấy, tựa như lấy Chi theo Can, mà số can 10 tóm số Chi 2 x 6. Ở âm dương thì cùng đợi nhau, mà lý sinh thành chẳng thay đổi. Cho nên lấy ngay nghĩa 6 trọn 5 để mà minh chứng vậy, 5 là nửa 10, 6 mà 10, tới quẻ nói quẻ, đức quẻ vuông lấy trí vậy. Số tròn thông, số vuông định, thuyết này đã biện rõ rồi vậy.

Một năm 4 mùa, 1 mùa 3 tháng, 1 tháng 30 ngày, 4 mùa là số “thể” của 1 năm vậy, tháng 30 ngày là số “dụng” của 1 tháng vậy, “thể” tuy đủ 4 mà 1 thường không dụng vậy, cho nên dụng chỉ ở 3. Số “thể” thường chẵn như 4 hay 12, còn số dụng thường lẻ như 3 hay 9. Số to thường chẳng đủ mà số nhỏ thường đầy, là sao vậy? Đấy là số to thường không thể thấy, mà số nhỏ thường khá thấy, cho nên mùa chỉ ở 4, tháng chỉ ở 3, mà ngày đầy ở 10 vậy, ví như con người, chi thể 4 mà ngón tay có 10 vậy, cũng như phía trước, phía sau cùng tả hữu, cũng 4 vậy. Mặt trời lúc hiện lúc chìm ở Bắc, cùng cực ở 6 mà thừa ở 7, trời thể số 4 mà dụng 3, đất thể số 4 mà dụng 3, trời khác đất, đất khác trời, mà cái khác này là do phần dư của ngày và đêm dài ngắn có khác nhau vậy. Lấy trời 3 mà đất 4, trời có 3 Thần (sao) đất có 4 hành vậy, còn như hành Hỏa của đất lúc ẩn lúc hiện, là nguyên nhân tạo ra phần dư của ngày và đêm vậy.

Nói về thẻ Thi dùng 7 thừa 7, đều dụng số trời mà tôn dương, cho nên hợp số thẻ Thái dương với số thẻ Thiếu dương là 36 + 28 = 64 thẻ hợp với số quẻ là 64. Hợp số thẻ Thái âm với số thẻ Thiếu âm 24 +32 = 56 thẻ, là số quẻ toàn âm tóm nhau ở chính biến. Trời đất đều có 4 chính mà làm quẻ bất biến, nên chỉ ở 56 thì 8 bỏ 1, ấy 8 bỏ 1 là nghĩa bởi 4 bỏ 1 vậy, là bỏ số Thần vậy (sao). Trời có 4 mùa, mùa chỉ 3 tháng, tháng chỉ 30 ngày, đấy tức là Thiên Thần (sao) chẳng thấy. Càn Đoài Ly Chấn gồm 4 quẻ, mà chẳng dùng 1 đó là Chấn làm Thần vậy. Thế cho nên, mùa có 4, theo số thể tháng ngày đều dùng 3, theo dụng số và thể số đều đủ 4, dụng số bỏ 1, ấy 1 thường chẳng dùng, dùng chỉ ở 3, ấy 3 nhân thời 9, bởi vậy 3 tháng cộng 90 ngày mà thành 1 mùa, 1 năm 4 mùa mà chỉ dùng 3, bỏ 1 là lúc trời đất bế tắc mà thành mùa Đông vậy. Lấy 1 ngày mà nói, 3 giờ Hợi-Tý-Sửu, lấy 1 năm mà nói, 3 tháng Hợi-Tý-Sửu, đều ở số bất dụng vậy. Nên nói, thể số của trời đất đều 4, dùng ấy 3, chẳng dùng ấy 1, đây khá xem vậy.

Duy số có chia to nhỏ, mà to thường chẳng thấy đủ, nhỏ lại thường thấy đầy, nghĩa ấy ở đâu? To bao bọc mọi cái nhỏ, nhỏ dẫu đầy mà chẳng khá thấy, mọi cái nhỏ chia, to bao bọc to, không gì chẳng có thể thấy theo đầy vậy. Nên năm tóm mùa mà mùa chỉ 4, mùa tóm tháng mà tháng chỉ 3, đều chẳng đầy 10 ngày từ Giáp đến Quý bèn đầy 10 ngày vậy. Mùa như chi thể người chỉ có 4, ngày thì như ngón tay đầy 10, chi thể to mà ngón tay thì nhỏ, to chẳng thấy đầy mà nhỏ thường thấy đầy, nghĩa là như thế. Theo thể số 4 mà tóm bàn đều làm số lớn để xem, theo dụng số 3 mà phân tích bèn đều làm số nhỏ để xem, hay nói số lớn xem thể, số nhỏ xem dụng. Số dụng chẳng ra ngoài số thể, thực biết vậy.

Mở cửa Trời, thì âm đi vào mà Dương đi ra, theo đó ngày dần dần dài ra, đêm dần dần ngắn lại, khí hậu từ lạnh chuyển dần sang ấm nóng. Vào cửa Đất, nghĩa là Dương đi vào mà âm đi ra, theo đó thì ngày dần ngắn lại, đêm dần dài ra, khí hậu từ nóng ấm chuyển sang giá lạnh. Trời Đất đóng mở tạo ra giao khí giữa Thiên Địa, là đầu mối khí hóa âm dương vậy.

Nói dùng lấy 3 gồm Trời-Đất-Người, theo độ Trời ra vào ở Đất để mà xem vòng khắp độ Trời, nửa ở trên Đất, nửa ở dưới Đất, đều 182 độ nửa mạnh, lấy Nam-Bắc chia đều 91 độ, 4 phân độ dùng 1 nửa mạnh. Trời từ Nam đến Bắc cho cùng cực ra, mà đầy ở trên Đất ấy, trừ 36 độ ngoại, thì ở phía đầu Nam thường thấy, phía đầu Bắc thường ẩn, ẩn thì chẳng gồm được phần dư ở trên, do vậy ẩn chỉ cùng cực ở phần chính dùng 6, mà thấy gồm phần dư thời đầy dàn mà 7 vậy. Hà đồ 1 hợp 5 thành 6 ở Bắc thường u mờ chẳng thấy, theo số lấy 6 mà cùng cực. 2 hợp 5 thành 7 ở Nam thường sáng mà lợi thấy, Càn 2 dùng rằng thấy vậy, nói dư ở 7, theo số lấy 7, dự ở 6 cùng cực mà ra ẩn lấy thấy vậy. Cho nên muôn vật cùng thấy ở Ly, mà cùng về cất dấu ở Khảm. Đồ vua Văn và đồ vua Hy dùng 1 Trời đương Càn ở Nam, Thần (sao) âm tiếp Khôn ở Bắc, thuyết u mờ hiện thấy 6, còn 7 rõ như mắt thấy vậy. Đến như biết trước, tối sau, mà qua loa tả hữu, người đều bỏ 1 dùng 3 cùng Trời Đất không khác, cho nên lấy huống chi vậy. ôi, số Trời Đất đều thể 4 dụng 3, mà cùng nhau làm khác lẫn nhau. Trời khắc đất, ấy là phần Trời âm dương Thái Thiếu mà khắc đi Thiếu âm, cho nên Chấn chẳng dụng mà thiên thần (sao) chẳng thấy. Chấn âm nhiều mà không phụ phận Đất vậy, cho nên nói Trời khắc Đất. Đất khắc Trời, đó là phân Đất cương nhu Thái Thiếu khắc đi Thiếu cương, cho nên Tốn không dùng mà đất đá không sinh, Tốn dương nhiều mà trên phụ phận Trời, cho nên nói Đất khắc Trời. Lấy hai khắc cùng so sánh, mà Trời khắc ấy ở Đất, Trời không dùng mà về dùng Đất, Chấn còn nạp ở Khôn, như Trời chủ về ngày, Đất chủ về đêm, bớt phần dư dương ở ngày, mà chuyển hết về phần đêm, như Tý, Sửu, Dần về phần ngày mà vẫn còn ở giờ đêm dày chưa hết, ấy phần ngày dùng theo tài thành, đến phần đêm dùng theo chịu. Đó là Trời dương dùng 3, nhật-nguyệt-tinh hiện ra mà “thần” ẩn, 3 ngôi sáng đều hội ở “thần”, nên Trời dụng 3 “thần”. Như Đất tuy khắc Trời, bỏ Tốn không dùng, thì cũng không thể nói bỏ phần dư sáng sớm mà về ở ngày, Đất tuy bỏ Tốn mà thủy-hỏa-thổ-thạch, 4 ấy đều đi, đó còn khá thấy, mà không phải thiên thần (sao) dùng ẩn mà chẳng thấy, ví vậy. Đất thấy 4 hành, dẫu thấy rất rõ mà không ẩn, mà dấu ở đó với trong cây, hoặc nửa hiện nửa ẩn, đương khi dùi cây đánh đá để lấy, làm dũng rất nhiều, dẫu như Chấn thần (Sao) ở đêm theo thần vậy thay.

Trời dùng biến 6, 6 theo 6 được 36, làm Càn 1 hào dùng thẻ, chứa số 6 hào cộng được 216. Đất dùng thể 4, 6 theo 4 được 24, làm Khôn 1 hào dùng thẻ, chứa số 6 hào, cộng được 144. Theo 2 lệnh dùng thẻ, bèn 1 vạn 1520 (360x32). Nói về thể thời Trời chia mà làm Đất. Đất chia mà làm muôn vật, mà Đạo thì không thể chia. Theo trọn cùng thời muôn vật về Đất, Đất về Trời, Trời về Đạo, bởi vậy mà quân tử quý Đạo. Nói Đất dùng thể 4 là nói Đất dùng thể gấp đôi làm 4.

Lấy 32 làm số của thiên thần (Sao) Chấn, thì số của Càn là 216 x 32= 6912, số của Khôn là 144 x 32= 4608, hợp cả được 11520 là số thông chứa đổi, thẻ trên dưới 2 thiên, đều hết ở đây vậy. Nói về hợp 2 số Lão sách, theo 2 thiếu 32, nhân theo số thẻ còn ấy vậy, nhưng Thiếu tóm ở Lão, dùng Lão mà không dùng Thiếu, lấy số này mà đương với số của muôn Vật. Càn cha Khôn mẹ tượng Trời-Đất, 2 Thiếu tóm 3 trai 3 gái, tượng muôn Vật, đều gốc ở Thái cực trong khoảng động-tĩnh 1 âm 1 dương dùng bởi Đạo, tức là theo số để nói về thể vậy, thời Trời 3 chia đôi làm Đất, cho nên Trời 9 Đất 6, Trời 36 Đất 24, đều 3 phần chia 2, Đất tiếp theo ở phận Trời, trước gấp 3 gấp 4 cũng 9 đấy, cho nên nói rằng Trời chia mà làm Đất, theo sinh muôn Vật thời Đất tiếp theo Trời, mà lại chia các số theo chịu đôi, tùy ở Thái, Thiếu, Cương, Nhu, diễn ấy làm vạn, cho nên nhà trước ấy là Càn, nhờ sinh ấy là Khôn, đất chia mà làm muôn vật, theo đây thì biết vậy. Thẳng nhanh chóng thì Hà đồ Trời 1 chia làm Đất 2, đại diễn chia 2 ấy là tượng đôi, gồm treo 1 nhặt 4 về lẻ, treo thẻ dùng 49 mà doanh lấy 18 lần biến, số muôn vật Trời-Đất tóm đủ ở đây. Lấy thứ bậc theo thứ tự mà nói, đến sinh Vật 1 âm dương, âm dương 1 Thái cực, Thái cực tức là Đạo, khá chia ấy số trong Đạo, chẳng khá chia ấy Đạo trong số, tán khác thời muôn vật, muôn cực toàn thế, thời muôn vật 1 cực vậy, lại chia gì du! đại diễn rỗng 1 để ẩn tàng dùng, Đạo cố nhiên còn ở trong đó vậy, nên nói dùng trọn dùng xét sau muôn vật chứa số 2 thiên trên dưới, về ở Khôn số thẻ 24 mà dùng 6, về ở Càn số thẻ 36 mà dùng 9 vậy, đó là số về của Càn Khôn đều 4 thể vậy. Số Trời thẻ 36 tóm mà về ở trống rỗng 1 là số tàng ẩn, dùng mà thấy với cực làm thể dùng Đạo, bèn biết Đạo ở giữa 1 động 1 tĩnh, số khá suy mà xét, số chẳng khá hết, đồ bầy ra mà xét, đò chẳng khá tìm, quân tử quý đấy, nói chẳng lìa ấy vậy.

Biết 3 theo 4 là 12 vậy, 2 theo 6 cũng 12 vậy, 2 theo 12 là 24 vậy, 3 theo 8 cũng 24 vậy, 4 theo 6 cũng 24 vậy, 3 theo 12 là 36 vậy, 4 theo 9 cũng là 36 vậy, 6 theo 6 cũng là 36 vậy, 4 theo 12 là 48 vậy, 3 theo 16 cũng là 48 vậy, 6 theo 8 cũng là 48 vậy, 5 theo 12 là 60 vậy, 3 theo 20 cũng là 60 vậy, 6 theo 10 cũng là 60 vậy, đều là phép tự nhiên vậy.

Lão dương số lẻ dùng 4 đều lấy 12 nhân lên, ban đầu lấy 3 theo 4, 2 theo 6 đều 12; 4 theo 6, 3 theo 8, 2 theo 12 đều là 24; 4 theo 9, 6 theo 6, 3 theo 12 đều là 36; 6 theo 8, 3 theo 16, 4 theo 12 đều 48; 3 theo 20, 5 theo 12, 6 theo 10 đều là 60. Đố đều là phép tự nhiên. Năm 12 tháng, 24 khí, tháng lại đều 30 ngày, 1 từ 6 khí, 1 khí 6 biến, nhặt thẻ Thi trừ treo thời 48 thẻ, 8 vị đều 8 quẻ gồm 48 hào, 6 Giáp 5 Tý vòng quanh ghi 60, tất thảy theo đây mà định số.

Lấy suy cơ “tham - lưỡng”, ỷ số nói 4 cùng 9 và 6 cùng 6, mà Lão dương thẻ chỉ nói 4 theo 9, không nói 6 theo 6, đó là dương dùng 9 vậy. 9 lấy dương, 6 gồm âm, nửa của 6 để mà dùng đó vậy. Quẻ biến 1 Trinh 3 Hối, quẻ dưới Trinh làm quẻ gốc, quẻ trên Hối làm quẻ biến. Quẻ biến trước 4 vị, làm trời gồm 4 quẻ Càn-Đoài-Ly-Chấn. Quẻ gốc sau 4 vị làm đất gồm Tốn-Khảm-Cấn-Khôn. Lão dương quẻ Càn thể trùng 8 x 3 là 24 vạch dương (Thuần Càn, Trạch Thiên, Hỏa Thiên, Lôi Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên, Sơn Thiên, Địa Thiên, tổng hào dương quẻ trên là 12, hào dương quẻ dưới là 24, đây là cốt lõi của mọi thuận toán), gồm thể ngoài 8 quẻ có 12 vạch dương, hợp cả thể trong thể ngoài là 24 +12 là 36, theo thể trong vốn 24 hào dương, 6 theo 4 dùng rằng dương, 6 theo quẻ biến, 6 mà lưỡng đấy, tức 6 mà 2 đấy, chỉ làm âm 6 dùng nửa, bèn hợp 9 theo 4 của quẻ biến mỗi 1; 6 thêm 3 làm 9, 4 theo 6 đều thêm 3 vào thì được 4 x 9 làm 36, 3 này là nửa của 6, 6 gồm 3 làm 9. Số Khôn sao 1 lại không như vậy? Khôn dùng 6 vị làm Càn, gồm biến thể trên về vị thứ, trừ hào Sơ và hào Thượng, chỉ còn 24 thẻ, không phải 9 là khá nói vậy. Lấy thể trên dưới 2 quẻ chính biến mà nói, hào đều 3 âm 3 dương, ngôi vị Sơ- 3-5 là của dương, ngôi vị 2-4-Thượng là của âm. Phàm làm 6 hào 6 vạch, thì hào 5 hào 6 là Trời, hào Sơ hào 2 là Đất, hào 3-4 là Người, nói quẻ 3 vạch thì hào 3 hào 6 là Trời, hào Sơ hào 4 là Đất, hào 2-5 là Người, đều gồm 3 tài mà đôi đấy, cho nên đều 2 vậy. Tóm mà nói, trong âm dương 2 nghi đủ 3 tài, Trời-Đất-Người đều có đủ ở trong âm dương. Trời-Đất-Người đều đủ 3 tài, đủ 2 nghi âm dương đều có ở trong Trời-Đất-Người vậy. Rằng 2 quẻ âm dương đều 3, đôi mà ỷ (dựa) 3, rằng 6 hào, Trời-Đất-Người đều 2, tham (sen) mà ỷ đôi. Rằng âm dương đều có Trời-Đất-Người, đôi mà ỷ 3. Rằng Trời-Đất-Người đều có âm dương, 3 mà ỷ đôi, đó là thuyết tham lưỡng ỷ số vậy.

Xét quẻ 6 vạch, thì vị trí hào 1-3-5 là trên Trời, vị trí hào 2-4-6 là dưới Đất, như vậy Trời-Đất đều gồm 3. Người có đủ ở Trời-Đất, bèn gồm 4 khi bỏ hào Sơ và hào Thượng, trong đó hào 3-5 nửa hợp Trời, hào 2-4 nửa hợp Đất. Có thể nghĩ Người ở trong khoảng Trời-Đất theo để mà lập cùng Trời-Đất vậy.

Nói về “hào số”, thì “dương thất chi tĩnh thủy vô Khảm”, “dương thất” chỉ hào Dương trong quẻ Khảm vì là số 7, số 7 là số Thiếu dương, là số khởi đầu dương số. “Dương cửu chi động thủy vô Chấn”, dương cửu là hào Dương trong quẻ Chấn vì là số 9, số 9 là số Dương thịnh tới cực. “âm bát chi tĩnh thủy vô Ly”, âm bát chỉ hào âm trong quẻ Ly vì là số 8, là số Thiếu âm, là khởi đầu của số âm. “âm lục chi tĩnh thủy vô Đoài”, âm lục là số chỉ vào hào âm quẻ Đoài, là số 6 là tinh túy của âm, là số cực âm.

Dương số 1 dưới diễn đấy mà 10 là loại 10 Can. âm số 2 diễn đấy mà 12 là loại 12 Chi. 10 Can là Trời vậy, 12 Chi là Trời-Đất vậy, Can-Chi sánh Trời-Đất đều dùng vậy. Cán có nghĩa là Cán (thân cây) là dương vậy.Chi có nghĩa là cành, là âm vậy. (Một thân cây gọi là dương, nhiều cành tán gọi âm). Can 10 Chi 12 đó là trong số dương có âm, trong số âm có dương vậy. 1, 10, 100, ngàn, vạn, ức,… làm Cơ (lẻ), số Trời vậy. 2, 12, 20, 12 trăm, 20 vạn, 12 ức, … làm chẵn, số Đất vậy. Thi 4 tiến đấy thời trăm, quẻ 4 tiến đấy thời trăm 20 (120). Trăm thời 10, trăm 20 thời 12 vậy.

Số dương 1, số âm 2, 10 Can thời 1 diễn mà 10, Giáp đến Quý là loài tuần ngày vậy. 12 Chi thời 2 diễn mà 12, Tý đến Hợi là loại 12 tháng vậy. 10 đôi theo 5, 12 gấp bội theo 6, Can làm Trời, Chi làm Đất, mặt Trời thì Sao là dương sánh Can, mặt Trăng thì Thần là âm sánh Chi, Trời-Đất đều dùng vậy. 10 số Can thì Giáp-Bính-Mậu-Canh-Nhâm là 5 Can dương, Ất-đinh-Kỷ-Tân-Quý là 5 Can âm, đó là trong số dương có âm. 12 số Chi thì Tý-Dần-Thìn-Ngọ-Thân-Tuất là 6 Chi dương, Sửu-Mão-Tị-Mùi-Dậu-Hợi là 6 Chi âm, đó là trong số âm có dương. Tới Can-Chi mà Trời-Đất dùng 5-6 số giữa lập dùng số thấy vậy. Do vậy mà có thể diễn tới vô cùng, biết 1 diễn mà 10, 10 diễn mà 100, càng diễn tới vô cùng thì vẫn không lìa 10, số 1 và số 10 lần lượt tích lũy, vốn số trời mà lẻ vậy. 2 diễn mà 12, 12 diễn mà 120, càng diễn tới vô cùng đều dùng gồm 2, đều chẳng lìa 1 với 12 lần lượt tăng thêm, vốn số Đất mà chẵn vậy. Số Trời 25, Thi 4 tiến được số Trời là 100, số Đất 30 thẻ, Thi 4 tiến số Đất là 120. Như vậy, 100 coi là 10, 120 coi là 12, diễn ra đấy càng nhiều, giữ lấy đấy thì càng buộc lại vậy.

Số 50 chia đấy thời làm 5 theo 10, khi tham dùng lưỡng đấy thời làm 6, đôi Đất lại lưỡng đấy làm 4, đó là Trời-Đất chia số Thái cực vậy. Khí này là nhà của Thần vậy. Thể ứng là nhà của Khí vậy. Khí lấy 6 biến, Thể lấy 4 chia, Thể 4 mà biến 6, bao gồm thời cùng Khí vậy. Khí biết tất là 6, cho nên là 360 vậy.

5 là nửa 10; 10 là gấp của 5, thông 5 cùng 10, 10 mà 5 cùng 5, không gì chẳng phải 10, phương Chi 1 với 9, 2 với 8, 3 với 7, 4 với 6, có 1 chẳng hợp làm 10 sao? Như lưỡng theo tham Trời thì làm 6, lưỡng theo lưỡng Đất thì làm 4, hợp Trời cùng Đất theo đôi số, đều lấy động-tĩnh chia Thái cực dùng thành số. Thái cực rỗng ở giữa. 50 tức theo số vậy. Rỗng 1 không dùng, theo diệu mà dùng như vậy là rất mực vậy. Khi nói dùng 6 với 4, lại gồm dùng nghĩa với Thể. Khí dương làm Trời là nhà của Thần, mà Thần là Khí linh diệu nơi biến hóa. Thể âm làm Đất, lại là nhà của Khí vậy, Khí làm Thể nơi chỗ lưu động đầy đủ vậy. Khí tuy là nhà của Thần, khi biến lấy 6, 6 gấp Thiên tham, Càn vận 6, 6 mà biến vòng khắp. Thể tuy là nhà của Khí, theo chia lấy 4, 4 gấp Địa lưỡng, Khôn chứa 4, 4 mà chịu thành vậy. Cho nên, 6 Khí Trời lấy thần diệu muôn vật mà buổi trăng ứng đấy 4 Thể. Đất lấy Khí hợp, tiếp Trời mà vật tượng nhân đất, xét đấy. Lấy Thể cùng Khí gồm vậy, nên Khí biến, tóm lấy 6 vòng khắp, 6 nhân theo 6 mà 1, 10, 100, 1000 đấy, tuy trải 360 vận còn như 360 ngày vậy.

Trời 6 Đất 4. Trời lấy “khí” làm “chất”, lấy “thần” làm “thần”. Đất lấy “chất” làm “chất”, lấy “khí” làm “thần”, duy Người có đủ gồm muôn vật mà làm muôn Vật dùng thông, nhe tiếng chim muông lấy theo loài mà điều bầy đều theo 1, chẳng gì chẳng hay đó là Người vậy. Suy đến việc khác cũng chẳng việc gì chẳng thế, duy Người được Trời Đất giao cho để chịu mệnh, còn tất cả các loài khác thì không vậy. Đời người thực nói là rất quý vậy. Trời Đất cùng theo quý mà không tự quý là trái với lẽ của Trời Đất, sự chẳng lành chẳng gì to bằng vậy.

Lại nhân đồ tròn 6 theo 4 mà nói, Trời gấp “tham” mà 6, Đất gấp “lưỡng mà 4. “Khí” lấy 6 biến, tuy là nhà của “thần”, Trời nổi lên trên mà “khí” chuyển làm “chất”, “thần” ứng vi diệu theo để dụng nên lấy “thần” làm “thần”, chết ở trong mà “thần” lấy làm thiêng đó vậy. Thể lấy 4 phần, là nhà của “khí”, Đất ngưng đọng xuống dưới mà “chất lấy làm “chất”, “khí” lưu hành theo để biến hóa, nên lấy “khí” làm “thần”. Do đó, “chất” lấy làm thực, “khí” lấy làm hư vậy. Càn tư thủy, nên “thần” dụng “thần”, Khôn tư sinh nên “khí” dụng “thần”. Cho nên loài Vật có vạn Trời vạn Đất, mà “thần khí” trọn vẹn duy chỉ có loài người. Vậy Xuân mà loài Người thiêng, tiếng thú đều hay 1, mà Người không gì không hay biết, mọi việc khác đều thế. Ở loài khác, khi gốc ở Trời mà chia bẩm thụ ở mặt Trời dương thì ở âm thường chẳng đủ. Còn khi gốc ở Đất mà chia bẩm thụ bên trong âm thì ở dương thường chẳng đủ vậy. Người thì hợp Trời Đất, mặt Trời dương mặt Trăng âm cùng giao nhau biến hóa, mà gồm được lấy làm dùng, cho nên 1 hay “không” theo chẳng hay, coi loài khác dùng sinh quý như thế nào đây. Trời Đất sinh Người, cùng lấy rất quý, chẳng tự quý mà cam hạ xuống cùng với Vật, đó là trái với lý sinh, há chẳng phải bất tường dùng to lớn du! Cho nên, quân tử dẫm lên “tình”, trở lại “tính” dùng làm quý vậy.

âm không 1, dương không 10, dương không 10 cho nên không đủ ở sau, âm không 1 cho nên không đủ ở đầu.

Trời khởi ở số “1” trước tiên, Đất bắt đầu khởi ở số “2” làm đầu, cho nên âm không có số “1”. Số Đất sau cùng là 10, số Trời sau cùng là 9, cho nên dương không có 10, không 10 thì 1, 3, 5, 7, 9 là số không đủ ở sau, không “1” thì 2, 4, 6, 8, 10 là số chẳng đủ ở đầu. Việt Châu bàn: trước không nói 1, còn lấy đấy để làm “thể”, sau không nói 10, dấu đi lấy đấy để làm “dụng”. 10 dùng sau cũng như 1 dùng theo trước, như đồ quẻ Phục thì 1 dùng trước cũng như 10 theo sau ở đồ quẻ Khôn vậy, trước sau dùng hội Trinh nguyên cùng giao, theo 1 động 1 tĩnh mà dùng ở khoảng giữa. Điều này như ở ngoài ý gốc, sẽ sinh giải vậy.

Tham hàng ngũ lấy biến, lẫn đầu theo số mà Trời Đất xung nhau, ngày đêm giao nhau. Số “1” này là số đầu mà chẳng phải số vậy, cho nên 2 với 2 mà làm 4, 3 với 3 làm 9, 4 với 4 làm 16, 5 với 5 làm 25, 6 với 6 làm 36, 7 với 7 làm 49 đó là đều dùng theo biến. Số đại diễn là gốc của toán pháp sao? Lấy tóm số dùng khai triển lên chẳng qua ở vuông tròn cong thẳng vậy, số trừ là số tiêu vậy. Toán pháp dẫu nhiều chẳng qua dùng ở đây vậy.

Bầy Hà đồ số Trời Đất mà tỏ rõ sen hàng lấy biến, lẫn lộn hợp cả theo ganh đua để mà dùng. Số trời đất với số cùng xung nhằm ngày đêm cùng biến, cùng giao nhau. Xung ấy là trước sau biến mà khẩn tiếp. Giao ấy là kia với đây hợp mà cùng đắp đổi nhân lên. “Tham” thì trời 1 đất 2 liền hợp, hàng ngũ thì 1-4 hay 2-3 dùng đắp đổi gồm tính, bởi thế mà “tham” nhân hàng ngũ nhân lên làm lẫn lộn làm hợp cả lại, số “không” chẳng cùng cực, biến “không” chẳng thông, theo mà chẳng biến ấy là “1” vậy, “1” làm số dùng đầu là lấy số sinh tóm số, mà chẳng phải khá lấy số mệnh vậy. Cho nên một vật chẳng rằng số vật 1, 1 như 1 vậy. Từ 1, 1 trở lên 2, 2 rồi 3, 3 rồi 4, 4 rồi 5, 5 rồi 6, 6 rồi 7, 7 nhân mà nhân lên đấy, làm 4, làm 9, làm 16, làm 25, làm 36, làm 49, chẳng phải số dùng chửa theo biến vậy. Phàm cất lên Trời 25 số, Càn số sách là 36, đại diễn dùng 49 số, quẻ 64 số, Tỉnh Nguyên phạm 81 số, đều tùy sở dụng dùng biến, mà lần lượt đủ vòng khắp vậy. Bèn biết 1 chẳng biến, là thể tóm dương vậy, sau 1 trở lên đều biến, dùng để hợp với âm vậy. Đại diễn rằng 1 phân, đôi treo 1 đếm 4 về lẻ, hợp đốt ngón tay mà dùng 49 thẻ, biến hóa suy Trời theo tức là gốc toán pháp vậy. Lấy vuông tròn vòng kính (lối tắt) vẹo, thẳng, câu, huyền, toán phép nhiều ít, số chẳng qua ấy. Theo nhân lên thời sinh, trừ thời tiêu, số thực có phép, coi đấy làm dùng, bỏ đây thời biệt, không bởi đâu toán vậy.

Dương tôn mà thần, tôn cho nên soi được vật, thần cho nên dấu được cách dùng. Lấy đạo sinh Trời Đất muôn vật, mà không tụ thấy. Trời Đất muôn vật cũng lấy phép dùng đạo, dương là đạo chưng dùng, âm là đạo chưng thế. Dương dùng âm, âm dùng dương. Khi lấy dương làm dùng thời tôn âm, lấy âm làm dùng thời tôn dương.

Trời dương thể tròn rất tôn mà nhà ở thần, vì tối đất thấp mà nhà ở khí đó vậy. Khi tôn như vậy thì vật đều bị sai khiến. Càn sai khiến Khôn cùng với 6 Tý, mà mặt Trời sai khiến chẳng cùng Tinh Thần, khi Thần vậy dấu dùng, Khôn cùng 6 Tý dấu cách dùng ở Càn, Nguyệt cùng Tinh Thần dấu cách dùng ở nhất Nhật đó vậy. Sai khiến vật mà các loài ứng theo, theo rõ rệt điều nhân đợi nói. Dẫu như dùng thời về theo ở đạo Thái cực, trời đất muôn vật, đều gốc ở đạo sinh ra, mà dấu cách dùng mà chẳng tự thấy, đó là nhà ở thần diệu mà cấp ngàn vạn vậy. Bèn biết dấu cách dùng là cái gốc sai khiến vật. Trời Đất dùng to, muôn vật dùng yên, phạm vi khúc thành, ít chẳng phải lấy phép ở đạo vậy. Đạo cùng làm cách dùng dương đạo 1 mà thôi. Tự theo chia mà nói, âm làm Thể mà dương làm Dụng, mà lần lượt dùng giao tôn âm Dương, Nguyên hợp Chấn đến Đoài đều dùng Dương, âm trên Trời tôn âm, từ Tốn đến Cấn đều dùng âm, trên Dương thời tôn Dương. âm vốn thấp mà sai khiến ở Dương, ở dấu cách dùng, thời có lý tôn âm. Dương vốn tôn mà sai khiến ở âm, tuy Dương ở dấu cách dùng, thời càng thấy thực lý tôn Dương. Cho nên sai khiến vật lấy dùng âm vậy, dấu cách dùng là để tôn Dương vậy.

âm ngõ hầu ở Đạo, đó là lấy cảnh hướng tới Đạo, 6 biến mà thành 36, 8 biến mà thành 64, 12 biến mà thành 384 cũng như 49 biến mà thành 384 vậy.

Đạo hợp âm Dương mà Dương rõ rệt còn âm lại dấu, dấu mà chẳng thấy Đạo không khá trỏ, song âm tĩnh lấy thai, Dương dùng động âm thể lấy ý kín Dương chưng dùng, theo ngõ hầu ở Đạo vậy. Cũng rõ rệt vậy, cho nên Đại diễn lấy số chẳng dùng bỏ dùng, cảnh huống đấy, phương cho dùng Đạo vậy. Tới Thi sách quái biến mà nói, Đạo tức là số mà còn, theo 6 biến, 7 biến, 8 biến, 12 biến, 49 biến, 64 biến, biến với biến nhận lên nhau không chẳng phải Đạo càng biến mà càng có, bèn lấy thành 36, 47, 64, mà số đếm thì Càn sách gồm cả quái số, hào số, không gì chẳng đủ vậy. Ấy lại số với số cùng chức, cùng lấy cảnh huống Đạo dùng, càng diễn mà càng vô cùng vậy, mà gốc ở theo Đạo dùng theo khắp biến ấy, dương làm chưng dùng đều có chẳng biến ấy, âm làm chưng thể vậy. Cho nên âm ngõ hầu theo Đạo vậy.

Dương chẳng thể đứng một mình, tất được âm mà sau đứng. Cho nên Dương lấy âm làm nền. âm chẳng thể tự thấy, hẳn đợi Dương mà sau thấy, cho nên âm lấy Dương làm sướng, Dương biết theo đầu hướng theo tới thành, âm bắt chước phép ở Dương mà trọn theo công lao.

Độc Dương chẳng đứng, lấy âm làm nền, âm một mình chẳng thấy, đợi Dương bèn sướng, lẻ chẵn cùng dựa nhau, thể dụng cùng nên nhau. Cho nên, Càn biết trước mà hướng Khôn dùng thành, là được âm vậy. Khôn bắt chước mà trọn công lao Càn, là âm theo Dương vậy. Xem Trời từ Lâm trở lên, xem Đất từ Độn trở xuống theo tượng, nên du! Trời lấy Thái biến Tỉnh, Đất lấy Tỉnh biến Thái, theo sướng dùng tượng du!

Dương hay biết mà âm chẳng hay biết, Dương hay thấy mà âm chẳng hay thấy. Hay biết hay thấy ấy có làm cho nên tính dương “có” mà tính âm “không”. Dương có theo chẳng lệch, mà Am không theo cũng chẳng lệch. Dương có đi mà âm thường ở, “không” chẳng lệch mà thường ở ấy làm thực, cho nên thể của Dương thường hư mà thể của âm thường thực vậy.

Tính Dương sáng, tính âm mờ. Sáng thì hay biết, hay thấy mà rõ rệt cách dùng, rõ rệt “có”. Mờ thì chẳng hay biết, hay thấy, mà dấu cách dùng “không”. Cho nên rõ nhân là Dương, mà dấu cách dùng là âm. Nhưng Dương lấy biết làm trước, âm lấy tác thành làm trước, lấy mờ dùng thành mà chửa xét theo thành, cho nên có theo cũng chẳng lệch, thành lấy hết mà dùng trước, mà đã thâu tóm theo trước, cho nên không theo chẳng lệch Dương tạo ra “có” mà mới, mới mà ráo đi cũ, thời “có” bỏ đi vậy. âm giữ “không” mà cũ, cũ mà ngậm mới, thời thường ở vậy. Vì dùng làm thể ở, Dương động mà làm khách, âm tĩnh mà làm chủ. Thực rằng ấy, nhà khí lấy thể thấy làm hư mà thể thực làm thuộc vậy. Theo “không” chẳng lệch mà thường ở ấy phải du! Hư rằng ấy, nhà thần lấy khí thấy làm thực, mà thực lại hư vậy, theo “có” chẳng lệch, mà “có” đi ấy phải du! Nếu Thần thời Nhật Nguyệt Tinh dùng theo trải, “không” theo chẳng lệch, mà thường Tinh lấy ở Nhật Nguyệt Tinh tượng “có” mà thể hư, Thần thời tượng “không” mà thể thực, song Nguyệt cũng thể âm, mà cùng với Nhật Tinh đồng ấy là đồng ở Trời chưng dùng mà Thần thời chẳng dùng chưng thể, cho nên chuyên nói tới Thần vậy.

Khí biến mà Hình hóa, Hình có thể chia, mà Thần không thể chia. Dương sinh âm cho nên Thủy thành trước. âm sinh Dương cho nên Hỏa thành sau, âm Dương cùng sinh vậy, thế Tinh cùng đợi vậy. Ấy lấy Dương đi thời âm kiệt (hết), âm hết thời Dương diệt. âm đối Dương làm 2, song Dương đến lại thời sống, Dương đi thời chết. Trời Đất muôn vật sống chết chủ ở Dương thời về đấy dùng 1 vậy.

Nói về biến hóa, thì có chia Khí với Hình, Khí dương thuộc Trời, biến là Khí thuộc Trời, lấy vật theo biến. Hình âm thuộc Đất, hóa là Hình thuộc Đất, lấy vật để hóa. Cho nên, Nhật Nguyệt Tinh Thần thành tượng ở Trời, đó là đều ứng với Khí dùng biến. Thủy Hỏa Thổ Thạch thành chất ở Đất, đó là đều theo Hình dùng hóa. ông Việt Châu lấy thượng quái biến thuộc về Khí, còn hạ quái biến thì thuộc về Hình. Biết lại 1 thấy vậy. Song Khí ấy là nhà Thần, Khí biến thành Hình mà Thần đủ vậy. Hình thì có thể phân chia, như Ngũ hành đều thành mà Hình có thể phân chia mà gọi đấy. Thần thì chu lưu mà không thể phân chia, cũng như Ngũ hành chưa thành Hình trở về trước, cùng thành Hình trở về sau, không gì không phải 1 Khí ấy gây nên đi quanh ở trong, thần diệu mà chẳng phải bởi đâu phân chia ra vậy. Kia 1 lấy 4 biến, Hình phân chia mà Thần hợp, theo khá biết vậy. Thử xem Thủy Hỏa đã thành, cái nào trước cái nào sau, bèn lấy cái cớ âm Dương đợi nhau, Dương sinh ở âm, trước thành là Thủy, âm sinh ở Dương, sau thành là Hỏa. Thủy dùng sinh lấy ở Trời 1, Hỏa dùng sinh lấy ở Đất 2, Thủy đã thành lấy ở Đất 6, Hỏa đã thành lấy ở Trời 7. Như vậy, 1 với 2, 6 với 7 mà trước hay sau chẳng đợi phải nói, bèn biết âm làm Thể, Dương làm Tính, âm cũng sinh Dương, Thể đợi Tính, Tính cũng đợi Thể, cả đôi chẳng thể thiếu nhau. Nếu Dương đi là có Thể mà không có Tính, theo đó mà xét, âm lấy kiệt mà âm hết, nếu âm hết là có Tính mà không có Thể, Thể xét vậy Dương lấy diệt, ấy cho nên động tĩnh đổi gốc sinh thành Đạo để dùng, hết thảy đều đầy đủ ở số vậy. Đạo để dùng nói rằng: âm Dương đều 1 vậy, lấy âm đối Dương thì làm 2, mà sở chủ duy nhất Dương, Dương tôn mà Thần lấy để sai khiến âm đó vậy. Cho nên, Dương lại (đến) Phục, muôn vật quay về sinh, Dương đi hết thì muôn vật tới chết, hợp Trời Đất là hợp sinh với thành, muôn vật biến và hóa, theo sống và chết đều là 1 chủ ở Dương đến hay đi, dẫu có 2 mà quy về ở 1 đó vậy.

Trong Dương là dương Nhật vậy, trong Dương là âm Nguyệt vậy, trong âm là dương Tinh vậy, trong âm là âm Thần vậy, trong Nhu là nhu Thủy vậy, trong Nhu là cương Hỏa vậy, trong Cương là nhu Thổ vậy, trong Cương là cương Thạch vậy. ôi, 4 tượng ấy nếu lẫn lộn với nhau mà dùng đấy, Nhật Nguyệt là âm Dương của Trời, Thủy Hỏa là âm Dương của Đất, Tinh Thần là Cương Nhu của Trời, Thổ Thạch là Cương Nhu của Đất. Trăng ban ngày khó thấy, nên làm âm ở trong Dương, Tinh ban đêm khó thấy, nên làm Dương ở trong âm. Mặt Trời thấy ở ban ngày, mặt Trăng thấy ở ban đêm, mà nửa chẳng thấy là sao vậy? Tinh (sao) nửa thấy ở đêm, là bậc sang hèn vậy. Mặt Trời theo bầu Trời mà chuyển, mặt Trăng theo mặt Trời mà đi, Tinh (sao) theo mặt Trăng mà thấy. Cho nên, Tinh (sao) bắt chước mặt Trăng, mặt Trăng bắt chước mặt Trời, mặt Trời bắt chước Trời. Trời nửa sáng nửa tối, mặt Trời nửa đầy nửa thiếu, mặt Trăng nửa đầy nửa khuyết, Tinh (sao) nửa động nửa tĩnh, đó là ý nghĩa âm Dương vậy. Trong Dương có âm, trong âm có Dương, đó là đạo Trời vậy. Trong Dương dùng mặt Trời dương là đạo nắng đó vậy, trong Dương dùng âm vậy, lấy theo Dương dùng loại, cho nên thấy nắng ở ngày. Trong âm dùng Dương là Tinh (sao) vậy, sở dĩ hay thấy ở đêm, trong âm dùng âm là Thần vậy. Trời Đất vậy, Thần số 12 (1 với 2) Nhật Nguyệt giao hợp, rằng là thần thần, Thể Trời đó vậy, Thể của Trời là Khí không có Vật đó vậy, Tinh làm mặt Trời theo, Thần làm mặt Trăng theo.

Trong Thiên, Thái dương làm mặt Trời, đó là Dương trong Dương, Thái âm làm mặt Trăng nên làm âm trong âm, Thiếu dương làm Tinh đó là Dương trong âm, Thiếu âm làm Thần đó là âm trong Dương. Càn Đoài đều 4 tượng dùng Thái dương, Càn 1 Đoài 2 mà Đoài làm mặt Trăng, là âm đẹp ở trong Dương, lấy chia ở ngang cắt nửa trên Thiên dương, cho nên Đoài làm âm ở trong Dương Càn. Ly 3 Chấn 4 tượng dùng Thiếu âm, mà Chấn làm Thần, là âm ẩn ở trong âm, lại chia ở ngang cắt nửa ở dưới Địa âm, cho nên Chấn làm âm ở trong âm Ly. Đến Khôn Cấn cúng làm 4 tượng dùng Thái âm, ở Đất nói rằng Thái nhu mà Khôn 8 Cấn 7, lại chia cương với nhu làm Thủy làm Hỏa giống như Càn Đoài vậy. Khảm Tốn đồng làm 4 tượng dùng Thiếu dương, ở Đất nói rằng Thiếu cương là Khảm 6 Tốn 5, trong cương lại chia cương với nhu làm Thổ làm Thạch, giống như Ly Chấn vậy. Tuy Dương dùng nội Thiên có khác đôi chút, mà theo bên trong mà biệt bạch gãy gọn vậy. Cho nên suy ra nói 4 tượng chưng dùng, lại như có lẫn lộn dùng biến Càn mặt Trời, Đoài mặt Trăng thuộc Trời, trong Dương dùng Dương, cùng với âm là Khôn thủy Cấn hỏa, lấy Đất theo Trời, thì cũng thuộc Đất. Trong âm dùng Dương, trong âm có Ly làm Tinh, Chấn làm Thần đều thuộc Hỏa, trong Dương dùng dương Cương mà âm Nhu, Khảm làm thổ Tốn làm thạch, đó là lấy Trời coi Đất, thì tự thuộc Đất. Trong âm dùng dương Cương mà Nhu âm, đó là đạo lập nên Trời, nói rằng âm với Dương mà Cương với Nhu đã đủ. Đạo lập nên Đất nói rằng Nhu với Cương mà âm với Dương đều còn, cho nên có thể nói rằng giao cùng lẫn mà hợp lẫn lộn với nhau, không có gì khác là trong Trời có Đất, trong Đất có Trời. Lại suy cho tỏ tường, ngày là Dương, mà mặt Trăng cũng có thể thấy, đó là âm đẹp ở trong Dương. Đêm là âm, mà Tinh có khi mới thấy có khi không thấy, đó là Dương thấy ở trong âm. Duy Trời ngày Dương đêm âm thì lúc nào cũng vậy, không lúc nào chẳng thấy như vậy, mặt Trời thì thấy ở ngày, mặt Trăng thì thấy ở đêm, nửa chẳng thấy này thì theo Tháng dùng Sóc (1), Vọng (15), Hối (30), Huyền (8 và 25), đầy với chẳng thường, mà Tinh dùng thấy ở ban đêm, cũng nửa thấy ẩn lặn. Thần mà thấy ở ban ngày là quý, nửa thấy mà theo về đêm là tiện (hèn). Theo Dương tôn âm sai khiến, cũng như thứ bậc vua tôi đó sao? Hay nửa thấy, lại chẳng những Nguyệt Tinh là thể, Nhật dùng chuyển theo Trời, Nguyệt dùng đi theo Nhật, Tinh dùng thấy theo Nguyệt, cho nên Tinh dùng nửa mà thấy về đêm, lấy theo bắt chước Nguyệt mà Nguyệt phần nửa chẳng thấy ở đêm, theo lúc đầu thì chẳng phải bắt chước theo Nhật với Trời. Trời dùng sáng tối làm hai phần nửa, mà đầy với cùng với mỗi phần nửa. Tinh theo Nguyệt bắt chước mà động tĩnh cũng theo phần nửa, âm dương theo nhau nghĩa vốn như thế. Cho nên đạo Trời âm dương thay đổi nhau đều dấu cái gốc, cùng giao nhau cùng làm “có”. Nhật Dương trong Dương đạo làm nắng, mà Nguyệt thì âm trong Dương mà chẳng nói rét, lấy theo loài Dương mà hay thấy ở ngày. Còn Tinh là Dương trong âm chỉ thấy về đêm. Thần thì âm trong âm mà làm Trời dùng Đất, xưa nói rằng: chỗ không Tinh thì đều là Thần, cũng như nơi không Thạch thì đều là Đất. Số Thần gồm 12 mà bảo rằng là nơi Nhật Nguyệt giao hợp. Vì Thần là Thể của Trời, theo đầy khắp đều Khí, mà không có vật tượng trưng có thể chỉ ra được, lấy phụ ở Nhật Nguyệt dùng theo, thì Tinh làm Nhật theo, chia Dương sáng mà có thể thấy, Thần làm Nguyệt theo, theo âm tối nên chẳng dễ thấy. Cho nên Nhật Tinh chép lấy 10 Cán (phần thân cây, Can vậy) Nguyệt Thần chép lấy 12 Cành (Chi vậy), chính theo để dùng mà chia đều thâu tóm ở đây vậy.

Trời lấy cương làm đức nên nhu chẳng thấy. Đất lấy nhu làm Thể nên cương chẳng sinh. Đó là do lấy Chấn của Trời dùng làm âm, lấy Tốn của Đất mà dùng làm Dương. Đất thuộc âm, khi có Dương mà âm bắt chước theo, bởi vậy rất âm đó là Thần vậy, rất Dương đó là Nhật vậy. Bắt đầu khởi ở dùng Trời, mà Đất theo thì chỉ có Thủy Hỏa mà thôi, đó là lấy trên Đất thì đều là Vật có Chất vậy, âm phục Dương mà Hình Chất sinh, Dương phục âm mà Tính Tình sinh. Dương sinh âm, âm sinh Dương, Dương khắc âm, âm khắc Dương. Dương khi dùng chẳng khá phục âm mà chẳng thấy ở Đất, âm khi dùng chẳng khá khắc Dương mà chẳng thấy ở Trời. Phục Dương dùng Đất thì Thể tất nhu, đó là do sợ Dương mà làm Dương theo dùng. Phục Dương dùng Trời thì Thể tất cương, đó là do chống đối Dương mà làm âm theo dùng. Cho nên, Thủy Hỏa động mà theo Dương, Thổ Thạch tĩnh mà theo âm. Nhật ở chung thủy thì sinh (có đầu có cuối), khi lìa xa thì chết, giao với không giao bởi dùng, rằng nói vậy.

Chấn làm Thần của Trời, mà sao không thấy, đức Trời cương mà nhu lấy phục vậy, do bởi phục nhu cho nên chẳng thấy. Tốn làm đá đất chẳng sinh ấy, thể đất nhu mà cương lấy nhắc nhở vậy. Khắc thì chẳng thể sinh, Chấn dương mà âm hào nhiều, Tốn âm mà hào dương nhiều. Đất sinh âm mà âm bắt chước dương, bắt chước dương để làm tôn dương thành tượng, dùng để nói rằng Càn dương để cho âm bắt chước theo đấy, bắt chước theo phép dùng đó là Khôn, cho nên rất mực âm chẳng bằng thần, rất mực dương chẳng bằng nhiệt. Chấn đến dùng Càn là đức ở số Trời, như Đất thì Khôn làm Thủy, Cấn làm Hỏa, đó là bắt chước theo Trời dùng Nhật và Thần mà thôi. Phàm đã là tôn dương mà sai khiến vật, đó đều bởi âm (thấp) mà dùng làm chưng dụng vậy. Khi lấy bầy ra ở trên Đất như Thủy Hỏa Thổ Thạch, thì mọi vật chẳng gì chẳng thành chất, nguyên theo hình chất bàn về sinh, thì trong âm phục (nép) dương sẽ suy theo Tính Tình cũng dùng sinh, khi dương phục âm, lại lần lượt thay nhau làm gốc rễ dương bèn sinh âm, ví như Ly dùng dương tiêu, Khảm dùng âm sinh đó vậy. âm cũng sinh dương, như Khảm dùng âm tiêu thì Ly dùng dương sinh, ngày theo cùng với sinh, biết theo cùng khắc. Đây sinh kia, là âm dương loại vậy. Cho nên Đất âm bắt chước theo Trời cách dùng, cốt do xem ở cách dùng là phục với khắc vậy. Dương có thể rễ phục mà cũng chẳng dễ phục, như Khảm một hào dương có thể phục, trên Tốn hai hào dương thì chẳng dễ phục, chẳng dễ phục thời chẳng thấy ở Đất, cho nên Đất Hỏa thường thấy ngấm ở Thạch. âm có thể dễ khắc mà cũng chẳng dễ khắc, như Ly một hào âm có thể dễ khắc, trên Chấn hai hào âm thì lại chẳng dễ khắc, chẳng dễ khắc này chẳng thấy ở Trời, cho nên Thần của Trời thường thấy hợp ở Nguyệt. Khi bàn về dương phục, lại có ít có nhiều, như Khôn có 12 hào dương và 36 hào âm (Khôn, Bác, Tỷ, Quan, Bĩ, Tụy, Tấn, Dự), Cấn có 20 hào dương và 28 hào âm (Khiêm, Cấn, Khiển, Tiệm, Độn, Hàm, Lữ, Tiểu quá), đây là dương phục ít, đó là âm theo thể của nhu mà sợ dương, bèn làm dương theo dùng, Khảm có 20 hào dương và 28 hào âm, Tốn có 28 hào dương và 20 hào âm, đây là dương phục nhiều, đó là âm theo thể của cương mà chống dương, bèn làm âm theo dùng. Cho nên Khôn Thủy và Cấn Hỏa, thì Tính của Hỏa cương mà Thể lại nhu, cùng với Thủy đều động chẳng tĩnh nên đều theo dương, đó là vì còn biết sợ dương vậy, Khảm Thổ với Tốn Thạch thì Tính nhu mà Thể lại cương, Thổ với Thạch đều tĩnh mà không động nên đều theo âm, vì chống đối với dương vậy. Qua đây, biết âm bắt chước theo dương cũng còn dương dùng cách phục để làm đứt vậy. Nhật Càn giữa Nam cung Ngọ, Thủy Khôn giữa Bắc cung Tý, Nhật mà ở Thủy cung Tý đó là Càn giao với Khôn, đây là dương lại đến, là quẻ Phục rồi quẻ Lâm quẻ Thái, muôn vật bèn theo sinh. Nhật mà ở Hỏa giao với Khôn cung Ngọ, thì Nhật với Thủy xa lìa, đây là dương lại đi, là quẻ Cấu rồi Độn rồi Bĩ, muôn vật thì 9 phần chết. Theo đây bảo rằng, Nhật ở Nam cung Ngọ thì muôn vật bắt đầu chất biến đổi đó vậy, cho nên Nhật Thủy ở trên thì giao nhau mà chẳng nên lìa vậy.

Dương ở trong Dương thì không dễ mà biến, là Càn vậy, nên một năm chỉ cất lên 12 tháng. âm ở trong âm cũng chẳng dễ biến, là Chấn vậy, nên một ngày dùng chỉ có 12 giờ thôi vậy. Đoài là âm ở trong Dương là Thái dương, Ly là Dương ở trong âm là Thiếu âm, đều có thể biến, nên số ngày trong tháng có thể không đồng đều vậy. Lấy số âm thì lấy 12 để khởi, lấy số dương thì lấy 30 để khởi, mà thường còn 2 và 6 vậy. Cất lên Năm thấy Tháng, cất lên Tháng thấy Ngày, cất lên Ngày thấy Giờ, đó là dương thâu tóm âm vậy, đó là Trời có 4 biến ngậm Đất có 4 biến, Nhật dùng biến ngậm Nguyệt và Tinh Thần dùng biến vậy. Kinh Dịch dùng sinh số 129600, chia ra làm 4320 Thế, đó là số to tiêu trưởng diễn ra làm 30 năm dùng Thần số, tức là theo số vậy. Một năm có 360 ngày, chia ra có 4320 Thần, lấy 30 nhân lên đấy được theo số vậy. Phàm Giáp Tý và Giáp Ngọ làm đầu của Thế, đây là số làm kinh Thế, như Can ngày Giáp tháng Tý, đó là Tinh Giáp Thần Tý, lại nói rằng: đó là số kinh Thế mà Nhật Giáp Nguyệt Tý, Tinh Giáp Thần Tý cũng theo đấy vậy. Vốn chỉ có 1 khí, khi sinh thì làm Dương, khi tiêu thì làm âm, cho nên 2 đó mà lại chỉ 1 mà thôi, 4 đó mà chỉ 2 mà thôi, 6 đó mà chỉ 3 mà thôi, 8 đó mà chỉ 4 mà thôi. Đây chỉ nói về Trời mà chẳng nói về Đất, cũng như chỉ nói về Vua mà không nói về bề tôi, nói Cha mà không nói về Con, nói Chồng mà không nói về Vợ. Song Trời có được Đất thì muôn vật mới có sinh, Vua có được bề tôi thì muôn giáo hóa mới được thi hành, Chồng được Vợ, Cha được Con thì đạo nhà mới thành. Cho nên, có 1 thì tất có 2, có 2 thì tất có 4, có 3 thì tất có 6, có 4 thì tất có 8, Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần cộng vào làm Trời, Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch gộp vào làm Đất, tai-mắt-mũi-mồm hợp làm cái đầu, tủy-máu-xương-thịt cộng làm thân, đó là 5 dùng số vậy.

âm Dương có khí có tượng, khí thuộc “không” mà chẳng dễ thấy, tượng thuộc “có” mà chẳng dễ biến, lấy 4 quẻ tượng của Trời mà nói thì Càn là dương ở trong dương, đó là thuần dương, là lẻ đó vậy. Lấy năm để dùng 1 tượng của Trời là quẻ Càn, khi cất lên 12 tháng thì có thể biết về 1 năm. Chấn là âm ở trong âm, là chẵn vậy, Nhật dùng 1 tượng này, chẳng khá khi cất lên 12 Giờ mà có thể thấy được. Đó là rất chuẩn mực của tượng khi dùng to hay nhỏ, ở đây cũng chẳng dễ biến đó vậy. Theo nhau mà chẳng khó biến ấy, thì khi nói về Năm phải kể tới Tháng, nói về Ngày thì phải kể tới Giờ. Ngoài số dùng là 12 ra, dẫu Năm có sai đầy hay rỗng theo Phân, mà cũng chẳng lấy biến theo số thường vậy.

Quẻ Đoài và Ly đều 2 lẻ 1 chẵn, Đoài thì làm âm ở trong dương, đó là Tháng (Nguyệt) dùng theo số của Ngày vậy. Ly thì làm dương ở trong âm, là Tinh dùng theo Tháng, đều có thể biến, rằng nói vậy. Năm lấy Tháng để chép, mà Tháng thì được chia làm 12 tháng, Ngày thì lấy Sao, Tinh tú để chép, mà Ngày được chia theo số là 30 ngày, có thể phân chia thì có thể biến, lấy số âm theo Chi của Tháng, tức là lấy theo 12 phần khởi từ Tý đến Hợi là đủ khắp vòng. Số dương theo Can của Ngày, tức là lấy theo 30 phần khởi từ Giáp Tý đến Quý Tị thì cũng đủ một nửa của khắp vòng vậy. Như vậy, thì 12 làm số của 1 Nguyên, cũng là số của Hội, còn 30 là số của 1 Hội dùng số của Vận đó vậy, mà Vận dùng số của 12 Thế, thế dùng 30 năm, cũng tức là còn ở ấy vậy. Nói rằng thường còn 2 và 6, tức là 12, nói rằng số đương lấy số 30 thì thường còn số âm là 12, hoặc lấy số âm là 30 thì số dương thường còn là trong 12, đó tức là Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần lấy theo để suy ra Nguyên, Hội, Vận, Thế, thông qua đây có thể nhận biết vậy. Cho nên, cất lên Năm thì có thể thấy được số của Tháng, cũng như cất lên Nguyên thì thấy được Hội; cất lên Tháng thì có thể thấy được số của Ngày, cũng như cất lên Hội thì thấy được Vận; cất lên Ngày thì có thể thấy được số của Giờ, cũng như cất lên Vận thì thấy được Thế. Tất cả đều lấy số dương 30 thâu tóm số âm 12 mà thấy được vậy. Khi dương thâu tóm âm, thì Trời bèn ngậm Đất, gồm Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch là 4 biến của Đất, tương đương với 4 biến của Trời là Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần. Trong 4 biến của Trời lại quy về ở Nhật (thâu tóm về), Nhật 1 biến mà ngậm 2, mọi biến thông để đầy đủ thì 1 quẻ biến thành 4 quẻ, bỏ hào Sơ, lấy giao biến hào Thượng, trong hào dương thâu tóm hào âm thì có thể thấy vậy. Bởi đó để suy 64 quẻ biến thành 256 quẻ, đều là dùng cái lý 1 ngậm 4. Cũng là nói lấy số sinh của Dịch 1, 2, 3, 4, 5 đó vậy.

Lấy số 1 làm số của Nguyên, 2 làm số của Hội, 3 làm số của Vận, 4 làm số của Thế, tương đương với số 129600. Lấy số 4320 mà kể là số thâu tóm của Thế về 1 Nguyên thẻ số lẻ, thì bỏ số 5 lại dùng 1 là ý đó vậy. Phàm chứa âm dương tiêu trưởng số lớn mà diễn 30 năm làm 1 Thế, số của Thần cũng là số này vậy. ôi, 6 tháng làm 1 biến, có thể làm 1 năm tiêu trưởng của số nhỏ, 6 Hội 1 biến tương đương với 1 Nguyên khi tiêu trưởng số lớn, lấy số nhỏ để thấy được số lớn, theo số lần 1 Thế được số năm 1 Nguyên, còn khi lấy số lớn để thấy được số nhỏ thì số năm 1 Nguyên, tức là số Thần của 1 Thế đó vậy. Suy theo số mà diễn ra, từ 1 năm khởi, 1 năm có 360 ngày, 1 ngày có 12 giờ, thì số giờ của 1 năm là 4320, 30 năm làm 1 Thế, lấy 30 x 4320 = 10800 giờ, đó là 30 năm theo 360 ngày, 30 x 4320 = 129600, đó là 30 năm theo 4320 giờ của 1 năm, Thần tức là Thế vậy, là Giờ đó vậy. Nếu chia mỗi 10 năm làm 4320 giờ, mà Thế thì lấy số 30 tương ứng với Giáp Tý Giáp Ngọ làm khởi đầu. Giáp Tý thì Đông chí dương đến được quẻ Phục, Giáp Ngọ thì Hạ chí âm đến được quẻ Cấu, mà đến Quý Hợi thì 6 âm cùng cực, Quý Tị thì 6 dương cùng cực, đều tương đương với 30 năm. Theo đồ số kinh Thế (kinh Giờ) thì Nhật theo Giáp, Nguyệt theo Tý, Tinh theo Giáp còn Thần theo Tý, có nghĩa là Nhật và Tinh thì theo dương Can, Nguyệt và Thần thì theo âm Chi, thay đổi nhau theo thứ bậc, Nhật Giáp dùng 1, thì biết rằng 1 là số đứng đầu của Đạo, Nhật làm rường cột cho Vua, mà còn theo đều phép của bầy Tôi vậy. Càn thâu tóm Khôn với 6 Tý, Nhật thâu tóm Nguyệt, Tinh, Thần vốn chỉ làm 1 khí mà thôi, mà lần lượt sinh từ quẻ Phục đến quẻ thuần Càn, sinh này là dương đó vậy, từ quẻ Cấu đến quẻ thuần Khôn mà lần lượt tiêu, tiêu này là do âm đó vậy. Dương sinh thì vật mở, âm tiêu thì vật đóng, nên âm dương là 2 kỳ thực chỉ là 1 khí dùng làm biến đổi vạn vật vậy. Thái Thiếu gồm 4, vốn là 2 khí dùng để chia, nên hào thì có 6 hào mà cũng không lìa ở 3 vạch, quẻ thì có 8 cũng chỉ trong có 4 biến. Xét đấy, thâu tóm làm 1, 1 này làm dương, là Trời vậy, là Vua, là Cha, là Chồng, nói rằng dùng làm cương (rường) theo ra thì là âm Đất vậy, tôi vậy, vợ vậy, con vậy, có thể nói rằng dùng làm kỷ (phép) âm thâu tóm dùng dương, nói cương mà chẳng nói kỷ là khá vậy. Cho nên Nguyệt Tinh đều tóm dùng theo Nhật, đó là dương vốn tôn vậy. Song dương vốn chẳng vần chuyển một mình, tất có được âm để sánh đôi, như Trời, như Vua, như Chồng, như Cha, tất sẽ có Đất, có bề tôi, có vợ, có con, để hợp mà sinh muôn vật mà thành Đạo của Trời Đất, đạo vua tôi, đạo cha con đạo nhà vậy. Nên có 1, 2, 3, 4 thì có 2, 4, 6, 8 theo nhau cùng sánh đôi, cùng diễn ấy thế vậy. Số 5 là sinh số tới cực ở giữa để mà tóm theo 1 chẳng dùng, mà biến 1 duy thì chỉ có 4 biến theo vậy. Cho nên, Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần hợp làm 1 Trời, Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch hợp làm Đất, tai-mắt-mũi-môm hợp làm 1 đầu, tủy-máu-thịt-xương hợp làm 1 thân, đều 4 cộng mà thành số 5 vậy, nhưng vẫn tóm theo 1 mà thôi.

Dịch có 64 quẻ 384 hào, đều từ ở trong đồ hết, mà Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần thay nhau đắp đổi trái phải ở Trời, lẫn lộn giao qua lại, điều lý rành rành, tự nhiên thành tượng dọc dùng văn (vẻ sáng) là văn của Trời thấy đó vậy. Theo tới số sinh mà nói, Càn lấy 1 làm đầu đứng trước, dùng làm gốc của Trời. Theo tới số thành mà nói, Khôn lấy 2 làm thành, làm hình dùng gốc ở Đất. Từ Phục cho tới quẻ Càn dương sinh dùng thành, từ Cấu đến Khôn, thì thành trở lại dùng sinh. Phàm theo tiến đổi không phương, không gì chẳng phải Đạo cư ngụ ở trong, Đạo ấy là tông tổ Trời Đất muôn vật, ở Trời Đất sinh ra vật, thì vật dùng vạn đấy mà thôi, ở Đạo sinh Trời Đất, cũng ở muôn vật, vật dùng vạn đấy mà thôi. ôi, Đạo ấy là gì? Thái cực vậy. Dịch có Thái cực vốn dĩ đã thâu tóm Trời Đất muôn vật theo ở trong vậy.

Trở lên là Hà đồ Trời Đất toàn số thiên thứ nhất, lấy tiết đầu làm cương lĩnh, các tiết theo sau để phát minh nghĩa của tiết đầu. Tóm bàn theo số 1 mà 2, 2 mà 4, 4 mà 8, 8 mà 16, 16 mà 32, 32 mà 64 là Đạo sinh Trời, Trời sinh Đất, Đất sinh muôn vật, là Thái cực 1 âm dương vậy. Theo ngược, 64 mà 32, 32 mà 16, 16 mà 8, 8 mà 4, 4 mà 2, 2 mà 1 là muôn vật về Đất, Đất về Trời, Trời về Đạo, âm dương 1 Thái cực đó vậy, thấy Hoàng cực tóm ở 1 Nguyên, kinh Thế xem vật, đủ ở đây vậy.

TIêN THIêN TƯỢNG SỐ

Trời Đất định ngôi, tỏ rõ Phục Hy làm 8 quẻ, 8 quẻ tỏ rõ giao lẫn lộn nhau mà thành 64 quẻ. Số đi qua là thuận (số vãng), là số thuận Trời mà đi quay theo bên tả (trái), thì đều là quẻ đã sinh, đó là số vãng vậy. Biết lại đó là ngược (tri lại), như ngược Trời mà đi, đều là quẻ chưa sinh, cho nên nói ràng “tri lai” vậy. ôi, Dịch từ ngược mà thành vậy, nói thẳng giải ý đồ, như ngược mà biết 4 mùa vậy.

Theo thuận số Trời quay bên Trái (tả) mà tiến thì được quẻ đã sinh, đều nói rằng “số vãng” (số đi). Theo ngược Trời đi bên phải (hữu) tiến mà được quẻ chư sinh, đều nói rằng “tri lai” (biết lại). Duy có định ngôi thì chẳng thay đổi, rằng thông khí, rằng chẳng cũng tìm nhau, rằng lẫn lộn nhau, đều Dịch nói ngược lại vậy. Ngược thì “biết lại”, dùng lấy ngược lại để biết 4 mùa. Chấn sơ là Đông chí, Ly Đoài trung là Xuân phân, Càn cuối giao là Hạ chí, đây là dương Nhật tiến mà thứ tự thuận sinh. Dịch mà Hạ chí, dương bèn đi ngược bên phải trong âm mà tiêu dần đó vậy, Tốn sơ là Hạ chí, Khảm Cấn trung là Thu phân, Khôn cuối giao là Đông chí, âm Nhật tiến mà thứ tự thuận sinh, Dịch mà sau Đông chí âm bèn đi ngược bên trái trong dương mà cũng tiêu đó vậy. Qua lại đẩy nhau, tiêu trưởng nhân lên với nhau, 4 mùa vòng quanh, số âm dương thuận ngược, theo đó mà có thể hiểu biết vậy. Làm Trời rất trơn, tựa như lấy Trời đi bên trái đi bên phải, lấy cảnh huống thuận - nghịch, mà đều dùng chữ “nhược” (nếu như) mà suy nghĩ, chưa thể chấp nê, sau nói rằng: dương đi trong dương, âm đi trong âm, số đi đều thuận. Dương đi trong âm, âm đi trong dương, số đi đều nghịch.

Thái cực động tĩnh chia, 2 nghi lập, là 1 chia 2 vậy. Dương trên giao với âm, âm dưới giao với dương, 4 tượng sinh vậy, Dương giao với âm, âm giao với Dương mà 4 tượng Trời sinh vậy, cương giao với nhu, nhu giao với cương, mà Đất sinh dùng 4 tượng vậy. 8 quẻ lẫn lộn giao nhau mà muôn vật sinh, chia âm chia dương, thay đổi dùng nhu cương, cho nên Dịch có “ngôi” mà thành dùng đó vậy. 10 chia làm 100, 100 chia làm 1000, ngàn chia làm vạn, nha gốc có thân, thân có cành, cành có lá, càng to thì càng nhỏ, càng bé thì càng nhiều, hợp dùng làm 1, diễn ra ấy làm vạn. Cho nên Càn lấy chia đấy, Khôn lấy hợp đấy, Chấn lấy làm trưởng đấy, Tốn lấy làm tiêu đấy. Trưởng thì chia, chia thì tiêu, tiêu thì hợp, là 4 chia 8 vậy.

Gốc mà thân, thân mà cành, cành mà lá, đều lấy chia mà có, hợp mà tóm. Lấy 1 càng to thì số theo càng nhỏ, diễn mà chia đấy lấy vạn, càng ít theo số càng nhiều. Diễn mà càng nhiều, là theo ở dương mở, Càn thì chia, là ở dùng ngôi Vua đó vậy, cho nên Càn lấy chia dùng hợp mà càng to, theo ở âm dùng Khôn hợp hấp thụ dùng dấu, nên Khôn lấy hấp. Theo mở mà bầy ra ở nghi bên trái, bắt đầu từ Chấn, mà Nhật rải đều ở trưởng, nên Chấn lấy theo trưởng. Theo hấp mà bầy ra ở nghi bên phải, theo Tốn, mà Nhật theo về ở tiêu, nên Tốn lấy theo tiêu. Lớn còn gốc lớn mà cành lấy chia, lại cành lớn thì lá lấy chia. Phục mà đến Càn, càng lớn thì càng chia, do đó Càn là cùng cực số chia vậy, cho nên Nhật lớn thì chia, kịp đến số chia cùng cực, Càn chuyển Cấu, thì tiệm tiêu vậy. Tiêu thì lá tiêu mà cành lấy hấp, cành tiêu mà thân cây lấy hấp, từ Cấu đến Khôn, càng tiêu càng hấp, Khôn là cùng cực của số hấp. Cho nên nói tiêu thì hấp, khi đến số hấp cùng cực thì lại lớn, do đó Ly Đoài lớn để chia, đi theo bởi đang trong cảnh tiến, Khảm Cấn tiêu để hấp, theo bởi đang ở vào cảnh về.

Càn Khôn định ngôi, Chấn Tốn mới 1 giao, Đoài Ly Khảm Cấn lại giao. Cho nên Chấn dương hãy còn ít mà âm vẫn nhiều, Tốn âm ít mà dương hãy còn nhiều, Đoài Ly dương dần nhiều, Khảm Cấn âm dần nhiều, ấy lấy Thần với hỏa mà chẳng thấy đó vậy.

Càn Nam sáng, Khôn Bắc tối, Trời Đất định ngôi, khi chưa giao âm dương, trên dưới chia vậy. 1 giao gồm Chấn Tốn là mới giao, Đoài Ly Khảm Cấn lại giao, là giao ở giữa và giao ở cuối. Chấn là Càn dương mới giao với Khôn âm, nên dương ít mà âm còn nhiều, Đoài với Ly thì dương dần nhiều. Tốn là Khôn âm trên giao với Càn dương, âm ít mà dương còn nhiều, Khảm với Cấn thì âm dần nhiều, Chấn làm thiên thần, Cấn làm địa hỏa, cả hai đều dương ít mà âm hãy còn nhiều khắc, cho nên Thần thường ẩn mà Hỏa ít âm nhiều chẳng thấy vậy. Ấy từ ích trở xuống đến Dự, sở dĩ là không, vô số đó vậy.

Trước Vô cực, âm hợp dương, sau Vô cực thì có tượng dương chia âm, âm làm mẹ dương, dương làm cha âm, cho nên mẹ dựng con trai trưởng mà làm Phục, cha sinh gái trưởng làm Cấu, ấy lấy dương khởi từ Phục, âm khởi từ Cấu vậy.

Trước nói 4 thì có thể, còn 1 thì không có thể, Trời dùng 4 biến đầy đủ mà 1 lui ở 5, Đất 4 biến đủ là 1 thì lui ở 10, đó là “có” “không” dùng tới cùng cực. Cho nên cơ cực nói rằng dựng mới mà “có” “không” vô cực, đó là Nhật hóa mà “không” vậy. Nói rằng, trước Vô cực vô thoán khá nghĩ thuần dùng âm hấp mà ngậm gốc dương, lấy âm làm mẹ dương mà nghẽn trai trưởng ở trong bụng, dương bèn theo bởi dấy lên từ Phục. Theo dùng dương mở mà chia cành dương, lại là dương làm cha âm mà sinh gái trưởng lúc ban đầu, âm bèn theo bởi khởi ở Cấu. Từ Tốn tiêu mà đến Khôn hấp, tĩnh ngậm dùng cực gốc Trời để sinh, từ Chấn trưởng mà đến Càn chia, động mở dùng cực hang nguyệt để ẩn núp, bèn biết ngàn biến vạn hóa linh diệu trong khoảng 1 động 1 tĩnh.

Ly ở Trời mà đương đêm, nên trong dương có âm. Khảm ở Đất mà đương ngày, nên trong âm có dương đó vậy. Chấn mới giao âm mà dương sinh. Tốn mới tiêu dương mà âm sinh. Đoài dương trưởng, Cấn âm trưởng. Chấn Đoài ở Trời thì dùng âm, Tốn Cấn ở Đất thì dùng dương. Trời lấy mới sinh mà nói, thì âm trên dương dưới, đó là nghĩa giao thái. Đất lấy đã thành mà nói đấy, cho nên dương trên mà âm dưới, ngôi tôn ti vậy.

Dương lấy âm làm “thể”, âm lấy Dương làm “tính”, động là “tính” vậy, tĩnh là “thể” vậy. Tại Thiên thì dương động mà âm tĩnh, tại Địa thì dương tĩnh mà âm động.

Hết tập 7

(Bài viết của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

4 chòm sao thông minh, tài trí hơn người

Bẩm sinh đã có sự nhanh nhạy và trí tuệ hơn người, 4 chòm sao thông minh dưới đây luôn khiến người khác phải trầm trồ khen ngợi.
4 chòm sao thông minh, tài trí hơn người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bẩm sinh đã có sự nhanh nhạy và trí tuệ hơn người, 4 chòm sao thông minh dưới đây luôn khiến người khác phải trầm trồ khen ngợi, làm gì cũng đạt được kết quả vượt trội. 

4 chom sao thong minh, tai tri hon nguoi hinh anh
 

Song Tử


Cung hoàng đạo Song Tử có phản ứng đặc biệt nhanh nhẹn, lối suy nghĩ hoán chuyển nhanh chóng, là chòm sao thông minh mà ai ai cũng phải thừa nhận. Khi đối mặt với khó khăn, họ phản ứng tự nhiên, dù nguy nan đến đâu cũng sẵn sàng nghênh đón rồi hóa giải. Hơn nữa, năng lực giao tiếp của Song Tử cũng rất tốt, ăn nói khéo léo, biết lấy lòng người khác. Song Tử cần thêm chút chân thành thì nhất định bên cạnh sẽ có nhiều bạn bè có thể giúp đỡ lúc hoạn nạn.
 

Kim Ngưu

  Sự thông minh của Kim Ngưu nằm ở chỗ luôn bình tĩnh, làm việc ổn định, năng lực quan sát mạnh, phân tích tình huống chuẩn xác, làm việc tỉ mỉ cẩn thận, không bao giờ khiến bản thân phải chịu tổn thất. Nên chòm sao trí tuệ này thường gặt hái được thành công lớn. Kim Ngưu chỉ cần khắc phục được sự an toàn của mình, có tinh thần mạo hiểm hơn một chút thì sẽ có những thành quả lớn hơn.

Nhân Mã

  Nhân Mã có năng lực học tập, lý giải sự việc mạnh mẽ, đưa ra những ý tưởng độc đáo, giỏi nắm bắt cơ hội nên có thể thành công. Nói một cách công bằng, Nhân Mã là chòm sao tài hoa, linh hoạt, biết tiến biết lui và đặc biệt phóng khoáng, tư duy mở, nhìn nhận sự việc một cách sâu rộng, khiến người khác phải kinh ngạc. Nếu chòm sao này chú tâm hơn nữa vào việc mình làm thì tuyệt đối không ai bắt kịp. 

Có thể bạn quan tâm: Đâu mới là một nửa đích thực của Nhân Mã ham vui

Thủy Bình (Bảo Bình)

 
4 chom sao thong minh, tai tri hon nguoi hinh anh
 
Cố chấp lại độc lập, sự tình gì đều muốn chính mình giải quyết nên thủy Bình nhiều khi không được ưa thích, nhưng lại không thể không thừa nhận có rất trí tuệ, rất có năng lực. Phân tích sự việc khách quan, bình tĩnh, năng lực biểu đạt tốt, làm việc có tư duy riêng và độc đáo. Nếu Thủy Bình biết cách làm việc nhóm nữa thì quả thực là càng thêm hiệu quả, thành công thu về nhất định không nhỏ.
  Những điều khiến Bảo Bình reo lên thích thú Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao thông minh, tài trí hơn người

Tướng đàn ông mắt nhỏ –

Mắt ti hí là mắt nhỏ, mí mắt him híp. Mắt ti hí hay liếc ngang, nguời có mắt này thông minh, gian vặt. Nguời mắt hí thêm mày thưa gián đoạn rất gian manh về già bị mọi nguời xa lánh. Ca dao có câu :" những phuờng ti hí mắt luơn, trai thời trộm cắp g
Tướng đàn ông mắt nhỏ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông mắt nhỏ –

Xem bói nốt ruồi hiểm độc huỷ hoại cả một đời

Xem bói nốt ruồi liên tiếp gặp xui xẻo, chuyện tình cảm thất bại, gặp phiền toái… hiểm độc hủy hoại cả một đời người
Xem bói nốt ruồi hiểm độc huỷ hoại cả một đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Liên tiếp gặp xui xẻo, chuyện tình cảm thất bại, liên tục gặp phiền toái… nguyên nhân có thể không phải do số mệnh mà có thể là do bạn đã sở hữu những nốt ruồi ở vị trí hiểm ác.


Xem boi not ruoi hiem doc huy hoai ca mot doi hinh anh 2
 

Nốt ruồi ở xương quai xanh hoặc bả vai - quản lý tài sản không tốt

  Theo nhân tướng học, nếu vị trí lõm giữa xương quai xanh và bả vai có nốt ruồi thì khả năng quản lý tài sản của người này không tốt, không có khả năng xây dựng tài chính, điều này sẽ làm cho hậu vận gặp khó khăn vì không có tích lũy. Bởi vậy, bất kể nam nữ, nếu có nốt ruồi tại vị trí này thì nên thận trọng ngay cả khi tiền đã cầm trong tay, đặc biệt là trong việc đầu tư tài chính.  

Nốt ruồi ở bầu ngực – người hẹp hòi, túng thiếu

  Nếu một trong hai bầu ngực có nốt ruồi thì người này khá hẹp hòi, “lòng lang dạ thú” và thường xuyên lâm vào cảnh túng thiếu, mối quan hệ với người khác thường không tốt, thường bị hiểu lầm hoặc bị hãm hại. Phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí này thường rất đào hoa, tuy nhiên đào hoa quá vượng cũng khiến cho chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở.

Nốt ruồi dưới gót chân – gặp nhiều phiền toái


Xem boi not ruoi hiem doc huy hoai ca mot doi hinh anh 2
 
  Xem bói nốt ruồi, nếu dưới gót chân có nốt ruồi, đặc biệt là nốt ruồi đen thì bạn nên cẩn thận, vì nốt ruồi này cảnh báo cuộc sống của bạn gặp rất nhiều phiền toái, làm việc hết mình hết sức nhưng kết quả thu được ít hoặc không được người khác công nhận, chuyện tình cảm cũng không khá hơn, cố gắng nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu. Nếu là nữ giới thì có thể chọn màu sơn móng chân phù hợp với bản mệnh, còn với nam giới thì có thể xóa nó đi, ít nhiều vận trình sẽ được cải thiện. Ngoài ra, nếu bạn thường xuyên đi tất thì ảnh hưởng của nốt ruồi cũng giảm đi đáng kể.

 

Nốt ruồi phía sau gáy nhưng lệch về 2 bên – tình cảm trắc trở

Người có nốt ruồi ở vị trí này thường gặp vấn đề trong chuyện tình cảm, có thể là dối tình người khác hoặc bị người khác lừa gạt. Nốt ruồi ở vị trí này có nhiều tiền đến đâu cũng không thể xóa đi được, nếu không chuyện hôn nhân cả đời cũng sẽ không thuận. Cách tốt nhất để hóa giải là căn cứ vào ngũ hành của bản mệnh mà chọn màu nội y cho phù hợp. Xem thêm bài viết: Chủ nhân nốt ruồi sau gáy đón vận lành hay dữ?  

Nốt ruồi sau cánh tay (trai tay trái, gái tay phải) – cô nhi quả nữ 

  Nếu phía sau cánh tay phải của người phụ nữ hoặc sau cánh tay trái của người đàn ông có nốt ruồi thì thường lâm vào cảnh cô quạnh, hôn nhân và chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở, thậm chí mối quan hệ với người thân cũng không được tốt, hậu vận sẽ sống trong sự cô đơn. Nốt ruồi tại vị trí này không thể xóa đi mà chỉ có thể sử dụng phương pháp để hóa giải. Cách tốt nhất là đeo ở cánh tay có nốt ruồi một chiếc dây đeo màu đỏ.
Phương Thùy
Tìm hiểu kiến thức cơ bản về tướng nốt ruồi
Ai cũng có nốt ruồi, nhưng tướng nốt ruồi ở nam giới và nữ giới mang ý nghĩa khác nhau dù ở cùng một vị trí. Do đó, khi xem bói tướng nốt ruồi cần tìm hiểu cặn
Chỉ ra 3 vị trí nốt ruồi không lo thiếu tiền xài
– Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau mang tới những điềm báo hung cát không giống nhau. Nhưng nếu sở hữu những nốt ruồi dưới đây, bạn hoàn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói nốt ruồi hiểm độc huỷ hoại cả một đời

Tết Hạ Nguyên (Tết Cơm mới) và ý nghĩa của nó trong truyền thống dân tộc.

Thu sắp tàn, Đông sắp đến, gió lạnh thổi về, đánh đấu ngày hội lễ Hạ nguyên gần kề. Trong khi mỗi gia đình, cũng như chùa chiền, đang sửa soạn cho ngày lễ Tết Hạ Nguyên, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của ngày lễ hội thuần túy này của dân tộc.
Tết Hạ Nguyên (Tết Cơm mới) và ý nghĩa của nó trong truyền thống dân tộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tết Hạ Nguyên.

Theo phong tục dân gian Tết Hạ Nguyên được tiến hành vào ngày mồng Một hoặc mồng Mười, cũng có thể là ngày Rằm tháng 10 Âm lịch hàng năm.

Theo quan niệm của ông bà ta ngày xưa, những ngày này Thiên Đình cử thần Tam Thanh xuống trần gian để xem xét việc tốt xấu về tâu với Ngọc Hoàng. Do vậy, mọi nhà phải tiến hành làm lễ để thần Tam Thanh ban phúc lành, tránh tai họa, vận hạn và cũng là dịp "'tiến tân" cơm gạo mới cúng tổ tiên.

Tết Hạ Nguyên (Tết Cơm mới) và ý nghĩa của nó trong truyền thống dân tộc.

Tết Hạ Nguyên cũng là ngày con cháu "tiến tân" cơm mới dâng lên ông bà tổ tiên

Nhân Tết Hạ Nguyên mọi người đều mua quà và gạo nếp ới cùng những đặc sản lúc giao mùa Thu Đông biếu ông, bà, cha mẹ và những bậc được tôn kính để tỏ lòng hiếu thuận, biết ơn bề trên

2./ Ý nghĩa của Tết Hạ Nguyên trong văn hóa dân gian.

Thu sắp tàn, Đông sắp đến, gió lạnh thổi về, lá vàng rơi lác đác để lại những thân cây trụi lá, đánh đấu ngày hội lễ Hạ nguyên gần kề. Trong khi mỗi gia đình, cũng như chùa chiền, đang sửa soạn cho ngày lễ Tết Hạ Nguyên, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của ngày lễ hội thuần túy này của dân tộc.

Từ trong cội rễ văn hóa dân gian Việt Nam, rằm tháng Bảy hay ngày lễ Hạ nguyên, rằm tháng Mười, đều là ngày lễ cổ truyền quan trọng:

“Rằm tháng Mười, mười người mười cởi

Rằm tháng Bảy, người cởi người không”

Tết Hạ Nguyên (Tết Cơm mới) và ý nghĩa của nó trong truyền thống dân tộc.

Các đồng bào dân tộc Tây Nguyên trong ngày Tết Cơm mới (Tết Hạ Nguyên)

Theo phong tục tập quán Việt tộc, rằm tháng mười hàng năm được tổ chức trọng thể, vượt thoát phạm vi gia đình và trở thành một lễ hội tâm linh của dân tộc Việt, một sinh hoạt tín ngưỡng mang đậm tính nhân văn nơi chốn già lam tịnh địa. Đây cũng chính là điều mà nhà thơ Huyền Không đã khẳng định trong bài thơ Nhớ chùa:

“Mái chùa che chở hồn dân tộc,

Nếp sống muôn đời của tổ tông.”

Mái chùa xưa và nay, dù ở nơi đất Tổ hay trời phương ngoại vẫn là nơi hội tụ của muôn ngàn con dân đất Việt chung dòng máu Lạc Hồng, chung một ý niệm đồng bào ruột thịt. Và rằm tháng Mười giờ đây không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là Tết Hạ nguyên mà trở thành một nếp sống tâm linh của người con Phật. Trong ngày lễ Hạ nguyên, người Phật tử dâng trọn tấm lòng tưởng niệm ân đức sâu dày của chư Phật, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng, đã từng khai sáng và trùng hưng huyết mạch của Đạo Phật tại thế gian này.

Hàng đệ tử chúng ta, những người mang sứ mệnh truyền thừa chánh pháp của Thế Tôn, mang đuốc tuệ vào lòng thế cuộc, vận chuyển bánh xe chánh pháp giữa rừng đời phải chọn một ngày thích hợp như lễ Hạ nguyên để “Tiên tri Tam đức, hậu báo tứ ân” nhằm thắp sáng tiền đồ hoàng dương Phật pháp.

Tết Hạ Nguyên (Tết Cơm mới) và ý nghĩa của nó trong truyền thống dân tộc.

Lễ Hạ nguyên ở chùa tuy hình thức có phần đơn sơ hơn so với các lễ hội Phật giáo khác như Đại lễ Phật đản, Đại lễ Vu Lan, nhưng về nội dung vẫn phản ánh đậm nét mầu sắc tâm linh, và nhắc nhỡ người con Phật hãy sống như chánh pháp, hành xử theo chánh pháp theo gương các bậc Tiên hiền cổ thánh ngàn xưa.     

>> Xem TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất!

>> Xem TỬ VI HÀNG NGÀY 2016 mới nhất!

3./ Sắm lễ ngày Tết Hạ Nguyên

Theo phong tục từ cổ xưa, ngày tết Cơm Mới (tết Hạ Nguyên) nhà nhà đều nấu xôi gạo mới, sắm sửa hương hoa, đèn nến cùng mâm lễ mặn thơm ngon tinh khiết để cúng tổ tiên.

Tết Hạ Nguyên (Tết Cơm mới) và ý nghĩa của nó trong truyền thống dân tộc.

4./ Văn khấn tổ tiên (Ngày Tết Cơm mới)

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.

Tín chủ (chúng) con là:..................................................................................................

Ngụ tại:.......................................................................................................................

Hôm nay là ngày mồng Một (mồng Mười Rằm) tháng Mười là ngày Tết Cơm Mới, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, nấu cơm gạo mới, thắp nén tâm hương dâng lên trước án.

Trộm nghĩ rằng:

Cây cao bóng mát

Quả tốt hương bay

Công tài bồi xưa những ai gây

Của quý hóa nay con cháu hưởng

Ơn Trời Đất Phật Tiên, Chư vị Tôn thần

Sau nhờ ơn Tổ tiên gây dựng, kể công tân khổ biết là bao

Đến nay con cháu dồi dào, hưởng miếng trân cam

Nay nhân mùa gặt hái

Gánh nếp tẻ đầu mùa

Nghĩ đến ơn xưa

Cày bừa vun xới ,

Sửa nồi cơm mới

Kính cẩn dâng lên

Thường tiên nếm trước

Mong nhờ Tổ phước

Hoà cốc phong đăng

Thóc lúa thêm tăng

Hoa màu tươi mới

Làm ăn tiến tới

Con cháu được nhờ

Lễ tuy đơn sơ

Tỏ lòng thành kính

Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần. Cúi xin các Ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các cụ Tổ khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ........................................., cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật

Nam mô a di Đà Phật!

Nam mô a di Đà Phật!

>> Xem thêm NGÀY TỐT XẤU 2016 mới nhất!

>> Xem thêm TỬ VI 2016 mới nhất!

Theo Phong tục truyền thống Việt Nam


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Hạ Nguyên (Tết Cơm mới) và ý nghĩa của nó trong truyền thống dân tộc.

Sơn Hạ Hỏa - Tuổi Bính Thân và Đinh Dậu

Cùng tìm hiểu về khái niệm nạp âm Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới chân núi - lửa đom đóm), ý nghĩa của sơn hạ hỏa trong bộ môn khoa học tử vi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sơn Hạ Hỏa - Tuổi Bính Thân và Đinh Dậu

Sơn Hạ Hỏa - Tuổi Bính Thân và Đinh Dậu

Tìm hiểu về mệnh Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới chân núi)

Sơn Hạ Hỏa thích sinh vào mùa thu, gặp thủy cũng thích nếu tứ trụ trong mệnh gặp Hợi, Tý Thủy hoặc tháng Thân, Dậu gặp nạp âm Thủy, đây chính là cách "Huyền hỏa chiếu thủy" có mệnh làm kham giám. Thích gặp hai mộc là Tùng Bách Mộc và Bình Địa Mộc, gặp được nó rất tốt, nếu lại có phong đến trợ sinh, là lẽ có tước vị cao quý. Không nên gặp Đại Hải Thủy, nhưng nếu trong mệnh có Sơn, gặp Đại Hải Thủy cũng có thể vào cách quý. Giáp Dần Ất Mão -  Đại Khê Thủy, nếu hỏa này gặp được giáp Dần Thủy là may mắn thuận lợi, Ất Mão Thủy có phong, hỏa này gặp nó không hay, nếu trong mệnh có hỏa này, chỉ nên gặp Kim thanh Tú mới tốt. nếu trong mệnh không có Mộc, lại gặp nhiều Kim, Kim cướp Hỏa khí, không thể xem là tốt, gặp Ất Sửu Kim chủ qúy. Các loại kim khác đều không xung khắc hao tổn, gặp được lộc mã quý nhân, củng chỉ có thể xem là có tài vận (tiền tài). Bính Thìn, Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ, Thìn Tỵ phong lưu động, Hỏa này gặp Sa Trung Thổ , nếu trong mệnh còn có Sơn cứu trợ là chủ đại quý. Nếu không có Mộc, không có Sơn cũng chỉ có thể phí công thích một phen mà thôi. Sợ gặp các loại hỏa của Thiên Thượng Hỏa, Tích Lịch Hỏa, Phúc Đăng Hỏa và Sơn Đầu Hỏa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sơn Hạ Hỏa - Tuổi Bính Thân và Đinh Dậu

Ý nghĩa những vết bớt trên cơ thể

Vết bớt trên cơ thể mỗi người đều tồn tại một ý nghĩa đặc biệt riêng của nó. Có những vết bớt đem lại vận rủi cho người sở hữu, nhưng cũng có những vết bớt mang đến may mắn, tài lộc. Vậy thì, vết bớt ở vị trí nào sẽ mang đến may mắn cho chúng ta đây?
Ý nghĩa những vết bớt trên cơ thể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Vết bớt trên cơ thể mỗi người đều tồn tại một ý nghĩa đặc biệt riêng của nó. Có những vết bớt đem lại vận rủi cho người sở hữu, nhưng cũng có những vết bớt mang đến may mắn, tài lộc. Vậy thì, vết bớt ở vị trí nào sẽ mang đến may mắn cho chúng ta đây? Hãy cùng lịch vạn niên 365 xem thử nhé!

1. Vết bớt nằm ở mông

Nếu như khi sinh ra bạn đã có vết bớt ở mông, theo xem tướng vậy thì bạn có số mệnh phú quý, “miệng ngậm chìa khóa vàng”. Bạn luôn nhận được sự yêu quý của mọi người, làm việc gì cũng thuận lợi, là một người cả đời đều không phải lo lắng về chuyện cơm, áo, gạo, tiền.

2. Vết bớt nằm trên đường trung trực của gáy

Người có vết bớt nằm ở đường trung trực của gáy (tức đường thẳng kẻ dọc giữa gáy) chuyện tình cảm thường gặp trắc trở, dễ bị đối phương lừa dối, khổ sở. Nhưng sau nỗi đau, họ vẫn không biết sợ và lại tiếp tục mù quáng như cũ, vì thế chuyện tình cảm cứ thế vẫn mãi không thuận lợi.

3. Vết bớt nằm ở vị trí xương cụt

Theo xem bói, người có vết bớt ở vị trí này thường có học thức rộng, tài giỏi hơn người. Về nghệ thuật, cũng có tài năng thiên phú, có thể nói là "văn võ song toàn", hơn hẳn nhiều người khác. Họ hầu hết đều là người thành công, quyền cao chức trọng.

4. Vết bớt nằm ở gót chân

Người có vết bớt nằm ở gót chân, cuộc sống thường gặp nhiều trắc trở. Nếu vết bớt màu đen thì họ sẽ càng gặp vận rủi, xui xẻo liên miên.

5. Vết bớt nằm ở xương đòn

Người có vết bớt ở xương đòn thường là người ôn hòa, trong sáng, việc gì cũng lấy “dĩ hòa di quý” làm gốc, cho dù bị người khác ức hiếp, hãm hại, đều luôn duy trì thái độ “thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện”. Họ là một người vô cùng tốt bụng.

6. Vết bớt ở trước ngực, gần tim

Người xưa cho rằng vết bớt gần tim là vết bớt “lòng lang dạ sói”. Người có vết bớt ở vị trí này thường là người ranh ma, xảo trá, dễ dàng lật mặt, thường cho rằng bạn bè là kẻ ngốc… Nói chung, họ không phải người tốt.

7. Vết bớt nằm ở rốn

Nếu ngay giữa rốn có vết bớt thì theo nhân tướng học gọi là “vàng ẩn trong rốn”, biểu tượng cho số mệnh phú quý giàu sang. Mọi việc họ làm đều vô cùng thuận lợi, về già nhất định cũng không cần phải lo củi, gạo, dầu, muối.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

8. Vết bớt nằm giữa ngực và rốn

Nếu có vết bớt nằm giữa ngực và rốn, vậy thì người này thuộc dạng người có nhân duyên cực tốt: “người gặp người yêu, hoa gặp hoa nở”, bất kể đi đến đâu đều nhận được sự yêu mến và tôn trọng, đặc biệt là với người khác giới.

9. Vết bớt nằm giữa xương đòn và bả vai

Người có vết bớt ở vị trí này đối với bạn bè rất hào phóng, rộng rãi, tiêu tiền hoang phí hay nói đúng hơn là họ coi tiền như cỏ rác. Vì thế, họ không có tiền tích góp, về già dễ sa vào cảnh “nghèo rớt mồng tơi”, “không xu dính túi”. Lời khuyên chân thành dành cho những người này là cần học cách tiết kiệm, tích lũy một số tiền để phòng thân.

10. Vết bớt nằm bên trong bắp đùi

Vết bớt nằm bên trong bắp đùi biểu thị cho người có nội tâm vô cùng mạnh mẽ, kiên cường, trên phương diện công việc cũng có biểu hiện vô cùng xuất sắc. Nhưng có điều, số phận đã định phải bôn ba vất vả.

11. Vết bớt sau cánh tay

Người mà hai bên cánh tay có vết bớt, thường có quan hệ thân thích ruột rà rất kém. Họ không coi trọng tình thân, cũng không hề có chút ý niệm gì về không khí ấm áp của gia đình, thậm chí còn "vứt chồng bỏ con". Vì thế, sau này dễ rơi vào cảnh cô độc đến già, không ai chăm sóc.

12. Vết bớt ở giữa lưng

Theo tử vi trọn đời, vết bớt ở giữa lưng là vết bớt may mắn, biểu thị cho người cả đời được quý nhân giúp đỡ, gặp dữ hóa lành, về già con cháu đông vui, an nhàn hưởng phúc

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa những vết bớt trên cơ thể

Tứ hành xung là gì? Hiểu đúng để không còn bi kịch

Bạn nghe nhiều nhưng đã hiểu đúng về Tứ hành xung chưa? Tứ hành xung là gì? Có phải tất cả các con giáp thuộc Tứ hành xung thì sẽ xung khắc với nhau không?
Tứ hành xung là gì? Hiểu đúng để không còn bi kịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hãy cùng Lịch ngày tốt đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này nhé.   Là người Việt Nam, chắc hiếm ai chưa từng nghe thấy cụm từ “Tứ hành xung”. Điều này được áp dụng với nhiều mối quan hệ trong cuộc sống, từ xã giao bạn bè, cấp trên cấp dưới tới hợp tác làm ăn. Với nhiều cặp đôi, đây chính là lý do khiến họ không đến được với nhau, để rồi đôi lứa chia lìa, những con tim cùng chung nhịp đập mà lại chẳng thể thuộc về nhau.   Vậy bạn đã hiểu chính xác về khái niệm này hay chưa? Trong tử vi thì tứ hành xung là gì? Tại sao người ta lại kiêng kị sự kết hợp của những con giáp thuộc cục diện Tứ hành xung? Những câu hỏi này hôm nay sẽ được Lịch ngày tốt giải đáp nhé.

 

Tứ hành xung là gì?

  Trong số 12 con giáp, quan niệm dân gian cho rằng có 3 nhóm con giáp xung khắc với nhau, mỗi nhóm gồm có 4 con giáp như sau:   1. Tý, Ngọ, Mão, Dậu   2. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi   3. Dần, Thân, Tị, Hợi

Mời bạn đọc thêm: Tam hợp là gì, Lục hợp là gì, nên hiểu sao cho đúng?

 

Tại sao có quan niệm Tứ hành xung?

 

12 con giáp được lập ra dựa theo các con vật gần gũi với nhà nông, có tập quán sinh hoạt tương ứng với các giờ trong ngày, từ đó đặt ra địa chi. Trong 3 nhóm Tứ hành xung ở trên, các con vật thuộc nhóm đó được cho là khắc nhau, hay ăn thịt hoặc làm hại nhau, từ đó quy ra những người sinh vào những năm đó cũng sẽ không hợp nhau, khắc khẩu hoặc áp chế nhau về nhiều phương diện trong cuộc sống.


Tu hanh xung la gi Hieu dung de khong con bi kich hinh anh
 
 

Các con giáp thuộc nhóm Tứ hành xung đều xung khắc với nhau?

  Đa số người Việt đều hiểu rằng, tất cả những con giáp thuộc nhóm Tứ hành xung đều xung khắc với nhau. Nhưng thực tế thì đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Hai tuổi tương khắc chỉ dựa vào Tứ hành xung liệu có chính xác? Không phải cứ Dần Thân Tị Hợi thì người tuổi Dần sẽ khắc với người tuổi Hợi mà ngược lại, Dần Hợi còn Nhị hợp nữa.   Theo quan niệm âm dương ngũ hành, ta có quy ước ngũ hành ứng với 12 chi như sau:   Tý – Hợi thuộc hành Thủy  Sửu – Thìn – Mùi – Tuất thuộc hành Thổ Dần – Mão thuộc hành Mộc Tị - Ngọ thuộc hành Hỏa Thân – Dậu thuộc hành Kim   Trong 3 nhóm Tứ hành xung, vẫn tồn tại các cặp con giáp Nhị hợp. Các con giáp trong Tứ hành xung chỉ xung khắc theo cặp, tạo thành Lục xung.   Tý – Ngọ tương xung. Mão – Dậu tương xung. Dần – Thân tương xung. Tị - Hợi tương xung. Thìn – Tuất tương xung. Sửu – Mùi tương xung.   Trong tử vi về thuyết ngũ hành tương khắc thì Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy lại khắc Hỏa. Các cặp xung khắc này được tính theo nguyên tắc Ngũ hành, tức là Hợi Thủy và Tị Hỏa xung khắc, Dần Mộc và Thân Kim xung khắc. Còn Dần Mộc lại được Hợi Thủy dưỡng, không có gì xung khắc.

Tu hanh xung la gi Hieu dung de khong con bi kich hinh anh
 

Xung khắc còn phải dựa theo mệnh

  Sự xung khắc giữa các con giáp không đơn giản xác định dựa vào địa chi mà còn bị chi phối bởi thiên can, tức chịu sự ảnh hưởng của mệnh nữa. Không phải người tuổi Tị nào cũng khắc với người tuổi Hợi.   Từ xa xưa, tổ tiên chúng ta đã sử dụng hệ can chi gồm có 12 địa chi (hay 12 con giáp) và 10 thiên can. Mỗi can chi lại thuộc các hành riêng trong ngũ hành. 12 thiên can cũng được chia thành các yếu tố ngũ hành như sau:   Giáp, Ất thuộc hành Mộc. Bính Đinh thuộc hành Hỏa. Mậu Kỷ thuộc hành Thổ. Canh Tân thuộc hành Kim. Nhâm Quý thuộc hành Thổ.   Về tính chất âm dương, 12 thiên can và 10 địa chi cũng được chia thành 2 nhóm âm và dương.   Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất thuộc Dương. Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi thuộc Âm. Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm thuộc Dương. Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là Âm.   Lục Thập Hoa Giáp được tạo nên căn cứ vào nguyên tắc can dương ghép với chi dương, can âm ghép với chi âm, từ đó có 60 năm ứng với 60 hoa giáp. Khi kết hợp thiên can và địa chi với nhau tạo thành một năm thì năm đó sẽ có hành khác với cả can và chi, hay còn gọi là nạp âm Lục Thập Hoa Giáp.   Hai con giáp sẽ chỉ thực sự xung khắc với nhau nếu mệnh tương khắc. Chẳng hạn, ta có Tị và Hợi tương xung, nhưng tuổi Kỷ Tị lại là nạp Âm Mộc, không xung khắc với Kỷ Hợi nạp Âm Mộc hay Quý Hợi nạp Âm Thủy. Kỷ Tị và Kỷ Hợi là tương hòa vì cùng là Âm Mộc, còn Kỷ Tị với Quý Hợi là tương sinh bởi Mộc của Kỷ Tị sẽ được Thủy của Quý Hợi dưỡng.    Thực ra việc tương hợp hay xung khắc giữa người với người dựa trên rất nhiều yếu tố. Phải xét trên nhiều phương diện để đưa ra phán đoán chính xác. Nên hiểu rõ Tứ hành xung là gì, không có chuyện cứ không hợp tuổi là vạn sự sẽ trắc trở. Trong cuộc sống gia đình cũng như các mối quan hệ trong xã hội, dù hợp hay xung thì cũng nên nhường nhịn và thông cảm cho nhau, có thể mới có được cuộc sống vui tươi, hạnh phúc.    An An   Tam tai là gì, vì sao Tam hợp hóa Tam tai? Hướng dẫn cách hóa giải mệnh xung khắc, giảm bớt phần hung hiểm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ hành xung là gì? Hiểu đúng để không còn bi kịch

Tuyển tập những danh ngôn về thành công hay nhất

Tuyển tập những danh ngôn về thành công hay nhất. Để thành công trong cuộc sống, bạn cần hai thứ: sự ngu dốt và lòng tự tin.
Tuyển tập những danh ngôn về thành công hay nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những danh ngôn về thành công hay nhất. Để thành công trong cuộc sống, bạn cần hai thứ: sự ngu dốt và lòng tự tin.

Tuyển tập những danh ngôn về thành công hay nhất

To succeed in life, you need two things: ignorance and confidence.

Mark Twain

—-

Đừng phấn đấu để thành công mà hãy phấn đấu để mình có ích.

Strive not to be a success, but rather to be of value.

Albert Einstein

—-

Tôi chưa thất bại. Tôi chỉ là đã tìm ra 10,000 cách không hoạt động.

I have not failed. I’ve just found 10,000 ways that won’t work.

Thomas Edison

—-

Không biết đã bao nhiêu lần con người buông tay từ bỏ khi mà chỉ một chút nỗ lực, một chút kiên trì nữa thôi là anh ta sẽ đạt được thành công.

How many a man has thrown up his hands at a time when a little more effort, a little more patience would have achieved success.

Elbert Hubbard

Thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc, và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh.

Your success and happiness lies in you. Resolve to keep happy, and your joy and you shall form an invincible host against difficulties.

Helen Keller

Thành công không phải là cuối cùng, thất bại không phải là chết người: lòng can đảm đi tiếp mới quan trọng.

Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.

Winston Churchill

Thành công không phải là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Nếu bạn yêu điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.

Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.

Albert Schweitzer

Con người chẳng bao giờ lên kế hoạch để thất bại; chỉ đơn giản là họ đã thất bại trong việc lên kế hoạch để thành công.

Men never plan to be failures; they simply fail to plan to be successful.

William Arthur Ward

Tính cách không thể phát triển một cách dễ dàng và yên lặng. Chỉ qua trải nghiệm thử thách và gian khổ mà tâm hồn trở nên mạnh mẽ hơn, hoài bão hình thành và thành công đạt được.

Character cannot be developed in ease and quiet. Only through experience of trial and suffering can the soul be strengthened, ambition inspired, and success achieved.

Helen Keller

Xây dựng thành công từ thất bại. Sự chán nản và thất bại là hai bước đệm chắc chắn nhất dẫn tới thành công.

Develop success from failures. Discouragement and failure are two of the surest stepping stones to success.

Dale Carnegie

Tôi tìm thấy lạc thú lớn nhất, và cũng như phần thưởng, nằm trong công việc vượt qua điều mà thế giới gọi là thành công.

I find my greatest pleasure, and so my reward, in the work that precedes what the world calls success.

Thomas Edison

Những người thành công luôn luôn tìm kiếm cơ hội để giúp đỡ người khác. Những người không thành công luôn luôn hỏi, “Tôi được lợi gì?”

Successful people are always looking for opportunities to help others. Unsuccessful people are always asking, “What’s in it for me?”

Brian Tracy

Thêm một chút bền bỉ, một chút nỗ lực, và điều tưởng chừng như là thất bại vô vọng có thể biến thành thành công rực rỡ.

A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success.

Elbert Hubbard

Chìa khóa thành công là tập trung lý trí của chúng ta vào những điều chúng ta muốn chứ không phải những điều chúng ta sợ.

The key to success is to focus our conscious mind on things we desire not things we fear.

Brian Tracy

Cơ bản là có hai loại người. Người làm nên chuyện và người tuyên bố mình làm nên chuyện. Nhóm đầu tiên ít đông hơn.

There are basically two types of people. People who accomplish things, and people who claim to have accomplished things. The first group is less crowded.

Mark Twain

Bí quyết của thành công là hãy bắt đầu. Bí quyết để bắt đầu là chia nhỏ các công việc nặng nề, phức tạp thành những việc nhỏ dễ quản lý hơn, rồi bắt đầu với việc thứ nhất.

The secret of getting ahead is getting started. The secret of getting started is breaking your complex overwhelming tasks into small manageable tasks, and then starting on the first one.

Mark Twain

Tất cả những người đàn ông và phụ nữ thành công đều là những người mơ mộng. Họ mơ mộng về tương lai của họ, lý tưởng trên mọi phương diện, và rồi họ lao động mỗi ngày hướng về viễn cảnh xa xôi ấy, mục tiêu hay cái đích đó.

All successful people men and women are big dreamers. They imagine what their future could be, ideal in every respect, and then they work every day toward their distant vision, that goal or purpose.

Brian Tracy

Ranh giới giữa thành công và thất bại nhỏ tới mức chúng ta hiếm khi biết được mình đã vượt qua nó khi nào: nhỏ tới mức chúng ta thường đứng trên nó mà không ý thức được.

The line between failure and success is so fine that we scarcely know when we pass it: so fine that we are often on the line and do not know it.

Elbert Hubbard

Để thành công trong thế giới này, chỉ ngu xuẩn là không đủ, anh cũng phải biết xử thế.

To succeed in the world it is not enough to be stupid, you must also be well-mannered.

Voltaire

Tôi nghĩ nếu bạn làm điều gì đó và thu được kết quả tốt đẹp, bạn nên đi tiếp để làm những điều tuyệt vời khác, đừng dừng chân lại quá lâu. Hãy tìm xem nên làm gì tiếp.

I think if you do something and it turns out pretty good, then you should go do something else wonderful, not dwell on it for too long. Just figure out what’s next.

Steve Jobs

Chính thái độ của chúng ta khi bắt đầu một việc khó khăn sẽ ảnh hưởng lên kết quả thành công nhiều hơn bất cứ điều gì khác.

It is our attitude at the beginning of a difficult task which, more than anything else, will affect its successful outcome.

William James

Chọn đúng thời gian, sự bền bỉ và mười năm nỗ lực rồi cuối cùng sẽ khiến bạn có vẻ như thành công chỉ trong một đêm.

Timing, perseverance, and ten years of trying will eventually make you look like an overnight success.

Biz Stone

Cách tốt nhất để thành công trong đời là hành động theo lời khuyên mà ta trao cho người khác.

The best way to succeed in life is to act on the advice we give to others.

To be a winner, all you need to give is all you have.

Khuyết danh

Bạn được tha thứ cho hạnh phúc và thành công của mình chỉ khi bạn sẵn sàng hào phóng chia sẻ chúng.

You are forgiven for your happiness and your successes only if you generously consent to share them.

Albert Camus

Chinh phục bất cứ một sự khó khăn nào luôn đem lại cho người ta một niềm vui sướng thầm lặng, bởi điều đó cũng có nghĩa là đẩy lùi một đường ranh giới và tăng thêm tự do của bản thân.

Conquering any difficulty always gives one a secret joy, for it means pushing back a boundary-line and adding to one’s liberty.

Henri Frederic Amiel

Anh ta chưa bao giờ thành công lắm. Khi cơ hội gõ cửa, anh ta phàn nàn về tiếng ồn.

He’s never been very successful. When opportunity knocks, he complains about the noise.

Khuyết danh

Thất bại chẳng tồi tệ nếu nó không ghi dấu vào tim. Thành công là tốt đẹp nếu nó không bốc lên đầu.

Failure isn’t bad if it doesn’t attack the heart. Success is all right if it doesn’t go to the head.

Grantland Rice


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những danh ngôn về thành công hay nhất

Chương I: Nhập Môn Thần Số Học

1.Âm Dương Ngũ Hành 12 chữ số: 1:âm thủy-2:dương thủy-3:dương thổ(Mộc)-4:dương mộc-5:âmmộc-6:Hỏa(lưỡng tính)-7:dương hỏa-8:âm thổ-9:âm thổ-11:dương kim-12:dương thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2.Ngũ hành sinh khắc:

Tương sinh:Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy

Tương khắc:Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc Khắc Thổ, Thổ khắc Thủy

3.Chữ số và thứ bậc:

1 là trung nam, 2 là lưu nam, 3 là thiếu nam, 4 là trưởng nam, 5 là trưởng nữ, 6 là lưu nữ, 7 là trung nữ, 8 là thiếu phụ, 9 là lão phụ, 10 là thiếu nữ, 11 là lão nam, 12 là lão ông.

4.Lục xung 12 số:

Tương tự như trong Bốc Phệ, lục xung 12 số căn cứ vào địa chi làm chủ ta được như sau:

1 xung 7, 2 xung 8, 3 xung 9, 4 xung 10, 5 xung 11, 6 xung 12

Lưu ý:trong Thần Số Học không dùng dùng đến hình, hại và lục hợp mà chỉ dùng lục xung, tương tuyệt, tam hợp.Học giả nên chú ý!

5.Tương tuyệt:

Biểu hiện của tuyệt số là những sự việc xảy ra không cát lợi như tai nạn xe cộ, tai ương, bệnh tật, khẩu thiệt, hôn nhân không thuận,...

Trong quẻ Thời Không gặp các tổ số dưới đây đều phạm tương tuyệt:

5-3,3-5,1-8,1-9,8-1,9-1,2-6,6-2,7-11,11-7,12-7,7-12,10-4,4-10,11-9,12-8,6-1

6.Sao Văn Khúc-Văn Xương:

-Sao Văn Khúc đóng ở số 1,2,12

-Sao Văn Xương đóng ở 7,8,6

Hai sao này chủ về học vấn, thi cử, sự nghiệp học tập

7.Sao Huyền Vũ:3,9

Huyền Vũ chủ việc trộm cắp, lừa bịp, đen tối,...Khi phán đoán sự việc, trong quẻ Thời Không nếu có số 3 hoặc 9, thông thường thể hiện cho việc trộm cắp, lừa đảo.

8.Sao Dịch Mã:2,5,6,12

Trong tổ hợp có các số này có thể suy đoán có sự điều động công tác, di chuyển hoặc xuất ngoại

9.Số hư số thực:

Những số nằm trong trụ năm, tháng, ngày, giờ là những số thực.Lực tác động của số thực rất lớn có thể khắc hại số hư

Số hư là số không xuất hiện trong bản cung(bốn trụ).Lực tác động kém, không khắc được số thực, mang ý nghĩa như giả dối, phế bỏ,...

10.Số Động, số Tĩnh:

Số thực ở trụ ngày và giờ là số động, trong đó số giờ động mạnh hơn số ngày

Số thực ở trụ năm và tháng là số tĩnh, số tĩnh không khắc được số động

11.Một số sao khác:Mã, Tướng tinh, Kiếp Sát, Tai Sát, Đào hoa, Hoa cái,...(tham khảo sách Bốc Phệ để biết cách an)

12.Vòng Trường Sinh:

Thần số học có thể dùng tới vòng Trường Sinh.

VD:Số 7 là dương hỏa là can Bính, Bính lại Trường Sinh ở Dần, nên 7 sinh ở 3

Ngoài ra vận dụng tương tự như ví dụ trên để tìm Mộc Dục, Quan Đới,...

13.Tổ hợp cát hung:

Thần số học dùng 12 số để dự đoán cát hung nên có tới 12x12=144 cách hung, cát khác nhau vừa có khắc vừa có sinh, sinh là khắc, khắc là sinh, nó phản ánh quy luật tất yếu về sự phát triển, lớn lên, suy bại, diệt vong của vạn vật vạn sự.

Tổ hợp quẻ Thời Không có 12x12x30x12=51.840 cách cục riêng biệt.

14.Tứ chính và Bát tà:

Tứ chính gồm:1, 4, 7, 10 biểu thị sự chính phái, chính nghĩa, chính trực, chính khí, yên phận, tuân theo kỷ luật giử gìn phép tắc.

Bát tà gồm:2, 3, 5, 6, 8, 9, 11, 12 biểu thị sự bất chính, không chính đáng, không chính phái, không theo pháp luật.

15.Số trung gian:

Số trung gian là số có vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa sự khắc của hai số.

VD:Tổ số 11-5, kim khắc mộc, ta dùng Thủy điều hòa, số 1, 2 hoặc 12 là số trung gian.

Trong quẻ Sinh Thần, gặp những vận Quan, Sát đương lệnh thường chịu hung sát như bệnh tật, tai nạn, bãi chức,...nhưng một khi có chữ số trung gian xen vào thì năm đó là năm thăng quan tiến chức, thuận lợi cho học vụ, thi cử.

16.Đặc thù của 3, 8, 9:

Các chữ số 3-8-9 đều thuộc thổ, nhưng quan hệ giữa chúng là hổ tương, khắc chế.Số 3 và 9 có quan hệ tương xung và tương khắc, lúc này số 3 mang hành mộc, tương tự 3 và 8 cũng là quan hệ tương khắc, 3 là mộc khắc 8 thổ.

17.Số khả biến:

Số 6 là một số khả biến, khi tổ hợp với số dương thì nó mang tính âm, tổ hợp với số âm thì mang tính dương.

VD:6-2, lúc này số 6 là số âm

Khi ba số 5, 7, 9 tác động với số 8 và 10 thì nó chuyển thành tính dương.

18.Tam hợp phá cục:

Phá cục là chỉ tam hợp cục:Hợi-Mão-Mùi, Dần-Ngọ-Tuất, Tỵ-Dậu-Sửu, Thân-Tý-Thìn.Phá cục chính là trong tam hợp khiếm khuyết một nhánh không thể phát huy tác dụng.Chỉ cần là phá cục ắt gặp tai ương.

VD:Dần-Ngọ-Tuất(3-7-11), nếu như trong cục này thiếu Dần(3), chỉ ra cục này đã bị phá, chỉ còn lại Ngọ-Tuất(7-11) tất trở thành tổ số hung.

19.Giải thích tính Ngũ Hành 12 con số:

Nguồn gốc 12 con số và thuộc tính Ngũ Hành đều từ Bát Can, Tứ Duy mà ra, vậy Bát Can, Tứ Duy là gì?

Bát Can là tám thiên can:Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Tứ Duy là Càn, Cấn, Tốn, Khôn.

Quy Luật:

1:cung Khảm->âm thủy

2:cung Cấn thuộc Tứ Duy nên 2 nghiên về Khảm->dương(Cấn)thủy(Khảm)

3:cung Cấn -> thổ

4:cung Chấn->dương mộc

5:cung Tốn thuộc Tứ Duy  nên nghiên về Chấn->âm(Tốn) mộc(Chấn)

6: cung Tốn thuộc Tứ Duy nên nghiên về Ly->âm(Tốn) hỏa(Ly)(lưỡng tính)

7:cung Ly->dương hỏa

8: cung Khôn đồng trung cung thuộc Tứ Duy->âm thổ

9: - cung Khôn>âm thổ

10: cung Đoài->âm kim

11:cung Càn thuộc Tứ Duy->dương kim

12: cung Càn thuộc Tứ Duy nghiên về Khảm->dương (Càn) thủy (Khảm)

20.Tượng loại vạn vật của 12 số:

Số 1:

Nghề nghiệp:khoa học, văn hóa, thủy sản, hóa học.

Nhân vật:bí thư, kế toán, trẻ nhỏ.

Cơ thể người:tĩnh mạch, máu, tử cung, trứng, niêm mạc, khí quản, thanh quản.

Động vật:chuột, các loài họ chuột, não động vật, tinh trùng, trứng.

Thực vật:hạt trong quả hạch, các loài xương rồng.

Giới tự nhiên:nước ngầm, mưa, sương mù, sóng âm, sóng thanh, sóng điện, tiếng chim hót, tiếng sấm, gió bão.

Thời lệnh:ứng vào năm Tý-tháng 1-ngày 1, 21-giờ Tý

Chòm sao:Kim Ngưu, sao Thủy, sao Bắc Đẩu.

Số 2:

Nghề nghiệp:Ngành vận tải, thương mại, thủy sản, thủy lợi, thủy điện.

Nhân vật:Nhân viên thương mại, kẻ trộm, lưu manh, người phong lưu, người thuộc phe bất chính.

Cơ thể người:Nước trong cơ thể, máu động mạch chủ, huyết quản động mạch, suy nghĩ, tinh thần, thần kinh đại não, máu trong tim, sẩy thai, gan bàn chân, khuôn mặt và mắt, thận.

Động vật:Động vật giỏi chạy, động vật hoạt động trên mặt nước(loài vịt, ngỗng), ấu trùng.

Thực vật:Rễ cây.

Vật thể:Xe 2 bánh, thuyền.

Giới tự nhiên:Gió Đông Bắc, tranh sơn thủy, nước chảy, sóng nước, sông, kênh thoát nước, rãnh ngầm, ống nước, sông ngầm, mây trôi trên trời.

Thời lệnh: ứng vào năm Sừu-tháng 2-ngày 2, 22-giờ sửu.

Chòm sao:Song Tử.

Số 3:

Nghề nghiệp:Các ngành khai khoáng, vật liệu, khai thác quặng, dây kim loại, đồ tể, bảo vệ.

Nhân vật:Nhân viên bảo vệ, anh hùng, hảo hán, hung nô, đạo tặng, đại thần khai quốc, vua bạo ngược.

Cơ thể người:Bộ xương, thận, lá lách, eo, chân, gan bàn chân, da thịt ở hạ bộ, thuộc mạch chủ, lá lách.

Động vật:Hổ, động vật họ mèo, cáo, thạch sùng, mọt, sâu ăn lá cây, chân sau của động vật

Vật thể:Roi tre dài, bít tất.

Đồ vật:Bánh sau của xe, tranh hổ, tranh mèo, tranh sơn thủy.

Giới tự nhiên:Núi lớn, tường đầu hồi nhà, đá xanh trên mặt đất.

Thời lệnh: ứng vào năm Dần-tháng 3-ngày 3, 23, 13-giờ Dần.

Chòm sao:Cự giải, Tam Sát, Bạch Hổ.

Số 4:

Nghề nghiệp:Ngành sửa chữa, chế tạo, chế biến gỗ.

Nhân vật:Thợ mộc, nghề mộc, bảo vệ, thuộc phe chính nghĩa.

Cơ thể người:Mật, chân tay, da, tóc, thuộc mạch chủ.

Động vật:Thỏ, sư tử.

Thực vật:Cây bông, cây rừng, hoa cỏ, thân thực vật, vỏ thực vật.

Vật thể:Dụng cụ bằng gỗ, giường, tủ, bàn ghế, dụng cụ đo lường hình vuông, vật phẩm dùng trên giường.

Giới tự nhiên:Rau, dược liệu làm thuốc, sấm, thuyền lênh đênh trên mặt nước.

Thời lệnh: ứng vào năm Mão-tháng 4-ngày 4, 24, 14-giờ Mão.

Chòm sao:Sư tử, Thiên Thố.

Số 5:

Nghề nghiệp:Nhà hàng, vật liệu, thuốc, trồng hoa, cây cảnh.

Nhân vật:Chị em, trưởng nữ.

Cơ thể người:Gan, dây thần kinh liên sườn, 5 ngón tay, 5 ngón chân, da, tóc, lông và tóc, hình thể phụ nữ mang thai, hệ thần kinh.

Động vật:Côn trùng có cánh, loài chim, con nhím.

Thực vật:Cây lương thực, hoa cỏ, hoa mai, lương thực, quả, cây cảnh, cây ăn quả, cây cho hoa, các loại quả táo, quýt, chuối.

Vật thể:Tay cầm công cụ bằng gỗ, hàng mỹ nghệ, quần lót.

Giới tự nhiên:Gió bão, lốc xoáy, phong cảnh.

Thời lệnh: ứng vào năm Thìn-tháng 5-ngày 5, 25, 15-giờ Thìn.

Chòm sao:Thất, Nữ, Thiên Long.

Số 6:

Nghề nghiệp:Ngành thủ công, nghề rèn, nghề liên quan đến lửa, văn nghệ.

Nhân vật:Giới văn nghệ, nữ giới sống phong lưu, phóng đãng, người đa tài nghệ, người có khả năng diễn thuyết, biện luận.

Cơ thể người:Ruột non, ruột non, kết tràng, phần bụng dưới, hệ thần kinh.

Động vật:Rắn, phượng hoàng, bồ câu, côn trùng có cánh gây độc cho người, côn trùng phát sáng, con lươn.

Vật thể:Váy, quần, váy màu hồng, đá mài màu hồng.

Giới tự nhiên:Vật thể phát sáng, gió nóng, đám cháy, đá màu đỏ, lửa, khói, lửa nhân tạo, lửa chiến tranh, thiên tai hỏa hoạn, sát thương.

Thời lệnh: ứng vào năm Tỵ-tháng 6-ngày 6, 26,16-giờ Tỵ

Chòm sao:Thiên bình, sao Hỏa, tinh thể phát nhiệt.

Số 7:

Nghề nghiệp:Công nghiệp luyện kim, điện lực, vũ khí đạn dược phục vụ quân đội.

Nhân vật:Phụ nữ không kết hôn hoặc kết hôn muộn, nhân viên phục vụ.

Cơ thể người:Huyết quản, ngực, tâm thất trái, tâm thất phải, trái tim, nhiệt cơ thể, máu nóng, hệ thần kinh màng tim.

Động vật:Họ ngựa.

Vật thể:Kim chỉ Nam, đạn dược, súng ống, pháo hoa, đèn điện, cáp điện, váy.

Giới tự nhiên:Chớp, sấm, hỏa hoạn do điện.

Thời lệnh: ứng vào năm Ngọ-tháng 7-ngày 7, 27,17-giờ Ngọ.

Chòm sao:Thiên hạt.

Số 8:

Nghề nghiệp:Đốt lò, khai thác quặng, đào giếng, xây dựng dân dụng, bất động sản.

Nhân vật:Nông dân, nghệ nhân làm gốm, thiếu phụ.

Cơ thể người:Bộ phận ngực, phần cuối dạ dày, ruột, vú, bạch huyết, hệ thần kinh dạ dày, cơ thể phát lạnh.

Động vật:Họ dê, lừa, la, cua, loài động vật ngủ đông trong tháng 6, động vật nuôi nhốt.

Vật thể:Cái túi, bao tải gai, vò nước, bình rượu, cót quây đồ, áo, áo khoác.

Giới tự nhiên:Hố, giếng, rãnh, sông, đất trũng, đầm lầy, hồ ao, nhà giam, ngõ hẻm, đường hầm, hang động.

Thời lệnh: ứng vào năm Mùi-tháng 8-ngày 8, 28,18-giờ Mùi

Chòm sao:Nhân mã.

Số 9:

Nghề nghiệp:Nghề đúc kim loại, lò nung, phế phẩm xi măng, sản xuất tại địa phương.

Nhân vật:Phụ nữ nhiều tuổi.

Cơ thể người:Đại tràng, ruột, yết hầu, thực đạo, bộ phận cổ, cường giáp, bạch huyết, phần lưng, xương bả vai, mạch máu, hệ thần kinh đại tràng.

Động vật:các loài khỉ.

Vật thể:Khăn quàng cổ, gối, mủ bảo hiểm, trang vẽ Tôn Ngộ Không và khỉ, các tòa nhà cao tầng.

Giới tự nhiên:Gò cát, đống đất, đống rác, nấm mộ, đường, cầu, khe núi, đoạn đất hiểm yếu khu núi.

Thời lệnh: ứng vào năm Thân-tháng 9-ngày 9, 29,19-giờ Thân.

Chòm sao:Ma kết.

Số 10:

Nghề nghiệp:Ngành kim loại, tài chính, chế tạo kim loại, gia công kim loại, khai thác quặng.

Nhân vật:Thiếu nữ, người bảo thủ, người giỏi tranh luận.

Cơ thể người:Động mạch chủ, bạch huyết, xương, thần kinh phổi, 12 đốt xương sống, miệng, đầu lưỡi, răng, thực đạo, phế.

Động vật:Gà, giống gà.

Vật thể:Khẩu trang, xe đạp, xe hơi, khung xe, chế phẩm thuộc Kim, nồi thủy tinh, đá xanh, con lăn bằng đá, ngọc thạch, đồ cổ, hàng mỹ nghệ, đồ kim loại dùng trong gia đình, chìa khóa.

Giới tự nhiên:Tiền, vàng dưới đất, kim loại.

Thời lệnh: ứng vào năm Dậu-tháng 10-ngày 10, 20, 30-giờ Dậu

Chòm sao:sao Kim, Bảo bình

Số 11:

Nghề nghiệp:Ngành hành chính, cơ quan pháp luật, kiểm tra, bảo vệ,  quân sự, hệ thống tiền tệ, ngân hành, kim loại, gan thép, vật liệu xây dựng, công cụ.

Nhân vật:Công an, nhân viên vũ trang, lãnh đạo hành chính, người điên.

Cơ thể người:Thần kinh tam xoa, thực đạo, môn vị, thần kinh tam tiêu.

Động vật:các loài chó, diều hâu, chim nhạn.

Vật thể:bao gồm các loại xe, máy bay, súng, dao, rìu, bảo kiếm, linh kiện có đầu thép kim loại, bánh sau của xe 3 bánh, kiến trúc lớn, súng máy, nhà lầu.

Giới tự nhiên:Tiền của, ngọn núi cao, chớp trong không trung.

Thời lệnh: ứng vào năm Tuất-tháng 11-ngày 11-giờ Tuất.

Chòm sao:Song ngư, sao Tuệ.

Số 12:

Nghề nghiệp:Ngành khí tượng, ngành truyền hình, cơ quan chính phủ, đảng.

Nhân vật:Lãnh đạo đảng, cha già, tổ phụ, bá phụ.

Cơ thể người:Não, huyết quản,thần kinh, hệ thống thần kinh, đại não, màu thuộc bộ phận đại não, mắt, tinh thần, thần kinh bàng quang, sợ hãi.

Động vật:Lợn, cá kình, voi, con vật khổng lồ.

Vật thể:Mũ, tivi, kính, thủy tinh, đồ mỹ nghệ.

Giới tự nhiên:Mưa, tuyết, sương mù, mưa đá, hố, bờ ruộng, hồ.

Chòm sao:Bạch dương.                                                                                                           

-Tượng vạn vật trên đây chỉ liệt kê sơ lược, không thể nói hết vạn vật vạn sự trong thế giới được.Vì vậy khi đoán quẻ phải tuân thủ nguyên tắc thông biến, thông biến chính là suy đoán hợp lý, lý giải rõ hoàn cảnh sự vật sao cho hợp tình hợp lý, coi trọng sự linh hoạt, kỵ cứng nhắc, nhằm suy đoán quẽ nhanh chóng, chuẩn xác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chương I: Nhập Môn Thần Số Học

Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới?

Trong 3 năm tới, nhờ vận khí vượng mà những con giáp dưới đây không thăng quan cũng phát tài phát lộc, tình duyên lí tưởng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người tuổi Tỵ   Vận khí của người tuổi Tỵ trong 3 năm nữa luôn giữ ở mức bình ổn, tốt đẹp. Nhất là năm 2017, vận khí đạt mức đỉnh điểm, tin vui nối tiếp tin vui, tài lộc phát vượng vô cùng.   Cục diện sự nghiệp trong 3 năm tới của con giáp này có sự biến động lớn, cơ hội thăng quan tiến chức rộng mở thênh thang. Ngay từ bây giờ, bạn cần xác định mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Công sức và sự nỗ lực bạn bỏ ra chắc chắn sẽ gặt hái được thành quả tốt đẹp trong thời gian sắp tới. Vậy nên đừng vội nản chí mà bỏ cuộc giữa chừng nhé.  

Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh
 
2. Người tuổi Mùi   Trong danh sách con giáp thành đạt trong 3 năm tới không thể không nhắc đến người tuổi Mùi. Bước vào năm 2016, vận thế của người tuổi Mùi đã có sự chuyển biến tích cực. Ảnh hưởng của Thái Tuế trong năm 2015 giảm đi đáng kể, thay vào đó là vận khí tốt lành. Tính cách của con giáp này cũng trở nên lạc quan, suy nghĩ tích cực và thông thoáng hơn rất nhiều. Gặp sự khó khăn không né tránh mà sẵn sàng đương đầu, hạ quyết tâm xử lý triệt để. Đó chính là một trong những yếu tố góp phần tạo nên thành công sự nghiệp rực rỡ cho bạn.   Trong công việc, tư duy sáng tạo của bạn linh hoạt hơn hẳn, làm việc gì cũng xông xáo để thể hiện tài năng. Vậy nên, cơ hội thăng quan tiến chức ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, lại gặp được bạn hiền, có quý nhân ở bên, khó khăn trong công việc nhanh chóng được tháo gỡ.    Dẫu sao, vận khí may mắn cũng chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi yếu tố liên kết để mang lại thành công cho bạn. Sự nỗ lực của bản thân vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đừng bao giờ quên điều đó.
Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh
 
3. Người tuổi Thân   Năm 2016 là năm tuổi của người tuổi Thân trong mười hai con giáp, chịu ảnh hưởng của Thái Tuế, vận thế tổng quan không mấy lý tưởng. Nhưng so với những năm tuổi của các con giáp khác, vận thế của bạn có phần khá hơn, vẫn có không ít cơ hội phát triển.   Tuy nhiên, bạn sẽ trải qua một năm bận rộn, khá vất vả. Đổi lại, bạn cũng được đồng nghiệp tin tưởng, cấp trên đánh giá cao, con đường công danh sự nghiệp cũng từ đó được củng cố và phát triển. Tương lai trong 3 năm tới sẽ gặt hái được thành tựu lớn, đáng khiến người khác ngưỡng mộ.   Đặc biệt, khi bước sang năm 2017, vận thế của người tuổi Thân được ví như cá gặp nước, hanh thông đủ đường. Đó chính là thời điểm lý tưởng để bạn phát triển mọi mặt của bản thân, bao gồm cả sự nghiệp, tài lộc và tình duyên, cần chủ động nắm bắt để sớm “về đích”.  
Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh
 
4. Người tuổi Hợi   Trong ba năm tới, có thời điểm người tuổi Hợi được sự tương trợ của Lưu niên đại vận, xuất hiện nhiều cơ hội kiếm tiền và thành danh. Dù bản thân con giáp này không thích bon chen, có thể tự mình bỏ lỡ một vài cơ hội tốt đẹp, nhưng xét về tổng thể, vận khí may mắn sẽ giúp bạn vượt lên tất cả, mang về thành quả đáng tự hào.   Chính vì thế, cuộc sống trong 3 năm tới của bạn hứa hẹn sự thảnh thơi, đón nhận nhiều tin vui liên tiếp về sự nghiệp và tài lộc. Bên cạnh đó, bản mệnh lại được Hồng Loan cát tinh chiếu mệnh, vận đào hoa theo đó cũng vượng dần lên, không khó để tìm được nửa kia ưng ý và sống với nhau tới đầu bạc răng long.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới?

Điềm báo trước

ĐIỀM hay còn gọi là giác quan thứ 6 Máy mắt: Máy mắt là một điềm thông thường hơn hết mà mỗi người trong chúng ta đều biết. Đó là một tác động tự nhiên xảy ra; bất cứ lúc nào mà không làm sao khống chế được, ngoại trừ tác động ấy ngừng lại, cűng tự nhiên như lúc xảy ra. Về sự ứng nghiệm của loại điềm này thì mỗi người hiểu một nghĩa khác nhau và gần như do sự truyền khẩu, mà không căn cứ vào đâu cả. Đại khái đàn ông máy mắt phải là tốt, máy mắt trái là xấu. Còn đàn bà thì ngược lại.
Điềm báo trước

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đó là lề lối thông thường dựa trên nguyên tắc "nam tả nữ hữu " , mà chúng ta có thể nói là khá sai lầm, nếu không bảo là vô căn cứ.
Theo nghiên cứu qua những sách Đông Tây nêu trên, thì giá trị của điềm máy mắt tương đồng như sau, bất luận là nam hay nữ.

Máy mắt trái

- 23 giờ đến 1 giờ có bạn bè ở xa về.
- 01 giờ đến 03 giờ buồn bực do người trong thân gây ra.
- 03 giờ đến 05 giờ có người mang tài lợi đến.
- 05 giờ đến 07 giờ có người âm thầm giúp đỡ mình, sẽ có tin trong vài ngày.
- 07 giờ đến 09 giờ có khách quấy rầy.
- 09 giờ đến 11 giờ Có người mời ăn uống.
-11 giờ đến 12 giờ có người đem tin vui về.
-13 giờ đến 15 giờ có tin vui.
-15 giờ đến 17 giờ gặp chuyện bất ngờ về tình cảm.
-17 giờ đến 19 giờ có khách sang đến nhà bàn chuyện hôn nhân, hay chuyện làm ăn.
-19 giờ đến 21 giờ việc suy tính trong lòng sắp thành tựu.
-21 giờ đến 23 giờ có khách quí đến nhà.

Máy mắt phải

- 23 giờ đến 1 giờ Có rượu thịt, ăn uống.
- 01 giờ đến 03 giờ Có người thân nhắc nhở.
- 03 giờ đến 05 giờ Sắp có tin lành đem đến.
- 05 giờ đến 07 giờ Tài lợi bất ngờ.
- 07 giờ đến 09 giờ Có lời ăn tiếng nói, đề phòng có thể đến tụng đình.
- 09 giờ đến 11 giờ Có kẻ gây chuyện, đề phòng xô xát.
-11 giờ đến 12 giờ Đề phòng tai nạn hoặc mất của.
-13 giờ đến 15 giờ Hao tài không đáng kể.
-15 giờ đến 17 giờ Có người khác phái đang tưởng nhớ đến mình.
-17 giờ đến 19 giờ Có bà con ở xa đến thăm.
-19 giờ đến 21 giờ Có người rủ đi du lịch.
-21 giờ đến 23 giờ Có chuyện rắc rối, làm mang lời ăn tiếng nói.


Nhảy műi

Nhảy műi do cảm sốt gây ra là chuyện thông thường, không liên quan gì cả và cűng không có giá trị gì đối với những điềm.
Ngược lại, bỗng nhiên nhảy műi liên tiếp nhiều lượt, một hay nhiều cái. Chúng ta có câu ví thông thường:

-nhảy műi (một cái) có tài; - Nhảy műi hai cái có lợi. Câu ấy cűng có một phần đúng, vì hầu hết những lần nhảy műi như thế là điềm tốt lành mà ít khi có điềm dữ.

* Việc nhảy műi một hay nhiều cái, giá trị vẫn như nhau.

- 23 giờ đến 1 giờ Có bgười mời dự tiệc hoặc dự lễ linh đình.
- 01 giờ đến 03 giờ Có người khác phái rủ mình làm một việc tuy có lợi, nhưng rất hại cho người khác.
- 03 giờ đến 05 giờ Có cuộc hẹn hò về tình cảm.
- 05 giờ đến 07 giờ Có người mang quà đến tặng.
- 07 giờ đến 09 giờ Có lộc ăn.
- 09 giờ đến 11 giờ Có quới nhân sẳn sàng giúp đỡ, đáp ứng sự mong muốn trong lòng mình từ lâu.
-11 giờ đến 12 giờ Có thân nhân từ xa về, đem tài lợi đến cho mình.
-13 giờ đến 15 giờ Có lộc ăn và có lợi vào.
-15 giờ đến 17 giờ Có tin làm mình lo sợ, nhưng rốt cuộc đâu vào đó, mọi việc đều êm đẹp.
-17 giờ đến 19 giờ Có người khác phái nhờ giúp một việc gì, có lợi về tiền cűng như tình cảm.
-19 giờ đến 21 giờ Có người khác phái tưởng nhớ đến mình, sẽ viết thơ cho mình.
-21 giờ đến 23 giờ Có sự lo nghĩ về tiền bạc, nhưng vẫn giải quyết dễ dàng.


Mặt nóng
Tự nhiên ta thấy mặt nóng bừng ngứa ngáy khó chịu mà không phải do bệnh chứng gây ra. Đó là một điềm.
Mặt bừng nóng tuy là một điềm nhưng cűng chưa phải là điềm dữ, mà chỉ là một lối báo ứng tự nhiên và vẫn có những giá trị khác nhau tùy theo thời gian xảy ra.

Ngoài việc mặt nóng, còn tai nóng, lắm lúc bừng đỏ trông thấy. Gần như một thứ phong ngứa thường gọi là mề đai. Thật ra đó là điềm nóng tai. Điềm này cűng có giá trị tương đương như mặt nóng.

- 23 giờ đến 1 giờ Công việc trù tính sẽ được thu xếp, lợi vào.
- 01 giờ đến 03 giờ Sắp có chuyện bực mình, có lục đục trong nhà.
- 03 giờ đến 05 giờ Có người bạn đến nhà mời hợp tác.
- 05 giờ đến 07 giờ Có người mời ăn uống.
- 07 giờ đến 09 giờ Người xa về đem tin vui.
- 09 giờ đến 11 giờ Người cű tưởng nhớ đến mình, mong gặp để giúp đỡ.
-11 giờ đến 12 giờ Có chuyện xích mích giữa người trong thân.
-13 giờ đến 15 giờ Có cãi vả, đề phòng to chuyện.
-15 giờ đến 17 giờ Có người giới thiệu khách quí muốn hợp tác với mình.
-17 giờ đến 19 giờ Được người dòm ngó đến mình.
-19 giờ đến 21 giờ Có lộc thực mang đến.
-21 giờ đến 23 giờ Có kẻ vu cáo mình đến tụng đình.

Tai (ù)

Triệu chứng ù tai gần giống như lúc tắm bị nước vào tai lùng bùng, y như gió thổi mạnh vào. Đó là một điềm xảy ra bất ngờ và rất dễ nhận.
Ù tai có những giá trị khác nhau và riêng rẽ giữa tai phải và tai trái, khác với tai nóng.

Tai trái
- 23 giờ đến 1 giờ Có người khác phái đang mong nhớ.
- 01 giờ đến 03 giờ Mang lời ăn tiếng nói.
- 03 giờ đến 05 giờ Có việc hao tài, nhưng không đáng kể
- 05 giờ đến 07 giờ Có kẻ rình rập, đề phòng mất trộm.
- 07 giờ đến 09 giờ Có việc phải đi xa.
- 09 giờ đến 11 giờ Tai biến nặng nề, đề phòng xe cộ.
-11 giờ đến 12 giờ Người thân từ xa về, có sự vui vẻ trong nhà.
-13 giờ đến 15 giờ Có người mời ăn uống.
-15 giờ đến 17 giờ Có người rủ đi du lịch.
-17 giờ đến 19 giờ Đề phòng mất đồ trong nhà.
-19 giờ đến 21 giờ Có ăn uống.
-21 giờ đến 23 giờ Tin vui, có tài lợi vào.


Tai phải
- 23 giờ đến 1 giờ Hao tài còn mang tai tiếng.
- 01 giờ đến 03 giờ Có việc kiện thưa. Ít phần thắng, nhiều phần thiệt.
- 03 giờ đến 05 giờ Có cải vả giữa vợ chồng, nên nhường nhịn nhau kẻo đỗ vở.
- 05 giờ đến 07 giờ Có khách quí đến thăm hoặc dạm hỏi.
- 07 giờ đến 09 giờ Có người đến cạnh nhờ vã mình.
- 09 giờ đến 11 giờ Tài đến bất ngờ, vui trong nhà.
-11 giờ đến 12 giờ Có người trong thân đến thăm.
-13 giờ đến 15 giờ Có tin từ xa đưa về.
-15 giờ đến 17 giờ Người vắng nhà từ lâu bỗng nhiên trở lại.
-17 giờ đến 19 giờ Có người mời hợp tác trong công việc lợi lộc.
-19 giờ đến 21 giờ Có của bất ngờ.
-21 giờ đến 23 giờ Có rượu thịt, ăn uống. Hoặc có người mời dự tiệc.

Thịt giựt
Tự nhiên một vài nơi trong người, nhất là các bắp thịt giựt nổi phồng lên, hoặc máy động. Đó là một điềm, thịt giựt hay thịt máy cűng thề.

- 23 giờ đến 1 giờ Có tin chia gia tài, hoặc có của bất ngờ.
- 01 giờ đến 03 giờ Con cái từ xa về, mang lại vui vẻ cho gia đình.
- 03 giờ đến 05 giờ Chuyện nhỏ hóa to, nếu không nhường nhịn sẽ có kiện tụng.
- 05 giờ đến 07 giờ Có người mang quà đến tặng để nhờ mình giúp một việc gì.
- 07 giờ đến 09 giờ Đề phòng tai nạn bất ngờ xảy ra cho con cái trong nhà.
- 09 giờ đến 11 giờ Có khách lạ tìm đến nhờ mình, việc có lợi cho mình.
-11 giờ đến 12 giờ Có người dèm pha, đề phòng bạn bè phản trắc.
-13 giờ đến 15 giờ Có của bất ngờ, thử mua số.
-15 giờ đến 17 giờ Có gia tài nhưng cűng có chuyện lôi thôi nhỏ.
-17 giờ đến 19 giờ Hao tài mang nhiều tai tiếng.
-19 giờ đến 21 giờ Con cái ở xa về, gia đình vui vẻ.
-21 giờ đến 23 giờ Công việc thảnh tựu, tài lợi dồi dào.

Hồi hộp
Tự nhiên trong người phát hồi hộp, như lo sợ một chuyện gì. Tim đập liên hồi, đầu óc xáo trộn. Đó là một điềm báo tin, dĩ nhiên cűng có lành, cűng có dữ.

- 23 giờ đến 1 giờ Có người chờ mong trong cuộc ân tình.
- 01 giờ đến 03 giờ Tai họa bất ngờ, đề phòng có kẻ phao vu.
- 03 giờ đến 05 giờ Có người mời ăn uống.
- 05 giờ đến 07 giờ Có khách sang đến, lợi vào.
- 07 giờ đến 09 giờ Tin vui, tài lộc tới tấp, thử mua vé số.
- 09 giờ đến 11 giờ Gặp chuyện tâm tình, có cơ thành tựu.
-11 giờ đến 12 giờ Có sự hội họp ngẫu nhiên, tiền vào nhà.
-13 giờ đến 15 giờ Duyên bất ngờ, thơ mộng nhưng không thành.
-15 giờ đến 17 giờ Tin từ xa về, vui vẻ.
-17 giờ đến 19 giờ Có người trong thân đến thăm và giúp đỡ.
-19 giờ đến 21 giờ Có người rủ rùn hạp, lợi vào, nên nhận.
-21 giờ đến 23 giờ Tai nạn có thể xảy ra, hung tin.

Nồi kêu
Nồi đặt lên bếp chưa nóng, tự nhiên có tiếng phát ra như tiếng nước sôi, mặc dầu bên trong không phải là nước. Đó là điềm đem tới báo sự kiết, hung.
- 23 giờ đến 1 giờ Có người mang quà đến biếu.
- 01 giờ đến 03 giờ Tài lợi sẽ vào.
- 03 giờ đến 05 giờ Tai họa sẽ đến, gây rối rắm trong gia đình.
- 05 giờ đến 07 giờ Có người gây sự, sẽ đến tụng đình.
- 07 giờ đến 09 giờ Điềm lành, yên vui kéo dài.
- 09 giờ đến 11 giờ Lợi lộc tới tấp nhưng phải đề phòng lợi vào lời ra.
-11 giờ đến 12 giờ Có cải vã, nên nhường nhịn là hơn.
-13 giờ đến 15 giờ Đề phòng rủi ro, nhất là nên tránh đi sông, biển.
-15 giờ đến 17 giờ Có tin từ xa về, vui vẻ.
-17 giờ đến 19 giờ Có của bất ngờ, thử mua vé số.
-19 giờ đến 21 giờ Có người rủ đi ăn nhậu.
-21 giờ đến 23 giờ Có tranh tụng nhưng thắng lợi về mình.

Lửa cười
Lửa trong lò không gió, không cao ngọn, thế mà tự nhiên phì phì như có người thổi.
Đó là một loại điềm, gọi là lửa cười.
- 23 giờ đến 1 giờ Có điềm không hay, vợ chồng có ngoại tâm.
- 01 giờ đến 03 giờ Coi chừng con cái sẽ bỏ nhà theo tình nhân.
- 03 giờ đến 05 giờ Điềm lành có người muốn cầu thân.
- 05 giờ đến 07 giờ Tiền của vào lúc rạng đông, mọi sự vui vẻ.
- 07 giờ đến 09 giờ Có chuyện buồn phiền, cố gắng thu xếp mới yên thân.
- 09 giờ đến 11 giờ Có người mời dự tiệc.
-11 giờ đến 12 giờ Có kiện tụng, nên ôn hòa mới tránh được phiền nhiễu.
-13 giờ đến 15 giờ Có người nâng đỡ, việc trù liệu sẽ thành.
-15 giờ đến 17 giờ Gặp của bất ngờ trong lúc đi đường.
-17 giờ đến 19 giờ Có tai biến trong nhà, có thể là tang khó.
-19 giờ đến 21 giờ Người tình cű tìm đến, thơ mộng lại bắt đầu.
-21 giờ đến 23 giờ Bệnh bất ngờ, cần chạy chữa gấp.

Chó sủa
Chó trong nhà tự nhiên dõ mõm vào mình sủa, hoặc tru dài. Đó là một điềm mà mỗi người định nghĩa một lối, tựu trung đều cho là điềm gỡ, nhưng cűng không hiểu được điềm gở đó là điềm gì.

- 23 giờ đến 1 giờ Trong nhà có ngoại tình, nên dằn kẻo có đổ vỡ.
- 01 giờ đến 03 giờ Nguy hiểm sắp đến, cẩn thận kẻo bị hàm oan.
- 03 giờ đến 05 giờ Người cű tìm nối lại ân tình, đề phòng ghen tuông.
- 05 giờ đến 07 giờ Có tin về tiền bạc mất mát từ lâu, nay được hoàn lại.
- 07 giờ đến 09 giờ Được của hoạnh tài, thử mua vé số.
- 09 giờ đến 11 giờ Có người trong thân đến báo một hung tin.
-11 giờ đến 12 giờ Có người mời ăn uống.
-13 giờ đến 15 giờ Tai nạn có thể xảy ra cho vợ con, hoạc chồng, đề phòng lúc đi đường.
-15 giờ đến 17 giờ Có cải vã với người lân cận, thành to chuyện.
-17 giờ đến 19 giờ Có người nâng đỡ vào một địa vị.
-19 giờ đến 21 giờ Có kẻ rắp tâm hại mình, nguy hiểm.
-21 giờ đến 23 giờ Có kiện tụng, hao tốn tiền bạc, mang tai tiếng.


Quạ kêu
Quạ bay ngang nhà buông những tiếng dài không dứt. Đó là một thứ điềm.

- 23 giờ đến 1 giờ Có người thân thích từ xa về, gia đình sum họp.
- 01 giờ đến 03 giờ Có người mang tin vui đến.
- 03 giờ đến 05 giờ Có tranh tụng nhưng không nguy hại.
- 05 giờ đến 07 giờ Có người mời dự tiệc, đem lợi vào.
- 07 giờ đến 09 giờ Tài lợi vào tới tấp.
- 09 giờ đến 11 giờ Có tin may mắn.
-11 giờ đến 12 giờ Phòng bệnh bất ngờ.
-13 giờ đến 15 giờ Hao tài, mất đồ vật trong nhà.
-15 giờ đến 17 giờ Có người mời hợp tác, sẽ thành công.
-17 giờ đến 19 giờ Phiền muộn, nặng lo âu.
-19 giờ đến 21 giờ Lợi lộc vào nhiều, may mắn.
-21 giờ đến 23 giờ Có cãi vả với người ngoài đường, sinh ẩu đả.

Chim Heo kêu

Chim heo là loài chim nhỏ, tiếng phát ra như tiếng heo la. Loài chim này luôn luôn xuất hiện về đêm, ban ngày thì tuyệt nhiên không có. Khi loài chim này kêu chỉ műi vào nhà, đó là điềm gở, đáng lo ngại.

-19 giờ đến 21 giờ Có điều tang khó trong gia đình.
-21 giờ đến 23 giờ Hung tin từ xađưa về.
- 23 giờ đến 1 giờ Mất một người thân, đề phòng gìn giữ trẻ em.
- 01 giờ đến 03 giờ Tai nạn xe cộ cho người trong nhà.
- 03 giờ đến 05 giờ Người đau nặng sẽ tuyệt vọng.

Chim Khách Kêu

Khác hơn chim heo, loài chim khách chỉ đến vào lúc ban ngày từ nhiều phương. Nên tiếng kêu của chim khách cűng cần theo phương hướng mà định giá trị.

* Hướng Đông:

-Từ 7 giờ đến 11 giờ Có tài lộc của khách xa mang đến.

-11 giờ đến 12 giờ Có sự tranh dành quyền lợi trong gia đình.

-Từ 13 đến 17 giớ Có kẻ mưu hại mình, đề phòng kẻ dưới tay.

* Hướng Đông-Nam:

-Từ 7 giờ đến 11 giờ Có khách tài hoa đến thăm, vui vẻ nhiều.

-11 giờ đến 12 giờ Có người mời đi du lịch.

-Từ 13 đến 17 giớ Tin từ xa về, hung nhiều hơn kiết.

* Hướng Nam:

-Từ 7 giờ đến 11 giờ Có tiệc tùng.

-11 giờ đến 12 giờ Có sự tranh dành quyền lợi trong gia đình.

-Từ 13 đến 17 giớ Tin vui từ xa đưa về.

Hướng Tây-Nam:

-Từ 7 giờ đến 11 giờ Có người đến cầu thân. -11 giờ đến 12 giờ Có chuyện buồn bực. -Từ 13 đến 17 giớ Đề phòng hỏa hoạn.

* Hướng Tây:

-Từ 7 giờ đến 11 giờ Có cãi vã trong gia đình.

-11 giờ đến 12 giờ Có người mang quà tặng.

-Từ 13 đến 17 giớ Có tin lành.

* Hướng Tây-Bắc:

-Từ 7 giờ đến 11 giờ Có khách quí đến nhà.

-11 giờ đến 12 giờ Có người mời ăn uống.

-Từ 13 đến 17 giớ Khách cű đến thăm và giúp đỡ.

* Hướng Bắc:

-Từ 7 giờ đến 11 giờ Có khách đến viếng nhà, cầu hôn.

-11 giờ đến 12 giờ Có người đem đồ vật đến tặng.

-Từ 13 đến 17 giớ Súc vật đang nuôi bị hao hớt.

* Hướng Đông-Bắc:

-Từ 7 giờ đến 11 giờ Có người trong thân đến thăm.

-11 giờ đến 12 giờ Người cű mang quà đến biếu.

-Từ 13 đến 17 giớ Có khách quí đến nhà.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điềm báo trước

Trang trí phòng cưới như thế nào là hợp lý? –

Phòng cưới được coi là ngôi nhà hạnh phúc của các cặp uyên ương, nơi đây họ cùng nhau ươm mầm hạnh phúc và xây dựng cuộc sống cho đến đầu bạc răng long. Vì vậy, việc trang trí phòng cưới không chỉ làm đẹp cho ngày hôn lễ mà còn góp phần tăng thêm sức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khoẻ và hạnh phúc để đôi uyên ương bên nhau trọn đời thông qua cách bố trí các đồ đạc trong phòng.

giuong-cuoi5

Để có một phòng cưới tràn đầy không khí tươi vui, ấm áp mà không cần phải trang trí quá cầu kì, bạn có thể làm theo cách sau:

–  Cắt chữ hỉ dán ở tường và cửa sổ phòng cưới biểu thị sự vui vẻ, hạnh phúc tràn đầy.

–  Treo những chiếc đèn ngũ sắc hoặc đèn màu hiện đại làm tăng sự ấm áp cho căn phòng.

–   Bô” trí đồ nội thất phải chọn theo gam màu nhạt và trung tính, tránh những đồ vật có màu sắc quá đậm.

–  Đặt ở bàn trang điểm một bó hồng thật lớn hoặc chuẩn bị hai cây nến màu hồng ngả vào nhau cho không gian thêm lãng mạn.

Điều quan trọng nhất trong trang trí phòng cưới là vị trí kê giường tân hôn bởi nơi kê đặt giường không hợp phong thuỷ sẽ khiến khí trường cơ thể người và khí trường của cả ngôi nhà không cân đối hài hòa với nhau, làm cho cuộc sống vợ chồng có những rạn nứt về tình cảm bởi có sự thay đổi về tính tình. Bởi vậy, khi bố trí giường cưới phải hết sức chú ý:

–   Không kê giường mới sơn vào phòng vì mùi sơn mới sẽ khiến không khí trong phòng ngột ngạt gây khó chịu, mất ngủ thậm chí suy nhược thần kinh do không được nghỉ ngơi sau một ngày tiếp khách mệt mỏi.

Nhiều cặp vợ chồng trẻ cho rằng, đánh véc ni màu hồng cho giường ngủ sẽ khiến không gian phòng lãng mạn hơn, điều này là hoàn toàn sai vì nhìn nhiều màu hồng có tác hại làm suy nhược thần kinh não, gây hốt hoảng bất an, dễ sinh bẳn gắt, từ đó gây hục hặc bất hòa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí phòng cưới như thế nào là hợp lý? –

Vì sao 12 chòm sao không thể quên được người yêu cũ

Người yêu cũ như một từ khóa cấm kị khiến ta day dứt trong tim. Với 12 chòm sao, lý do mà họ không thể quên được người yêu cũ là gì, cùng tìm hiểu nhé.
Vì sao 12 chòm sao không thể quên được người yêu cũ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người yêu cũ như một từ khóa cấm kị khiến ta day dứt trong tim. Với 12 chòm sao, lý do mà họ không thể quên được người yêu cũ là gì, cùng tìm hiểu nhé.
Đối với rất nhiều người thì người yêu cũ là chủ đề không bao giờ nên nhắc tới tới, bởi dù thời gian trôi qua đã rất lâu rồi hay chỉ mới đây thôi, họ cũng chẳng thể nào quên được người yêu cũ. Có rất nhiều nguyên nhân ẩn chứa sau sự đổ vỡ của mỗi một cuộc tình. Hôm nay, hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu xem vì sao mà 12 chòm sao không thể quên được người yêu cũ nhé.


ly do 12 chom sao khong the quen duoc nguoi yeu cu
 
 

Bạch Dương: Vì vốn dĩ có thể không cần phải chia tay

  Chòm sao này là người rất mạnh mẽ, chính vì thế mà đôi khi họ đưa ra nhiều quyết định quá dứt khoát trong những lúc lý trí không được tỉnh táo, tình yêu tan vỡ chỉ vì một sự bốc đồng nào đó.   Nếu Bạch Dương mãi chẳng thể quên được người cũ thì điều đó chứng tỏ rằng cuộc tình chấm dứt là do bản thân họ mà ra. Con người Dương Dương thẳng thắn, nói năng đôi khi thiếu suy nghĩ, cũng chẳng biết lựa lời mà nói. Nhiều lúc vì thế mà họ làm tổn thương người ấy, khiến cho tình duyên vốn đẹp đẽ nay lại kết thúc trong đau khổ và hối tiếc muộn màng.

Thử xem 12 chòm sao quay lại với người yêu cũ như thế nào nhé.
 

Kim Ngưu: Không cam tâm


khong cam tam quen nguoi yeu cu
 
Thực ra chia tay xong, rất nhiều người trong chúng ta cũng trải qua cảm giác như Ngưu Nhi, không thể quên được người yêu cũ không phải vì vẫn còn yêu, đơn giản chỉ vì thấy không cam tâm mà thôi.   Dù đã chia tay, bạn vẫn còn nhớ những điều mà mình đã hy sinh cho cuộc tình đó, những điều mà mình đã từ bỏ để có thể nắm tay người ấy, chính vì thế mà tiếc nuối khôn nguôi. Nói chính xác hơn, bạn không phải không quên được tình cũ, cái mà bạn thấy không quên được là công sức và thời gian dành cho tình yêu đó.  

Song Tử: Chưa gặp được ai yêu mình hơn người cũ

  Song Tử là người khá phức tạp, cũng là người mà được mệnh danh là cao thủ tình trường trong số 12 cung hoàng đạo. Bên cạnh chòm sao này không lúc nào vắng vẻ, luôn có bao người xếp hàng xin chết. Với người chẳng bao giờ thiếu tình yêu như Song Tử thì tình cũ chỉ là một cái cây trong cả một cánh rừng rộng lớn mà thôi. Có điều hơi éo le rằng rời bỏ cái cây cũ đó, bạn vẫn chẳng thể nào quên được bởi chẳng tìm được ai yêu mình hơn người đó.  
Bạn có biết 12 chòm sao khi yêu hay phạm phải những lỗi nào không?

Cự Giải: Do bản tính trời sinh


chang the nao quen nguoi yeu cu
 
Cự Giải là người hay hoài niệm, dễ mềm lòng trước những gì xưa cũ, chính vì thế chẳng có gì lạ khi mà bạn mãi chẳng thể quên được người ấy. Đối với Cự Giải, cho dù chia tay xong hai người chẳng còn liên hệ gì với nhau, nhưng dẫu sau đã từng yêu nhau cũng có nghĩa là hai người có duyên phận.   Chia tay không phải là hoàn toàn kết thúc, chòm sao này sẽ giữ mãi hình ảnh người yêu cũ trong tim mình, cất giữ những kỷ niệm hai người hạnh phúc bên nhau ở một ngăn trong trái tim, không để nó phiền phức đến cuộc sống hiện tại nhưng cũng sẽ chẳng bao giờ quên lãng.  

Sư Tử: Lòng tự trọng quá cao

  Sư Tử là chòm sao có lòng tự trọng cực kì lớn. Họ không thể quên được người yêu cũ cũng là chuyện rất đỗi bình thường, không có gì phải ngạc nhiên cả. Dù cuộc tình tan vỡ vì lý do gì đi chăng nữa thì Sư Tử cũng luôn cảm thấy đối phương đánh mất mình là một tổn thất vô cùng to lớn.   Họ sẽ luôn dõi theo người ấy, để biết được cuộc sống của người đó ra sao, tình yêu sau này có được tốt đẹp không, người mới của người ấy có hơn mình không… tất cả những gì họ làm chỉ để chứng minh giá trị của bản thân. Lòng tự trọng quá lớn khiến cho họ cứ ở trong một vòng luẩn quẩn, dù đã chia tay nhưng vẫn chẳng thể để người đó ra đi.

Mời bạn đọc thêm: 6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh "tiễn cũ, đón mới".
 

Xử Nữ: Vì tình yêu đó quá đẹp


tinh dau kho quen
 
Với Xử Nữ, có lẽ mối tình họ khó có thể quên được nhất cũng chính là mối tình đầu. Xử Nữ vô cùng nâng niu và coi trọng cuộc tình đó, bởi nó là thứ tình cảm thuần khiết, như bông hoa mới hé nở, vô cùng thanh nhã, cũng vô cùng xinh đẹp, khiến họ mãi mãi chẳng thể nào quên được mà khắc ghi mãi trong tim.  

Thiên Bình: Còn quá nhiều tiếc nuối

  Có lẽ nhiều bạn không tin, nhưng Thiên Bình là người cực kì hoài niệm, họ chẳng thể nào quên được tình cũ, cho dù xung quanh luôn vây quanh biết bao nhiêu người. Sự náo nhiệt của đám đông chẳng thể khiến cho lòng Thiên Bình được cảm thấy yên bình.   Đặc biệt, nếu họ còn tiếc nuối quá nhiều về cuộc tình đã qua thì chắc chắn rằng dù không nói ra nhưng cả đời này, Thiên Bình chẳng thể nào quên được người cũ. Mỗi một người đi qua cuộc đời mình, Thiên Bình đều thấy rằng mình được hạnh phúc và trải nghiệm rất nhiều điều, vì thế mà luôn nhắc nhở bản thân phải nhớ kĩ những người tình ấy.

Thử xem 12 chòm sao chặn đứng mơ tưởng nối lại tình xưa của người cũ như thế nào nhé.
 

Hổ Cáp: Không thể quên được sự tàn nhẫn của người cũ khi chia tay


chang ai yeu minh hon nguoi yeu cu
 
Hổ Cáp đã yêu ai là yêu vô cùng sâu đậm, chính vì thế mà sau khi chia tay, họ mãi vẫn chẳng thể xóa nhòa được hình bóng người cũ trong trái tim mình. Những tổn thương mà người ấy để lại phải mất rất nhiều thời gian mới có thể lành lại.   Song nếu Cáp Nhi không thể quên được người yêu cũ thì hoàn toàn không phải vì họ còn tiếc nuối hay còn chút tình cảm nào với người ấy, đơn giản là họ không chấp nhận được việc người khác rời bỏ mình, họ không thể quên được cảm giác cay đắng bởi sự tàn nhẫn khi chia tay mà người đó dành cho mình.  

Nhân Mã: Khi người ấy ra đi mới nhận ra mình yêu người ấy rất nhiều

  Trong số 12 cung hoàng đạo, có lẽ Nhân Mã là đứa trẻ mãi không chịu lớn, chẳng biết trân trọng những thứ mình đang có trong tay. Nhân Mã bị thất tình nhiều cũng là vì họ không đủ trưởng thành, không đủ chín chắn để nắm giữ hạnh phúc, chỉ tới khi hạnh phúc vụt bay họ mới nhận ra nó quý giá đến mức nào, nhưng tới khi đó thì hối hận cũng đã muộn màng.   Nhân Mã thường hay nhớ về người yêu cũ, nguyên nhân rất đơn giản, đó là vì khi người ấy rời bỏ mình, họ mới kịp nhận ra mình đã vô tâm ra sao, đã coi nhẹ sự hiện diện của người ấy khiến cho tình tan vỡ, người ấy quay lưng bỏ đi mà bản thân họ mới nhận ra mình yêu người ấy rất rất nhiều. Sau khi chia tay, họ luôn mong ước có được một cơ hội để yêu lại tình đầu mà điều đó mãi chỉ là mơ ước mà thôi.  

Ma Kết: Không cam tâm

  Ma Kết đã chia tay là không còn chút ý nghĩ nào vượt quá giới hạn, song họ cũng chẳng thể nào quên được người yêu cũ. Có lẽ là vì chòm sao này là người khá ích kỉ, họ luôn nhớ về những điều mình đã làm vì người đó, những gì mình đã hy sinh nên dù đã chia tay, đã không còn tình cảm gì với nhau nhưng họ vẫn thấy không cam lòng.

Bạn có biết mình cũng nằm trong 3 chòm sao nam lụy tình, dễ yêu lại người cũ không?
 

Bảo Bình: Nhận ra đó là người hợp với mình nhất


chang the tim duoc ai tot hon nguoi yeu cu
 
Muốn tìm được một người có thể phù hợp với tiêu chuẩn của Bảo Bình là điều rất khó, bản thân họ cũng biết điều đó. Thực ra lý do họ đưa ra để chia tay với tình cũ cũng thường là “không hợp”. Nhưng rồi đi một vòng Trái Đất, họ mới nhận ra một điều quá đỗi muộn màng là cả thế giới này chẳng có ai hợp với mình hơn người ấy, để rồi tiếc nuối khôn nguôi và không thể nào quên được người yêu cũ.  

Song Ngư: Chia tay vì chuyện cỏn con không đáng

  Song Ngư chính là kiểu người mà động chút là nói chia tay, khiến cho người ta cảm giác họ chẳng chút coi trọng tình yêu. Tình duyên đến chẳng mấy dễ dàng, nhưng họ lại vì chút mâu thuẫn tranh cãi nho nhỏ hay vì một chuyện cỏn con nào đó mà quyết định chia tay. Sau này có thời gian ngồi ngẫm lại, Ngư Nhi mới thấy đó là quyết định sai lầm, việc mình làm thực sự không đáng để chia tay, vì thế mà không thể nào quên được người yêu cũ.
Tanny

Lời Phật dạy về tình yêu nhất định phải khắc cốt ghi tâm Mơ thấy người yêu cũ - muốn nối lại tình xưa? Muốn hạnh phúc, hãy chọn người yêu như 4 chòm sao nam chung tình Yêu là yêu, những chòm sao đơn thuần nhất trong tình cảm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao 12 chòm sao không thể quên được người yêu cũ

Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Hòa Thân là tên tham quan bậc nhất triều Thanh. Vậy phủ Hòa Thân có ẩn giấu bí mật phong thủy gì không mà tiền tài vô kể như vậy?
Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hòa Thân là tên tham quan bậc nhất triều Thanh. Tương truyền vàng bạc châu báu trong phủ Hòa Thân còn nhiều gấp mấy ngân khố của vua. Vậy phủ Hòa Thân có ẩn giấu bí mật phong thủy gì không mà tiền tài vô kể như vậy?   Nói đến những kiến trúc cổ ở Bắc Kinh thì có lẽ không thể không nhắc đến Cung Vương Phủ của Hòa Thân. Từ xưa đã có câu nói rằng “Một tòa Cung Vương Phủ, nửa quyển sử Thanh triều”. Được mệnh danh là Đệ nhất tham quan, cái mà Hòa Thân không thiếu nhất chính là tiền bạc, lẽ đương nhiên không thể không am hiểu về phong thủy.


chan dung Hoa Than
chân dung Hòa Thân
  Vậy Cung Vương Phủ - cấm phủ nơi Hòa Thân sinh sống có phong thủy ra sao? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu về những bí mật phong thủy ẩn giấu phía sau nhé.  

1. Địa thế phong thủy nơi Cung Vương Phủ

  Tương truyền, Bắc Kinh được trấn giữ bởi 2 long mạch, một là Thổ Long, tức long mạch ở Cố Cung, hai là Thủy Long, tức là vành đai Hậu Hải và Bắc Hải, mà Cung Vương Phủ lại vừa khéo nằm ở đường giao nhau giữa Hậu Hải và Bắc Hải, tọa chính long mạch nên phong thủy cực kì tốt.

Mời bạn đọc thêm: Long mạch dưới góc nhìn khoa học.
  Đã có rất nhiều bậc danh tướng, đại nguyên soái của Trung Hoa có phủ đệ gần với Cung Vương Phủ và đều là những người sống trường thọ. Nghe nói nơi có nhiều người sống thọ nhất Bắc Kinh chính là khu vực xung quanh Cung Vương Phủ. Nơi này được ví như bảo địa phong thủy vậy.


dia the tran giu long mach o cung vuong phu
 
  Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông là người rất am tường về thuật phong thủy, đương thời đã không tiếc lời khen cho phủ Hòa Thân. Cổ nhân coi Thủy là Tài, mà trong Cung Vương Phủ nơi nơi đều thấy nước, mà nước ở hồ lớn nhất trong phủ chính là được dẫn về từ Ngọc Tuyền Hồ. Tương truyền chỉ có Hoàng Thượng mới được dẫn nước ở đây về hoàng cung. Ấy vậy mà phủ Hòa Thân dám làm điều đó, mà nước chỉ chảy vào trong phủ chứ tuyệt đối không lọt ra ngoài, điều này càng phù hợp với học thuyết phong thủy liệm tài (giấu tài).  

2. Kiến trúc “Tiền trách hậu khoan”

  Theo phong thủy, tiền trách hậu khoan, tức trước hẹp sau rộng thì phú quý dư thừa. Cung Vương Phủ là ví dụ điển hình cho lối kiến trúc này. Khi Hòa Thân lựa nơi này để làm phủ đệ thì địa khí của nó đang chính vượng, mà như chúng ta đều biết, Hòa Thân là người thông minh tuyệt đỉnh, lại tinh thông phong thủy nên dù là bối cảnh bên ngoài phủ hay bố cục nội phủ đều được Hòa Thân thiết kế vô cùng tỉ mỉ. 


hon da truoc cung vuong phu
 
  Một tòa phủ đệ xây lên được ví như một kiệt tác phong thủy, nâng đỡ Hòa Thân lên tới đỉnh cao danh vọng, cả nhân khí và tài khí đều lên đến đỉnh điểm. Con người có ba loại vận khí, Thăng – Vượng – Mộ, song Hòa Thân thăng nhanh, vượng đến cực hạn nên mộ lạc cũng nhanh vậy.  

3. Bài trí đá trong khuôn viên phủ

  Trong phủ Hòa Thân được bài trí nhiều phiến đá, đá tảng hình thù kì dị, song có hai điểm đặc biệt không thể không nhắc đến. Thứ nhất, nơi cổng vào đặt một hòn đá, nhọn và cao khoảng 2m, có hình giống một đứa trẻ. Hòa Thân lúc bấy giờ vừa nhìn thấy hòn đá này đã cực kì thích thú, bèn đem về đặt ngay trước cửa phủ.   Lý do là gì, có bí mật phong thủy gì ở đây không? Nghe nói hòn đá đó được dùng để chiếu bích, ngăn tà khí xâm nhập vào phủ, cũng chắn không cho tài khí thoát ra ngoài. Thêm nữa, Hòa Thân cả đời chỉ sinh được một người con trai, còn lại đều là nữ nhi nên cực kì khao khát có con trai, mà hòn đá đó lại có hình dáng giống một đứa bé trai nên còn được gọi là Tống Tử Thạch (đá tặng con). Hòa Thân đặt hòn đá trấn phủ là mong muốn nhờ nó mang lại phúc lộc đường con cái, giúp gia tộc càng thêm hưng vượng, đông con nhiều cháu.


tieu dinh trong phu hoa than
 
  Những hòn đá khác phần lớn đều được chuyển từ phương nam tới, mang đủ hình thù kì quái khác nhau. Chúng được nhân công vận chuyển theo đường sông, lựa những tảng băng kết lại khi mùa đông để đẩy lên đó. Số lượng nhiều đến nỗi mà nghe nói đá được chất bên sông từ năm này qua năm khác, mùa đông này chưa chuyển hết thì chờ đến mùa đông sang năm, khi nước đóng thành băng thì tiếp tục chuyển. Tới năm Hồng Lịch thứ 7, công trình Cung Vương Phủ mới được hoàn thành.   Người xưa quan niệm rằng đá mang theo phúc khí, chính vì thế mà Cung Vương Phủ cũng là vương phủ có nhiều đá nhất, thậm chí người ta còn truyền nhau rằng, số lượng đá trong hoàng cung cũng chẳng là gì so với số lượng đá ở phủ Hòa Thân.   Trong phủ có hai hòn giả sơn rất lớn, hình dáng kì vĩ. Đặc biệt hơn, thời đó vẫn chưa có chất kết dính tốt để gắn kết các tảng đá với nhau, hòn giả sơn đã được làm nhờ dùng cơm nếp hòa với phèn trắng để gắn lại, xếp đặt các tảng đá lên nhau tạo nên hình dáng.  

4. Một vạn con nhện

  Trong phủ Hòa Thân, bạn có thể nhìn thấy nhện với đủ mọi hình dáng, giống loài ở khắp nơi nơi. Người xưa tin rằng nhện là biên phúc, đồng âm với chữ phúc nên cũng mang tới phúc lành, mang theo may mắn. Nhện trong phong thủy mang theo điềm may mắn về tài lộc.   Hòa Thân không chỉ tham tài hám lợi mà còn cực kì mê tín. Trong Cung Vương Phủ, từ chậu cây, chậu hoa hay đá tảng đều được chạm khắc hay xếp đặt thành hình con nhện. Đi vào trong phủ, bạn sẽ bị hoa mắt bởi đủ hình thù của đá đều na ná hình con nhện. Thậm chí trên cửa hay vách nhà cũng có nhện, có con được khắc chìm, có con được khắc nổi, tổng cộng có tới 9999 con. 9999 con nhện tức là 9999 chữ Phúc, thêm một chữ Phúc mà Khang Hy ngự bút nữa là 1 vạn chữ phúc, Cung Vương Phủ vạn phúc.  

3. Bóng người ở vườn cây Ngô đồng

  Trong phủ Hòa Thân có một khu vườn nhỏ nằm tách biệt hẳn ra ngoài. Nơi đó trồng đầy những cây ngô đồng to cao song lại rất yểu điệu thướt tha, nhìn đẹp vô cùng. Mỗi khi gió thổi qua là rừng cây xào xạc, tựa như tiếng khóc than nỉ non của phụ nữ và trẻ em. Nơi đó được gọi là Ngô đồng viện.   Khu vườn nhỏ xinh đẹp như vậy nhưng lại giấu phía sau mình câu chuyện không hề đẹp. Ngô đồng viện chính là lãnh cung trong Cung Vương Phủ, tất cả những thê thiếp thất sủng đều bị Hòa Thân đem nhốt ở nơi đây. Họ cô đơn héo mòn không ai hay biết, cuối cùng lấy nước mắt rửa mặt, u buồn mà chết.


bong ma trong Cung vuong phu
 
  Cả khu vườn bị âm khí bao trùm. Âm khí nặng tới nỗi hễ ai bước vào trong đều bất giác nổi da gà, thấy lạnh toàn thân, trước kia nghe nói không một ai dám đặt chân vào trong đó. Tối đến, người ta nghe thấy từ trong Ngô đồng viện vọng ra tiếng khóc than ai oán. Thậm chí vào những đêm mưa gió bão bùng, nhiều người khẳng định họ tận mắt nhìn thấy bóng phụ nữ mặc trang phục triều Thanh xuất hiện trong khu vườn, lả lướt đi lại như đang nhảy múa. Cái bóng thường được phản chiếu lên vách tường gần cổng viện, hình ảnh sống động như người thật.   Sau khi Trung Quốc được giải phóng khỏi tay quân Nhật, một người lính gác đêm từng đi qua nơi này, vô tình nhìn thấy có cô gái đang đứng trước cổng viện khóc lóc thảm thiết, người này sợ tới hồn bay phách lạc, bỏ chạy về phòng trực ban. Ngay sau đó, người lính này lập tức đổ bệnh, thần trí điên cuồng. Chuyện này kinh động tới cả Quốc vụ viện, lãnh đạo cho phái rất nhiều bác sĩ, chuyên gia đến khám nhưng đều không tìm ra bệnh của người lính mắc phải là gì, cuối cùng người đó sợ hãi quá mà chết.   Quốc vụ viện bèn cử rất nhiều binh lính cùng chuyên gia đến đóng quân ở trong Cung Vương Phủ để tìm lời giải cho câu đố ghê người này. Sau cùng chuyên gia đưa ra kết luận như sau: Ngày xưa, đây là nơi ẩm ướt, trên vách tường tích tụ rất nhiều kali nitrat, đêm mưa bão sấm chớp có cô gái đứng khóc trước tường, kali nitrat và tia lửa điện sấm sét nảy sinh phản ứng hóa học, in hình người lên bức vách. Đó là lý do mà từ đó về sau, cứ mỗi khi trời mưa bão, có sấm chớp thì hình cô gái trên bức vách lại hiện ra. Đây là hiện tượng khoa học chứ hoàn toàn không có chút ma quỷ nào cả.   Tuy lời chuyên gia giải thích có lý như vậy như vẫn có rất nhiều chuyện khác ở phủ Hòa Thân không thể lý giải được bằng khoa học. Sau này, để trấn áp dư luận, Quốc vụ viện đã lệnh đầu tư quay một bộ phim tài liệu có tên “Bóng ma nơi vương phủ” để giải thích rõ về hiện tượng này.    Song trong thời gian quay phim ở Ngô đồng viện cũng xảy ra rất nhiều sự việc kì bí không lời giải đáp. Ví dụ, mọi người rõ ràng đều nhìn thấy máy quay được đặt trên bậu cửa nhưng chớp mắt đã thấy nó biến mất, sau đó lại thấy nó xuất hiện bên cạnh bức vách có bóng ma.   Mãi về sau, do lâu ngày không được tu sửa, bức vách mục ruỗng và đổ sập, tới tận khi ấy người ta mới dám đặt chân vào tham quan trong khu vườn này.  

4. Tiểu đình

  Trong Cung Vương Phủ, Hòa Thân cho xây một tiểu đình nhỏ làm nơi hóng mát. Cứ mỗi độ giao mùa xuân hạ thu đông, chỉ cần thời tiết đẹp là Hòa Thân lại cho vời bạn bè thân hữu đến uống rượu ngâm thơ, nghe ca múa. Thông thường, Hòa Thân sẽ chọn chỗ ngồi ở hướng Nam.   Nền của tiểu đình được lát bằng những phiến đá lớn. Song sự kì diệu ở tiểu đình này nằm ở chỗ Hòa Thân đã cho người khắc lên bàn đá vô số rãnh nước, dòng nước sẽ đẩy chén rượu trôi về phía trước. Nước chảy rất chậm, chén rượu trôi tới trước mặt ai mà dừng lại thì người đó sẽ phải làm một bài từ, nếu làm không được thì phạt uống 3 chén rượu.   Bí mật phong thủy ở đây là gì? Những đường rãnh nước đó được thiết kế rất tinh xảo. Nếu nhìn từ hướng Đông thì các rãnh tụ lại thành hình chữ Thủy (水), còn nhìn từ hướng Nam thì lại thấy chữ Thọ (寿). Chỉ vậy thôi cũng đủ để người đời trầm trồ thán phục trí tuệ của Hòa Thân.  

5. Hòn giả sơn

  Trong vườn hoa Hòa Thân cho xây một hòn giả sơn. Đá để làm hòn giả sơn này toàn bộ là đá Thái Hồ, được vận chuyển trực tiếp từ Thái Hồ tới. Đặc điểm của đá Thái Hồ chính là tính hút nước rất mạnh, nó là một loại Thượng Thủy Thạch - đá phong thủy mang tới sung túc, ấm no, nếu được đặt ở nơi nhiều nước thì trên đá sẽ mọc đầy rêu xanh.    Hòa Thân lại cho xây một cái hồ nhỏ trước hòn giả sơn, dẫn nước vào đó, để nước lưu thông quanh năm, nhờ thế mà trên các phiến đá mọc đầy rêu xanh mướt, Hòa Thân gọi đó là Trích thúy nham. Hai bên hồ có 2 cái đầu rồng quay hướng chụm vào nhau, ở giữa là Long Châu, song kì lạ là ở chỗ chỉ nhìn thấy đầu rồng chứ không thấy đuôi rồng.   Vậy hòn giả sơn đó để làm gì, nó có ẩn giấu bí mật phong thủy gì bên trong không? Hóa ra Hòa Thân sớm đã đem long mạch và long vĩ (đuôi rồng) chạm khắc vào dưới Trích thúy nham bên trong động giữa hòn giả sơn, mà nơi long mạch trấn giữ là một bức bích họa bằng ngọc, chính xác hơn là chữ Phúc được khảm vào ngọc. 


Bia chu Phuc trong phu Hoa Than
Bia chữ Phúc trong phủ Hòa Thân
  Chữ Phúc đó chính là chữ do đích thân Khang Hy ngự bút song lại bị Hòa Thân chiếm làm của riêng. Nó được coi là vật trấn trạch trong Cung Vương Phủ. Thậm chí sau này khi Hòa Thân bị vua Gia Khánh bãi chức và kiểm kê gia sản, người ta đã phát hiện ra vật trấn trạch này nhưng do đó là bút tích của Càn Long nên không ai dám phá, bởi phá nó tức là khiến cho Phúc tan. Hơn nữa, nếu lấy cả khối đá về thì long mạch không có gì trấn giữ, là điều đại kị. Đó cũng chính là điềm báo vua Gia Khánh tha chết cho cả nhà Hòa Thân.   Vốn dĩ Hòa Thân bị ghép vào trọng tội, phải lăng trì, tru di tam tộc. Song tới cuối cùng, dù phạm nhiều tội lỗi tày đình nhưng Hòa Thân chỉ bị xử chết bằng cách tự vẫn, cả nhà được tha bổng, người ta cho rằng phần lớn là nhờ có chữ Phúc trấn trạch này. Sau này, vua lệnh người dùng đá tảng phong bế toàn bộ hòn giả sơn, để không ai nhìn thấy chữ Phúc đó mà được hưởng phúc khí nữa, mãi về sau này nơi đó mới được khai thông, mọi người vào tham quan mới có dịp chiêm ngưỡng vật phẩm phong thủy trấn trạch nổi tiếng đó.   Ngoài ra, trong Cung Vương Phủ còn có một hòn giả sơn nữa, trong đó giấu một con tỳ hưu cũng nhằm trấn trạch, hút tài lộc về nhà. Tương truyền khi vua Gia Khánh cho lục soát phủ Hòa Thân đã phát hiện ra vật báu này. Con tỳ hưu được làm bằng ngọc phỉ thúy, trong khi con tỳ hưu của Càn Long cũng chỉ được làm bằng bạch ngọc. Hơn nữa, tỳ hưu của Hòa Thân còn lớn hơn của vua, cũng có mông và bụng rất to. Người ta cho rằng chính vì thế mà của cải trong nhà Hòa Thân còn nhiều gấp mấy lần của cải nhà vua có trong ngân khố. Dân gian truyền rằng “Những gì vua có Hòa Thân cũng có, những gì Hòa Thân có chưa chắc vua đã có” cũng chính là vì thế.    Song suy cho cùng số phận của Hòa Thân cũng không khác gì con tỳ hưu đó, ăn vào bụng quá nhiều tiền vàng nhưng lại không có chỗ để thải ra, lâu ngày tích tụ thành đại họa. Đó là cái họa đã được báo trước, là quả báo nhãn tiền mà những kẻ tham lam sớm muộn sẽ phải gánh chịu.   An An

Nhà ở trên 30 năm, không thể thiếu những vật phẩm phong thủy trấn dương khí Tiền về như nước khi đặt bảo vật phong thủy ở đây 9 món đồ vật hút tiểu nhân nhà nào cũng có, xem ngay để tránh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hòa Thân và những bí mật phong thủy ít ai hay biết

Mơ thấy bác sĩ thẩm mỹ: Nỗi khát khao theo đuổi cái đẹp –

Mơ thấy bác sĩ thẩm mỹ, nỗi khát khao và tâm tưởng theo đuổi cái đẹp đang tiềm ẩn trong trái tỉm bạn sẽ bùng cháy. Bác sĩ thẩm mỹ là người tạo ra cái đẹp.   Những ai mơ thấy người này đều khát vọng mãnh liệt được sở hữu vẻ đẹp, hy vọng sẽ rạng n
Mơ thấy bác sĩ thẩm mỹ: Nỗi khát khao theo đuổi cái đẹp –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bác sĩ thẩm mỹ: Nỗi khát khao theo đuổi cái đẹp –

Khi cuộc sống khó khăn, hãy nghĩ tới 13 điều này

Khi cuộc sống khó khăn, hãy nghĩ tới 13 điều này. Cuộc sống gia đình sẽ có những lúc gặp nhiều trở ngại, và bạn cảm thấy mọi thứ thật khó khăn. Những lúc như vậy, hãy nghĩ đến 13 điều này, nó sẽ giúp bạn bình tâm mạnh mẽ vượt qua những trở ngại trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống gia đình sẽ có những lúc gặp nhiều trở ngại, và bạn cảm thấy mọi thứ thật khó khăn. Những lúc như vậy, hãy nghĩ đến 13 điều này, nó sẽ giúp bạn bình tâm mạnh mẽ vượt qua những trở ngại trong cuộc sống

1. Chuyện gì qua, cho qua

Đức Phật có một câu nói rất nổi tiếng: ‘Sự kháng cự của bản thân với những gì xảy ra xung quanh tạo nên sự đau khổ của bạn’. Dành một chút thời gian để nghĩ về điều này. Sự đau khổ của chúng ta chỉ xảy ra khi chúng ta cố gắng chống lại bản chất của mọi việc.

Nếu bạn có thể thay đổi điều gì thì hãy hành động ngay đi! Hãy thay đổi nó! Nhưng nếu bạn không thể thay đổi được thì bạn có 2 sự lựa chọn: một là chấp nhận và để nó đi, hoặc hai là tự làm cho cuộc sống trở nên khổ sở và bị ám ảnh bởi điều đó.

2. Nó chỉ là vấn đề nếu bạn nghĩ nó là một vấn đề

Trong rất nhiều trường hợp, chúng ta chính là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính mình. Nếu bạn nghĩ điều gì đó là một vấn đề thì suy nghĩ và cảm xúc của bạn sẽ trở nên tiêu cực. Nhưng nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể học hỏi được từ điều đó, ngay lập tức nó sẽ chẳng còn là một vấn đề nữa.

3. Nếu bạn muốn mọi việc thay đổi, bạn cần bắt đầu với việc thay đổi bản thân

Bạn không biết rằng mọi người trên thế giới đều đang sống hỗn độn và căng thẳng sao? Và chẳng phải nó to tát bởi vì trong lòng họ đang hỗn loạn cả sao? Phải, chính là như thế. Chúng ta thích cái suy nghĩ rằng sự thay đổi của hoàn cảnh sẽ thay đổi con người. Nhưng nhìn theo chiều ngược lại – chúng ta cần thay đổi bản thân trước khi hoàn cảnh thay đổi.

4. Không có thất bại – chỉ có những cơ hội học hỏi

Bạn nên xóa ngay từ ‘thất bại’ ra khỏi từ điển của mình đi. Tất cả những người vĩ đại từng đạt được bất cứ thành tựu nào đều đã từng thất bại hết lần này đến lần khác. Thực tế thì tôi nhớ Thomas Edison đã từng nói như thế này: ‘Tôi không thất bại 10000 lần, tôi chỉ biết được 10000 cách mà nó không hoạt động’. Nắm lấy cái gọi là ‘thất bại’ của bạn và học hỏi từ nó. Hãy học cách làm nó tốt hơn ở lần sau.

5. Nếu bạn không có được điều bạn muốn, có nghĩa là cái gì đó tốt đẹp hơn đang đến

Tôi biết rằng điều này thì đôi lúc thật là khó tin. Nhưng đó là sự thật. Thường thì khi bạn nhìn lại cuộc đời mình, bạn sẽ thấy được tại sao một vài điều không thành hiện thực đôi khi lại là chuyện tốt. Có thể công việc mà bạn không được nhận sẽ lấy đi của bạn rất nhiều thời gian dành cho gia đình nhưng công việc bạn được nhận đã cho bạn một quỹ thời gian linh hoạt hơn. Hãy cứ tin rằng mọi việc diễn ra theo cái cách chính xác nó được cho rằng sẽ diễn ra.

6. Trân trọng khoảnh khắc hiện tại

Khoảnh khắc này sẽ không bao giờ quay lại và mỗi khoảnh khắc đều chứa đựng điều gì đó quý giá. Vì thế đừng để nó qua đi mà bạn không hề để ý! Nó sẽ sớm chỉ còn là một ký ức. Mọi khoảnh khắc dù không vui vẻ nhưng một ngày nào đó nhìn lại bạn sẽ cảm thấy nhớ chúng.

Giống như lời của một bài hát đồng quê của Trace Akins ‘Bạn sẽ nhớ điều này… Bạn sẽ muốn điều này quay lại. Bạn sẽ ước những ngày này đã không trôi qua quá nhanh như thế… Bây giờ có thể bạn không biết đâu, nhưng một ngày nào đó bạn sẽ nhớ nó…’

7. Không lệ thuộc cảm xúc vào những ham muốn

Hầu hết mọi người sống với ‘suy nghĩ gắn bó’. Điều này có nghĩa là họ gắn mình với những mong muốn và khi họ không đạt được, cảm xúc của họ rơi tụt xuống mức bi quan. Thay vào đó, cố gắng luyện tập một ‘suy nghĩ không lệ thuộc’.

Điều này có nghĩa là khi bạn muốn điều gì đó, bạn vẫn sẽ cảm thấy vui vẻ kể cả khi bạn có đạt được nó hay không. Bạn vẫn giữ được cảm giác vui vẻ hay ít nhất là bình thường.

8. Hiểu và biết ơn những nỗi sợ

Nỗi sợ có thể là một người thầy. Và vượt qua những nỗi sợ hãi có thể còn khiến cho bạn cảm nhận được mùi vị của sự chiến thắng. Ví dụ, khi tôi còn ở đại học, tôi sợ phải nói trước đám đông (một trong 3 nỗi sợ của tất cả mọi người).

Vì thế bây giờ tôi cảm thấy thật là hài hước khi tôi không chỉ nói trước một nhóm người mỗi ngày như là một giảng viên mà tôi còn giảng dạy môn nói trước đám đông! Chúng ta chỉ cần luyện tập để vượt qua nỗi sợ hãi. Sợ hãi thực sự chỉ là ảo giác thôi. Nó tùy thuộc vào mỗi người.

9. Cho phép bản thân mình trải nghiệm niềm vui

Bạn có thể tin có thể không, nhưng tôi biết rất nhiều người không có phép bản thân được tận hưởng niềm vui. Và họ thậm chí không biết là làm thế nào để trở nên vui vẻ. Một vài người thì gắn bản thân quá chặt với những vấn đề và sự hỗn độn của mình đến nỗi mà họ thậm chí không thể biết được họ sẽ là ai nếu không có những thứ ấy.

Vì thế hãy cố gắng cho phép bản thân được tận hưởng niềm hạnh phúc! Ngay cả khi đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi thì tập trung vào niềm vui thay vì sự gian khổ của bản thân là điều vô cùng quan trọng.

10. Đừng so sánh bản thân với những người khác

Nhưng nếu bạn so sánh bản thân mình, hãy so sánh mình với những người có hoàn cảnh kém hơn bạn.

11. Bạn không phải là một nạn nhân

Bạn cần phải ra khỏi con đường của mình. Bạn chỉ là một ‘nạn nhân’ của những suy nghĩ, lời nói, hành động của riêng mình. Chẳng ai làm gì bạn cả. Bạn là người tự tạo ra kinh nghiệm cho mình. Nhận trách nhiệm về bản thân và nhận ra rằng bạn không thể vượt qua được những giai đoạn khó khăn.

Bạn chỉ cần bắt đầu với việc thay đổi những suy nghĩ và hành động của mình. Hãy từ bỏ tâm lý nạn nhân và trở thành người chiến thắng. Từ nạn nhân thành NGƯỜI CHIẾN THẮNG.

12. Vạn vật có thể thay đổi và luôn thay đổi

“Và điều này sẽ nhanh qua đi’ là một trong những câu nói mà tôi yêu thích. Khi chúng ta bị bế tắc ở một tình huống xấu, chúng ta nghĩ rằng sẽ không có lối thoát. Chúng ta nghĩ rằng sẽ không có gì thay đổi. Nhưng đoán thử xem? Nó sẽ thay đổi! Không có gì là vĩnh viễn trừ cái chết.

Vì thế hãy thoát ra khỏi lối mòn của suy nghĩ rằng mọi thứ sẽ mãi mãi như thế này. Chúng sẽ không như thế. Nhưng bạn cần phải làm gì đó để thay đổi mọi thứ. Nó sẽ không tự xảy ra một cách kỳ diệu đâu.

13. Mọi thứ đều có thể

Những điều kỳ diệu xảy ra mỗi ngày. Thực sự là như thế. Tôi ước rằng có đủ không gian để tôi viết ra những điều kỳ diệu xảy ra với những người mà tôi biết – từ việc chữa được ung thư giai đoạn 4 một cách tự nhiên đến việc thấy bạn tri kỷ xuất hiện từ đâu đó.

Tin tôi đi: những chuyện như thế xảy ra suốt ngày. Bạn chỉ cần tin rằng nó sẽ xảy ra. Một khi bạn làm được như vậy, bạn sẽ chiến thắng trận đấu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi cuộc sống khó khăn, hãy nghĩ tới 13 điều này

6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà

Sai lầm phong thủy "truyền miệng" có thể khiến gia đình bạn gặp họa với lửa hoặc nước.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Di chuyển cóc phong thủy

Trong phong thủy, cóc ngậm tiền hay còn gọi là Thiềm Thừ là một linh vật rất được ưa chuộng sử dụng để cầu tài lộc. Theo kinh nghiệm trong phong thủy, Thiềm Thừ thông nhân tính nên khi khai quang tốt nhất chỉ nên có 1 mình gia chủ. Sau ngay khi khai quang, cóc ngậm tiền nhìn thấy ai đầu tiên thì sẽ mãi mãi phù hộ cho người đó.

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 1

Có nhiều gia đình hay hay trưng bày cóc ngậm tiền ở bàn thờ thổ địa, thần tài, ban ngày cho cóc hướng ra ngoài cửa, tối đến quay cóc hướng vào trong nhà. Tuy  nhiên, đó là một sai lầm phong thủy xua đuổi "tài vận", vì những linh vật khi đã trưng bày không nên quay đi quay lại nhiều lần, theo nhiều hướng. Cách tốt nhất và đúng nhất là đặt cóc hướng vào phía trong nhà, hướng vào bàn thờ ông địa, thần tài tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc nhảy vào trong nhà.

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 2

Ngoài ra, cũng có thể đặt cóc ngậm tiền dưới gầm bàn làm việc, ghế, trong tủ, trong két sắt với đầu hướng vào bên trong, lưng quay ra ngoài.

Một số vị trí cực kỳ kiêng kị khi đặt cóc ngậm tiền: trong phòng bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh. Nếu đặt ở những vị trí này thay vì mang tài lộc đến thì cóc lại trở nên hung dữ mang lại vận rủi, tàn phá năng lượng tốt đẹp của gia chủ.

2.    Lưu trữ nước các nhiều càng tốt

Tất cả mọi nhà đều cần nhiều nước – yếu tố phong thủy giúp thu hút nhiều lợi nhuận và tài lộc. Nhiều gia đình quan niệm khi bị hết nước thì tài lộc sẽ ngừng do vậy họ hay tích trữ nước trong các chai nước lớn ở khắp các ngõ ngách trong nhà.

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 3

Tuy nhiên, theo các chuyên gia phong thủy thì điều đó hoàn toàn bất hợp lý. Nguồn nước tốt nhất khi dòng chảy được xuyên suốt, và trong phong thủy cũng vậy. Sai lầm phong thủy khi tích trữ nước chỉ khiến cho tiền tài ứ đọng và không được sinh sôi, nảy nở.

3.    Nhà của bạn là một nơi tôn nghiêm

Nhiều người thích sống gần chùa chiền, nghĩa trang, nhà thờ. Họ cho rằng những nơi đó tôn nghiêm và sẽ giúp mang đến nhiều điều tốt lành. Tuy nhiên, những khu vực này sẽ tích tụ nhiều năng lượng âm khiến phong thủy suy giảm.

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 4

Những gì một ngôi nhà cần nguồn năng lượng tổng thể nghiêng về dương một chút bởi vì đó là một ngôi nhà của người sống – cần có rất nhiều ánh sáng, sự chuyển động, và hài hòa của các yếu tố. Do đó, gia chủ nên chọn sống ở những khu vực có bầu không khí sôi động với phong cảnh đẹp xung quanh nhà cùng nội thất bắt mắt. Khi một ngôi nhà bị thiếu năng lượng dương, gia chủ sẽ gặp các vấn đền về sức khỏe, thiếu tiền, các mối quan hệ gặp khó khăn, tai nạn, thương tích, v.v.

4.    Treo cầu thủy tinh lên tất cả các cửa nhà

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 5

Treo một quả cầu thủy tinh lên cửa sổ để phản xạ ánh sáng mặt trời là một trong các biện pháp phong thủy thu hút năng lượng tốt. Tuy nhiên bạn đừng lạm dụng nó. Cầu thủy tinh hình tròn – tượng trưng cho nguyên tố đất. Do đó nếu treo nhiều sẽ mang năng lượng âm rất lớn đến cho căn nhà, thậm chí không khác gì âm khí ở nghĩa trang vậy.

5.    Phòng tắm luôn ảnh hưởng xấu đến phong thủy

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 6

Không phải tất cả các phòng tắm đều làm ô uế nguồn năng lượng phong thủy của ngôi nhà. Trong thực tế, bạn không cần quá để ý đến nó vì có thể giúp gia tăng phong thủy trong nhà bằng cách kích hoạt năng lượng trong các góc của căn nhà tương ứng với phòng tắm. Ví dụ, nếu phòng tắm của bạn là ở góc Đông Nam - ảnh hưởng đến tiền tài, bạn có thể tập trung đẩy mạnh phong thủy ở góc Đông Nam của phòng khách của bạn để giúp tạo ra nhiều của cải hơn và thu hút nhiều tài lộc.

6.    Hài hòa tất cả mọi thứ

 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà - 7

Quá nhiều nước sẽ gây họa chết đuối

Đôi khi mọi người cố gắng hài hòa tất cả mọi thứ và chính sai lầm phong thủy này gây ra vấn đề. Ví dụ như dùng tông màu đỏ tươi cho nhà bếp để kết hợp với nguyên tố lửa. Tuy nhiên, bạn biết đó: nhiều lửa sẽ gây cháy. Cũng tương tự như vậy với phòng tắm được dùng tông màu xanh dương và những rèm cửa hình bãi biển. Nhiều nước sẽ gây lụt lội, chết đuối. Hài hòa là tốt nhưng khi cái gì quá lên thì sẽ là vấn đề.

Đừng chỉ mù quáng tin vào các mẹo phong thủy truyền miệng. Thậm chí nhiều trong số các thầy phong thủy cũng chỉ là các tay mơ ba hoa phét lác để kiếm tiền mà không có chút kiến thức nào cả. Nhiều gia đình thậm chí còn đặt gương ở phía trên bồn cầu và buộc ruy băng đỏ vào vòi nước bồn rửa chén - không có một tác dụng nào cả. Phong thủy không chỉ là vấn đề tâm linh mà nó chỉ thực sự có tác dụng khi hợp lý và thực tế. Ngôi nhà bạn sẽ có phong thủy tốt khi được bài trí đẹp và hợp lý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 sai lầm phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà

Vật phẩm phong thủy phòng khách –

Phòng khách là nơi dừng khí và tiếp nhận các dòng khí xấu hoặc tốt đi vào nhà. Vì vậy, những vật phong thủy này sẽ có tác dụng tốt nhất khi bạn đặt tại phòng khách nhà mình. Tượng Phật Di Lặc: Phật Di-lặc được mô tả với cái bụng thật lớn và cái miệng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng khách là nơi dừng khí và tiếp nhận các dòng khí xấu hoặc tốt đi vào nhà. Vì vậy, những vật phong thủy này sẽ có tác dụng tốt nhất khi bạn đặt tại phòng khách nhà mình.

Tượng Phật Di Lặc:

1757

Phật Di-lặc được mô tả với cái bụng thật lớn và cái miệng cười thật tươi, thể hiện mong ước và tâm tư của đạo Phật trong việc đem nụ cười vào cuộc đời. Khi tượng phật Di Lặc được trưng bày trong nhà, đây được coi là biểu tượng cho sự an lạc, vui vẻ, may mắn và hạnh phúc, mang lại nhiều điều tốt lành cho gia chủ, gia đạo…

Tam đa Phúc Lộc Thọ:

1758'

Tượng trưng cho 3 vị thần đem lại may mắn, sức khỏe, hạnh phúc cho mọi nhà. Trong đó, Phúc Thần chủ về của cải và hạnh phúc, Lộc thần chủ về quan lộc và tài lộc, cầm quyền trượng. Thọ thần chủ về trường thọ. Khi đặt 3 vị thần này, bạn chú ý đặt ở vị trí cao và trang trọng, mặt quay ra cửa chính.

Quan thánh đế (Quan Vân Trường):

1759

Là vị thánh chuyên trấn áp hung sát khí, chống lại ma tà quỷ quái. Vì vậy, tượng của ông chuyên dùng để trấn trạch, chế lại hung khí, đem lại sự bình an cho gia chủ.

Quan Công đứng tấn còn là vật khí lý tưởng cho các cửa hàng, công ty, cơ sở thương mại bởi ngoài tác dụng trấn áp hung khí cón mang lại sự thịnh vượng, trí tuệ và tiền bạc trong kinh doanh.

Bạn nên bày trong phòng khách của căn nhà hướng ra cửa. Dùng trong trường hợp nhà hướng Chính Bắc, Tây Bắc, Chính Tây. Có thể bày ở trung tâm của căn nhà hoặc căn phòng.

Long quy:

1760

Là linh vật tốt lành có ý nghĩa trường thọ, có khả năng chiêu tài hóa sát, trấn trạch…Mọi nhà đều có thể bày linh vật này. Khi bày Long Quy, tốt nhất nên đặt ở chỗ cao ráo, sạch sẽ. Muốn dùng chiêu tài thì đặt ở hướng ra cửa chính của nhà.

Tỳ Hưu:

1761

Linh vật có tác dụng chiêu tài trấn trạch để tránh tà khí, bảo vệ sự bình yên cho ngôi nhà. Tỳ Hưu có tác dụng hóa giải “Ngũ hoàng sát” – một sát tinh trong phong thủy thường gây điều bất lợi cho các thành viên trong gia đình về sức khỏe và tài vận.

Hồ lô:

1762

Biểu tượng của sự an lành, sức khỏe và trường thọ. Hồ lô đặc biệt thích hợp dùng cho nhà có trẻ nhỏ hay quấy khóc. Hãy treo hồ lô bên cạnh chỗ nằm của đứa trẻ, sẽ tránh được bệnh tật và khóc dạ đề cho trẻ.

Tháp Văn Xương:

1763

Biểu tượng của trí tuệ, học hành đỗ đạt, thăng tiến trên con đường công danh, sự nghiệp. Ngoài ra, tháp Văn xương còn có khả năng ngăn ngừa sát khí, tà khí. Nó cũng rất hữu dụng cho những ai sắp trải qua những kỳ thi quan trọng hoặc những người muốn phát triển về trí tuệ và công danh sự nghiệp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy phòng khách –

Trong giấc mơ thấy mình bị đau là điềm gì?

Trong cuộc sống, những cơn đau khiến bạn cảm thấy thật khó chịu, nhưng trong giấc mơ về cơn đau dự báo cả những điều tốt lành và điều không may mắn.
Trong giấc mơ thấy mình bị đau là điềm gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống, những cơn đau khiến bạn cảm thấy thật khó chịu, nhưng trong giấc mơ về cơn đau dự báo cả những điều tốt lành và điều không may mắn.


 

Trong giac mo thay minh bi dau la diem gi hinh anh
Bạn sắp phát tài nếu mơ thấy mình bị đau ở ngực

Nếu bạn mơ thấy cơn đau toàn thân thì xin chúc mừng bạn. Giấc mơ này biểu thị rằng thành công đang đến với bạn.

Nếu bạn mơ thấy cơn đau ở ngực thì có thể bạn sắp phát tài.

Nếu bạn thấy mình đâu ở tay hoặc chân thì đó là điềm báo rằng bạn nên xem xét lại hành động cũng như lời nói của bạn.  

Nếu cơn đau xuất hiện ở tim thì bạn hãy lưu ý đến chuyện tình cảm của mình. Có thể bạn sẽ phải đối mặt với một số khó khăn trong tình yêu.

Nếu cơn đau đầu xuất hiện trong giấc mơ của bạn thì đây là điều rất xấu. Nó dự báo những điều tồi tệ có thể xảy ra

Nếu cơn đau xuất hiện ở răng thì bạn hãy chuẩn bị đối mặt với quãng thời gian nhiều lo âu. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ nhanh chóng qua đi mà không ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống của bạn. 

Theo Giải mộng qua hình tượng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trong giấc mơ thấy mình bị đau là điềm gì?

Top 5 con giáp sở hữu trái tim sắt đá

Vẻ bề ngoài thu hút, đầu óc thông minh nhanh nhạy là những ưu điểm là người ta dễ dàng nhận thấy ở Sửu, Dậu, Thân, Tuất và Mùi. Thế nhưng 5 con giáp này lại mang trong mình một trái tim sắt đá, nói cách khác là chỉ số cảm xúc của họ cực kỳ thấp.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Tuổi Sửu

 
Người tuổi Sửu đứng đầu danh sách những người lạnh lùng nhất. Người tuổi Sửu khá cố chấp và nguyên tắc, điều này ảnh hưởng rất lớn tới công việc. Họ thường làm người khác cảm thấy khó chịu và phiền toái, nhất là đồng nghiệp vì họ rất bảo thủ, chỉ dựa vào phán đoán chủ quan của riêng bản thân mình để áp dụng cho mọi tình huống công việc, và nhất nhất cho rằng mình hoàn toàn đúng. Nói chung, người tuổi Sửu khá nguyên tắc và cứng nhắc, họ thiếu sự linh động, nếu không thay đổi tính cách này thì cuộc sống của người tuổi Sửu sẽ gặp rất nhiều phiền toái. 

Top 5 con giap so huu trai tim sat da hinh anh
Ảnh minh họa

2. Tuổi Dậu
 
Đứng thứ 2 sau tuổi Sửu là người tuổi Dậu. Trong công việc họ rất thích thể hiện mình, không muốn mình bị coi thường mặc dù học cũng không có ham muốn cao về tiền tài và danh vọng. Người tuổi Dậu cũng có tính tự cao, tự đại, khá kiêu ngạo, họ thường bỏ qua suy nghĩ của người khác. Ngay cả trong tình yêu, họ quan tâm tâm chăm sóc nửa kia quá mức và cho rằng điều đó thể hiện tình yêu vĩ đại của mình, nhưng thực chất họ chỉ khiến cho người ta cảm thấy phiền phức, cảm thấy bị xâm phạm quá mức mà thôi. Cái gì quá cũng không tốt, người tuổi Dậu nên nhớ kỹ điều này nhé.
 
3. Tuổi Thân

Trên thực tế, người tuổi Thân cũng dễ dàng rung động, họ nhanh nhẹn và thông minh, nhưng lại gặp rắc rối trong chuyện tình cảm. Chỉ số cảm xúc (EQ) của người tuổi Thân khá thấp, họ không nhận ra được tình cảm của đối phương, không quan tâm tới cảm xúc của người khác nên điều đó vô tình làm cho người ta cảm thấy buồn rầu, thất vọng. Nếu không thay đổi thì đường tình duyên của người tuổi Thân sẽ còn khá nhiều trắc trở đó.

4. Tuổi Tuất

Người tuổi Tuất khá trái ngược, lúc tốt thì tốt quá mức, lúc xấu thì xấu quá đà. Bất kể là ai, nếu có bất kỳ hành động nào quan tâm tới người tuổi Tuất thì họ sẽ chẳng ngại ngần đem cả trái tim mình để đền đáp an tình, tới cả tính mạng họ cũng không màng tới. Thế nhưng, đối với người khác thì điều này lại khá là bi lụy, nhu nhược và mềm yếu. Họ chỉ cứng rắn khi đối diện với kẻ thù, thế nhưng họ lại nóng nảy quá mức, trong lúc cơn giận bộc phát thì họ chẳng màng tới chuyện đúng sai. Để cuộc sống được tốt đẹp hơn, nhất là chuyện tình duyên thì người tuổi Tuất cần biết cách khắc chế bản thân mình, điều chỉnh mọi thứ ở mức độ vừa phải.

Top 5 con giap so huu trai tim sat da hinh anh 2
Ảnh minh họa
 
5. Tuổi Mùi
 
Người tuổi Mùi không hẳn là lạnh lùng, sắt đá nhưng chính sự nhát gan và yếu đuối của họ làm cho người khác có cảm giác như vậy. Trong mọi chuyện, nhất là trong chuyện tình cảm, họ nghĩ tới cái lợi của bản thân quá nhiều và họ quá nhút nhát trong việc thể hiện. Họ sợ sự phức tạp, sợ rằng mình sẽ phải phiền muộn, làm gì họ cũng phải suy đi tính lại, cân nhắc cái lợi của bạn thân. Chính vì cảm xúc không nhanh nhạy nên khi có mâu thuẫn xảy ra, họ sẽ bối rối và nóng vôi, dẫn đến những hành động không mong muốn. 
 
Trong cuộc sống, bạn nên biết kiềm chế cảm xúc của mình trong mọi việc để từ đó đưa ra những quyết định hợp lý nhất, những ai biết điều tiết cảm xúc của mình thì người đó sẽ thành công trên mọi phương diện.
 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp sở hữu trái tim sắt đá

Bí quyết phong thủy đơn giản tăng vận may tiền tài

Chúng ta có thể dựa vào một vài bí quyết phong thủy để có thể cải tạo vận tiền tài và công danh sự nghiệp.
Bí quyết phong thủy đơn giản tăng vận may tiền tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy hiểu theo nghĩa đen là gió và nước. Phong thủy tốt có nghĩa là tạo ra được những dòng chảy năng lượng tốt. Theo cách này, chúng ta có thể dựa vào một vài bí quyết phong thủy để có thể cải tạo vận tiền tài và công danh sự nghiệp.


Allessandra Bogner, thường được biết đến với tên gọi Ali, là một nhà tư vấn phong thủy ở thành phố New York, Mỹ. Công việc chính của Ali là nhân viên tư vấn đầu tư tại ngân hàng, vì thế, Ali rất hiểu biết về tiền bạc.

Ali bắt đầu tìm hiểu phong thủy khi cuộc sống của cô xuống dốc sau khi chuyển đến một tòa nhà và nghe được một số câu chuyện tương tự từ những người từng sinh sống lúc trước. Ali làm việc với những khách hàng nổi tiếng trong giới thời trang, tài chính, công nghiệp, bảo hiểm ở thành phố New York.

Theo Ali, với mỗi cá thể khác nhau thì sự giàu có lại mang một ý nghĩa khác. Nó không hoàn toàn chỉ là tiền bạc, nó có thể là sự sáng tạo, những thành tựu đạt được và được ai đó công nhận.

Trên thực tế, chúng ta vẫn thường khuyên bảo nhau hãy giải quyết các vấn đề tài chính theo cách cụ thể và hiệu quả. Thế nhưng, bạn hoàn toàn có thể tự tạo ra may mắn cho mình để tránh trường hợp rơi vào hoàn cảnh khó khăn về tiền bạc.

Hãy thử tham khảo một số bí quyết của Ali giúp làm tăng dòng chảy của nguồn năng lượng tốt đối với cuộc sống của bạn tại nhà và nơi làm việc như sau:

1. Phong thủy tại nhà

Điều đầu tiên bạn cần tìm hiểu chính là góc tiền tài trong nhà. Các chỉ dẫn trong phong thủy đều nhắc đến góc tiền tài nằm ở hướng Đông Nam của ngôi nhà. Nếu bạn không có điều kiện mời thầy phong thủy hay người tư vấn phong thủy tới nhà, bạn có thể "kích hoạt" góc tiền tài bằng một số mẹo bài trí như đặt biểu tượng của tiền tài hoặc tiền thật ở hướng Đông Nam. Khi bài trí tiền thật, bạn nên bỏ những tờ tiền vào khung ảnh để bàn hoặc treo trên tường.

Những đồ vật mang trong mình nguồn năng lượng và thường xuyên được sử dụng rất thích hợp để đặt ở góc tiền tài trong nhà. Ví dụ như máy tính, máy in, đồng hồ, quạt, tivi, bể cá, tiểu cảnh... Nếu chúng có màu đỏ sẽ càng đem lại hiệu quả tốt hơn.

Bí quyết phong thủy đơn giản tăng vận may tiền tài cho bạn
Những vật dụng trong gia đình hay đồ trang trí có sự chuyển động đem đến nguồn năng lượng tốt về tiền bạc.


Những bông hoa khô héo hay chậu cây chết đều tượng trưng cho cái chết và chúng không đáng có mặt trong nhà của bạn. Một số người rất thích cắm hoa khô trong nhà thế nhưng nó có thể là lý do đem đến cho bạn những quãng thời gian khó khăn trong cuộc sống.

Khu vực tượng trưng cho sự nghiệp thường nằm ở phía Bắc của ngôi nhà và bạn nên đặt ở đây một chậu tre xanh. Tre xanh là một loại cây đáng yêu bởi sự bền vững và sức sống bất diệt, nó vươn lên một cách mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh. Vì thế, tre là biểu tượng của sức mạnh tự nhiên và tiền bạc.

Hãy nhớ đóng chặt cánh cửa phòng tắm nhà bạn mọi lúc. Nếu không, năng lượng của ngôi nhà sẽ chảy vào phòng tắm và thoát ra theo đường ống nước.

Trong phong thủy, tất cả mọi thứ đều có công dụng nhất định và nên được sử dụng đúng với bản chất của nó. Một vòi nước bị rò rỉ? Tiền sẽ bị rò rỉ khỏi túi tiền của bạn. Một đường ống bị tắc? Mọi lưu thông bị gián đoạn. Một chiếc đồng hồ ngừng hoạt động? Nó có thể là biểu tượng cho sự ngưng đọng thời gian. Đừng bao giờ để những đồ vật hỏng hóc tồn tại quá lâu trong nhà của bạn. Hãy sửa chữa tất cả những thứ bị hỏng để tránh mọi điều không may mắn trong cuộc sống.

2. Phong thủy tại nơi làm việc

Ở nơi làm việc, điều quan trọng nhất để tài năng, công sức của bạn được công nhận chính là làm việc chăm chỉ và thể hiện ý thức thật tốt với cấp trên. Tuy nhiên, một vài thay đổi nhỏ mang tính vật lý tại nơi làm việc có thể khiến đường công danh, sự nghiệp của bạn trở nên tốt đẹp hơn. Hãy chắc chắn rằng bàn làm việc của bạn luôn sạch sẽ và ngăn nắp. Dành thời gian sắp xếp gọn gàng mọi thứ trên bàn làm việc mỗi ngày. Một góc làm việc có tổ chức sẽ truyền đi những thông điệp tốt đẹp về bạn tới những người xung quanh, đặc biệt là sếp của bạn.

Bí quyết phong thủy đơn giản tăng vận may tiền tài cho bạn

Luôn sắp xếp bàn làm việc ngăn nắp



Quan sát với con mắt tươi sáng nhất về những gì bạn có xung quanh khu vực làm việc của bạn. Hãy chọn cho mình những hình ảnh mang tính thực tế, hướng về tương lai và có khả năng truyền cảm hứng để bạn chăm chỉ, phấn đấu hơn trong công việc. Loại bỏ hết những vật trang trí rườm ra và thay bằng những bức ảnh đầy mục tiêu của chính bạn như nơi nào đó bạn muốn đến, ai đó bạn ngưỡng mộ và luôn mơ ước đạt được thành công như vậy. Đó là mẹo nhỏ để thay đổi nguồn năng lượng bên trong bạn và nơi làm việc của bạn trở nên tốt đẹp hơn.

“Một khách hàng của tôi từng treo một bức tranh khổng lồ về con tàu Titanic trong phòng làm việc”, Ali nói. “Ông ấy thích tự nhắc nhở bản thân mình rằng không có điều gì là mãi mãi, và nó khiến ông cẩn trọng hơn. Tôi đã nói ông ấy tháo bức tranh ấy xuống và thay thế bằng bức tranh về đỉnh Everest. Không đầy một tháng sau, chỉ bằng một chút bí quyết phong thủy tại văn phòng, ông ấy đã ký được hợp đồng lớn nhất trong đời. Ông ấy bắt đầu tập trung vào những giao dịch mang tính quốc tế,  đặc biệt ở phía cực Đông (gần đỉnh Everest). Chỉ sau 2 – 3 năm, công việc kinh doanh của ông rất phát triển, ông thuê đủ người làm để có thể làm việc tại nhà”.

Bạn có thói quen chất đống mọi loại giấy tờ dù cũ, dù mới trên bàn làm việc? Có một lưu ý bạn cần phải nhớ, đó là bạn phải phân loại giấy tờ trên bàn làm việc của mình thật thường xuyên. Không nên để những giấy tờ, thư từ đã quá hạn, những giao dịch không còn hiệu lực bởi chúng tượng trưng cho nguồn năng lượng tiêu cực. Nói cách khác, nguồn năng lượng “chết” bủa vây lấy bạn hàng ngày sẽ làm ảnh hưởng tới công việc và sự nghiệp của bạn. Nếu không thể vứt bỏ các giấy tờ quá hạn, hãy cất chúng ở một nơi khác.

Bí quyết phong thủy đơn giản tăng vận may tiền tài cho bạn
Không treo quá nhiều thứ rườm rà quanh khu vực làm việc bởi nó làm phân tán sự tập trung của bạn trong công việc.


Văn phòng là nơi để làm việc, nhớ kỹ điều này sẽ giúp bạn có cảm hứng làm việc và đạt được sự tập trung cần thiết trong công việc. Chỉ dành một chỗ rất nhỏ cho những bức ảnh cá nhân hoặc gia đình, không nên để chúng xuất hiện khắp nơi xung quanh chỗ bạn làm việc, vì chúng chính là nguyên nhân chính khiến bạn phân tâm.

Không bao giờ làm việc trong tư thế lưng của bạn đối diện cửa ra vào hoặc một căn phòng khác. Nếu bạn không thể thay đổi chỗ ngồi, hãy đặt một chiếc gương gần khu vực làm việc và bạn có thể nhìn thấy ai đang tiến tới hoặc làm gì phía sau lưng.

(Theo Tintuconline)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết phong thủy đơn giản tăng vận may tiền tài

Xem bói tình duyên cho người tuổi Thân nhóm máu A

Ảnh hưởng một phần từ tính cách rụt rè, nhút nhát nên người tuổi Thân nhóm máu A không dám thể hiện tình cảm của mình trước người mình yêu mến.
Xem bói tình duyên cho người tuổi Thân nhóm máu A

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem boi tinh duyen cho nguoi tuoi Than nhom mau A
 

Trước mặt đối phương, họ thường nói chuyện vu vơ, tầm phào để che giấu tình cảm thật của bản thân. Vì lý đó mà "nửa kia" chỉ nhận thấy ở họ sự hoạt ngôn chứ không hề biết được thành ý của họ.

Biết rõ nhược điểm của bản thân nên những người này tìm đến bạn thân nhất làm nhịp cầu kết nối tình cảm của mình với "nửa kia".

Đôi khi, tình cảm của người tuổi Thân nhóm máu A cũng không ổn định. Khi xuất hiện thêm một đối thủ, họ sẽ tìm mọi cách để chinh phục trái tim người ấy. Nhưng khi không còn ai cạnh tranh nữa, họ lại tỏ thái độ thờ ơ, lạnh nhạt. Vì vậy, có thể nói rằng, tình yêu của họ sẽ nồng đượm hơn khi có thêm người thứ ba.

Vì không dũng cảm biểu lộ tình yêu với người mình thực sự yêu thương nên họ đánh mất cơ hội để cả đời chung sống với người ấy. Do có rất nhiều người bạn khác giới nên những người này sẽ chọn một trong số đó làm bạn đời của mình. Mặc dù đó không phải là người họ hết lòng yêu thương nhưng sau một thời gian chung sống, họ sẽ nhận ra những ưu điểm của người bạn đời. Hai người sẽ cùng chung tay xây đắp cho tổ ấm ngày càng hạnh phúc.

Cả nam giới và nữ giới tuổi này nên xây dựng gia đình với những đối tượng hài hước, lạc quan. Sự kết hợp này sẽ mang lại không khí vui vẻ cho hai người.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

 



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình duyên cho người tuổi Thân nhóm máu A

Những con giáp bị ám ảnh trời nắng

Cô nàng tuổi Dần, tuổi Mão và tuổi Tỵ vì lo xa hay quá chăm chút cho nhan sắc mà trở nên ám ảnh, sợ hãi trời nắng gắt.
Những con giáp bị ám ảnh trời nắng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới cái nắng gay gắt của mùa hè, những nàng giáp này rất sợ phải đi ra ngoài. Trong trường hợp bất khả kháng, họ tự trang bị “đồ nghề” tối tân nhất nhằm tránh được ảnh hưởng của bức xạ mặt trời.

1. Cô nàng tuổi Dần

Bình thường, các nàng tuổi Dần đi đến đâu cũng dễ trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý. Trước khi đi ra ngoài, con giáp này thường mất khá nhiều thời gian để chọn và phối đồ một cách tỉ mỉ. 

tuoi-dan-8769-1437979359.jpg

Mỗi khi hè về, khi phải đi ra nắng, người tuổi Dần không bao giờ quên trang bị những “vũ khí” cần thiết để chống chọi lại mức nhiệt quá cao như kem chống nắng, áo váy, mũ nón, kính bảo vệ… Nếu không có những đồ vật cần thiết này, họ rất sợ phải ra ngoài đường.

2. Cô nàng tuổi Mão

Khác với người tuổi Dần, lý do mà cô nàng tuổi Mão trang bị kín mít những món đồ bảo hộ khi ra đường chính là sợ bị đen da và hại sức khỏe. Với con giáp biết lo xa và chu đáo này, thời trang không quan trọng bằng thời tiết. Họ mặc gì, mặc gì đều có sự tính toán tỉ mỉ để bảo vệ sức khỏe cũng như dung nhan của mình.

3. Cô nàng tuổi Tỵ

Vốn không phải là tuýp người quá chú trọng hình thức bề ngoài, mọi việc làm của các nàng tuổi Tỵ chỉ tuân theo những quy tắc khoa học để có được cuộc sống yên bình và “dễ thở”. Do đó, bất kể trời nắng hay mưa, con giáp này đều chuẩn bị sẵn sàng những vật dụng cần thiết để đối phó tối ưu nhất. Điều đó giải thích tại sao họ lại kín mít từ đầu đến chân khi đi ra ngoài trời nắng. 

4. Cô nàng tuổi Ngọ

Dù được mệnh danh là “chân chạy” khắp đó đây, không ngại nắng mưa để được tung tăng bay nhảy bên ngoài bầu trời tự do nhưng dưới cái nắng gắt của ông mặt trời, các nàng tuổi Ngọ vẫn phải có chút “kiêng nể”.

tuoi-ngo-4298-1437979359.jpg

Nếu không trang bị kín mít, sau mùa hè, các nàng tuổi Ngọ sẽ lại buồn bực với làn da nâu đen lẫn lộn lại không hề mềm mịn tẹo nào. Để tránh tình trạng này, dù thích hay ghét, họ đều phải tuân thủ nguyên tắc kín mít như “khủng bố” khi ra ngoài đường dưới cái nắng như đổ lửa.

Mr.Bull (theo MGSP)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp bị ám ảnh trời nắng

Chú ý đến âm dương và tụ tán như thế nào khi bố cục và trang trí phong khách? –

Phong thủy phòng khách phải cát tường, không được đảo lộn âm dương. Chú ý vấn đề tụ, tán và thông, tắc, trời đất và con người hoà hợp. Theo Kinh dịch thì phòng khách phải ở dương vị, nó phải được đặt ở mặt trước của nhà, có vậy mới bảo đảm yên tĩnh v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

à kín đáo cho phòng ngủ và phòng sách.

Phòng khách là bộ mặt gia đình, bài trí bên trong có tao nhã hay không thể hiện phẩm cách của chủ. về trang trí, số lượng ít nhưng tinh tế là tao nhã, nhiều mà ô tạp ngợp mắt là thô tục; về đồ dùng, gọn sạch là dẹp, lộn xộn do bẩn là thô tục; về màu sắc, trang nhã là đẹp, nhiều màu loè loẹt là thô tục; về dùng tranh, tranh sơn thuỷ là trang nhã, cố gắng tránh treo tranh ảnh người đẹp.

thiet-ke-noi-that-phong-khach-biet-thu-anh-hao_sofa-phong-khach_2-470x353
Thiết kế nhà ở hiện đại nên theo phong cách đa năng tổng thể, biến tủ tường và các tổ hợp thành các đơn nguyên chính trong thiết kế nội thất Xử lý không gian phòng khách lấy nền nhà làm bề mặt kê đặt đồ đạc. Phương pháp xử lý đối với một không gian 3 chiều chủ yếu lấy việc sử dụng mặt tường làm chính.
Trần phòng khách không nên quá rực rỡ, màu nền nhà không nên quá tối, ví dụ màu xi măng, màu đen, nếu không sẽ đảo lộn âm dương. Màu sắc trần nhà nên dùng màu xanh da trời, màu trắng. Trần nhà tốt nhất không nên dùng trần treo, vì nếu dùng trên trần nhà sẽ như có ‘Thiên la địa võng”, tầng tầng lớp lớp, góc cạnh rườm rà làm tăng giác sát về phong thuỷ. Trong phòng thấp mà treo đèn to sẽ làm tăng cảm giác bị đè nén. Con người hiện đại thông minh đần lên, trần nhà được trang trí bằng các đường chỉ làm cho không gian phòng như rộng thêm, đẹp mắt và thực dụng. Ngoài ra, ở những chỗ tối trong phòng thì trang trí tranh hoặc kính nghệ thuật, đây cũng là một cách làm cho không gian phòng thêm rộng hơn. Tuy nhiên, không nên trang trí toàn bộ không gian phòng bằng kính, người sống trong môi trường nhiều gương kính (gương kính trong ngủ hành thuộc hoả) theo phong thuỷ là hung sát, tim và thần kinh sẽ bị ảnh hưởng.
Chú ý đến vấn đề tụ và tán của phòng khách. Chỗ nào tụ, chỗ nào tán; chỗ nào đóng, chỗ nào cách; chỗ nào thông, chỗ nào chắn; chỗ nào sáng, chỗ nào tối đều phải chú ý đến phong thuỷ.
Trung tâm phòng khách là tụ, các khu chức năng là tán. Các hướng Tây Bắc, Tây và hướng Bắc cần đóng; phòng tắm, bếp cần phải cách; gió Đông Nam, gió Nam, đường cứu hoả, nhà vệ sinh, rãnh nước, ống khói cần phải thông; phòng khách, phỏng sách phái sáng; phỏng ngủ, phòng chứa đồ phải tối.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chú ý đến âm dương và tụ tán như thế nào khi bố cục và trang trí phong khách? –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd