Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lý do tháng hai chỉ có 28 hoặc 29 ngày

Mỗi tháng Dương lịch đều có từ 30 đến 31 ngày, nhưng tháng Hai chỉ có 28 hoặc 29 ngày nếu là năm nhuận, là do giữ nguyên cách tính lịch của người La Mã trước kia.
Lý do tháng hai chỉ có 28 hoặc 29 ngày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lịch La Mã ban đầu ban hành bởi Romulus, vị hoàng đế đầu tiên của thành Rome. Lịch do ông ta ban hành dựa vào chu kỳ của mặt trăng, tức là tương tự như âm lịch của người phương Đông, tuy nhiên chỉ có 10 tháng. 10 tháng của lịch này bắt đầu từ tháng ba và kết thúc vào cuối tháng mười hai (lưu ý rằng cách đánh số tháng 1, 2, 3, ... là do cách dịch của người Việt Nam, còn trong nguyên bản của lịch La Mã cũng như cách dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới thì mỗi tháng có tên riêng).

Như vậy một năm chỉ có 10 tháng, tức là có một khoảng thời gian kéo dài hai chu kỳ Trăng không được đưa vào lịch, vì Romulus cho rằng đây là thời gian mùa đông không có ý nghĩa gì với việc làm nông nghiệp nên không cần có quy ước.

Khoảng thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, hoàng đế Numa Pompilius là người quyết định đưa thêm hai tháng nữa vào lịch cho đủ 12 chu kỳ Trăng. Mỗi tháng có 28 ngày, làm cho lịch kéo dài đủ 12 chu kỳ Trăng, tổng cộng là 354 ngày. Tuy vậy, Pompilius cho rằng số 28 là con số không may mắn nên sau đó quyết định cho tháng một thêm một ngày thành 29 ngày, còn tháng hai không hiểu vì lý do gì vẫn giữ nguyên chỉ có 28 ngày.

Lịch đặt theo chu kỳ của mặt trăng dần bộc lộ điểm yếu, nó không phản ánh đúng chu kỳ biến đổi thời tiết các mùa, vì chu kỳ này gắn liền với chuyển động của trái đất quanh mặt trời. Vì thế, người La Mã lại quyết định cứ hai năm thì đưa vào thêm một tháng nhuận kéo dài 27 ngày sau ngày 23 tháng hai (những năm đó tháng hai chỉ có 23 ngày).

Việc thay đổi như trên làm việc tính lịch trở nên rắc rối. Đến khoảng năm 45 trước Công nguyên, Julius Caesar quyết định thay đổi hệ thống tính lịch này. Ông giữ nguyên 12 tháng nhưng thêm ngày vào các tháng để 12 tháng đó trùng với chu kỳ của mặt trời (chu kỳ vị trí của mặt trời trên bầu trời, chứ không phải chu kỳ trái đất chuyển động quanh mặt trời vì thời đó người ta không biết trái đất có quỹ đạo quanh mặt trời).

Caesar cũng đặt quy định cứ 4 năm một lần thì tháng hai lại được cộng thêm một ngày cho phù hợp với chu kỳ của mặt trời được tính ra khi đó là 365,25 ngày, điều này về cơ bản khá gần với chu kỳ thật của trái đất quanh mặt trời, hiện nay chúng ta biết là 365,2425 ngày.

Có nguồn tài liệu ghi rằng ban đầu theo cách tính lịch của Caesar, tháng hai có 29 ngày và mỗi 4 năm nó được thêm một ngày thành 30 ngày, tức là không có chênh lệch lớn với các tháng khác. Tuy vậy sau này khi các tháng đặt tên lại, ngày thứ hai chín của tháng hai được chuyển sang tháng tám do tháng này đặt theo tên của Augustus (Hoàng đế sáng lập đế chế La Mã), để cho tháng đó có độ dài tương đương với tháng bảy (July)- tên của Julius Caesar.

Dương lịch mà con người sử dụng ngày nay chính là lịch La Mã được hoàn thiện thêm. Cách chia các tháng vẫn giữ nguyên để tôn trọng lịch sử và đó là lí do tháng hai có ít ngày hơn các tháng khác. Về cơ bản đây chỉ là một qui ước, không gây ảnh hưởng gì tới việc sử dụng thời gian của loài người.

Trích từ: VNEXPRESS
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý do tháng hai chỉ có 28 hoặc 29 ngày

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh - Thanh Hóa

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh là nơi tham quan du lịch nổi tiếng, cầu nguyện lễ chùa của mọi người dân Thanh Hóa cũng như trong cả nước.
Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh - Thanh Hóa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh là nơi tham quan du lịch nổi tiếng, cầu nguyện lễ chùa của mọi người dân Thanh Hóa cũng như trong cả nước. Nếu các phật tử đã đến Thanh Hóa thì khó lòng bỏ qua địa danh tâm linh này. Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh là một ngôi chùa cổ có từ trước thời Lý. Chùa là nơi thờ đại tướng Trần Hưng Đạo. Chùa được dựng ở làng Duy Tinh, xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, Tỉnh Thanh Hóa, cho nên nhân dân địa phương và các nơi quen gọi là chùa Duy Tinh.

Vị trí của chùa trước kia là trị sở của quận Cửu Chân gần 400 năm (suốt thời Lý, Trần). Thái úy Lý Thường Kiệt đã từng ở đây 19 năm. Theo cuốn di tích lịch sử Việt Nam có ghi lại:

“Chùa có từ lâu, trước đời Lý. Vua Lý Nhân Tông đi tuần phương nam, xa giá dừng ở trị sở châu Ái (Thanh Hoá) rồi trở về… để báo ơn vua, chúc quốc vận trường tồn, Thông phán Chu Công (người được vua nhà Lý cử trấn giữ, cai quản Thanh Hóa) bàn giao cho huyện lệnh là Lê Chiếu dựng lại ngôi chùa cổ đã đổ nát. Dân bản huyện góp lương, góp sức, san gò, lấp trũng, thợ mộc, thợ nề, gắng sức trong 2 năm dựng xong chùa vào cuối năm mậu tuất (Hội Tường Đại Khánh 9) (1118). Quy mô kiến trúc to lớn, xây dựng chạm trổ công phu…. Qua các triều đại tiếp theo, Chùa là thiền viên có danh tiếng ở Ái Châu”.

Quy mô kiến trúc chùa khá lớn, xây dựng chạm khắc công phu “… Nơi nhà uốn như trĩ bay xòe cánh, đầu cột chạm trổ như phượng múa lân chầu…”. Lại quyên góp đồng tốt được 3.000 cân để đúc chuông và 3 pho tượng: Như Lai cùng tượng Dồ tát Ca Diếp và tượng Di Lạc… Qua các triều đại tiếp theo, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh là một thiên viện có danh tiếng ở Châu ái. Do có biến động của lịch sử, bị đổ nát, năm 1952 nhà Tiền Đường đã bị bom Pháp làm sập…

Nhà Tiền đường có kiến trúc đẹp, với cá cột, xà… bằng gỗ lim. Hiện nay chùa có nhiều hiện vật quý của thời Lý mà các di tích cùng thời Lý không có, cụ thể là: Hàng rồng lớn chạm trên đã là những phần còn lại của cây tháp lớn, những đầu rồng và phượng bằng gốm rất lớn mang tư cách những con vật vũ trụ. Trên Tam bảo còn để lại 3 chiếc bệ đá hoa sen tương tự bệ đá ở chùa Thầy (Hà Nội), nhưng các bệ đã này đã được làm kỹ hơn ở các làn sóng dưới chân. Trong chùa còn nhiều tượng gỗ rất quý, đặc biệt là 3 pho tượng Quan Âm bằng gỗ được tạc vào khoảng giữa thế kỷ XVII.

Phía trước khuôn viên chùa là gác chuông được xây dựng vào 1993 gồm 2 tầng với lối kiến trúc rồng thời Lý, chuông nặng 3.000 cân được đặt ở tầng hai. Chuông của Chùa được đúc vào thời Gia Long 11 đó là chuông lớn đặt ở gác chuông. Hàng ngày vào lúc 6h00 chiều nhà Chùa đánh một hồi chuông dài, tiếng chuông có âm vang ngân xa hàng km.

Hiện nay được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Chùa được cấp kinh phí để tôn tạo và mở rộng khuôn viên nhà Chùa và xây một số hạng mục như: Nhà bia, nhà thờ Mộu, nhà thờ phía tây…

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh đã được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng di tích quốc gia ngày 13/03/1990.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh - Thanh Hóa

Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mùi

Khi đặt tên cho người tuổi Mùi, bạn nên tránh các chữ thuộc bộ Tý, Sửu, Ngọ, Khuyển vì Mùi tương xung với Sửu và Ngọ, tương hại với Tý, không hợp với Tuất.
Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Do đó, bạn cần tránh các tên như: Mâu, Mục, Khiên, Long, Sinh, Khổng, Tự, Tồn, Hiếu, Mạnh, Tôn, Học, Lý, Hài, Du, Hưởng, Tuất, Thành, Quốc, Tịch, Do, Hiến, Hoạch…

Nhung kieng ky khi dat ten cho nguoi tuoi Mui hinh anh
Tuổi Mùi

Dê là động vật ăn cỏ, không ăn thịt và không thích uống nước. Do vậy, những chữ thuộc bộ Tâm, Nhục, Thủy như: Đông, Băng, Trị, Chuẩn, Tuấn, Vĩnh, Cầu, Tân, Hải, Hàm, Hán, Hà, Nguyên, Tất, Nhẫn, Chí, Niệm, Tính, Trung, Hằng, Tình, Tưởng, Hào, Tư, Hồ, Năng… không thích hợp với người tuổi Mùi.

Theo văn hóa truyền thống Trung Quốc, dê là một trong ba loài thường được dùng làm vật hiến tế khi đã đủ lớn. Trước khi hành lễ, dê thường được làm đẹp bằng những sắc phục rực rỡ. Để tránh điều đó, bạn không nên dùng những chữ thuộc bộ Đại, Quân, Vương, Đế, Trưởng, Thị, Cân, Sam, Y, Mịch để đặt tên cho người tuổi Mùi.

Những tên cần tránh gồm: Thiên, Thái, Phu, Di, Giáp, Hoán, Dịch, Mai, Trân, Châu, Cầu, San, Hiện, Lang, Sâm, Linh, Cầm, Lâm, Kì, Chi, Chúc, Tường, Phúc, Lễ, Hi, Lộc, Thị, Đế, Tịch, Sư, Thường, Bạch, Đồng, Hình, Ngạn, Chương, Ảnh, Viên, Bùi, Biểu, Hệ, Tư, Thống, Tông…

Theo Bách khoa thư 12 con giáp

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mùi

Phán đoán hung cát của phương vị theo Phi Tinh mỗi tháng như thế nào? –

Giở lịch vạn niên ra nhìn vào cột tháng âm lịch, đấy chính là cửu tinh. Nếu bạn thấy cửu tinh của tháng Tám Âm lịch viết là Ngũ Hoàng thì đại diện Ngũ Hoàng tinh tháng Tám Âm bay đến Cung Trung. Bạn lấy Ngũ Hoàng tinh nhập Cung Trung sẽ tìm ra vị tr

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

í cửu tinh phi phục và biết được tháng Tám trong gia đình sẽ xảy ra chuyện gì.

p17

Giả thiết cửa chính của căn nhà ở hướng Nam, đại diện cho tháng Tám Âm lịch, Cửu Tử tinh sẽ bay đến cửa chính của căn nhà. Thế là chúng ta đã căn cứ vào thứ tự của Cửu tinh phi phục định ra được Bàn trạch của Thế vận tinh. Hiện tại đang là Bát vận, cho nên chúng ta lấy bát tự trong Bát vận nhập vào cung Trung. Sau đó , căn cứ vào phương hướng của Bàn trạch Thế vận để tìm ra con số Phi Tinh tọạ sơn hướng thủ, nhập vào cung Trung bay lần nữa. Cuối cùng thêm bàn tinh Phi Tinh lưu niên thì có thể định ra được toàn bộ vị trí Phi Tinh của căn nhà. Sau khi định được vị trí Phi Tinh, chúng ta dễ dàng đoán được tổ hợp Phi Tinh nào sẽ ảnh hưởng đến thành viên nào trong gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phán đoán hung cát của phương vị theo Phi Tinh mỗi tháng như thế nào? –

Tướng phụ nữ phú quý –

Trên gương mặt, nếu có những nét quý tướng được cho là 'trời ban', bạn sẽ có một cuộc đời sung túc hoặc quyền cao chức trọng. Cùng tìm hiểu xem những nét phú quý đó được thể hiện như thế nào nhé! Tướng trán phú quý - Thông tuệ tinh tường Trán là bộ v
Tướng phụ nữ phú quý –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ phú quý –

Quẻ Quan Âm Diệp Mộng Hùng Triều Đế

Quẻ Quan Âm Diệp Mộng Hùng Triều Đế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Mười sáu  trong quẻ Quan Âm, mang tên Diệp Mộng Hùng Triều Đế (còn gọi là Diệp Mộng Hùng Yết Kiến Nhà Vua). Quẻ Quan Âm Diệp Mộng Hùng Triều Đế có bắt nguồn như sau:

Diệp Mộng Hùng là một trong ba vị Thượng thư nối tiếng đời Minh, tự là Nam Triệu, cũng được gọi là Hoa Vân, là người phường Vạn Thạch, phủ thành Huệ Châu (nay là thành Huệ Chân, tỉnh Quảng Đông).

