Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách bố trí phong thủy để tăng vận đào hoa

Bày hoa đào, muối biển thích hợp trong nhà có thể giúp bạn thúc đẩy chuyện tình duyên, sớm thoát kiếp FA.
Cách bố trí phong thủy để tăng vận đào hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vận đào hoa nếu biết sử dụng vừa tầm sẽ mang đến những điều tốt đẹp và may mắn cho bạn, Dưới đây là 4 cách tăng vận đào hoa trong phong thủy

1. Đặt muối biển ở bốn góc nhà

Cách đặt muối biển này có thể giúp bạn mở rộng, thu hút quý nhân bốn phương, sớm tìm được lương duyên.

Cách làm: Quét dọn sạch sẽ 4 góc nhà (hay phòng) của bạn, lấy muối biển tự nhiên bỏ vào 4 đĩa nhỏ, chất thành một chóp cao, không được san bằng. Sau đó, đem đĩa muối xếp vào 4 góc nhà, cách 7 ngày thay một lần, làm liên tục 7 lần, nó sẽ giúp bạn tiêu trừ những điểm xấu trong vận đào hoa để mối duyên phận tốt đẹp mau chóng xuất hiện.    

Bên cạnh đó, nơi ở của bạn không thể thiếu lửa, tức là dùng bếp nấu ăn. Với những bạn thường xuyên ăn hàng, ít nhất phải nổi lửa nấu cơm một lần mỗi tuần. Nếu không có thời gian hoặc không biết nấu cơm, bạn có thể đun nước sôi thay thế. Sự vận chuyển của nước khi sôi có thể giúp bạn thoát khỏi cảnh "không ai đoái hoài", đồng thời nâng cao nhân duyên với người khác giới và trong xã giao.

Nếu có điều kiện, bạn hãy nhờ chuyên gia phong thủy tìm vị trí đào hoa trong nhà, đặt 12 cành hoa đào hay cành tầm xuân ở đó có thể thúc đẩy tình duyên. Nếu cắm đào thật, hãy nhớ thay nước thường xuyên, thay mới khi thấy hoa héo.

2. Bày 12 cành hoa đào hoặc nụ tầm xuân ở vị trí đào hoa

Nếu chỉ xét theo 12 con giáp, người tuổi Tý, Thìn, Thân có vị trí đào hoa ở hướng Tây; tuổi Sửu, Tỵ, Dậu ở hướng Nam; tuổi Dần, Ngọ, Tuất ở hướng Đông; tuổi Mão, Mùi, Hợi ở hướng Bắc.   

Muốn tính ra vị trí đào hoa một cách chuẩn xác còn cần kết hợp bát tự, ngũ hành, mệnh lý... sau đó mới có thể tiến hành bày trí toàn diện, hiệu quả sẽ càng rõ rệt.

 3. Khi nhận được thiệp mời cưới của bạn bè

Khi nhận được thiệp cưới, đừng tiện tay vứt luôn tấm thiệp mang hỷ khí này đi, hãy cắt chữ "Hỷ" trên thiệp ra và treo lên chậu cây cảnh trong nhà, chậu trồng cây nhất định phải làm bằng gốm. Sau đó đem chậu cây đặt ở hướng Nam của phòng, biết đâu ngày lành kế tiếp sẽ đến phiên bạn.  

Tăng vận đào hoa trong phong thủy

4. Trong phòng không để quá nhiều đồng hồ

Đặt quá nhiều đồng hồ trong phòng sẽ khiến thần kinh bạn căng thẳng, không thể nghỉ ngơi. Hơn nữa, khi người khác giới làm quen với bạn, rất có thể sẽ xuất hiện cảm giác sợ sệt, bởi bạn rất dễ khiến họ thấy căng thẳng, mang lại cho họ cảm giác bạn đang đẩy họ ra xa, rất khó tiếp cận. Bạn hãy dẹp bớt vài cái đồng hồ trong phòng đi, để một cái đủ dùng là được, sau đó xem kết quả ra sao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí phong thủy để tăng vận đào hoa

Chòm sao nào tình nguyện làm kẻ thay thế

Thời nay, trong chuyện tình cảm rất nhiều người có “phương án dự phòng”, cũng vì lẽ đó mà một số sao nam cũng cam tâm tình nguyện làm kẻ thay thế.
Chòm sao nào tình nguyện làm kẻ thay thế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thời nay, trong chuyện tình cảm rất nhiều người có “phương án dự phòng” đặc biệt là các sao nữ, phải luôn có người ở bên mình và sẵn sàng chờ đợi mình thì mới yên tâm. Cũng vì lẽ đó mà cho dù biết mình chỉ là “phòng hờ” nhưng một số sao nam vẫn cam tâm tình nguyện.

 
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Chom sao nao tinh nguyen lam ke thay the hinh anh 2
Ảnh minh họa

 

Đầu bảng: Ma Kết

  Ma Kết phải được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất soái ca”. Ma Kết đối với phái nữ luôn hết tâm hết lòng, dù biết rõ ràng mười mươi mình chỉ là “dự phòng” nhưng vẫn có thể chờ đợi cô ấy hàng giờ dưới mưa, khiến người khác phải cảm động rớt nước mắt. Tuy nhiên, cho dù là như vậy thì Ma Kết vẫn cam tâm tình nguyện, vui vẻ chịu đựng, bất kể đối phương có đáp lại hay không?

 

Nhì bảng: Cự Giải

  Với người mà mình yêu, Cự Giải tuyệt nhiên không bao giờ nổi nóng, cũng chẳng bao giờ đòi hỏi gì, chỉ cần cô ấy hạnh phúc là được. Cự Giải luôn yên lặng, đứng sau theo dõi và luôn xuất hiện đúng lúc cần thiết. Chính vì vậy, các cô gái thường lựa chọn một chàng trai Cự Giải như một giải pháp dự phòng hàng đầu.   Ba bảng: Song Tử   Song Tử có thể vì người mình yêu mà có thể đánh đổi tất cả cho dù người ấy có yêu mình hay không. Các Song Tử nam rất được các nàng chú ý nhưng với họ các Song Tử Nam chỉ có thể làm tri âm tri kỷ, có thể tâm sự mọi chuyện nhưng tuyệt đối không thể yêu đương.  
Chom sao nao tinh nguyen lam ke thay the hinh anh 2
Ảnh minh họa

 

Thứ 4: Bảo Bình

  Các Bảo Bình vẫn luôn cho rằng mình là cao thủ trong chốn tình trường mà không nghĩ tới mình chỉ là “kẻ thay thế” mà thôi. Họ luôn tỏ ra là không quan tâm tới chuyện tình cảm, thế nhưng tới khi biết chuyện thì lại đau thấu tim gan, tưởng mình có nhưng thực chất lại không phải.  

Thứ 5: Xử Nữ

  Các chàng trai Xử Nữ không bao giờ nói ra rằng “anh yêu em” nhưng thực tâm họ vẫn luôn sẵn lòng, có thể hi sinh mọi thứ, kể cả việc phải liều mạng vì cô gái để mong nhận được tình cảm. Nhưng thật đáng tiếc, nếu gặp phải một người con gái không hiểu được lòng mình thì Xử Nữ mãi mãi chỉ có thể là “kẻ đứng sau” mà thôi, lúc cần có thể cho mượn nhờ bờ vai, có thể cho ôm một cái nhưng tuyệt đối không thể hôn.  

Thứ 6: Kim Ngưu

  Các chàng trai Kim Ngưu thường quá nhát gan, sợ mình bị cự tuyệt tình cảm nên chẳng bao giờ nói ra, chính vì lẽ đó mà vẫn mãi chỉ là kẻ đứng sau, không thể vượt qua được ranh giới của tình bạn, tự mình biến mình làm “phương án dự phòng”. Bất kể là đối phương có hỏi “Anh có yêu em không?” thì các chàng trai Kim Ngưu tim đập chân run, không dám thừa nhận mà lại trả lời rằng “Không phải”.  
Lichngaytot.com

Tự do tự tại, 3 chòm sao độc lập yêu thích cuộc sống một mình Chòm sao nào khó buông bỏ quá khứ nhất? Điểm danh 3 chòm sao nữ bá đạo, thích là tự cầm cưa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chòm sao nào tình nguyện làm kẻ thay thế

Mơ thấy diều –

Mơ thấy diều gió là điềm báo bạn gặp phải trở ngại trong công việc Diều gió tuy bay cao nhưng bên dưới nó lại không có nền móng vững chắc. Thế nên, diều gió trong giấc mơ dự báo trước một kế hoạch to lớn nhưng không thành. Mơ thấy thả diều là điềm bá
Mơ thấy diều –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy diều –

Xem tướng phụ nữ biết được sinh con trai hay gái? –

Xem tướng phụ nữ có nhân trung sâu và dài, trên nhỏ dưới rộng, đường giữa rõ nét thì sinh nhiều con trai. Nữ giới có rốn sâu một phân thì có một con, … Xem tướng phụ nữ Tướng học kết luận rằng, hầu hết phụ nữ có nhân trung sâu và dài, trên nhỏ dưới r

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng phụ nữ có nhân trung sâu và dài, trên nhỏ dưới rộng, đường giữa rõ nét thì sinh nhiều con trai. Nữ giới có rốn sâu một phân thì có một con, …

Xem tướng phụ nữ

ktt_5.11_concai1_kienthuc_tbvu

Tướng học kết luận rằng, hầu hết phụ nữ có nhân trung sâu và dài, trên nhỏ dưới rộng, đường giữa rõ nét thì sinh nhiều con trai.

Theo tướng học, hình thể của người phụ nữ phản ánh sinh động tính cách và nội lực của chính họ. Qua đó, ta cũng có thể luận bàn được khả năng sinh đẻ của chủ nhân. Trán, cằm: Theo tướng thuật, người phụ nữ có khuôn mặt quá nhọn, tỷ lệ các phần trên khuôn mặt không cân xứng (cằm rộng, trán hẹp), tai quá nhỏ thì hầu như chỉ sinh con gái. Nữ giới có trán quá cao nên kết hôn sớm. Sau 25 tuổi mới lập gia đình thì tỷ lệ sinh con trai sẽ thấp. Phụ nữ có cằm rộng, phần dưới má không rõ nét, chủ yếu sinh con gái.
Lông mày. Nữ giới có lông mày thưa thớt thì hiếm con, không có lông mày càng khó có con. Lông mày quá thẳng nhưng không mềm mại là dấu hiệu của người hiếm con hoặc sẽ sinh con gái đầu lòng, con thứ hai là con trai thì dễ chết yểu.
Mắt, mũi, tai. Tướng thuật cho rằng, phần dưới mắt của người phụ nữ là cung con cái. Cung này nên đầy đặn và nhuận sắc. Nữ giới có đôi mắt sâu thường khó có con hoặc sinh con gái đầu lòng sẽ rất tốt, sinh con trai dễ bị thiểu năng trí tuệ.
Phụ nữ có đôi tai không cân xứng, tai trái dày hơn tai phải sẽ sinh con gái đầu lòng. Nếu hai tai giống hệt nhau thì rất khó đoán định.
Nếu sống mũi thấp, sơn căn (khoảng cách giữa hai đầu lông mày) không nổi rõ thì sẽ ảnh hưởng đến đường con cái. Sinh con gái thì tốt, sinh con trai xấu.

Nhân trung:

ktt_5.11_concai6_kienthuc_ghuc

Tướng học cũng đưa ra kết luận rằng, hầu hết phụ nữ có nhân trung sâu và dài, trên nhỏ dưới rộng, đường giữa rõ nét thì sinh nhiều con trai. Nhân trung bằng phẳng hoặc sâu nhưng không rõ nét thì sẽ sinh nhiều con gái.
Tóm lại, phụ nữ có nhân trung sâu, thẳng, trên hẹp, dưới rộng thì con cháu đông đúc. Nếu trên dưới đều hẹp, giữa rộng thì con cháu ít, lại hay chết yểu. Nếu phụ nữ có nốt ruồi đen ở nhân trung thì khó có con, có hai nốt ruồi đen là điềm báo sinh đôi. Nhân trung có các đường ngang dọc thì đó là điềm báo không có con cháu khi về già. Đường nhân trung ngắn thì con cháu nghèo đói. Nhân trung lệch sang trái thì sẽ sinh con trai đầu lòng, lệch sang phải thì sinh con gái đầu lòng.

Miệng:

ktt_5.11_concai8_kienthuc_iiea

Tướng học cho rằng, tướng miệng của người phụ nữ cũng liên quan tới đường con cái. Môi nhiều nếp nhăn thì đường con cái thuận lợi, sinh nhiều con trai, bờ môi không có nếp nhăn thì sẽ khó có con, môi nhàu nhĩ thì khó nuôi con.
Người có miệng giống như miệng khỉ thì khó sinh được con trai; nếu bờ môi trên dài thì sẽ có cả con trai và con gái. Môi trên trề xuống dễ sinh con gái đầu lòng. Trong khi đó, người phụ nữ nào có một bờ môi trắng hoặc xanh, da môi nhăn nheo thì đó là hình thể chỉ sinh được con gái hoặc không có con.

Rốn:

ktt_5.11_concai10_kienthuc_zlzq

Rốn cũng là mối quan hệ mật thiết với đường con cái. Nữ giới có rốn sâu một phân thì có một con và dễ sinh. Nếu rốn nhỏ thì thường phải mổ khi sinh con. Người mang thai từ 3 – 6 tháng mà lồi rốn thì sinh con gái, nếu rốn lồi ở tháng thứ 7, thứ 8 thì sinh con trai.

Da thịt:

ktt_5.11_concai11_kienthuc_cbcp

Người phụ nữ nào có cấu tạo cơ thể nhiều thịt, xương ít, tay mềm hoặc da mỏng, xương nhỏ, tư thế uyển chuyển thì sinh con gái đầu lòng. Phụ nữ có tướng nam hay âm dương hỗn loạn hoặc tính dương quá mạnh là tướng sinh con gái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ biết được sinh con trai hay gái? –

Sự nghiệp và tài vận 12 con giáp trong tháng Giêng

Trong tháng này, nhiều con giáp phải chú ý tình hình tài chính của mình. Nhiều người rơi vào cảnh tiền tiêu xong không biết mình đã tiêu vào mục đích gì.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý:

Sự nghiệp: Tháng này công việc gặp khá nhiều vấn đề rắc rối, thành tích trong công việc không được nâng cao, thậm chí có những việc dễ bị hủy bỏ. Đến giữa tháng trở ra phải đối mặt với các mối quan hệ xã giao liên quan đến công việc, mặc dù bạn cũng hi vọng cùng họ kết bạn, giao lưu hợp tác nhưng rồi bạn phát hiện ra do vấn đề lợi ích kinh doanh nên vẫn không thể “cùng hội cùng thuyền”.

Tài vận: Tài vận tuổi Tý tháng này bình thường, tiền tiêu xong không biết mình đã tiêu vào mục đích gì. Mặc dù tài chính có phần hạn chế nhưng tháng này tuổi Tý có nhiều thời gian hơn để suy nghĩ đến sự nghiệp, con đường kinh doanh riêng của mình, mưu tính trước hành động sau, không nên quá gấp gáp.

Tuổi Sửu:

 su nghiep va tai van 12 con giap trong thang gieng - 1

Sự nghiệp: Công việc của tuổi Sửu tháng này cơ bản ổn định, cuối tháng thu nhập tăng đáng kể. Chủ yếu là do hành động, quyết định của bạn cần đúng đắn, trước hết bạn nên nắm bắt rõ tình hình mọi việc xung quanh, nhưng khi hành động cũng không nên quên những tình tiết nhỏ nhặt, nếu không rất dễ mắc sai lầm. Chú ý quan sát những động thái mới, những mối quan hệ người – người trong công ty cũng là điều bạn không nên xem nhẹ.

Tài vận: Tài vận tháng này có lên có xuống, mặc dù công việc có tiến triển, những đơn hàng đã ký có hi vọng mang lại cho bạn thu nhập khá khả quan. Thậm chí còn có cơ may có được những nguồn thu bất ngờ nữa. Thế nhưng đến cuối tháng, bạn phải chi vào các mối quan hệ bạn bè xã giao hay chuyện học hành của con cái khá nhiều, nên cần chú ý cân đối chi tiêu hợp lý.

Tuổi Dần:

Sự nghiệp: Tháng này trong công việc cũng xuất hiện không ít những thăng trầm. Việc đi công tác, xuất bản, giáo dục… có thể phát sinh những thay đổi hoặc kéo dài thời gian, nên có sự chuẩn bị trước. Giữa tháng trở ra bạn rơi vào trạng thái “tranh quyền đoạt vị” với đối thủ, họ lúc nào cũng chăm chăm bắt lỗi của bạn, vì vậy thàng này cần thật cẩn thận khi làm việc.

Tài vận: Tháng này tài vận bình thường, cũng được xem như tháng cần nhờ vào “bóp miệng thắt ví tiền” để có thể “tồn tại” cho hết tháng. Mặc dù có rất nhiều thứ bạn muốn mua nhưng tạm thời tháng này chưa thực hiện được. Kiến nghị tuổi Dần cuối tháng có thể đầu tư nhỏ.

Tuổi Mão:

Sự nghiệp:Tháng này công việc gặp khá nhiều phiền phức, mặc dù không lớn nhưng cũng đủ khiến người ta bực mình. Bạn nên nhớ khi tức giận hãy thử hít một vài hơi thật sâu, điều này có tác dụng rất lớn trong việc trấn an tinh thần, nếu không sẽ khiến không khí chung quang càng thêm căng thẳng. Tháng này tuổi Mão mất mát khá nhiều trong công việc, nên cần chú ý công tác trù bị.

Tài vận: Tháng này tài vận cũng có phần đi lên, chủ yếu nguồn tài chính đến từ các mối quan hệ xã giao. Nhưng cũng nên chú ý những thông tin mới nhất của thị trường đầu tư. Và cũng không nên trao đổi thông tin công việc quá nhiều với người khác nhé.

Tuổi Thìn:

 su nghiep va tai van 12 con giap trong thang gieng - 2

Sự nghiệp: Sự cạnh tranh trong sự nghiệp khá khốc liệt, nếu chỉ đơn thuần dùng khẩu chiến mà muốn đạt được thắng lợi sau cùng thì đó là điều không thể, mọi việc hãy dùng thực lực để giải quyết. Những bạn đang ở vị trí quản lý thì hãy quản lỹ cho tốt cấp dưới của mình, không được để xảy ra bất kỳ sai sót nào. Giữa tháng trở ra khi giao nhiệm vụ thì cần cực kỳ chi tiết để tránh hiện tượng lơ là trách nhiệm.

Tài vận: Tháng này tâm thái với tài lộc của tuổi Thìn khá gấp gáp, việc gì cũng muốn thử sức. Vì vậy tuổi Thìn cũng gặp khá nhều vận tốt, nhưng cũng nên quản lý tốt hầu bao của mình nữa bởi “Tiền vào như nước sông Đà. Tiền ra cũng chẳng kèm Đà là bao”. Cuối tháng thích hợp để đầu tư kinh doanh nhỏ.

Tuổi Tỵ:

Sự nghiệp: Bước vào tháng này, công việc của tuổi Tỵ không có lãng phí nào là quá lớn, nhưng cũng cần chú ý công việc kinh doanh. Những kẻ tiểu nhân hay là quý nhân cũng đều xuất hiện cùng lúc, do vậy mối quan hệ bạn bè xã giao là vấn đề quan trọng mà tuổi Tỵ tháng này cần chú ý. Cuối tháng tuổi Tỵ cần chú ý thêm động thái mới nhất trong công việc kinh doanh của mình nữa.

Tài vận: Sự thay đổi lên xuống trong vận mệnh khá lớn, không nên vì mới có khoản tiền nhỏ mà dưng dưng tự đắc bởi cuối tháng có thể bạn sẽ trắng tay. Công việc đầu tư không nên chỉ chăm chăm định hướng đầu tư vào một nơi.

Tuổi Ngọ:

Sự nghiệp: Tổng thể công việc cả tháng có tiến triển khá tốt, có thể bạn sẽ rời vị trí hiện tại để đảm nhận nhiệm vụ, công việc khác mới mẻ hơn. Giữa tháng trở ra, sự sáng tạo trong công việc không ngừng tăng, mục tiêu dễ dàng được thực hiện bằng những con đường mà người khác không nghĩ đến. Quan trọng là không dành quá nhiều thời gian, tiền bạc cho những người không liên quan.

Tài vận: Bước vào tháng 2 này, tuổi Ngọ không mấy phải quá lo lắng về vấn đề tài chính của bản thân mình. Nhưng cũng không nên quá tham lam, nên cẩn trọng, dùng chính sức lực để làm việc thì bạn cũng nhận lại được sự đền đáp đúng nghĩa. Tháng này bạn cũng cần phải chi tiêu khá nhiều đầy.

Tuổi Mùi:

Sự nghiệp: Công việc của tuổi Mùi khá nhiều, cấp trên có thể có bài kiểm tra trình độ dành cho bạn. Có thể việc phải tăng ca là điều đã rất bình thường đối với bạn, nói chung là bỏ sức ra bao nhiêu sẽ nhận được đền đáp bấy nhiêu, với lượng công việc khổng lồ như vậy bạn sẽ học hỏi được rất nhiều điều bổ ích.

Tài vận: Tiền bạc tháng này rất dễ tuột khỏi túi, đặc biệt là cuối tháng, vậy nên cần lưu tâm và cẩn thận hơn với những khoản chi cuối tháng. Hoặc khi bạn tỏ ý muốn vay mượn thì bên kia mới nghe thôi cũng đã tỏ rõ thái độ không muốn cho bạn mượn rồi.

Tuổi Thân:

 su nghiep va tai van 12 con giap trong thang gieng - 1

Sự nghiệp: Công việc tháng này gặp khá nhiều thăng trầm, khó khăn, nhưng đây cũng là thời cơ để bạn chứng minh được năng lực của bản thân. Đầu tháng cho đến giữa tháng mặc dù có những việc bạn không muốn làm nhưng tình thế bắt buộc bạn phải đi giải quyết, nếu bạn không làm thì người khác sẽ ngồi thay vào vị trí của bạn luôn. Cuối tháng nên chuyên tâm vào nguồn thu nhập chính, những khoản thu nhập phụ còn đang mơ hồ thì không nên dành thời gian quá nhiều vào nó.

Tài vận: tài vận tháng này khá tốt, mặc dù công việc không giúp bạn tăng nguồn thu nhập nhiều, nhưng bạn có quý nhân phù trợ, có thể bạn được thừa hưởng gia tài kếch xù, hoặc người thân biếu tặng. Những khoản tiền này là nền tảng cho sự phát triển vững chắc với công việc của bạn.

Tuổi Dậu:

Sự nghiệp: Những việc đột xuất trong công việc của tháng này khá nhiều, nếu xử lý không tốt sau này rất phiền phức. Rất nhiều việc bạn không nên chỉ nghĩ mà không đi thực hiện, nếu chỉ ngồi một chỗ mơ mộng với những nghĩ suy, ước vọng quá cao thì chẳng có lợi gì với thực tế hiện tại cả. Khi có thời gian rảnh hãy học thêm chuyên môn nữa, điều này sẽ có lợi cho con đường phát triển sự nghiệp của bạn.

Tài vận: Tháng này bạn cần chi tiêu nhiều hơn trước. Muốn phát triển sự nghiệp cũng cần chi khá nhiều cho các mối quan hệ xã giao, gia đình cũng nhiều khoản phải chi hơn. Kiến nghị tuổi Dậu không nên quá sợ đầu tư, sau này có cơ may thu hồi lại vốn.

Tuổi Tuất:

 su nghiep va tai van 12 con giap trong thang gieng - 2

Sự nghiệp: Tháng này tổng thể sự nghiệp khá phát đạt, có đủ can đảm thử sức vào các kế hoạch khác nhau mặc dù gặp nhiều trắc trở nhưng bạn lại học thêm rất nhiều thứ. Cần chú ý vấn đề lợi ích giữa các đồng nghiệp với nhau, nếu lơ là đối chút là mất đi hòa khí. Tháng này có thể không phù hợp để đi công tác hay du lịch.

Tài vận: Tổng thể tài vận tăng cao, điều này có quan hệ không nhỏ đến sự tiến triển trong công việc của người tuổi Tuất. Đầu tư khá nhiều nhưng kiến nghị không nên quá mưu cầu có thành công ngay lập tức. Cuối tháng hơi đau đầu về vấn đề tài chính.

Tuổi Hợi

Sự nghiệp: Tổng thể công việc không phải quá tốt nhưng cũng không phải lo lắng quá nhiều. Với các vấn đề có liên quan đến con số thì dễ xuất hiện sai sót. Kiến nghị hãy dành cho mình khoảng thời gian để nghỉ ngơi, điều này tốt hơn nhiều so với việc căm đầu cặm cụi làm việc mà xảy ra nhiều sai sót. Tháng này cũng cần chú ý những kẻ phá hoại sau lưng.

Tài vận: Tài vận cũng tương đối ổn, cơ bản là những khoản thu không ngờ tới. Có thể do đầu tư từ trước bây giờ sinh lời hoặc người khác trả nợ… Giữa tháng thích hợp để cải thiện cuộc sống của mình.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự nghiệp và tài vận 12 con giáp trong tháng Giêng

5 vấn đề phong thủy cơ bản phải tính khi mua nhà

Mua nhà là đại sự, cần xem xét kĩ lưỡng về phong thủy để chọn được nơi ở tốt, vận khí cát. Dưới đây là 5 yếu tố phong thủy khi mua nhà cần phải hết sức lưu ý.
5 vấn đề phong thủy cơ bản phải tính khi mua nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mua nhà là đại sự, cần xem xét kĩ lưỡng về phong thủy để chọn được nơi ở tốt, vận khí cát, mang tới may mắn cho chủ nhân. Dưới đây là 5 yếu tố phong thủy khi mua nhà cần phải hết sức lưu ý.


Xem thêm video clip: Top 3 con giáp tiêu tiền không phải nghĩ trong tháng 7



► Lichngaytot.com gửi tới bạn đọc công cụ xem hướng nhà và tra cứu thước lỗ ban chuẩn xác

5 van de phong thuy co ban phai tinh khi mua nha hinh anh 2
 
1. Cấu tạo
  Một ngôi nhà được coi là có phong thủy cát khi mà có cấu tạo hợp lý, ngược lại sẽ là rất hung nếu ngôi nhà bố trí phạm phải các vấn đề cấm kị. Nhà khuyết góc thì vợ chồng bất lợi; nhà tọa Bắc hướng Nam thì phạm quỷ môn, bất lợi sức khỏe; nhà có phòng ngủ đối diện phòng vệ sinh hoặc phòng bếp thì quan hệ trong nhà không hòa hợp; trong nhà có xà ngang áp đỉnh thì sự nghiệp lụi tàn. Vì thế, yếu tố phong thủy khi mua nhà cần xem xét đầu tiên chính là cấu tạo.
Hiểu đúng câu Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài kẻo chọn phải nhà phong thủy xấu Phong thủy quanh ngôi nhà thế nào mới hút nhiều tài lộc? Mua nhà không xem phong thủy, tiền thì mất mà tật vẫn mang

2. Vị trí
  Phong thủy truyền thống tin rằng, vị trí ngôi là là yếu tố cực kì quan trọng quyết định đến vận thế. Vị trí nhà tốt thì trợ giúp quan hệ gia đình càng thêm hài hòa, sự nghiệp rạng rỡ, còn vị trí xấu thì mang tới thất vận. Lưu ý phong thủy khi mua nhà là tránh bên cạnh trạm xăng, cầu vượt, đường sắt, ngã tư đường vì đều phạm sát.   3. Hướng   Hướng nhà không thể không quan tâm, nhất định phải hợp với tuổi của gia chủ. Hướng nhà tọa Nam hướng Bắc hầu như thích hợp với tất cả mọi người, vừa sáng sủa lại thoáng đãng, đón nắng tránh gió, có lợi cho tài vận.
5 van de phong thuy co ban phai tinh khi mua nha hinh anh 2
 

4. Diện tích   Mua nhà ở không phải càng lớn thì càng tốt, phong thủy học chỉ ra nhà quá lớn hoặc quá nhỏ thì đều xấu. Nhà rộng người ít thì âm thịnh dương suy, chủ ám bệnh dây dưa, âm linh sống nhờ. Nhà hẹp người đông tất dương nhiều âm ít, chủ tính tình táo bạo, quan tai thị phi nhiều.   5. Số tầng   Người Việt kị số 4 vì là số tử, tượng trưng cho điềm xấu nên nhà không nên xây 4 tầng, cũng không nên ở tầng 4. Lựa chọn số tầng hay tầng nhà nên căn cứ vào ngũ hành bản mệnh, có thể chọn tầng tương ứng với ngũ hành của chính mình hoặc ngũ hành tương sinh với ngũ hành bản mệnh. 
Lỗi phong thủy phòng ngủ “tử hình” hôn nhân 3 nguyên tắc phong thủy phải nằm lòng năm 2016 Tip mua nhà chuẩn phong thuỷ 2016
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 vấn đề phong thủy cơ bản phải tính khi mua nhà

Cách cục Thọ Tinh nhập miếu

Sao Thiên Lương trấn mệnh, nhập cung ngọ có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt gia hội là hợp cách. Sao Thiên Lương thuộc thổ, chưởng quản tuổi thọ, nhập miếu tại cung Ngọ. Nếu sở hữu cách cục này, chủ về chính trực vô tư, học vấn ưu việt, tính cách chín chắn, ổn trọng, có tài lãnh đạo quần chúng, xử lý tình huống, sức khỏe tốt, tuổi thọ cao, có được danh vọng và lợi lộc lớn. Nếu gặp nhiều cát tinh, chủ về cực hiển quý. Người sinh năm Đinh là thượng cách, tiếp đến là năm Kỷ, sinh năm Qúy chủ về phú. Còn sinh những năm khác không được tốt như vậy, nếu không gặp hung tinh, chỉ chủ về sống thọ mà thôi.
Cách cục Thọ Tinh nhập miếu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ưu điểm: Tính cách thẳng thắn, công bằng, học vấn ưu việt, phúc thọ song toàn, điềm tĩnh , chín chắn, thích giúp đỡ người khác, có tài năng lãnh đạo, coi thường danh lợi, làm quan thanh bạch, rất được kính trọng.
Khuyết điểm: Nếu không gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa ăn nói khoác lác, làm việc chỉ hời hợt bề ngoài.

Ca Quyết:
Mệnh ngộ Ly minh củng thọ tinh
Nhất sinh vinh hoa mộc thâm ân
Phi đằng hồng hộc thanh tiêu cận
Phi tượng đường đường thị để diên

Nghĩa là:
Mệnh gặp mặt trời chiếu thọ tinh
Một kiếp vinh hoa đội ơn sâu
Chim hồng sải cánh bầu trời rộng
Ngôi vị đường đường tại cung cao

Kinh văn viết rằng: "Thiên lương cư ngọ, làm quan thanh hiển".

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Thọ Tinh nhập miếu

Tránh xa những người có nét tướng cực xấu kẻo rước thêm phiền phức

Nốt ruồi dưới mắt hay còn gọi là nốt ruồi giọt lệ, người có nốt ruồi ở dưới mắt thường gặp phải chuyện thương tâm, đau buồn, khiến cho lệ phải rơi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tướng mũi
 
Tướng mũi ảnh hưởng nhiều đến tổng thế gương mặt, như vậy cũng có kiêng kị. Tục ngữ có câu “Mũi dại, lái phải chịu đòn” là ám chỉ điều này, mũi tốt nhất là nên thẳng, không nên lệch hay cong vẹo.
 
2. Đuôi lông mày cụp
 
Theo cổ nhân, “bát tự mi” – lông mày hình chữ bát là đặc trưng của người có tâm can không tốt, mưu sâu kế hiểm. Cũng có thể là người không chuyên chính trong chuyện tình cảm, có chút dâm tục. Câu tục ngữ “Mi phân bát tự, tham hoa liễu” là ngụ ý điều này.
 
3. Lông mày xếch (hình bát tự ngược)
 
Kiểu lông mày này cho thấy người này tâm địa độc ác nhưng suy nghĩ lại đơn giản (hữu dũng vô mưu), người ta gọi kiểu lông mày này là lông mày hình hổ.   Lông mày của nam giới thì đậm nhưng thô, lông mày của nữ giới thì mảnh và nhạt. Nếu lông mày dày và thô, dài (cả nam và nữ) thì người này thường hung ác, âm địa ác độc.   4. Lông mày đậm và thô – là người trường thọ
 
Tất nhiên, người có kiểu lông mày này thì khá là trường thọ, bởi vậy không nên nhổ hoặc tỉa bớt. Đặc biệt là có vài sợi dài hẳn hơn so với những sợi khác, những sợi này gọi là “Thọ mi”. Thọ mi càng dài thì càng tốt, thọ mi kị nhất là nhổ hoặc cắt bớt, mặc dù có phần vướng (che khuất tầm nhìn) thì cũng không nhổ, nếu không sẽ bị giảm thọ.   5. Lông mày thưa và ít
 
Những người như vậy sẽ không có anh em hoặc nếu có thì cũng rất ít. Hậu duệ của người này cũng khó phát triển được, không gặp may mắn, tài chính kém.   6. Mắt không nên lệch
 
Người mắt lệch thường là người có tâm địa bất chính, không được mọi người yêu mến.

Nhung net tuong xau kieng ki theo dan gian hinh anh 2
Mắt lệch là người có tâm địa bất chính
  7. Nốt ruồi dưới mắt
 
Những vị trí nốt ruồi trên mặt cũng mang nhiều ý nghĩa. Nốt ruồi dưới mắt hay còn gọi là nốt ruồi giọt lệ, người có nốt ruồi ở dưới mắt thường gặp phải chuyện thương tâm, đau buồn, khiến cho lệ phải rơi.
  8. Con gái kị mắt “Tứ bạch”   “Tứ Bạch” tức là mắt có nhiều lòng trắng, lòng đen bé, 4 phía lòng đen lộ lòng trắng. Người xưa cho rằng, con gái mà có cặp mắt như vậy thì rất xấu bởi vậy mới có câu: “Lợn kia trắng mắt thì nuôi, người kia trắng mắt chớ chơi mà phiền”.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tránh xa những người có nét tướng cực xấu kẻo rước thêm phiền phức

SAO LÂM QUAN TRONG TỬ VI

lâm quan (Kim) *** 1. Ý nghĩa cơ thể: Lâm Quan là cái cổ 2. Ý nghĩa tính tình : - khoe khoang...
SAO LÂM QUAN TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lâm quan (Kim) 



***

1. Ý nghĩa cơ thể: Lâm Quan là cái cổ

2. Ý nghĩa tính tình:             - khoe khoang (đồng nghĩa với Điếu Khách)             - thích làm dáng, làm điệu, điệu bộ, nói năng kiểu cách (giống Hoa Cái)             - cần mẫn, tinh anh, chủ sự làm ăn

3. Ý nghĩa của lâm quan và một số sao khác:
a. Gặp nhiều sao sáng sủa, tốt đẹp: Lâm Quan chủ sự phát đạt, vui vẻ, hỷ tín
b. Gặp nhiều sao mờ ám xấu xa: Lâm Quan chủ sự phiền nhiễu, ngăn trở mọi công việc.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO LÂM QUAN TRONG TỬ VI

Sắc màu hoàn hảo giúp căn nhà có

Bất kỳ không gian sống nào trong nhà bạn cũng sẽ trở nên hiện đại và đẹp mắt hơn với 3 sự kết hợp màu sắc trang trí tuyệt vời dưới đây. Cùng tham khảo nhé !

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Xanh cốm và xanh cô-ban
  Chúng ta sẽ bắt đầu với bộ đôi đầu tiên: Xanh cốm và xanh cô-ban. Sang trọng và thanh lịch, cặp đôi này phù hợp để trang trí cho mọi không gian. Nếu xanh cốm mang đến cho ngôi nhà nét tươi mát của thiên nhiên thì xanh cô-ban lại rất bí ẩn, mời gọi sự khám phá. Minh chứng rõ ràng nhất chính là phòng ăn dưới đây. Nền tường xanh cốm tươi trẻ phối hợp với điểm nhấn màu xanh cô-ban từ chiếc tủ khiến căn phòng này vô cùng quyến rũ.  
Phòng ăn quyến rũ với tông màu xanh.
  Bộ bàn ăn màu xanh cô-ban thanh lịch như một hòn đảo nhỏ nổi lên giữa căn bếp với nội thất đa phần là thép không gỉ, cộng thêm sự nổi bật của màu vàng chanh chính là câu trả lời thuyết phục cho những ai đang thắc mắc: “Liệu 2 gam màu này khi kết hợp với nhau có mang lại cho không gian sống một cái nhìn hiện đại?”.    Sự kết hợp hài hòa và hiện đại của cặp đôi này.   Bây giờ chúng ta sẽ đến với ngoại thất. Có thể nói hai gam màu này rất phù hợp với không gian ngoài trời, đặc biệt là bể bơi, vì chúng có nét tương đồng với cây lá và nước ở hồ. Những chiếc ô màu xanh cốm cùng những chiếc chậu màu xanh côban tạo nên sự thu hút, khiến không gian “loãng” trở nên có điểm nhấn hơn rất nhiều.   Cặp đôi xanh cốm - xanh côban rất phù hợp với ngoại thất.   Xanh ngọc lục bảo và cam   Tiếp theo là một trong những gam màu được đánh giá là “hot” nhất trong thiết kế nội thất hiện nay: Xanh ngọc lục bảo. Bắt nguồn từ sắc xanh tinh khiết của ngọc lục bảo, màu sắc này không chỉ độc đáo và dễ ứng dụng trong trang trí nhà ở mà còn “làm mưa làm gió” trên các sàn catwalk… Nếu màu ngọc lục bảo kết hợp với màu trắng, xám mang đến sự dịu dàng, thì khi bắt cặp với màu cam, chúng lại tạo ra hiệu ứng nổi bật và rất thu hút.    Hiệu ứng nổi bật của cặp đôi ngọc lục bảo - da cam khi kết hợp với nhau.   Ngọc lục bảo mang lại cảm giác yên bình, dịu nhẹ còn màu da cam lại bừng lên sức sống tươi trẻ, đầy nhiệt huyết. Chính vì vậy, một lưu ý khi chọn kết hợp hai tông màu sắc trang trí này với nhau chính là chỉ nên sử dụng với một liều lượng nhỏ. Áp dụng lưu ý này, góc làm việc dưới đây đã trở nên vô cùng xinh xắn với tông màu cam điểm xuyết chút xanh ngọc lục bảo ở gối dựa và rèm che.    Cặp đôi này sẽ là điểm nhấn đẹp mắt cho không gian sống.   Hồng da cam và xanh nước biển   Hồng da cam là màu gắn liền với sự nền nã, dịu dàng, phù hợp với phái nữ. Nó không chỉ là gam màu lý tưởng cho các bức tường mà còn có thể xuất hiện ở những món nội thất như sofa, nệm, gối ôm... Trong khi đó, màu xanh nước biển lại tượng trưng cho sự tươi mát, thúc đẩy sự sáng tạo, thường được phái mạnh ưa chuộng. Kết hợp hai gam màu này với nhau, bạn sẽ có được một cái nhìn hài hoà và không kém phần tinh tế.   Sự phối hợp của hồng da cam và xanh nước biển từ những chiếc ghế sofa hay ghế tựa đã mang đến sự mới mẻ và hiện đại cho phòng khách dưới đây.   
Hồng da cam và xanh biển mang đến cái nhìn hài hòa...
  Còn trong phòng ngủ dịu dàng này, ngoài bức tường màu hồng da cam chủ đạo thì những chiếc gối xinh xắn kết hợp với chăn màu xanh da trời cũng tạo nên không gian thư thái để chủ nhân nghỉ ngơi sau một ngày làm việc vất vả.    Và hiện đại cho không gian sống.

(Theo TTVN)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sắc màu hoàn hảo giúp căn nhà có

Nhìn biểu tướng để biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào

Không dễ gì để đi tìm được câu trả lời cho câu hỏi: Làm sao biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào nhưng bài viết sau đây mang lại cái nhìn tổng quan.
Nhìn biểu tướng để biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không dễ gì để đi tìm được câu trả lời cho câu hỏi: Làm sao biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào nhưng bài viết sau đây mang lại cho độc giả cái nhìn tổng quan nhất về cách chúng ta đầu thai sang kiếp sau.  

Chúng ta đầu thai như thế nào


Đức Phật nói rất rõ trong Kinh Đại Bồ Tích cách chúng ta đầu thai như thế nào từ lúc cha mẹ mình gặp nhau, gần gũi với nhau rồi mình đi vào như thế nào và cách thọ dụng của chúng ta ra làm sao.
 
Thân trung ấm là nam thì thấy cha mẹ gần gũi tham gia với người nữ nhưng kẹt vào đó chúng ta làm con cho nên đa phần con trai thương mẹ, khó hòa hợp với cha. Và ngược lại thân trung ấm là nữ thì tham gia để tiếp xúc với người nam nhưng kẹt vào nên người đó thành cha của mình cho nên rất là thương cha và không thương mẹ bằng. Từng cử chỉ, từng khởi niệm của cha mẹ mà chiêu cảm thần thức của thân trung ấm đó.
 
Nếu cha mẹ khởi tâm ái niệm ở cấp độ nào, tâm sân si thế nào thì đứa con của họ sẽ tương ứng như thế. Có khi là súc sinh, có khi thân trung ấm của ngạ quỷ từ những cảnh giới thấp hơn tới, cho nên có những đứa con có tính khí rất kỳ cục, hung hãn.

Tham khảo: Đức Phật nói về tái sinh, cuộc sống sau khi chết
 
 
Nhin bieu tuong de biet ai do tho sinh sang canh gioi nao
 
Đức Phật đã giải thích rõ trong một bài kệ Kinh Đại Bộ Tích khi một đứa con bình thường vào trong thai mẹ như sau:
 
Đứa bé trong thai mẹ 
 
Hăm bảy lần 7 ngày
 
Do các nghiệp lành dữ
 
Thân tướng hiện xấu đẹp
 
Nếu thai nhi là trai
 
Ở hông bên phải mẹ
 
Ngồi co tay che mặt
 
Hướng về phía xương sống
 
Như thai nhi là gái
 
Thì ở bên hông trái
 
Hai tay úp vào mặt
 
Ngồi hướng về trước bụng
 
Khi người mẹ đi mau hoặc ngồi, nằm hơi lâu

Hoặc ăn các mùi vị nóng lạnh không hợp thân

Hoặc ăn ít ăn nhiều thai nhi đều chịu khổ 
 
Cho nên người có trí
 
Chớ mến nẻo luân hồi   Cách đây mấy ngàn năm Đức Phật đã có thể biết là con trai hay con gái trong bụng mẹ, nhưng chỉ có tuệ nhãn hoặc Phật nhãn mới nhìn thấy được đứa bé trong bụng mẹ. 
 
Ở trong Luận Du Già nói như thế này: “Thai nhi do nghiệp đời trước của mình ảnh hưởng bởi người mẹ gây ra mà tóc, lông, màu sắc làn da hoặc chi phần có sự biến đổi nếu trong lúc mang thai người mẹ ăn nhiều chất vôi, chất mặn, đứa con vì nguyên nhân đó mà long tóc, thưa ít. Người mẹ ở nơi chật hẹp nóng bức hoặc gần chỗ lửa nóng, đứa con bị ảnh hưởng đó màu da trở nên đen xạm, nếu trái lại, thường ở chỗ lạnh thì đứa con có màu da trắng hoặc người mẹ thích ăn nhiều chất nóng về sau hài nhi sẽ có màu da hung đỏ. Nếu trong lúc cấn thai người mẹ còn nhiều dâm dục, đứa con sẽ có làn da ghẻ chóc, sần sùi.  

Trong lúc thai nghén, người mẹ không khéo giữ gìn thường chạy nhảy lăng xăng, làm việc xốc xáo, nặng nề, do ảnh hưởng đó mà các chi phần của đứa con xiên vẹo, không đầy đủ, thẳng thớm như người thường.
 
Nghiep luc keo chung ta vao canh gioi phu hop
 
 
Con cái không đơn giản là di truyền của cha mẹ mà nó có sự cộng nghiệp, có sự tác động qua lại giữa nghiệp của cha mẹ, con cái. Khi cha mẹ gần gũi khởi lên tâm gì, tạo nghiệp gì thì thân trung hữu của chúng sinh ở các cảnh giới còn lại tương ứng thì sẽ tìm tới. Tại vì những thân này có thể đi nhanh, có thể thấy xa và trong 49 ngày này tìm được chỗ rất nhanh để nó thọ sinh.
 
Cộng nghiệp này có nhiều nguyên nhân, có khi gieo từ cái nhân quá khứ là hữu tình nhưng có khi là gieo từ nhân vô tình. Dù cố tình hay vô tình đều có quả báo như nhau. Nghiệp của chúng ta đã là cộng nghiệp tất cả những người trong gia đình đó là cha, mẹ, anh, em. Chúng ta không tránh né được mà nó có sự liên đới với nhau.
 

Sao biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào

  Trong Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận có nói rất là rõ ràng về cảnh giới thọ sinh của chúng ta. Khi chúng ta sắp chết chúng ta hiện ra tướng gì sẽ thọ sinh vào cảnh giới đó.
 
“Con người sắp chết thân tâm hun hủi như ngủ, ngủ mà không phải chiêm bao, không có chiêm bao, lúc ấy minh liệu ý thức không nguyện khởi, không biết được cảnh sở duyên của 6 thức đó là tán hữu tâm còn gọi là sinh tự tâm tức là tâm tán loạn, không tồn tại nhất định hay còn gọi đó là tâm gần khi chết và tâm đó gọi là tâm sinh tử. Bấy giờ do nghiệp lành, nghiệp dữ thân phần dần dần lạnh đi, chỗ nào còn nóng sau cùng thì thần thức đi ra từ chỗ đó”.   
Duc Phat noi ve than trung am
 
Tức là sau 8 tiếng đồng hồ thì thân chúng ta mới lạnh hết, thần thức của chúng ta hoàn toàn rời khỏi thân, chỗ nào còn nóng cuối cùng là nơi thần thức đi ra. 
 
Đầu sinh cõi thánh
 
Mắt sinh trời
 
Bụng nóng ngả quỷ
 
Tim nóng người
 
Bàn sinh thần thức ra đầu gối
 
Nóng ở bàn chân địa ngục thôi.   Người tu tập cao thì trí giác trước khi chết còn, không thì tâm mê muội như là chiêm bao mà không phải là chiêm bao. Trong 8 tiếng sau khi chết, không nên chạm tới người họ vì hễ thần thức còn, cảm giác còn, ai đụng tới thì đau đớn, khi đau khởi tâm sân hận. Đó là cái nhân của cận tử nghiệp sẽ đưa tới cảnh giới sân si.
 
Tham khảo thêm: Hãy cho người thân của mình cơ hội để siêu thoát
 
Tho sinh vao coi tien
 
Để trả lời câu hỏi: Làm sao biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào, câu trả lời nằm trong Kinh Thụ hộ quốc giới, Đức Phật nói về tất cả các hiện tướng của chúng ta lúc lâm chung, quan sát hiện tướng này để biết được người thân của chúng ta sinh vào cảnh giới nào ở tương lai.
 
Đối với những chúng sinh nào khi lâm chung mà sắp sửa đọ vào trong loài SÚC SINH sẽ có 9 biểu hiện như sau: 
 
1. Thân mang bệnh nặng, tâm mê mờ, tán loạn như ở trong mây mù 
 
2. Sợ nghe danh hiệu Phật, không chịu nghe lời ai khuyên bảo điều lành
 
3. Ưa thích mùi tanh
 
4. Quyến luyến vợ, chồng hoặc con, đắm đuối không bỏ rời 
 
5. Các ngón tay, ngón chân đều co quắp lại 
 
6. Toàn thân toát ra mồ hôi.
 
7. Khóe miệng hay chảy ra nước
 
8. Tiếng nói khò khè hoặc rít rắm khó nghe 
 
9. Miệng hay ngậm đồ ăn

Tham khảo thêm: Tại sao mắt thường lại không nhìn thấy linh hồn hay quỷ thần?
 
Đây là 9 hiện tướng biểu hiện cho chúng ta biết rằng những người sắp lâm chung này sẽ sinh vào cảnh giới súc sinh. Và có 11 biểu tướng của người sắp đọ vào NGẠ QUỶ trong giờ phút lâm chung như sau:
 
1. Thân hình nóng như lửa đốt
 
2. Lưỡi luôn liếm ở môi
 
3. Thường cảm thấy đói khát, ưa nói đến chuyện ăn uống 
 
4. Miệng hả ra, không ngậm lại 
 
5. Tham tiếc tiền của, dây dưa không chịu buông bỏ
 
6. Mắt thường trợn trừng lên, không nhắm lại
 
7. Đôi mắt khô khan như mắt của chim gỗ 
 
8. Không có tiểu tiện nhưng đại tiện nhiều
 
9. Đầu gối phía bên phải lạnh trước
 
10. Tai bên phải nắm lại tưởng trưng cho sự keo kiệt
 
11. Lúc tắt hơi, hai mắt mở trừng trừng, không nhắm lại (chúng ta vuốt xong vẫn mở ra lại)
 
Có 16 biểu tượng của người lâm chung họ sẽ đọ về ĐỊA NGỤC:
 
1. Nhìn thân bằng quyến thuộc bằng con mắt oán hận
 
2. Đưa tay lên quờ quạng giữa hư không
 
3. Đại tiểu tiện không tự biết
 
4. Thân có mùi hôi hám
 
5. Nằm úp mặt xuống hoặc che mặt vào trong vách
 
6. Hai mắt đỏ ngầu
 
7. Nằm co về phía bên trái
 
8. Xương lóng đau nhức
 
9. Thiện tri thức dù chỉ bảo họ cũng không tùy thuận 
 
10. Nhắm nghiền mắt không mở ra 
 
11. Mắt bên trái hay động đậy 
 
12. Sống mũi xiên vẹo
 
13. Gót chân, đầu gối luôn run rẩy 
 
14. Thấy ác tướng, vẻ mặt sợ sệt và không nói hoặc sảng sốt kêu la bảo là: Quỷ hiện
 
15. Tâm thức loạn động
 
16. Cả mình giá lạnh, tay nắm lại, thân thể cứng đơ 
 
Vì thế, nên tự gieo nhân an lạc cho mình để mình có thể quyết định tái sinh của mình sau khi kết thúc thân này trong giai đoạn chúng ta thọ thân kế tiếp - giai đoạn giữa của trung ấm thân và biết để mình giúp cho người thân tâm không bị loạn động.
 
Trong Tạp Lục Sử ghi rõ ràng hơn Thân trung ấm nào sắp sinh vào cõi A tu la (cảnh giới không chánh định) thì sẽ thấy những vườn cây khả ái và những vầng lửa lẫn lộn xoay quanh. Nếu cảnh tưởng ấy thấy rõ thì hiện ra trước mắt lòng người vui vẻ liền đi tới và ngay lập tức thác sinh vào cảnh giới này.    Trung ấm nào thọ sinh vào loài chó, heo thì thường thấy những cô gái đẹp, vì ưa thích chạy vào do nhân duyên đó mà bị. đọ sinh sang chó, mèo.
 
Trung ấm nào sắp đọ vào loài súc sinh khác cảm thấy có những luồng gió mãnh liệt cuốn lôi mình đi không thể cưỡng lại được hoặc thấy có vô số quỷ thân cặp những binh khí đuổi rượt hoặc thấy lửa cháy lan tới rần rần, sấm sét phủ quanh dữ dội, sương mù phủ dăng mịt mờ, núi lở, biển gầm sóng. Tự mình sợ hãi chạy vào trong rừng bụi, hang đá mà lẩn trốn, hoặc khi đó thấy ba cái hố trắng, đỏ, đen liền nhảy vào trong đó mà ẩn thân do nhân duyên đó mà bị thọ thân vào các loại súc sinh như hùm, beo, nai, chồn, rắn, rết,… 
 
Trong kinh Đại bảo tích, Đức Phật nói Đại Dược Bồ Tát như thế này: Những chúng sinh tạo nghiệp ác sắp đọ vào địa ngục tự nhiên có lòng buồn thảm, kinh sợ tùy theo bổn nghiệp mà thấy hình tướng của các thứ địa ngục. Khi thần thức lìa thân liền sinh vào nơi đó hoặc có kẻ thấy phương khác có dáng đỏ tươi dường như là máu rưới liền sinh lòng đắm nhiệm do nhân duyên đó mà thọ sinh.

Xem thêm: Phải chăng mỗi con bướm là một linh hồn?
 
Kinh Thụ Hộ Quốc giới có nói về người lúc lâm chung sẽ sinh về cõi GIỚI LÀNH:
 
Thọ sinh về loài NGƯỜI có 10 biểu tướng sau:
 
1. Thân không bệnh nặng
 
2. Khởi niệm lành, sinh lòng hòa dịu, vui vẻ, vô tư, ưa những chuyện phước đức
 
3. Ít nói chuyện thô, nhớ nghĩ đến cha mẹ vợ con mà không luyến ái
 
4. Đối với việc lành hay dữ tâm không lầm loạn, phân định rõ ràng 
 
5. Sinh lòng tin thanh tịnh, tam bảo đối diện mà quy y
 
6. Con trai con gái đều đem lòng thương mến mà gần gũi, coi như là việc thường 
 
7. Tai muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bạn bè
 
8. Tâm chính trực không xu nịnh
 
9. Rõ biết bạn bè giúp đỡ cho mình, khi thấy bà con săn sóc sinh lòng vui mừng, không oán trách, than van
 
10. Dặn dò giao phó các việc còn lại cho thân quyến rồi tỉnh táo từ biệt ra đi 
 
Sau đây là 10 biểu tướng sinh vào CÕI TRỜI:
 
1. Sinh lòng thương xót 
 
2. Phát khởi thiện tâm
 
3. Lòng thường hoan hỉ 
 
4. Chánh niệm liên tục
 
5. Đối với tiền bạc hay vợ con không còn tham luyến 
 
6. Đôi mắt sáng sạch 
 
7. Ngước mặt trông lên miệng mỉm cười hoặc tai nghe thiên nhạc mắt thấy thiên đồng 
 
8. Thân không có mùi hôi.
 
9. Sống mũi ngay thẳng 
 
10. Lòng không giận dữ, oán hận 

 
Những chúng sinh sắp sinh lên cõi trời thì có thiên nhãn thấy được y báo và chánh báo ở ngay trong 6 cõi dục này, chúng sinh đó thấy nhiều cung điện tốt đẹp, vườn hoa, cây quý và luôn có tâm hoan hỉ. Tất cả những chư vị ở cõi trời hiện ra đều có thân tướng đoan nghiêm, trang sức bằng những chuỗi an lạc.

Những thiên tử và ngọc nữ dạo chơi khắp nơi đối với nhau bằng tâm hỉ lạc. Lúc thấy các tướng như thế, chúng sinh ấy tự nhiên sinh lòng tùy hỉ khi đó tâm không điên đảo, miệng không có mùi hôi, tay và mắt giống như đóa hoa sen xanh, thân thể không chảy máu cũng không ra điều bất tỉnh, tay chân không co rút lại khi lâm chung.

Kẻ ấy thấy được nhiều hoa và kiệu xe đến đón, xe đó rộng lớn có đến ngàn cây cao tốt, trang nghiêm bằng hoa thơm chuỗi ngọc, lưới châu linh báo từ nơi bảo linh phát ra các tín nhiệm màu của phật pháp, mùi thơm bay phảng phất, vô lượng chư thiên cũng đem xe đến đón khi đó thấy các tướng trạng như thế tâm sinh hoan hỉ, yên ổn mà xả báo thân chắc chắn người này sinh lên cõi trời.

Khi chúng ta đi tìm câu trả lời rồi mai đây mình hay người thân sẽ thọ sinh sang cảnh giới nào cũng chỉ là để biết từ bây giờ nên sống tốt với tâm ngay thẳng và trước lúc chết giúp người lúc lâm chung không bị tâm loạn động chứ cơ bản không thể giúp họ từ cảnh giới này sang cảnh giới khác. Những gì họ nhận được tất cả là do nhân quả khi sống tạo thành nghiệp dẫn lối họ sang kiếp sau.

Minh Minh
 
Bảy cửa ải sau khi chết con người phải trải để đầu thai sang kiếp khác Chuyện lạ khó tin nhưng có thật: Người chuyển kiếp thành... chó 5 trường hợp được đầu thai chuyển kiếp làm người

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn biểu tướng để biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào

Tướng mặt phú quý hay vất vả

Tướng mặt không tốt thì không thể làm quan, không giữ được cơ nghiệp tổ tông, sống cô quả,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tướng mặt Phú quý

tuong-phu-quy-1

Xem tướng mặt của một người chúng ta có thể biết được sự sướng khổ, vui buồn của người đó.

Bộ vị Thiên đình, Trung chính bằng phẳng, rộng thoáng lại tươi sáng, Ấn đường cần phải trong sáng.

Sống mũi trên dưới nối liền nhau, chóp mũi phải tròn dày, miệng phải vuông vức, cằm vuông tròn, mắt dài linh hoạt, gò thân thể mềm mại, tương hỗ bổ sung, như thế là cát tướng.

2 bộ vị Lan đài, Đình úy (2 bên cánh mũi) phải cân đối hài hòa, trái phải 2 bên mũi đến 2 đường vân Pháp lệnh ở bên cạnh miệng phải ngay thẳng.

2 cánh mũi phụ giúp bộ vị Kim quỹ, Hải giác tươi sáng, Tam âm Tam dương không khô kiệt, Long chỉ, Hố khẩu tương đương, Ngũ nhạc, Tứ độc không bị khắc hại, đó là hình tướng tốt.

2. Tướng mặt vất vả

Trán hẹp gọi là Thiên không. Người có tướng mặt như thế, không thể làm quan, không giữ được cơ nghiệp tổ tông, sống cô quả, thậm chí còn khắc hại cha mẹ. Những người này trước 50 tuổi mọi việc đều rất bất lợi.

Cằm nhọn gọi là Địa không. Người mà các góc cạnh ở cằm không rõ ràng, về già cô đơn, cuộc sống nghèo khổ, vợ con có cuộc sống vất vả, tình cảm vợ chồng cũng không bền chặt, quan hệ với họ hàng thân thích cũng không hòa thuận.

Bộ vị Thiên thương của góc bên ngoài mắt lệch gọi là Nhất không. Những người có tướng mặt như vậy thường là mệnh nghèo nàn. Tài sản trong nhà khó mà giữ được, cả đời khổ sở bôn ba, đến cuối đời cũng không sung sướng.

Thành quách ở tai không rõ ràng là Nhất không. Người có tướng mặt như thế không những sự nghiệp mà còn cả danh lợi đều không thành công, đoản mệnh, làm việc gì cũng không suy tính, số mệnh nghèo túng.

Bộ vị Sơn căn xiên lệch cũng gọi là Nhất không. Người có tướng mặt như vậy phải sống xa quê hương, mưu sinh ở bên ngoài, không hay giúp đỡ họ hàng thân thích, quan hệ với người thân cũng không tốt, quan hệ với anh em cũng có cách trở, vì thế không thể giúp đỡ được họ.

Lỗ tai lộ gọi là Nhất không. Những người có tướng mặt như thế thường tài sản phá tán, quan hệ với họ hàng thân thích không tốt, quan hệ vợ chồng cũng không hòa thuận, tài sản của tổ tông không giữ được.

Râu mọc dưới cằm mà không có ở quanh miệng cũng gọi là Nhất không. Những người có tướng mặt như thế dù có cố gắng làm việc cũng khó mà thành công được, quan hệ với bạn bè không tốt, gia tài hao tổn, con cháu cũng không giàu có.

Không rõ dái tai cũng gọi là Nhất không. Những người có tướng mặt như thế thường phải sống xa quê hương, cuộc sống nghèo túng, cả đời không làm được việc gì lớn. Râu ở quanh miệng không dài bằng râu ở cằm cũng gọi là Nhất không. Người có tướng mặt như vậy phải sống cô quả, cuối đời khổ sở, thiếu cơm ăn áo mặc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt phú quý hay vất vả

Chọn đồng hồ treo tường hợp phong thủy

Nếu treo hoặc đặt đồng hồ tại phía đông hoặc đông nam của căn nhà, tốt nhất nên lựa chọn màu xanh ngọc, xanh lá cây.
Chọn đồng hồ treo tường hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu treo hoặc đặt đồng hồ tại phía đông hoặc đông nam của căn nhà, tốt nhất nên lựa chọn màu xanh ngọc, xanh lá cây, có hình vuông sẽ cát lợi, bởi vì các màu sắc và hình dạng đều thuộc Mộc.

Chon dong ho treo tuong hop phong thuy hinh anh
(Ảnh minh họa)

Nếu treo hoặc đặt đồng hồ tại phía nam, nên chọn các gam màu đỏ, tím, vàng cam với hình bát giác sẽ cát lợi vì màu sắc và hình dạng đều thuộc Hỏa.

Nếu treo hoặc đặt đồng hồ tại phía tây nam hoặc phía đông bắc, nên chọn các màu vàng hoặc nâu với hình vuông sẽ cát lợi vì màu sắc và hình dạng đều thuộc Thổ.

Nếu treo hoặc đặt đồng hồ tại phía tây hoặc tây bắc nên chọn màu trắng hoặc vàng sẽ cát lợi, vì màu sắc và hình dạng đều thuộc Kim.

Nếu treo hoặc đặt đồng hồ tạo phía bắc nên chọn màu xanh lam hoặc đen, với hình tròn sẽ cát lợi, vì màu sắc và hình dạng đều thuộc Thủy.

Theo Bát Trạch Minh Kính


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn đồng hồ treo tường hợp phong thủy

Văn Khấn Tết Hạ nguyên (mồng 1, 10, 15/10 Âm lịch)

Văn Khấn Tết Hạ Nguyên được dùng vào Tết Hạ Nguyên, mọi người mua gạo mới để tỏ lòng hiếu thuận, biết ơn bề trên.
Văn Khấn Tết Hạ nguyên (mồng 1, 10, 15/10 Âm lịch)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Tết Hạ nguyên (mồng 1, 10, 15/10 Âm lịch)  Theo phong tục dân gian Tết Hạ Nguyên được tiến hành vào ngày mồng Một hoặc mồng Mười, cũng có thể là ngày Rằm tháng 10 Âm lịch hàng năm.

Theo quan niệm của ông bà ta ngày xưa, những ngày này Thiên Đình cử thần Tam Thanh xuống trần gian để xem xét việc tốt xấu về tâu với Ngọc Hoàng. Do vậy, mọi nhà phải tiến hành làm lễ để thần Tam Thanh ban phúc lành, tránh tai họa và cũng là dịp “‘tiến tân” cơm gạo mới cúng tổ tiên.

Nhân Tết Hạ Nguyên mọi người đều mua quà và gạo nếp mới cùng những đặc sản lúc giao mùa Thu Đông biếu ông, bà, cha mẹ và những bậc được tôn kính để tỏ lòng hiếu thuận, biết ơn bề trên.

Sắm lễ cúng tết Hạ nguyên (mồng 1, 10, 15/10 Âm lịch)

Theo phong tục từ cổ xưa, ngày tết Cơm Mới (tết Hạ Nguyên) nhà nhà đều nấu xôi gạo mới, sắm sửa hương hoa, đèn nến cùng mâm lễ mặn thơm ngon tinh khiết để cúng tổ tiên.

Văn khấn tết Hạ nguyên (mồng 1, 10, 15/10 Âm lịch)

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.

Tín chủ (chúng) con là:………………………Ngụ tại:………….

Hôm nay là ngày mồng Một (mồng Mười Rằm) tháng Mười là ngày Tết Cơm Mới, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, nấu cơm gạo mới, thắp nén tâm hương dâng lên trước án.

Trộm nghĩ rằng:

Cây cao bóng mát

Quả tốt hương bay

Công tài bồi xưa những ai gây

Của quí hóa nay con cháu hưởng

Ơn Trời Đất Phật Tiên, Chư vị Tôn thần

Sau nhờ ơn Tổ tiên gây dựng, kể công tân khổ biết là bao

Đến nay con cháu dồi dào, hưởng miếng trân cam

Nay nhân mùa gặt hái

Gánh nếp tẻ đầu mùa

Nghĩ đến ơn xưa

Cày bừa vun xới,

Sửa nồi cơm mới

Kính cẩn dâng lên

Thường tiên nếm trước

Mong nhờ Tổ phước

Hòa cốc phong đăng

Thóc lúa thêm tăng

Hoa màu tươi mới

Làm ăn tiến tới

Con cháu được nhờ

Lễ tuy đơn sơ

Tỏ lòng thành kính

Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần. Cúi xin các Ngài giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các cụ Tổ khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ……………, cúi xin thương xót con cháu linh thiêng hiện về chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Tết Hạ nguyên (mồng 1, 10, 15/10 Âm lịch)

Các lễ hội trong ngày 20 tháng 7 âm lịch - Hội Bơi Làng Võng La

Hội Bơi Làng Võng La được tổ chức vào ngày 20 tháng 7 và ngày 10 tháng 10 âm lịch tại Thôn Võng La, xã Võng La, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội trong ngày 20 tháng 7 âm lịch - Hội Bơi Làng Võng La

Các lễ hội trong ngày 20 tháng 7 âm lịch - Hội Bơi Làng Võng La

Hội Bơi Làng Võng La

Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 7 và ngày 10 tháng 10 âm lịch.

Địa điểm: Thôn Võng La, xã Võng La, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn ba vị đại vương là: Cung Mạc, Linh Khôn và Minh Chiêu (là những người có công giúp vua Hùng thứ 8 đánh giặc).

Nội dung: Theo các cụ, hội làng xưa được tổ chức một năm hai lần. Tháng bảy và tháng mười. Hội tháng bảy từ ngày 19 đến ngày 21, chính hội là ngày 20. Đó là hội tưởng niệm công đức bà mẹ đã sinh ra ba anh hùng. Hội có trò vui nhất là thi bơi chải như để nhắc nhở nghề chài lưới của làng.

Thuyền thi đấu được làm bằng một cây gỗ to đục rỗng, thuyền độc mộc. Đầu thuyền chạm rồng, đuôi thuyền vuốt lại như đuôi tôm. Mỗi thuyền có 7 người gồm 6 tay bơi và 1 lái mặc gọn ghẽ. Trước cuộc đua, các lái lên đình lễ cáo thánh. Mỗi thuyền đại diện một giáp và xếp thành hàng ngang chờ lệnh xuất phát. Tiếng trống vừa nổi lên các tay bơi ra sức thi tài, tiếng hò reo của nhân dân cổ vũ cho đội của mình náo nhiệt cả một khúc sông. Thuyền đoạt giải nhất thì sung sướng đã đem lại danh dự cho phe giáp mình và thấy xứng đáng là con cháu của người mẹ đã sinh ra ba vị thành hoàng làng. Người thua cuộc cũng yên tâm là mình đã đem hết sức đua tài để giữ gìn truyền thống thượng võ của làng.

“Bơi Đăm, rước Giá, hội Thày,

Vui thì vui vậy không tày Chài bơi”

Hội tháng mười mở ra từ mồng 10 tới 13 mà chính hội là ngày 11. Ngày 10, mở hội là lễ mộc dục.

Lễ rước nước cử hành từ đình. Đám rước đi trong tiếng nhạc trầm hùng. Tới bờ sông có thuyền rồng chờ sẵn, chỉ có người khiêng kiệu nồi choé, chủ thuyền và quan tế được lên thuyền, ra giữa lòng sông lấy nước vào choé rồi bơi quay vào bờ. Đám rước đi đến chùa Chài. Trong khi đó ở đình cũng đã tổ chức một đám rước khác mang kiệu ở đình xuống chùa để rước nước về đình làm lễ mộc dục. Đám rước này vui vẻ náo nhiệt. Đi đầu là múa sênh tiền, múa lân, tiếp đến là đội cờ thần, rồi phường bát âm với sáo nhị, kèn trống tấu nhạc râm ran… sau nữa là kiệu bát cống rồi tới quan tế và nhân dân. Lúc này cả vùng quê ven sông Hồng rộn trong tiếng nhạc, tiếng trống hội. Tới chùa làm lễ nhận choé nước rước về đình làm lễ mộc dục. Sáng ngày 11 có tổ chức tế lễ từ sáng tới trưa để dân làng tưởng nhớ công đức các thánh.

Hội làng Chài hàng năm đó là dịp hội tụ con dân các dòng họ, phe giáp đồng đua tài trong tinh thần tưởng nhớ tổ tiên và cùng hợp quần chung sống trong tình thương yêu đùm bọc nhau, đúng như bốn chữ lớn trên bức đại tự ở đình thắm nét: “Đồng tôn hợp khánh”, ý nói con cháu cùng sống trong niềm vui chung, sự đoàn kết toàn dân mới có sức mạnh chiến thắng thiên nhiên và giặc ngoại xâm.

Uống nước nhớ nguồn, hội thi bơi chải tuy ngày nay chưa khôi phục được song dưới luỹ tre làng các cụ già vẫn ru cháu bằng câu ca nghe sao đầm ấm mà bình dị biết bao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội trong ngày 20 tháng 7 âm lịch - Hội Bơi Làng Võng La

Nhìn tướng đi biết ngay sướng hay khổ - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Nhìn tướng đi biết ngay sướng hay khổ, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Nhìn tướng đi biết ngay sướng hay khổ, tu vi Nhìn tướng đi biết ngay sướng hay khổ, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhìn tướng đi biết ngay sướng hay khổ

Tướng đi khoảng cách không đều, bước dài bước ngắn là người có tính nết hồ đồ, chỉ thích những điều hào nhoáng, bạc nhược về lý trí.

Dáng đi cũng nói lên được cuộc sống của bạn vinh nhục sung sướng ra sao. Bạn có thấy tò mò không? Xem ngay nhé!

1. Tướng đi hình chữ (V), hai đầu bàn chân bẹt ra, hai gót chụm lại: là người bảo thủ, cố chấp nhưng lại có óc văn nghệ.

2. Tướng đi ngắn: là người bạc nhược, không có óc cầu tiến, ham nhục dục.

3. Tướng đi hình chữ bát: hai đầu bàn chân chụm lại, hai gót chìa ra: là người thích phô trương, ưa bợ đỡ, nịnh hót. Tính tình ky bo nhưng có óc thông minh tiến thủ, có đôi khi đoạt thời cơ cũng được thành công.

4. Tướng đi gấp rút: là người có tính nết nóng nảy, ưa hoạt động, ương ngạnh, thích kiếm tiền hơn là nghệ thuật, ý chí rất công bằng.

Bestie-tuong-di

5. Tướng đi co giò rút chân lên quá cao, giống như bước chân con hạc: người tánh tình đạm bạc, thích cô độc, đầu óc giản dị, có tài nghệ giỏi nhưng không mấy tích cực

6. Tướng đi kéo lê bước: người có tâm xảo quyệt, hẹp hòi, kém trách nhiệm, ham vật chất.

7. Tướng đi khoảng cách không đều, bước dài bước ngắn: người có tính nết hồ đồ, chỉ thích những điều hào nhoáng, về lý trí bạc nhược.

8. Tướng đi hàng một và thẳng người: là người xem thường sinh tử, mạnh dạn làm việc nghĩa, trọng nghĩa hơn tài nhưng có hành động hấp tấp và vọng động.

9. Tướng đi thân hình ngã gục về phía trước: là người có nghị lực dám làm, có tinh thần mã thượng nhưng trí tuệ không được đầy đủ, hay suy xét sự lợi hại, quyết đoán mau lẹ nhưng hay nhầm lẫn và mau quên.

10 Tướng đi hàng đôi, là hai đầu chân không thẳng hàng: là người thẳng thắn nhưng kiêu ngạo, háo danh. Đầu óc có tiến thủ, khẳng khái tranh đấu nhưng thiếu tự tin.

11. Tướng đi dài: người sở hữu tướng đi này có lý trí và tình cảm đầy đủ, tính tình khoan hậu, ngay thẳng không lừa gạt, thích khoe khoang, không chịu nhân nhượng kẻ khác.

12. Tướng đi thân hình đong đưa, như bước đi của loài vịt: là người có tính nết thô lậu, thích hư vinh, cảm tình hời hợt, đối với kim tiền rất ưa chuộng và tính toán, ít thật tâm.

13. Tướng đi mà phần thân dưới từ bụng tới mông hơi giao động chút ít: người có tính tình ôn hòa, kiên nhẫn, lạc quan.

14. Tướng đi nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, khoảng cách giữa các bước đều đặn và hơi ngắn: là người sống thực tế, tính tình độ lượng, dung hòa bạn bè, gia đình yên ổn.

15. Tướng đi đều đặn, khoảng cách dài, chân không quá co như chân hạt, chân tới trước, thân hình tới sau, thẳng người không nghiên lệch: là người có tính tự phụ, có tài năng, việc làm chính xác và mau lẹ nhưng không thích bị ràng buộc và gò bó, người có uy tín.

16. Khi đi thường có thói quen thọc hai tay vào túi quần hoặc hai tay chống nạnh, đầu hay cúi về phía trước: là người có tính khinh người, khoác lác, thích nịnh bợ.

17. Tướng đi mà thân hình lắc lư như rắn bò, chân bước nhún nhảy như chim chìa vôi: là người có số kiếp long đong, cuộc sống tạm bợ, ít hạnh phúc gia đình.

18. Tướng đi quá nhanh, như gấp rút một việc gì: là người có tính bồng bột, bộp chộp, thiếu chủ tâm, ít nhận xét, làm theo dục vọng, tính tình bừa bãi, quan niệm một chiều.

19. Tướng đi đầu thường cúi gầm xuống đất: là người số không được thọ, thiếu hạnh phúc, tâm tính ít mở mang, cuộc sống khó phát triển.

20. Tướng đi đầu ngã về phía sau, ngực và bụng ưỡn ra phía trước: là người thiếu nghị lực, nhu nhiều cương ít, tính hay cầu an, hiền hòa nhưng thiếu khôn ngoan mưu kế, làm việc ít nhanh lẹ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng đi biết ngay sướng hay khổ - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Xem bói, cổng trời thu nhỏ trên móng tay

Móng tay ngụ ý tốt tiêu chuẩn là hình dáng, độ dài ngắn, dãy mỏng thích hợp. Màu sắc móng tay phải hồng nhuận mà không có màu tạp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Móng tay ngụ ý tốt tiêu chuẩn là hình dáng, độ dài ngắn, dãy mỏng thích hợp. Màu sắc móng tay phải hồng nhuận mà không có màu tạp, nếu không sẽ cho thấy tính cách của người này nóng vội, cố chấp, tố chất cơ thể kém, họ cũng có thể bị mắc bệnh mãn tính, cần phải chú ý.

Móng tay có thể cho thấy tình hình sức khỏe và trạng thái tinh thần. Móng tay của người thành niên từ chân móng dài lên đến hết ngón mất khoảng 100 ngày, điều này cho thấy tình trạng sức khỏe của người đó trong vòng 3 tháng. Do đó, từ hình dạng của móng tay cũng có thể đoán biết được tính cách của con người, nhưng nếu cắt sửa móng tay thì phải quan sát cẩn thận hơn.

xem-boi-mong-tay

1. Hình dáng bên ngoài móng tay

Hình vuông: Người có móng tay kiểu này là người có tâm thái cân bằng, có thể đưa ra được kế hoạch, từng bước tiến tới mục
tiêu. Nhưng khuyết điểm của họ chính là khi kế hoạch đột ngột thay đổi họ không thể đoán biết trước được, về mặt tính cách, người này vô cùng nhạy cảm, thường quá lo lắng, thiếu cảm giác an toàn, cần có người bầu bạn.

Hình thuôn dài: Người có móng tay kiểu này sông nguyên tắc, có vẻ tĩnh tại của nhà lý luận, là người đáng tin cậy nhưng họ thích cười nhạo người khác, đó là một điểm đáng phải phê bình.
 Hình tam giác ngược: Người có kiểu móng tay này tình trạng sức khỏe tưởng như tốt nhưng trên thực tế họ lại rất nhiều bệnh tật, có thể bị cảm nhiễm ảnh hưởng đến não hoặc bị bệnh về tủy sống, thậm chí còn bị trúng gió, phải nhanh chóng tới bệnh viện để điều trị.

Hình mũi nhọn: Người có kiểu móng tay này bạc tình bạc nghĩa, coi trọng lợi ích bản thân, không quan tâm tới người khác. Người không biết cách ăn uống hợp lý cũng thường khiến cho móng tay biến thành hình dạng này.

Hình quả cau: Người có kiểu móng tay này thường thích hư vinh, thích tạo ấn tượng với người khác. Phần lớn họ có nhu cầu vật chất rất cao, không thích chuyên tâm vào chuyện học tập hoặc công việc, vì vậy mà không tích lũy được tiền bạc.

Hình hạnh nhân: Người có kiểu móng tay này là người trầm tĩnh, nho nhã, là mẫu người thục nữ. Họ có cảm hứng, khiếu thẩm mỹ cao, cuốn hút người khác. Nhưng họ thiếu thực tế, khả năng đối phó với tình hình đột xuất khá yếu.

Hình vỏ sò: Người có kiểu móng tay này rất dễ bị cảng thẳng, cho nên thân tâm cũng theo đó mà thể hiện trạng thái căng thẳng cao độ. Nên chú ý thả lỏng, không nên quá miễn cưỡng bản thân.

Hình không theo quy tắc: Người có kiểu móng tay trên to dưới nhỏ này làm việc không có khả năng quán xuyến, không thể làm việc đến
đầu đến đũa. Hơn nữa kiểu móng tay nàv còn cho thấy thề lực của họ đang bị suy giảm. Nếu hai bên móng tay bị lõm xuống thịt, khiến cho tổng thể bị thu hẹp lại, cho thấy khí lực của họ đã gần suy cạn. Mặc dù như vậy nhưng người có kiểu móng tay này rất nhạy cảm trên phương diện tình
cảm, họ có thể cảm nhận được những biến đổi nhỏ, rất thích hợp làm những việc như tư vấn tình cảm.

2. Trạng thái móng tay và tình trạng sức khỏe

Trạng thái móng tay có thế phản ánh được tình trạng sức khỏe. Trạng thái của móng tay thường báo hiệu những căn bệnh tiềm ẩn trong cơ thể.

Hình bán nguyệt bị nứt: Hình bán nguyệt màu trắng ở gốc móng tay sẽ tùy theo tình trạng sức khỏe của cơ thể mà xuất hiện hoặc biến mất. Khi tinh lực dồi dào, hình bán nguyệt sẽ to lên, khi cơ thế không còn sức lực dồi dào nữa thì hình bán nguyệt tự nhiên sẽ biến mất. Móng tay của người nào có hình bán nguyệt người đó sẽ có thể chất khỏe mạnh.

Màu sắc của móng tay: Móng tay xuất hiện màu đỏ nhạt của hoa anh đào khá lý tưởng. Người có móng tay quá đỏ, tính tình dễ nóng nảy, dễ hưng phấn, phải chú ý tới các bệnh về hệ thông tuần hoàn. Người có móng tay khá trắng, tính tình khá lãnh đạm, dễ bị thiếu máu, cần chú ý đề phòng các bệnh về tuần hoàn máu.

3. Cổng trời thu nhỏ trên móng tay

Bộ phận màu trắng hình bán nguyệt ở đoạn gốc móng tay được gọi là hình bán nguyệt. Hình bán nguyệt xuất hiện ở ngón tay cái là lớn nhất, trên ngón trỏ thì khá hẹp, ngón giữa thì khá dài, còn trên ngón vô danh và ngón út lại càng hẹp, thậm chí ở ngón út có thể không xuất hiện hình bán nguyệt. Nếu hình này xuất hiện chiếm 1/5 chiều dài của móng tay cho thấy tình trạng sức khỏe hiện tại rất tốt.

Hình bán nguyệt quá lớn: Biểu thị tốc độ tuần hoàn huyết dịch bên trong cơ thể quá nhanh, dễ bị bệnh cao huyết áp hoặc vỡ huyết quản dẫn tới não xuất huyêt. Mức độ chiếm 1/3 móng tay cũng báo hiệu bị bệnh tim.

Hình bán nguyệt quá nhỏ: Tuần hoàn huyết dịch trong cơ thê quá chậm, tình trạng sức khỏe khác thường, đã ở Vào trạng thái quá mệt mỏi, dễ xuất hiện hiện tượng tụt huyết áp, dẫn tới thiếu máu hoặc máu cung cấp lên não không đủ

Mỏng tay cứng: Móng tay cứng mà tính đàn hồi rất tốt, phần lớn biểu thị tình trạng sức khỏe tốt, là người có cơ thế khỏe mạnh. Tuy cứng mà thiếu sức đàn hồi có ngụ ý ngược lại, biểu thị bên trong cơ thể có bệnh.

Móng tay mềm: Người có kiểu móng tay này cho thấy thế lực rất yếu nhưng chỉ cần không quá mềm là được. Ngoài ra, khi phân tích, phán đoán cũng cần chú ý, móng tay đàn ông thường là cứng, móng tay của phụ nữ thường mềm.

Móng tay dày: Móng tay vừa dày vừa cứng cho thấy tố chất cơ thể khỏe mạnh, giàu sức sống, làm việc vui vẻ, tích cực, có thể khắc phục được nhiều khó khăn. Khuyết điểm chính là quá tự cao tự đại, luôn cho mình là nhất, có ý thức chủ quan mãnh liệt. Đôi khi họ còn vì vậy mà gây thù kết oán.

Móng tay ngắn: Móng tay quá ngắn cho thấy tình trạng sức khỏe không tốt, tim dễ bị bệnh, là người có khả năng kiềm chế kém, không thích hợp với những công việc chịu áp lực cao, thích hợp với những công việc nghiên cứu học thuật.
 Móng tay mỏng: Nếu móng tay vừa mỏng vừa mềm cho thấy bẩm sinh đã có bệnh tật, nói chung là thường mắc nhiều bệnh, thường phải nằm viện, tinh thần bế tắc, tính tình hướng nội. Khi gặp phải chuyện kích động thì họ rất dễ rơi vào tâm trạng lo lắng, bất an.

Móng tay dài: Nếu móng tay quá dài cho thấy thế lực không được tốt, nói chung người này thiếu vận động. Tình trạng sức khỏe cơ thể cũng khiến người khác phải lo lắng, tính tình nhạy cảm, làm việc cẩn thận, tỉ mỉ, lòng đố kỵ mạnh, thường để ý những điều vặt vãnh ở những người xung quanh.

Móng tay lõm xuống: Nếu móng tay bị lõm xuống có nghĩa là ỏ giữa móng tay xuất. hiện vết lõm, cho thấy là người có thần kinh quá nhạy cảm, dễ bị mất ngủ hoặc có hiện tượng nghiện rượu, sử dụng nhiều thuốc, thiếu ý chí, dễ bị chìm đắm.

Móng tay lồi lên: Móng tay có hình dạng lồi lên nghĩa là trên móng tay có chỗ nhô cao cho thấy thể chất không tốt, hệ hô hấp bị bệnh, nên phòng hệnh hen suyễn hoặc bệnh phổi. Chỗ lồi càng cao thì cho thấy vấn đề càng nghiêm trọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói, cổng trời thu nhỏ trên móng tay

Tử Vi - ngôi sao may mắn trong số mệnh

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Tử Vi là âm Thổ, trung tâm của các vì sao, được coi là ngôi sao may mắn trong số mệnh.
Tử Vi - ngôi sao may mắn trong số mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Tử Vi là âm Thổ, trung tâm của các vì sao, được coi là ngôi sao may mắn trong số mệnh.


Tu Vi - ngoi sao may man trong so menh hinh anh
 
Sao Tử Vi có hóa khí là tôn quý, chủ cung Quan Lộc. Tại số chuyên quản về tước lộc, có khả năng giải ách, kéo dài tuổi thọ, có khả năng chế hóa hung tính các sát tinh, có sức mạnh che chở, xuất hiện tại cung nào cũng có khả năng tạo phúc trừ tai, giảm hung họa. Nếu vận hạn gặp được sao Tử Vi thì bình an, tăng thêm tốt lành.
 
Sao Tử Vi tuy là sao Đế Tọa, địa vị tôn quý nhưng lại không nên đứng một mình. Vì nếu đứng một mình chẳng khác nào vị vua cô độc trên ngai vàng, thiếu tôi hiền trợ giúp, dễ trở nên độc đoán, chuyên quyền tạo cơ hội cho tiểu nhân, kẻ dưới lấn lướt, khó phát huy được hết uy lực, có tài năng nhưng không có người phò tá nên thường vất vả, dễ suy yếu.
 
Sao Tử Vi ưa gặp sao Tả Phụ, Hữu Bật phò tá; gặp Thiên Tướng, Văn Xương, Vũ Khúc làm tùy tùng; gặp Thiên Khôi, Thiên Việt truyền lệnh; gặp Thái Dương, Thái Âm phân chức; gặp Thiên Lộc, Thiên Mã để cai quản tước vị; gặp Thiên Phủ cai quản kho tàng. 
 
Nếu gặp các sao trên đồng cung hoặc nằm tại Tam phương Tứ chính hội chiếu sẽ tạo thành cách cục “Quần thần khánh hội”, rất tốt. Ngoài ra, uy lực của Tử Vi có thể khắc chế Hỏa tinh, Linh tinh thành thiện, giáng Thất Sát làm quyền. Sao Tử Vi gặp hung tinh tuy hóa cát nhưng giảm lực, vua vô đạo.
 
Sao Tử Vi nằm tại cung Ngọ, không gặp sát tinh xung phá là cách cục “Cực hướng Ly minh”, chủ về phú quý. Hai sao Tử Vi và Thiên Phủ nếu đồng cung hoặc tại cung đối chầu về cung mệnh là cách “Tử Phủ đồng cung”, chủ về giàu có. Nếu Tử Vi hoặc Thiên Phủ miếu, vượng nằm tại cung Mệnh , Tam phương Tứ chính lại có cát tinh là cách “Tử Phủ triều viên”, chủ về tước lộc dồi dào.  
► ## cung cấp công cụ luận giải lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác

ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi - ngôi sao may mắn trong số mệnh

Điều kiêng kỵ bạn nên biết khi đi lễ chùa

Đi lễ chùa đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa và tâm linh của người Việt. Tuy nhiên có những điều kiêng kỵ khi đi lễ chùa mà không phải ai cũng biết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sau đây là những điều kiêng kỵ bạn nên biết khi đi lễ chùa. 

- Trước hết, vào chùa nên đi từ cửa bên, không đi cửa chính giữa; đồng thời không dẫm lên bậu cửa khi bước vào, nếu không sẽ phạm phạm tội bất kính. Cửa chính nhà chùa từ xưa đến nay chỉ đức Phật, Ngọc đế, quốc vương một nước mới được ra vào. Vì thế, có nhiều ngôi chùa ngày thường không mở cửa chính.

- Vào Phật đường, đi vòng quanh tượng Phật, khu vực tam bảo, đi từ phải sang trái, niệm tên Phật “A di đà phật”. Bởi theo quan niệm đạo Phật, bạn sẽ được hưởng 5 điều phúc đức: Hậu sinh đoan chính, đẹp; lời ăn tiếng nói rõ ràng dễ nghe; hóa sinh thăng thiên; có thể được sinh ra trong gia đình quyền quý; siêu sinh đạo Niết Bàn.

- Khi đi lễ chùa bạn nên thắp hương tại đỉnh đặt bên ngoài, hạn chế thắp hương bên trong chùa, vì có thể gây ảnh hưởng đến tượng Phật, pháp khí.

- Không đứng hoặc quỳ chính giữa Phật đường lễ Phật mà nên quỳ lễ chếch sang bên trái hoặc phải một chút. 

- Lễ chùa bạn phải ăn mặc giản dị, sạch sẽ, đặc biệt không mặc váy ngắn, quần cộc, áo hở lườn hở nách… Nếu không, bạn sẽ vừa phạm giới bất kính, khẳng định công quả tiêu tán hết, quả báo vô cùng. Không để trẻ em chạy loạn tam bảo, nghịch ngợm các đồ tế khí, sờ mó tượng phật…

 dieu kieng ky ban nen biet khi di le chua - 1

- Vào chùa, nếu gặp các trụ chì và tăng ni, nên bắt đầu bằng câu “A di đà Phật” . Khi ra về cũng nên dùng câu này để bái biệt, công đức mang lại vô lượng, cho cả người vãn cảnh và nhà chùa.

- Không nên chụp ảnh, quay phim tùy tiện trong chùa, khi đứng khấn vái, không nên đứng thẳng bàn thờ mà nên đứng chéo sang một bên.

- Không đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện tức là chính điện, tức là nơi thờ tự chính của ngôi chùa. Trên hương án của chính điện chỉ được dâng đặt lễ chay, tịnh. Việc sắm sửa lễ mặn chỉ có thể được chấp nhận nếu như trong khu vực chùa có thờ tự các vị Đức Ông, Thánh, Mẫu và chỉ dâng đặt tại ban thờ hay điện thờ.

- Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì thí chủ đặt ở bàn thờ thần linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông. Tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện, mà nên bỏ vào hòm công đức.

- Không tự ý lấy sử dụng hoặc mang bất kỳ loại đồ đạc gì của nhà chùa về làm của riêng. Theo nhiều kinh sách và quan niệm truyền thống, những hành vi như vậy gọi là “đạo dụng thập phương thường trụ” (trộm dùng đồ lễ của chúng sinh cúng dàng). Phạm giới luật này khi chết sẽ bị giam vào địa ngục, chịu khổ vô kể. Phật điển ghi rõ, “nhân nhỏ, quả lớn”, thành tâm cúng dàng, lễ dù nhỏ nhưng phúc báo lớn lao; trộm của chùa,vật tuy xơ sài nhưng quả báo không gánh hết.

- Vào Phật đường, tam bảo không nên đi giày dép, nhai trầu, hút thuốc. Tam bảo là nơi tôn nghiêm, có giới hương, định hương, chân hương, đòi hỏi phải trì giới để di dưỡng thanh tịnh, tuyệt đối không gây ồn ào, hỗn tạp. Tội náo loạn tam bảo không nhỏ.

- Trước tượng Phật nên cung kính nghiêm trang, không nhìn ngang ngó dọc, khệnh khạng trước tam bảo. Nếu muốn chiêm ngưỡng tượng Phật, nên đứng từ ngoài để quan sát.

- Không chạy qua chạy lại, nói chuyện, bình phẩm, ngồi hoặc nằm trong Phật đường. Không tùy tiện hắt hơi sổ mũi, khạc nhổ… quanh khu vực Phật điện, tam bảo. 

- Sử dụng đồ của chùa, như ăn uống, thụ lộc, nên lưu công đức, dù ít dù nhiều. Không nên coi đó là của chùa, trụ trì cho thì nhận mà không bố thí chút công đức, vì sẽ phạm tội “luân đạo thực quả báo” là căn nguyên rơi vào địa ngục.

- Không nên mang theo mũ áo, khăn, túi xách, gậy gộc, bao tay… vào tam bảo bái Phật. Lỡ đặt những đồ đạc như vậy trên bàn, trên chiếu hoặc trong góc tam bảo để bái Phật thì mọi công quả tu dưỡng bấy lâu đều tiêu tán. Đi lễ chùa, tốt nhất không mang theo những đồ tùy thân khi vào tam bảo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điều kiêng kỵ bạn nên biết khi đi lễ chùa

Xác định đại vận và tiểu vận trong tứ trụ, bát tự

Đại vận là một diễn trình cuộc đời, mỗi một diễn trình tương ứng với một giai đoạn phát triển riêng. Người ta ví diễn trình phát triển này như một cái cây: nảy mầm, lớn lên, phát triển, ra hoa, kết trái... Còn tiểu vận là những giai đoạn phát triển ngắn trong từng đại vận. Xác định được đại vận, ta có thể biết được diễn biến của từng giai đoạn trong cuộc đời một người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Đại vận và cách xác định


Những người nam sinh năm Dương (như năm Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm), nữ sinh năm Âm (như năm Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý): vòng chu chuyển của vận theo chiều thuận của kim đồng hồ (như Giáp --> Ất --> Bính --> Đinh --> Mậu --> Kỷ --> ...). Cách tính đại vận: kể từ ngày sinh, đếm thuận đến ngày chuyển tiết sang tháng mới xem bao nhiêu ngày, sau đó chia cho 3, kết quả là số của đại vận. Ví dụ: người nam sinh ngày 21/5/Bính Tuất (2006), ngày 13/6 là ngày Tiểu thử là ngày sang tháng 6 âm. Ta đếm từ 22/5 đến 13/6 là 21 ngày, lấy 21:3=7. Vậy đại vận đầu là 7, sau là 17, tiếp là 27, 37, 47, 57, 67, 77 (cộng 10)... Nếu phép chia dư 1 hay 2, ta bỏ số dư này. Nữ sinh cũng năm 2006, ví dụ ngày 7/5. Ngày chuyển tiết từ tháng 4 sang tháng 5 là 11/5 Mang chủng. Ta xuất phát từ chính ngày chuyển tiết này là 11/5 đếm lùi lại đến 7/5 đúng 4 ngày, ta lấy 4:3=1 dư 1. Vậy đại vận người nữ này là 1, tiếp 11, rồi 21, 31, 41, 51, 61, 71, 81...(cộng 10).

Nam sinh năm Âm, nữ sinh năm Dương, chu chuyển của vận theo chiều nghịch của kim đồng hồ, như: Kỷ --> Mậu --> Đinh Bính --> Ất --> Giáp --> Quý --> Nhâm --> Tân --> Canh --> Kỷ -->... Cách xác định đại vận tính như cách trên.

1. Cách sắp xếp nam sinh năm Dương

Ta xét ví dụ sau: Sinh năm Bính Tuất (2006), ngày 15 - Canh Ngọ, tháng Năm- Giáp Ngọ, giờ Tân Tỵ (từ 9h-11h).

Bước 1: xếp thứ tự bát tự năm sinh như sau:



Bước 2: tính số đại vận: đây là người sinh năm dương, nên đại vận chu chuyển theo chiều thuận kim đồng hồ. Đếm từ ngày 15 đến ngày chuyển tiết là 13/6 Tiểu thử đúng 27 ngày, lấy 27:3=9. Vậy đại vận đầu tiên là 9 tuổi, tiếp theo là 19 tuổi, 29,39,49, 59, 69,79,...

Bước 3: xếp vận trình cho cả cuộc đời:

Công thức xếp như sau: nam sinh năm dương, theo chiều thuận lấy Can Chi tháng sinh tiếp sau làm năm đại vận đầu tiên, sau đó cứ thuận theo can chi tháng tiếp theo mà ghi. Ví dụ trên, tháng 5 Giáp Ngọ, vậy đại vận đầu là Ất Mùi 9 năm, tiếp Bính Thân 19 năm,...Ta sắp xếp như sau:



2. Cách sắp xếp nữ sinh năm Dương:

Ta xét ví dụ sau: người nữ sinh năm Bính Tuất (2006), ngày Canh Ngọ: 15/5, giờ Tân Tỵ.

Bước 1: xếp thứ tự bát tự của năm sinh như sau:



Bước 2: tính số đại vận như sau: nữ sinh năm dương theo chiều nghịch, tính từ ngày sinh đếm ngược đến ngày chuyển tiết của tháng trước sang tháng có ngày sinh, ở đây, ngày 11/5 tiết Mang chủng là gianh giới giữa tháng 4 sang tháng 5 âm lịch. Từ ngày 15 ngược đến ngày 11 là 4 ngày, lấy 4:3=1 dư 1, vậy đại vận đầu tiên cuộc đời của họ là 1 năm, sau đó là 11 năm, tiếp là 21, 31, 41, 51, 61, 71, 81... năm (cộng 10 liên tiếp).

Bước 3: xếp vận trình cả cuộc đời:

Công thức tính như trên, nhưng xếp ngược: bắt đầu từ tháng Can Chi tháng trước tháng sinh. Người này sinh tháng Giáp Ngọ, Can Chi tháng trước là Quý Tỵ, ta xếp như sau:



Cách xếp đặt đại vận nam sinh năm âm, nữ sinh năm âm tương tự. Để dễ xếp đặt, người lập mệnh cần xem chính xác ngày chuyển tiết từ tháng này sang tháng khác, để làm mốc tính số ngày sinh kể từ ngày sinh, sau đó chia cho 3 để tìm đại vận ban đầu (khi chia có dư bỏ số dư). Việc đếm thuận hay nghịch số ngày sinh tuỳ thuộc vào năm sinh âm hay dương của nam hay nữ. Để xác lập Lục thần của từng đại vận, xin xem kỹ phần Nhân nguyên và bảng sinh khắc tính nhanh lục thần đã nêu trên.

Luận về đại vận, các nhà mệnh lý xưa cho rằng, mệnh tốt là cái cơ bản tạo ra diễn trình cuộc đời của một người tốt đẹp. Nếu trong diễn trình cuộc đòi mệnh không đẹp, gặp đại vận tốt thì cái xấu có giảm đi, nhưng không đáng kể.

Trong mỗi một đại vận đều có những thần trong 10 thần làm chủ. Do vậy, khi sắp xếp xong tứ trụ thời gian sinh của một người, phải kết hợp với Nhật can (ngày sinh) của tứ trụ để xét sự sinh khắc, tìm sự xuất hiện các thần (trong 10 thần) để cùng xét chung với các dữ kiện khác trong tứ trụ.

Nếu các thần trong tứ trụ kỵ với dụng thần (dụng thần: sẽ nói chi tiết sau đây) là không hay, nhưng mức độ tốt hay xấu như thế nào, còn phải xem xét với các dữ kiện khác nữa có trong tứ trụ. Để xét đoán chính xác diễn trình cuộc đời một người qua trứ trụ của họ, các nhà mệnh lý xưa cho rằng, cần phải nắm vững mức độ sinh khắc hình xung càng chính xác thì sự xét đoán càng chính xác. Nắm được hỷ kỵ của mười thần trong đại vận có quan hệ tốt xấu của từng năm (người xưa gọi là lưu niên). Nắm vững sự hỷ kỵ này là nắm được những cái chính trong vận và mệnh của một người.

II. Xác định tiểu vận

Tiểu vận là sự thay đổi về chất trong từng năm trong từng đại vận. Xét về những thay đổi cuộc đời của một người, qua tiểu vận cụ thể hơn. Ngày nay, cách xác định tiểu vận thường được tính như sau:

Lấy Chi của giờ sinh mà khởi tiểu vận. Nếu Dương nam và Âm nữ thì: từ giờ sinh tính đi theo chiều thuận kim đồng hồ, ví dụ như: sinh giờ Giáp Tý, thì 1 tuổi là Ất Sửu, 2 tuổi là Bính Dần, 3 tuổi là Đinh Mão...

Cũng như vậy, nếu Âm nam, Dương nữ: cũng giờ sinh Giáp Tý: thì tính lùi lại hay theo chiều ngược kim đồng hồ, như: 1 tuổi là Quý Hợi, 2 tuổi là Nhâm Tuất, 3 tuổi là Tân Dậu, 4 tuổi là Canh Thân...

III. Đại vận và lưu niên

Các nhà mệnh lý cho rằng, mệnh là sự hưng suy của cả cuộc đời, nó phản ánh những thuận lợi hay khó khăn của từng giai đoạn. Lưu niên là năm một người đang trải qua và sẽ trải qua, nó là chủ thể của mọi sự kiện sẽ đến với một người. Do vậy, sự tương sinh tương khắc, xung hình giữa đại vận và lưu niên (thông qua sinh khắc của ngũ hành trong bát tự được lập của một người, như mệnh, đại vận, tiểu vận, lưu niên...) phần nào có thể cho biết những diễn biến cuộc đời của một người.

1. Vận chu chuyển thuận là tốt

Quy luật tự nhiên, vạn vật diễn trình có thể thuận hoặc nghịch hay xáo trộn. Vận của một người cũng vận hành theo những trạng thái như vậy, nếu thuận là tốt, không thuận hay xáo trộn là ngược lại. Vận của một người vận hành thuận theo 12 diễn trình theo vòng Trường sinh từ: Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Tuyệt, Thai, Dưỡng rồi lại về Trường sinh....

Vận hành mệnh của một người theo chu trình trong bảng trên, nếu theo chiều thuận thứ tự như trên là tốt, còn nghịch lại thì không hay. Các nhà mệnh lý cho rằng, đã có tuổi, già cả mà mệnh theo quy luật phải là suy (tốt), nhưng lại rơi vào Đế vượng, thật trái quy luật thì xấu. Đối với người trẻ mệnh sợ rơi vào suy, trung niên sợ nhất vào Tử, Tuyệt, Thai. Ví dụ trên, người nam sinh năm Bính Tuất (2006), ngày Canh Ngọ, Tháng Giáp Ngọ, giờ Tân Tỵ, đại vận năm 59 tuổi rơi vào năm Canh Tý; Lấy Can nhật chủ tức Can ngày sinh là Canh (Ngọ), rơi vào Chi Tý của đại vận 59 tuổi, đối chiếu thấy hành vận rơi vào Tử, như vậy hành vận của người này thuận, đúng quy luật, là tốt. Cũng ví dụ này đối với người nữ như nêu trên, đại vận lúc 61 tuổi rơi vào Đinh Hợi. Nhật chủ cũng là Canh Ngọ, đối chiếu Canh với Hợi là bệnh, hành vận của người nữ này cũng đúng quy luật, cuộc đời tốt.

Nhà mệnh lý còn cho rằng, Vận sinh Mệnh là tốt, Vận khắc Mệnh thì không lợi. Ví dụ trên, người nam sinh năm Bính Tuất là thổ, đại vận năm 49 tuổi là Kỷ Hợi Mộc, Mộc khắc Thổ, nên đại vận này chưa tốt. Đến đại vận 59 tuổi là Canh Tý Thổ, vận và mệnh tỵ hoà, nên đại vận này nói chung là có tốt. Cũng ví dụ như trên, người nữ Bính Tuất đến đại vận 51 tuổi là Mậu Tý Hoả, Bính Tuất Thổ được Hoả sinh hay vận sinh mệnh, thế là tốt. Đại vận năm 61 tuổi là Đinh Hợi hành Thổ, mệnh vận đều Thổ tỵ hoà, nên đại vận này cũng được.

2. Dự đoán qua Đại vận và Lưu niên

Các trường hợp có thể xảy ra giữa đại vận và lưu niên như sau:

1. Hỉ thần, dụng thần của Mệnh Cục thì đại vận và lưu niên đó tốt.

Hai là: đại vận và lưu niên là kỵ thần của mệnh cục thì cả đại vận và lưu niên đều xấu.

2. Nếu cả hai không là hỉ thần, kỵ thần, dụng thần của mệnh cục, thì đại vận và lưu niên đó bình thường.

3. Đại vận hoặc lưu niên hình xung khắc hợp làm mất hỷ thần, dụng thần trong mệnh cục là chuyển tốt thành xấu.

4. Đại vận hoặc lưu niên là hỷ thần hay dụng thần, nhưng bị một chữ nào đó trong mệnh cục xung khắc hay hợp hỉ thần, dụng thần của đại vận, lưu niên thì tốt, nhưng không thực, nên thành bình thường.

5. Đại vận hoặc lưu niên là kỵ thần nhưng có một chữ nào đó xung, khắc mất hoặc hợp chặt kỵ thần ấy thì xấu vừa, thành bình thường.

6. Đại vận hoặc lưu niên hợp hoá thành với mệnh cục thì lấy hoá thần đó để luận cát hung. Hoá thành hỷ thần, dụng thần là tốt, hoá thành kỵ thần là hung.

7. Đại vận hay lưu niên hình phạt mệnh cục đều không hay.

8. Địa chi của đại vận và lưu niên phát sinh thiên khắc địa xung với nhau, hay can chi của đại vận và mệnh cục cũng vậy, hoặc lưu niên và mệnh cục xung khắc với nhau thì đều chủ về hung.

9. Trong đại vận và lưu niên, mệnh cục có 4 chi hợp với một chi, 4 can hợp với một can, một chi hợp với 4 chi, hoặc 1 can hợp với 4 can thì báo tình cảm có sóng gió, bệnh tật hoặc thất thoát tài sản.

10. Trong mệnh cục lấy thương quan làm dụng thần, có thế tan nát nhân duyên, kiện tụng hay phá sản.

11. Mệnh cục, đại vận, lưu niên có 6 địa chi hợp thành 2 cục khác nhau hoặc tam hợp cục tương khắc nhau thì đại hoạ đến nơi, sự sinh tử khó tránh.

12. Đại vận, lưu niên thấy 2 chi xung một chi, xung nhập cung thê là ảnh hưởng đến vợ, cung phu ảnh hưởng đến chồng, cung phụ mẫu là cha mẹ, cung tử tức là con cái.

13. Can ngày khắc can của lưu niên (năm đang trải qua - tuế quân) thì xấu, nếu có can khắc hợp hoặc quý nhân thiên đức thì khó tiến tài, không gặp của.

14. Trong đại vận, lưu niên và mệnh cục xuất hiện 4 chi: Tý , Ngọ, Mão, Dậu thì tốt.

Các nhà mệnh lý chia mệnh cục thành 4 thời kỳ: từ năm sinh đến 15 tuổi; từ 16 - 31 tuổi; từ 31 - 47 tuổi; từ 47 - 65 tuổi.

IV. Lưu niên và thái tuế

Theo các nhà mệnh lý, lưu niên chính là năm đang trải qua, ví dụ: đang trải qua năm 2007 là năm Đinh Hợi thì Đinh Hợi chính là lưu niên. Còn Thái tuế - là Chi của lưu niên trùng với chi năm sinh của một người, ở đây Hợi là Chi của lưu niên, nên những người sinh năm Hợi là phạm Thái tuế (năm sinh trùng với năm đang diễn ra); năm 2009 Kỷ Sửu, ai sinh vào năm Sửu là phạm Thái tuế. Năm Quý Tỵ 2013 là năm lưu niên, ai sinh vào năm Tỵ thì đối với họ năm 2013 là năm Thái tuế, người sinh vào các năm khác thì không. Như vậy trong năm đương niên, không phải ai cũng phạm Thái tuế.

Theo các nhà mệnh lý xưa trong dự báo theo Tứ trụ Bát tự, xét Thái tuế là xét Can Chi của Ngày sinh hay Nhật chủ có trùng hay không trùng với Can Chi năm sinh. Thông qua sự hình xung khắc hại giữa Nhật chủ và Thái tuế, giữa Đại vận và Thái tuế cũng cho biết tình trạng của một người. Cụ thể như sau:

1. Thiên khắc địa xung: đó là khi Can Chi của lưu niên khắc Can Chi của Nhật chủ (cột ngày), hoặc Can Chi Nhật chủ khắc Can Chi lưu niên. Ví dụ lưu niên Mậu Ngọ (Mậu Thổ, Ngọ Hoả), người có ngày sinh (Nhật chủ) Giáp Tý (Giáp Mộc, Tý Thuỷ) khắc lưu niên, như vậy đã bị thiên khắc địa xung, năm này rất không hay.



2. Xung khắc Tuê vận: vẫn lấy cột ngày Nhật chủ làm chuẩn, nếu nó khắc Thái tuế thì tai hoạ nặng. Nếu Can Chi ngày sinh vừa xung khắc với Thái tuế, vừa xung khắc với đại vận mà không được các Can Chi trong 4 cột thời gian hoá giải hay cứu giải thì rất nguy hiểm tới cuộc sống. Ví dụ ngày sinh (Nhật chủ) là Canh Ngọ (Canh Kim, Ngọ Hoả), gặp lưu niên là Giáp Thân (Giáp Mộc, Thân Kim), gặp đại vận là Ất Dậu (Ất Mộc, Dậu Kim) thì Nhật chủ Canh Ngọ khắc cả hai tình huống này, năm này người đó rất nguy hiểm.



3. Tứ trụ đều xung khắc Thái tuế: cũng nguy đến tính mạng. Ví dụ Nhật chủ là Dậu Kim, cột năm cột tháng cũng là Dậu Kim; hoặc ngày là Dậu Kim, tháng , giờ là Dậu Kim, lưu niên, Thái tuế là Mão Mộc, như vậy 3 Dậu khắc 1 Mão, 1 Mão xung 3 Dậu. Nếu trong 4 cột thời gian và đại vận không có Can Chi nào cứu giải (Tương sinh) thì tính mạng không an toàn.



4. Tứ trụ, đại vận, tiểu vận kết lại hình xung, khắc, hại Thái tuế: Như Nhật chủ, tháng, đại vận đều là Dậu Kim; hoặc Nhật chủ, đại vận, tiểu vận đều là Dậu Kim, thái tuế là Mão Mộc, như vậy là 3 Dậu Kim khắc 1 Mão Mộc, hoặc 1 Mão xung 3 Mộc (Dậu), nếu trong tứ trụ không có Can Chi nào cứu giải thì báo tai họa.

5. Trong tứ trụ có khắc Thái tuế sinh tai vạ: có trường hợp cả năm, tháng, nhật chủ, giờ đều thiên khắc địa xung phạm đến Thái tuế. Như: năm, tháng, ngày, giờ đều là Mậu Ngọ, lưu niên là Nhâm Tý đều bị chúng xung khắc, nhưng hiếm có khi xảy ra như vậy. Phổ biến là năm, hoặc tháng, hay Nhật chủ thiên khắc địa xung với thái tuế. Theo các nhà mệnh lý, năm là cha mẹ, tháng là anh chị em, ngày là mình và vợ, giờ là con cái, nếu thiên khắc địa xung năm sẽ ảnh hưởng đến mình mà còn ảnh hưởng đến cha mẹ, người trong nhà. Sự ảnh hưởng này nặng hay nhẹ còn tuỳ trong tứ trụ có các can chi nào hoá giải hay không. Trường hợp thiên khắc địa xung với thái tuế ở cột giờ, ngày, tháng xét tương tự.

6. Thái tuế và vận cùng gặp nhau thì chủ về hung: nghĩa là khi Can Chi của đại vận và Can Chi của lưu niên giống nhau, như đại vận là Tân Mùi, lưu niên cũng là Tân Mùi, các nhà mệnh lý xưa nói: tuế vận gặp nhau không mất mình cũng mất người thân. Nhưng nếu có các Can Chi cứu giải thì mọi việc lại khác.

7. Tương sinh tương hợp thì có tin mừng: đó là khi lưu niên, thái tuế, Nhật chủ, dụng thần giống nhau thì có quý nhân, có tin mừng, có thắng lợi.

Nếu Nhật chủ (cột ngày) hoặc dụng thần hợp thái tuế sẽ gặp may trong mọi việc.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xác định đại vận và tiểu vận trong tứ trụ, bát tự

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Khắc chế hóa giải tính độc đoán của Vũ Khúc trong tử vi

Sao Vũ Khúc cứng rắn, chủ về tiền tài, có chút độc đoán, nhưng hoàn toàn có thể hóa giải khi gặp các sao khác.
Khắc chế hóa giải tính độc đoán của Vũ Khúc trong tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Khac che hoa giai tinh doc doan cua Vu Khuc trong tu vi hinh anh
 
Trước tiên phải kể đến Văn Xương, Văn Khúc. Các sao này nếu thành đôi mà bay vào cung độ Vũ Khúc tọa thủ (đặc biệt là cung Vũ Khúc độc tọa), sẽ khiến Vũ Khúc trở nên khá nhu hòa, nhưng đồng thời cũng sẽ khiến Vũ Khúc biến thành do dự, thiếu quyết đoán.
 
Kế đến là Thiên Phủ có thể hóa giải Vũ Khúc cứng rắn. Thiên Phủ có tính "kho chứa", lại thuộc dương thổ, do đó có thể thu liễm tính cứng rắn của Vũ Khúc, đồng thời giảm thiểu tính "cô độc và hình khắc" của Vũ Khúc. Cho nên các cung viên lục thần, trong các tinh hệ Vũ Khúc, rất ưa "Vũ Khúc, Thiên Phù". Cổ nhân thậm chí đã nói: "Vũ Khúc, Thiên Phủ đồng cung ở Tí hay Ngọ, chủ về sống thọ", tức là lí lẽ này.
 
Tiếp đến nữa, có thể điều hòa tính cứng rắn và "hình khắc" của Vũ Khúc là Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc. Vũ Khúc rất ưa Vũ Khúc Hóa Lộc, kế đến là Tham Lang Hóa Lộc và Liêm Trinh Hóa Lộc, sau đó là Phá Quân Hóa Lộc. Vũ Khúc Hóa Lộc là có nhiều cơ duyên phát đạt; hai sao Tham Lang và Liêm Trinh mà Hóa Lộc thì chủ về có tiền mà chẳng hao tổn tinh thần quá nhiều; Phá Quân Hóa Lộc thì lao tâm lao lực.
 
Về phương diện tổ hợp tinh hệ, Vũ Khúc tổ hợp thành tinh hệ đồng độ với năm sao Thiên Phủ, Tham Lang, Thiên Tướng, Thất Sát, Phá Quân; trong đó "Vũ Khúc, Thiên Phủ" ắt sẽ đối cung với Thất Sát; Vũ Khúc, Thất Sát" ắt sẽ đối cung với Thiên Phủ; "Vũ Khúc, Thiên Tướng" ắt sẽ đối cung với Phá Quân; "Vũ Khúc, Phá Quân" ắt sẽ đối cung với Thiên Tướng; "Vũ Khúc, Tham Lang" đối cung sẽ không có chính diệu, nhưng khi Vũ Khúc độc tọa, ắt sẽ đối nhau với Tham Lang.
 
Do đó có thể nói, "Vũ Khúc, Thiên Phủ, Thất Sát" ở các cung Tí Ngọ, Mão, Dậu là một hệ thống; "Vũ Khúc, Phá Quân, Thiên Tướng" ở các cung Dần, Thân, Tị, Hợi cũng là một hệ thống; "Vũ Khúc Tham Lang" ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thành một hệ thống.
 
Trong ba hệ thống, hệ thống "Vũ Khúc, Phá Quân, Thiên Tướng" mang tính "cứng rắn, cô độc và hình khắc" nhất; bởi vì Vũ Khúc không ưa Phá Quân, gặp Phá Quân càng biến tính cứng rắn của Vũ Khúc thành "nóng nảy, quyết đoán", thường dễ vì thiếu suy nghĩ hoặc không có kế hoạch dài lâu, hay vì xung động nhất thời mà dẫn đến thất bại. Cổ nhân nói: "Vũ Khúc, Phá Quân khó quý hiển " tức là nói lí lẽ này.
 
Vũ Khúc ưa hội hợp với Lộc Tồn, không ưa Lộc Tồn đồng độ. Bởi vì khi Lộc Tồn đồng độ, ắt sẽ có Kình Dương, Đà La đến giáp cung. Ở cung mệnh, chủ về tự tư tự lợi, chỉ nghĩ đến bản thân ở cung tài bạch và cung sự nghiệp thì chủ về bị trở ngại; ở cung độ lục thân thì chủ về duyên phận mong manh.
 
Vũ Khúc ưa Hóa Lộc, chủ về có thể phát giàu có; cũng ưa Hóa Quyền, chủ về có tiền bạc để sử dụng, hoặc chủ về một mình phụ trách công việc; Hóa Khoa thì hơi kém, bất quá chỉ chủ về có tiếng tăm mà thôi. Hóa Kị thì "cô độc và hình khắc", túng thiếu gây trở ngại, phá tán, thất bại.
 
Lúc luận đoán đại hạn và lưu niên, tứ hóa của Vũ Khúc thường ảnh hưởng rất lớn đến toàn cục, nhất là Hóa Kị. Cần phải quan sát kĩ xem cung nào bị Hóa Kị đến để làm trọng điểm cho việc luận đoán.
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn

Theo Tử Vi kiến giải

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khắc chế hóa giải tính độc đoán của Vũ Khúc trong tử vi

Quà tặng phong thủy tốt lành

Quà tặng phong thủy không chỉ thể hiên tấm lòng của chủ nhân mà nó còn gửi gắm những lời chúc, những hi vọng tốt đẹp đến người nhận. Một số vật phẩm phong thủy truyền thống đầy ý nghĩa dưới đây sẽ là gợi ý hay cho bạn khi lựa chọn một món quà .

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong bao màu đỏ Đây là món đồ phong thủy bắt nguồn từ Trung Quốc, được coi là mang lại nhiều may mắn, sức khỏe và tài lộc. Bạn có thể bao gói món quà của mình như một chiếc phong bao màu đỏ hoặc bỏ vài đồng tiền xu, vài viên tinh thể đá trong suốt vào phong bao đỏ làm quà. Khi bạn gửi đến mừng tân gia, khai trương nó mang tới sự thịnh vượng; nếu tặng cho người bệnh nó có nghĩa là một lời chúc mau chóng bình phục.
 
Vật phẩm đôi  Các vật phẩm đôi là một trong những món quà phong thủy rất hữu hiệu để thu hút, tăng cường năng lượng của tình yêu và hôn nhân. Biểu tượng phong thủy này có năng lượng của sự hòa hợp hoàn hảo và sự cân bằng. Nó thường được đặt ở phía Tây Nam của ngôi nhà. Cốc đôi, đôi uyên ương bằng sứ, cặp kim đồng ngọc nữ,… là những món quà rất ý nghĩa cho các cặp đôi mới cưới.
 
Đồng xu may mắn Những đồng tiền xu Trung Quốc cổ hình tròn với một lỗ vuông ở trung tâm được làm bằng đồng hoặc đồng thau ẩn chứa trong nó nguồn năng lượng bảo hộ, may mắn, sức khỏe và tài lộc. Đồng xu may mắn được sử dụng phổ biến nhất trong phong thủy bằng cách cho tiền. 3 đồng tiền xu xâu bằng một sợi dây màu đỏ là món quà đặc biệt ý nghĩa nếu bạn muốn gửi tới người ấy sự bảo vệ và vận may tài chính. 
 
Cây tiền

Qua tang phong thuy tot lanh hinh anh
 
Một nhầm lẫn phổ biến là mọi người coi cây tiền như một vật phẩm phong thủy mang ý nghĩ cầu tài lộc, nhưng thực chất nó mang đến sức khỏe và có tác dụng chữa bệnh. Cây tiền thường do nhiều đồng tiền xu gắn lại tạo thành, còn được gọi là cây đá quý. Phong thủy truyền thống cho rằng cái cây xanh tốt, phát triển thịnh vượng, sum sê ấy sẽ cung cấp nguồn năng lượng mạnh mẽ, tốt lành giúp cải thiện sức khỏe của gia đình bạn.   Gương bát quái Mặc dù là một vật phẩm phong thủy rất phổ biến nhưng gương bát quái không phải là vật trang trí và nên được sử dụng một cách thận trọng. Trước tiên, không bao giờ đặt gương bát quái trong nhà. Thứ hai, chỉ sử dụng nó để hóa giải  năng lượng xấu và phải đặt đối diện với nhà hoặc văn phòng của bạn. Nó có thể trở thành một món quà nếu người nhận đang gặp phải vận xấu, những điều xui rủi, sự căng thẳng và bạn muốn giúp họ giải tỏa điều đó.   Tượng Rồng

Qua tang phong thuy tot lanh hinh anh 2
 
Trong phong thủy, Rồng là một trong bốn linh thú và là biểu tượng tốt lành nhất để đặt trong nhà. Có một con Rồng trong bất kỳ khu vực nào của nhà bạn đều có lợi miễn là nó được đặt ngay ngắn và tôn trọng. Là biểu tượng dương, mang nguồn năng lượng mạnh mẽ tượng trưng cho nam giới, tượng Rồng là món quà phong thủy tốt cho những người đàn ông quan trọng với bạn.
 
Phật ngọc Tượng Đức Phật làm từ ngọc biểu tượng cho sự thịnh vượng và may mắn, là vật phẩm phong thủy tăng cường sự giàu có, thịnh vượng. Đây là món quà thích hợp cho những ai chú trọng tới phong thủy, những người kinh doanh.
 
Chuông gió Gió có nhiều ứng dụng trong phong thủy. Mặc dù cách sử dụng tốt nhất của chuông gió là bên ngoài nhà nhưng cũng có thể đặt nó trong nhà để chữa bệnh. Những chiếc chuông gió bằng gỗ hay kim loại với hình nửa mặt trăng, đồng xu kêu vang hấp dẫn là món quà  phong thủy thích hợp cho những người đang bị bệnh hoặc cần tăng cường sức khỏe.
 
Bầu rượu
Bầu rượu là món quà thú vị với những người đam mê phong thủy. Nó là biểu tượng của may mắn và cuộc sống lâu dài, có tác dụng thu hút tài lộc và chữa bệnh. Phổ biến nhất là bầu rượu làm bằng kim loại hoặc gỗ, nhưng cũng có những bầu rượu làm bằng ngọc bích, sứ hoặc thủy tinh.   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quà tặng phong thủy tốt lành

Mơ thấy chuỗi hạt là cát mộng

Giấc mơ về những chuỗi hạt vừa là cát mộng tiên báo chủ nhân của nó sẽ nhận được sự trợ giúp của quý nhân, vừa mang đến những lời cảnh báo để đề phòng trước
Mơ thấy chuỗi hạt là cát mộng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Giấc mơ về những chuỗi hạt vừa là cát mộng tiên báo chủ nhân của nó sẽ nhận được sự trợ giúp của quý nhân, vừa mang đến những lời cảnh báo để đề phòng trước những điều bất trắc.


Giải mã giấc mơ thấy chuỗi hạt:

Mo thay chuoi hat la cat mong hinh anh
Ảnh minh họa 

Chiêm bao thấy mình đeo một chuỗi ngọc trên cổ là điềm báo sắp tới bạn sẽ nhận được sự giúp đỡ của người giàu có.

Chiêm bao thấy mình lần chuỗi bồ đề thì bạn cũng sẽ được quý nhân phù trợ.
 
Chiêm bao thấy mình được người khác biếu một chuỗi ngọc là điềm xấu, đừng vội vui mừng, sắp tới bạn sẽ gặp rắc rối với pháp luật đấy. Tuy nhiên,nếu mơ thấy mình vứt bỏ chuỗi hạt đó thì có nghĩa là bạn sẽ tránh được rắc rối đấy.   Chiêm bao thấy mình đem bán một chuỗi ngọc thì nên thận trọng, đây là điềm bao mất của.

Chiêm bao thấy mình đang xâu cườm hoặc đang buộc một chuỗi ngọc, điều này nhắc nhở bạn đã quên việc quan trọng cần phải thực hiện.    Nằm mơ thấy mình đang gỡ rối một chuỗi hạt cườm cho thấy rằng có một số vấn đề trong cuộc sống hiện tại của bạn mà bạn cần phải làm cho nó cân bằng hơn.

► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chuỗi hạt là cát mộng

Sao Thái Dương

Một bài viết sưu tập về sao Thái Dương. Mời các bạn đọc và tham khảo.
Sao Thái Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thái dương - Toàn thư

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thái dương là dương hỏa, là chủ tinh của chòm Trung Thiên Đẩu, là cát tinh, hóa khí là quyền quý, chính chủ của cung Quan lộc.

Sao Thái dương chủ về phần mắt, cá tính. Về sự nghiệp chủ về hoạt động giao tiếp, tính công bằng, bác ái, rộng lượng.

Sao Thái dương là tinh hoa của mặt trời, là chuẩn mực của tạo hóa, tại số chủ về danh vọng, sau đó là giầu có, văn võ song toàn (nếu gặp sao Thiên hình sẽ hiển quý về nghiệp võ), ưa thích gặp Tả phụ và Hữu bật để được trợ giúp, gặp Lộc tồn sẽ có tước lộc cao, gặp Thái âm sẽ tương sinh. Gặp các Cát tinh sẽ may mắn cát tường, gặp Sát tinh sẽ vất vả truân chuyên. Nếu đóng tại cung Thân cung Mệnh lại miếu vượng, sẽ là sao tốt trong mệnh số, tốt nhất là ở cung Quan lộc.

Vầng Thái dương có lúc mọc lúc lặn, nên trong lá số, sao Thái cũng biến đổi theo từng cung Mệnh: tại Dần địa Mão địa là mới mọc, tại Thìn Tị là thăng điện, tại Ngọ là mặt trời giữa trời chủ về đại phú đại quý, tại Mùi Thân là xế bóng làm việc trước chuyên cần sau trễ nải, tại Dậu là lặn về Tây hữu danh vô thực, đẹp mã mà rỗng tuếch, tại Tuất Hợi Tý Sửu là mất sáng, nếu lại gặp Cự môn hay Phá quân chủ về một đời bần hàn vất vả, tính cách khó gần, dễ gặp chuyện thị phi.

Sao Thái dương chủ về Quan Lộc, nên tốt nhất là đóng tại Cung quan lộc, đặc biệt là khi xuất hiện một mình tại Ngọ địa, là thế Nhật lệ trung thiên (mặt trời giữa trời), khí thế sôi nổi, sự nghiệp lẫy lừng, ắt là bậc lãnh tụ thành tựu phi phàm.

Sao Thái dương ưa thích đồng cung với sáu Cát tinh, hoặc cùng sáu Cát tinh hội tam phương chiếu lẫn nhau, đặc biệt hợp với sao Tam thai và Bát tọa tăng cường vẻ sáng. Cũng rất ưa đồng cung với Ân quang và Thiên quý chủ về nhận được ân huệ đặc biệt, mang vinh dự lớn. Nếu Thái dương nằm cùng một cung với Đế tinh, Tả phụ, Hữu bật, tuy hãm nhưng vẫn được coi là quý.

Sao Thái dương nếu miếu, vượng mà gặp Sát tinh xâm phạm, chỉ gây ảnh hưởng đến người thân là nam giới, còn về biểu hiện bản thân thì chỉ tăng thêm ít nhiều vất vả chứ không bị giảm tốt. Ánh sáng của Thái dương cũng không thể bị Thiên la Địa võng khống chế. Sao Thái dương tuy không sợ sáu Sát tinh nhưng trừ trường hợp nằm ở Mão địa, thì đều kỵ gặp sao Hóa Kị, đặc biệt khi nằm tại cung vị hãm sẽ rất bất lợi cho mắt.

Sao Thái dương không ngừng di chuyển, gặp Tả phụ Hữu bật sẽ phò trợ cho quân chủ, gặp Cát tinh nhập miếu sẽ cát. Lạc hãm gặp thêm hung tinh sẽ vất vả. Nếu đóng tại cung Thân cung Mệnh chủ về tính tình trung hậu, rộng rãi không chấp nhặt. Nếu được miếu, vượng, Hóa Lộc, Hóa Quyền lại càng thêm hiển quý. Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt tam phương hội và chiếu hai cung Tài bạch và Quan lộc, chủ về phú quý tột đỉnh, thêm tứ Sát cũng chủ về đủ ăn đủ mặc, là phụ nữ chủ về vượng phu ích tử.

Sao Thái dương có tính động, nếu đóng tại cung Mệnh chủ về một đời không được nhàn nhã, lại thêm Thái dương chủ về sang chứ không chủ về giầu, nên hiển quý mà thanh cao, cho dù gặp Lộc tồn cũng phải vất vả mới kiếm được tiền bạc.

Nếu Thái dương và Thái âm kèm hai bên sao Thiên phủ hoặc Vũ khúc Tham lang trấn thủ cung Mệnh tại Sửu Mùi, là cách Nhật Nguyệt giáp mệnh chủ về một đời giầu (nếu kèm hai bên Vũ Tham sẽ phát tài muộn).

Thái dương trấn Mệnh tại Ngọ là cách Kim sán quan huy (hay còn gọi là cách Nhật lệ trung thiên), tài hoa xuất chúng, thành tựu phi thường.

Nếu Thái dương đồng độ với Thiên lương tại Mão, tam phương hội Thái âm tại Hợi, nếu sinh ban ngày sẽ là cách Nhật chiếu lôi môn (Mặt trời rọi cả sấm) có tài lãnh đạo lỗi lạc.

Nếu cung Mệnh tại Mùi, sao Thái dương tại Mão, sao Thái âm tại Hợi, sao Thiên đồng và Cự môn đồng cung tại Sửu đối diện hội chiếu, sẽ hình thành cách Minh châu xuất hải vững bước đường mây.

Nếu cung Mệnh tại Sửu hoặc Mùi, sao Thái dương Thái âm miếu vượng tại cung tam phương hội chiếu; hoặc Thái dương tại Thìn Tị sao Thái âm tại Tuất Dậu là cách Nhật Nguyệt tịnh minh (mặt trăng mặt trời cùng sáng, hay còn gọi là cách Đan trì quế trì bậc son thềm quế), đường công danh sớm rộng mở.

Nếu cung Mệnh đóng tại Sửu Mùi, lại gặp Thái dương Thái âm, hoặc nằm tại cung đối diện tương chiếu là cách Nhật Nguyệt đồng lâm sẽ làm quan lớn.

Nếu Thái âm Thái dương đồng cung đều nằm tại cung Điền trạch, hoặc tại cung tam phương hội chiếu là cách Nhật Nguyệt chiếu bích (Mặt trăng mặt trời rọi vách), thường sở hữu cơ ngơi điền trang rộng.

Nếu Thái dương Cự môn trấn tại cung Mệnh ở Dần hay Thân là cách Cự Nhật đồng cung chủ về khổ trước sướng sau.

Nếu Thái dương, Thiên lương, Văn xương, Lộc tồn tụ hội tại cung tam phương tứ chính là cách Dương Lương Xương Lộc chủ về tước vị tiền tài gồm đủ.

Nếu Thái âm tại Thìn Mão, sao Thái dương tại Tuất Hợi gặp hãm trấn mệnh, sẽ hình thành cách Nhật Nguyệt phản bối là mệnh vất vả lao nhọc, ít duyên với cha mẹ.

Nếu sao Thái dương Thái âm gặp hãm, lại đóng tại cung Tật ách là cách Nhật Nguyệt tật ách chủ về khuyết tật.

SAO THÁI DƯƠNG TỌA THỦ CUNG MỆNH

Dung mạo và tính cách

Người có sao Thái dương tọa thủ cung Mệnh, tướng mạo sáng sủa, cơ thể khỏe mạnh, mặt như trăng rằm, giọng nói sang sảng.

Dám yêu dám hận, thông minh nhân ái, quang minh lỗi lạc, trung hậu, không so đo tính toán.

Tính cách cởi mở, nhiệt tình bác ái, lạc quan thành thật, chí công vô tư

Độ lương khoan dung, khẳng khái tự tin, tích cực tiến thủ, hành động nhanh nhẹn.

Sôi nổi hiếu động, có năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức, biết thuyết phục lòng người, thẳng thắn, dễ đắc tội với người khác.

Dồi dào tinh lực, không để ý tiểu tiết lặt vặt, giỏi giao tiếp, thích thể hiện.

Mệnh nữ thường hướng ngoại, hoạt bát, động lập tự chủ, có tính cách của đang ông, cương trực đảm đang, thích phục vụ mọi người, có duyên với người khác giới, gặp nhiều sóng gió trong tình cảm, nên tìm đối tượng có tính ôn hòa. Sao Thái dương miếu vượng chủ về vương phu ích tử, gặp thêm Cát tinh sẽ phú quý. Nếu lại gặp thêm Hóa Quyền, Hóa Lộc, hoặc Lộc tồn thì sẽ có phong tặng. Nếu gặp Sát tinh sẽ bình thường. Nếu Thái dương hội hợp thêm 6 sát tinh hay Hóa Kị thì đa số là phụ nữ trinh tiết.

Suy đoán mệnh lý

Thái dương + 3

Thái dương + 3

Thái dương + 2

Thái dương + 2

Thái dương + 3

   

Thái dương = 0

Thái dương + 4

   

Thái dương – 1

Thái dương + 3

Thái dương - 1

Thái dương - 2

Thái dương - 2

Độ sáng của sao Thái dương tọa thủ 12 cung

Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thái dương. Mối quan hệ của chúng như sau:

- Miếu = + 4

- Vượng = + 3

- Địa = + 2

- Lợi = + 1

- Bình hòa = 0

- Không đắc địa = - 1

- Hãm địa = - 2

Sao Thái dương chủ "quyền quý", là sao có ánh sáng chiếu bốn phía, mãi mãi chiếu xuống nhân gian, có thể đồng thời kiêm cả Nam Đẩu và Bắc Đẩu.

Là người hay đấu tranh lý lẽ, nên khó tránh gặp phải vất vả cô đơn. Hằng ngày mặt Trời mọc ở hướng Đông và lặn ở hướng Tây, vì thế ánh sáng của nó trong các cung Tử vi sẽ thay đổi tùy theo giờ. Mặt trời khi ở Dần Mão của Tử vi tượng trưng cho giờ Dần giờ Mão, là mặt trời mọc hướng Đông, khi mặt trời ở cung Ngọ của Tử vi là tượng trưng cho giờ Ngọ, là lúc mặt trời trên đỉnh đầu; khi mặt trời ở cung Thân Dậu của Tử vi, tượng trưng cho giờ Thân Dậu, là lúc mặt trời lặn xuống phía Tây.

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thái dương thuộc dương hỏa, tượng trưng cho tính "dương". Dù là mệnh nam hay nữ, miếu vượng hay hãm địa, ánh sáng của Thái dương trong cung mệnh, khi người cha còn sống có thể dùng để suy luận hung và cát của người cha; khi người cha không còn sống, mệnh nam sẽ đại diện cho bản thân, mệnh nữ thì đại diện cho chồng. Khi chồng của mệnh nữ mất đi, Thái dương trong cung Mệnh sẽ đại diện cho con cái. Vì thế, cho dù nam hay nữ, cho dù sao Thái dương miếu, vượng hay rơi vào hãm địa, có gặp thêm Cát tinh hay Hung tinh hay không, thì đều duyên bạc với bố từ lúc còn thơ ấu; ở tuổi trung niên mệnh nam sẽ mắc nhiều bệnh; mệnh nữ sẽ bạc duyên phận với chồng ở tuổi trung niên, về già bạc duyên với con cái. Còn về duyên phận, căn cứ vào cung vị của sao Thái dương và sao đồng cung hoặc hội chiếu mà quyết định. Tuổi nhỏ bạc duyên với bố hoặc bố hay ốm yếu hoặc ít khi gặp mặt bố hoặc sự nghiệp của bố thất bại; người nghiêm trọng thì mất bố từ nhỏ, xa gia đình hoặc khó xum họp hoặc đổi họ, làm con nuôi.

Thông thường, sao Thái dương rơi vào thế hãm, lại gặp Sát tinh, bất lợi nhất với người bố. Mệnh nữ có sao Thái dương tọa mệnh, dễ oán trách chồng, cũng bỏ tiền bạc hoặc tinh thần thể lực đặc biệt vào gia đình. Sức sống của sao Thái dương trường tồn và cũng có thể cung cấp sức sống cho các ngôi sao khác, có sự quang minh, hy vọng, dũng khí, và bác ái. Vì thế mà độc lập tự chủ, không lùi bước trước gian khổ, có quyền uy, có thể bảo về người khác.

Người có sao Thái dương thủ mệnh sẽ đặc biệt hứng thú với các công việc thanh nhã, mang tính chất văn nghệ. Có thể đạt thành tích tốt trong nghiên cứu, thi cử... Dễ mắc bệnh mắt, đau đầu, thần kinh suy nhược, bệnh tim, huyết áp.

Hào quan muôn trượng của sao Thái dương tràn đầy uy lực, ở cung vị miếu vượng Dần Mão Thìn Tị Ngọ, nếu tiếp cận Sát tinh và Kị tinh sẽ ảnh hưởng tới sức mạnh của nó, tăng thêm phần vất vả. Chỉ có sao Cự môn có hóa khi u ám mà bao phủ lên ánh sáng mặt trời, làm sao Thái dương mất đi ánh sáng hào quang. Ngoài ra, ánh sáng mặt trời có thể xuyên qua Thiên la Địa võng, chỉ tăng thêm vất vả mà thôi chứ không hạn chế sự thành công. Sao Thái dương ngoài nhập miếu ở Mão ra, không thích gặp sao Hóa Kị, đặc biệt rơi vào thế hãm ở Hợi Tý, có thể ảnh hưởng xấu tới mắt.

Sao Thái dương thích cùng cung hoặc hội chiếu với 6 cát tinh Tả Hữu Khôi Việt Xương Khúc, cả đời được quý nhân phù trợ, sự nghiệp hiển hách, việc gì cũng thuận lợi, đặc biệt thích gặp sao Tam đài, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, có thể tăng thêm hào quang, được hưởng đặc ân, Sao Thái dương cũng thích hội chiếu sao Thái âm và sao Lộc tồn, phú quý đều được hưởng, vừa có tiền vừa có chức, duy chỉ có phải lao động vất vả. Đồng cung với sao Thái âm thường là người hay thay đổi đa đoan trong công việc, thường xuyên chuyển nghề hoặc làm trái ngành, nếu là mệnh nữ lại là người dễ thay đổi tình cảm.

Sao Thái dương thích ban ngày và người sinh vào mùa Xuân Hạ, người sinh ban đêm thì sao Thái dương sẽ mất ánh sáng nên không có thành công, người sinh mùa Đông thì cả đời lận đận. Sao Thái dương mất ánh sáng, lại gặp sao Thiên hình sẽ vướng vào vòng kiện tụng lao lý. Sao Thái dương miếu, vượng gặp sao Thiên hình thì nên làm trong quân đội hoặc cảnh sát. Sao Thái dương không thích Kình dương và Đà la vì dễ mắc bệnh.

Sao Thái dương - Lục Bân Triệu

Sao Thái dương trong ngũ hành thuộc dương hỏa, ở trên bầu trời là mặt trời, hóa làm quý khí. Ở nam mệnh là Phụ tinh - sao Cha, và Tử tinh - sao con trai. Ở nữ mệnh, làm Phụ tinh - sao Cha, Phu tinh - sao Chồng, và Tử tinh - sao con trai. Thích hợp người sinh ban ngày, không thích hợp người sinh ban đêm. Là chủ tinh của cung sự nghiệp trong mệnh bàn.

Thái dương ở trong 12 cung đều có tên gọi riêng:

- Thái dương đến cung Tý gọi là Thiên Nghi, chủ về người giầu tình cảm, sinh quý tử.

- Thái dương đến cung Sửu gọi là Thiên U, nhật nguyệt đồng cung chủ về người có tính tình chợt âm chợt dương, khó mà đoán trước được.

- Thái dương đến cung Dần gọi là Thiên Tang, là ý nói mặt trời mọc ở Phù tang, đó chính là lúc mặt trời rạng đông, khó mà đoán trước được.

- Thái dương đến cung Mão gọi là Thiên Ô, chủ về người anh minh khí khái đại lượng, đa tài đa nghệ, danh hiển giầu có.

- Thái dương đến cung Thìn gọi là Thiên Sảng, là lúc mặt trời ra khỏi cửa Rồng (long môn), chủ về còn trẻ đã hiển đạt, quyền thế, có tiếng tăm vang xa.

- Thái dương đến cung Tị gọi là U Trưng, chủ về người có trí khí cao ngạo, quá lộ tài năng, là người lộc hậu quyền cao, công danh hiển đạt.

- Thái dương đến cung Ngọ gọi là "Nhật lệ trung thiên", chủ về người phúc hậu, lộc trọng, chí cao khí mạnh,

- Thái dương đến cung Mùi gọi là Thiên Huy, nhật nguyệt chói lọi, chủ về quyền thế hào sảng.

- Thái dương đến cung Thân gọi là Thiên Ám, chủ về học nhiều mà thành tựu ít, xử sự nhiều quanh co.

- Thái dương đến cung Dậu gọi là Cửu Không, chủ về người làm việc hanh thông, song hữu thủy hữu chung, tối kị Sát tinh, có tai nạn tù tội hoặc hình khắc.

- Thái dương đến cung Tuất gọi là Thiên Khu, mặt trời giấu ánh sáng, tiếng tăm tuy không nổi bật, song nếu gặp Cát diệu thì lại giầu có.

- Thái dương đến cung Hợi gọi là Ngọc Tỷ, nhật nguyệt quay lưng lại nhau, trái lại trở thành đại cục, còn trẻ đã lập nên công trạng.

Sao Thái dương rất ưa thích các cát tinh Tam thai, Bát tọa, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật hội và chiếu, chủ về sự nghiệp lớn lao, đã phú còn quý. Thái dương ở Tuất địa chủ về tình trạng bị đau mắt, lòa. Ở Ngọ địa tuy quý song ánh mặt trời chiếu quá mạnh, nên cũng chủ về bị bệnh đau mắt. Thái dương ở Hợi địa trái lại có thể phát đạt song phải hội ngộ Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên mã mới là hợp cách. Tóm lại, sao Thái dương lấy Quý làm chủ, kế đến mới Phú, còn sao Thái âm lấy Phú làm chủ kế đến với Quý.

Thái dương ở cung Mệnh

Thái dương ở cung Mệnh thì chủ về người có sắc mặt hồng nhuận hoặc kèm sắc đỏ tía, khuôn mặt đãy đà hoặc dài tròn. Ở Ngọ địa thì thân hình cao lớn, phong thái tiêu xài thoải mái, lạc hãm thì thân hình trung bình hay lùn thấp.

Nam mệnh miếu vượng thì chủ về người tính tình hào phóng, có lòng tử bi hỷ xả, bẩm tính thông minh, chí khí cao ngạo. Nếu được Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa quyền hội và chiếu, chủ về quý cực phẩm, văn võ toàn tài. Song, Thái dương cần phải nhập miếu và sinh ban ngày, không gặp Sát diệu thì mới hợp cách.

Dần địa và Mão địa gọi là Húc nhật đông thăng = mặt trời mọc ở phương đông

Thìn địa và Tị địa gọi là Nhập điện = vào điện, hoặc gọi là Nhật du long môn = Mặt trời dạo chơi ở cửa rồng.

Ở Ngọ địa gọi là Nhật lệ trung thiên = Mặt trời đẹp ở giữa trời, chủ về đại phú đại quý.

Ở Sửu địa Mùi địa gọi là Nhật nguyệt đồng minh = Mặt trời mặt trăng đều sáng, cho nên nói chợt âm chợt dương

Thân địa thiên về Tây, làm việc có đầu mà không có đuôi, trước thì siêng năng công tác, làm việc cẩn thận nghiêm túc, sau thì lười biếng tùy tiện, học mà không cầu hiểu rõ

Ở Dậu địa gọi là Lạc nhật = Mặt trời lặn, quý mà không hiển, giầu mà không bền, bề ngoài thì đẹp đẽ hào nhoáng nhưng bên trong thì thật trống rỗng.

Ở Tuất Hợi Tý Sửu gọi là Thất huy = Mất ánh sáng, chủ về người làm việc tất bật, vật vả nhưng lại không thực tế. Đoạn này chú giải tên gọi Thái dương ở 12 cung, so với chú giải của Cổ nhân có chỗ bất đồng, nay đều ghi ra hết, để người học dùng làm tham khảo.

Thái dương ở Mão địa nếu được Hóa Lộc là thượng cách. Ở Hợi địa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã tuy có thể giầu song thủa ấu niên Cha bất lợi. Thái dương hóa Kị cũng bất lợi cho Cha, hoặc đau mắt. Nếu cùng Kình Đà Hỏa Linh tương hội thì chủ về người có số hoạch phát hoạch phá, quý không được lâu, phú không được dài. Có Xương Khúc Khôi Việt Tả Hữu giáp cung Mệnh là được quý.

Nữ mệnh có Thái dương đến cung Mệnh, nhập miếu, và người sinh ban ngày, tính tình trinh liệt hào sảng, có chí khí trượng phu. Có các cát tinh Tả phù, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, Thiên mã, Tam thai, Bát tọa hội và chiếu, là nhất phẩm phu nhân, vượng phu ích tử. Có tam hóa Khoa Quyền Lộc vây chiếu cung Mệnh, cũng chủ về cách được phong phu nhân. Nữ Mệnh mừng nhất là được sao Thái dương nhập miếu, phần nhiều là người thông minh từ ái, phúc lớn lượng rộng. Song nếu lạc hãm, thì làm việc lên lên xuống xuống, tính tình nóng nảy. Đồng cung với Hỏa tinh thì tính tình chân thật, xử sự theo tình cảm nhưng rất vất vả lại thiếu duyên với người. Thái dương hóa Kị, còn trẻ thì khắc chồng về già thì khắc con, nên kết hôn chậm muộn hoặc làm kế thất, vợ lẻ. Nếu gặp Kình Đà Linh Hỏa, Thiên hình, Không Kiếp thì chủ về hình khắc, phần nhiều làm ni sư ở cửa Không, hoặc sống độc thân phục vụ xã hội. Vì Thái dương gặp Sát tinh, tính tình sẽ trinh liệt, cứng cỏi, cho nên chủ về người đoan trang, chững chạc. Nếu lạc hãm thì gọi là phản bối (quay lưng lại), hai mắt cận thị, hoặc một mắt to một mắt nhỏ. Gặp Phá quân thì chủ về lấy chồng không đúng lễ nghi.

Đại hạn lưu niên ở cung độ sao Thái dương đến, nhập miếu, gặp Cát tinh, tất sẽ bình bộ thanh vân, thêm tài tiến phúc, kết hôn có con, phú quý danh tiếng đến. Nếu lạc hãm mà gặp tứ Sát còn gặp thêm Không Kiếp chủ về làm việc mà như không, nhiều tranh giành mà ít thành tựu, bị tiểu nhân xâm hại, phá tài, đầu choáng.

Nguồn: http://tuvitinhquyet.blogspot.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thái Dương

Mơ thấy người kìm chế nhục dục: Có tâm lý cao thượng –

Nếu mơ thấy một vị thần, hay một người đàn ông kìm chế nhục dục cho thấy tâm lý cao thượng của người nằm mơ. Hình ảnh người kìm chế nhục dục trong mơ có thể tượng trưng cho sự theo đuổi cái đơn giản và chất phác. Dưới góc độ tâm lý học, người nằm mơ
Mơ thấy người kìm chế nhục dục: Có tâm lý cao thượng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy người kìm chế nhục dục: Có tâm lý cao thượng –

Bài trí nhà ở hợp phong thủy rước phú quý trong năm Ất Mùi

Trong năm mới 2015, những lưu ý trong bài trí đồ đạc có thể giúp gia đình đón tài lộc, phú quý và may mắn vào nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giữ gìn cửa chính sạch sẽ

phong thủy nhà ở
Gia chủ nên giữ cửa chính luôn sạch sẽ, gọn gàng

Phong thủy học truyền thống quan niệm, cửa chính có ảnh hưởng rất lớn đến phong thủy nhà ở. Cửa này cũng là yếu tố quan trọng quyết định đến sự lành dữ của căn nhà. Do đó, gia chủ nên tránh để cửa chính bị phá vỡ, bị nứt hoặc bị bẩn bởi điều đó tượng trưng cho sự bần cùng, nghèo nàn và thiếu thốn. Bên cạnh đó, điều này cũng cho thấy chủ nhà là người không thích chủ động, lười biếng. Nếu bạn không khắc phục tình trạng này ngay lập tức, chắc chắn Thần Tài sẽ không gõ cửa căn nhà của bạn.

Tủ lạnh và nhà bếp luôn được lấp đầy

phong thủy phòng bếp
Nhà bếp nên đầy đủ đồ ăn, dụng cụ làm bếp

Phong thủy cho rằng, phòng bếp là “cái kho của”. Do đó, gia chủ nên để đầy những vật dụng cho nấu nướng, các hộp gia vị, trái cây khô hoặc trái cây tươi ngon... Điều này sẽ tạo cảm hứng giúp bạn kiếm tiền và làm giàu.

Bên cạnh đó, bạn cũng nên lưu trữ một ít đồ ăn trong tủ lạnh và những nơi khác trong phòng bếp để giữ gìn của cải. Bạn vẫn cần dự trữ đồ ăn ngay cả khi là người ít nấu nướng tại nhà. Bởi vì, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu của bạn lúc cần thiết mà còn nâng cao sự thịnh vượng, dồi dào cho căn bếp

Bố trí cây xanh thu hút tài lộc

cây phong thủy
Chủ nhà nên trồng những loài cây mang lại tài lộc

Phong thủy học quan niệm, một số loại cây trồng trong ngôi nhà không chỉ có tác dụng thanh lọc không khí và trang trí mà còn có thể mang đến tài vận dồi dào cho gia chủ. Vì thế, việc trồng cây cảnh có ảnh hưởng trực tiếp tới vận khí của chủ nhà.

Ở góc Nam hoặc góc Đông phòng khách, bạn có thể bố trí các loại cây cát tường như cây đồng tiền, cây trúc - tượng trưng cho phú quý, cây quất, cây hoa lan... mỗi loài cây đều sản sinh cát khí, mang một nguồn năng lượng nuôi dưỡng tài lộc khác nhau, mang đến tài lộc và may mắn.

Bài trí tranh phong thủy để dẫn dắt tài lộc

tranh phong thủy
Treo tranh hợp phong thủy sẽ mang tài lộc vào nhà

Bức tranh treo tường tại phòng khách bên cạnh việc tăng tính thẩm mỹ còn một vai trò rất quan trọng khi bạn muốn có thêm thu nhập. Năm Ất Mùi, bạn hãy bài trí một số loại tranh phong thủy như tranh Cửu ngư quần hội, tranh hoa mẫu đơn... để thu hút thịnh vượng, tiền tài cho gia chủ. Tuy nhiên, trong năm nay, không nên treo các bức tranh phong thủy khác về bốn con vật Rồng - Chó - Trâu - Dê do phạm phải tứ hành xung như bức Cửu long tranh châu, Tam dương khai thái.

Bên cạnh đó, bạn có thể đặt các linh vật phong thủy trong nhà để chiêu tài, đơn cử như tượng thần tài, hồ cá, cóc tài lộc, bình tài lộc... Bạn hãy chọn vị trí đặt sao cho thích hợp tùy vào chất liệu của linh vật.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí nhà ở hợp phong thủy rước phú quý trong năm Ất Mùi
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd