Mơ thấy sát sinh với bệnh nhiễm trùng sinh dục –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Cứ mỗi đợt Thu về, những người con lại có dịp thể hiện tình yêu thương của mình với đấng sinh thành trong ngày lễ Vu Lan. Bởi lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch) là dịp để báo hiếu cha mẹ, để tìm về nguồn cội yêu thương, như truyền thống lâu đời của người Việt vốn trọng những tấm lòng thảo thơm như thế. Vậy báo hiếu bằng cách nào? Trong dịp Vu Lan bạn nên làm gì? Sau đây là những điều bạn nên làm trong lễ Vu Lan.
Lễ Vu Lan được tổ chức vào 14 và 15 tháng 7 (Âm lịch), là tên gọi khác của ngày Rằm tháng Bảy. Vào ngày này, bạn nên làm một lễ cúng tạ ơn các thần linh và làm mâm cơm tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên để cầu nguyện cho các vong hồn siêu thoát và cầu bình an cho gia đình.
Việc cúng Rằm tháng Bảy có thể đến chùa, hoặc có thể cúng tại nhà. Gồm các lễ: cúng Phật, cúng thần linh, cúng gia tiên, cúng thí thực cô hồn và cúng phóng sinh.
Trong ngày này, bạn có thể đi chùa để thắp hương và cầu xin cho cha mẹ của mình. Nếu như với những ai không may mắn khi cha mẹ đã qua đời thì hãy cầu xin đức phật giúp tìm đường chỉ lối cho cha mẹ được an nghỉ nơi suối vàng.
Tuy nhiên, trong ngày này chùa thường rất đông đúc bởi những người con đến chùa giống như bạn, điều quan trọng vẫn là việc bạn thành tâm, thành ý cầu chúc cho cha mẹ được bình an vô sự, luôn sống vui tươi cùng gia đình và con cái.
Ăn chay là một tập tục tín ngưỡng của Việt Nam, đưa con người về với chốn thanh tịnh, với bản ngã của mình. Ăn chay để thể hiện sự thành tâm và cũng là để bớt sát sinh đi nữa.
Bạn hãy dành một ngày để ăn chay cầu xin cho cha mẹ được an lành. Ăn chay không những tốt cho sức khỏe mà bảo vệ cho môi trường sống của con người và của chính chúng ta.
Ngày này, các bạn trẻ rất ít có dịp nói ra những lời ngọt ngào, tha thiết như: “con yêu mẹ”, “con yêu bố”… Nhưng ngày lễ Vu Lan chính là dịp các bạn nên nói những lời nói đó với cha mẹ của mình dù biết rằng cha mẹ có thể hiểu được tình cảm của bạn dành cho họ. Đừng quên những lời từ trái tim bạn dành cho người đã nuôi dưỡng và sinh thành ra bạn ngày hôm nay.
Những lời nói xuất phát từ trái tim trong ngày này sẽ quan trọng hơn cả những lời nói thường ngày. Hãy đừng quên dành cho cha mẹ những lời yêu thương sâu sắc.
Một món quà đơn giản nhưng ý nghĩa nhân ngày lễ Vu Lan là điều bạn nên làm với các đấng sinh thành. Dù đó là món quà rẻ tiền hay đắt tiền đi chăng nữa thì trong ngày này cha mẹ được nhận món quà từ đứa con thì cha mẹ cũng cảm thấy ấm lòng rồi. Nếu như bạn không còn cha mẹ thì món quà ý nghĩa đó chính là việc bạn sống tốt trong ngày hôm nay.
Cuộc sống này là do cha mẹ mẹ bạn mang cho. Bố mẹ đã có công sinh thành, nuôi nấng bạn để bạn có ngày hôm nay. Vì vậy, bạn cần phải sống tốt hơn nữa giúp ích cho đời và cho bố mẹ.
Dù bạn đi đâu, là ai hay làm gì thì việc sống tốt sẽ làm cha mẹ ngậm cười dù nơi chín suối hay ngay bên cạnh bạn đi chăng nữa.
Nuôi con bao vất vả thăng trầm nhưng cha mẹ vẫn mong cho con được hạnh phúc và an lành. Chính vì thế trong ngày này bạn hãy nên làm điều tốt lành.
Chúc bạn có ngày lễ vu Lan nhiều niềm vui và hạnh phúc!
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Khả năng xử lý và ứng biến với công việc của họ kha tốt. Chính vì thế họ ít khi để xảy ra sai sót.
Song sự đắc ý và chủ quan quá đà lại khiến họ để tuột khỏi tay những thành quả đáng lẽ ra là của mình.
Họ thường rất chú trọng đến suy nghĩ và đánh giá của người khác về bản thân mình. Khi ở chỗ đông người, họ tỏ ra có tài ăn nói và dường như không có gì là không biết. Đây cũng là người thường xuyên... giấu dốt, không bao giờ hỏi về những việc mà mình không biết. Chính vì đặc điểm này mà họ thường xuyên bị người khác coi nhẹ.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
![]() |
![]() |
![]() |
Bài viết về Dịch Can Chi của cụ Hà Uyên.
............................. LY
........TỐN..................................KHÔN
...CHẤN.....................+...................ĐOÀI
.......CẤN...................................CÀN
.............................KHẢM
1. Giáp Tý – Thuần Càn, hào 1
- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.
- “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”
2. Ất Sửu – Thuần Khôn, hào 4
- “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”
- “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen”.
- Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.
3. Bính Dần - Thuần Cấn, hào 6
- “Thượng Cửu, đôn cấn, cát”.
- “Hào Chín Trên, lấy phẩm chất đôn hậu để ghìm chặn tà dục, tốt lành.”
- Tượng “đôn cấn chi cát, dĩ hậu chung dã” – Hào Chín Trên với bản chất tốt đẹp đã giữ vững đến lúc cuối.
4. Đinh Mão – Thuần Đoài, hào 2
- “Cửu Nhị, phu đoài, cát, hối vong”
- “Hào Chín Hai, thành tín mà vui vẻ với mọi người, tốt lành, hối hận mất hết.”
- Tượng “phu đoài chi cát, tín chí dã” – Chín Hai chí nằm ở sự thành tín trung thực.
5. Mậu Thìn - Thuần Khảm, hào 2
- “Cửu Nhị, khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc”
- “Chín Hai, Ở nơi hiểm nạn khốn cùng trong hố bẫy, từ nơi nhỏ hẹp mưu cầu thoát hiểm, tất có được điều mong muốn”.
- Tượng “cầu tiểu đắc, vị xuất trung dã” – Hào Chín Hai lúc này còn chưa thoát khỏi chỗ hiểm.
6. Kỷ Tị - Thuần Ly, hào 6
- “Thượng Cửu, vương dụng xuất chinh, hữu gia chiết thủ hoạch phỉ kỳ xú, vô cữu”
- “Chín Trên, nhà Vua xuất quân chinh phạt, lập được công lớn, chém đầu quân địch, bắt những kẻ “dị kỷ” không chựu lệ thuộc, không có lỗi.
- Tượng “Vương dụng xuất chinh, dĩ chính bang dã” – hào Chín Trên làm như vậy để cho đất nước được yên ổn, trị vì được thiên hạ.
7. Canh Ngọ - Thuần Chấn, hào 4
- “Cửu Tứ, chấn toại nê”
- “Chín Bốn, lúc sấm động kinh hoàng thất thố, rơi vào đống bùn lấy”.
- Tượng “chấn toại nê, vị quang dã” – hào Chín Bốn đức dương cứng chưa thể sáng lớn. Sa vào nơi đồi trụy.
8. Tân Mùi - Thuần Tốn, hào 4
- “Lục Tứ, hối vong, điền hoạch tam phẩm”
- “Sáu Bốn, hối hận mất hết, vật săn được chia làm ba loại (để làm vật tế tự, đãi khách, và dâng lên bếp Vua).
- Tượng “điền hoạch tam phẩm, hữu công dã” – hào Sáu Bốn tuân theo mệnh Vua, lập được công lao.
9. Nhâm Thân - Thuần Càn, hào 5
- “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”
- “Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân”.
10. Quý Dậu – Thuần Khôn, hào 6
- “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”
- “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng”.
- Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.
11. Giáp Tuất – Thuần Càn, hào 6
- “Thượng Cửu, cang long hữu hối”
- “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận”.
12. Ất Hợi – Thuần Khôn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát”
- “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành”.
- Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” - Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”.
13. Bính Tý - Thuần Cấn, hào 5
- “Lục Ngũ, cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong”
- “Sáu Năm, ghìm chặn miệng mình, không để nói càn, nói phải rành mạch đâu ra đấy, hối hận sẽ mất.
- Tượng “Cấn kỳ phụ, dĩ trung chính dã” – Sáu Năm có thể ở ngôi giữa giữ chính. Giữ chính là thừa.
14. Đinh Sửu – Thuần Đoài, hào 3
- “Cửu Tam, lai đoài hung”
- “Chín Ba, quay lại để cầu vui, có hung hiểm”.
- Tượng “Lai đoài chi hung, vị bất đáng dã” – Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
15. Mậu Dần - Tập Khảm, hào 1
- “Sơ Lục, tập khảm, nhập vu khảm tãm, hung”
- “Sáu Đầu, ở nơi chất chồng hiểm họa cạm bẫy, rơi sâu vào hố bẫy, có hung hiểm”.
- Tượng “tập khảm nhập khảm, thất đạo hung dã” – hào Sáu Đầu lạc đường rơi thêm vào chỗ hiểm nên tất có hung hiểm.
16. Kỷ Mão – Thuần Ly, hào 1
- "Sơ Cửu, lý thác nhiên, kính chi, vô cữu”
- “Chín Đầu, làm việc cẩn trọng không cẩu thả, giữ thái độ cung kính, cẩn thận thì tất không tội lỗi.”
- Tượng “lý thác chi kính, dĩ tị cữu dã” – Ý hào Sáu Đầu có như vậy mới tránh được tội lỗi.
17. Canh Thìn – Thuần Chấn, hào 3
- "Lục Tam, chấn tô tô, chấn hành vô sảnh”
- “Sáu Ba, lúc sấm động kinh hãi không yên, do sấm động mà biết sợ, thì đi lên sẽ không gặp họa hoạn.”
- Tượng “chấn tô tô, vị bất đáng dã” – Ngôi vị hào Sáu Ba không thỏa đáng.
18. Tân Tị - Thuần Tốn, hào 5
- “Cửu Ngũ, trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sơ hữu chung; tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát”
- “Chín Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận mất hết, không gì không lợi ; lại ban mệnh lệnh, mới đầu không thuận lợi, nhưng cuối cùng tất sẽ thông thuận ; dự định ban bố lệnh mới vào ba ngày trước ngày Canh, là ngày tượng trưng cho sự “biến canh” (thay đổi), và thi hành mệnh lệnh mới, vào ba ngày sau ngày Canh, như vậy mà trên dưới thuận theo, tất được tốt lành.”
- Tượng “cửu ngũ chi cát, vị chính trung dã” – hào Chín Năm được như vậy là do ngôi hào này chính mà giữ vững được đạo “trung”.
19. Nhâm Ngọ - Thuần Càn, hào 4
- “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”
- “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không tội lỗi.”
20. Quý Mùi – Thuần Khôn, hào 1
- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”
- “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”
- Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.
21 Giáp Thân – Thuần Càn, hào 5
- “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”
- "Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
22. Ất Dậu – Thuần Khôn, hào 6
- “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”
- “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng.”
- Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.
23. Bính Tuất - Thuần Cấn, hào 4
- “Lục Tứ, cấn kì thân, vô cữu”
- "Sáu Bốn, ghìm chặn ở phần thân mình, không để vọng động, tất không tội lỗi.”
- Tượng “cấn kì thân, chỉ chư cung dã” – hào Sáu Bốn có thể tự ghìm chặn, yên giữ ngôi mình.
24. Đinh Hợi – Thuần Đoài, hào 4
- “Cửu Tứ, thương đoài vị ninh, giới tật hữu thỉ”
- "Chín Bốn, cân nhắc về sự vui nhưng trong lòng chưa yên, nếu cắt đứt hẳn với sự “tà tật” của bạn xiểm nịnh thì thật đáng mừng.
- Tượng “cửu tứ chi hỷ, hữu khánh dã” - Điềm mừng của hào Chín Bốn, là vì có tượng đáng chúc mừng vậy.
25. Mậu Tý - Thuần Khảm, hào 6
- “Thượng Lục, hệ dụng huy mặc, chỉ vu tùng cức, tam tuế bất đắc, hung”
- “Sáu Trên, bị trói bằng dây thừng, giam hãm trong bụi gai, ba năm không được giải thoát, có hung hiểm.
- Tượng “thượng lục thất đạo, hung tam tuế dã” – hào Sáu Trên lạc chính đạo đi vào nơi hiểm, hung hiểm sẽ kéo dài suốt ba năm.
26. Kỷ Sửu – Thuần Ly, hào 2
- “Lục Nhị, hoàng ly, nguyên cát”
- “Sáu Hai, giữ được sắc vàng trung chính phụ bám vào vật, cực tốt.”
- Tượng “hoàng ly nguyên cát, đắc trung đạo dã” – hào Sáu Hai đạo hợp giữa không lệch.
27. Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2
- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc”
- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”
- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.
28. Tân Mão - Thuần Tốn, hào 6
- “Thượng Cửu, tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ; trinh hung”
- “Chín Trên, thuận theo quá mức, nép ở dưới giường, giống như mất búa sắc cứng rắn, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”
- Tượng “tốn tại sàng hạ, thượng cùng dã ; táng kì tư phủ, chính hồ hung dã” – hào Chín Trên ở ngôi cuối của sự khốn cùng ; hào Chín Trên nên giữ vững sự chính của dương cứng để phòng hung hiểm.
29. Nhâm Thìn – Thuần Càn, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”
- “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”
30. Quý Tị - Thuần Khôn, hào 2
- “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi.”
- “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”
- Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.
31. Giáp Ngọ - Thuần Càn, hào 4
- “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”
- “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không cữu hại tội lỗi.”
32. Ất Mùi – Thuần Khôn, hào 1
- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí”
- “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”
- Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.
33. Bính Thân - Thuần Cấn, hào 3
- “Cửu Tam, cấn kì hạn, liệt kì di, lệ huân tâm.”
- “Chín Ba, ghìm chặn sự vận động của lưng, đến nỗi đứt cả nơi chỗ thăn lưng (chỗ trên dưới giao nhau), nguy hiểm như cháy ruột.”
- Tượng “cấn kì hạn, nguy huân tâm dã” - Sự nguy hiểm của hào Chín Ba sẽ như cháy ruột.
34. Đinh Dậu – Thuần Đoài, hào 5
- “Cửu Ngũ, phu vu bác, hữu lệ.”
- “Chín Năm, tin kẻ tiểu nhân âm mềm, mà tiêu mòn hết đức dương cứng (bị nó lôi kéo mà cùng vui), có nguy hiểm.”
- Tượng “phu vu bác, vị chính đáng dã” - Thật đáng tiếc cho hào Chín Năm lại ở vào ngôi chính đáng mà thôi!
35. Mậu Tuất - Thuần Khảm, hào 5
- “Cửu Ngũ, khảm bất doanh, chỉ kí bình, vô cữu.”
- “Chín Năm, hố bẫy hiểm nạn còn trưa tràn đầy, thì gò nhỏ đã bị san bằng, tất không cữu hại.”
- Tượng “khảm bất doanh, trung vị đại dã” – hào Chín Năm tuy ở ngôi giữa, nhưng công sức làm cho phẳng chỗ hiểm còn được chưa sáng lớn.
36. Kỷ Hợi – Thuần Ly, hào 3
- “Cửu Tam, nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu nhi ca, tác đại điệt chi ta, hung.”
- “Chín Ba, mặt trời sắp lặn, ngả dần “bám” về phía trời tây, lúc này nếu không gõ vò, vui vẻ ca hát tự vui, tất sẽ than thân già nua, ốm yếu, có hung hiểm.”
- Tượng “nhật trắc chi ly, hà khả cữu dã” – Ngả dần bám về phía trời Tây, tình trạng này thì làm sao mà giữ cho được lâu dài!
37. Canh Tý - Thuần Chấn, hào 1
- “Sơ Cửu, chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn nha nha, cát.”
- “Chín Đầu, sấm sét ập tới mà biết mà biết kinh hãi khiếp sợ, thì sau sẽ biết thận trọng hành động, giữ phúc để được nói cười râm ran, tốt lành.”
- Tượng “chấn lai khích khích’, khủng chí phúc dã ; ‘tiếu ngôn nha nha’ hậu hữu tắc dã” – hào Chín Đầu kinh sợ thận trọng, thì có thể đưa phúc trạch đến ; hào Chín Đầu sau khi kinh sợđã biết tuân thủ phép tắc.
38. Tân Sửu - Thuần Tốn, hào 1
- “Sơ Lục, tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh.”
- “Sáu Đầu, thấp thuận quá mức, tiến thoái do dự, lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền.”
- Tượng “tiến thoái chí nghi dã ; lợi vũ nhân chi trinh, chí trị dã” – hào Sáu Đầu ý chí nhu nhược nghi sợ ; ‘lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền’ là để khuyến khích Sáu Đầu sửa trị và tạo lập ý chí kiên cường.
39. Nhâm Dần – Thuần Càn, hào 2
- “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân.”
- “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
40. Quý Mão – Thuần Khôn, hào 3
- “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.”
- “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”
- Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.
41. Giáp Thìn – Thuần Càn, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”
- “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”
42. Ất Tị - Thuần Khôn, hào 2
- “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi. ”
- “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”
- Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.
43. Bính Ngọ - Thuần Cấn, hào 2
- “Lục Nhị, cấn kì phì, bất chửng kì tùy, kì tâm bất khoái.”
- “Sáu Hai, ghìm chặn sự cử động của cẳng chân, chưa thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, trong lòng không được khoan khoái.”
- Tượng “bất chửng kì tùy, vị thoái chính dã” – hào Sáu Hai không thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, lại không có cách nào lùi lại để nghe theo mệnh lệnh đang ghìm chặn (vì vậy trong long không khoan khoái).
44. Đinh Mùi – Thuần Đoài, hào 6
- “Thượng Lục, dẫn đoài.”
- “Sáu Trên, dụ dỗ người ta cùng vui.”
- Tượng “thượng lục dẫn đoài, vị quang dã” – hào Sáu Trên đạo vui vẻ chưa thể (không thể) sáng lớn.
45. Mậu Thân - Thuần Khảm, hào 4
- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu”
- “Sáu Bốn, một chén riệu nhạt, hai rá thức ăn đạm bạc, dùng vò sành thô lậu đựng các thứ trên (thành kính dâng biếu bậc tôn quý), nộp ước qua cửa sổ sáng, cuối cùng tránh được cữu hại.”
- Tượng “tôn tửu quỹ nhị, cương nhu tế dã” – Ý hào Chín Năm dương cứng và hào Sáu Bốn âm mềm giao tiếp với nhau.
46. Kỷ Dậu – Thuần Ly, hào 4
- “Cửu Tứ, đột như kì lai như, phần như, tử như, khí như”
- “Chín Bốn, đột nhiên hiện lên ráng bình minh đỏ rực, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán, diệt vong, bị vứt bỏ trạch trơn.”
- Tượng “đột như kì lai như, vô sở dụng dã” – Cái hư thế của hào Chín Bốn, tất sẽ làm nó không nơi phụ bám, chứa chấp.
47. Canh Tuất - Thuần Chấn, hào 6
- “Thượng Lục, chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung ; chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cữu ; hôn cấu hữu ngôn”
- “Sáu Trên, lúc sấm động sợ đến nỗi hai chân co rúm lại không đi được, hai mắt nhớn nhác, cứ mạo hiểm tiến lên tất gặp hung hiểm ; nếu có thể khi sấm động còn chưa tới bản thân mình, mới tới nhà hàng xóm đã đề phòng trước, thì không gặp cữu hại ; nhưng nếu mong có được âm dương hôn phối, thì sẽ đi đến tranh cãi nhau.”
- Tượng “chấn tác tác, trung vị đắc dã ; tuy hung vô cữu, úy lân giới dã” – Hào Sáu Trên chưa ở được vào vị trí có thể ứng xử thích hợp được với đạo “trung” ; mặc dù có hung hiểm nhưng không có cữu hại gì, là do biết sợ tiếng sấm chấn động từ bên hàng xóm nên đã đề phòng trước.
48. Tân Hợi - Thuần Tốn, hào 2
- “Cửu Nhị, tốn tại sàng hạ, dụng sử, vu phân nhược cát, vô cữu”
- “Chín Hai, thuận theo nép ở dưới giường, nếu có thể noi theo thầy bói, thầy cúng, lấy sự khiêm nhún mà phụng sự thần linh thì sẽ được nhiều tốt lành, tất không cữu hại.”
- Tượng “phân nhược chi cát, đắc trung dã” - Sẽ được nhiều tốt lành, là vì hào Chín Hai có thể giữ giữa không lệch.
49. Nhâm Tý – Thuần Càn, hào 1
- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng.”
- “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.
50. Quý Sửu – Thuần Khôn, hào 4
- “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”
- “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen.”
- Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.
51. Giáp Dần – Thuần Càn, hào 2
- “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân”
- “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
52. Ất Mão – Thuần Khôn, hào 3
- “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung”
- “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”
- Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.
53. Bính Thìn - Thuần Cấn, hào 1
- “Sơ Lục, cấn kì chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh”
- “Sáu Đầu, biết ghìm chặn ở ngón chân khi cất bước, tất vô cữu hại, lợi về sự giữ vững chính bề lâu dài.”
- Tượng “cấn kì chỉ, vị thất chính dã” – hào Sáu Đầu chưa từng vi phạm chính đạo.
54. Đinh Tị - Thuần Đoài, hào 1
- “Sơ Cửu, hòa duyệt, cát.”
- “Chín Đầu, dựu dàng, vui vẻ với người, tốt lành.”
- Tượng “hòa duyệt chi cát, hành vị nghi dã” – Hành vi của Chín Đầu đứng đắn mà không bị người ta nghi kị.
55. Mậu Ngọ - Thuần Khảm, hào 3
- “Lục Tam, lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm tãm, vật dụng”
- “Sáu ba, tới lui đều ở trong vòng hiểm hãm, đi tới là hiểm lui lại khó an, rơi xuống hố sâu không thể thi thố tài dụng.”
- Tượng “lai chi khảm khảm, chung vô công dã” – hào Sáu Ba cuối cùng khó thành công trong sự “hành hiểm”.
56. Kỷ Mùi – Thuần Ly, hào 5
- “Lục Ngũ, xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát”
- “Sáu Năm, nước mắt chảy ròng ròng, ngậm ngùi than thở, (ở nơi tôn quý, được giúp dập, về cuối sẽ) tốt lành.”
- Tượng “lục ngũ chi cát, ly vương công dã” – hào Sáu Năm được phụ bám vào ngôi tôn quý của đấng vương công.
57. Canh Thân - Thuần Chấn, hào 5
- “Lục Ngũ, chấn vãng lai, lệ, ức vô táng, hữu sự”
- “Sáu Năm, khi sấm động thì bất kể là đi lên hay đi xuống đều có nguy hiểm ; nếu có thể thận trọng giữ đạo “trung” thì vạn lần cũng không thất thố một lần, có thể giữ lâu dài được việc trọng đại là việc tế tự.”
- Tượng “chấn vãng lai lệ, nguy hành dã ; kì sự tại trung, đại vô táng dã” – hào Sáu Năm cần thấy rõ sự nguy sợ mà thận trọng tiến lên, sử sự nên thận trọng giữ đạo “trung”.
58. Tân Dậu - Thuần Tốn, hào 3
- “Cửu Tam, tần tốn, lận.”
- “Chín Ba, ưu sầu không vui, miễn cưỡng thuận theo, sẽ có thẹn tiếc.”
- Tượng “tần tốn chi lân, chí cùng dã” – Tâm chí Chín Ba khốn cùng không hăng hái.
59. Nhâm Tuất – Thuần Càn, hào 6
- “Thượng Cửu, cang long hữu hối”
- “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận
60. Quý Hợi – Thuần Khôn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”
- “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”
- Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” – hào Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”
................................LỮ
....TIỂU SÚC................................PHỤC
...DỰ........................+......................KHỐN
.......BÍ..........................................CẤU
...............................TIẾT
1. Giáp Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1
- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”
- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”
- Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.
2. Ất Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4
- “Lục Tứ, trung hàng độc phục”
- “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại.”
- Tượng viết “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.
3. Bính Dần – Sơn Hỏa Bí, hào 6
- “Thượng Cửu, bạch bí, vô cữu”
- “Chín Trên, văn sức bằng mầu trắng không diêm dúa, không có cữu hại”
- Tượng “Bạch bí vô cữu, thượng đắc chí dã” – hào Chín Trên hết sức toại chí do đạo văn sức chuộng về chất.
4. Đinh Mão - Trạch Thủy Khốn, hào 2
- “Cửu Nhị, khốn vu tửu thực, chu phất phương lai, lợi dụng hưởng tự ; chinh hung, vô cữu”
- “Chín Hai, riệu thịt mà nghèo nàn, cùng khốn, vinh lộc sẽ tới, lợi về sự chủ trì đại lễ tế tự nơi tông miếu ; lúc này tiến thủ tuy nhiều hung hiểm, nhưng không có gì cữu hại”
- Tượng “Khốn vu tửu thực, trung hữu khánh dã” – hào Chín Hai chỉ cần giữ vững đạo giữa thì sẽ có phúc khánh.
5. Mậu Thìn - Thủy Trạch Tiết, hào 2
- “Cửu Nhị, bất xuất môn đình, hung”
- “Chín Hai, (cố chấp mà tiết chế) không ra khỏi sân nhà, có hung hiểm.
- Tượng “Bất xuất môn đình, thất thời cực dã” – hào Chín Hai lỡ mất thời cơ thích hợp.
6. Kỷ Tị - Hỏa Sơn Lữ, hào 6
- “Thượng Cửu, điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào ; táng ngưu vu dị, hung”
- “Chín Trên, tổ chim trên cành cao bị cháy, kẻ lữ khách trước được ngôi cao vui mừng cười nói, sau bị tai ương kêu gào khóc lóc ; giống như mất trâu nơi bơt ruộng hoang xa, có hung hiểm”
- Tượng “Dĩ lữ tại thượng, kì nghĩa phần dã ; táng ngưu vu dị, chung mạc chi văn dã” – Làm một kẻ lữ khách, mà lại ở cao ngôi trên, về lý thì tất gặp họa cháy tổ ; mất trâu nơi cánh đồng hoang xa, nói lên hào Chín Trên ăn nhờ ở đậu gặp họa, cuối cùng sẽ không người hay biết.
7. Canh Ngọ - Lôi Địa Dự, hào 4
- “Cửu Tứ, do dự, đại hữu đắc ; vật nghi, bằng hạp trâm”
- “Chín Bốn, người khác nhờ ta mà vui, ta có thể thành công lớn được ; cứ thẳng thắn đừng nghi ngờ gì, bè bạn sẽ tụ tập lại theo ta, như cả đám tóc được gài lại nơi chiếc châm cài đầu”.
- Tượng “Do dự đại hữu đắc, chí đại hành dã” – Chí dương cứng của hào Chín Bốn được thực hành nhiều.
8. Tân Mùi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 4
- “Lục Tứ, hữu phu ; huyết khứ thích xuất, vô cữu”
- “Sáu Bốn, nếu có sự thành tín với dưới thì sẽ tránh được sự buồn phiền, thoát được sự sợ hãi, như vậy tất sẽ “vô cữu hại”.
- Tượng “Hữu phu thích xuất, thượng hợp chí dã” – hào Sáu Bốn có ý chí tương hợp với bậc tôn thượng dương cứng.
9. Nhâm Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5
- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”
- “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.
- Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.
10. Quý Dậu – Địa Lôi Phục, hào 6
- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”
- “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.
- Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.
11. Giáp Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”
- “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.
- Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.
12. Ất Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”
- “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.
- Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.
13. Bính Tý – Sơn Hỏa Bí, hào 5
- “Lục Ngũ, bí vu khâu viên, thúc bạch tiển tiển ; lận, chung cát”
- “Sáu Năm, văn sức ở gò vườn, mang một bó dải lụa mỏng (lễ vật đến mời kẻ hiền sỹ), mặc dù hào dưới không ứng mà có sự hối tiếc, nhưng hào trên lại ứng, cuối cùng sẽ tốt lành”.
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu hỷ dã” - Sự tốt lành của Sáu Năm nói lên tất có sự mừng.
14. Đinh Sửu - Trạch Thủy Khốn, hào 3
- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung”
- “Sáu Ba, khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dựa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.
- Tượng “Cứ vu tật lê, thặng cương dã ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, bất tường dã” - Dựa vào cây tật lê, nhiều gai khó dẫm, nói lên hào Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi trên kẻ cương cường ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, đây là hiện tượng chẳng lành.
15. Mậu Dần - Thủy Trạch Tiết, hào 1
- “Sơ Cửu, bất xuất hộ đình, vô cữu”
- “Chín Đầu, (tiết chế thận trọng giữ gìn), không ra khỏi sân cổng nhà, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Bất xuất hộ đình, tri thông tắc dã” – Không ra khỏi sân cổng nhà, nói lên hào Chín Đầu rất biết lẽ đường thông thì đi, đường bị ngăn thì dừng.
16. Kỷ Mão - Hỏa Sơn Lữ, hào 1
- “Sơ Lục, lữ tỏa tỏa, tư kỳ sở thủ tai”
- “Sáu Đầu, người lữ khách ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen, ti tiện, ấy là tự chuốc lấy họa”.
- Tượng “Lữ tỏa tỏa, chí cùng tai dã” – Ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen ti tiện, nói lên hào Sấu Đầu ý chí quẫn bách, tự chuốc lấy tai họa.
17. Canh Thìn – Lôi Địa Dự, hào 3
- “Lục Tam, vu dự hối ; trì hữu hối”
- “Hào Sáu Ba, xun xoe với trên để cầu vui, tất hối hận ; nếu tỉnh ngộ chậm tất lại sinh hối hận”.
- Tượng “Vu dự hữu hối, vị bất đáng dã” – Xun xoe tất có hối hận, nói lên hào Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
18. Tân Tị - Phong Thiên Tiểu súc, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu loan như, phú dĩ kỳ lân”
- “Chín Năm, có lòng thành tín, liên kết cả bầy dương cùng có lòng thành tín với một âm, dùng cái cứng của dương để làm giầu cho làng giềng”
- Tượng “Hữu phu loan như, bất độc phú dã” – Liên kết bầy dương thành tín với một âm, nói lên hào Chín Năm không riêng hưởng sự giầu có dương cứng.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”
- “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.
- Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.
20. Quý Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1. (20 = 32)
- “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”
- “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.
- Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.
21. Giáp Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”
- “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.
- Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.
22. Ất Dậu - Địa Lôi Phục, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”
- “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.
- Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.
23. Bính Tuất – Sơn Hỏa Bí, hào 4
- “Lục Tứ, bí như, bà như, bạch mã hàn như ; phỉ khấu, hôn cấu”
- “Sáu Bốn, văn đức được đẹp đẽ thanh bạch đến nhường ấy, toàn thân một mầu trắng toát tới nhường ấy, ngồi trên con ngựa trắng lại thuần khiết vô tạp thanh bạch tới nhường ấy ; phía trước không có giặc mạnh, mà là lễ ăn hỏi của đôi giai ngẫu”.
- Tượng “Lục Tứ đương vị, nghi dã ; ‘phỉ khấu hôn cấu’, chung vô vưu dã” – hào Sáu Bốn đáng ngôi được chính, nhưng trong lòng mang mối nghi ngờ, sợ hãi ; Không phải giặc mạnh mà là lễ ăn hỏi, nói lên Sáu Bốn cứ bắt chấp đi đến và rút cục trong lòng không có sự oán trách gì.
24. Đinh Hợi - Trạch Thủy Khốn, hào 4
- “Cửu Tứ, lai từ từ, khốn vu kim xa, lận, hữu chung”
- “Chín Bốn, bị một cỗ xe sắt chặn lại, có điều ân hận ; nhưng cuối cùng được phối ngẫu như nguyện”.
- Tượng “Lai từ từ, chí tại hạ dã, tuy bất đương vị, hữu dư dã” - Đến một cách từ từ nghi ngại, tâm chí Chín Bốn ở nơi cầu hợp với hào Sáu Đầu ở dưới ; mặc dầu ngôi vị không thỏa đáng, nhưng do đến một cách khiêm cẩn, nên tất có thể đẹp lòng như nguyện.
25. Mậu Tý - Thủy Trạch Tiết, hào 6
- “Thượng Lục, khổ tiết ; trinh hung, hối vong”
- “Sáu Trên, tiết chế quá mức, khiến người ta quá khổ sở ; nên giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, thì hối hận có thể tiêu vong”.
- Tượng “Khổ tiết trinh hung, kỳ đạo cùng dã” - Tiết chế quá mức khiến người ta quá khổ sở, nói lên đạo tiết chế của Sáu Trên đã khốn cùng.
26. Kỷ Sửu - Hỏa Sơn Lữ, hào 2
- “Lục Nhị, lữ tức thứ, hoài kỳ tư, đắc đồng bộc, trinh”
- “Sáu Hai, kẻ lữ khách thuê ở nơi quán trọ, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ, nên giữ vững chính bền”.
- Tượng “Đắc đồng bộc trinh, chung vô vưu dã” – hào Sáu Hai cuối cùng sẽ không có gì phải quá oán.
27. Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2
- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát”.
- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – Không đợi ngày mà biết, vì Sáu Hai đã trung, lại chính.
28. Tân Mão – Phong Thiên Tiểu súc, hào 6
- “Thượng Cửu, ký vũ ký xử, thượng đức tái ; phụ trinh lệ, nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung”.
- “Chín Trên, mây dầy đã đổ mưa, dương cứng đã bị ngăn cản, dương đức ở cực cao bị khí âm tích chứa ; lúc này người vợ phải giữ vững chính bền, để đề phòng nguy hiểm, phải như trăng sáng sắp tròn mà không quá đầy, người quân tử nếu cứ thẳng tiến sẽ gặp hung”.
- Tượng “Ký vũ ký xử, đức tính tái dã ; ‘quân tử chinh hung’, hữu sở nghi dã” - Thẳng tiến sẽ gặp hung, nếu cứ đi lên trước, thì sẽ khiến chất dương bị âm khí ngưng tụ làm cho biến hóa hết.
29. Nhâm Thìn – Thiên Phong Cấu, hào 3 (29 = 41)
- “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”
- “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).
30. Quý Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (30 = 42)
- “Lục Nhị, hưu phục, cát”
- “Hào Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.
- Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.
31. Giáp Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”
- “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.
- Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.
32. Ất Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”
- “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.
- Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.
33. Bính Thân – Sơn Hỏa Bí, hào 3
- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát”
- “Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững sự chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành”.
- Tượng “Vĩnh trinh chi cát, chung mạc chi lăng dã” – ‘Giữ vững chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành’, nói lên Chín Ba có thể làm được như vậy, thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.
34. Đinh Dậu - Trạch Thủy Khốn, hào 5
- “Cửu Ngũ, tị ngoạt, khốn vu xích phất ; nãi từ hữu thoát, lợi dụng tế tự”
- “Chín Năm, dùng hình phạt xẻo mũi, chặt chân, để trị chúng dân, đến nỗi ở ngôi tôn quý mà bị khốn cùng ; nhưng có thể dần dần thoát khỏi cảnh khốn, lợi về sự làm lễ tế”.
- Tượng “Tị ngoạt, chí vị đắc dã ; nãi từ hữu thoát, dĩ trung trực dã ; lợi dụng tế tự, thụ phúc dã” – Dùng hình phạt để trị chúng dân, nói lên tâm chí vượt khốn của Chín Năm chưa thể gọi là đạt ; ‘dần thoát khỏi cảnh khốn’, đây là kết quả của sự giữ vững đạo cương trung, chính trực ; ‘lợi làm tế lễ’, như vậy thì có thể thừa hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng.
35. Mậu Tuất - Thủy Trạch Tiết, hào 5
- “Cửu Ngũ, cam tiết, cát ; vãng hữu thượng”
- “Chín Năm, tiết chế một cách thích đáng, khiến người ta cảm thấy đẹp đẽ vừa phải, tốt lành ; tiến về phía trước, tất được tôn sùng”.
- Tượng “Cam tiết chi cát, vị cư trung dã” – Do bởi vậy là vì Chín Năm ở cao ngôi giữa, được chính.
36. Kỷ Hợi - Hỏa Sơn Lữ, hào 3
- “Cửu Tam, lữ phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ”
- “Chín Ba, kẻ lữ khách (quá cứng nóng vội), bị cháy nhà trọ, lạc mất đầy tớ ; nên giữ vững chính bề đề phòng hung hiểm”.
- Tượng “Lữ phần kỳ thứ, diệc dĩ thương hỹ ; dĩ lữ dữ hạ, kỳ nghĩa táng dã” - Bị cháy nhà trọ, cũng do vậy mà Chín Ba bị tổn thương ; kẻ lữ khách mà chuyên gia ơn cho kẻ dưới, lẽ tất nhiên sẽ dẫn đến táng vong.
37. Canh Tý – Lôi Địa Dự, hào 1
- “Sơ Lục, minh dự, hung”
- “Sáu Đầu, quá vui mà reo mừng đắc ý, có hung hiểm”.
- Tượng “Sơ lục minh dự, chí cùng hung dã” – Quá vui, chí cùng cực của sự vui vẻ sẽ đưa đến hung hiểm.
38. Tân Sửu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 1
- “Sơ Cửu, phục tự đạo, hà kỳ cữu? cát”
- “Chín Đầu, trở về đạo dương cứng của mình, có cữu hại gì đâu? Tốt lanh”.
- Tượng “Phục tự đạo, kỳ nghĩa cát dã” – Quay trở về đạo dương cứng của mình, hành vi của Chín Đầu là thích hợp, có được sự tốt lành.
39. Nhâm Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (39 = 51)
- “Cửu nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.
- “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.
- Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.
40. Quý Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (40 = 52)
- “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.
- “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.
- Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.
41. Giáp Thìn – Thiên phong Cấu, hào 3 (41 = 29)
- “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”
- “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).
42. Ất Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (42 = 30)
- “Lục Nhị, hưu phục, cát”
- “Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.
- Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.
43. Bính Ngọ - Sơn Hỏa Bí, hào 2
- “Lục Nhị, bí kỳ tu”
- “Sáu Hai, văn sức bộ râu đẹp cho bậc tôn quý”.
- Tượng “Bí kỳ tu, dĩ thưỡng hưng dã” – hào Sáu Hai và Chín Ba đồng tâm một lòng dấy lên văn sức cho nhau, Dựa theo ngôi vị chỗ đứng, được ngôi mà không ứng.
44. Đinh Mùi - Trạch Thủy Khốn, hào 6
- “Thượng Lục, khốn vu cát lũy, vu niết ngột ; viết động hối hữu hối, chinh cát”.
- “Sáu Trên, bị khốn trong đám sắn dây chằng chịt, lại bị khốn ở nơi lung lay nghiêng ngả, nên suy nghĩ một chút ; đã động rồi sau hối thì sẽ biết hối ngay, như vậy nếu đi lên tất được tốt lành.
- Tượng “Khốn vu cát lũy, vị đáng dã ; ‘động hối hữu hối’, cát hành dã” - Khốn trong đám sắn dây, nói lênđịa vị của Sáu Trên chưa từng ổn đáng. ‘động rồi sau hối’, nói lên cứ làm ngay đi thì có thể giải trừ khốn mà được tốt lành.
45. Mậu Thân - Thủy trạch Tiết, hào 4
- “Lục Tứ, an tiết, hanh”
- “Sáu Bốn, yên lòng tự tiết chế, hanh thông”.
- Tượng “An tiết chi hanh, thừa tượng đạo dã” – hào Sáu Bốn nghiêm cẩn giữ đạo “thuận thừa” bậc tôn trưởng.
46. Kỷ Dậu - Hỏa Sơn Lữ, hào 4
- “Cửu Tứ, lữ vu xử, đắc kỳ tư phủ, ngã tâm bất khoái”
- “Chín Bốn, kẻ lữ khách chưa được yên ổn tại nơi ở tạm, như được búa sắc chặt bỏ gai góc, nhưng trong long ta chẳng sướng”.
- Tượng “Lữ vu xử, vị đắc vị dã” – Chín Bốn chưa thể được ở ngôi chính đáng.
47. Canh Tuất – Lôi Địa Dự, hào 6
- “Thượng Lục, minh dự thành, hữu du vô cữu”
- “Sáu Trên, đã thành hậu quẻ xấu, vì mê muội trong hoan lạc, sửa lỗi sơm thì không nguy hại”.
- Tượng “Minh dự tại thượng, hà khả trường dã” - Mệ muội trong hoan lạc ở ngôi trên, sự vui vẻ này làm sao có thể giữ được lâu dài.
48. Tân Hợi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 2
- “Cửu Nhị, khiên phục, cát”
- “Chín Hai, được dắt quay trở lại đạo dương cứng, tốt lành”.
- Tượng “Khiên phục tại trung, diệc bất tự thất dã” - được quay trở lại đọa dương cứng, ở ngôi giữa, nói lân hào Chín Hai cũng có thể không để từ mất dương đức.
49. Nhâm Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1 (1= 49)
- “Hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”
- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên”.
- Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.
50. Quý Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4 (2 = 50)
- “Lục Tứ, trung hàng độc phục”
- “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại”
- Tượng “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.
51. Giáp Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (51 = 39)
- “Cửu Nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.
- “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.
- Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.
52. Ất Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (52 = 40)
- “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.
- “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.
- Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.
53. Bính Thìn – Sơn Hỏa Bí, hào 1
- “Sơ Cửu, bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ”
- “Chín Đầu, văn sức cho ngón chân của mình, bỏ xe lớn mà cam lòng đi bộ”
- Tượng “Xả xa nhi đồ, nghĩa phất thừa dã” – Cam lòng đi bộ, là do xét về ngôi vị mà hào Chín Đầu đang ở thì không nên đi xe lớn. Bỏ thuyền xuống nước. Bỏ chỗ ích lợi mà tìm đến nơi tổn hại.
54. Đinh Tị - Trạch Thủy Khốn, hào 1
- “Sơ Lục, đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch”
- “Sáu Đầu, mông bị khốn ở dưới gốc cây, không thể ở yên, chỉ lui vào nơi sơn cốc u tối, ba năm không thấy ló mặt.
- Tượng “Nhập u vu cốc, u bất minh dã” - Chỉ còn cách lui vào nơi sơn cốc u tối, nói lên hào Sáu Đầu ẩn thân tạm bợ nơi u ám, không sáng sủa.
55. Mậu Ngọ - Thủy Trạch Tiết, hào 3
- “Lục Tam, bất tiết nhược, tắc ta nhược, vô cữu”
- “Sáu Ba, không tiết chế được, nhưng biết than vãn tự hối, thì có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Bất tiết chi ta, hựu thùy cữu dã” – Không tiết chế được, nhưng biết tự hối, hỏi còn kẻ nào dám đổ lỗi cho nữa!
56. Kỷ Mùi - Hỏa Sơn Lữ, hào 5
- “Lục Ngũ, xạ trĩ, nhất thỉ vong ; chung dĩ dự mệnh”
- “Sáu Năm, bắn con chim trĩ, mất một mũi tên (mặc dù có tổn thất nhưng), sau được tiếng khen và được ban tước lệnh.
- Tượng “Chung dĩ cư mệnh, thượng đãi dã” - Được khen và ban tước mệnh, nói lên Sau Năm có thể theo kịp người trên.
57. Canh Thân – Lôi Địa Dự, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh tật, hằng bất tử”
- “Sáu Năm, giữ chính phòng bệnh, tất sẽ khỏe lâu không chết”
- Tượng “Lục Ngũ trinh tật, thừa cương dã ; hằng bất tử, trung vị vong dã” – Hào Sáu Năm tất phải giữ chính phòng bệnh, nói lên âm mềm đội dương cứng khó tránh nguy hiểm hoạn nạn ; ‘Khỏe lâu không chết’, là vì ở giữa không lệch, thì vị tất đã bại vong.
58. Tân Dậu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 3
- “Cửu Tam, dư thoát bức, phu thê phản mục”
- “Chín Ba, nan hoa bánh xe đứt hết, vợ chồng ly dị mỗi người một hướng”.
- Tượng “Phu thê phản mục, bất năng chính thất dã” - Vợ chồng ly dị, hào Chín Ba không làm cho nhà cửa được nghiêm chỉnh.
59. Nhâm Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (59 = 11)
- “Cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”
- “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.
- Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.
60. Quý Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (60 = 12)
- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”
- “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.
- Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.
................................ĐỈNH
......GIA NHÂN................................LÂM
...GIẢI........................+.........................TỤY
......ĐẠI SÚC..................................ĐỘN
................................TRUÂN
1. Giáp Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (G. Tý – N. Tý) (1 = 49)
- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”
- “Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.
- Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu!
2. Ất Sửu - Địa Trạch Lâm, hào 4 (2 = 50)
- “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”
- “Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.
3. Bính Dần – Sơn Thiên Đại súc, hào 6
- “Thượng Cửu, hà thiên chi cù, hanh”
- “Chín Trên, đường trời sao mà thông suốt đến vậy, hanh thông”
- “Tượng “Hà thiên chi cù, đạo đại hành dã” – nói rằng, đạo chứa đức của Chín Trên hết sức thông suốt”.
4. Đinh Mão - Trạch Địa Tụy, hào 2
- “Lục Nhị, dẫn cát, vô cữu ; phu nãi lợi dụng Thược”
- “Sáu Hai, được người dẫn dắt mà tụ hội với nhau thì được tốt lành, không dẫn đến cưu hại ; chỉ cần trong lòng thành tín, thì sẽ làm cho lễ “tế Thược” đơn sơ cũng lợi về sự dâng hiến cho thần linh”
- Tượng “Dẫn cát vô cữu, trung vị biến dã” – Tâm chí ở ngôi giữa giữ chính đạo của Sáu Hai chưa từng biến đổi.
5. Mậu Thìn - Thủy Lôi Truân, hào 2
- “Lục Nhị, Truân như, chiên như. Thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự”
- “Sáu Hai, thời khai sáng buổi đầu rất nhiều gian nan, dùng dằng loanh quanh chẳng tiến. Người cưỡi ngựa dập dừu tới, nhưng họ không phải là bọn cường đạo, mà là những người đến cầu hôn ; Người con gái giữ vững chính bền không vội lấy chồng, chờ mười năm sau mới kết lương duyên”
- Tượng “Lục nhị chi nan, thừa cương dã ; thập niên nãi tự, phản thường dã” – Sáu Hai khó đi không tiến, là do âm mềm cưỡi trên dương cứng. Chờ mười năm là để nói ý “nan cực thì đến lúc thông”, mọi việc lại quay trở lại bình thường.
6. Kỷ Tị - Hỏa Phong Đỉnh, hào 6
- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi”
- "Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi”
- Tượng “Ngọc huyễn tại thượng, cương nhu tiết dã” – Đòn vạc bằng ngọc ở cao phía trên, là chỉ Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm.
7. Canh Ngọ - Lôi Thủy Giải, hào 4
- “Cửu tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”
- “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”
- Tượng “Giải nhi mẫu”, vị đáng vị dã” - rằng ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.
8. Tân Mùi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 4
- “Lục Tứ, phú gia, đại cát”
- “Sáu Bốn, làm giầu cho nhà, hết sức tốt lành”
- Tượng “Phú gia đại cát, thuận tại vị” – Làm giâu cho nhà, là do Sáu Bốn thụân, đội hào dương cứng ở ngôi tôn quý.
9. Nhâm Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”
- “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”
- Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.
10- Quý Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”
- “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”
- Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.
11. Giáp Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”
- “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.
- Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.
12. Ất Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”
- “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”
- Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.
13. Bính Tý – Sơn Thiên đại súc, hào 5
- “Lục Ngũ, phần thỉ chi nha, cát”
- “Sáu Năm, bẻ nanh con lợn thiến, tốt lành”.
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã” - cái tốt lành của Sáu Năm nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” đúng phép, đáng được chúc mừng.
14. Đinh Sửu – Trạch Địa Tụy, hào 3
- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận”.
- “Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự đáng tiếc nhỏ”.
- Tượng “Vãng vô cữu, thượng tốn dã” – Đi lên trước không có cữu hại, nói lên Sáu Ba có thể hướng lên trên, thuận theo với dương cứng.
15. Mậu Dần – Thủy Lôi Truân, hào 1
- “Sơ Cửu, bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu”.
- “Chín Đầu, loanh quanh, lợi về sự ở yên, giữ vững chính bền, lợi về việc kiến lập chư hầu”.
- Tượng “Tuy bàn hoàn, chí hành chính dã ; ‘dĩ quý hạ tiện’ đại đắc dân dã” - Mặc dầu loanh quanh, nhưng hành vi tâm chí đều giữ được đoan chính ; thân phận tôn quý mà lại ở ngôi thấp, nói lên Chín Đầu sẽ rất được lòng dân.
16. Kỷ Mão – Hỏa Phong Đỉnh, hào 1
- “Sơ Lục, đỉnh điên chỉ, lợi xuất bĩ ; đắc thiếp dĩ kỳ tử, vô cữu”
- “Sáu Đầu, vạc đổ chổng chân, lợi về sự đổ đồ phế bỏ ; như lấy được người thiếp sinh ra con, đỡ đần người vợ cả, tất không cữu hại”.
- Tượng “Đỉnh điên chỉ, vị bội dã ; ‘lợi xuất bĩ’ dĩ tòng quý dã” - Vạc đổ chổng chân, vị tất đã là trái lẽ ; ‘Lợi về sự đổ đồ phế bỏ’ nói lên Sáu Đầu nên theo lên với bậc tôn quý (đợi đưa vật phẩm mới vào). Thải đồ phế bỏ để nhận vật mới.
17. Canh Thìn – Lôi Thủy Giải, hào 3
- “Lục Tam, phụ thả thừa, chí khấu chí ; trinh lận”.
- “Sáu Ba, mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, tất xúi bọn cướp đến cướp ; giữ vững chính bền để phòng hối tiếc”.
- Tượng “Phụ thử thừa, diệc khả xú dã, tự ngã chí nhung, hữu thùy cữu dã” – Mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, ấy là nói hành vi của Sáu Ba rất xấu xa, do bản thân không có đức, trộm ngôi mà đưa nạn binh nhung đến, như vậy thì còn quy lỗi vào ai được?
18. Tân Tị - Phong Hỏa Gia nhân, hào 5
- “Cửu Ngũ, vương cách hữu gia, vật tuất, cát”.
- “Chín Năm, đấng quân vương lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, sau đó bảo vệ nhà mình, không phải lo lắng, tốt lành”.
- Tượng “Vương cách hữu gia, giao tương ái dã” - Lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, nói lên lúc này người người đều thân ái, hòa mục với nhau.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”
- “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.
- Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.
20. Quý Mùi – Địa Trạch Lâm hào 1 (20 = 32)
- “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”
- “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.
21. Giáp Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (21 = 9)
- “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”
- “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”
- Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.
22. Ất Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (22 = 10)
- “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”
- “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”
- Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.
23. Bính Tuất – Sơn Thiên Đại súc, hào 4
- “Lục Tứ, đồng ngưu chi cốc, nguyên cát”.
- “Sáu Bốn, buộc gông lên đầu nghé không sừng, hết sức tốt lành”.
- Tượng “Lục Tứ nguyên cát, hữu hỷ dã” – Sáu Bốn hết sức tốt lành, nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” có phương pháp, đáng được vui mừng.
24. Đinh Hợi – Trạch Địa Tụy, hào 4
- “Cửu Tứ, đại cát, vô cữu”
- “Chín Bốn, hết sức tốt lành, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Đại cát vỗ cữu, vị bất đáng dã” – Đã quá tốt lành, lại phải ‘tất không cữu hại’, nói lên ngôi vị của Chín Bốn còn rất không thỏa đáng.
25. Mậu Tý – Thủy Lôi Truân, hào 6
- “Thượng Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như”.
- “Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có được sự cảm ứng), nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa”.
- Tượng “Khấp huyết liên như, hà khả trường dã” – Khóc đến nỗi nước mắt chảy đầm đìa, nói lên Sáu Trên làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.
26. Kỷ Sửu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 2
- “Cửu Nhị, đỉnh hữu thực ; ngã cừu hữu tật, bất khả năng tức, cát”
- “Chín Hai, trong vạc chứa đầy vật phẩm ; người phối ngẫu với ta, thân có tật bệnh, tạm thời không đến làm tăng gánh nặng cho ta, tốt lành”.
- Tượng “Đỉnh hữu thực, thận sở chi dã ; ‘ngã cừu hữu tật’, chung vô vưu dã” – Trong vạc chứa đầy vật phẩm, ý nói rằng Chín Hai phải cẩn thận khi đi lên ; ‘người phối ngẫu với ta thân có tật bệnh’, nói lên Chín Hai tạm thời chưa ứng được với Sáu Năm, cuối cùng không có điều gì phải trách cứ.
27. Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2
- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát”.
- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành, nói lên được đạo ở giữa không lệch.
28. Tân Mão – Phong Hỏa Gia nhân, hào 6
- “Thượng Cửu, hữu phu, uy như, chung cát”
- “Chín Trên, lấy lòng chí thành, uy nghiêm để trị nhà, cuối cùng sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Uy như chi cát, phản thân chi vị dã” – Uy nghiêm trị nhà thì được tốt lành, ý trước tiên Chín Trên phải tu tỉnh mình, đòi hỏi phải nghiêm khắc ở chính bản thân mình.
29. Nhâm Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (29 = 41)
- “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”
- “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.
- Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.
30. Quý Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (30 = 42)
- “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”
- “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.
31. Giáp Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”
- “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.
- Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.
32. Ất Mùi – Địa Trạch Lâm, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”
- “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.
33. Bính Thân – Sơn Thiên Đại súc, hào 3
- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh ; nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng”
- “Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe ; lợi về có sự đi”.
- Tượng “Lợi hữu du vãng, thượng hợp chí dã” - Lợi về có sự đi, nói lên ý Chín Ba hợp chí với Chín Trên.
34. Đinh Dậu – Trạch Địa Tụy, hào 5
- “Cửu Ngũ, tụy hữu vị, vô cữu, phỉ phu ; nguyên vĩnh trinh, hối vong”.
- “Chín Năm, ở thời hội tụ, ở nơi cao tôn quý không bị cữu hại, nhưng còn chưa được sự tin rộng của chúng dân ; là một vị quân trưởng có đức, nên giữ vững chính bền mãi mãi không đổi thay, thì sự hối hận tất sẽ mất”.
- Tượng “Tụy hữu vị, chí vị quang dã” - Thời hội tụ ở cao ngôi tôn quý, nói lên tâm chí hội tụ thiên hạ của Chín Năm còn chưa sáng lớn.
35. Mậu Tuất – Thủy Lôi Truân, hào 5
- “Cửu Ngũ, truân kỳ cao. Tiểu, trinh cát ; đại, trinh hung.
- “Chín Năm, muốn khắc sự gian nan thời khai sáng buổi đầu, cần rộng ban bố ân trạch. Việc nhỏ, giữ được chính bền thì tốt ; việc lớn, giữ được chính bền để phòng hung hiểm”.
- Tượng “Truân kỳ cao, thi vị quang dã” - Cần rộng ban bố ân trạch, ý nói đức trạch của Chín Năm ban bố còn chưa tỏa sáng.
36. Kỷ Hợi – Hỏa Phong Đỉnh, hào 3
- “Cửu Tam, đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc ; phương vũ khuy hối, chung cát”
- Chín Ba, tai vạc đang bị biến dạng, chỗ xỏ gậy để khênh ở tai vạc bị tịt ; món trĩ hầm thơm ngon, tinh khiết chưa đem ra cho người ăn được, đợi đến khi có trận mưa dầm âm dương điều hòa, tất sẽ không còn hối hận nữa, về cuối sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Đỉnh nhĩ cách, thất kỳ nghĩa dã” – Tai vạc bị biến dạng, nói lên Chín Ba mất sự thích nghi ở khoảng trống giữa.
37. Canh Tý – Lôi Thủy Giải, hào 1
- “Sơ Lục, vô cữu”.
- “Sáu Đầu, (hiểm nạn mới bắt đầu được giải) không có gì cữu hại”.
- Tượng “Cương nhu chi tế, nghĩa vô cữu dã” – Sáu Đầu giao tiếp cùng Chín Bốn, tương ứng với nhau, xét về lẽ thư giải hiểm nạn, thì tất nhiên không có gì cữu hại.
38. Tân Sửu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 1
- “Sơ Cửu, nhàn hữu gia, hối vong”.
- “Chín Đầu, phòng ngừa tà ác, sau đó bảo vệ gia đình mình, hối hận sẽ tiêu vong”.
- Tượng “Nhàn hữu gia, chí vị biến dã” – Phòng ngừa tà ác, bảo vệ gia đình mình, đó là nói lên Chín Đầu cần phòng ngừa khi ý chí còn chưa thay đổi.
39. Nhâm Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (39 = 51)
- “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.
- “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.
- Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.
40. Quý Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (40 = 52)
- “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.
- “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.
- Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.
41. Giáp Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (41 = 29)
- “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”
- “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.
- Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.
42. Ất Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (42 = 30)
- “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”
- “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.
43. Bính Ngọ - Sơn Thiên Đại súc, hào 2
- “Cửu Nhị, dư thoát phúc”.
- “Chín Hai, xe long moayơ không đi được”.
- Tượng “Dư thoát phúc, trung vô vưu dã” – nói lên ý Chín Hai ở ngôi giữa mà không nóng vội tiến lên, cho nên không phạm lỗi lầm.
44. Đinh Mùi – Trạch Địa Tụy, hào 6
- “Thượng Lục, tê tư thế di, vô cữu”.
- “Sáu Trên, ta thán buồn than, lại đau đớn khóc lóc nước mắt nước mũi dàn dụa, có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Tê tư thế di, vị an thượng dã” - Buồn than, lại đau đớn khóc lóc, nói lên hào Sáu Trên mong “tụ” không được, chưa thể ở yên tại ngôi trên cùng.
45. Mậu Thân – Thủy Lôi Truân, hào 4
- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi”.
- “Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”
- Tượng “Cầu nhi vãng, minh dã” - Muốn cầu hôn ở phí dưới mà tiến lên, nói lên Sáu Bốn là kẻ sáng suốt, hiểu biết.
46. Kỷ Dậu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 4
- “Cửu Tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”.
- “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái anh, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”.
- Tượng “Giải nhi mẫu, vị đáng vị dã” – nói lên ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.
47. Canh Tuất – Lôi Thủy Giải, hào 6
- “Thượng Lục, công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng, hoạch chi, vô bất lợi”.
- “Sáu Trên, vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, một phát bắn trúng, không gì không lợi”.
- Tượng “Công dụng xạ chuẩn, dĩ giải bội dã” – Vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, nói lên Sáu Trên giải trừ hiểm nạn do kẻ bội nghịch gây nên.
48. Tân Hợi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 2
- “Lục Nhị, vô du toại, tại trung quỹ, trinh cát”.
- “Sáu Hai, không có thành tựu gì, coi sóc việc nấu nướng trong nhà, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Lục Nhị chi cát, thuận dĩ tốn dã” - Sự tốt lành của Sáu Hai là do sự nhu thuận, ôn hòa, khiêm tốn đưa đến.
49. Nhâm Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (49 = 1)
- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”
- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.
- Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu!
50. Quý Sửu – Địa Trạch Lâm, hào 4 (50 = 2)
- “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”
- “Hào Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.
51. Giáp Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (51 = 39)
- “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.
- “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.
- Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.
52. Ất Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (52 = 40)
- “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.
- “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.
- Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.
53. Bính Thìn – Sơn Thiên Đại súc, hào 1
- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ”
- “Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến”.
- Tượng “Hữu lệ tắc dĩ, bất phạm tai dã” – Ý nói không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi.
54. Đinh Tị - Trạch Địa Tụy hào 1
- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy ; nhược hào, nhất ác vi tiếu: Vật tuất, vãng vô cữu”.
- “Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyên tình mà kêu gọi mọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay: Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại”.
- Tượng “Nãi loạn nãi tụy, kỳ chí loạn dã” – Làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người, nói lên tâm chí Sáu Đầu có sự mê loạn.
55. Mậu Ngọ - Thủy Lôi Truân, hào 3
- “Lục Tam, tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung ; quân tử cơ, bất như xả, vãng lận”.
- “Sáu Ba, đuổi hiêu không có ngu nhân dẫn đường, thì chỉ đi sâu vào rằng rậm vô ích ; người quân tử cần kiến có hành sự, lúc này bỏ không đuổi nữa là hơn cả, nếu cứ nhất mực tiến nữa, tất sẽ hối tiếc”.
- Tượng “Tức lộc vô ngu, dĩ tòng cầm dã ; quân tử xả chi, vãng lận, cùng dã” – Không có người dẫn đường, mà vẫn đuổi bắt, nói lên Sáu Ba lòng tham đã thái quá. Người quân tử bỏ không đuổi nữa, nếu cứ đuổi mãi thì sẽ cùng khốn.
56. Kỷ Mùi – Hỏa phong Đỉnh, hào 5
- “Lục Ngũ, đỉnh hoàng nhĩ kim huyễn, lợi trinh”.
- “Sáu Năm, vạc có tai mầu vàng, đòn vạc cứng rắn, lợi về sự giữ vững chính bền”.
- Tượng “Đỉnh hoàng nhĩ, trung dĩ vi thực dã” - Vạc có tai mầu vàng, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa mà được tính cứng đặc.
57. Canh Thân – Lôi Thủy Giải, hào 5
- “Lục Ngũ, quân tử duy hữu giải, cát, hữu phu vu tiểu nhân”.
- “Sáu Năm, người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, tốt lành, thậm chí còn có thể dùng đức thành tín để cảm hóa kẻ tiểu nhân”.
- Tượng “Quân tử hữu giải, tiểu nhân thoái dã” - Người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, kẻ tiểu nhân tất sẽ sợ phục, lui bước.
58. Tân Dậu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 3
- “Cửu Tam, gia nhân hạc hạc, hối lệ, cát ; phụ tử hy hy, chung lận”.
- “Chín Ba, người trong nhà sầu oán gào khóc, mặc dù có hối hận, có nguy hiểm, nhưng vẫn được tốt lành ; còn nếu là đàn bà trẻ con mà nô đùa hớn hở, thì cuối cùng sẽ thẹn tiếc”.
- Tượng “Gia nhân hạc hạc, vị thất dã ; ‘phụ tử hy hy’, thất gia tiết dã” - Người trong nhà sầu oán gào khóc, nói lên đây là thời chưa thể thoải mái nhàn vui ; ‘đàn bà trẻ con cười đùa hớn hở’, nói lên đã mất lễ tiết trong nhà.
59. Nhâm Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (59 = 11)
- “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”
- “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.
- Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.
60. Quý Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (60 = 12)
- “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”
- “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”
- Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.
..............................VỊ TẾ
........ÍCH....................................THÁI
...HẰNG.....................+.....................HÀM
.......TỔN......................................BĨ
..............................KÝ TẾ
1. Giáp Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (1 = 49)
- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.
- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.
- Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới người Trên, không dám nghĩ đến việc dùng xiểm nịnh mà tiến bừa. Cho nên tốt và hanh thông.
2. Ất Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4
- “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.
- “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.
- Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.
3. Bính Dần – Sơn Trạch Tổn, hào 6
- “Thượng Cửu, phất tổn ích chi ; vô cữu, trinh cát, hữu du vãng, đắc thần vô dã”.
- “Chín Trên, mình không tổn gì mà làm ích được cho mọi người ; tất không có cữu hại, giữ vững chính bền thì được tốt lành, nếu có sự đi, tất sẽ được quảng đại thần dân ủng hộ, chẳng phải chỉ một nhà”.
- Tượng viết: “Phất tổn ích chi, đại đắc chi dã” – “Mình không tổn gì mà làm ích được cho người, nói lên Chín Trên đắc chí lớn về sự ban ân cho thiên hạ.
4. Đinh Mão – Trạch Sơn Hàm, hào 2
- “Lục Nhị, hàm kỳ phì, hung ; cư cát”
- “Sáu Hai, giao cảm ở bụng chân, có hung hiểm ; ở yên tĩnh thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Tuy hung cư cát, thuận bất hại dã” – Sáu Hai mặc dù có hung hiểm, nhưng nếu ở yên giữ tĩnh thì được tốt lành, nói lên ý thuận theo chính đạo “giao cảm” thì có thể tránh gặp phải sự họa hại.
5. Mậu Thìn – Thủy Hỏa Ký tế, hào 2
- “Lục Nhị, phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc”.
- “Sáu Hai, người đàn bà đánh mất rèm xe (không đi được), không cần phải đi tìm, quá không đầy bảy ngày tất vật mất sẽ trở lại”.
- Tượng viết: “Thất nhật đắc, dĩ trung đạo dã” – “Quá không đầy bẩy ngày, tất vật mất sẽ quay trở lại”, nói lên Sáu Hai có thể giữ đạo trung chính không lệch.
6. Kỷ Tị - Hỏa Thủy Vị Tế, hào 6
- “Thượng Cửu, hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu ; nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị”.
- “Chín Trên, tin dùng kẻ khác, an nhàn uống riệu thì không có gì cữu hại ; nhưng (chơi bời quá độ) sẽ như con cáo nhỏ qua sông đánh (làm) ướt đầu, đó là quá tin người mà hại tới chính đạo.
- Tượng viết: “Ẩm tửu nhu thủ, diệc bất tri tiết dã” – “An nhàn uống riệu mà (như con cáo nhỏ qua sông) làm ướt đầu gặp phải tai họa”, nói lên Chín Trên nếu như vậy, thì thật là không biết tiết chế gì hết.
7. Canh Ngọ - Lôi Phong Hằng, hào 4
- “Cửu Tứ, điền vô cầm”
- “Chín Bốn, đi săn không được cầm thú”.
- Tượng viết: “Cửu phi kỳ vị, ân đắc cầm dã” – Chín Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?
8. Tân Mùi – Phong Lôi Ích, hào 4
- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc”.
- “Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân”.
- Tượng viết: “Cáo công tùng, dĩ ích chí dã” – “Cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo”, nói lên ý chí Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công.
9. Nhâm Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.
- “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).
- Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.
10. Quý Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.
- “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.
- Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.
11. Giáp Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”
- “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.
- Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài!
12. Ất Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.
- “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.
13. Bính Tý – Sơn Trạch Tổn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, nguyên cát”.
- “Sáu Năm, có người tiến dâng một con rùa lớn quý, có giá trị “mười bằng”, không thể từ tạ, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Lục Ngũ nguyên cát, tự thượng hựu dã” – Sáu Năm hết sức tốt lành, đây là Trời phù hộ.
14. Đinh Sửu – Trạch Sơn Hàm, hào 3
- “Cửu Tam, hàm kỳ cổ, chấp kỳ tùy, vãng lận”.
- “Chín Ba, cảm được tới đùi, khăng khăng nhắm mắt đi theo người ; như vậy tất sẽ thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ cổ, diệc bất xử dã, ‘chí tại tùy nhân’, sở chấp hạ dã” – “Cảm được tới đùi”, nói lên Chín Ba không thể yên tĩnh lúc lùi ; “tâm chí ở chỗ nhắm mắt theo người”, nói lên Chín Ba cứ khăng khăng là thấp hèn.
15. Mậu Dần – Thủy Hỏa Ký tế, hào 1
- “Sơ Cửu, duệ kỳ luân, nhu kỳ vỹ, vô cữu”.
- “Chín Đầu, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), con cáo qua sông đánh (làm) ướt đuôi (để không đi nhanh), tất không có lỗi”.
- Tượng viết: “Duệ kỳ luân, nghĩa vô cữu dã” – “Kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), nói lên hành vi của Chín Đầu hợp với ý nghĩa: cẩn thận giữ gìn mọi thành tựu mà không dẫn đến cữu hại.
16. Kỷ Mão – Hỏa Thủy Vị tế, hào 1
- “Sơ Lục, nhu kỳ vỹ, lận”.
- “Sáu Đầu, cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi, đáng thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Nhu kỳ vỹ, diệc bất chi cực dã” – “Cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi”, nói lên Sáu Đầu rất không biết cẩn thận giữ giữa.
17. Canh Thìn – Lôi Phong Hằng, hào 3
- “Cửu Tam, bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu ; trinh lận”
- “Chín Ba, không thường giữ được đức đẹp, có khi bị người làm cho hổ thẹn ; phải giữ vững sự chính bền để phong sự thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Bất hằng kỳ đức, vô sở dung dã” – “Không thường giữ được đức đẹp, ý nói Chín Ba sẽ không có chỗ dung thân.
18. Tân Tị - Phong Lôi Ích, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: hữu phu huệ ngã đức”.
- “Chín Năm, có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ, không còn nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp ; Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta”.
- Tượng viết: “Hữu phu huệ tâm, vật vắn chi hỹ ; ‘huệ ngã đức’ đại đắc chí dã” – “Có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi ; “người trong thiên hạ tất báo đáp ân đức của ta”, nói lên Chín Năm được lớn chí “tổn thượng ích hạ”.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”
- “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.
- Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.
20. Quý Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (20 = 32)
- “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.
- “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.
21. Giáp Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (21 – 9)
- “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.
- “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).
- Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.
22. Ất Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (22 = 10)
- “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.
- “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.
- Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng đang phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.
23. Bính Tuất – Sơn Trạch Tổn, hào 4
- “Lục Tứ, tổn kỳ tẳt xuyền hữu hỷ, vô cữu”
- “Sáu Bốn, tự ta giảm bớt tật tương tư, có thể nhanh chóng tiếp nhận dương cứng, tất có sự vui, không có cữu hại”.
- Tượng viết: “Tổn kỳ tật, diệc khả hỷ dã” – “Tự giảm bớt bệnh tương tư”, ý nói Sáu Bốn tiếp nhận hào dương cứng là việc rất đáng mừng. Bốn dựa vào hào Đầu, để nhanh chóng đến “ích”, là cái lý của hào.
24. Đinh Hợi – Trạch Sơn Hàm, hào 4
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư”.
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận sẽ mất hết ; lăng xăng qua lại, bạn bè cuối cùng sẽ thuận theo sự nghĩ của anh thôi”.
- Tượng viết: “Trinh cát hối vong, vị cảm hại dã ; đồng đồng vãng lai, vị quang đại dã” - Hối hận tất sẽ mất hết, nói lên Chín Bốn chưa từng vì giao cảm bất chính mà gặp điều hại ; ‘lăng xăng qua lại mà lòng ý bất đinh’, nói lên ý lúc này đạo giao cảm còn chưa sáng lớn.
25. Mậu Tý – Thủy Hỏa Ký tế, hào 6
- “Thượng Lục, nhu kỳ thủ, lệ”.
- “Sáu Trên, con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”.
- Tượng viết: “Nhu kỳ thủ, lệ’, hà khả cửu dã” – “Con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”, dụ chỉ sau khi việc thành, nếu không cẩn thận, thì làm sao bảo vệ sự thành công cho được lâu dài!
26. Kỷ Sửu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 2
- “Cửu Nhị, duệ kỳ lân, trinh cát”.
- “Chín Hai, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi mạnh), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Cửu Nhị trinh cát, trung dĩ hành chính dã” – Chín Hai giữ vững được tốt lành”, nói lên phải giữ giữa, mà làm việc đoan chính không lệch.
27. Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2
- “Cửu Nhị, hối vong”.
- “Chín Hai, hối hận tiêu hết”
- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – Chín Hai hối hận tiêu hết, nói lên có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.
28. Tân Mão – Phong Lôi Ích, hào 6
- “Thượng Cửu, mạc ích chi, hoặc kích chi ; lập tâm vật hằng, hung”.
- “Chín Hai, không có ai làm ích cho anh ta, mà có người còn công kích anh ta nữa, là vì không thường giữ được sự yên ổn trong lòng (mà tham cầu không chán), có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Mạc ích chi, thiên từ dã ; ‘hoặc kích chi’, tự ngoại lai dã” – Không có ai làm ích cho anh ta, nói lên Chín Hai đơn phương đưa ra lời cầu ích ; ‘có người công kích anh ta’, đây là sự hung hiểm từ bên ngoài, không vời gọi mà tự đến.
29. Nhâm Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (29 = 41)
- “Lục Tam, bao tu”.
- “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.
- Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
30. Quý Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (30 = 42)
- “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.
- “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.
- Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.
31. Giáp Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”
- “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.
- Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.
32. Ất Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.
- “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.
33. Bính Thân – Sơn Trạch Tổn hào 3
- Tượng viết: “Nhất nhân hành, tam tắc nghi dã” - Một người đi một mình, thì có thể chuyên nhất cầu, ba người cùng đi sẽ khiến cho đối phương nghi hoặc không có chủ.
- “Lục Tam, tam nhân hành tắc tổn nhất nhân ; nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu”.
- “Sáu Ba, ba người cùng đi đều muốn cầu một dương, tất sẽ bớt một người là dương cứng đó ; một người đi một mình mà một lòng cầu hợp, thì sẽ được những người bạn dương cứng”
34. Đinh Dậu – Trạch Sơn Hàm, hào 5
- “Cửu Ngũ, hàm kỳ mai, vô hối”.
- “Chín Năm, cảm tới thăn lưng, không đến nỗi hối hận”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ hối, chí mạt dã” – “Cảm tới thăn lưng, nói lên chí hướng giao cảm của Chín Năm quá nông mỏng.
35. Mậu Tuất – Thủy Hỏa Ký tế, hào 5
- “Cửu Ngũ, đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi Thược tế, thực thụ kỳ phúc”.
- “Chín Năm, nước láng giềng bên đông giết trâu tế lớn, chẳng bằng lễ “tế Thược” sơ sài của nước láng giềng bên tây, được thực hưởng nhiều phúc trạch của thần linh ban giáng hơn”.
- Tượng viết: “Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thời dã ; ‘thực thụ kỳ phúc’ cát đại lai dã” – “Chẳng bằng “tế Thược” của nước láng giềng phía tây”, ý nói nước láng giềng phía tây tế lễ hợp thời ; “nước láng giềng phía tây càng được thực hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng nhiều hơn”, dụ chỉ sự tốt lành nối tiếp nhau đến.
36. Kỷ Hợi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 3
- “Lục Tam, vị tế, chinh hung, lợi thiệp đại xuyên”.
- “Sáu Ba, việc chưa thành, đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nhưng lợi về sự vượt qua sông cả sóng lớn để thoát khỏi hiểm nạn”.
- Tượng viết: “Vị tế chinh hung, vị bất đáng dã” - Việc chưa thành đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nói lên ngôi vị Sáu Ba không thích đáng.
37. Canh Tý – Lôi Phong Hằng, hào 1
- “Sơ Lục, tuấn hằng trinh hung, vô du lợi”
- “Sáu Đầu, quá mông được đạo hằng cửu, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, nếu không thì không có lợi”.
- Tượng viết: “Tuấn hằng chi hung, thủy cầu thâm dã” - Sự hung hiểm của việc “quá mong cầu đạo hằng cửu”, nói lên Sáu Đầu ngay từ đầu đã cầu được quá sâu.
38. Tân Sửu – Phong Lôi Ích, hào 1
- “Sơ Cửu, lợi dụng vi đại tác, nguyên cát, vô cữu”.
- “Chín Đầu, lợi về sự làn việc lớn, hết sức tốt lành, tất không cữu hại”.
- Tượng viết: “Nguyên cát vô cữu, bất hậu sự dã” - Hết sức tốt lành mà không có cữu hại, nói lên Chín Đầu vốn không thể gánh vác được việc lớn (nhưng lúc này được ích, có thể làm việc lớn)
39. Nhâm Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (39 = 51)
- “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.
- “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.
- Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.
40. Quý Mão – Địa Thiên Thái hào 3 (40 = 52)
- “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.
- “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.
- Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”
41. Giáp Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (41 = 29)
- “Lục Tam, bao tu”.
- “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.
- Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
42. Ất Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (42 = 30)
- “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.
- “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.
- Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.
43. Bính Ngọ - Sơn Trạch Tổn, hào 2
- “Cửu Nhị, lợi trinh, chung hung ; phất tổn ích chi”.
- “Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, vội tiến ngày sẽ có hung hiểm ; không làm tổn hại đức của mình thì có thể làm ích cho người trên”.
- Tượng viết: “Cửu Nhị lợi trinh, trung dĩ vi chí dã” – Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, nói lên nên kiên trì giữ đạo trung làm hướng của mình.
44. Đinh Mùi – Trạch Sơn Hàm, hào 6
- “Thượng Lục, hàm kỳ phụ giáp thiệt”
- “Sáu Trên, cảm bằng lời nói”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ phụ giáp thiệt, đằng khẩu thuyết dã” – “Cảm bằng lời nói”, nói lên Sáu Trên chẳng qua được tâng bốc lên bởi những lời rỗng tuếch mà thôi.
45. Mậu Thân – Thủy Hỏa Ký tế, hào 4
- “Lục Tứ, nhu hữu y như, chung nhật giới”
- “Sáu Bốn, quần áo đẹp rồi sẽ biến thành rách nát tả rơi, phải luôn đề phòng họa hoạn”.
- Tượng viết: “Chung nhật giới, hữu sở nghi dã” - Phải luôn đề phòng họa hoạn, nói lên Sáu Bốn đang có sự nghi sợ.
46. Kỷ Dậu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 4
- “Cửu Tứ, chinh cát, hối vong ; chấn dụng phạt Quỷ Phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc”.
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; đánh nước Quỷ Phương với uy thế mạnh mẽ, qua ba năm chiến đấu công thành, được phong thưởng là chư hầu của nước lớn”.
- Tượng viết: “Trinh cát hối vong, chí hành dã” - Giữ vững chính bền hối hận mất hết, nói lên Chín Bốn đang thực hiện chí cầu “tế”.
47. Canh Tuất – Lôi Phong Hằng, hào 6
- “Thượng Lục, chấn hằng, hung”.
- “Sáu Trên, chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Chấn hằng tại thượng, đại vô công dã” - Chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, mà lại ở cao tại ngôi trên, nói lên Sáu Trên giải quyết mọi việc tất sẽ uổng công vô ích.
48. Tân Hợi – Phong Lôi Ích, hào 2
- “Lục Nhị, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, vĩnh trinh cát ; vương dụng hưởng vu đế, cát”.
- “Sáu Hai, có người cho một con rùa lớn quý đáng giá mười bằng, không từ tạ được, giữ vững chính bền lâu dài thì được tốt lành ; lúc này nhà vua đang tế trời cầu xin giáng phúc tốt lành”.
- Tượng viết: “Hoặc ích chi, tự ngoại lai dã” – “Có người cho (một con rùa lớn quý, đáng giá mười bằng), nói lên Sáu Hai được tăng ích là từ bên ngoài tự đến.
49. Nhâm Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (49 = 1)
- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.
- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.
- Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới Vua.
50. Quý Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4 (50 = 2)
- “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.
- “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.
- Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.
51. Giáp Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (51 = 39)
- “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.
- “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.
- Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.
52. Ất Mão – Địa Thiên Thái, hào 3 (52 = 40)
- “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.
- “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.
- Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”
53. Bính Thìn – Sơn Trạch Tổn, hào 1
- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu, chước tổn chi”.
- “Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp cho người ở ngôi cao, tất không có cữu hại ; nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân”.
- Tượng viết: “Dĩ sự xuyền vãng, thượng hợp chí dã” – Thành việc tu dưỡng bản thân rồi đi giúp người trên cao, nói lên Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.
54. Đinh Tị - Trạch Sơn Hàm, hào 1
- “Sơ Lục, hàm kỳ mẫu”.
- “Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chấn cái”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ mẫu, chí tại ngoại dã” – Giao cảm ở ngón chân cái, nói lên chí hướng của Sáu Đầu phát triển ra phía ngoài.
55. Mậu Ngọ - Thủy Hỏa Ký tế, hào 3 (ý thông 46)
- “Cửu Tam, Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên khắc chi ; tiểu nhân vật dụng”.
- “Sáu Ba, vua Ân Cao Tông đánh nước Quỷ Phương, kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng ; không thể dùng kẻ tiểu nhân nóng vội gấp tiến”.
- Tượng viết: “Tam niên khắc chi, bị dã” – Kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng, nói lên Chín Ba nỗ lực, bền bỉ tới mức sức lực cùng kiệt.
56. Kỷ Mùi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh cát, vô hối ; quân tử chi quang, hữu phu cát”.
- “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, không có gì phải hối hận ; đây là do sự sáng của người quân tử, (lại thêm) trong lòng thành tín mà được tốt lành.
- Tượng viết: “Quân tử chi quang, kỳ huy cát dã” - Sự sáng của người quân tử, dụ chỉ sự rực lên những tia sáng của Sáu Năm, là thể hiện của sự tốt lành.
57. Canh Thân – Lôi Phong Hằng, hào 5
- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung”.
- “Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Phụ nhân trinh cát, tòng nhất nhi chung dã ; phu tử chế nghĩa, tòng phụ hung dã” – “Đàn bà giữ vững chính bền thì được tốt lành”, nói lên cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà thì tất có hung hiểm.
58. Tân Dậu – Phong Lôi Ích, hào 3
- “Lục Tam, ích chi dụng hung sự, vô cữu ; hữu phu trung hàng, cáo công dụng khuê”
- “Sáu Ba, nhận “ích” phần lớn phải dấn thân để cứu người khỏi điều ác, giải trừ hiểm nguy (như vậy) mới không lỗi ; tất phải giữ lòng thành tín, giữ đạo trung, thận trọng trong công việc, lúc nào cũng phải như tay cầm Ngọc khuê tâu việc với bậc vương công”.
- Tượng viết: “Ích dụng hung sự, cố hữu chi dã” - Nhận “ích” rất nhiều nên nỗ lực dấn thân vào việc “cứu hung bình hiểm”. Như vậy Sáu Ba mới có thể giữ “ích” đã nhận được một cách chắc chắn.
59. Nhâm Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (59 = 11)
- “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”
- “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.
- Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài.
60. Quý Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (60 – 12)
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.
- “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.
...............................MÔNG
.....VÔ VỌNG............................ĐẠI TRÁNG
...THĂNG...................+....................KIỂN
......KHUÊ...................................QUAN
...............................CÁCH
1. Giáp Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (1 ~ 49)
- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”
- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”
- Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.
2. Ất Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (2 ~ 50)
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”
- Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.
3. Bính Dần - Hỏa Trạch Khuê, hào 6
- “Thượng Cửu, khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ ; phỉ khấu, hôn cấu ; vãng ngộ vũ tắc cát.”
- “Chín Trên, trái lìa hết mức, cô độc hồ nghi, hoảng hốt như nhìn thấy con lợn lưng bám đầy bùn, lại thấy như một cỗ xe lớn chở đầy quỷ đang chạy, thoạt tiên thì dương cung muốn bắn, sau lại buông cung xuống ; thì ra không phải là giặc mạnh, mà là một cô gái đẹp tới kết hôn với mình ; lúc này mà đi gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành.”
- Tượng “Ngộ vũ chi cát, quần nghi vong dã.” - Gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành, nói lên mọi điều ức đoán, nghi ngờ của Chín Trên đều bị tiêu tan.
4. Đinh Mão - Thủy Sơn Kiển, hào 2
- “Lục Nhị, vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố.”
- “Sáu Hai, người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua “kiển nạn”, không phải vì bản thân.”
- Tượng “Vương thần kiển kiển, chung vô cữu dã.” - Người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua kiển nạn, nói lên Sáu Hai cuối cùng sẽ không lỗi.
5. Mậu Thìn - Trạch Hỏa Cách, hào 2
- “Lục Nhị, kỷ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu.”
- “Sáu Hai, vào “ngày Kỷ” phải chuyển biến gấp thì phải quả đoán mà tiến hành biến cách, tiến lên phía trước tất có sự tốt lành, không bị cữu hại.”
- Tượng “Kỷ nhật cách chi, hành hữu giai dã.” – Vào ngày Kỷ thì phải chuyển biến gấp, nói lên Sáu Hai gắng đi lên tất có công tốt đẹp.
6. Kỷ Tị - Sơn Thủy Mông – hào 6
- “Thượng Cửu, kích mông ; bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”
- “Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối ; không lợi về sự dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên dùng để ngừa giặc mạnh.”
- Tượng “Lợi dụng ngự khấu, thượng hạ thuận dã.” - Lợi nếu dùng cách ngừa giặc mạnh để trừ sự ngu tối, là nói rằng có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.
7. Canh Ngọ - Địa Phong Thăng, hào 4
- “Lục Tứ, vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, cát, vô cữu.”
- “Sáu Bốn, nhà vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, tốt lành, tất không cữu hại.”
- Tượng “Vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, thuận sự dã.” – Nhà Vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, nói lên Sáu Bốn phải thuận theo nhà Vua lập công lập việc.
8. Tân Mùi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 4
- “Cửu Tứ, khả trinh, vô cữu.”
- “Chín Bốn, có thể giữ vững chính bền, do đó tất không bị cữu hại.”
- Tượng “Khả trinh vô cữu, cố hữu chi dã.” – Có thể giữ vững chính bền, nói lên Chín Bốn phải nắm bắt được cái bền, giữ được cái chính, mới có thể bảo tồn được sự vô hại lâu dài.
9. Nhâm Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (9 ~ 21)
- “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.
10. Quý Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (10 ~ 22)
- “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”
- “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”
- Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.
11. Giáp Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (11 ~ 59)
- “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.
12. Ất Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (12 ~ 60)
- “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”
- “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”
- Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.
13. Bính Tý - Hỏa Trạch Khuê, hào 5
- “Lục Ngũ, hối vong, quyết tông phệ phu, vãng hà cữu.”
- “Sáu Năm, hối hận mất hết, kẻ trong họ thân ứng với nó, cắn vào da mềm giòn của nó (như với ý hòa thuận mong được gặp gỡ), đi lên thì sao mà cữu hại được?
- Tượng “Quyết tông phệ phu, vãng hữu khánh dã.” - Kẻ trong họ thân ứng với nó (như) cắn vào da mềm giòn của nó, nói lên lúc này Sáu Năm mà đi tất vui.
14. Đinh Sửu - Thủy Sơn Kiển, hào 3
- “Cửu Tam, vãng kiển, lai phản,”
- “Chín Ba, tiến lên thì gian nan, quay lại là trở về nơi chốn của mình.”
- Tượng “Vãng kiển lai phản, nội hỷ chi dã.” - Tiến lên thì gian nan, quay trở lại là trở về nơi chốn của mình, nói lên các hào âm mềm ở trong quẻ đều vui mừng thấy Chín Ba quay lại.
15. Mậu Dần - Trạch Hỏa Cách, hào 1
- “Sơ Cửu, củng dụng hoàng ngưu chi cách.”
- “Chín Đầu, nên bó chặt bằng da con bò vàng.”
- Tượng “Củng dụng hoàng ngưu, bất khả dĩ hữu vi dã.” – Bó chặt bằng da bò, nói lên Chín Đầu không thể bạ việc gì cũng làm bừa làm càn để biến cách.
16. Kỷ Mão – Sơn Thủy Mông, hào 1
- “Sơ Lục, phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc ; dĩ vãng lận.”
- “Sáu Đầu, mở mang đầu óc, lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, khiến cho người ta không phạm tội ác ; nếu đi lên quá mức tất sẽ hối tiếc.”
- Tượng “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã.” - Lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, là để mọi người tuân theo các phép tắc đúng đắn.
17. Canh Thìn - Địa Phong Thăng, hào 3
- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”
- “Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”
- Tượng “Thăng hư ấp, vô sở nghi dã.” – Lên cao dễ dàng như vào nơi không người, nói lên lúc này Chín Ba “thượng thăng” sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.
18. Tân Tị - Thiên Lôi Vô vọng, hào 5
- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”
- “Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà sẽ vui vì khỏi bệnh.”
- Tượng “Vô vọng chi dược, bất khả thí dã.” – Không càn bậy mà bị bệnh nhưng không cần phải uống thuốc, đó là vì không thể dùng thử linh tinh. “Bất khả thí” - tức không được thử thuốc. Thuốc công hiệu với những kẻ làm càn, mà không công hiệu với những ai không làm càn, cho nên nói “bất khả thí” vậy.
19. Nhâm Ngọ - Phong Địa Quán, hào 4 (19 ~ 31)
- “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”
- “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”
- Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.
20. Quý Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (20 ~ 32)
- “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”
- Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.
21. Giáp Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (21 ~ 9)
- “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.
22. Ất Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (22 ~ 10)
- “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”
- “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”
- Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.
23. Bính Tuất - Hỏa Trạch Khuê, hào 4
- “Cửu Tứ, khuê cô ; ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu.”
- “Chín Bốn, chống đối, chia lìa, thui thủi một mình ; gặp chàng trai tốt dương cứng mà đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm nhưng tránh được cữu hại.”
- Tượng “Giao phu vô cữu, chí hành dã.” - Đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm, nhưng lại tránh được cữu hại, nói lên chí hướng của Chín Bốn được thực hành để qua được thời khuê.
24. Đinh Hợi - Thủy Sơn Kiển, hào 4
- “Lục Tứ, vãng kiển, lai liên.”
- “Sáu Bốn, tiến lên thì gian nan, quay lại gặp gian nan.”
- Tượng “Vãng kiển lai liên, vị đáng thực dã.” - Tiến lên thì gặp kiển nạn, quay lại lại gặp gian nan, nói lên Sáu Bốn chính là đáng ngôi thật (kiển nạn không phải đưa lại một cách vu vơ)
25. Mậu Tý - Trạch Hỏa Cách, hào 6
- “Thượng Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện ; chinh hung, cư trinh cát.”
- “Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước ; lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ chính thì được tốt lành.”
- Tượng “Quân tử báo biến, kỳ văn úy dã ; tiểu nhân cách diện, thuận dĩ tòng quân dã.” - Người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, nói lên mỹ đức của Sáu Trên nhân vì vẻ tươi tắn sáng sủa của bậc đại nhân mà thành ra rực rỡ ; kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước, đây là thuận tòng sự biến cách của nhà vua.
26. Kỷ Sửu – Sơn Thủy Mông, hào 2
- “Cửu Nhị, bao mông, cát. Nạp phụ, cát ; tử khắc gia.”
- “Chín Hai, được trẻ nhỏ vậy quanh, tốt lành. Như đón được người vợ hiền thục đẹp đẽ về nhà, tốt lành ; lại như người con coi sóc được việc nhà.”
- Tượng “Tử khắc gia, cương nhu tiếp dã.” - Người con coi sóc được việc nhà, nói lên Chín Hai dương cứng ứng với Sáu Năm âm mềm.
27. Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2
- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”
- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi cữu hại.”
- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.
28. Tân Mão – Thiên Lôi Vô vọng, hào 6
- “Thượng Cửu, vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi.”
- “Chín Trên, tuy không làm bậy nhưng ở thế cùng mà đi thì tất gặp họa, không được lợi gì.”
- Tượng “Vô vọng chi hành, cùng chi tai dã.” – Chín Trên tuy không làm bậy nhưng nếu có sự đi, thì sẽ do thế cùng, khó thông mà gặp phải tai ương.
29. Nhâm Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”
- “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”
- Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.
30. Quý Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (30 ~ 42)
- “Cửu Nhị, trinh cát.”
- “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.
31. Giáp Ngọ - Phong Địa Quan, hào 4 (31 ~ 19)
- “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”
- “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”
- Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.
32. Ất Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (32 ~ 20)
- “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”
- Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.
33. Bính Thân - Hỏa Trạch Khuê, hào 3
- “Lục Tam, kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết ; kỳ nhân thiên thả tị. Vô sơ hữu chung.”
- “Sáu Ba, dường như nhìn thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, trâu kéo xe bị cản không tiến được, như người bị khốc hình gọt tóc, xẻo mũi. Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp.”
- Tượng “Kiến dư duệ, vị bất đáng dã ; vô sơ hữu chung, ngộ cương dã.” - Dường như thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, đây là do ngôi của Sáu Ba ở nơi không thích hợp gây nên ; Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp, nói lên cuối cùng Sáu Ba tất gặp được hào dương cứng tương ứng.
34. Đinh Dậu - Thủy Sơn Kiển, hào 5
- “Cửu Ngũ, đại kiển, bằng lai.”
- “Chín Năm, đi thì mười phần gian nan, bè bạn tấp nập kéo đến giúp đỡ.”
- Tượng “Đại kiển bằng lai, dĩ trung tiết dã.” – Đi thì mười phần gian nan, bạn bè tấp nập kéo đến giúp đỡ, nói lên Chín Năm giữ khí tiết dương cứng trung chính.
35. Mậu Tuất - Trạch Hỏa Cách, hào 5
- “Cửu Ngũ, đại nhân hổ biến, vị chiêm hữu phu.”
- “Chín Năm, bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, không nghi ngờ gì nữa, tất sẽ làm sáng tỏ đức đẹp thành tín, chân thực.”
- Tượng “Đại nhân hổ biến, kỳ văn bỉnh dã.” - Bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, nói lên đức đẹp của Chín Năm mang mầu vẻ đẹp đẽ.
36. Kỷ Hợi – Sơn Thủy Mông, hào 3
- “Lục Tam, vật dụng thủ nữ, kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi.”
- “Sáu Ba, không nên lấy người con gái này, trong mắt cô ta chỉ thấy người chồng đẹp mã thôi, không biết giữ mình, lấy cô ta không có lợi gì hết.”
- Tượng “Vật dụng thủ nữ, hạnh bất thuận dã.” – Không nên lấy người con gái này, nói lên Sáu Ba có đức hạnh không hợp với lễ tiết.
37. Canh Tý - Địa Phong Thăng, hào 1
- “Sơ Lục, doãn thăng, đại cát.”
- “Sáu Đầu, thích hợp về sự cao, hết sức tốt lành.”
- Tượng “Doãn thăng đại cát, thượng hợp chí dã.” – Thích hợp về sự lên cao, hết sức tốt lành, nói lên Sáu Đầu đội trên mà thuận hợp với tâm chí của hai hào dương rồi cùng “thăng”.
38. Tân Sửu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 1
- “Sơ Cửu, vô vọng, vãng cát.”
- “Chín Đầu, không làm càn, đi tất sẽ được tốt lành.”
- Tượng “Vô vọng chi vãng, đắc chí dã.” – Không làm càn mà đi, ý nói Chín Đầu tất nhiên được toại ý tiến thủ.
39. Nhâm Dần – Phong Địa Quan, hào 2 (39 ~ 51)
- “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”
- “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”
- Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.
40. Quý Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (40 ~ 52)
- “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”
- “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”
- Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.
41. Giáp Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”
- “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”
- Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.
42. Ất Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (42 ~ 30)
- “Cửu Nhị, trinh cát.”
- “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.
43. Bính Ngọ - Hỏa Trạch Khuê, hào 2
- “Cửu Nhị, ngộ chủ vu hạng, vô cữu.”
- “Chín Hai, trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, tất không cữu hại.”
- Tượng “Ngộ chủ vu hạng, vị thất đạo dã.” – Trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, nói lên Chín Hai chưa từng phạm vào cách xử sự ở thời Khuê.
44. Đinh Mùi - Thủy Sơn Kiển, hào 6
- “Thượng Lục, vãng kiển, lai thạc ; cát, lợi hiện đại nhân.”
- “Sáu Trên, đi lên thì gian nan, quay lại có thể lập công lớn ; tốt lành, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
- Tượng “Vãng kiển lai thạc, chí tại nội dã ; lợi hiện đại nhân, dĩ tòng quý dã.” – Đi lên thì gian nan, nói lên chí hướng của Sáu Trên là liên hợp bên trong cùng nhau vượt gian nan ; Lợi về sự xuất hiện đại nhân, nói lên Sáu Trên nên theo giúp bậc quân chủ dương cứng tôn quý.
45. Mậu Thân - Trạch Hỏa Cách, hào 4
- “Cửu Tứ, hối vong, hữu phu cải mệnh, cát.”
- “Chín Bốn, hối hận mất hết, giữ lòng thành tín để cách trừ (vương) mệnh cũ, tốt lành.”
- Tượng “Cải mệnh chi cát, tín chí dã.” – Cách (vương) mệnh cũ thì được tốt lành, nói lên Chín Bốn thực hiện chí biến cách.
46. Kỷ Dậu – Sơn Thủy Mông, hào 4 (Khốn vòng 2)
- “Lục Tứ, khốn mông, lận.”
- “Sáu Bốn, khốn vì tăm tối, có sự hối tiếc.”
- Tượng “Khốn mông chi lận, độc viễn thực dã.” - Hối tiếc do khốn vì tăm tối, nói lên Sáu Bốn cách xa “mông sư” cứng, khỏe, vững.
47. Canh Tuất - Địa Phong Thăng, hào 6
- “Thượng Lục, minh thăng, lợi vu bất tức chi trinh.”
- “Sáu Trên, mê muội cùng cực lại cứ muốn lên cao, lợi về sự giữ vững chính bền không ngừng nghỉ.”
- Tượng “Minh thăng tai thượng, tiêu bất phú dã.” – Mê muội cùng cực lại vẫn cứ muốn lên cao, nói lên xu thế phát triển của Sáu Trên tất sẽ tiêu mòn, không thể giầu thịnh.
48. Tân Hợi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 2
- “Lục Nhị, bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng.”
- “Sáu Hai, không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch; không khai khẩn thì không có được ruộng tốt, như vậy lợi về có sự đi.”
- Tượng “Bất canh hoạch, vị phú dã.” – Không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch, nói lên ý Sáu Hai chưa từng mưu cầu sự giầu sang phú quý.
49. Nhâm Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (49 ~ 1)
- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”
- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”
- Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.
50. Quý Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (50 ~ 2)
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”
- Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.
51. Giáp Dần – Phong Địa Quán, hào 2 (51 ~ 39)
- “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”
- “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”
- Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.
52. Ất Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (52 ~ 40)
- “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”
- “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”
- Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.
53. Bính Thìn - Hỏa Trạch Khuê, hào 1
- “Sơ Cửu, hối vong ; táng mã, vật trục tự phục ; kiến ác nhân, vô cữu.”
- “Chín Đầu, hối hận tiêu vong, ngựa chạy mất, chớ đuổi theo, bình tĩnh chờ nó tự trở về, khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, không bị cữu hại.”
- Tượng “Kiến ác nhân, dĩ tị cữu dã.” – Khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, là để tránh sự cữu hại do sự trái lìa gây nên.
54. Đinh Tị - Thủy Sơn Kiển, hào 1
- “Sơ Lục, vãng kiển, lai dự.”
- “Sáu Đầu, tiến lên thì gian nan, trở lại ắt được khen.”
- Tượng “Vãng kiển lai dự, nghi đãi dã.” - Tiến lên thì gian nan, trở lại thì được khen, nếu nói như vậy thì Sáu Đầu nên chờ đợi thời cơ.
55. Mậu Ngọ - Trạch Hỏa Cách, hào 3
- “Cửu Tam, chinh hung, trinh lệ ; cách ngôn tam tựu, hữu phu.”
- “Chín Ba, gấp vội cầu tiến tất sinh “hung”, giữ chính phòng nguy hiểm ; khi biến cách bước đầu đã thành hiệu cần phải nhiều lần đi xuống làm theo lòng dân, yên định đại cục, xử sự phải giữ lòng thành tín.”
- Tượng “Cách ngôn tam tựu, hựu hà chi hỹ.” – Khi sự biến cách bước đầu đã thành hiệu, nói lên tại thời điểm này, Chín Ba hà tất phải quá vội vàng đi lên!
56. Kỷ Mùi – Sơn Thủy Mông, hào 5
- “Lục Ngũ, đồng mông, cát.”
- “Sáu Năm, trẻ nhỏ chưa biết gì, chính thế lại dễ dạy, tốt lành.”
- Tượng “Đồng mông chi cát, thuận dĩ tốn dã.” - Trẻ nhỏ chưa biết gì, nói lên Sáu Năm cung kính, nhu thuận, khiêm tốn với thầy dạy.
57. Canh Thân - Địa Phong Thăng, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”
- “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”
- Tượng “Trinh cát thăng giai, đại đắc chí dã.” - Từng bậc một mà tiến lên cao, nói lên Sáu Năm đã hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao của bản thân.
58. Tân Dậu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 3
- “Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”
- “Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”
- Tượng “Hành nhân đắc ngưu, ấp nhân tai dã.” - Người đi đường thuận tay dắt và lấy mất trâu đi, nói lên người trong Ấp tự nhiên bị tai bay vạ gió, bị đổ tội nghi là lấy cắp trâu.
59. Nhâm Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (59 ~ 11)
- “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.
60. Quý Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (60 ~ 12)
- “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”
- “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”
- Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.
(Nguồn: sưu tầm)
![]() |
Nữ mệnh tuổi Tý nên chọn hướng làm nhà thế nào để đại cát đại lợi? Nữ tuổi Tý hãy tránh hướng xấu nào để gia trạch bình an, may mắn? Tất cả sẽ được giải đáp trong những gợi ý cụ thể xem hướng nhà theo tuổi cho phụ nữ tuổi Tý dưới đây.
![]() |
![]() |
![]() |
Đầu tiên, đó là vị trí đặt phòng tắm, không gian này nên được đặt chỗ kín gió, tránh nhìn thẳng ra cửa vì dễ bị gió lùa, điều này sẽ rất không tốt cho sức khỏe những người sinh sống trong nhà.
Hai cằm
Rất nhiều cô gái có hai cằm nhưng đã giảm cân vì muốn xinh đẹp hơn, thậm chí còn đi phẫu thuật thẩm mỹ để bỏ hai cằm. Nhưng họ không biết rằng hai cằm chính là biểu tượng cho sự phú quý của phái nữ. Cằm giống như kho của cải của người phụ nữ, càng dày thì càng có nhiều tiền tài. Những người con gái có hai cằm còn được gọi là những người có tướng giúp chồng. Nó không chỉ đem lại may mắn cho bản thân, mà còn giúp cho sự nghiệp của chồng. Những người con gái có tướng mạo như vậy thì sẽ luôn có tài vận tốt.
Trán cao, rộng và đầy
Nếu phái nữ có trán cao, nhẵn và rộng thì rất có thể sẽ được gả vào nhà giàu có. Người có trán cao rất tài hoa và tương đối thông minh. Trán nhẵn và rộng thể hiện sự phóng khoáng, cao quý. Những người có tướng mạo thế này rất hợp với cuộc sống trong gia đình quyền quý. Họ có khả năng ứng khó với các quy tắc mà không thất lễ với những người trong gia đình. Những người con gái có tướng mạo thế này cũng rất được cánh mày râu ưa thích. Có thể nói họ là những mỹ nhân có khí chất, và rất có ưu thế trong các mối quan hệ giao tiếp.
Mắt to, mày dài, lông mi cong
Rất nhiều người nói, lông mày là nơi để giao lưu tình bạn. Nếu người con gái có lông mày dài, mỏng và đôi lông mi cong thì vô cùng có khí chất. Cho dù làm bất cứ việc gì, họ cũng không dễ dàng lùi bước hoặc từ bỏ. Nếu có thêm cặp mắt to thì lại càng có sức sống hơn. Rất nhiều đàn ông chết mê chết mệt vì những người con gái vừa hấp dẫn vừa tràn đầy sức sống này. Người ta sẽ cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở bên họ. Vì thế, những người con gái này rất thuận lợi trên phương diện tình cảm.
Gò má cao vừa phải
Nếu trán và cằm đã tương đối đẹp thì cần phải phối hợp với xương gò má. Mỗi người đàn ông luôn cần một cô vợ đảm, mà hai bên gò má của người phụ nữ chính là sự động viên của người chồng. Vì thế gò má của người phụ nữ không được phép quá cao. Những người phụ nữ có hai bên má cao vừa phải sẽ là những người nội trợ đảm đang, là hậu phương vững chắc cho người chồng sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.3. Gò má cao vừa phải
Ngón tay dài
Rất nhiều người nói con gái có ngón tay dài thì vất vả, không có vận mệnh tốt. Thực ra không phải như vậy. Những người con gái có ngón tay dài, thon đa phần đều chỉ có thể dựa vào bản thân mình. Ngón tay dài tức là giữ được tiền, có khả năng kiếm tiền rất tốt. Ấn tượng đầu tiên của mọi người đối với những cô gái này là sự thục nữ. Trong sự nghiệp, họ nhất định sẽ thuận buồm xuôi gió.
Sưu tầm
Những con số xung quanh mang bạn ý nghĩa gì, bạn muốn tìm hiểu về ý nghĩa các con số từ 1 đến 9. Dưới đây, Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn ý nghĩa của các con số từ 0 đến 9.
Với mỗi con số lại mang một ý nghĩa khác nhau, không lẫn lộn vào nhau và có vị trí, chỗ đứng riêng trong dãy số. Con số nào cũng quan trọng, con số nào cũng có hai mặt tốt và xấu. Cùng nhau tìm hiểu xem ý nghĩa của số 1, ý nghĩa của số 2 ,... hay số 3 có ý nghĩa gì, số 9 có ý nghĩa gì?
Số 1 là con số đứng đầu dãy số nguyên dương, là con số bắt đầu, con số đầu tiên trong dãy số. Vậy nên Ý nghĩa số 1 là:
Hình 1: Ý nghĩa số 1
Ý nghĩa số 2 thường chỉ cặp đôi, hai sự vật tương đồng nhau, song song.
Hình 2: Ý nghĩa số 2 và ý nghĩa số 3
Hình 3: Ý nghĩa số 4
Hình 4: Ý nghĩa số 5
Hình 5: Ý nghĩa số 6 và ý nghĩa số 8
Hình 6: Số 7 có ý nghĩa gì và ý nghĩa con số 9
Trên đây là tổng hợp ý nghĩa những con số từ 0 đến 9. Bạn có thể tìm hiểu thêm những ý nghĩa khác về các con số từ 0 đến 9. Với mỗi phương diện, mỗi quan niệm thì có những cách hiểu khác nhau. Mỗi con số đều có hai mặt tốt và xấu. Vì vậy, với bài viết ý nghĩa các con số từ 0 đến 9 của chúng tôi hẳn còn chút thiếu sót. Bạn đọc có thể góp ý tại thư viện xem bói để bài viết được đầy đủ nhất.
: Ý nghĩa của các con số từ 0 đến 100
Hướng kê giường Tuổi Kỷ Hợi 1959
Năm sinh dương lịch: 1959
– Năm sinh âm lịch: Kỷ Hợi
– Quẻ mệnh: Khôn Thổ
– Ngũ hành: Bình Địa Mộc (Gỗ đồng bằng)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh
– Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);
– Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);
Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Mộc, Thủy sinh Mộc, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thủy, là hướng Bắc;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh dương, Đen, đây là màu đại diện cho hành Thủy, rất tốt cho người hành Mộc.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
![]() |
1. Bàn tay hình chữ nhật
Bạn thích phiêu lưu, ưa mạo hiểm, có trực giác tốt nên thường giải quyết tốt các vấn đề công việc lẫn tình cảm.
2. Bàn tay hình vuông
Bạn có đầu óc logic, thực tế nhưng thiếu tính sang tạo. Do tính cách hay lo xa nên bạn thường mắc sai lầm trong cuộc sống.
3. Ngón tay dài
Bạn hay tò mò và có tài lãnh đạo thiên bẩm.
4. Ngón tay ngắn
Bạn hào phóng, thích phiêu lưu và lãng mạn.
5. Bàn tay nhỏ
Bạn thực dụng, lô-gíc, nhạy bén và luôn tìm kiếm những cách giải quyết vấn đề đơn giản, nhanh chóng nhất.
6. Bàn tay lớn
Bạn tốt bụng, nhạy cảm, thuộc tuýp người cầu toàn. Bạn ghét mọi chuyện mất kiểm soát, xảy ra không theo trật tự ban đầu.
Dung Nguyen (theo higherperspectives)
Sao Tử vi tọa thủ tại Cung Tỵ, Hợi, có sao Thất sát cùng tọa thủ, chủ sẽ có thu nhập nhiều, tính biến động lớn, hội cát tinh thì có tài ngoài dự liệu, đặc biệt có vận thiên tài.
Sao Tử vi tại cung Tỵ, Hợi là thế vượng, có sao Thất sát thế bình cùng tọa thủ, sao Thiên phủ thế địa triều hướng tại cung Phúc đức. Cung Mệnh là sao Liêm trinh thế bình và sao Phá quân thế hãm, cung Quan lộc là sao Vũ khúc, Tham lang nhập miếu; cung Điền trạch là sao Thiên đồng, Thái âm (cung Tý: Thiên đồng là thế vượng, Thái âm là nhập miếu; cung Ngọ: Thiên đồng là rơi vào thế hãm, Thái âm là không đắc thế địa), cung Thiên di là sao Thiên tướng rơi vào thế hãm.
Tử vi đế tinh uy nghiêm, có cảm tính ưu việt và ham muốn làm lãnh đạo. Sao Thất sát chủ soái kiên cường khí khái, bày mưu tính kế, tấm lòng trung thành, trái tim dũng cảm. Hai sao kết hợp với nhau, tự nhiên thành hạc đứng giữa bầy gà, tự do thoải mái, được người khác kính trọng, là nhân vật lãnh đạo, thường phát triển mang tính khai sáng, thăng trầm lớn, tần số biến động nhiều lần, thành bại khó định.
Sao Tử vi, Thất sát cùng tọa thủ cung Tài bạch, thu nhập nhiều, tính biến động lớn, có vận thiên tài, hội cát tinh thì có tài ngoài dự liệu, kinh tế dư dả, chi tiêu lớn, cần đề phòng hoành phát hoành phá, tránh tiêu xài hoang phí như đánh bài bạc và đầu cơ, nếu không thì được nhiều mất nhiều, cuối cùng sẽ thành tay trắng.
Sao Liêm trinh nhanh nhẹn khéo léo, biết tự ý thức, lạc quan vui vẻ, có tinh thần trách nhiệm. Sao Phá quân thô bạo cố chấp, độc lập tự chủ, ham muốn coi trọng quyền uy, không nhóm họp lại với mọi người. Hai sao cùng tọa mệnh, chủ về chuyên chú có định lực, có mặt tích cực và tiêu cực, mặc dù quyết đoán nhanh chóng, có khả năng khai sáng và khả năng lãnh đạo nhưng thường tùy tiện và trốn tránh thực tế, thành bại khó dự liệu. Nếu gặp 4 sát tinh thì là mệnh cách Trinh cư Mão Dậu, thường làm nô dịch.
Sao Thiên phủ tọa cung Phúc đức, có tài sản tổ tiên để lại, lạc quan với cuộc sống, hài lòng với hiện tại, không thích tranh chấp, cẩn thận bảo thủ, cả đời vui vẻ.
Sao Thiên đồng, Thái âm tọa thủ cung Điền trạch, có khả năng thu mua tài sản, khi cùng tọa thủ cung Tý thì càng rõ rệt; cần đề phòng phá tài do tình cảm.
Sao Vũ khúc, Tham lang cùng tọa chủ cung Quan lộc, làm việc chăm chỉ dám đảm đương, thích công việc có tính khai sáng, sự nghiệp có nhiều biến động.
Sao Thiên tướng tọa cung Thiên di, thích dẫn đầu, thích quản những việc không phải của mình, vui khi giúp đỡ người khác, quan hệ công cũng tốt, xã giao nhiều, xuất ngoại thuận lợi được người khác trợ giúp.
Để bàn ăn không bị phạm các thế phong thủy xấu cần tránh những điều sau:
- Bàn ăn không được đặt đối điện với ban thần tài. Thần tài là nơi thờ cúng thần linh, cho dù bạn tin hay không tin vào thần linh thì bạn cũng cần phải có sự tôn trọng nhất định. Vì thế bàn ăn và ban thần tài cần phải có khoảng cách nhất định, không đặt ngay cạnh nhau hoặc đối diện với nhau.
- Mặt bàn không được lồi lõm. Việc mặt bàn không phẳng sẽ ảnh hưởng đến cảm giác ngon miệng của mọi người, từ đó sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Ngoài ra, bàn ăn thông thường là nơi tụ tập ăn uống nên không tránh được va chạm bát đũa, nếu mặt bàn không phẳng chỉ cần va chạm nhẹ cũng dễ làm đổ thức ăn.
Luôn giữ cho mặt bàn gọn gàng, sạch sẽ
- Không bày nhiều đồ đạc linh tinh trên bàn ăn, nếu không sẽ làm phá hỏng phong thủy của phòng ăn và bàn ăn.
Bàn ăn luôn bừa bãi thậm chí sẽ làm ảnh hưởng đến sự hòa thuận trong gia đình, ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng và tình thân giữa cha mẹ và con cái. Vì thế cần phải luôn giữ cho bàn ăn gọn gàng, sạch sẽ.
- Không kê bàn ăn quá to trong căn phòng nhỏ. Nghĩa là kích cỡ của bàn ăn cũng cần phải hợp lý, tốt nhất phải phù hợp với diện tích thực tế của phòng ăn hoặc phòng bếp trong ngôi nhà bạn. Nếu phòng ăn quá nhỏ mà kê bàn ăn quá to sẽ khiến mọi người “đứng ngồi không yên”.
Và ngược lại, nếu phòng ăn quá lớn mà kê bàn ăn quá nhỏ thì sẽ thể hiện sự “không phóng khoáng, keo kiệt của gia chủ”. Vì thế bàn ăn nhất định phải chọn kích cỡ cho phù hợp.
(Theo Kienthuc.net)
Việc chọn năm làm nhà là một việc hệ trọng, theo quan niệm của phong thủy, khi xây dựng nhà ở cần xem tuổi của chủ nhà với năm làm nhà. Không được vi phạm vào các năm: Kim Lâu, Hoang Ốc, Tam Tai, năm Hạn, năm Xung Khắc.
Việc chọn thời điểm để khởi công xây nhà là vô cùng quan trọng. Khi bạn đã chọn được một mảnh đất đẹp, phù hợp về hướng với tuổi của mình, bố trí công năng bên trong ngôi nhà theo Phong Thủy thì đến việc xác định xem năm 2014 có xây được nhà hay không?
Mục đích của việc chọn tuổi đẹp xây nhà là gì?
Việc chọn thời điểm để xây dựng hay sửa chữa nhà bao gồm: Chọn năm đẹp (tuổi đẹp), chọn tháng đẹp, chọn ngày đẹp, chọn giờ đẹp, chọn hướng đẹp để động thổ công trình. Mục đích của việc này là chọn ra thời điểm tốt đẹp nhất cho việc xây dựng công trình để mọi sự được thuận lợi, suôn sẻ, cuộc sống trong nhà sau này được hưng thịnh, nhân tài lộc phát triển.
Chọn tuổi đẹp làm nhà như thế nào?
Theo như các tài liệu Phong Thủy Phương Đông thì năm mà chủ nhà định xây cất nhà mới hay sửa chữa nhà cần tránh phạm những tuổi như: Kim Lâu, Hoang Ốc, Tam Tai. Đồng thời cũng cần tránh những năm hạn, năm có hành xung với mệnh chủ nhà, năm sát mệnh chủ. Vậy để xem được năm đẹp nhất để xây nhà thì cần xem thật kỹ để tránh được 6 yếu tố nêu trên.
BẢNG TRA CỨU NHANH CHỌN TUỔI ĐẸP XÂY NHÀ NĂM 2014
1. Tra cứu tuổi Phạm Kim Lâu
Tính theo tuổi âm lịch, ví dụ sinh năm 1971 dương lịch, năm nay 2014 là bao nhiêu tuổi Âm Lịch, lấy 2014 – 1971 = 43 + 1 = 44 tuổi, các tuổi khác cũng tính như vậy.
Năm 2014 những tuổi sau phạm phải Kim Lâu:
Tuổi âm lịch: 21, 24, 26, 28, 30, 33, 35, 37, 39, 42, 44, 46, 48, 51, 53, 55, 57, 60, 62, 64, 66, 69, 73, 75
2. Tra cứu tuổi Phạm Hoang Ốc:
Năm 2014 những tuổi sau phạm Hoang Ốc:
Tuổi phạm Địa sát: 12,18,21,27,30,36,45,54,63,69,72,78
Tuổi phạm Thụ tử:14, 23, 29, 32, 38, 41, 47, 50,56, 65, 74.
Tuổi Phạm Hoang Ốc: 15, 24, 33, 39, 42, 48, 51, 57, 60, 66, 75 (rất xấu)
3. Tra cứu tuổi Phạm Tam Tai:
Mỗi người cứ 12 năm thì sẽ bị 3 năm Tam Tai liên tiếp nhau; trong năm 2014 Giáp Ngọ những tuổi sau sẽ phạm tuổi Tam tai:
Tuổi âm lịch: 20, 24, 28, 32, 36, 40, 44, 48, 52, 56, 60, 64, 68, 72
Lưu ý:
– Nếu phạm vào 1 trong 3 yếu tố trên như Hoang Ốc ( Địa Sát, Thụ Tử) hoặc Tam Tai thì còn có thể dùng được;
– Phạm tuổi Kim Lâu thì không nên xây nhà;
– Phạm vào 2 trong 3 yếu tố trên thì không nên tiến hành xây dựng, tu tạo nhà ở, vì sẽ xảy ra tai nạn đáng tiếc.
4. Tránh tuổi năm Hạn
Ví dụ: Người tuổi Ngọ năm hạn là năm Ngọ, Người tuổi Dần năm hạn là năm Dần …. Năm sinh mà trùng với năm định làm nhà như vậy người ta gọi là Phạm Thái Tuế.
Như vậy: trong bảng trên, chủ nhà sinh năm 1990 (Canh Ngọ) không phạm: Tam Tai, Hoang Ốc, Kim Lâu nhưng gặp phải năm hạn (phạm Thái Tuế) => nên cũng là không tốt.
5. Tránh năm xung khắc với năm của chủ nhà
Năm 2014 là năm Giáp Ngọ – Mệnh niên là: Sa Trung Kim (Vàng trong cát).
Tránh xung với Thái Tuế: Thái tuế năm 2014 là năm Ngọ, có nghĩa là những người tuổi Tý cũng không nên làm nhà vào năm Giáp Ngọ.
Như vậy tuổi Giáp Tý không phạm Tam Tai, Hoang Ốc, Kim Lâu nhưng gặp năm Giáp Ngọ (xem thêm tứ hành xung) => nên cũng không tốt.
Năm có Hành khắc với Mệnh niên chủ nhà: Chủ nhà Mệnh Mộc gặp năm Kim ( theo thuyết Ngũ hành Kim khắc Mộc) => không tốt;
CÁCH TÍNH TOÁN TUỔI XẤU VÀ Ý NGHĨA
A- Phạm phải Kim Lâu?
Theo các tài liệu mà tác giả đọc được thì đều khuyên không xây nhà năm Phạm Kim Lâu. Kim Lâu có mấy dạng sau đây:
Tuổi Kim Lâu 1 ( Kim Lâu Thân): Làm nhà vào tuổi này thì bản thân người làm nhà sẽ bị hại ( ốm đau, bệnh tật, tai nạn…có thể chết người) nên rất kỵ nếu bạn phạm phải Kim Lâu 1.
Tuổi Kim Lâu 3 ( Kim Lâu Thê): Mang đến tai họa cho vợ;
Tuổi Kim Lâu 6 ( Kim Lâu tử): Mang hại cho con;
Tuổi Kim Lâu 8 ( Kim Lâu Lục Súc): Hại cho vật nuôi, làm ăn thất bát.
Cách tính Kim lâu đó như thế nào ? Đó là việc dựa vào nguyên lý Cửu Cung theo Cửu tinh đồ. Nếu bạn không có kiến thức về Phong Thủy thì có thể làm theo cách tính đơn giản như sau:
– Sinh năm: 1984 => tuổi âm của bạn: 2014-1984+1=31 (tuổi). 3+1 = 4: =>Tuổi 31 không phạm Kim Lâu. ( Nhiều tài liệu hay dân gian nói tuổi 31 phạm Kim Lâu là không chính xác).
– Sinh năm: 1980 => tuổi âm của bạn: 2014-1980+1=35 (tuổi). 3+5 = 8: => Phạm Kim Lâu súc, sẽ có hại cho vật nuôi, kinh tế.
– Sinh năm: 1976 => tuổi âm của bạn: 2014-1976+1=39 (tuổi). 3+9 = 12 ( Khi tổng vượt quá số 9 bạn đem trừ cho: 9, vậy được số: 3: => Phạm Kim Lâu Thê, sẽ mang hại cho vợ;
B – Phạm phải Hoang Ốc ?
Hoang Ốc có nghĩa là ngôi nhà hoang. Nhà hoang là nơi ma quỷ. Nên tránh làm nhà năm phạm phải Hoang Ốc.
Cách tính phạm Hoang Ốc dựa theo nguyên tắc Âm Lục ( 6 cung) của Dịch Học. Phần này tác giả xin không trình bày vì sẽ làm bạn đọc khó hiểu hơn, nhưng việc tính ra tuổi phạm Hoang Ốc tác giả đã trình bày trong bài này rồi, các bạn nên đọc kỹ để áp dụng.
C – Phạm phải Tam Tai ?
Năm Tam Tai mà làm nhà thì dễ gặp điều không may hay gặp các tai họa không lường trước được.
Cách tính năm Tam Tai như sau:
Sinh năm Thân, Tý, Thìn sẽ phạm Tam Tai vào các năm: Dần, Mão, Thìn;
Sinh năm Tị, Dậu, Sửu sẽ phạm Tam Tai vào các năm: Hợi, Tý, Sửu;
Sinh năm Hợi, Mão Mùi sẽ phạm Tam Tai vào các năm: Tị, Ngọ, Mùi;
Sinh năm Dần, Ngọ, Tuất sẽ phạm Tam Tai vào các năm: Thân, Dậu, Tuất;
Tuổi của tôi không hợp thì có thể xây nhà được không?
Nếu do yêu cầu bắt buộc phải xây nhà trong năm nay, mà các bạn bị vi phạm những yếu tố trên cũng đừng nên lo ngại,. Bạn có thể tiến hành mượn tuổi của những người nam giới không bị phạm trong năm để nhờ xây dựng nhà cửa. Nếu được thì nên chọn những người đứng tuổi, thọ, phúc lộc dồi dào, con cháu đông là tốt nhất. Tuy nhiên cần nhớ rằng, việc mượn tuổi để xây nhà là một biện pháp thiên nhiều về tâm lý, mọi chuyện tốt xấu sẽ vẫn xảy ra với chủ nhà chứ không phải vì mượn tuổi mà xảy ra với người kia.
Hướng dẫn làm thủ tục mượn tuổi:
+ Trước khi làm nhà, gia chủ làm giấy tờ bán nhà tượng trưng cho người mượn tuổi
+ Khi Động thổ, người mượn tuổi thay gia chủ tiến hành khấn vái và động thổ.
+ Trong thời gian làm lễ, gia chủ phải lánh xa khỏi khu vực hành lễ.
+ Các công đoạn Đổ mái, người mượn tuổi vẫn tiến hành thay gia chủ làm lễ, gia chủ tiếp tục tránh mặt.
+ Khi Nhập trạch, người mượn tuổi làm nốt các thủ tục dâng hương, khấn thành, rồi bàn giao lại nhà cho gia chủ.
+ Gia chủ làm giấy tờ mua lại nhà (với giá cao hơn giá bán nhà ở trên) và khấn cầu lễ nhập trạch.
Chùa Thiền Lâm còn có tên gọi khác là chùa Phật đứng – Phật nằm. Chùa thuộc hệ phái Theravada – Nam tông. Chùa Thiền Lâm tọa lạc ở trên đồi Quảng Tế, ấp Cư Sĩ, xã Thuỷ Xuân, Huế.
Chùa Thiền Lâm do ngài Hộ Nhẫn lập ra năm 1960. Lúc đầu nơi đây chỉ là cốc đá đơn sơ, nhờ đức độ tu hành của Ngài khiến một số đông Phật tử khởi tín tâm cúng dường để lập nên chùa Thiền Lâm năm 1966.
Ðến chùa Thiền Lâm, trước khi vào khuôn viên chùa, tại ngã ba dưới chân đồi Quảng Tế sẽ trông thấy một pho tượng “Thế Tôn khất thực” cao khoảng 8 mét, rất uy nghiêm và từ ái. Bảo tượng này gợi nhớ lại hình bóng Thế Tôn cách đây hơn 25 thế kỷ – một đời Thế Tôn trì bình khất thực để nuôi mạng và hoá độ chúng sinh.
Trên đường vào khuôn viên chùa là bảo tượng Thế Tôn Niết Bàn nằm ở phía bên trái. Bảo tượng này được tôn trí trên nền đàn bê tông ba cấp, dài khoảng hơn 7 mét, ẩn hiện giữa rừng thông và dương liễu. Dáng nằm và gương mặt của bảo tượng thể hiện được vẻ an lạc giải thoát của Ðức Thế Tôn. Chính từ hai tôn tượng này mà đồng bào Phật tử và cư dân ở Huế gọi chùa Thiền Lâm là “chùa Phật đứng – Phật nằm”.
Vào trước khuôn viên chùa, ngay dưới chân đồi, phía bên trái, là bảo tượng Ðức Phật toạ thiền, quay mặt về hướng Ðông. Tượng và toà sen cao 5,2 mét, tôn trí trên bảo đài 3 tầng cao 9 mét.
Vào đến chùa, tận cùng khuôn viên ở bên trái là ngôi bảo tháp màu trắng cao vút, uy nghi mà thanh thoát giữa nền trời. Bảo tháp có 2 phần: Tầng dưới là chánh điện, tầng trên tôn trí Xá lợi Phật Thích Ca và chư Thánh Tăng. Bố cục tháp phía dưới hình tròn cắt cạnh trước và sau. Phần sau nối thêm hậu điện để thờ Phật và chỗ chư Tăng hành lễ. Phía trên tháp có dáng hình chuông úp với đỉnh nhọn, được trang trí bằng một số phù điêu, hoa văn giản dị. Dáng dấp bảo tháp được mô phỏng theo kiểu chùa Sirimagalà ở Myanmar – nơi Hoà thượng Hộ Nhẫn thọ đại giới nhưng đơn giản hơn nhiều.
Tháp cao khoảng 15m. Trong nội điện, tầng dưới tôn thờ tượng Ðức Phật Thích Ca cao 1,6m trên bảo toạ cao hơn 2m. Chung quanh tường chánh điện trưng bày một số tranh vẽ về cuộc đời Ðức Phật Thích Ca và một số chuyện tiền thân. Một đại hồng chung nặng cỡ 7 tạ dặt ở tay trái. Cách bảo tháp khoảng 10m về hướng đông là cổng tam quan không mái có biển đắp nổi dòng chữ: SAMÀDHIVARAVIHÀRA và tên chùa bằng tiếng Việt: Thiền Lâm tự.
Sau lưng chánh điện là thiền thất của Hoà thượng và phòng khách (nay làm nơi thờ phụng y bát, di ảnh Hoà thượng). Tiếp đó là một dãy Tăng xá nhỏ được xây cất, chắp nối thêm từ năm 1965 – 1994. Một dãy Tăng xá mơiỳ được xây dựng vào năm 1998 – 1999 nằm về hướng Tây. Trai đường và cũng là linh đường nằm giáp góc của hai dãy Tăng xá.
Sau khi Hoà thượng Hộ Nhẫn viên tịch, người đứng ra đảm nhiệm công việc giám tự hiện nay và trụ trì tương lai là Thượng tọa Hộ Tịnh. Ngôi Tam Bảo này mới chỉ có một đời trụ trì là Hoà thượng Hộ Nhẫn.
Với vị trí địa lý tự nhiên thuận lợi phong cảnh u tịch, thoáng mát, nhiều cây cao bóng cả, môi trường sinh thái rất tốt chùa Thiền Lâm là điểm thu hút khách thập phương và Phật tử các giới. Ở đây, không khí trong lành, tĩnh lặng rất phù hợp cho những bậc chân tu dừng chân để hành đạo và xiển dương Giáo pháp. Du khách đến đây tham quan, viếng chùa lễ Phật được hưởng không khí an lành, có thể quên đi những tháng ngày mệt nhọc và phiền não.
Phương Vị: Nam Đẩu Tinh
Tính: Dương
Hành: Kim
Loại: Quyền Tinh, Dũng Tinh
Đặc Tính: Uy quyền, sát phạt
Tên gọi tắt thường gặp: Sát
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 7 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Miếu địa ở các cung Dần, Thân, Tý, Ngọ.
Vượng địa ở các cung Tỵ, Hợi.
Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi.
Hãm địa ở các cung Mão, Dậu, Thìn, Tuất.
Ý Nghĩa Thất Sát Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo:
Sao Thất Sát dù đắc địa hay hãm địa thì thân hình nở nang, hơi cao nhưng thô xấu, da xám hay đen, mặt thường có vết, mắt to và lồi.
Tính Tình:
Sao Thất Sát ở cung miếu địa, vượng địa, đắc địa, vì là sao võ nên người can đảm, uy dũng, có oai phong, tánh nóng nảy, đôi khi hiếu thắng, nên hay bất mãn, phá ngang. Tánh mạnh bạo, cố chấp, ít chịu thua ai, nên dễ cô độc, thích quyền lực, ưa được người trọng vọng, có tài chỉ huy, dứt khoát, biết quyền biến.
Sao Thất Sát ở cung hãm địa cũng là người can đảm có oai phong, tánh nóng nhưng rất thâm, đôi khi độc ác, tàn nhẫn, mưu sâu, có óc độc tài, nhiều thủ đoạn, cô độc.
Tài Lộc Phúc Thọ:
Sao Thất Sát đắc địa: Được hưởng phú quý. Nhất là đối với bốn tuổi Giáp, Canh, Đinh, Kỷ gặp Thất Sát thủ mệnh ở Dần, Thân thì rất phú quý. Các tuổi khác thường gặp nhiều khó khăn, thăng trầm.
Người nữ thì tài giỏi, can trường đảm lược, được phú quý. Nhưng sao Thất Sát không mấy tương hợp với phụ nữ, cho nên dù đắc địa thì cũng gặp nhiều bất hạnh trong gia đạo như: muộn đường hôn phối, hay hình khắc, chia ly...
Sao Thất Sát nếu gặp sao xấu và nhất là sát tinh, dù đắc địa cũng đưa đến nhiều nghịch cảnh như:
Có nhiều bệnh tật.
Thường bị tai nạn khủng khiếp vì súng đạn.
Thường bị bắt bớ, hình tù.
Giàu sang cũng không bền.
Có giàu sang cũng giảm thọ.
Tóm lại, sao Thất Sát dù đắc địa cũng không đảm bảo công danh, tài lộc hay phúc thọ dồi dào hoặc lâu dài hoặc vẹn toàn nếu gặp phải hung sát tinh khác. Đặc tính của sao này là uy dũng, nhưng cũng hàm chứa nhiều bất lợi, hiểm nguy ẩn tàng.
Tai nạn và bệnh tật xảy ra đối với các trường hợp Thất Sát hãm địa, hoặc Thất Sát gặp sao xấu và nhất là sát tinh. Thường gây bất lợi về công danh, tài lộc, phúc thọ như:
- Cô độc, khốn khó, phiêu bạt nơi xa quê hương, bệnh nan y, bị ngục tù, bị tai nạn khủng khiếp, yểu tử.
Sao Thất Sát, Tử Vi ở Tỵ: Phú quý, uy quyền. (Thất Sát ở đây được ví như gươm báu của nhà vua).
Sao Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung ở Sửu Mùi, Mệnh Ất, Kỷ, Âm: về nam là anh hùng quán thế, can đảm, thao lược.
Sao Thất Sát, Thiên Hình đồng cung hay hội chiếu: Liêm chính, ngay thẳng, chính trực, vô tư, hiển đạt về nghiệp võ, rất uy nghi lẫm liệt, nhưng tính nóng nảy khiến thiên hạ phải khiếp sợ.
Sao Thất Sát, LiêmTrinh ở Sửu, Mùi: Chết ở ngoài đường vì tai nạn xe cộ hay vì dao súng.
Sao Thất Sát hãm địa (hay Phá Quân hãm địa): Tha phương lập nghiệp, làm nghề nhưng không tinh thục.
Sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, nữ ở cung Mệnh tuổi Tân, Đinh gặp Văn Xương: Góa bụa, nghịch cảnh vì gia đạo, làm lẽ, sát phu, muộn chồng.
Sao Thất Sát gặp Tứ Sát (Kình, Đà, Linh, Hỏa): Bị tật, chết trận.
Sao Thất Sát, Kình ở Ngọ: Chết vì đao súng, không toàn thây nhất là đối với tuổi Bính, Mậu. Ngoại lệ đối với hai tuổi Giáp, Kỷ.
Sao Thất Sát ở cung Thân: Yểu.
Sao Thất Sát hãm gặp Hỏa Kình: Nghèo, làm nghề sát sinh.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phụ Mẫu:
Có sao Thất Sát ở Cung Phụ Mẫu thì bao giờ cha mẹ cũng bất hòa. Nếu không cha mẹ và con cũng không hạp tính nhau.
Sao Thất Sát tại Dần, Thân: Cha mẹ quý hiển, sống lâu.
Sao Thất Sát tại Tỵ, Ngọ: Cha mẹ khá giả, nhưng sớm xa cách một hai thân.
Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Cha mẹ túng thiếu, vất vả. Gia đình ly tán.
Sao Thất Sát, Liêm Trinh tại Sửu, Mùi: Cha mẹ nghèo khổ, xung khắc, khó sống chung với con cái.
Sao Thất Sát, Tử Vi tại Tỵ, Hợi: Cha mẹ phú quý nhưng bất hòa. Con thường không hợp tính với cha mẹ. Gia đình ly tán.
Sao Thất Sát, Vũ Khúc tại Mão, Dậu: Cha mẹ vất vả hay mắc tai ương. Nếu không cũng phải mang tật bệnh, hay đau yếu.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phúc Đức:
Ở Triều đẩu và Ngưỡng đẩu: Đắc phúc nhưng phải ly hương lập nghiệp. Họ hàng khá giả về võ nghiệp, nhưng ly tán nếu ở Tý, Ngọ.
Sao Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Phải ly hương lập nghiệp mới thọ. Họ hàng danh giá, hiển đạt về võ nhưng tha phương.
Thất Sát, Liêm Trinh hay Thất Sát, Vũ Khúc hay Thất Sát ở Thìn, Tuất: Phúc đức không được tốt, xa gia đình, xa họ hàng, lao tâm khổ trí, họ hàng ly tán, nghèo.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Điền Trạch:
Sao Thất Sát đóng trong cung Điền Trạch thường gây bất lợi về điền sản, hoặc chậm có của, hoặc không có di sản, không hưởng di sản, hoặc phải bán điền sản, hoặc phải bị mất điền sản (truất hữu), hoặc phải tự lập mới khá.
Sao Thất Sát tại Dần, Thân: Ít di sản. Nếu tự lập mới dồi dào.
Sao Thất Sát tại Tý, Ngọ: Mua vô bán ra thất thường, phá di sản; tự lập thì mới bền vững, tạo lập nhiều nơi.
Sao Thất Sát, Tử Vi: Di sản nhiều nhưng phá sản.
Sao Thất Sát, Liêm Trinh: Chậm điền sản, vất vả buổi đầu. Sau về già mới có nhà cửa.
Sao Thất Sát, Vũ Khúc, hay Thất Sát ở Thìn Tuất: Không điền sản, rất ít điền sản, nhà nhỏ lúc về già.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Quan Lộc:
Sao Thất Sát tại tại Dần, Thân: Có uy quyền, thành công trong những việc khó khăn, khắc phục được nhiều trở ngại, tuổi trẻ tuy có trở ngại chút ít, hoặc phải thay đổi, nhưng lớn tuổi thì lại thành công, có sự nghiệp, được người nể trọng, có tay nghề khéo, hoặc có thú vui, thưởng thức đặc biệt.
SaoThất Sát tại Tý, Ngọ: Có nhiều tài năng, nhiều ngành nghề, nhưng thường hay gặp trở ngại, may rủi đi liền nhau.
Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Công danh dễ gặp rủi ro không lâu dài, hay gặp tai ương, nay đây mai đó.
Sao Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung: Làm ngành nghề quân sự, tư pháp, kỹ thuật, công nghệ thành danh, nhưng không bền.
Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Thành công trong công danh sự nghiệp, nhưng phải đi xa mới tốt. Đường công danh thời tuổi trẻ lên xuống thất thường, hạp ngành nghề quân sự, kỹ thuật, công kỹ nghệ, thầu khoán, xây dựng, địa ốc.
Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Càng lớn tuổi thì công danh càng lớn, có uy quyền.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Thiên Di:
Sao Thất Sát tại Dần, Thân hoặc Tử Vi đồng cung: Hay gặp quý nhân giúp đỡ, được nhiều người tôn phục, kính nể, ở gần các nhân vật quyền thế.
Sao Thất Sát tại Tý, Ngọ: Được nhiều người người nể sợ và tin phục. Thường gần nơi quyền quý nhưng may rủi đi liền nhau, dễ bị tai nạn, chết xa nhà.
Vũ Khúc, Thất Sát đồng cung: Được người tin phục, nhưng hay bị nạn, bị nạn chết ở xa nhà.
Liêm Trinh đồng cung: Ra ngoài bất lợi, hay gặp tai nạn giữa đường.
Sao Thất Sát tại Thìn, Tuất: Ra ngoài bất lợi, chết xa nhà.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tật Ách:
Thất Sát vốn là một hung tinh dù đắc địa mà đóng ở Tật Ách thường gây bất lợi. Có Thất Sát ở Cung Tật Ách, thì lúc nhỏ hay đau yếu, ăn uống kém.
Sao Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Bộ máy tiêu hóa xấu, thường bị trĩ, nếu không thì chân tay bị thương tích.
Sao Thất Sát, Không Kiếp: Bị ho lao, phổi yếu, sưng phổi có mủ.
Sao Thất Sát, Hóa Kỵ, Đà La: Bệnh tật ở tay chân.
Sao Thất Sát đi vơí Hao, Mộc, Kỵ: Bệnh ung thư.
Tùy theo Thất Sát đi với bộ phận cơ thể nào thì nơi đó bị bệnh tật. Mức độ nặng nhẹ còn tùy sự hội tụ với sát hung tinh khác.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tài Bạch:
Sao Thất Sát ở Dần, Thân: Kiếm tiền dễ dàng nhất từ trung niên trở đi.
Thất Sát ở Tý, Ngọ: Tiền bạc thất thường, hoạch tài.
Sao Thất Sát, Tử Vi ở Tỵ: Dễ kiếm tiền, dễ làm giàu.
Thất Sát, Liêm Trinh đồng cung: Tiền bạc thất thường, khi có khi hết nhưng không thiếu, chậm giàu.
Sao Thất Sát, Vũ Khúc đồng cung: Vì Vũ Khúc là sao tài nên lập nghiệp được, nhưng tự lực, vất vả buổi đầu.
Thất Sát ở Thìn, Tuất: Tiền bạc tụ tán thất thường nhưng hết rồi lại có.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Tử Tức:
Sao Thất Sát ở Cung Tử Tức luôn là sự bất lợi về đường con cái, vì hiếm con, hoặc vì con chết, con khó nuôi, có ám tật, muộn con, con bệnh tật, xa con. Nếu không như vậy thì có con hai dòng, con nuôi, con lai. Trừ phi ở Dần, Thân: thì được ba con, khá giả, quý tử.
Thất Sát tại Tý, Ngọ: May mắn lắm mới có hai con.
Thất Sát tại Thìn, Tuất: sinh nhiều nuôi ít. May mắn lắm mới có một con.
Tử Vi đồng cung: nhiều nhất là ba con, rất khó nuôi. Về sau thường xa cha mẹ.
Liêm Trinh đồng cung: sinh nhiều nuôi ít, rất hiếm con.
Vũ Khúc đồng cung: cô đơn, hiếm con.
Ý Nghĩa sao Thất Sát Ở Cung Phu Thê:
Có bốn vị trí rất hay cho Thất Sát. Đó là bốn cung Dần, Thân, Tý, Ngọ. Ở Dần, Thân, gọi là Thất Sát triều đẩu, ở Tý Ngọ gọi là Thất Sát ngưỡng đầu. Bốn vị trí này bảo đảm phú quý tột bậc.
Sao Thất Sát ở Cung Phu Thê thì người hôn phối thường là con trưởng, đoạt trưởng, lấy người khác chủng tộc, hoặc có sự chắp nối. Hạnh phúc gia đình ít khi được trọn vẹn, hay bất hòa, xung đột, hoặc phải có sự xa cách một thời gian mới sống chung, tái hợp. Nếu không như vậy thì số cô độc, góa bụa, người hôn phối hay gặp tai nạn, có ám tật.
Sao Thất Sát ở Dần, Thân: nên muộn đường hôn phối. Vợ hay chồng đều có tài năng, đảm đang, danh giá, vợ hay ghen, chồng nóng nảy.
Sao Thất Sát ở Tý, Ngọ: Vợ hay chồng tuy có danh giá nhưng hay khắc khẩu, dễ chia tay. Nên muộn lập gia đình mới tránh được.
Sao Thất Sát ở Thìn, Tuất: Hôn nhân hay gặp trắc trở, khó khăn, hoặc dễ chia tay, nhiều lần lập gia đình.
Thất Sát, Tử Vi đồng cung: Phải trắc trở buổi đầu, về sau mới tốt, phải muộn lập gia đình mới phú quý. Bằng không phu thê gián đoạn, hình khắc.
Vũ Khúc đồng cung: Vì Vũ Khúc là sao tài nên hai vợ chồng đều có khả năng lập nghiệp được, nhưng phải tự lực, vất vả buổi đầu.
Thất Sát, Liêm Trinh: Thường không được tốt cho lắm như muộn lập gia đình, duyên nợ khó khăn, trắc trở, chắp nối, góa bụa. Duyên nợ dễ gặp cảnh lập gia đình nhiều lần, hoặc chắp nối, lấy nhau lúc còn nghèo khó, hoạn nạn, bị hình khắc gia đạo tức là bất hòa, xa cách.
Thất Sát, Hóa Quyền: Người hôn phối có bản lĩnh, uy quyền, hoặc có danh giá mà mình phải nể, đôi khi có óc độc tài, chuyên quyền, nóng tánh, khó tánh.
Sao Thất Sát Khi Vào Các Hạn:
Nhập hạn ở vị trí Triều đẩu (Dần, Thân), Thất Sát rất hưng vượng về nhiều mặt tài, quan, gia đạo.
Gặp sát hay hung tinh hoặc khi hãm địa thì hay bị tai nạn, hình tù, súng đạn.
Sao Thất Sát, Liêm Trinh, HỏaTinh: Cháy nhà (nếu Hạn ở Điền càng chắc chắn).
Thất Sát Kình Hình ở Ngọ: Ở tù, chết.
Sao Thất Sát Hình Phù Hổ: Ở tù, âu sầu.
Thất Sát Phá Liêm Tham, Không Kiếp Tuế Đà: Bị kiện tù, chết (nếu đại hạn xấu).
Sao Thất Sát, Hao: Đau nặng.
Thất Sát, Hóa Kỵ: Bị bệnh, hay mang tiếng xấu.
Nếu bạn là người thích tiếp đãi, tụ tập bạn bè, bộ sofa lớn làm từ gỗ hàng và đệm đơn giản sẽ khiến bạn ưng ý. Bộ gối dựa màu sắc tươi vui sẽ tăng sự sinh động cho căn phòng.
![]() |
Sự kết hợp giữa miếng gỗ đơn giản và các thanh sắt hoặc ống nước tạo nên giá để đồ, kệ đặt tivi mang phong cách công nghiệp. |
![]() |
Từ những thùng hàng, bạn có thể xếp đặt thành kệ để đồ hai mặt và làm vách ngăn tương đối giữa phòng khách và bếp ăn. |
![]() |
Băng ghế tưởng chừng lỗi mốt lại biến thành bàn trà cho không gian tiếp khách nhỏ. |
![]() |
Những con tiện gỗ mang lại nét cổ điển cho góc bày đồ trang trí dọc lối đi. |
![]() |
Nếu cần một bàn nhỏ cạnh sofa để ly rượu hoặc bình cây trang trí, bạn có thể tự đóng với vài miếng gỗ nhỏ. |
![]() |
Kiểu đôn không đắt tiền nhưng hợp làm bàn để đồ trong phòng khách hoặc nơi đọc sách. |
![]() |
Kệ để đồ ba tầng tiện lợi, nhỏ gọn có thể đặt được ở nhiều vị trí khác nhau. |
![]() |
Từ chiếc ngăn kéo cũ kỹ, bạn có thể chế lại thành chiếc tủ đồ hoặc đôn ngồi mang phong cách cổ điển. |
![]() |
Những ngăn kéo bất ngờ ẩn dưới kệ để đồ làm từ gỗ tái chế. |
Mai Vân (Theo Amazing Interior Design)
uột. Bồn cầu trong nhà vệ sinh cũng đại diện cho Nhất Bạch tinh. Nếu phần chứa nước của bồn cầu mở nắp thì có nghĩa có một chậu nước, tác dụng của nó tương tự như bể cá.
Nếu ngũ hành không cần Thuỷ thì tốt nhất nên đậy nắp của nó lại. Bồn tắm và vòi hoa sen cũng có khác biệt rất lớn. Vòi hoa sen đại diện cho việc tích trữ nước, còn vòi hoa sen thì đại diện cho việc nước đến rồi lại đi. Cá cũng đại diện cho Thuỷ, người khuyết Thuỷ nên thường xuyên ăn cá hấp và cá sống. Người không cần Thuỷ có thể ăn cua. Những thức ăn này có thể Nhất Bạch tinh biến mất.
Trong phong thuỷ có câu “Khảm cung tắc thì tai điếc”. Câu này có nghĩa là: Nếu một người nào đó tự dưng tai không nghe thấy gì thì nhất định cung Khảm ở phía Bắc của nhà anh ta xảy ra chuyện, về vị trí thì cần chú ý hướng Bắc, tiếp đó là Phi Tinh bàn phải tìm ra vị trí hiện tại của Nhất Bạch tinh. Nếu người đó ngủ ở vị trí Nhất, Ngũ Phi Tinh mà Nhất Bạch là Thuỷ, Ngũ Hoàng là Thổ, Thổ khắc Thủy. Thế là chúng ta đã tìm thấy nguyên nhân khiến tai của người đó không nghe thấy gì. Tóm lại, khi xuất hiện vấn đề liên quan đến tai, thận, ruột thi chúng ta đặc biệt lưu ý đến Nhất Bạch.
Nếu chủ nhân của một ngôi nhà nào đó là người phụ nữ đang mang thai thì chúng ta phải chú ý đến Nhị Hắc. Bởi vì Nhị Hắc chuyên cai quản thai phụ. Nếu người nào đó bị rắc rối chốn quan đình liên miên thì phải lưu ý đến Tam Bích. Nếu cha mẹ muốn con cái mình chăm lo học hành thì phải quan tâm đến Phi Tinh Tứ Lục. Đây là một cách xem của phong thuỷ.
Tóm lại, bất cứ bệnh nào liên quan đến Thuỷ thì đều xuất phất từ sao Nhất Bạch.
![]() |
![]() |
Tử Vi thường chỉ nhấn mạnh đến các cung và xem nó như yếu tố căn bản của Tử Vi. Đi sâu vào chi tiết, ta thấy trong mỗi cung đều có cả chính tinh lẫn phụ tinh. Các sao này tác hóa lẫn nhau theo quy luật tương quan về âm dương, ngũ hành theo ảnh hưởng chế hóa lẫn nhau về ý nghĩa. Vì vậy, đi sâu đến các sao trong một cung, luận đoán Tử Vi càng phức tạp hơn. Chẳng những hàm số này phải quan tâm đến xử chế hóa trên 2 bình diện âm dương, ngũ hành và ý nghĩa các sao mà còn phải lưu ý đến số lượng các sao tốt xấu trong cung. Người lý giải phải nhận định về nhiều mặt của một sao.
Tính phức tạp của Tử Vi còn được thể hiện qua sự phức tạp trong cách tiếp cận và cách lý giải của cung Phúc Đức. Bản thân cung Phúc Đức cũng có một cách lý giải riêng và làm tăng cường hay chế giảm sức mạnh cũng như ý nghĩa của tất cảc các sao trong các cung.
Tính phức tạp này còn do đặc trưng về con người, sinh vật không đơn giản trong cấu tạo, trong sự phản ứng. Nó có quá nhiều nhân tố cấu tạo. Nó cũng không bao giờ phản ứng theo một căn bản nào. Có khi lý trí lấn áp tình cảm, có khi tình cảm lại có ưu thế hơn, có người chẳng phản ứng theo căn bản nào mà chỉ xu hướng theo dư luận.
Do đó, Tử Vi không thể chỉ đơn giản là một phương pháp, một công thức, một đồ biểu, không đo lường được về lượng cũng như về phẩm một cách chính xác. Chính vì vậy làm cho Khoa Tử Vi một cách rất tương đối.
h của cô ấy. Nhân Mã nhìn thì luôn vui tươi, cởi mở, nhưng đừng nghĩ rằng cô ấy sẽ dễ theo đuổi. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những chòm sao nữ thích làm khó người theo đuổi mình trong bài viết sau đây để biết thêm chi tiết nhé!
Nội dung
Những cô gái Xử Nữ, đặc biệt là những cô gái mệnh Kim cung Xử Nữ hay vô tình làm khó đối phương. Mặc dù thật ra cô ấy cũng thích đối phương nhưng vẫn sẽ giữ khoảng cách với họ. Thứ nhất là bởi cô ấy cho rằng, đối với con gái, cẩn thận là rất quan trọng. Thứ hai, cô ấy cho rằng không nên để đối phương thành công quá dễ dàng. Vì nếu như vậy thì bản thân sẽ chẳng còn giá trị gì trong mắt đối phương.
Chính vì thế, các cô gái Xử Nữ sẽ luôn cố gắng giữ khoảng cách với những người theo đuổi mình. Ngoài ra, suy nghĩ của những cô gái Xử Nữ cùng rất khác thường và là người theo đuổi chủ nghĩa hoàn hảo. Khi cô ấy cảm thấy đối phương vẫn chưa thực sự hoàn hảo, cô ấy sẽ tạo ra rất nhiều cửa ải để thử thách. Cô ấy cho rằng nếu đối phương có thể kiên trì đến cùng thì mới thể hiện được thành ý với mình. Khi ấy, cô ấy mới đồng ý nhận lời.
Nữ Song Tử làm khó đối phương đơn thuần là do sự tinh nghịch của cô ấy. Song Tử là một cô gái thông minh lanh lợi, làm sao họ có thể để bạn thành công một cách dễ dàng được chứ? Vì thế nếu bạn muốn theo đuổi Song Tử, trước hết nên luyện trái tim mình cho thật khoẻ. Bởi lẽ có thể hôm qua cô ấy vẫn vui vẻ, mặt mày hớn hở khi ở bên bạn, nhưng hôm nay lại có thể mặt u ám, phớt lờ bạn. Cô ấy mưa nắng thất thường, khó mà đoán trước được.
Cho dù không có chuyện gì cô ấy cũng muốn trêu đùa một chút, làm cho tim gan của người theo đuổi mình thấp thỏm không yên, còn mình thì lại trốn vào một góc mà cười thầm. “Ai bảo bạn muốn thử thách với độ khó cao chứ? Thử thách luôn có giá của nó. Muốn thành công thì phải có nghị lực để kiên trì và khả năng chống lại áp lực lớn”.
Nếu bạn có tính quyết đoán cao, khả năng phân tích nhạy bén, là người vô cùng nhẫn nại và muốn thử một thứ tình cảm cực kỳ mờ ảo thì hãy theo đuổi một nữ Thiên Bình. Cô ấy là người lúc nào cũng do dự, phân vân, lơ lửng, lúc nào cũng cảm thấy không chắc chắn.
Hơn nữa, cô ấy cũng rất hay có những suy nghĩ kỳ quặc, nhạy cảm. Có những lúc cô ấy lạnh nhạt với bạn hơn cả núi băng, có lúc lại bị cảm động bởi những hành động quan tâm nhỏ nhặt vô thức của bạn, hoặc có lúc cô ấy sẽ lập tức tuyệt giao với bạn chỉ vì bạn vừa ngoáy mũi. Cô ấy thật sự chưa bao giờ nghĩ đến việc làm khó ai, chỉ là vì cô ấy không có cảm giác an toàn và cũng rất dễ thay đổi mà thôi.
Đừng thấy nữ Nhân Mã nhìn thì luôn vui tươi, cởi mở, tùy tiện, dám nói dám làm, mà nghĩ rằng cô ấy sẽ dễ theo đuổi. Nhầm, thế thì bạn đã nhầm to rồi! Thật ra, những cô gái Nhân Mã là người luôn giữ vững quan điểm của mình. Cô ấy rất quan tâm đến việc đối phương liệu có phải là mẫu người mà mình cần hay không. Nếu như không phải, bạn có bỏ thêm bao nhiêu công sức, thời gian và tâm tư đi chăng nữa thì cũng vô ích.
Cho dù là bạn có dùng hết các chiêu trò mánh khóe của mình thì cô ấy cũng sẽ phá gỡ từng cái một. Thậm chí, cô ấy còn chủ động xuất chiêu, cố gắng nghĩ cách để bạn biết khó mà lùi. Không giống với Thiên Bình, đối mặt với các cô gái Nhân Mã, bạn càng kiên trì chịu đựng thương vong thì sẽ lại càng thất bại thảm hại hơn.
Thông thường, nếu nữ Bò Cạp nhận lời hẹn hò với bạn thì có nghĩa bạn đã thành công được một nửa. Nhưng nếu cô ấy không có tình cảm với bạn thì phản ứng của cô ấy cũng sẽ rất kiên định. Nếu cô ấy không thích bạn, cô ấy thà ngồi ở nhà ôm bắp rang bơ xem phim truyền hình dài tập chứ không thèm ra rạp xem phim với bạn.
Cô ấy sẽ hành động rất nhẫn tâm với những người theo đuổi mà mình không thích. Nếu đã không thích mà bạn vẫn bám lấy, thì cho dù bạn có chân thành đến thế nào, cô ấy vẫn coi bạn là nỗi phiền phức. Cô ấy sẽ nghĩ cách để bạn phải dừng bước, tránh lãng phí thời gian của hai bên. Vì thế, Bò Cạp cũng khó tránh khỏi top những cô gái thích làm khó những người theo đuổi mình.
Trên thực tế, quan niệm “Trai Đinh, Nhâm, Quý thì tài; Gái Đinh, Nhâm, Quý qua hai lần đò” gây không ít phiền phức, hệ lụy cho nhiều người. Từ chuyện kết hôn phải dẫn dâu hai lần đến chuyện các cặp vợ chồng chọn năm sinh cho con, những mong sinh được con trai trong năm “lợn vàng” (Đinh Hợi), “rắn vàng” (Quý Tỵ) để con có cuộc sống an nhàn, sung sướng sau này. Thế nhưng, theo các chuyên gia, nếu không cẩn thận sẽ “xôi hỏng bỏng không”.
“Theo kết quả thống kê thì phụ nữ có can Đinh, Nhâm, Quý thường không mấy suôn sẻ chuyện tình duyên. Chẳng hạn, nữ tuổi Đinh Sửu thường trăng hoa, Đinh Mão thì nhiều đời chồng, Nhâm Dần xung khắc hoặc cách trở tình duyên, Nhâm Tuất khắc phu, Quý Tỵ nhiều đời chồng.
Trong khi nam giới ở những tuổi đó thường là tốt đẹp. Nam tuổi Đinh Sửu sẽ sáng suốt, Đinh Mão mưu trí, Nhâm Dần có chức quyền, Nhâm Tuất vinh hiển, Qúy Tỵ thông minh, dễ thăng quan.
Can Đinh là biểu tượng của mùa hạ, vạn vật đều chín. Đinh là thừa Bính tượng trưng tâm người. Nó là biểu hiện của sự tráng niên, nội lực sung mãn. Theo sách Cổ ngữ, dịch lý, Đinh có tính chất: Tính mịn màng, thuận sắc màu hồng lửa. Vị: Tê lưỡi, khô cổ. Thanh: Trong trẻo. Thể: Nhọn, các tính hay dương lên. Về Âm – Dương ngũ hành thuộc Âm – Hỏa. Gặp thời có thể tiêu tan được hung tàn, bạo ngược, làm động lòng nước mắt muôn người, biết được cơ trời vận nước gian nguy. Ngược lại, nếu không gặp thời sẽ luôn giữ trong lòng sự u sầu buồn bã, khổ não.
Can Nhâm là thừa Tân, tượng trưng gối người. Theo sách Cổ ngữ, dịch lý thì Nhâm có chất háo sắc, đa tình. Vị: Mặn, sắc huyền đen. Thanh cung ấm, thể tròn và động có hình vằn khúc khuỷu. Về Âm – Dương ngũ hành thuộc Dương – Thủy. Gặp thời vận thì lợi cho người, ích cho vật. Không gặp thời thì hại người hiền. Tính tình bề ngoài thì mềm mỏng còn trong thì xảo trá, gian hùng. Nên lựa thời để cùng buồn, chớ nên cùng vui.
Can Quý tượng trưng cho thủy từ bốn phương chảy vào lòng đất. Nó cũng hàm ý biểu tượng sự thai nghén đã mãn hạn. Quý thừa Nhâm tượng trưng cho chân người. Còn theo các sách Cổ ngữ, dịch lý giải thích thì Qúy có chất nặng, âm tính, trầm hậu (dày, sâu) nhưng bên trong có sự yếu ớt. Sắc: Huyền, đen. Thanh: Cao, sáng. Thể: Khúc khuỷu. Về Âm – Dương ngũ hành thuộc Âm – Thủy. Gặp thời, đắc vận thì theo rồng mà biến hóa. Nếu sa cơ lỡ vận thì theo người đi ăn mày. Tính là cảm hứng, ngay thẳng. Sách Cổ văn có ghi: “Biết thì trừ được tai nạn, giải được sự phân vân hồ đồ. Không biết thì sa vào sự gian trá, tối tăm, hay soi coi sự nhơ nhuốc”.
Ông Vũ Quốc Trung, người có nhiều năm nghiên cứu về tử vi, kinh dịch cho rằng, việc dân gian quan niệm như vậy không phải là không có cơ sở.
Ông lý giải, lĩnh vực cổ học phương Đông với dự báo dựa trên ba tiên đề. Đó là Âm dương: Tất cả mọi sự vật hữu hình lẫn hiện tượng vô hình luôn tồn tại hai mặt đối lập là âm và dương. Chẳng hạn, nữ là âm, nam là dương, mặt trăng là âm, mặt trời là dương… Chỉ khi có âm có dương, âm dương hòa hợp thì sự vật, hiện tượng ấy mới tồn tại. Tiên đề thứ hai là Ngũ hành. Theo đó, vật chất được tạo nên từ 5 loại gồm kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; ngũ hành có tương sinh, tương khắc. Tiên đề thứ ba là bát quái.
Ông Trung cho biết thêm: Có 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Các can và chi này cũng không nằm ngoài 3 tiên đề trên, có âm và dương (với can thì Giáp là dương, Ất là âm, Bính – dương, Đinh – âm… cứ thế xen kẽ. Với chi cũng tương tự, Tý – dương, Sửu – âm…). Các can và chi kết hợp với nhau tạo thành Lục thập hoa giáp, cứ 60 năm lại lặp lại một lần, gọi là hệ Can chi.
“Các can và chi đó đều được mã hóa, mang ý nghĩa riêng và có những nguồn năng lượng không giống nhau. Mỗi người được sinh ra trong một ngày, giờ, tháng, năm cụ thể. Thế nên, vào thời khắc đứa trẻ ra đời, năng lượng từ tự nhiên sẽ tác động tới chính đứa trẻ đó, từ đó ảnh hưởng đến tính cách, số phận. Chẳng thế mà dân gian có câu “Trai mùng một, gái hôm rằm. Nuôi thì nuôi vậy nhưng căm dạ này”. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà người ta đúc kết thành câu “Trai Đinh, Nhâm, Quý thì tài; Gái Đinh, Nhâm, Quý qua hai lần đò”, ông nói.
Ông Nguyễn Hoàng Điệp bổ sung thêm: Hệ Can chi này xuất hiện từ đời nhà Thương bên Trung Quốc. Trước thời Đông Hán, vào khoảng năm 103 Trước Công nguyên, người ta chỉ dùng hệ Can chi để ghi ngày. Đến thời Hán về sau mới dùng hệ Can chi để ghi năm, tháng, ngày, giờ. “Do đó, rõ ràng can chi có quyết định tới tính cách, số mệnh của mỗi con người. Nó hoàn toàn mang yếu tố của khoa học chứ không phải là trò mê tín!”, ông Điệp nhấn mạnh.
Theo ông Nguyễn Hoàng Điệp, Giám đốc Trung tâm Dịch thuật, Dịch vụ văn hóa và Khoa học – Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, dựa trên những kinh nghiệm đúc kết trong dân gian, người ta thấy rằng phụ nữ mang ba can Đinh, Nhâm, Quý đều là những người có cá tính mạnh mẽ, quyết đoán, thông minh, nhanh nhẹn. Trong khi đó, theo quan niệm truyền thống “xuất giá tòng phu”, người phụ nữ khi lập gia đình thì phải nhất nhất theo chồng. Vậy nên, suy luận logic thì phụ nữ có cá tính mạnh mẽ sẽ có tính tự lập cao, khó có thể răm rắp theo chồng được. Thế nên, chuyện họ trắc trở về đường tình duyên cũng là điều dễ hiểu.
Còn ông Vũ Quốc Trung bổ sung thêm: “Sở dĩ người ta nói gái Đinh, Nhâm, Quý qua “hai lần đò” vì ngày xưa quan niệm phụ nữ quan trọng nhất là chồng con. Còn đàn ông thì sự nghiệp là quan trọng hơn cả. Vậy nên, người xưa lấy chuyện “hai lần đò” ra để chỉ sự xui xẻo của phụ nữ.
Ông Vũ Quốc Trung nhấn mạnh: “Câu ca trên chẳng qua là sự suy luận logic theo cổ học chứ thực tế không hẳn vậy. Nó không áp dụng cho tất cả những ai sinh ra ở ba can đó (nam thì tài, gái thì “hai lần đò”) và chỉ mang tính ước lệ mà thôi”.
Nói về chuyện phải rước dâu hai lần với những người phụ nữ “cao số”, mang can Đinh, Nhâm, Quý khi kết hôn, ông Vũ Đức Huynh cho hay, đó chỉ là quan niệm dân gian, người ta làm thế để yên lòng thôi chứ không có căn cứ nào nói rằng nó sẽ hóa giải “cao số” cả.
“Mọi người không nên quá lệ thuộc vào quan niệm đó để chuốc phiền hà cho chính mình và con cháu mình. Nếu cô dâu, chú rể ở gần nhà nhau thì rước dâu hai lần còn có thể hợp lý chứ cách nhau tới ba, bốn trăm cây số làm sao mà thực hiện được? Chỉ tốn kém, mệt mỏi cho cả hai bên thôi”, ông nói.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
1. Chọn tên qua loa, tùy tiện
Tên gọi là đại diện của con người, thể hiện vị thế của người đó trong xã hội. Một cái tên đẹp sẽ góp phần tạo thuận lợi cho công việc, quan hệ giao tiếp cũng như thời vận của người đó. Vì vậy, khi đặt tên cho con, bạn cần phải suy xét thật kỹ nhiều phương diện, tuyệt đối tránh sự qua loa, tùy tiện.
![]() |
Không nên chọn tên qua loa |
2. Chọn tên có ý nghĩa tự cao tự đại một cách lộ liễu
Cái tên có nghĩa tự cao tự đại là biểu hiện của sự thiếu tế nhị trong việc bộc lộ cá nhân; thậm chí, đó còn là sự bất kính, khiếm nhã với người khác, dễ gây tâm lý phản cảm.
3. Chọn tên tầm thường, nông cạn
Một cái tên đẹp, dễ nhớ, giản dị hay cái tên mới mẻ, độc đáo đều không có chỗ cho sự tầm thường, nông cạn. Để tránh điều đó, bạn không nên dùng những tên nằm trong các đề tài đã trở nên sáo mòn (như phúc lộc tài, nhân thọ an khang…) hoặc lạm dụng thành ngữ, tục ngữ trong việc đặt tên.
4. Chọn tên thô tục
Không một ai muốn có cái tên thô tục để làm hành trang theo suốt cuộc đời mình. Vì vậy, bạn không nên để con cái mình mang theo điều bất như ý đó.
5. Sự bất hòa âm trong tương quan giữa tên, họ, đệm
Khi chọn tên cho con, bạn nên tránh những âm thiếu ngữ nghĩa hoặc có ngữ nghĩa không đẹp. Hơn nữa, bạn cũng cần chú ý tránh những những từ có thể gây phản nghĩa trong quá trình sử dụng để đặt tên.
6. Sự sơ suất
Nếu không suy xét cho thấu đáo trong việc đặt tên, bạn sẽ dễ vấp phải những sơ suất về mặt ngữ nghĩa của từ được chọn (do tính đa nghĩa của từ) và tạo ra những kết hợp không hay, không mang lại ý nghĩa tốt đẹp như mong muốn.
Theo Tên hay thời vận tốt
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Xông nhà, xông đất đầu năm (hay có nơi còn gọi là đạp đất) là phong tục lâu đời ở Việt Nam. Xuất phát từ quan niệm người Việt mình quan niệm rằng, ngày mồng Một, ngày đầu tiên của một năm, nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, may mắn thì cả năm sẽ được tốt lành, thuận lợi. Chính vì thế người khách đến thăm nhà đầu tiên trong năm mới cũng rất quan trọng. Ở trong miền Nam thường không câu nệ chuyện chọn người xông nhà thì phải, nhưng người miền Bắc và miền Trung thì rất quan trọng.
Cứ đến cuối năm, người lớn trong nhà thường để ý tìm xem những người nào vui vẻ, hoạt bát, gia cảnh hòa thuận êm ấm, có đạo đức và làm ăn phát tài (có người còn thêm điều kiện là hợp tuổi với chủ nhà) trong bà con, láng giềng để nhờ sang xông đất.
Người khách đến xông đất phải đến thăm sáng sớm ngày mùng Một (vì muốn là người khách đầu tiên), mang theo quà biếu như trái cây, bánh mứt và tiền lì xì cho trẻ con trong nhà. Chủ nhà, do đã sắp đặt trước, sẽ tiếp đón niềm nở và nhận những lời chúc tốt lành. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết chừng năm mười phút chứ không ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước. Người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới.
Ý nghĩa tục lệ xông đất ngày Tết
Ngày Tết Nguyên đán, nghĩ về tục xông đất đầu năm để càng cảm thông cho khát vọng muôn đời của nhân dân ta khi trời đất vào xuân: Khát vọng thịnh vượng, an khang, hạnh phúc! Có thể nói qua tục “xông đất” đầu năm này ta có thể thấy được khát vọng về sự thịnh vượng, an khang của người xưa khi bước sang năm mới. Từ mơ ước đó nên có nhiều gia đình cứ đóng chặt cửa buổi sáng mồng một Tết, đợi đến khi có người được xem là có thể đem may mắn đến mới chịu mở cửa nhà.
Người ta cho rằng việc xông đất có ảnh hưởng sâu sắc đến vận mệnh của gia chủ trong cả năm. Nếu được người xông đất tốt thì làm ăn nên nổi, mọi chuyện tốt lành; nếu gặp người xông đất xấu thì sẽ tậm tịt, khó khăn. Tốt và xấu ở đây được đánh giá là “duyên”, là “vía”. Thực ra “duyên”, “vía” này cũng liên quan tới cá tính, đạo đức từng người. Kinh nghiệm cho hay rằng: Những ai xởi lởi, thật thà, hồn nhiên, làm ăn phát đạt, con cái đông đủ (có trai, có gái), mặt mũi sáng sủa, thân hình đầy dặn, không có tang thì sẽ là người tốt duyên, tốt vía.
Cho nên có những gia đình đã cẩn thận, lo xa bằng cách ngầm ngỏ ý chào mời được với một người nào đó được xem là tốt vía để sáng mồng một họ đến xông đất xông nhà mình cho thật sớm. Nhưng lại có một điều là nếu mời nhau trước thì sẽ mất ý nghĩa - nó phải là trời xui đến, trời định sẵn sự tốt xấu cho từng nhà trong năm ấy chứ không thể theo nguyện vọng cá nhân của một ai.
Theo cùng thời gian, những phong tục tập quán xưa có nhiều thứ mất đi hoặc mờ dần cùng những thay đổi phát triển của cuộc sống hôm nay. Tục “xông đất” cũng vậy. Dĩ nhiên, người ta vẫn còn nói về nó, vẫn đi xông đất nhà bà con, bạn bè. Nhưng đa phần như một niềm vui nho nhỏ ngày Tết chứ không nặng chuyện may rủi, hậu vận như trước đây. Vì vậy cả người xông đất và nhà được xông đất đều thoải mái, nhẹ nhàng.
Gia chủ tiếp đón người xông đất như một vị khách quý, chúc tụng lại và mừng tuổi một món quà gọi là “lộc xuân” rồi mời khách cùng ăn tết với gia đình qua bữa tiệc đầu năm khá trịnh trọng.
Chọn người xông đất phù hợp.
Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuồi hợp tuổi với chủ nhà. Người xông đất phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đối với người dân lao động thì đơn giản hơn nhiều: Người được chọn xông đất phải khỏe mạnh, tốt tính, gia cảnh khấm khá, hoà thuận.
Cách xông đất sau giờ giao thừa cũng có khi để người thân trong gia đình tự xông lấy. Người ta chọn một người dễ vía ra đi từ lúc chưa hết giờ trừ tịch và dự lễ tại đình chùa, sau đó xin hương hái lộc. Lúc trở về nhà đã bước sang năm mới, người này tự “xông nhà”, mang sự tốt lành quanh năm về cho gia đình theo quan niệm của ông bà xưa. Đi xông nhà như vậy tránh được sự nhờ vả kẻ khác.
Với người ngoài, thời gian xông nhà tốt nhất vào buổi sáng mồng một Tết âm lịch. Người đi xông đất, ngoài những lời cầu chúc tốt đẹp dành cho gia chủ còn phải ăn mặc thật đẹp và mang theo một chút quà Tết. Quà ở đây không nhất thiết là quý giá, nhiều hay ít, mà chỉ có tính cách tượng trưng và phụ thuộc vào mức độ quen biết gia chủ thân hay sơ. Nó có thể là một chai rượu Tết, một gói trà ngon, một chiếc bánh chưng hay một phong bánh ngọt.
Xông đất xong còn mừng tiền, chủ yếu là cho trẻ con gia chủ. Sau đó chủ nhà cũng hoan hỉ chúc tụng lại vị khách xông nhà và thết đãi một vài món ăn hay thức uống. Chuyện ăn uống này cũng chỉ mang tính tượng trưng cho có lệ, như ăn vài miếng bánh, miếng mứt, uống một ly rượu hay chén trà. Mọi người sẽ cùng nhau nhấm nháp hương xuân đầu năm trong không khí đầm ấm và tràn trề hy vọng mới. Nhà nào đã có người đến xông đất rồi thì việc tiếp khách trong ngày mồng một Tết không có ảnh hưởng gì đến gia chủ kể cả người tốt vía lẫn xấu vía.
Người xông nhà chúc Tết thường lưu lại nhà gia chủ trong khoảng 10-15 phút. Tùy nhà tùy người mà có lời chúc riêng. Nếu nhà có cha mẹ già thì chúc “Bách niên giai lão”, “tăng phúc tăng thọ”; nếu là người buôn bán thì mong “buôn may bán đắt”, “làm ăn phát đạt”, “làm ăn phát tài bằng năm bằng mười năm ngoái”; nếu gặp người làm việc Nhà nước thì chúc “thăng quan tiến chức” hoặc “lên chức lên lương”; gặp trẻ em thì mừng các bé “hay ăn chóng lớn”, “học hành đỗ đạt”. Lời chúc tụng này thường kèm theo bao đỏ để mừng tuổi và lì xì cho trẻ em, bạn bè, đồng nghiệp.
Người Việt thường tránh xông nhà người khác ngày mùng một Tết nếu trong gia đình mình có những chuyện không hay xảy ra trong năm qua. Các gia đình người Việt cũng rất kỵ những người có phẩm chất đạo đức không tốt, lười biếng xông nhà.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất >>>
Mỗi một tuổi ứng với một chất trong ngũ hành nên cũng có sinh khắc với tuổi khác. Nhân dịp xuân mới, mời các bạn thử tra cứu tuổi con giáp của mình để biết thêm một số thông tin thú vị và chọn người đến xông đất:
1- Người tuổi Tý: Tính nết bộc trực nhưng lời nói, cử chỉ rất cẩn thận, chặt chẽ, sống rất tiết kiệm. Dễ bị kích động nhưng tính tự chủ khá cao, ngoại giao khéo, thích nơi náo nhiệt.Tuổi này xung khắc với tuổi Ngọ và hợp với tuổi Sửu (bạn có thể mời người tuổi này đến xông nhà, tốt nhất là tuổi Tân Sửu hay Quý Sửu).
2- Người tuổi Sửu: Cần cù nhẫn nại, bảo thủ và quá thận trọng trong công việc. Bề ngoài họ mềm mỏng, chất phác và rất tôn trọng truyền thống, ưa kỷ luật, thẳng thắn, công minh, không thích dùng thủ đoạn và hay ghi chép sổ sách. Tuổi này xung với tuổi Mùi và hợp với tuổi Tý (bạn có thể mời người tuổi Bính Tý hoặc Mậu Tý đến xông nhà là tốt nhất).
3- Người tuổi Dần: Thích thể hiện năng lực, ưa phiêu lưu mạo hiểm, tính tập trung cao độ cho mục đích công việc nhưng cách sống lập dị và ưa hoạt động. Họ cũng là người có nhiều sáng kiến, ý diễn đạt sáng sủa, thích trang phục đẹp và cuộc đời gập ghềnh. Tuổi này xung với tuổi Thân và hợp với tuổi Hợi (bạn có thể mời người tuổi Quý Hợi hoặc Ất Hợi đến xông nhà là tốt nhất).
4- Người tuổi Mão: Ôn hòa, mềm mỏng, cử chỉ thanh lịch, nhã nhặn và có khiếu về khoa học xã hội và chính trị nhưng lại không ưa đấu tranh trực diện, thích an nhàn mặc dù rất thông minh, trí tuệ. Họ không quan tâm nhiều đến cuộc sống gia đình và rất tự tin vào khả năng của mình. Tuổi này xung với tuổi Dậu và hợp với tuổi Tuất (bạn có thể mời người tuổi Nhâm Tuất hoặc Giáp Tuất đến xông nhà là tốt nhất).
5- Người tuổi Thìn: Nóng nảy vội vã, nhiệt tình và ôm nhiều khát vọng quá cao. Họ thường coi mình là trung tâm vũ trụ nên hay tự cao, tự đại. Tuy nóng nảy, cứng rắn đôi khi võ đoán nhưng họ lại thẳng tính, không hay để bụng và không ưa sự ràng buộc.Tuổi này xung với tuổi Tuất và hợp với tuổi Dậu (bạn có thể mời người tuổi Đinh Dậu hoặc Kỷ Dậu đến xông đất đầu năm là tốt nhất).
6- Người tuổi Tỵ: Thường có thiên hướng về triết học hoặc tâm lý học. Họ không thích nghe ai khuyên bảo, luôn đa nghi và bất chấp mọi thủ đoạn để đạt mục đích. Họ rất thông minh nhạy bén và không chịu nhường ai vì những tham vọng riêng của mình. Tuổi này xung khắc với tuổi Hợi và hợp với tuổi Thân (bạn có thể nhờ những người tuổi Bính Thân hoặc Giáp Thân đến xông đất).
7- Người tuổi Ngọ: Phóng khoáng nhanh nhẹn và hay cả thèm chóng chán. Họ có tính độc lập cao, thích hoạt động thể chất, khá nóng nảy và cố chấp nhưng đôi khi tiền hậu bất nhất vì thiếu nhẫn nại. Tuổi này xung khắc với tuổi Tý và hợp với tuổi Mùi (bạn có thể nhờ người tuổi Đinh Mùi hoặc Ất Mùi đến xông nhà).
8- Người tuổi Mùi: Chính trực hiền lành, dễ cảm thông với người khác, yêu nghệ thuật và dễ tha thứ, nhưng họ cũng yêu tự do cá nhân, đa sầu đa cảm, sợ trách nhiệm nên ít khi dám quyết đoán việc gì, hay để lỡ cơ hội tốt. Tuổi này xung khắc với tuổi Sửu và hợp với tuổi Ngọ (bạn có thể mời người tuổi Bính Ngọ hoặc Mậu Ngọ đến xông đất đầu năm).
9- Người tuổi Thân: Nhanh nhẹn, thông minh tháo vát. Họ ưa tranh đấu nhưng lại khéo che đậy kế hoạch của mình. Là những người đa tài, làm được nhiều ngành nghề nhưng luôn cảm thấy mình giỏi hơn người khác nên thường chủ quan thái quá dẫn đến thất bại. Tuổi này xung khắc với tuổi Dần và hợp với tuổi Tỵ (bạn có thể mời người tuổi Đinh Tỵ hoặc Tân Tỵ đến xông nhà đầu năm).
10- Người tuổi Dậu: Rất bảo thủ, câu nệ, cố chấp với bản chất kiêu ngạo. Tuy tài giỏi, có năng lực và tài tổ chức, lại quyết đoán ưa tranh luận nhưng cách nghĩ cứng nhắc, không linh hoạt để thích ứng được với hoàn cảnh.. Tuổi này xung khắc với tuổi Mão và hợp với tuổi Thìn (bạn có thể mời người tuổi Mậu Thìn hoặc Canh Thìn đến xông đất đầu năm).
11- Người tuổi Tuất: Tuổi này xung khắc với tuổi Thìn và hợp với tuổi Mão (bạn có thể mời người tuổi Đinh Mão hoặc Kỷ Mão đến xông đất đầu năm).
12- Người tuổi Hợi: Tuổi này xung khắc với tuổi Tỵ và hợp với tuổi Dần (bạn có thể mời người tuổi Canh Dần hoặc Nhâm Dần đến xông đất đầu năm).
>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!
Trong tử vi, Bá Ấp Khảo là con trai cả của Tây Bá hầu Cơ Xương, ông họ Cơ, tên là Khảo, tự Bá Ấp; hình tượng của sao Tử Vi được lấy từ nhân vật này
Từ sau khi Tây Bá hầu Cơ Xương bị vua Trụ cầm tù tại Dữu Lý, con trai trưởng của ông là Bá Ấp Khảo thay mặt quản lý chính sự tại Tây Kỳ. Vâng lời cha, ông cần cù việc chính, đất nước yên bình, nhân dân no ấm. Nhưng nỗi nhớ thương cha ngày càng lớn dần trong ông. Một hôm, không thể kìm chế nổi sự lo lắng, ông đã triệu tập đại thần Tán Nghi Sinh và tướng quân Nam Cung Quát, nói rằng: "Cha ta đã bị vua Trụ cầm tù gần bảy năm rồi, không biết lành dữ ra sao, nên ta muốn uỷ thác chính sự cho hai vị, để đến Triều Ca một phen, để cầu xin thiên tử tha cho cha ta trở về".
Sao Tử Vi - Bá Ấp Khảo
Nghe vậy, Tán Nghi Sinh lập tức khuyên rằng: "Trưởng công tử không nên quá nóng lòng, công tử còn nhớ lời hầu gia căn dặn hay không? Sau bảy năm, tai kiếp của hầu gia tự dưng sẽ chấm dứt mà bình an trở về Tây Kỳ. Nếu như công tử mạo hiểm về triều, chẳng phải đã phụ tấm lòng của phụ thân công tử hay sao. Xin công tử hãy suy nghĩ cho kỹ, dục tốc bất đạt. Phụ thân công tử đã dặn dò như vậy, chắc chắn là có nguyên do". Nhưng Bá Ấp Khảo tâm ý đã quyết, hai vị đại thần không biết làm thế nào, đành phải thoái lui.
Bá Ấp Khảo nói rõ nguyên do với mẹ, đến hôm sau đem theo ba vật báu gia truyền:
dự định dâng cho Trụ Vương để chuộc tội cho cha.
Sau khi đến Triều Ca, Bá Ấp Khảo chờ đợi suốt năm ngày nhưng không gặp được Trụ Vương. Đến ngày thứ sáu, ông lại đến Ngọ môn đợi thánh chỉ, gặp được Á tướng Tỷ Can, bèn giải thích rõ nguyên do với ông. Được sự giúp đỡ của Tỷ Can, ông đã được đến lầu Trích Tinh gặp vua Trụ. Bá Ấp Khảo đem ba vạt báu gia truyền dâng cho Trụ Vương, Tỷ Can lại chuyền lên Trụ Vươpg tấu chương của Bá Ấp Khảo. Trụ Vương cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của Bá Ấp Khảo, bèn bảo ông đứng sang một bên chờ suy nghĩ.
Đát Kỷ liếc thấy Bá Ấp Khảo dung mạo anh tuân phi phàm, bèn nói với Trụ Vương rằng: "Thiếp nghe đồn Bá Ấp Khảo có tài gảy đàn thất huyền (tức cổ cầm), tinh thông âm luật, sao bệ hạ không bảo anh ta gảy một khúc xem có đúng là danh bất hư truyền hay không?"
Bá Ấp Khảo không tiện tự chối, bèn lấy đàn ra gảy một khúc "Phong nhập tùng" (gió thổi rừng tùng), Trụ Vương nghe đàn, vô cùng tâm đắc, ca ngợi không ngớt. Đát Kỷ thấy Bá Ấp Khảo tài mạo song toàn, thì càng yêu mến, muốn giữ Bá Ấp Khảo lại trong cung, bèn nói với Trụ Vương rằng: "Sao không giữ hắn lại để truyền thụ ngón đàn tuyệt thế ấy lại cho thiếp". Trụ Vương chấp thuận. Và như vậy, Bá Ấp Khảo đành phải lưu lại dạy đàn cho Đát Kỷ.
Một hôm, khi đã dạy đến giờ Tý nửa đêm, Bá Ấp Khảo chuẩn bị thu xếp ra về, Đát Kỷ bèn tỏ ý lả lơi khêu gợi. Bá Ấp Khảo vừa khó chịu vừa luống cuống không biết phải làm gì, bèn lớn tiếng quát Đát Kỷ dừng lại, gây kinh động đến đám thị vệ, suýt nữa đánh thức Trụ Vương.
Hôm sau, Đát Kỷ nghĩ ra một kế, chạy đến khóc lóc với Trụ Vương rằng Bá Ấp Khạo thừa cơ dạy đàn để trêu ghẹo, muốn giờ trò sàm sỡ với ả. Trụ Vương liền nói với Bá Ấp Khảo rằng: "Ngươi hãy gảy một khúc đàn, nếu tiếng đàn trung nghĩa, sẽ miễn tội cho ngươi! Nếu tiếng đàn có ý gian xảo, chắc chắn sẽ khép vào tội chết!".
Bá Ấp Khảo biết rằng khó thoát khỏi kiếp nạn này, bèn ôm đàn gảy dạo một khúc nhạc, bày tỏ tấm lòng thanh bạch, trung trinh với nước. Trụ Vương không tìm được chỗ sơ hở, lại sai ông gảy thêm khúc nữa. Bá Ấp Khảo bèn dạo thêm một khúc nhạc nói về đức hạnh và phẩm chất của người làm vua, trong cung đàn điệu nhạc có ẩn hiện ý chê trách.
Bá Ấp Khảo vừa gảy đàn vừa cất lời ca rằng:
Mong nhà vua rời xa nữ sắc chấn chỉnh triều cương
Muốn thiên hạ thái bình mau phế bỏ nương nương
Yêu khí tiêu tan, chư hầu vui vẻ quy phục
Dâm tà chấm dứt, xã tắc êm ấm an lành
Cơ Khảo sa cơ không sợ muôn chết
Đát Kỷ diệt rồi sử sách lưu danh!
Hát xong, ông bèn quăng chiếc đàn về phía Đát Kỷ, nhưng lại không đánh trúng ả, chỉ khiến cho cốc chén trên bàn vỡ tan tành. Trụ Vương nổi cơn thịnh nộ, lệnh cho thị vệ bắt trói Bá Ấp Khảo vứt vào hầm rắn độc. Lúc này, Đát Kỷ lại nảy ra một ý, bèn tâu với Trụ vương rằng: "Hãy lấy thịt của Bá Ấp Khảo làm bánh đem cho Cơ Xương ăn. Nếu như Cơ Xương ăn, chứng tỏ ông ta bói quẻ không chuẩn, nên không biết đó là thịt của con trai mình. Nếu như ông ta không chịu ăn, chứng tỏ ông ta thực sự biết đoán thần số tiên thiên để dự đoán việc tương lai, nên lập tức chém đầu."
Vua Trụ liền đồng ý với âm mưu của Đát Kỷ, cho thị vệ lóc thịt Bá Ấp Khảo làm bánh đem đến Dữu Lý cho Cơ Xương. Cơ Xương tạ ơn ân đức của Trụ vương, rồi thản nhiên ăn bánh. Bọn thị vệ nhìn mà thất kinh, nhưng cũng chỉ lẳng lặng quay về bẩm báo. Trụ Vương đợi thêm vài ngày nữa để xác nhận Cơ Xương thực sự không còn mối uy hiếp gì với bản thân, liền phóng thích cho về Tây Kỳ. Tính đến lúc đó, Cơ Xương bị cầm tù vừa vặn bảy năm.
Về đến quê nhà, nhớ đến con trai Bá Ấp Khảo vì ông mà hy sinh cả tính mệnh, thì buồn thương khôn tả, bụng đau quằn thắt, đột nhiên nôn ra một miếng thịt, hóa thành con thỏ mà chạy đi mất.
Hồn phách của Bá Ấp Khảo bay đến trước đài Phong Thần, được phong làm sao Tử Vi, cai quản chòm sao Bắc Đẩu. Trong vườn hoa ben ngoài thần điện của ngài là ngút ngàn hoa tường vi màu tím.
Sao Tử vi còn gọi là Đế tòa đứng đầu 12 vì sao trong lá số tử vi, thuộc tính Ngũ hành là âm Thổ, là trung tâm của các vì sao. Tử vi chuyên quản về tước lộc, có tác dụng hóa giải tai ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa (chế phục và hóa giải hung tính của các sát tinh).