Năm Vạn Lịch thứ 20 (năm 1592), quan Tổng binh ở Ninh Hạ là Bột Bái (không rõ năm sinh, mất năm 1592, người Ninh Hạ, là tộc trưởng của bộ tộc Thát Đát của Mông cố đời Minh) làm phản, sau khi giết quan Tuần phủ, liên kết với các bộ tộc Mông cố khởi binh, đánh chiếm bốn mươi bảy thành trì của Hà Tây. Binh bộ Thượng thư Ngụy Học Tăng nhận bảo kiếm Thượng Phương, chỉ huy việc dẹp loạn ở Ninh Hạ. Ngụy Học Tăng không nắm được cơ hội, điều binh có nhiều sai lầm, khiến cho nhiều lần công thành mà không có kết quả, nhưng vẫn không từ bỏ việc chiêu hàng, bị Giám quân Mai Quốc Trinh hặc tội. Hoàng đế rất tức giận, do đó Ngụy Học Tăng bị cách chức và xử tội.

Trước đó, Diệp Mộng Hùng giúp Ngụy Học Tăng thổng đốc việc quân của bốn tỉnh, vì thế đã chủ động xin nhận nhiệm vụ. Thần Tông hoàng đế thấy Diệp Mộng Hùng thông thạo tình hình chiến sự ngoài biên ải, lại nhiều mưu trí, bèn hạ chiếu cho Diệp Mộng Hùng tiếp nhận nhiệm vụ, thống lĩnh đại quân dẹp loạn. Diệp Mộng Hùng lập tức đi suốt ngày đêm từ Tửu Tuyền lên phương bắc.

Do sứ giả đến chậm ba ngày, việc giảng hòa đã hoàn thành. Sau khi Diệp Mộng Hùng đến phương bắc, phải đối diện với tình huống là đánh hay chiêu hàng. Có người cho rằng, nếu đánh thì sẽ làm nhục quốc thể (vì không giữ hòa ước). Diệp Mộng Hùng cực lực bác bỏ ý kiến của mọi người, nhất định chủ chiến. Diệp Mộng Hùng dùng năm trăm cỗ “Hỏa xa thần khí” mang theo đế công thành, tuy có hiệu quả, nhưng chưa giành được thắng lợi hoàn toàn. Mọi người lại đưa ra ý kiến dụ hàng, Diệp Mộng Hùng vẫn quyết không nghe, dùng cách tháo nước sông Hoàng Hà nhấn chìm thành, giành được thành công lớn. Ba ngày sau, họ Bột thấy mình thất thế, thế mạnh đã mất, liền chém đầu đồng đảng là Lưu Đông Dương, Hứa Triều, để thể hiện quyết tâm đầu hàng. Phần lớn ý kiến đều chủ trương nên ban ân huệ, tránh để Bột Bái phải chết. Nhưng Diệp Mộng Hùng vẫn khăng khăng: “Chiếu thư của hoàng thượng trong tay, trước tiên phải giết họ Bột, còn họ Lưu, họ Hứa ta đâu cần hỏi đến?” Rồi vẫn tiếp tục chinh phạt, nhanh chóng thành công.

Diệp Mộng Hùng trí dũng song toàn, chỉ trong hơn một tháng đã thu được toàn thắng, công phá được thành trì, khiến cho Bột Bái phải tự thiêu mà chết. Nhưng Diệp Mộng Hùng tuy thành công vẫn không kiêu ngạo, mà nói rằng: “Hãy nhường công ấy cho Học Tăng và các tướng lĩnh đã dũng cảm chiến đấu”, rồi khắc bia đá trên núi Hạ Lan.

Diệp Mộng Hùng ban đầu làm quan văn, nối tiếng vì liêm khiết, lịch sử khen ông là “đứng đầu về đức khiêm nhường”, “rửa sạch thói tham, diệt quân phản loạn”, lưu lại danh tiếng tốt đẹp trong sử sách; ông trung dũng hơn người, dám nhận trọng trách, nhiều mưu trí, giỏi dùng pháo trong chiến đấu. về sau lại nhờ võ công mà được ghi vào “Minh sử”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm Diệp Mộng Hùng Triều Đế

4 chòm sao nữ may mắn có mệnh công chúa cao sang

Mỗi cô gái đều muốn trở thành một nàng công chúa. Nhưng đâu phải ai cũng được như vậy, chỉ có 4 chòm sao nữ may mắn dưới đây mới có mệnh công chúa thôi nhé.
4 chòm sao nữ may mắn có mệnh công chúa cao sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi cô gái đều muốn trở thành một nàng công chúa, được người che chở, nâng niu, trở thành tâm điểm của sự ngưỡng mộ. Nhưng đâu phải ai sinh ra cũng được như vậy, trong 12 cung hoàng đạo thì chỉ có 4 chòm sao nữ may mắn dưới đây mới có mệnh công chúa thôi nhé.


4 chom sao nu may man co menh cong chua cao sang hinh anh
 

Thiên Bình

 

Chòm sao nữ may mắn Thiên Bình có mệnh công chúa từ khí chất cao quý, mọi hành động cử chỉ đều làm cho người khác phải ấn tượng. Dù tình huống rối ren, cấp bách cỡ nào thì rất ít khi thấy Bình nhi cuống cuồng. Bình thường chòm sao này rất thong dong, mang cảm giác nhàn nhã, thanh lịch, xứng đáng là nữ thần trong lòng đông đảo các chàng trai.   Một phần là vì tính cách của Thiên Bình, phần khác nhờ sinh ra có mệnh công chúa nên họ có vẻ ngoài xinh xắn, sự nũng nịu tự nhiên, bản tính ôn hòa, dịu dàng có nét riêng. Bình nhi cũng rất biết cách tô điểm cho mình bằng trang điểm, phục sức cùng với trau dồi khả năng ăn nói, điềm đạm nên mệnh công chúa tự khắc sẽ phát tiết ra thôi.  

Xử Nữ

  Xử Nữ được ví như một nàng công chúa cao ngạo, có khí chất trên người. Lúc nào cũng theo đuổi sự hoàn mĩ, mong muốn cao sang, yêu cầu tốt nhất. Cũng chính vì thế mà chòm sao này luôn nghiêm chỉnh bản thân, mặc những trang phục thời thượng nhất, cử chỉ hành động chuẩn mực nhất.    Dáng vẻ của Xử Nữ công với công chúa mệnh từ lúc sinh ra tạo nên chòm sao nữ may mắn có dáng dấp thướt tha, khiến người khác phải ghen tị, vừa ngước nhìn ngưỡng mộ vừa cảm thán trong lòng. Khí chất quý tộc đã nảy sinh trong người Xử Nữ từ rất lâu rồi, có muốn bắt chước cũng không được đâu nhé.

Hãy xem thêm: 5 ưu, 5 khuyết chuẩn không cần chỉnh của Xử Nữ

4 chom sao nu may man co menh cong chua cao sang hinh anh
 

Ma Kết

  Nàng công chúa giỏi giang là ấn tượng trong lòng mọi người về Ma Kết. hãy nhớ rằng, các nàng công chúa không chỉ xinh đẹp, được yêu chiều mà họ còn rất giỏi giang, khiến người khác phải nể phục. Khí chất hoàng gia trong Ma Kết chính là thể hiện ở điểm này.   Có thể nói sự lạnh lùng đã tạo nên cảm giác cao cao tại thượng vừa huyền bí, vừa sang trọng cho chòm sao nữ may mắn Ma Kết. Cộng với sự uyên bác, tinh thông nữa thì quả thật là bất cứ ai cũng sẽ bị khí thế bất phàm của Kết Kết chinh phục. Thế nên, dù ăn mặc đơn giản, không trang điểm cầu kì thì Ma Kết cũng nổi bần bật.  

Sư Tử

  Khí chất vương giả là đặc sản của cung Sư Tử. Từ khi sinh ra họ đã được ban cho mệnh sẽ được sống trong thế giới rực rỡ hoa lệ và nhận sự chú ý từ mọi người. Không phải vì họ giàu có, sang chảnh đâu, ấy là dựa vào sự hào phóng mà khoáng đạt một cách tự nhiên của Sư Tử đấy.   Khác với các chòm sao nữ ở trên, cô gái Sư Tử có sự vui nhộn, sôi nổi, đôi chút phấn khích, có mùi vị của người làm trung tâm vũ trụ. Cử chỉ, lời nói, hành động đều lôi cuốn, quý phái, gây thương nhớ. Sư Tử còn rất chú trọng hình ảnh, ăn mặc đẹp, phục sức rực rỡ, tự tin như một nàng công chúa kiều diễm. Bọ Cạp và Sư Tử: Những điều cực chuẩn về mối quan hệ này Cung Sư Tử hợp với cung nào trong tình yêu? Điểm tên chòm sao nữ lụy tình sinh vào tháng nào? Học hỏi 4 cô nàng hoàng đạo biết cách khiến chàng mê mệt 4 chòm sao nữ không xinh vẫn mê hoặc lòng người
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao nữ may mắn có mệnh công chúa cao sang

Các ngày “Nguyệt phá” (xấu), kiêng làm nhà –

Tháng Giêng kỵ ngày Thân Tháng Bảy kỵ ngày Dần Tháng Hai kỵ ngày Tuất Tháng Tám kỵ ngày Thìn Tháng Ba kỵ ngày Tuất Tháng Chín kỵ ngày Thìn Tháng Tư kỵ ngày Hợi Tháng Mười kỵ ngày Tị Tháng Năm kỵ ngày Sửu Tháng Mười một kỵ ngày Mùi Tháng Sáu kỵ ngày

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tai-sao-kieng-xay-nha-trong-thang-gieng

  1. Tháng Giêng kỵ ngày Thân
  2. Tháng Bảy kỵ ngày Dần
  3. Tháng Hai kỵ ngày Tuất
  4. Tháng Tám kỵ ngày Thìn
  5. Tháng Ba kỵ ngày Tuất
  6. Tháng Chín kỵ ngày Thìn
  7. Tháng Tư kỵ ngày Hợi
  8. Tháng Mười kỵ ngày Tị
  9. Tháng Năm kỵ ngày Sửu
  10. Tháng Mười một kỵ ngày Mùi
  11. Tháng Sáu kỵ ngày Sửu
  12. Tháng Chạp kỵ ngày Mùi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngày “Nguyệt phá” (xấu), kiêng làm nhà –

Chiêm tinh hoàng đạo cuộc đời Tướng Võ Nguyên Giáp

Xem tử vi cuộc đời tướng Võ Nguyên Giáp dựa trên 12 cung hoàng đạo tử vi phương tây, cuộc đời, sự nghiệp và vận hạn lớn trong đời
Chiêm tinh hoàng đạo cuộc đời Tướng Võ Nguyên Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết được trích từ lá thư của một bạn đọc yêu mến tướng Giáp.

Cuốn sách “Đại tướng Võ Nguyên Giáp thời trẻ” của Hồng Cư (thượng tướng quân đội, và đồng thời là anh em cột chèo với Võ Nguyên Giáp) trong đó khẳng định là tướng Giáp sinh ngày 25/08/1911 (sau khi trích dẫn nguồn gia đình). Theo nguyên lý của chiêm tinh học “con người phi thường thì phải sinh vào giờ đặc biệt” (chú ý rằng mệnh đề ngược lại không đúng: giờ sinh mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để thành phi thường), ắt hẳn lá số của tướng Giáp cũng phải đặc biệt khác người. hãy cũng bạn đọc xem bói ngày sinh của tướng Giáp 

Vì không tìm được giờ sinh của tướng Giáp, nên không thể lập lá số chi tiết với 12 cung (hay trong tử vi Tây phương gọi là 12 “nhà”, ứng với 12 khía cạnh của cuộc đời) được, mà chỉ lập được một bảng tử vi Tây phương (horoscope) không có “nhà”, như hình dưới đây:

lá số tử vi của đại tướng võ nguyên giáp

Soi lá số từ vi phương Tây của đại tướng Võ Nguyên Giáp

Trong tử vi 12 Cung Hoàng Đạo, thì ngày 25/08/1911 quả là ngày đặc biệt, hoàn toàn có khả năng thích ứng với sự ra đời của một người phi thường như tướng Giáp (tuy rằng điều này chưa đủ làm bằng chứng là ngày sinh của tướng Giáp đúng là ngày đã nêu).

Điểm đặc biệt đập vào mắt của lá số (đối với những người từng xem tử vi Tây), là nó chứa một hình dạng (pattern) mà tôi tạm gọi là hình núi lửa. Dạng này tiếng Anh gọi là “kite pattern”, vì nó trông giống cái diều, hay ở Châu Âu còn gọi là “dragon”, không phải vì trông hình của nó giống con rồng, mà là vì nó thể hiện một sự tập trung năng lượng ghê gớm, như là con rồng.

Hình núi lửa (hay kite pattern) là hình tứ giác ABCD, trong đó ABD tạo thành tam giác đều, các góc ở B và D là góc vuông, góc ở A là 60 độ, và góc ở C là 120 độ. Hình dung BD như là chân núi, A như là đỉnh núi, còn C như là đáy núi nằm sâu vào trong đất. Trên là số của tướng Giáp, thì Uranus (Thiên Vương Tinh, biểu tượng là hình tròn có chấm ở giữa và có mũi tên hướng lên ở trên) là đỉnh A của núi lửa. Nó nằm ở 26°5 trong cung Capricorne (chỗ tô màu xanh lá cây, ở phía trên của vòng tròn horoscope). Chân B của núi lửa gồm 2 sao: Venus (sao Kim) ở 29°27 và Mercury (sao Thuỷ) ở 23°59 trong cung Xử Nữ (Vierge). Chân D của núi lửa cũng gồm 2 sao: Mars (sao Hoả) ở 24°25 và Saturn (sao Thổ) ở 20°9 trong cung con Trâu (Taureau). Còn đáy C của núi lửa là Neptune (Hải Vương Tinh) ở 22°43 cung con Cua (Cancer).

Như có viết phía trên, năng lượng của hình núi lửa (hay còn gọi là tướng dragon) rất lớn, và nó phun theo trục đáy-đỉnh, được 2 chân hỗ trợ (2 chân và đỉnh tạo thành 1 vòng quay như là động cơ phản lực, còn đáy như là chỗ nén năng lượng để phun ra).  Tất nhiên, một năng lượng lớn mà “phun không đún chỗ” thì có thể gây tai nạn lớn, và người ta tổng kết được rằng các vụ tai nạn lớn trên thế giới hay ứng với thời điểm xảy ra “con rồng” trong lá số.

Đáy núi lửa của tướng Giáp là sao Neptune nằm ở cung con Cua, thể hiện một con người yêu thương (neptune) gia đình và quê hương (con cua), và có cái nhìn lý tưởng hoá (neptune) về quê hương mình. Còn đỉnh của núi lửa là Uranus, là sao của các cuộc cách mạng, của các thay đổi lớn và đột xuất. Uranus lại nằm trong cung Capricorn (trật tự xã hội, bảo thủ, kỷ cương). Những ai mà có Uranus nằm ở Saturn thì có xu hướng cách mạng để thay đổi kỷ cương trật tự xã hội. Không phải là những người đó không thích kỷ cương, mà ngược lại họ cũng thích kỷ cương, thích sự bảo thủ, nhưng không chấp nhận các kỷ cương và bảo thủ hiện tại, nên có xu hướng cách mạng để tạo kỷ cương mới, bảo thủ mới.

Không phải chỉ mình tướng Giáp có hai sao Uranus và Neptune nằm thành trục như trên, mà toàn bộ những người cùng thế hệ với tướng Giáp đều có hai sao đó nằm như vậy (vì hai sao này di chuyển rất chậm, nằm cả chục năm tron 1 cung rồi mới di chuyển sang cung khác). Chính vì vậy, có thể nói toàn bộ thế hệ của tướng Giáp là thế hệ của các nhà cách mạng xuất phát từ lòng yêu nước (Neptune trong Cancer) muốn thay đổi trật tự xã hội (Uranus trong Capricorn) của Việt Nam lúc đó đang bị Pháp chiếm đóng.

Điểm khác biệt giữa lá số tử vi của tướng Giáp với lá số của những người cùng thời với ông chính là ở chỗ 4 sao tạo nên hai bên chân của núi lửa. Trừ Saturn (sao Thổ, “chạy chậm”), thì 3 sao còn lại (Mars, Mercury, Venus: Hoả, Thuỷ, Kim) là 3 sao “chạy nhanh”, cứ 1-2 ngày lại di chuyển 1 độ trên lá số, nên để chúng tạo thành được 2 chân núi lửa như vậy là cực hiếm, tức là tỷ lệ số người cùng thời đại với tướng Giáp mà có lá số hình núi lửa là khá hiếm. 4 sao chân núi lửa của tướng Giáp bao gồm đầy đủ các “năng lượng” tụ lại vào núi lửa: sao Thổ (Saturn) đem đến kỷ luật, sao Hoả (Mars) đem đến nhiệt huyết hoạt động, sao Thuỷ (Mercury) đem đến trí óc, và sao Kim (Venus) đem đến cả tình cảm lẫn của cải vật chất dành cho núi lửa. Một điều quan trọng nữa là cả 4 sao đó đều nằm ở chỗ “vượng” theo tử vi Tây.

Một lá số hình núi lửa như trên, ắt hẳn hứa hẹn một nhà cách mạng có sức mạnh ghê gớm. “Núi lửa” lớn nhất của tướng Giáp có lẽ chính là trận Điện Biên. Khi núi lửa đã phun, thì khó tránh khỏi những đổ vỡ mất mát, và ở đây cũng ứng với chiến tranh cướp đi sinh mệnh của nhiều người.

Thông thường, trong một lá số tử vi Tây, hai sao quan trọng nhất là mặt trăng (hình trăng khuyết trên horoscope) và mặt trời (hình tròn to có chấm ở giữa). Trong trường hợp lá số của tướng Giáp, thì mặt trăng mặt trời không quan trọng bằng hình núi lửa, nhưng cũng góp phần thể hiện tính cách con người. Trong cung Xử Nữ của tướng Giáp chứa liền 4 sao: Sun, Moon, Mercury, Venus. Cả Sun và Moon đều trong Xử Nữ, ứng với một con người chu đáo, chịu khó, và tiết kiệm, sinh ra trong một gia đình có bố mẹ khá hoà thuận và chăm lo cho con.

Việc mặt trăng (Moon) không chiếu vào sao nào (trên horoscope không có đường nối mặt trăng với sao nào khác), có thể có nghĩa là tướng Giáp ít chịu ảnh hưởng của mẹ (mà chịu ảnh hưởng của bố – đại diện qua mặt trời – nhiều hơn, và thực ra về sau chịu ảnh hưởng của người ngoài gia đình – đại diện qua các sao khác – hơn cả). Nó cũng chứng tỏ tướng Giáp về mặt tính tình rất ổn định, bình thản, không bị “sáng nắng chiều mưa” như nhiều người khác.

Tình duyên của tướng Giáp, như là thể hiện ở sao Kim (Venus), bị sao Pluto chiếu xấu vào, chứng tỏ một sự mất mát. Điều này có thể ứng với việc người vợ đầu của tướng Giáp bị chết sớm (Pháp giết), và có thể có những mất mát khác nữa. Trong cuộc đời của tướng Giáp hẳn có nhiều mất mát, nhưng tướng Giáp vẫn giữ được bình thản, nên mới thọ như vậy.

Trên đây chỉ là những nhận xét có tính cơ bản về cuộc đời của Tướng Giáp. Chưa thể xem chi tiết các vận hạn lớn trong đời. Nếu bạn đọc có nghiên cứu sâu sắc hơn có thể gửi về cho chúng tôi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh hoàng đạo cuộc đời Tướng Võ Nguyên Giáp

Từ bi và trí tuệ

Người tu nếu thiếu hai phần trí tuệ và từ bi thì không xứng đáng là người tu. Vậy mà có nhiều người tha thiết vào thất tu suốt đời, tu tới chết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.

Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.

Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.

Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.

Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.

Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.

Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.

Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.

Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.

Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.

  • Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
  • Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
  • Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Phật
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.

Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.

Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.

Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.

Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.

Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.

Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.

Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.

Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.

Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.

Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.

Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.

Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:

– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?

Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:

– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?

Các vị Bà-la-môn đáp:

– Được.

Lúc đó Phật nói thí dụ:

– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?

Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:

– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?

Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:

– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.

Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.

Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.

Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.

Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.

Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:

1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.

Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.

2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.

Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.

Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?

Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.

Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.

Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.

Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.

Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.

Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.

Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.

 trả nợ
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.

Trả nợ có hai cách:

Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.

Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.

Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.

Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.

Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.

Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.

Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.

Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.

Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?

Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.

Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.

Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.

Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.

Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.

Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.

Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.

Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.

Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.

Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.

Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Từ bi và trí tuệ

Các bước luận đoán lá số Tử vi (phần 1)

Các bước luận đoán lá số Tử vi (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Muốn lập thành một lá số Tử Vi cần phải hội đủ 4 yếu tố là Năm-Tháng-Ngày-Giờ sinh theo Âm Lịch. Cách lập thành lá số Tử Vi nói chung có nguyên tắc chỉ dẩn khá rỏ ràng, nhưng về phương cách giải đoán thì còn phải tùy theo trình độ, cơ duyên và kinh nghiệm... của người giải đoán mà sẽ có những lời giải đoán khác nhau cho lá số tu vi.

Để giải đoán được Tử Vi giỏi, đại khái cần phải có 4 điều kiện sau:

sao-thien-co-tai-suu

Trí nhớ - Tử Vi là một khoa lý số cổ học rất phức tạp nên rất cần có trí nhớ tốt để thuộc các nguyên lý của Âm dương, Ngũ hành, Can Chi và ý nghĩa tính chất của các Sao.
Suy luận - Phải suy luận để phân tích, phối hợp, chế hóa sự sinh khắc của âm dương ngũ hành và xấu tốt của các sao đóng tại mỗi cung số.

Trực giác - Cần phải có trực giác bén nhạy để giúp ích cho những sự suy luận.

Kinh nghiệm - Phải thực hành cho nhiều, đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết để suy luận ra những lời giải đoán cho súc tích, phong phú và chính xác.

Để giúp các bạn mới bắt đầu tự nghiên cứu Tử Vi được dễ dàng, dễ hiểu và có kết quả, chúng tôi mạo muội xin đưa ra những phương pháp, hướng dẫn cụ thể để các bạn theo thứ tự học hỏi hầu có thể tự giải đoán được lá số của mình.

Xem giải thích cách trình bày và hiểu ý nghĩa của lá số.

Những Nguyên Tắc Căn Bản phải nhớ trong tu vi

Những nguyên tắc căn bản về Âm Dương / Can Chi và Ngũ hành sinh khắc trong tu vi .

Những quy tắc phối chiếu của Tam hợp - Nhị hợp - Xung chiếu giữa các cung trong lá số Tử Vi.

Những Tiến Trình Luận Đoán Số phải theo:

Xét sự thuận nghịch về lý âm dương giữa Năm sinh với vị trí cung an Mệnh để biết tổng quát tốt xấu của cung cần giải đoán.

Xét sự sinh khắc ngũ hành của Can Chi Năm sinh

Xét sự tương quan ngũ hành giữa bản Mệnh và Cục

Xem phối hợp hai cung tam hợp với cung an Mệnh-Thân

Xem phối hợp cung nhị hợp với cung an Mệnh-Thân

Xem phối hợp cung xung chiếu với cung an Mệnh-Thân

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Thái Tuế trên lá số

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Lộc Tồn trên lá số

Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Tràng Sinh trên lá số

Phải xét qua tất cả các yếu tố trên rồi phối hợp lại để đưa ra lời lý giải tổng quát về những nét đại cương của cuộc đời cho lá số.

Những Đặc Tính của các Sao phải hiểu trong tu vi

Xem tổng hợp bộ cách của Chính tinh và các trung tinh tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức để biết tổng quát lá số của mình được các cách gì.

Xem ý nghĩa và đặc tính của Chính tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung Mệnh và Thân.

Xem ý nghĩa và đặc tính của các Trung tinh và Phụ tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp của cung Mệnh-Thân.

Xét ý nghĩa, đặc tính, vị trí và sự đắc hãm của các Hung Sát tinh trên lá số.

Xem ảnh hưởng của các Hung Sát Bại tinh (nếu có) tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại các cung quan trọng như tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức.

Xét tới giá trị và ảnh hưởng biến đổi của các sao theo thời gian của mệnh số.

Xem sự liên đới của các sao với nhau, nếu các sao này kết hợp thành cách cục hay bộ cách thì sẽ có tác dụng mạnh mẽ hơn là đóng đơn lẽ hay lạc lỏng.

Nếu muốn xem cung nào thì phải phối hợp ý nghĩa, đặc tính và đặc điểm của các sao tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung đó, quân bình số lượng các sao rồi đúc kết các yếu tố lại để đưa ra lời lý giải kết luận về cung muốn xem.

Phải tập xem phần giải đoán qua các lá số mẫu để biết cách lý giải lá số. Phần này có thể xem qua các bài sưu tập về "Vấn đáp Tử Vi < vdap_tv.html&g thienduc thamluan.lysodongphuong.com" của Tướng Số gia Thiên Đức đăng lại trên trang Web này để rút tỉa kinh nghiệm về cách thức giải đoán lá số. Mỗi câu vấn đáp nói trên đều có phần lược giải về Tử Vi cho người đặt ra câu hỏi.

Hiện tại phần "Tính lý các sao" của trang Lý Số Đông Phương chưa được hoàn thành đầy đủ, nên các bạn có thể qua trang Web của Vietshare , sau khi lấy xong lá số thì nhấn nút chuột trên tên của mỗi sao tại cung nào muốn xem thì sẽ có ngay lời giải tóm tắt về đặc tính của sao đó ngay trên màn ảnh.

Những cung cần phải xem

Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến bản thân mình là Quan lộc - Tài bạch - Tật ách - Thiên di - Điền trạch - Nô bộc.

Cùng một cách xem cho cung Mệnh-Thân và Phúc Đức, xét và luận đoán các cung liên hệ đến lục thân như Phối ngẫu - Tử tức - Phụ mẫu - Huynh đệ



Những Vận Hạn Trong Cuộc Đời phải biết

Cách Giải Đoán Vận Hạn

Xem các Đại vận 10 năm của lá số

Xem Tiểu vận từng năm

Luận về cung tam hợp

Sách số nào cũng chỉ khi xem một cung thì phải xem phối hợp: cung chính, hai cung tam hợp, cung xung chiếu và cung nhị hợp, tất cả là 5 cung cùng một lúc để giải đoán.

Có quan điểm còn đánh giá thứ tự ưu tiên hoặc xếp đặt ra giá trị tỷ lệ cho cung chiùnh là quan trọng nhất, thứ nhì là cung xung chiếu, thứ ba mới đến hai cung tam chiếu với cung chính và sau hết là cung nhị hợp. Sự đánh giá này nhằm phân định được các ảnh hưởng nào là trực tiếp và ảnh hưởng nào là gián tiếp để giúp cho việc giải đoán được cụ thể và đầy đủ hơn.

Riêng theo cụ Thiên Lương thì căn bản chính yếu của một cung chỉ có một cung chính và hai cung tam hợp. Cung nhị hợp (tương sinh) chỉ phụ thêm bổ túc cho cung chính. Còn cung xung chiếu (tương khắc) tuyệt đối chính là đối phương.

Dưới đây là 4 bảng Tam Hợp trong tu vi:

Sở dĩ không có tam hợp hành Thổ vì trong 4 tam hợp trên đều có hành Thổ làm nền tảng để cho Tứ Sinh (Dần-Thân-Tỵ-Hợi) phát nguồn bồi đắp cho Tứ Chính (Tý-Ngọ-Mão-Dậu) được đầy đủ sung túc để trở thành những hành chính trong tam hợp.

Theo Dịch học, hành Thổ là nguồn gốc phát xuất ra các hành khác, rồi tập trung về lại nguồn cội trung ương, hành Thổ phối hợp với 4 hành Kim-Mộc-Thủy-Hỏa thành 4 cục diện, là thế tam hợp căn bản của Tử Vi Đẩu Số.

Nhận xét về bảng Tam Hợp dưới đây sẽ thấy trong mỗi cục diện gồm có 3 hành, tuy khác nhau nhưng cùng liên minh với nhau thành một hành chung, để cùng các cục diện khác tranh đua biến đổi sinh khắc lẫn nhau.

Ngoài ra, theo cụ Việt Viêm Tử thì cần phải phân biệt đến hai chiều thuận nghịch theo quy lý âm dương của tam hợp cục nữa. Lấy ví dụ người có cung mệnh tại Ngọ trong tam hợp cục Dần-Ngọ-Tuất. Nếu là Dương Nam/ Âm Nữ khởi theo chiều thuận đi từ cung Dần đến cung Tuất nên những sao tam hợp đóng tại cung Dần sẽ ảnh hưởng nhiều hơn là những sao cùng tam hợp tại cung Tuất. Còn với người Âm Nam/ Dương Nữ theo chiều nghịch đi ngược lại từ cung Tuất đến cung Dần nên những sao tam hợp tại cung Tuất sẽ ảnh hưởng nặng hơn là những sao tại cung Dần.

Thuyết Âm Dương theo kinh Dịch Chúng tôi xin sơ lược tóm tắt về thuyết Âm Dương:

Theo học thuyết cổ của Trung Hoa, nguồn gốc sơ khởi của vạn vật trong vũ trụ là Thái Cực. Trong thái cực có hai động thể tiềm phục đó là hai khí Âm Dương - gọi là Lưỡng Nghi.

Âm và Dương là hai mặt tương phản đối lập, mâu thuẫn, ức chế lẫn nhau nhưng thống nhất, nương tựa, thúc đẩy lẫn nhau, trong Dương có mầm của Âm và trong Âm có mầm của Dương. Vạn vật được sinh thành và biến hóa nhờ hai khí Âm Dương này phối hợp.

Hai khí Âm Dương giao tiếp tuần hoàn sinh hóa ra vạn vật theo 4 trạng thái phát triễn và suy tàn được gọi là Tứ Tượng (Thiếu Dương - Thái Dương và Thiếu Âm - Thái Âm)

"Khí của trời đất, hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương, tách ra làm bốn mùa, bày xếp thành Ngũ hành." (Đổng Trọng Thư)

Tứ tượng nhờ ảnh hưởng của hai khí Âm Dương thúc đẩy và biến hóa khai sinh ra:

4 mùa - Xuân Hạ Thu Đông

5 chất gọi là Ngũ hành : Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ

8 hình dạng khác nhau của vũ trụ được gọi là Bát Quái
Càn chỉ trời, Khảm chỉ nước, Cấn chỉ núi non, Chấn chỉ sấm sét, Tốn chỉ gió, Ly chỉ lửa, Khôn chỉ đất, Đoài chỉ đầm lầy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các bước luận đoán lá số Tử vi (phần 1)

Vị trí đặt bếp theo phong thủy –

Theo quan niệm của người phương Đông, khu vực đặt bếp quyết định đến sự thành bại của gia chủ chứ không chỉ đơn thuần là một nơi nấu nướng. Trong nhà bếp, các chuyên gia phong thủy cũng chú ý nhất đến vị trí của hỏa lò và nơi chuẩn bị đồ nấu nướng. M

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm của người phương Đông, khu vực đặt bếp quyết định đến sự thành bại của gia chủ chứ không chỉ đơn thuần là một nơi nấu nướng. Trong nhà bếp, các chuyên gia phong thủy cũng chú ý nhất đến vị trí của hỏa lò và nơi chuẩn bị đồ nấu nướng.

Một trong những yếu tố quan trọng đầu tiên khi đặt bếp là phải có sự tương ứng với cửa và chiều cao của chủ nhà.

av

Hỏa lò tối kỵ đặt ngoảnh lưng với hướng nhà. Ví dụ, nhà quay về hướng Bắc mà mặt bếp lại xoay về hướng Nam là không thuận. Cổ nhân khuyên nên để lò nấu “tọa hung hướng cát”, có nghĩa là nằm ở hướng dữ nhưng nhìn về phương lành: “Cửa bếp là nơi đưa củi vào đáy nồi để đốt, phải đặt nó quay về hướng lành, như thế nhanh có phúc”.

Không nên bố trí bếp quá lộ liễu, khiến người ta có thể nhìn thấy ngay từ ngoài hoặc để đường từ cửa đâm thẳng vào bếp vì như vậy dễ bị hao tán tài sản. Bệ đặt hỏa lò, theo các chuyên gỉa phong thủy, nên tựa vào tường cho vững chãi.

Họ cũng yêu cầu tránh để góc nhọn chiếu vào khu vực nấu vì điều đó có thể làm hại tới hòa khí trong nhà. Đừng để bếp dưới xà ngang: dưới xà có bếp, nữ chủ nhân sẽ bị hao tổn. Còn nếu bếp đặt đối diện với nhà vệ sinh hay cửa phòng ngủ, sức khỏe của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng.

Bếp thuộc Hỏa, kỵ nhất với khí mát lạnh của nước. Do vậy, thứ nhất nên kiêng để bếp quay về hướng Bắc (hướng Thủy vượng), thứ hai không đặt bàn nấu trên rãnh, mương, đường nước, và cuối cùng tránh để hỏa lò kẹt giữa hai đồ đạc có mang theo “Thủy” như tủ lạnh, bồn rửa, máy giặt…

Ngoài ra, vị trí của bếp phải kê trên nền cao ráo, không khí thoáng và ánh sáng đầy đủ. Chân bếp không được gập ghềnh. Nghiêng lệch là điều tối kỵ khi đặt bếp. Mái phòng bếp không được để dột, có nước rơi vào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí đặt bếp theo phong thủy –

Tướng mạo phụ nữ thế nào thì sẽ gặp may mắn –

Những cô gái có vầng trán cao, đôi mắt to, ngón tay dài... khá tài hoa, thông minh, thuận lợi và trong chuyện tình cảm. 1. Trán cao, rộng và đầy Nếu phái nữ có trán cao, nhẵn và rộng thì rất có thể sẽ được gả vào nhà giàu có. Người có trán cao rất tà
Tướng mạo phụ nữ thế nào thì sẽ gặp may mắn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mạo phụ nữ thế nào thì sẽ gặp may mắn –

Tình yêu của các vị thần trong thần thoại Hy Lạp

Chuyện tình không phải lúc nào cũng luôn lãng mạn, đặc biệt là các câu chuyện trong thần thoại Hy Lạp.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Zeus và Hera


Thần Zeus có hàng chục người con với 12 vị thần, chưa kể là rất nhiều người phàm, tiên nữ khác. Trong đó, người vợ quyền lực nhất phải kể tới nữ thần Hera, cũng là chị của thần Zeus. 

Sau khi được giải cứu khỏi tên vua cha bạo chúa, Hera sống xa kinh thành Olympus một thời gian dài, cho đến khi Zeus vĩ đại tình cờ nhìn thấy nàng trong chuyến du hành của mình. Ban đầu, Hera không chấp nhận Zeus làm chồng vì dù sao đây cũng là em trai nàng. Hơn thế nữa, Hera đã chứng kiến Zeus nuốt vợ cả của mình là Metis Titaness nên nàng đã từ chối Zeus trong 300 năm. 

Khi hết thời hạn 300 năm dài đằng đẵng ấy, Zeus trở lại và tạo nên một trận bão rất lớn. Thần tự biến mình thành một chú chim nhỏ, bay lạc vào cửa sổ căn phòng của Hera. Hera thấy chú chim đáng thương liền ôm vào ngực vỗ về. Zeus ngay lập tức trở về hình dạng chính mình và quyết liệt tán tỉnh Hera. Chỉ đến lúc này, Hera mới đồng ý làm vợ thần Zeus. 

Các vị thần đã tổ chức cho họ một đám cưới linh đình. Nữ thần Cầu Vồng Iris cùng các Nữ thần Duyên Dáng mặc cho Hera bộ váy áo đẹp nhất, làm cho nàng đẹp lộng lẫy và rạng rỡ hẳn lên giữa các thần linh trên núi Olympus.  


Zeus và Hera xung quanh các con trên đỉnh Olympus.

Hera và Zeus có 4 người con là Ares (thần Chiến tranh), Hebe, Eris, Eileithyia (thần Kỹ nghệ). Theo truyền thuyết, Hera là một bà vợ rất nóng tính và hay ghen. Khi Zeus đem lòng yêu thần sông Nin (Ios), sợ bị Hera phát hiện nên Zeus đã biến Ios thành một con bò trắng. Hera thấy vậy nên đã mang con bò trắng về, nhờ người khổng lồ Argos với các con mắt dày đặc trên người canh giữ ngày đêm. 

Ngoài ra, vì không ưa Hercules, là con trai của Zeus với một người phàm trần, nên Hera cũng đã gây ra rất nhiều bi kịch cho cuộc đời Hercules.


Máu ghen của nữ thần Hera "kinh khủng" đến nỗi thần Zeus cũng phải sợ.

Hera là Nữ thần Hôn nhân, bảo trợ cho sự bền vững và thánh thiện của cuộc sống gia đình. Cũng như chồng, Hera toàn quyền thống trị như một vị Nữ hoàng trên đỉnh Olympus.

2. Bi kịch anh hùng Hercules và công chúa Deianeira

Hercules là con của thần Zeus với một phụ nữ phàm trần tên là Alcmena. Vì là một á thần (một nửa là thần tiên, một nửa là người phàm trần) nên Hercules có sức khỏe phi thường. Nhưng cũng chính từ đây mà chuỗi bi kịch gia đình của chàng bắt đầu.
 
Người vợ đầu tiên của Hercules là công chúa Megara (con gái vua Creon, chúa thành Thebes). Họ có với nhau ba cậu con trai kháu khỉnh. Những tưởng hạnh phúc đã đến thì trên đỉnh Olympus, Hera nguyền cho Hercules hóa điên, khiến chàng ra tay giết chết vợ và con của mình. 


Hercules anh hùng là thế nhưng vẫn không tránh được bi kịch gia đình.

Để rửa sạch tội lỗi, Hercules đã phải thực hiện 12 nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Trải qua nhiều gian truân, Hercules trở về quê hương rồi đến Calidon cầu hôn công chúa Deianeira (Deana). Với tiếng tăm anh hùng của mình, chàng đã nhận được lời đồng ý của công chúa và nhà vua.

Trong một ngày đẹp trời, Hercules dắt vợ đến thành Tyrins chơi. Họ đến một khúc sông chảy xiết. Từ đây, mâu thuẫn bắt đầu được nhen nhóm. Khi Nesxus (tên Nhân mã làm nghề chở người qua khúc sông này) nảy sinh lòng tham, định bắt cóc nàng Daena, hắn đã bị Hercules hạ gục ngay tức khắc. Tuy nhiên, trong lúc hấp hối, Nesxus đã kịp hứng lấy một ít máu của mình, trao cho Daena và nói rằng đây là phương thuốc giúp nàng công chúa giữ chồng.


Tranh miêu tả nhân mã Nesxus cướp nàng Daena khỏi tay Hercules.

Ít lâu sau, trong cuộc chinh phạt xứ Okhali, Hercules bắt sống được công chúa Ioler, người con gái sắc nước hương trời. Sợ chồng bị Ioler mê hoặc, Deana đã nhỏ những giọt máu xưa kia vào bộ lễ phục của Hercules. 

Ngay khi khoác áo vào người, Hercules bỗng cảm thấy toàn thân mình nóng như lửa đốt. Máu long xà Hydra hòa với máu Nhân mã đã tạo thành một chất độc khủng khiếp. Biết mình không qua khỏi, Hercules đã lập giàn thiêu cho mình. Về phía Deianeira, do quá tủi nhục nên đã vào phòng riêng thắt cổ. 

Khi Hercules lên giàn thiêu, chàng được cha mình là Zeus cứu sống. Sau đó, chàng đã sống hạnh phúc với người vợ thứ 3 của mình là Hebes (con gái Zeus và Hera) trên đỉnh Olympus.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu của các vị thần trong thần thoại Hy Lạp

Làm thế nòa để bố trí một phòng sách lý tưởng –

Cùng với sự phát triển của thời đại, nhận thức văn hoá của mọi người cũng không ngừng nâng cao, cơ hội đọc sách học tập tại nhà ngày càng nhiều, vì vậy khi thiết kế nhà, việc bố trí một phòng sách hoặc một góc học tập chu đáo trong nhà càng được chú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trọng hơn. Dưới đây giới thiệu một số biện pháp bố trí phòng sách.
Nếu kinh tế nhà bạn khá, bố trí một căn phòng 8m2 độc lập làm phòng sách là thích hợp nhất. Trong phòng sách chuyên dụng, ngoài bàn viết, tủ sách còn có thể có thêm một vài đồ dùng có chức năng khác, ví dụ đồ dùng giúp cho nghỉ ngơi giải trí. Khi bố trí phòng loại này, đầu tiên phải xác định được vị trí dặt bàn bên cạnh cứa sổ nơi có điều kiện ánh sáng khá tốt. Đại đa số người ta viết bằng tay phải, cho nên khi ngồi bên bàn dọc sách hay viết gì đó ánh sáng tự nhiên hay ánh sáng nhân tạo phải chiếu từ phía bên trái đến, tức là làm sao để cửa sổ ở bên trái phía trước bàn, và đèn bàn phải đặt bên trái bàn. Đèn dùng cho viết chữ nên dùng loại chiếu ánh sáng gián tiếp, tránh nguồn sáng chiếu thẳng vào mắt. Một phương pháp bố trí khác là kê sát bàn vào tường bên dưới cửa sổ, sẽ có được ánh sáng như ý. Khi cứa sổ đối diện thẳng hay đối diện lệch với cửa ra vào, bằng phương pháp này có thể loại bỏ được ảnh hưởng khi có người hoạt động ở cửa hay bên ngoài đối với người ngồi viết ở bàn, làm cho người đó vẫn an tâm tập trung tinh thần cho học tập hoặc làm việc. Điều này có thể thoả mãn yêu cầu cao hơn đối với môi trường học tập. Nếu để bàn sát vào cửa sổ thì cửa sổ nhất định phải có rèm che để ngăn ánh nắng ban ngày chiếu thẳng vào, bảo đảm cho thị lực bình thường.

funiture_a
Ở mặt tường hoặc góc khác của phòng sách có thể bố trí tủ sách, gần tủ sách có thể đặt 1 chiếc ghế đệm mềm hoặc ghế sồ-pha để tiện ngồi đọc sách hay nghỉ ngơi. Bên cạnh ghế cần có nguồn sáng, có thể sử dụng đèn cây hoặc đèn tường, làm thế nào để có đủ ánh sáng khi đọc sách.
Nếu có một phòng sách rộng khoảng 6m2 thì có thể bố trí thành một phòng sách có chức năng đơn nhất. Ngoài một chiếc tủ kê sát vào tường ra có thể đặt một chiếc bàn hình chữ L bên dưới cửa sổ, ưu điểm của nó là diện tích làm việc rộng, kinh tế mà môi trường học tập vẫn dễ chịu. Trong tương lai, máy tính ngày một phổ biến rộng rãi đến những gia đình bình thường, vì vậy hiện tại khi chọn bàn cần xem xét vị trí bố trí máy tính sau này, cần có khoảng trống dự phòng vì máy tính rất phù hợp đặt ở phòng sách. Tuy nhiên, bạn không được bố trí quá nhiều thứ trong phòng sách.
Các đồ dùng chính trong phòng sách có bàn, ghế, tứ và giá sách.
Bên trong bàn nên có nơi để cất giữ văn bản giây tờ và các đồ vật nhỏ. Thuận tiện nhất là loại bàn hai bên có giá kéo, khi cần kéo ra, không cần thì đẩy vào. Còn một loại bàn nữa rất tiện dụng, hai bên nó có ngăn kéo đứng, trong ngăn kéo có các kẹp giây bằng bìa cứng dùng cho việc cất giữ tài liệu.

Ánh sáng cho bàn trong phòng sách hết sức quan trọng. Ánh sáng phải dủ và đều. Độ sáng ở bàn và xung quanh không được tương phản mạnh, tốt nhất dùng loại đèn có thể thay đổi độ sáng và hướng chiếu sáng theo nhu cầu.
Bài trí trên giá sách không nhất định phải theo chuẩn tắc. Giá sách kiểu không cố định chỉ cần kê đặt ở chỗ nào lấy và cất sách được thuận tiện. Dùng giá sách kiểu gắn vào tường hoặc kiểu tủ treo sẽ lợi dụng được không gian, cũng có thể tổ hợp sử dụng cùng với giá để băng đĩa. Khi bài trí ở giá sách kiểu bán thân áp tường, nửa phía trên trống có thể kết hợp bố trí cùng một số đồ trang trí như tranh tường, bấy giờ giá sách sẽ kiêm chức năng trang trí, vì vậy sách chọn dể xếp ở dó nên là những cuốn còn vuông vắn thẳng nếp hoặc những sách chuyên ngành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm thế nòa để bố trí một phòng sách lý tưởng –

Phật Di Lặc - biểu tượng tuyệt đối của hạnh phúc

Bạn hãy bày tượng Phật ở cung Đông Nam của phòng khách, phòng lễ tân hoặc của toàn bộ ngôi nhà để gia tăng vận may tài lộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bồ Tát Di Lặc được coi là vị Phật thứ 5, vị Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trên trái đất sau khoảng 30.000 năm nữa, thay thế Phật Thích ca Mâu Ni. Trong Phật giáo Tây Tạng, Di Lặc được thờ cúng rất rộng rãi. Ở thế giới hiện đại, hình ảnh vị Phật này hiện hữu khắp mọi nơi: cửa hàng, khách sạn, nhà riêng, chùa chiền.

Trong tranh tượng, Phật Di Lặc thường ngồi trên ngai vàng, chân bắt chéo hoặc đặt xuống sàn, với hàm ý sẵn sàng đứng dậy đi giáo hóa chúng sinh. Ở những hình ảnh ban đầu, Di Lặc được mô tả như một vị hoàng tử thanh mảnh, tuấn tú, thường mặc trang phục hoàng gia Ấn Độ.

Tại Trung Quốc, Bồ Tát Di Lặc hay được trình bày với dáng vẻ mập mạp, hiền hòa, tự tại, miệng tươi cười, bụng phơi ra, trẻ con đeo xung quanh.

Người ta tin rằng đó chính là hình ảnh của Bố Đại (tức là Hòa thượng Túi Vải), một Thiền Sư Trung Quốc ở thế kỷ thứ 10. Tương truyền, nhà sư có tướng người mập mạp, trán hẹp, bụng lớn, nói năng vô định, ngủ nghỉ tùy chỗ, thường dùng một cây gậy, quẩy một túi vải để đựng những vật người cúng dường. Ông được khâm phục vì có tài tiên tri thời tiết nắng mưa. Trước khi viên tịch, Hòa Thượng nói bài kệ:

"Di Lặc, chân Di Lặc

Phân thân trăm nghìn ức

Thường hiện cho người đời

Người đời không ai biết"


Sau khi viên tịch, người dân vẫn thấy Bố Đại mang túi vải xuất hiện ở châu khác. Tin rằng ông chính là hóa thân của Di Lặc, người đời sau thường thể hiện hình ảnh Phật Di Lặc dưới dạng một Bố Đại mập tròn vui vẻ.

Phật Di Lặc trong Phong thủy

Còn gọi là "Phật Cười", Di Lặc là biểu tượng tuyệt đối của hạnh phúc trong phong thủy. Theo truyền thuyết, niềm vui lớn nhất của vị Bồ Tát này là biến những buồn phiền, giận dữ, áp lực hay căng thẳng của con người thành hạnh phúc. Người ta tin rằng nụ cười nội tâm của Di Lặc mạnh tới mức nó luôn tỏa sáng trên khuôn mặt hiền từ và, Phật tới đâu ở đó có hạnh phúc.

Di Lặc cũng được coi là biểu tượng của sự hài hòa, niềm vui vô tư lự. Chỉ cần nhìn ngắm khuôn mặt Phật, người buồn phiền cũng có thể thấy vui lên. Xoa bụng Phật được cho là mang lại vận may và sự tốt lành.


Tượng trưng cho thịnh vượng, Di Lặc thường được gắn với các biểu tượng giàu sang như đồng tiền, thỏi vàng và chiếc túi được cho là chứa rất nhiều châu báu. Đôi khi Phật cũng mang theo quả Hồ lô, biểu tượng của sức khỏe và trường thọ hoặc chiếc Gậy như ý, biểu tượng của quyền lực. Người ta thích chọn tượng Phật có khuôn mặt cười hả hê, với mong muốn nhận được nhiều niềm vui và mọi sự như ý.

Cách bài trí tranh và tượng Phật Di Lặc

Bày tượng Phật đối diện với cửa chính: nhiều nhà phong thủy khuyên nên đặt tượng Phật Di Lặc ở độ cao khoảng 1m, nhìn thẳng ra cửa nhà. Vị trí này được cho là giúp Phật biến toàn bộ khí vào nhà thành năng lượng tốt. Nếu không có được vị trí lý tưởng nói trên, hãy bày tượng ở một chiếc bàn cạnh tường hoặc ở góc xa nhất của phòng, đối mặt với cửa chính.

Đặt tranh hoặc tượng Phật ở cung Đông của ngôi nhà hay phòng khách để tạo sự hài hòa cho cả gia đình và hóa giải mọi rắc rối, cãi cọ.

Bày tượng Phật ở cung Sinh Khí của bạn để tăng vận may tài lộc, sức khỏe và thành công.


Bày tượng Phật ở cung Đông Nam của phòng khách, phòng lễ tân hoặc của toàn bộ ngôi nhà để gia tăng vận may tài lộc.

Với những người làm việc trong môi trường cạnh tranh, ví dụ người nắm giữ những vị trí chủ chốt của công ty, các chính trị gia… đặt Phật Di Lặc ở nơi làm việc hoặc tại nhà giúp mang lại may mắn và loại bớt sự thù địch. Hình ảnh của Phật cũng giúp tâm trí minh mẫn và giảm bớt căng thẳng.

Đặt tượng Phật trong xe ô tô giúp giảm bớt lo âu, tránh tai nạn và mang lại tin vui.

Bày tượng Phật ở bàn làm việc để giảm bớt căng thẳng và tranh cãi với đồng nghiệp, đồng thời giúp bạn hoàn thành công việc tốt hơn.

Học sinh muốn đạt thành tích cao có thể đặt tượng Di Lặc trên bàn học để tăng cảm hứng học tập.

Tượng Phật Di Lặc là một vật phẩm hết sức hữu hiệu giúp hóa giải Tam Bích (số 3 - sao cãi cọ). Màu vàng của tượng (đại diện cho hành Kim) sẽ tiêu diệt năng lượng Mộc của Tam Bích. Trong năm 2012, ngôi sao cãi cọ này nằm ở cung Tây Nam ngôi nhà của bạn.

Phật Di Lặc có thể là món quà lý tưởng cho bất cứ dịp vui nào. Với người đang gặp nhiều rủi ro, đây cũng là món quà hết sức ý nghĩa.

Chú ý: Không bày tượng Phật trong phòng tắm, nhà bếp, phòng ngủ hay đặt trực tiếp trên sàn nhà.

Theo Ngôi sao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật Di Lặc - biểu tượng tuyệt đối của hạnh phúc

Ý nghĩa sao Tướng Quân - Là một quyền tinh chủ uy quyền

Sao Tướng Quân và Thiên Tướng thì uy quyền hiển hách, nếu đồng cung thì càng mạnh hơn, và nặng ý nghĩa quân sự. Nếu là nữ mệnh thì đây là người đàn bà đảm lược.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Tướng Quân - Là một quyền tinh chủ uy quyền

Ý nghĩa sao Tướng Quân - Là một quyền tinh chủ uy quyền

Hành: Mộc

Loại: Võ Tinh, Quyền Tinh

Đặc Tính: Uy quyền, mệnh lệnh.

Phụ tinh. Sao thứ 5 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ. Cũng là một trong 4 sao của cách Binh Hình Tướng Ấn (Phục Binh, Thiên Hình, Tướng Quân, Quốc Ấn).

Ý Nghĩa sao Tướng Quân:

Cương trực, thẳng tính, nóng tính, ngang tàng, bất khuất.

Can đảm, dũng mãnh, hiên ngang, làm càn, táo bạo.

Kiêu căng, có óc lãnh tụ, tinh thần sứ quân, ham cầm quyền. Vể điểm này, Tướng Quân có nghĩa tương tự như Hóa Quyền nhưng khác ở chỗ Hóa Quyền chủ sự nắm quyền bính còn Tướng Quân chỉ sự khao khát quyền bính, háo danh, hiếu thắng.

Đối với nữ mệnh, ghen tuông, lấn át chồng, hoặc có tính mạnh bạo như nam nhi.

Ý Nghĩa sao Tướng Quân Và Một Số Sao Khác:

Sao Tướng Quân và Thiên Tướng thì uy quyền hiển hách, nếu đồng cung thì càng mạnh hơn, và nặng ý nghĩa quân sự. Nếu là nữ mệnh thì đây là người đàn bà đảm lược, tài ba hoạt động như nam giới. Còn ở trong gia đình thì rất có uy quyền, thường lấn át quyền uy của chồng.

Tướng Quân gặp Tuần, Triệt án ngữ: Ví như ông tướng cụt đầu, tổn hại đến tánh mạng, công danh, quyền thế. Chủ sự truất giáng, bãi cách, tai nạn xe cộ, phi cơ, gươm đao, súng đạn khủng khiếp.

Sao Tướng Quân, Phục Binh, Không Kiếp: Cũng nguy hiểm đến tính mạng vì có người mưu sát.

Tướng Quân, Quốc Ấn, Phục Binh, Thiên Hình: Bộ sao uy dũng chỉ quyền tước, võ nghiệp, cầm quân, cầm quyền.

Sao Tướng Quân, Đào Hồng: Đàn bà tơ duyên rắc rối, bị thất tiết, ngoại dâm; đàn ông thì hoang dâm.

Sao Tướng Quân, Phá Quân, Phục Binh, Đào Hồng: Dâm dục quá đáng, tư thông, ngoại dâm, loạn luân.

Có quan điểm cho rằng Tướng Quân dù là Thiên Tướng hay Tướng Quân cần đi với Phục Binh, Thiên Mã mới hợp cách, đủ bộ ví như tướng có quân, có uy.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Phụ Mẫu:

Cha mẹ có tiếng tăm.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Phúc Đức:

Tăng tuổi thọ, trong họ có người làm nên sự nghiệp nhưng bất hòa.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Điền Trạch:

Gia tăng lợi ích về việc tạo dựng nhà cửa, lựa được đất tốt, hoặc có nơi an ninh, có thành quách, cơ sở hành chánh, quân sự đầy đủ, hoặc vùng đất xưa kia có bờ rào, thành cổ.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Quan Lộc:

Lợi ích cho công danh, chức vụ, có uy quyền, có óc lãnh tụ.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Nô Bộc:

Bè bạn, người giúp việc đắc lực.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Thiên Di:

Ra ngoài oai phong, nhiếp phục được người khác.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Tật Ách:

Giải trừ được tai nạn, nhưng nóng tính, làm càn thì hay gặp rủi ro, bị cầm giữ.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Tài Bạch:

Lợi ích cho việc cầu tài, làm giàu, phù hợp với các nghề cổ phiếu, địa ốc.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Tử Tức:

Con cái có sức khỏe, thành danh, nhưng ít con.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Phu Thê:

Người hôn phối có tài, có danh, có uy quyền, nhưng hay ghen tuông.

Ý Nghĩa Tướng Quân Ở Cung Huynh Đệ:

Tướng Quân, Thiên Mã, Lộc Tồn: Anh em quyền quý.

Tướng Quân, Phục Binh, Thai, Đế Vượng: Có anh chị em dị bào, hoặc anh chị em có người dâm đãng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Tướng Quân - Là một quyền tinh chủ uy quyền

Vận dụng triết lý ngũ hành trong cuộc sống –

Ngũ hành với kim – mộc – thuỷ – hoả – thổ chứa những bí ẩn mà ngày nay, khi khoa học kỹ thuật càng hiện đại thì những ứng dụng của nó vào đời sống lại càng nhiều dưới các sắc thái khác nhau của nhịp sống mới. Chẳng phải là mê tín, nhưng những điều nà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

y làm cho cuộc sống trở nên thú vị hơn.

ngu-hanh-1

Mối quan hệ ngũ hành – cơ thể – sắc đẹp

Theo y học cổ truyền, các chức năng cơ thể con người chịu tác động khá lớn từ môi trường bên ngoài. Nếu thích nghi được với tất cả những sự thay đổi của môi trường thì cơ thể sẽ luôn đạt được sự cân bằng, còn ngược lại cân bằng bị phá vỡ sẽ sinh ra bệnh tật.

Trên nền tảng nhận thức cơ thể mỗi con người là một tiểu vũ trụ, phản ánh dòng chảy của tự nhiên, cơ thể sẽ đạt được trạng thái lý tưởng nhất như thuyết “thiên nhân hợp nhất” khi con người thích nghi hoàn toàn với mọi sự biến đổi của tự nhiên.

Theo y học cổ truyền, 5 yếu tố mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ là 5 vật chất cơ bản cấu thành nên hệ tự nhiên, gọi là ngũ hành.

Mộc: gỗ – ứng với mùa xuân, tuổi thơ. Trên cơ thể con người, mộc ứng với gan.
Hoả: lửa – ứng với mùa hè, tuổi trẻ. Trên cơ thể con người, hoả ứng với tim.
Thổ: đất – ứng với mùa mưa, tuổi trưởng thành. Trên cơ thể con người, thổ ứng với dạ dày.
Kim: kim loại – ứng với mùa thu, tuổi trung niên. Trên cơ thể con người, kim ứng với phổi.
Thuỷ: nước – ứng với mùa đông, tuổi già. Trên cơ thể con người, thủy ứng với thận.

Sự thay đổi theo từng mùa sẽ liên quan mật thiết đến tính khí và cơ thể. Mùa xuân và mùa hè ngày dài hơn, khí vận tăng dần nên da trở nên mau mệt mỏi và cằn cỗi sau một ngày dài, rất mẫn cảm với các yếu tố gây kích ứng. Chăm sóc da là cần giữ cho da sạch sẽ, thông thoáng và cân bằng độ ẩm.

Vì vậy thời điểm này không thích hợp sử dụng những mỹ phẩm chứa nhiều chất dầu (vì chất dầu sẽ làm cản trở sự hô hấp của da). Những mỹ phẩm dạng gel trong có thể giúp hạn chế việc sử dụng chất dầu. Những mỹ phẩm chiết xuất từ thảo dược sẽ giúp bảo vệ da, giữ cho da sạch nên khi thoa đem lại cảm giác mát mẻ cho da. Những ngày xuân hè, làn da luôn có sắc diện hồng hào nên chỉ cần trang điểm nhẹ cũng làm đẹp cho con người.

Mùa thu đông ngày ngắn hơn, da dễ bị trạng thái trì trệ, chậm chạp của đêm dài làm mất đi vẻ tươi tắn, trẻ trung. Do thời tiết, da cũng dễ bị khô, bị dày lớp sừng tế bào chết. Do vậy cần bổ sung tối đa mỹ phẩm cung cấp chất tạo ẩm và chất dinh dưỡng nuôi da. Thường xuyên lấy đi lớp tế bào chết để da không bị lão hoá, không bị nhăn già. Mùa thu đông cần những tông màu trang điểm nóng và mạnh để làm ấm lên không khí chung quanh.

Ngũ hành với sắc màu đời sống

Màu sắc trang trí trong ngôi nhà luôn có tầm quan trọng đặc biệt đối với người Việt Nam, vì chính màu sắc sẽ giúp mang lại cảm giác thoải mái, tự tin, lấy lại sự bình yên sau những giờ làm việc căng thẳng mệt mỏi ở bên ngoài.

Màu sắc của từng bộ phận trong và ngoài ngôi nhà phải được phối một cách hài hoà tương sinh, tương hợp với môi trường xung quanh, với tâm lý tình cảm, sở thích…

Màu sắc cũng được phân loại trong thuyết âm dương ngũ hành. Các màu nóng như đỏ – cam – vàng là “màu dương”. Các màu lạnh như xanh dương – xanh lá cây là “màu âm”.

Màu xanh tượng trưng cho mộc, màu hồng tượng trưng cho hỏa, màu vàng tượng trưng cho thổ, màu trắng tượng trưng cho kim và màu tối tượng trưng cho thủy.

Ứng dụng tính tương sinh và tương khắc, những người thuộc mộc của ngũ hành, ngoài việc có thể chọn màu mộc (xanh) để sử dụng còn có thể dùng màu thủy (xanh đậm) vì thủy sinh mộc và kiêng dùng màu trắng vì trắng là màu của kim mà kim lại khắc mộc.

Chọn màu sắc theo lược đồ ngũ hành thì màu đỏ và màu xanh mang về thêm tài lộc; xanh lá, đỏ và vàng giúp cho danh phận; đỏ và trắng cho hôn nhân; vàng, trắng và đen cho trẻ con; đen và trắng là quý nhân giúp sức; trắng, đen và xanh lá cho nghề nghiệp; đen và xanh lá tăng thêm trí thức; đen, xanh lá và đỏ giúp ích cho phần gia đình.

Ứng dụng phối màu

Các hành tương sinh và có thể phối hợp với nhau:

Thuỷ và Mộc = Đen và Xanh lục.

Mộc và Hoả = Xanh lục và Đỏ.

Hoả và Thổ = Đỏ và Vàng.

Thổ và Kim = Vàng và Trắng.

Kim và Thuỷ = Trắng và Đen.

Các hành tương khắc và không thể phối hợp:

Thổ và Thuỷ = Vàng và Đen.

Thuỷ và Hoả = Đen và Đỏ.

Hoả và Kim = Đỏ và Trắng.

Kim và Mộc = Trắng và Xanh lục.

Mộc và Thổ = Xanh lục và Vàng.

Tương tự như vậy khi phối màu từ 2 màu trở lên người ta cũng áp dụng các nguyên tắc tương sinh và tương khắc.

Ví dụ:

Phối hợp ba hành để có sự tương sinh là:

Kim – Thuỷ – Mộc = Trắng – Đen – Xanh lục.

Mộc – Hoả – Thổ = Xanh lục – Đỏ – Vàng.

Thổ – Kim – Thuỷ = Vàng – Trắng – Đen

Tính tương sinh của ngũ hành là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tính tương khắc của ngũ hành là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận dụng triết lý ngũ hành trong cuộc sống –

Tướng người nghèo khổ –

1. Miệng nếp nhăn: Miệng nếp nhăn hay còn gọi là miệng túi vải, có đặc điểm là hai môi ngậm chặt, khóe miệng trễ xuống, có rất nhiều nếp nhăn trên môi, mặt giống như đang khóc. Người có miệng này kết hôn và có con muộn. Thuở nhỏ sống vất vả, về già c
Tướng người nghèo khổ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người nghèo khổ –

Đền Tranh - Hải Dương

Đền Tranh - một ngôi đền lớn thờ nhân vật mang tính huyền thoại theo tín ngưỡng dân gian. Đền Tranh hay còn gọi là đền Quan Lớn Tuần Tranh
Đền Tranh - Hải Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu nhắc đến những địa điểm tâm linh của tỉnh Hải Dương chúng ta không thế không nhắc Đền Tranh – một ngôi đền lớn thờ nhân vật mang tính huyền thoại theo tín ngưỡng dân gian.

Đền Tranh hay còn gọi là đền Quan Lớn Tuần Tranh nằm ở gần bến đò Tranh, Tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn, nay thuộc xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, thờ vị thần sông nước coi khúc sông.

Tương truyền, Quan lớn Tuần Tranh là viên quan phủ Ninh Giang. Ngày xưa, tại bến sông Tranh, có hai con rắn dữ thường nổi lên quấy phá. Một hôm, chúng bắt đi nàng hầu xin đẹp của quan. Vị quan này khởi kiện Diêm Vương. Rắn bị xử thua phải mang cả dòng họ dời đi nơi khác. Từ đó bến sông sóng yên nước lặng, nhân dân nhớ ơn vị quan phủ mà lập đền thờ, tôn là vị thần bảo vệ khúc sông.

Thời Trần, tại vùng ngã ba sông Tranh giao với sông Luộc, người dân đã lập ra một ngôi đền thờ vị thủy thần cai quản khúc sông này. Ngôi đền này ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nằm sát bến sông, vì vậy thường bị tác động của thủy triều và dòng nước xoáy. Do bờ sông thường bị xói lở nên đến năm 1935, người dân lập một đền thờ mới tại làng Tranh Xuyên (nay thuộc thị trấn Ninh Giang). Ngôi đền mới này vẫn được dân chúng giữ tên gọi là Đền Tranh.

Đến giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX, đền Tranh được tôn tạo với quy mô khá lớn, kiến trúc theo kiểu Trùng thiềm điệp ốc với những cung và gian thờ khác nhau. Năm 1946, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, nhiều hạng mục ngôi đền bị tháo gỡ.

Đến những năm 60 của thế kỷ XX, đền được chuyển về phía bắc của thị trấn Ninh Giang cách đền cũ khoảng 300m, nay thuộc địa phận thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang. Đền Tranh qua ba lần chuyển dời cùng nhiều lần trùng tu tôn tạo, đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử và tích hợp được nét đẹp của văn hóa Việt. Căn cứ vào hệ thống bia ký tại đền cho biết, vào năm Tự Đức thứ 5 (1852) đền đã có nhiều người công đức để tu tạo.

Công trình hiện nay khá hoành tráng với kinh phí xây dựng do nhân dân công đức. Đền Tranh là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngưỡng dân gian mà điển hình là nhân vật huyền thoại Quan Lớn Tuần Tranh.

Đền Tranh thờ thần và đặt trong khám và đây đó trên xà trên khung cửa được gắn những rắn thần bằng vải nhồi bong màu sặc sỡ, ban đêm được ánh điện soi sang lấp lánh cửa đồ thờ, hương án làm tăng thêm vẻ uy nghi vốn có của nơi thờ tự.

Trong dân gian truyền tụng là ”đền thiêng lắm, linh ứng lắm, cầu gì được lấy” nên hàng năm kỳ mở hội, khách thập phương từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định vv… về trẩy hội khá đông. Lễ hội được mở từ ngày 25/2 âm lịch( hiện nay là 14/2 ÂL).

Ngày rước thần có những ông đồng bà đồng “xiên lình” qua má để tỏ phép lạ của con người khi linh ứng nhập. Thanh đồng Nguyễn Thanh Tâm(ông đồng hay xuất hiện trong các cuộc hầu đồng biểu diễn ở Kiếp Bạc, Lảnh Giang) người Kim Thành, Hải Dương là người có rất nhiều canh hầu ở đền.

Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10-20 / 2, trọng hội vào 14 – ngày sinh của quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20-26 / 5, trọng hội vào 25 – ngày hoá của Đức thánh.

Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn, thu hút khách nhiều tỉnh phía Bắc, một trong những hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, đặc biệt với các bà các cô ở các thành phố, bởi thế khách thập phương đến đây rất đông. Không chỉ trong những ngày hội (thường kéo dài tới 7 ngày) mà những ngày thường cũng không ít khách đến lễ và không thể thiếu tiết mục hát chầu văn.

Nửa thế kỳ trôi qua, thị trấn đã trải qua những thăng trầm qua hai cuộc chiến tranh, đền Tranh được dựng lại và tôn tạo trên địa phận thôn Tranh Xuyên xã Đồng Tâm. Không những đền được tôn tạo lại rất bề thế uy nghiêm mà còn được mở rộng rất nhiều, bên cạnh còn có chùa Tranh mới được xây dựng thêm. Không chỉ ngày hội mà ngày thường khách đến lễ cũng rất đông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Tranh - Hải Dương

Tướng số trẻ em |

Tướng trẻ em khắc cha - Phía trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật bệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán có nhiều lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường. - Lông mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô, mọc dựng đứng. - Thân
Tướng số trẻ em |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng số trẻ em |

Tìm may mắn cho người tuổi Bính Tý

Người tuổi Bính Tý (mệnh Thủy, sinh năm 1936, 1996) có cuộc đời may mắn, dễ đạt được thành công trong cuộc sống. Lúc nhỏ bình thường, trung niên thành đạt, hậu
Tìm may mắn cho người tuổi Bính Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: vận tốt đẹp.

(Ảnh minh họa)

Người tuổi này thường hành động bột phát nên khi trẻ tuổi cần hết sức thận trọng. Nam giới ít may mắn ở các tuổi: 24, 27, 33, 38, 45; nữ giới: 21, 24, 28, 32. Ở các tuổi này họ nên cẩn thận trong đi đứng, nói năng, giao dịch, làm ăn, kinh doanh, sự nghiệp.

Tính cách: Họ là những người có dung mạo đẹp, tính cách mạnh mẽ, trung thực, nhạy bén, biết quan sát và có tài ứng phó. Nhưng nhược điểm của họ là nóng nảy nên dễ làm hỏng việc lớn.

Tình cảm: Đây là mẫu người yêu thích sự lãng mạn. Tuổi trẻ tình duyên lận đận, phải từ 30 tuổi trở đi mới yên ổn, tốt đẹp.

Nam giới sinh vào tháng 1, 7; nữ giới sinh vào tháng 4, 9 hôn nhân sẽ khó hòa hợp. Họ cần phải nhẫn nhịn, bao dung, thông cảm với nhau thì gia đình mới hòa thuận, hạnh phúc.

Để cuộc sống vợ chồng tốt đẹp, nam giới tuổi Bính Tý nên kết hôn với người tuổi Bính Tý, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Ất Dậu và tránh kết hôn ở các tuổi 17, 21, 23, 29, 33. Nữ  giới nên chọn người tuổi Bính Tý, Nhâm Ngọ, Ất Dậu, Ất Hợi, Quý Dậu và tránh kết hôn ở các tuổi: 15, 21, 27, 33, 38, 39.

Gia đạo: Người tuổi này gia đình hay xảy ra mâu thuẫn nhỏ. Qua tuổi trung niên mọi sự mới bình yên, hạnh phúc.

Công danh, sự nghiệp: Nam giới tuổi Bính Tý thường gặp may mắn nên dễ thăng tiến trong sự nghiệp, người chính trực sẽ có được quyền cao, chức trọng, giàu sang. Tuy nhiên, nữ giới công danh chỉ đạt ở mức trung bình.

Để làm ăn phát đạt, nam giới tuổi Bính Tý nên hợp tác với các tuổi Bính Tý, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Ất Dậu. Nữ giới nên kết hợp với các tuổi Bính Tý, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ. 

(Theo 12 con Giáp, tính cách con người qua năm sinh, tuổi Tý)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Bính Tý

Giải mã giấc mơ thấy con bọ ngựa –

Trong thế giới tự nhiên thì bọ ngựa là loài vật có thân hình mảnh mai nhưng lại có khả năng chiến đấu cực lớn. Chúng sẵn sàng tấn công tất cả những sự vật có thể làm tổn thưởng hoặc muốn động đến chúng. Giấc mơ đêm qua bạn thấy xuất hiện hình ảnh con
Giải mã giấc mơ thấy con bọ ngựa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy con bọ ngựa –

Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Quẻ Quan Âm thứ 77 Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu đoán rằng nếu muốn có kết quả tốt, cầh phải nhờ quý nhân chỉ bảo và giúp đỡ.
Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 77 được xây dựng trên điển cố: Phụng bích quy Triệu hay đưa ngọc bích về Triệu.

Quẻ trung bình thuộc cung Ngọ. Hiện giờ chẳng khác gì nói mơ trong mộng, đừng nên chờ đợi hư ảo. Nếu muốn kết quả tốt đẹp, cần phải nhờ quý nhân chỉ bảo và tương trợ.

Thử quái mộng trung đắc bảo chi tượng. Phàm sự hư đa thiểu thực dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Thời Chiến Quốc, vua nước Triệu có được một viên ngọc bích, gọi là Hòa thị bích. Vua nước Tần biết được, cậy nước mình có thế lực lớn mạnh, liền viết một bức thư, sai người gửi cho vua Triệu, nói rằng vua Tần muốn dùng mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viên ngọc Hòa thị bích.

Vua Triệu đọc thư xong, liền cùng các đại thần bàn bạc. Các đại thần cũng không nghĩ ra biện pháp gì hay. Đang trong lúc khẩn trương, bỗng một người tiến lên nói rằng, có người giỏi mưu tính tên là Lạn Tương Như (329 tr. CN – 259 tr. CN), rất thông minh dũng cảm. Vua Triệu sai người truyền gọi Lạn Tương Như vào gặp, hỏi anh ta nên xử lý sự việc này như thế nào. Lạn Tương Như nói: “Thưa đại vương, xin hãy cho tôi mang viên ngọc Hòa thị bích đi gặp vua Tần. Đến đó tôi sẽ tùy cơ hành sự, nếu như không chắc chắn vua Tần sẽ dùng mười lăm tòa thành trì để hoán đổi, tôi nhất định sẽ mang viên ngọc Hòa thị bích trở về một cách vẹn toàn”. Vua Triệu thấy Lạn Tương Như là người dũng cảm lại thông minh, liền đồng ý.

Lạn Tương Như đến nước Tần, vua Tần tiếp đón Tương Như ờ trong cung. Lạn Tương Như hai tay nâng viên ngọc Hòa thị bích dâng lên vua Tần. Vua Tần xem đi xem lại, vô cùng thích thú. Vua Tần xem xong, lại truyền cho các đại thần từng người một xem, sau đó lại truyền cho các phi tần ở hậu cung xem.

Lạn Tương Như đứng ở bên cạnh chờ đợi rất lâu, cũng không thấy vua Tần đề cập đến chuyện cắt mười lăm tòa thành trì để trao đối, biết rằng vua Tần vốn không có thành ý dùng thành trì để đổi lấy viên ngọc quý. Nhưng ngọc quý đã vào tay vua Tần rồi, làm thế nào để lấy lại được đây? Tương Như tiến lên, nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này thoạt nhìn tuy rất đẹp, nhưng vẫn có một khiếm khuyết nhỏ, xin để tôi chỉ cho đại vương xem!” Vua Tần vừa nghe thấy có khiếm khuyết, vội sai người đem viên ngọc từ hậu cung đến giao cho Lạn Tương Như.

Lạn Tương Như cầm viên ngọc Hòa thị bích, lùi lại mấy bước, tựa người vào cây cột, giận dữ nói với vua Tần rằng: “Khi trước đại vương sai người gửi thư cho vua Triệu, nói rằng sẽ đem mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viêh ngọc Hòa thị bích. Các đại thần nước Triệu đều nói rằng, không nên tin lời dối trá của người nước Tần. Tôi đã phản bác rằng, đến thường dân còn coi trọng tín nghĩa, huống chi lại là đại vương của nước Tần! Vua Triệu nghe lời của tôi, mới sai tôi đem viên ngọc Hòa thị bích đến đây. Thế mà đại vương nhận lấy ngọc quý, tùy tiện giao cho kẻ dưới xem, lại không hề đề cập đến chuyện trao đổi mười lăm tòa thành trì. Có thể thấy rằng đại vương quả không có thực tâm muốn dùng thành trì để đối lấy ngọc quý. Nay ngọc đã ở trong tay tôi, nếu như đại vương nhất định muốn ép buộc, tôi sẽ đập viên ngọc lên cây cột này cho vỡ tan!” Nói xong, Lạn Tương Như nâng cao viên ngọc Hòa thị bích, ra vẻ như định đập vào cây cột.

Vua Tần thấy vậy, vội nói: “Đại phu chớ có nóng vội, lời ta đã nói sao có thế không giữ được!” Nói rồi sai người mang bức địa đò đến, giả bộ chỉ vào bức địa đò nói: “Từ đây đến đây, tống cộng mười lăm tòa thành, đều cắt cho nước Triệu!” Lạn Tương Như nghĩ thầm: “Vua Tần thường hay giở trò lừa bịp, chớ có mắc lừa ông ta lần nữa!” Bèn nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này là vật báu nổi tiếng trong thiên hạ, khi tôi mang nó đến nước Tần, vua Triệu đã phải trai giới năm ngày, lại tổ chức nghi thức tiễn đưa báu vật rất long trọng ờ triều đình. Nay đại vương muốn nhận viên ngọc quý này, cũng nên trai giới năm ngày, và tổ chức nghi thức nhận báu vật ở triều đình, tôi mới có thể dâng ngọc quý lên được! “Vua Tần nói: “Được! Ta sẽ làm theo như vậy!”

Lạn Tương Như mang viên ngọc đó đến công quán, cho một thuộc hạ cải trang thành người buôn bán, giấu viên ngọc ở trong người, lặng lẽ theo con đường nhỏ trở về nước Triệu. Cuối cùng ngọc bích đã trở về nước Triệu, vua Tần đành phải thả Lạn Tương Như về.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Bản nhạc chết chóc

Bản nhạc chết chóc là tên người ta gọi bản Gloomy Sunday (Ngày chủ nhật u buồn) của nhạc sĩ dương cầm Rezso Seress, bởi nó bị coi là khiến cho nhiều người tìm
Bản nhạc chết chóc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đến cái chết.

Ban nhac chet choc hinh anh
 
Bản nhạc chết chóc thể hiện tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng của một người đàn ông thất tình, đợi chờ khôn nguôi một  tình yêu đích thực. Các nhà sản xuất đĩa nhạc cho rằng bài hát nghe rất lạ và quá buồn thảm để trở thành một đĩa nhạc có giá trị vì “nghe nhạc và lời quá buồn thảm, rợn người”. Và kể từ khi được phát hành, bản nhạc ma quái bắt đầu gieo rắc tội ác, mang “lưỡi hái của Thần Chết” tới nhiều người.
 
Tại Budapest, một người đàn ông ngồi trong quán cafe đông đúc, yêu cầu nhạc công chơi bản “Gloomy Sunday”. Ông vừa nhấm nháp champagne, vừa thưởng thức. Bản nhạc chấm dứt, ông ta trả tiền, rời khỏi quán và vẫy một chiếc taxi. Đó cũng là những giây phút cuối cùng của cuộc đời ông khi vừa bước lên xe, ông liền lôi ra một khẩu súng và tự kết liễu cuộc đời bằng một phát bắn chí mạng.
 
Một cô gái bán hàng trẻ đã treo cổ tự tử tại Berlin vài ngày sau đó. Khi phát hiện ra thi thể cô, người ta thấy bên dưới chân cô có tờ giấy in bản nhạc “Gloomy Sunday”. Tại New York, một cô thư kí xinh đẹp cũng tự tử bằng hơi gas trong căn hộ chung cư của mình. Tại hiện trường, người ta tìm thấy mẩu giấy nhỏ ghi lại tâm nguyện cuối đời của cô: mong muốn được chơi bản nhạc “Gloomy Sunday” trong lễ an táng cô.
 
Thời điểm đó, bản nhạc “Gloomy Sunday” đã bị coi là gây ra những cái chết lạ lùng cho một số người nghe nó, không phân biệt tuổi tác, tầng lớp. Một người đàn ông 80 tuổi tự kết liễu cuộc đời bằng cú nhảy từ cửa sổ tầng 7 xuống đất trong khi đang nghe bản nhạc này. Một cô bé 14 tuổi chết đuối khi trong tay còn đang cầm một bản copy của bản nhạc chết chóc này. Quái dị hơn một số người tại Italia kể lại, một cậu bé đang đi trên đường bỗng gặp một người đàn ông đang chơi bản nhạc “Gloomy Sunday”. Cậu đột ngột dừng lại, dốc sạch số tiền trong túi ra cho người ăn xin đó, rồi chẳng nói chẳng rằng đi tới một cây cầu, nhảy xuống tìm lấy cái chết.
 
Trên khắp thế giới, tin tức về những cái chết liên quan tới bản nhạc “Gloomy Sunday” ngày càng nhiều, chân thực có mà được thêu dệt dựa trên trí tưởng tượng của những gười kém bóng vía cũng không ít. 
 
Tại Anh, các công ty truyền thông đã phải cấm phát bản nhạc chết chóc này trong những buổi phát thanh thường lệ trên làn sóng của mình. Lệnh cấm lưu hành bài hát được nhiều nước đưa ra, nhưng càng cấm thì bài hát càng nổi tiếng, càng được nhiều người tò mò, cho rằng đó là chuyện tầm phào và tìm mua để nghe thử. Kết cục đến với họ là những cái chết không lí do. 
 
Khi người ta thống kê được số lượng khổng lồ những vụ tự tử trên khắp thế giới có liên quan đến bài hát chết chóc của Rezso thì ông bắt đầu hoảng sợ thực sự. Rezso cố gắng thu hồi lại bản nhạc “Gloomy Sunday”, nhưng mọi nỗ lực ấy không thành. Bài hát càng bị cấm, nó lại càng trở nên phổ biến hơn khi những bản copy lậu được bày bán tràn lan trên đường phố. 
 
Reszo Seress đã trở thành một người luôn bị ám ảnh bởi những cái chết do bài hát của ông ta gây nên. Có lẽ do quá ám ảnh bởi “Gloomy Sunday” nên đến năm 1968, Rezso cũng tự kết liễu cuộc đời mình bằng một sợi dây oan nghiệt.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bản nhạc chết chóc

Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 2)

Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên tiết lộ nét riêng của từng người để bạn hiểu thêm về cá tính của chính bạn hoặc người bạn cần tìm hiểu.
Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên tiết lộ nét riêng của từng người để bạn hiểu thêm về cá tính của chính bạn hoặc người bạn cần tìm hiểu.  
Tiếp nối Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 1), chúng ta cùng khám phá tính cách, nét riêng của bạn thông qua chữ cái đầu tiên của tên.
 

N là chữ cái đầu tiên của tên

  Dự đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên cho biết nếu bạn bắt đầu bằng chữ N cho thấy bạn là người thông minh với trí tưởng tượng phong phú. Bạn rất giỏi và khéo léo khi chuyển những bản kế hoạch thành thực tế.   Bạn không ngại khó, ngại khổ, sẵn sàng vượt qua các chướng ngại vật để tìm ra lối đi thành công cho cuộc sống của mình. Chính sự mạnh mẽ này của những người có tên bắt đầu bằng chữ N đã tạo nên nét cuốn hút rất riêng. Tuy nhiên, điểm tiêu cực là khi nỗ lực mà không thành công họ trở nên rất ủ rũ và sống nội tâm hơn.   Nếu còn độc thân, họ rất thích chia sẻ với mọi người những mong muốn về tình yêu trong mơ của mình. Một khi tìm được một nửa đích thực họ sống rất cuồng nhiệt nhưng lời khuyên là nên tỉnh táo nếu không sẽ bị phản bội lúc nào không hay.
Doan tinh cach nho chu cai dau tien cua ten Phan 2 hinh anh
 
 

O là chữ cái đầu tiên của tên

  Những người này có rung động tinh thần mạnh mẽ và có cách nhìn sâu sắc trước nhiều vấn đề. Họ yêu thích sự công bằng, kiên cường và rất dũng cảm.    Trong những cuộc tranh cãi, họ nhất định là người hòa giải tuyệt vời và có những kỹ năng để dễ dàng đạt được mục tiêu nghề nghiệp của mình. Yếu điểm của họ là thường không thực tế, hay mơ mộng.   Trong tình yêu, những người có tên bắt đầu bằng chữ O thích có nhiều mối quan hệ cùng một lúc và đó là bởi vì muốn có nhiều trải nghiệm hơn trong chuyện tình cảm trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Tuy mãnh liệt, đam mê nhưng đôi khi quá sở hữu và ghen tuông. 

Bạn có thể tham khảo thêm bài viết: Chiếc rốn nói gì về tương lai sướng khổ của bạn?
 

P là chữ cái đầu tiên của tên

  Những người có chữ P là chữ cái đầu tiên của tên là người tổng hòa giữa sự lý trí và bài bản, lại xen lẫn sáng tạo. Họ thích tìm hiểu và học hỏi tất cả những gì có thể và niềm vui là được chia sẻ những gì mình đã học với mọi người càng nhiều càng tốt.   Họ đam mê theo đuổi thành công và luôn muốn những bạn bè là những người tài năng để cùng họ khám phá thế giới xung quanh. Tuy nhiên, những người có tên bắt đầu bằng P đang bị mắc kẹt giữa sự sáng tạo và tuân theo sự sắp đặt. Đây là lý do chính bản thân họ mâu thuẫn.
Về mặt tình cảm, họ giỏi tán tỉnh người khác giới và thích thử những điều mới mẻ trong tình yêu.

Doan tinh cach nho chu cai dau tien cua ten Phan 2 hinh anh 2
 
 

Q là chữ cái đầu tiên của tên

  Người có chữ cái đầu là Q là người tự tin, kiên trì và rất giỏi trong việc giữ bình tĩnh trước mọi vấn đề trong cuộc sống. Họ mạnh mẽ, nhanh nhạy với trực giác tuyệt vời. Họ sinh ra đã có khả năng để trở thành người lãnh đạo. Những thứ bất thường trong cuộc sống kích thích con người và thu hút mối quan tâm của họ.   Dự đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên cho biết nếu bạn bắt đầu bằng chữ Q tức là bạn có sự tự tin tuyệt vời và đây là bệ phóng đưa bạn đến thành công. Điểm yếu là đôi lúc vì mục đích cá nhân nên sinh ra tính ích kỷ.   Bạn vừa lãng mạn và nội tâm nên có cảm giác khó tìm thấy đối tác phù hợp, vì thế phần lớn thời gian bạn chơi với một nhóm bạn để giải tỏa cảm giác cô đơn trước khi tìm ra một nửa của mình.  

R là chữ cái đầu tiên của tên

  Những người bắt đầu bằng chữ R là người dịu dàng, tốt bụng và hiền lành. Họ có lý tưởng và suy nghĩ tích cực về cuộc sống, luôn mong muốn được giúp đỡ người khác. Dường như họ trở thành người lập dị vì quá bao dung và yêu thương tất cả mọi người cũng như luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. 
 
Bản chất trung thực và đáng tin cậy của họ khiến mọi người xung quanh rất tôn trọng và ngưỡng mộ. Tuy nhiên, điểm yếu của những người này là đôi lúc hơi hời hợt.
Tham khảo thêm bài viết: Soi chữ ký biết tính cách những nhân vật có tầm ảnh hưởng thế giới
 

S là chữ cái đầu tiên của tên

  Những người nàycó tính cách nhút nhát, có xu hướng che giấu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân. Họ là sự kết hợp giữa tinh thần mạnh mẽ và biết hi sinh, họ có khả năng để vượt qua bất kỳ khó khăn nào trong cuộc sống. 
 
Họ có đủ sức mạnh ý chí để thực hiện ước mơ của mình và xây dựng tương lai lý tưởng của mình. Nhược điểm của con người mạnh mẽ này là dễ nổi nóng khiến họ mất cần bằng trong cuộc sống.
Doan tinh cach nho chu cai dau tien cua ten Phan 2 hinh anh 3
 
 

T là chữ cái đầu tiên của tên

  Nếu bạn có tên chữ cái đầu tiên là T thì chắc chắn một trong những người đam mê nhất trên hành tinh này. Bạn khá nhút nhát, dè dặt và rất lãng mạn và thường mơ mộng nghĩ về bữa tối lãng mạn trên bãi biển để được cùng người ấy ngắm sao đêm. Vì thế, bạn khó yêu vì quá lý tưởng hóa tình yêu.   Bạn cũng là người rất kiên nhẫn, khoan dung và tốt bụng. Bên trong bạn ẩn chứa phẩm chất lãnh đạo tuyệt vời vì thế ở nơi làm việc hay trong các nhóm bạn luôn nổi bật.
 
Bạn thoải mái chia sẻ kiến thức và sẵn sàng chi tiền để hỗ trợ người mà mình dẫn dắt. Tuy nhiên, điểm yếu là bạn luôn cần sự ủng hộ từ nhiều người nên dễ bị phục thuộc vào cảm xúc, dễ nảy sinh lo lắng, thờ ơ.
 

U là chữ cái đầu tiên của tên 

  Dù là người yêu thích sự tự do và những cuộc phiêu lưu nhưng những ai có tên bắt đầu bằng chữ U mang nét gì đó rất thần bí. Họ tài năng và may mắn trong cuộc sống, nhưng bên trong con người họ thường bị giằng xé giữa bổn phận và những mong muốn cá nhân.
 
Nếu họ có thể vượt qua những ham muốn vật chất đời thường thì sẽ hứa hẹn một tương lai thành công rực rỡ.
 
Tình yêu của họ mang nghĩa rất rộng. Nếu chưa tìm thấy một nửa của mình, bạn vẫn rất yêu đời và chỉ những mối quan hệ tích cực, hào hứng, thú vị mới đủ níu chân bạn.     

V là chữ cái đầu tiên của tên

 

Bạn có nét tính cách thu hút với nhiều người ở những độ tuổi hoàn toàn khác nhau. Bạn đặc biệt hấp dẫn với những người cá tính, có nét lập dị như là có phong cách ăn mặc hoặc hành xử khác biệt. Bạn thích tự do và mong muốn có không gian riêng của mình.   Nếu bạn là người bắt đầu bằng chữ V nghĩa là bạn là người sáng tạo, cần cù, chân thành. Bạn thường mong muốn phát triển không ngừng nghỉ và luôn nắm bắt cơ hội để di chuyển và khám phá. Bạn tận hưởng những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống. Điểm yếu là không có khả năng quản lý tiền bạc chặt chẽ.   

X là chữ cái đầu tiên của tên
 

Bạn thường lý tưởng hóa tình yêu mà có thể bạn sẽ không bao giờ gặp được trong cuộc sống. Để hỗ trợ lý tưởng của mình, bạn thường nói rất nhiều để bày tỏ cho mọi người biết về suy nghĩ của mình.   Những người có tên xuất phát bằng chữ X rất bản lĩnh, họ không ngừng phấn đấu để vươn lên, tìm kiếm sự hoàn hảo và cân bằng trong mọi việc.    Họ có nét sống động tự nhiên, đặc biệt dũng cảm, thoải mái đón nhận sự thay đổi trong cuộc sống trong khi đi tìm kiếm sự hài hòa. Tuy nhiên, những người này có thể trở nên tiêu cực khi mọi thứ không đi theo kế hoạch.

Có thể bạn quan tâm: Cách ký tên nói gì về bạn?


Y là chữ cái đầu tiên của tên
 

Nếu tên bạn bắt đầu bằng chữ Y nghĩa tức bạn là nhà thám hiểm vĩ đại và nhiều đam mê. Bạn luôn luôn tìm kiếm ý tưởng mới, luôn cố gắng đáp ứng nhu cầu của người thân thiết. 
 
Dự đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên cho biết nếu bạn bắt đầu bằng chữ Y nghĩa là bạn mang quyết tâm rất lớn về cả năng lượng thể chất và tinh thần. Bạn có khả năng phân tích và rất thông minh, nhanh chóng tìm giải pháp cho vấn đề của mình. Điều này hứa hẹn thành công và cơ hội tỏa sáng trong nghề nghiệp mà bạn đã chọn. Ngoài ra, người bị ảnh hưởng bởi Y có thể lãng phí rất nhiều năng lượng cho việc suy diễn vấn đề.


KaThy

Dự đoán tính cách theo họ tên Dự đoán tính cách của từng cung hoàng đạo khi làm mẹ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 2)

Mơ thấy đóng đinh: Có thành tích bất ngờ từ nỗ lực bản thân –

Cảnh đóng đinh xuất hiện trong mơ dự báo với sự cố gắng hết mình của bản thân, bạn sẽ có được thành tích bất ngờ. Mơ thấy đinh sáng bóng hay còn mới, dự báo tin tốt lành bất ngờ; đinh cong, vẹo hay bị gỉ sét, tượng trưng những sai lầm nhỏ nhặt, hoặc
Mơ thấy đóng đinh: Có thành tích bất ngờ từ nỗ lực bản thân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đóng đinh: Có thành tích bất ngờ từ nỗ lực bản thân –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd